You are on page 1of 75

CHƯƠNG 6.

TỔNG CẦU VÀ CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA


Trong chương trước đã trình bày các biến động ngắn hạn của nền kinh tế
với mô hình tổng cầu – tổng cung. Chương 6 sẽ nghiên cứu tổng cầu của nền
kinh tế, các thành tố của tổng cầu, và các nhân tố quyết định sự biến động của
tổng cầu. Chương này nhấn mạnh tình huống trong đó nền kinh tế còn nhiều
nguồn lực chưa được sử dụng, vai trò của tổng cầu trong việc quyết định mức
sản lượng của nền kinh tế, và việc sử dụng chính sách tài khóa tác động đến
tổng cầu nhằm ổn định nền kinh tế.
6.1. Lý thuyết của Keynes và ảnh hưởng đến tổng cầu
6.1.1. Các giả thiết của Keynes
Chương này nghiên cứu mô hình đơn giản của Keynes với giả thiết liên
quan đến mức giá “cứng nhắc”. Điều đó có nghĩa là trong ngắn hạn, mức sản
lượng thực tế của nền kinh tế chỉ được xác định bởi tổng cầu, với mức giá
không đổi cho tới điểm mà tại đó nền kinh tế đạt tới mức sản lượng toàn dụng
lao động. Nền kinh tế không có hạn chế về tổng cung – tức là nền kinh tế có
thể tiến hành sản xuất bất kỳ mức sản lượng nào được cầu tại mỗi mức giá cho
trước và có thể thuê đủ lao động, thiết bị với công suất cần thiết để đạt được
mức sản lượng đó. Đường tổng cung của nền kinh tế có dạng nằm ngang hệ số
co giãn của đường tổng cung bằng vô cùng.

Hình 6.1. Sự dịch chuyển của đường tổng cầu khi nền kinh tế còn
nhiều nguồn lực chưa được sử dụng
6.1.2. Đường tổng chi tiêu và ảnh hưởng đến tổng cầu
6.1.2.1. Đường tổng chi tiêu
Đường tổng chi tiêu là công cụ xác định mức sản lượng và tổng cầu tại
trạng thái cân bằng khi nền kinh tế còn dồi dào nguồn lực chưa được sử dụng,
biểu diễn mối quan hệ giữa tổng chi tiêu và thu nhập quốc dân.
Tổng chi tiêu được đề cập ở đây là một thuật ngữ chỉ tổng chi tiêu dự
kiến của nền kinh tế, bao gồm chi tiêu dự kiến cho tiêu dùng, đầu tư, hàng hóa
dịch vụ công và xuất khẩu ròng. Thu nhập quốc dân là thu nhập thực tế (GDP
thực).
Đặc điểm của đường tổng chi tiêu
- Đường tổng chi tiêu dốc lên, cho thấy khi thu nhập quốc dân tăng
thì tổng chi tiêu cũng tăng và ngược lại.
- Độ dốc của đường tổng chi tiêu nhỏ hơn 1. Nếu chúng ta vẽ 1 đường
450 đi qua gốc tọa độ thì đường tổng chi tiêu sẽ thoải hơn đường 450. Nguyên
nhân là vì người tiêu dùng tiết kiệm một phần thu nhập tăng thêm.
- Đường tổng chi tiêu cắt trục tung tại một giá trị dương, hàm ý khi
thu nhập quốc dân bằng không thì tổng chi tiêu của nền kinh tế vẫn mang
giá trị dương và khoản chi tiêu này được gọi là chi tiêu tự đinh.

Hình 6.2. Đường tổng chi tiêu của nền kinh tế


6.1.2.2. Sản lượng cân bằng trong mô hình thu nhập – chi tiêu
 Đồng nhất thức thu nhập – sản lượng
Trong phần trước đã trình bày, trong toàn bộ nền kinh tế, tổng thu
nhập bằng tổng sản lượng. Điều này có thể thấy trong thực tế, trong các
giao dịch mua bán thành công, doanh thu nhận được cuối cùng cũng trở
thành thu nhập của các hộ gia đình như là kết quả nhận được từ quá trình
cung ứng các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất. Nếu Y được dùng để
biểu diễn thu nhập quốc dân, thì đồng nhất thức có thể viết như sau:
GDP  Thu nhập quốc dân  Y
Từ đồng nhất thức trên, có thể hiểu đường tổng chi tiêu theo hai
cách. Đường tổng chi tiêu một mặt cho thấy mối quan hệ giữa tổng chi
tiêu và thu nhập quốc dân. Mặt khác, đường tổng chi tiêu cũng cho thấy
mối quan hệ giữa tổng chi tiêu và mức sản lượng quốc dân.
 Sản lượng cân bằng
Dọc theo đường tổng chi tiêu, tổng chi tiêu dự kiến tại mỗi mức thu
nhập quốc dân cho thấy sức mua của hộ gia đình, doanh nghiệp và người
nước ngoài đối với các hàng hóa dịch vụ của nền kinh tế; Dọc theo đường
450 đường biểu diễn thu nhập (sản lượng) cho thấy tổng sản lượng được
sản xuất bởi nền kinh tế.
Thông thường doanh nghiệp chỉ sản xuất một hàng hóa nào đó nếu
họ tin rằng nó sẽ được mua. Điều đó có nghĩa là tổng sản lượng được sản
xuất bởi mọi doanh nghiệp phải phù hợp với tổng cầu về sản lượng. Do
vậy, trạng thái cân bằng đạt được là trạng thái mà tại đó tổng chi tiêu phải
bằng tổng sản lượng.
Vì tổng sản lượng (GDP) lại bằng tổng thu nhập (Y) nên trạng thái
cân bằng trên mô hình thu nhập – chi tiêu là:
AE = GDP = Y
Trên mô hình, trạng thái cân bằng đạt được là trạng thái mà tại đó,
với một mức thu nhập nhất định, lượng hàng hóa dịch vụ sản xuất ra đều
được bán hết và nhu cầu mua sắm của các tác nhân kinh tế cũng được thỏa
mãn. Do đó trạng thái cân bằng được xác định bởi giao điểm của đường
tổng chi tiêu và đường 450 (đường biểu diễn thu nhập). Việc xác định thu
nhập cân bằng trên cơ sở liên kết thu nhập (sản lượng) với tổng chi tiêu
gọi là cách tiếp cận thu nhập – chi tiêu.

Hình 6.3. Đường tổng chi tiêu của nền kinh tế và sản lượng cân bằng
Trên hình 6.3, trạng thái cân bằng đạt được là trạng thái E0 ứng với
mức thu nhập Y0. Tại mức thu nhập này, tổng chi tiêu dự kiến bằng tổng
sản lượng của nền kinh tế. Nhu cầu mua sắm của các tác nhân kinh tế bằng
với tổng sản lượng của nền kinh tế. Vấn đề đặt ra là, tại các mức thu nhập
khác với Y0 thì điều gì xảy ra? Trước hết, hãy xét tại mức thu nhập Y 1<
Y0, khi đó đường tổng chi tiêu nằm trên đường 45 0 nên tổng chi tiêu dự
kiến lớn hơn mức sản lượng của nền kinh tế. Trong trường hợp này, các
hộ gia đình, doanh nghiêp, chính phủ và người nước ngoài có mức chi tiêu
dự kiến cao hơn mức mà nền kinh tế đang sản xuất. Các doanh nghiệp
phải huy động hàng dự trữ trong kế hoạch ra bán. (Hàng dự trữ trong kế
hoạch là những hàng hóa mà các doanh nghiệp chủ động dự trữ để đảm
bảo cho việc kinh doanh có hiệu quả). Chính vì vậy dẫn đến sự sụt giảm
hàng tồn kho trong kế hoạch và các doanh nghiệp phải mở rộng sản xuất
để bù đắp sự sụt giảm của hàng tồn kho trong kế hoạch. Quá trình mở
rộng sản xuất sẽ tiếp tục cho đến khi không còn chênh lệch giữa tổng chi
tiêu dự kiến và mức sản lượng của nền kinh tế, tức là tại mức sản lượng
cân bằng Y0. Như vậy, tại các mức sản lượng nhỏ hơn Y0, các doanh
nghiệp luôn có xu hướng mở rộng sản xuất để bù đắp sự sụt giảm về hàng
tồn kho và đưa mức sản lượng tiến gần đến Y0 và cuối cùng khôi phục lại
mức sản lượng cân bằng Y0. Trong trường hợp mức sản lượng Y2 > Y0,
đường tổng chi tiêu nằm dưới đường 450, lượng hàng hóa nền kinh tế sản
xuất vượt quá sức mua của các tác nhân kinh tế, và lượng hàng hóa không
bán được sẽ được giữ lại trong kho dưới dạng hàng tồn kho ngoài kế
hoạch. (Hàng dự trữ ngoài kế hoạch là những hàng hóa doanh nghiệp sản
xuất ra nhưng không bán được). Việc hàng dự trữ ngoài kế hoạch tích tụ
lại sẽ phát sinh những tổn thất và chi phí lưu giữ, do vậy các doanh nghiệp
phản ứng bằng cách cắt giảm mức sản xuất cho đến khi mức sản lượng
trở lại Y0.
Như vậy, mức sản lượng cân bằng Y0 là mức sản lượng mà nền kinh
tế luôn hướng tới. Tại bất cứ mức sản lượng nào khác với Y0 thì chênh
lệch về hàng tồn kho luôn khiến các doanh nghiệp thay đổi mức sản lượng
theo hướng tiến gần đến và bằng Y0.
 Công thức tính sản lượng cân bằng
Đường tổng chi tiêu (giả sử có dạng tuyến tinh) được viết như sau:
AE = A + αY (1)
Trong đó:
A: Phần chi tiêu tự định (Phần chi tiêu không phụ thuộc thu nhập
quốc dân)
α: Độ dốc của đường tổng chi tiêu, do độ dốc của đường tổng chi tiêu
thoải hơn đường thu nhập nên 0 < α < 1.
Tại trạng thái cân bằng, tổng chi tiêu phải bằng tổng thu nhập nên:
AE =Y (2)
Từ (1) và (2) ta có:
Y = A + αY
Mức sản lượng cân bằng:
A
Y=
1
6.1.2.3. Dịch chuyển của đường tổng chi tiêu và sự thay đổi mức sản
lượng cân bằng
 Sự dịch chuyển của đường tổng chi tiêu
Đường tổng chi tiêu sẽ dịch chuyển khi có những thay đổi trong nền
kinh tế làm cho các hộ gia đình, doanh nghiệp, chính phủ và người nước
ngoài quyết định chi tiêu nhiều hơn hay ít hơn tại mỗi mức thu nhập.
 Sự thay đổi mức sản lượng cân bằng
Giả sử tổng chi tiêu tăng lên là Z tại mỗi mức thu nhập quốc dân.
Điều này dẫn đến sự dịch chuyển lên trên của đường tổng chi tiêu, từ AE0
đến AE1 (hình 6.4). Trạng thái cân bằng thay đổi từ E0 đến E1, mức sản
lượng cân bằng được mở rộng từ Y0 đến Y1. Sự gia tăng mức sản lượng
cân bằng lớn hơn so với sự gia tăng của tổng chi tiêu Z (do đường tổng
chi tiêu thoải hơn đường 450).
Như vậy, gia tăng trong tổng chi tiêu dẫn đến một sự gia tăng lớn
hơn trong thu nhập. Để mô tả hiện tượng này, Keynes đã dùng thuật ngữ
số nhân chi tiêu.
Số nhân chi tiêu cho biết sự thay đổi của sản lượng cân bằng gây ra
do sự thay đổi của một đơn vị trong tổng chi tiêu.
Y Y1  Y0
m= 
Z Z
Mô hình cho thấy, số nhân chi tiêu là độ gia tăng trong mức sản
lượng cân bằng tạo ra khi Z = 1. Trên đồ thị, khi đường tổng chi tiêu dịch
chuyển lên trên 1 đơn vị (tức là khi tổng chi tiêu tăng lên là 1 tại mỗi mức
thu nhập quốc dân), chi tiêu tự định tăng từ A đến A + 1, mức sản lượng
cân bằng thay đổi một lượng là:
A1 A 1
Y1  Y0   
1 1 1
Theo định nghĩa về số nhân chi tiêu thì sự thay đổi của mức sản
lượng cân bằng trên là số nhân chi tiêu (m), do đó:
1
m=
1
Và trong trường hợp tổng quát, số nhân chi tiêu sẽ được tính như
sau:
Y
m=
A
Trong đó:
∆Y: Sự thay đổi của mức sản lượng cân bằng khi đường tổng chi
tiêu dịch chuyển;
∆A: Sự thay đổi của tổng chi tiêu tại mỗi mức thu nhập quốc dân.
Vì độ dốc của đường tổng chi tiêu 0 < α < 1 nên m > 1. Độ dốc của
đường tổng chi tiêu càng lớn thì số nhân chi tiêu càng lớn.
Hình 6.4. Thay đổi trạng thái cân bằng khi dịch chuyển đường tổng
chi tiêu
6.1.2.4. Cách tiếp cận thu nhâp – chi tiêu và phân tích tổng cầu – tổng
cung.
a. Đường tổng cầu
Mức sản lượng cân bằng đạt được trên mô hình thu nhập – chi tiêu
ứng với một mức giá nhất định. Vậy mức sản lượng cân bằng này sẽ thay
đổi như thế nào trong trường hợp mức giá có sự thay đổi?
Với mức giá P0, ứng với mức giá này đường tổng chi tiêu của nền
kinh tế là AE(P0), trạng thái cân bằng trên mô hình thu nhập – chi tiêu là
E0, mức sản lượng cân bằng là Y0. Giả sử mức giá tăng lên là P1, do tổng
chi tiêu của nền kinh tế là tổng chi tiêu dự kiến về tiêu dùng, đầu tư, chi
tiêu chính phủ và xuất khẩu ròng nên với tác động của các hiệu ứng của
cải, hiệu ứng lãi suất và hiệu ứng tỉ giá hối đoái, đường tổng chi tiêu AE0
sẽ dịch chuyển xuống AE1 (hình 6.5). Trạng thái cân bằng chuyển tới E1
và mức sản lượng cân bằng giảm xuống Y1.
Hình 6.5. Xây dựng đường tổng cầu từ mô hình thu nhập – chi tiêu
Như vậy, ứng với mức giá P0, sản lượng cân bằng đạt được trên mô
hình thu nhâp – chi tiêu là Y0, tương tự ứng với mức giá P1, sản lượng cân
bằng đạt được trên mô hình thu nhâp – chi tiêu là Y1. Từ đó những điểm
thể hiện mối quan hệ giữa giá và sản lượng cân bằng ứng với từng mức
giá có tính chất giống như (P0, Y0) và (P1, Y1) sẽ nằm trên đường tổng cầu
AD của nền kinh tế (hình 6.5).
b. Các cú sốc làm dịch chuyển đường tổng chi tiêu tác động đến tổng
cầu

Hình 6.6. Tác động của tăng chi tiêu chính phủ đến sản lượng và
mức giá
Ứng với một mức giá nhất định, bất kỳ một nhân tố nào tác động
làm dịch chuyển đường tổng chi tiêu cũng dẫn đến sự thay đổi của sản
lượng cân bằng và qua đó làm dịch chuyển đường tổng cầu. Ví dụ, chi
tiêu chính phủ tăng, làm tăng tổng chi tiêu tại mỗi mức thu nhập quốc dân
và do đó đẩy đường tổng chi tiêu AE0 dịch chuyển lên AE1. Mức sản
lượng cân bằng mở rộng từ Y0 đến Y1. Trên mô hình tổng cầu – tổng cung,
tại mức giá không đổi P0, mức sản lượng cân bằng trên mô hình thu nhập chi
tiêu đã mở rộng đến Y1.
Với lập luận trên, tại tất cả các mức giá ban đầu của nền kinh tế, hiện
tượng tác động đến tổng cầu lập lại tương tự. Có thể kết luận rằng, đường
tổng cầu AD0 đã dịch chuyển sang phải đến AD1 (hình 6.6).
c. Những hạn chế của cách tiếp cận thu nhập – chi tiêu
Tổng cầu có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc quyết định sản
lượng khi nền kinh tế còn nhiều nguồn lực chưa được sử dụng. Tuy nhiên,
khi nền kinh tế đã sử dụng hầu hết nguồn lực hiện có, tổng cung cần được
đưa vào mô hình để phân tích. Hình 6.6. minh họa cho tác động của việc
tăng chi tiêu chính phủ khi tính đến sự ràng buộc từ phía cung được biểu
thị bởi một đường tổng cung có độ dốc dương (đường tổng cung AS 0).
Với mức giá không thay đổi P0, việc tăng chi tiêu chính phủ một lượng là
 G sẽ làm tăng sản lượng từ Y0 lên mức Y1. Trong trường hợp đường
tổng cung có độ dốc dương, sản lượng thực tế chỉ tăng lên mức Y1’ vì mức
giá không còn cố định ở mức P0 mà thực ra đã tăng lên P1 và hấp thụ một
phần sự gia tăng của tổng cầu.
6.1.3. Mô hình xác định sản lượng cân bằng
6.1.3.1. Mô hình xác định sản lượng cân bằng trong nền kinh tế giản
đơn
Nền kinh tế giản đơn chỉ bao gồm hai thành viên là hộ gia đình và
doanh nghiệp. Do đó, phương trình đường tổng chi tiêu trong nền kinh tế
giản đơn được biểu diễn như sau:
AE = C + I
Trong đó:
C: Tiêu dùng của các hộ gia đình
I: Đầu tư
Tiếp theo sẽ xem xét từng thành tố trong tổng chi tiêu của nền kinh tế giản
đơn
Tiêu dùng của các hộ gia đình
Hàm tiêu dùng
Trên cơ sở nghiên cứu tiêu dùng với vai trò là một thành tố quan
trọng trong tổng chi tiêu, ở đây chúng ta xét đến hàm tiêu dùng, tức là
hàm thể hiện mối quan hệ giữa tiêu dùng và thu nhập khả dụng của các
hộ gia đình.
Thu nhập khả dụng là tổng thu nhập các hộ gia đình nhận được từ
việc cung ứng các yếu tố đầu vào cho doanh nghiệp cộng với trợ cấp từ
chính phủ và trừ đi phần thuế phải nộp. Hộ gia đình sử dụng phần thu
nhập khả dụng để tiêu dùng và tiết kiệm. Thu nhập khả dụng ký hiệu là
Yd. Trong mô hình kinh tế giản đơn, không có vai trò của chính phủ nên
thu nhập khả dụng bằng thu nhập quốc dân (Yd = Y).
Khi thu nhập khả dụng tăng lên, chi tiêu của các hộ gia đình cho
lương thực thực phẩm, quần áo, nhà cửa, y tế, và một số hàng hóa dịch vụ
khác cũng tăng lên. Do vậy, khi thu nhập khả dụng tăng lên thì tiêu dùng
của các hộ gia đình cũng tăng lên.
Để biểu diễn hàm tiêu dùng, chúng ta hãy xem xét đến các yếu tố
cấu thành nên hàm tiêu dùng: xu hướng tiêu dùng cận biên và tiêu dùng
tự định
Xu hướng tiêu dùng cận biên. Lượng tiêu dùng tăng thêm khi thu
nhập khả dụng tăng thêm một đơn vị được gọi là xu hướng tiêu dùng cận
biên (MPC).
C
MPC 
Yd

Tiêu dùng tự định. Tiêu dùng tự định là phần tiêu dùng không phụ
thuộc vào thu nhập ( C ). Đây là khoản tiêu dùng phải chi tiêu kể cả khi
không có thu nhập.
Hàm tiêu dùng có dạng như sau:
C  C  MPCxYd
Trong đó:
C là tiêu dùng
C là tiêu dùng tự định

MPC là xu hướng tiêu dùng cận biên


Đường tiêu dùng biểu diễn hàm tiêu dùng. Để biểu diễn đường tiêu
dùng, dùng một hệ trục tọa độ với trục tung biểu diễn lượng tiêu dùng và
trục hoành biểu diễn thu nhập. (Trong nền kinh tế giản đơn, thu nhập khả
dụng bằng thu nhập).
Như vậy trên đồ thị xu hướng tiêu dùng cận biên MPC chính là độ
dốc của đường tiêu dùng. Tiêu dùng tự đinh ( C ) là hệ số chặn của đường
tiêu dùng.
Hình 6.7 biểu diễn đường tiêu dùng, với mọi mức thu nhập nhỏ hơn
Y0 thì tiêu dùng lớn hơn thu nhập khả dụng. Với các mức thu nhập lớn
hơn Y0, tiêu dùng lớn hơn thu nhập khả dụng. Tại mức thu nhập bằng Y0,
tiêu dùng bằng thu nhập khả dụng.
Hình 6.7. Đường tiêu dùng và đường tiết kiệm
Sự dịch chuyển của đường tiêu dùng
Những nhân tố tác động làm cho lượng tiêu dùng của các hộ gia đình
thay đổi tại mỗi mức thu nhập khả dụng là những nhân tố tạo nên sự dịch
chuyển của đường tiêu dùng. Ví dụ, thu nhập dự kiến trong tương lai, của
cải đã được tích lũy…
Xu hướng tiết kiệm cận biên
Các hộ gia đình dùng thu nhập khả dụng để tiêu dùng và tiết kiệm.
Như vậy, từ mỗi đơn vị thu nhâp khả dụng được bổ sung các hộ gia đinh
không chỉ tiêu dùng mà còn tiết kiệm. Mức tiết kiệm bổ sung từ một đơn
vị thu nhập khả dụng tăng thêm được gọi là xu hướng tiết kiệm cận biên
(MPS)
S
MPS 
Yd

Hàm tiết kiệm


Hàm tiết kiệm thể hiện mối quan hệ giữa tiết kiệm với thu nhập khả
dụng của các hộ gia đình.
Ta có: Yd = C + S
 S = Yd – C => S  Yd  (C  MPC  Yd )

S=  C  (1  MPC )  Yd (1)


C S
Vì MPC  và MPS  nên MPS = 1 – MPC (2)
Yd Yd

Do đó, thay (2) vào (1) ta có:


S=  C  MPS  Yd

Đường biểu diễn hàm tiết kiệm gọi là đường tiết kiệm. Hình 6.7 biểu
diễn hàm tiết kiệm của nền kinh tế với:
- C là mức tiết kiệm của nền kinh tế tại mức thu nhập bằng không.
MPS là xu hướng tiết kiệm cận biên và là độ dốc của đường tiết
kiệm.
Tại mức thu nhập khả dụng Y0, thu nhập khả dụng vừa đủ trang trải
chi tiêu cho tiêu dùng (Yd = C), do đó tiết kiệm S=0, A được gọi là điểm
vừa đủ. Điểm vừa đủ là điểm mà tại đó, thu nhập khả dụng vừa đủ trang
trải cho tiêu dùng và tiết kiệm bằng không.
 Đầu tư
Đầu tư là thành tố quan trọng thứ hai của tổng chi tiêu. Thuật ngữ
đầu tư trong nền kinh tế giản đơn chỉ tổng đầu tư tư nhân (bao gồm cả đầu
tư thay thế và đầu tư tăng thêm). So với tiêu dùng, đầu tư chiếm tỉ trọng
khiêm tốn hơn. Đầu tư biến động rất mạnh trong chu kỳ kinh doanh. Đầu
tư chịu tác động của một số nhân tố như lãi suất thực tế, thu nhập hiện tại
của nền kinh tế và dự tính của doanh nghiệp về triển vọng tương lai…
Xem xét hàm cầu về đầu tư có thể thấy được sự phụ thuộc của đầu tư vào
những yếu tố này.
Hàm cầu về đầu tư
Hàm cầu về đầu tư thể hiện mối quan hệ giữa lượng cầu đầu tư theo
kế hoạch và lãi suất thực tế (trong điều kiện các yếu tố khác và thu nhập
của nền kinh tế không đổi).
Lãi suất thực tế
Lãi suất thực tế với tư cách là chi phí cơ hội của việc sử dụng đồng
vốn đầu tư. Chính vì vậy, đầu tư biến động ngược chiều với lãi suất thực
tế (hình 6.8). Đường cầu về đầu tư có dạng dốc xuống.
Hình 6.8. Đường cầu đầu tư
Khi lãi suất thực tế thay đổi, tạo ra sự di chuyển dọc đường cầu đầu
tư. Vậy, đường cầu đầu tư sẽ dịch chuyển khi nào?
Sự dịch chuyển đường cầu đầu tư
Đường cầu đầu tư sẽ dịch chuyển khi có sự thay đổi trong các nhân
tố như thu nhập, tâm lý của nhà đầu tư… Khi thu nhập của nền kinh tế
tăng, đường cầu đầu tư sẽ dịch chuyển sang bên phải và ngược lại, khi thu
nhập của nền kinh tế giảm, đường cầu đầu tư sẽ dịch chuyển sang trái. Khi
các nhà đầu tư lạc quan hơn về triển vọng của nền kinh tế, đường cầu về
đầu tư sẽ dịch chuyển sang phải và ngược lại, khi có làn sóng bi quan về
đầu tư trong nền kinh tế, đường cầu đầu tư sẽ dịch chuyển sang trái (hình
6.9)
Hình 6.9. Sự dịch chuyển đường cầu đầu tư do tâm lý kinh
doanh
Trong chương này chỉ tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa chi
tiêu và thu nhập quốc dân nên giả thiết lãi suất là cho trước và mức đầu tư
không liên quan đến thu nhập hiện tại của nền kinh tế (I = I)̅ .
Sản lượng cân bằng
Phương trình đường tổng chi tiêu AE của nền kinh tế giản đơn như
sau:
AE  C  I => AE  C  MPC  Yd  I => AE  (C  I )  MPC  Yd

AE  (C  I )  MPC  Y (vì Yd = Y trong nền kinh tế giản đơn)


Như vậy, đường tổng chi tiêu trong nền kinh tế giản đơn có chi tiêu
tự định bằng (C̅ + I) và độ dốc bằng độ dốc của đường tiêu dùng và bằng
MPC.
Tại trạng thái cân bằng:
AE = Y
 C  I   MPC  Y  Y
Mức sản lượng cân bằng trong nền kinh tế giản đơn là:
CI
Y
1  MPC

Hình 6.10. Mức sản lượng cân bằng trong nền kinh tế giản đơn
Để phân tích sản lượng cân bằng trong nền kinh tế giản đơn, chúng
ta sử dụng số liệu trong bảng 6.1
Bảng 6.1. Các thành tố trong tổng chi tiêu
Đơn vị: Tỷ đồng
Thu nhập khả Tiêu dùng Đầu tư (I) Tổng chi tiêu
dụng (Yd) (C) (AE)
80 84 50 134
120 116 50 166
160 148 50 198
200 180 50 230
240 212 50 262
280 244 50 294
320 276 50 326
360 308 50 358
400 340 50 390
Từ bảng 6.1 có thể xây dựng được phương trình của đường tiêu dùng
và đường tổng chi tiêu như sau:
C  C  MPC  Yd => C= 20+ 0.8Yd
 C = 20 + 0.8Y
 AE  (C  I )  MPC  Y
 AE = 70 + 0.8Y
Tại trạng thái cân bằng: AE =Y. Do đó mức sản lượng cân bằng sẽ
là:
CI
Y hay Y = 70/ (1-0.8) = 350
1  MPC
Số nhân chi tiêu
Như trên chúng ta đã đề cập, số nhân chi tiêu cho biết sự thay đổi
của mức sản lượng cân bằng gây ra bởi sự thay đổi một đơn vị trong tổng
chi tiêu. Vậy trong mô hình kinh tế giản đơn, số nhân chi tiêu bằng bao
nhiêu và cơ chế khuếch đại của sự thay đổi trong chi tiêu tự định đến mức
sản lượng cân bằng như thế nào? Phân tích sau đây dựa vào hình 6.11 với
giả thiết đầu tư của nền kinh tế tăng thêm một lượng là ∆I, lúc đó tổng chi
tiêu của nền kinh tế tăng thêm một lượng là ∆I tại mỗi mức thu nhập quốc
dân, đường tổng chi tiêu dịch chuyển lên trên là ∆I. Mức sản lượng của
nền kinh tế tăng từ Y0 đến Y1.
Hình 6.11. Tác động của sự thay đổi chi tiêu tự định (đầu tư) đến
mức sản lượng cân bằng
Trước tiên, độ lớn của số nhân chi tiêu trong nền kinh tế giản đơn sẽ
được tính bằng độ mở của mức sản lượng cân bằng khi chi tiêu tự định
tăng lên một đơn vị. Do vậy, số nhân chi tiêu (m) sẽ được tính như sau:
Y  Y0 1
m 1 
I 1  MPC
Trong ví dụ trên, giả sử đầu tư tăng thêm 1 tỷ, số nhân chi tiêu của
nền kinh tế sẽ là: m = 1/(1 – 0.8) = 5
Điều đó có nghĩa là, nếu đầu tư tăng thêm 1 tỷ, mức sản lượng cân
bằng của nền kinh tế sẽ mở rộng là 5 tỷ.
Tiếp theo, sẽ xem xét cơ chế khuếch đại của số nhân chi tiêu
Giả sử nền kinh tế tăng thêm 1 tỷ đồng vốn đầu tư, điều này tác động
đến mức sản lượng làm mức sản lượng tăng thêm 1 tỷ đồng. Phần thu
nhập tăng thêm này sẽ được phân phối cho các thành viên kinh tế. Thu
nhập tăng thêm sẽ dẫn đến sự tăng lên trong tiêu dùng một lượng bằng
MPC. ∆Y, do xu hướng tiêu dùng cận biên bằng 0.8 và ∆Y lúc này là 1 tỷ
nên tiêu dùng của nền kinh tế sẽ tăng thêm 0.8 tỷ. Tiếp đến, mức sản lượng
lại tăng thêm 0.8 tỷ, rồi sau đó lại làm tăng tiêu dùng 0.8 2 tỷ, cứ tiếp tục
như vậy, mức sản lượng lại tăng thêm 0.82 tỷ và từ đó lại tạo hiệu ứng
tăng tiêu dùng…
Tổng hợp sự thay đổi của mức sản lượng qua các hiệu ứng nói trên
từ sự thay đổi đầu tư 1 tỷ đồng, ta có:
∆Y = (1 + 0.8 + 0.82 + 0.83 + …)
1
 Y 
1  0.8
 ∆Y = 5
6.1.3.2. Mô hình xác định sản lượng trong nền kinh tế đóng có sự tham
gia của chính phủ
Khi chính phủ tham gia vào nền kinh tế, ảnh hưởng này lên mô hình
thu nhập – chi tiêu thông qua hai nhân tố:
Ảnh hưởng của thuế
Thuế được đề cập ở đây là thuế ròng, tức là chênh lệch giữa thuế TX
và trợ cấp từ chính phủ (Tr). Thuế ròng T = TX – Tr
Thuế bao gồm hai bộ phận, thuế tự định (thuế đánh độc lập với thu
nhập quốc dân T ) và thuế đánh phụ thuộc vào thu nhập quốc dân. Để đơn
giản chúng ta giả thiết thuế đánh tỉ lệ với thu nhập quốc dân với tỉ suất t,
và trợ cấp bằng không nên thuế ròng bằng thuế.
Hàm thuế sẽ được biểu diễn như sau:
T  T  t Y
Nếu thuế đánh đầy đủ với hai bộ phận trên, đường tổng chi tiêu của
nền kinh tế sẽ vừa dịch chuyển xuống dưới do chi tiêu tự định giảm đi một
lượng bằng thuế tự định, vừa thay đổi độ dốc theo hướng thoải hơn.
Chi tiêu cho hàng hóa dịch vụ của chính phủ (G)
Đây là những khoản chi tiêu cho các dự án đầu tư công hoặc chi trả
lương cho các viên chức chính phủ và các chi phí khác của chính phủ.
Trong mô hình chúng ta đang xét, chi tiêu chính phủ được giả thiết là cố
định. Do vậy, chi tiêu chính phủ (G) tác động đến mô hình thu nhâp – chi
tiêu thông qua tác động đến chi tiêu tự định và làm dịch chuyển đường
tổng chi tiêu lên trên một lượng bằng chi tiêu chính phủ.
Công thức tính mức sản lượng cân bằng trong nền kinh tế đóng có
chính phủ
Phương trình đường tổng chi tiêu trong nền kinh tế đóng có chính
phủ:
AE = C + I + G
Trong đó:
C  C  MPC  Yd => AE  C  MPC  Yd  I  G

Có: Yd = Y – T. Xét trường hợp T = tY, ta có:


AE  C  MPC  (Y  tY )  I  G

 AE  C  I  G  MPC  (1  t )Y
Tại trạng thái cân bằng:
AE =Y
 Y  C  I  G  MPC  (1  t )Y
Mức sản lượng cân bằng sẽ là:
C  I G
Y
1  MPC (1  t )
Số nhân chi tiêu m sẽ bằng:
1
m
1  MPC (1  t )

Hình 6.12. Mức sản lượng cân bằng trong nền kinh tế đóng có
chính phủ
6.1.3.3. Mô hình xác định sản lượng trong nền kinh tế mở
Nền kinh tế mở có sự tham gia của người nước ngoài vào nền kinh
tế chúng ta đang xét. Chính vì vậy, tổng chi tiêu của nền kinh tế sẽ có
thêm một thành tố nữa là xuất khẩu ròng. Xuất khẩu ròng của một nước
là chênh lệch giữa kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu.
 Xuất khẩu
Giá trị kim ngạch xuất khẩu (X) phụ thuộc vào quyết định của người
nước ngoài đối với việc mua hàng trong nước. Điều này trước tiên phụ
thuộc vào thu nhập của người nước ngoài, sau đó đến một số nhân tố khác
như thương hiệu của hàng Việt Nam, giá tương đối giữa hàng Việt Nam
so với hàng ngoại, tỉ giá hối đoái… Để đơn giản có thể giả thiết xuất khẩu
là cho trước với một giá trị cố định nào đó.
 Nhập khẩu
Giá trị kim ngạch nhập khẩu (IM) phụ thuộc vào thu nhập quốc dân
và một số yếu tố khác như giá tương đối giữa hàng trong nước và hàng
nhập, tỉ giá hối đoái… Trong mô hình này, giả thiết giá trị kim ngạch nhập
khẩu chỉ phụ thuộc vào thu nhập quốc dân với xu hướng nhập khẩu cận
biên MPM, các yếu tố khác được giả thiết là cố định. Hàm nhập khẩu
được biểu diễn như sau:
̅ + MPMxY
IM = 𝐌
Trong đó:
IM: là giá trị kim ngạch nhập khẩu
MPM: là xu hướng nhập khẩu cận biên
Y: là thu nhập quốc dân
̅ : là nhập khẩu tự định, thường giả định M
M ̅ = 0. Khi đó: IM =
MPMxY
Công thức tính mức sản lượng cân bằng trong nền kinh tế mở
Phương trình đường tổng chi tiêu của nền kinh tế mở như sau:
AE = C + I + G + X- IM
 AE  C  MPC  (1  t )  Y  I  G  X  MPM  Y

 AE  C  I  G  X  MPC (1  t )  MPM   Y

Mức sản lượng cân bằng sẽ là:


C  I G X
Y
1  MPC (1  t )  MPM
Số nhân chi tiêu của nền kinh tế mở được tính là:
1
m
1  MPC (1  t )  MPM

Hình 6.13. Xác định mức sản lượng cân bằng trong nền kinh tế mở
Bảng 6.2. Tổng chi tiêu trong nền kinh tế mở và các thành phần
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Thu Tiêu Đầu Chi Xuất Nhập Tổng
nhập dùng tư (I) tiêu khẩu khẩu chi tiêu
thực tế (C) chính (X) (IM) (AE)
(Y) phủ (G)
0 12.5 50 60 40 0 162.5
50 45 50 60 40 7.5 187.5
100 77.5 50 60 40 15 212.5
150 110 50 60 40 22.5 237.5
200 142.5 50 60 40 30 262.5
250 175 50 60 40 37.5 287.5
300 207.5 50 60 40 45 312.5
350 240 50 60 40 52.5 337.5
400 272.5 50 60 40 60 362.5

Giả sử thuế chiếm 20% thu nhập quốc dân, từ bảng 6.2 có thể xác
định được các hàm nhập khẩu, hàm tiêu dùng, hàm tổng chi tiêu của nền
kinh tế và mức sản lượng cân bằng.
Hàm nhập khẩu có dạng: IM = MPM.Y
 ∆IM = MPM. ∆Y
Từ số liệu bảng 6.2, ta có MPM = 0.15
 IM = 0.15Y
Hàm tiêu dùng có dạng: C  C  MPC (1  t )Y

Từ số liệu bảng 6.2, ta có: C = 12.5 và MPC (1-t) = 0.65


Với t = 0.2, ta có MPC = 0.8125
Do vậy, hàm tiêu dùng như sau:
C = 12.5 + 0.8125(1-0.2). Y => C = 12.5 + 0.65Y
Sau khi thay các giá trị, hàm tổng chi tiêu như sau:
AE = 12.5 + 50 + 60 + 40 + [0.8125(1-0.2) – 0.15]. Y
 AE = 162.5 + 0.5Y
 Mức sản lượng cân bằng của nền kinh tế là:
Y = 162.5/(1-0.5) = 325
6.2. Chính sách tài khóa
Chính sách tài khóa là những nỗ lực của chính phủ nhằm ổn định
kinh tế vĩ mô thông qua việc thay đổi chi tiêu chính phủ, trợ cấp và thuế.
6.2.1. Chính sách tài khóa chủ động ảnh hưởng tới tổng cầu
6.2.1.1. Chính sách tài khóa mở rộng
Chính sách tài khóa mở rộng là chính sách tài khóa nhằm kích thích
tổng cầu và tăng mức sản lượng cân bằng thông qua việc tăng chi tiêu
chính phủ hoặc giảm thuế.
 Trường hợp áp dụng chính sách tài khóa mở rộng
Trong trường hợp mức sản lượng thực tế thấp hơn mức sản lượng tự
nhiên, chính sách tài khóa mở rộng được áp dụng nhằm khôi phục lại mức
sản lượng tự nhiên bằng cách kích cầu thông qua việc tăng chi tiêu chính
phủ và giảm thuế.
 Nội dung của chính sách
Hình 6.14 cho thấy, trong trường hợp nền kinh tế rơi vào suy thoái
với tổng cầu thấp, không đủ sức mua toàn bộ mức sản lượng tự nhiên Y *
của nền kinh tế (tại trạng thái cân bằng ban đầu E0) với mức sản lượng
thực tế ban đầu Y0 < Y*, nền kinh tế có thất nghiệp chu kỳ, chính phủ sẽ
phải kích cầu thông qua chính sách tài khóa mở rộng.
Một biện pháp mà chính phủ có thể tiến hành lúc này là tăng chi tiêu
của chính phủ. Nếu chính phủ quyết định tăng chi tiêu một lượng là ∆G,
chi tiêu tự định của nền kinh tế tăng thêm một lượng là ∆G. Tại mỗi mức
thu nhập quốc dân, tổng chi tiêu của nền kinh tế đều tăng lên nên dẫn đến
sự dịch chuyển lên trên của đường tổng chi tiêu một đoạn bằng ∆G, từ
AE0 đến AE1, mức sản lượng cân bằng mở rộng từ Y0 đến Y1. Trên mô
hình tổng cầu – tổng cung, độ mở rộng mức sản lượng cân bằng được bảo
tồn nếu mức giá cố định tại P0, tức là trong điều kiện nền kinh tế còn nhiều
nguồn lực chưa sử dụng (trạng thái cân bằng E1 trên mô hình tổng cầu –
tổng cung). Nhưng trong thực tế, đường tổng cung ngắn hạn lạ=i dốc lên
nên độ mở của mức sản lượng cân bằng sẽ bị thu hẹp lại (ứng với trạng
thái cân bằng E2). Để đảm bảo cho mức sản lượng cân bằng cuối cùng trở
lại Y*, chi tiêu chính phủ cần phải tăng một lượng đủ lớn ∆G sao cho m.
∆G = Y1 – Y0, từ đó với hạn chế về tổng cung, mức sản lượng thực tế cuối
cùng sẽ được khôi phục tại Y*.

Hình 6.14. Chính sách tài khóa mở rộng


Một biện pháp nữa mà chính phủ có thể tiến hành là giảm thuế.
Bằng cách này thu nhập khả dụng của các hộ gia đình sẽ tăng lên, qua đó
làm tăng tiêu dùng và từ đó làm tăng chi tiêu. Hình 6.14 cho thấy việc
giảm thuế suất đã dẫn đến đường tổng chi tiêu xoay lên trên từ AE0 đến
AE2. Điểm cân bằng mới đạt được cũng tại E2 trên mô hình tổng cầu –
tổng cung ứng với mức sản lượng cân bằng mới là Y*.
6.2.1.2. Chính sách tài khóa thắt chặt
 Điều kiện áp dụng
Giả sử nền kinh tế có tổng chi tiêu vượt quá năng lực sản xuất hiện
có của nền kinh tế. Sự hạn chế của tổng cung với việc sử dụng gần như
cạn kiệt nguồn lực đã làm cho việc mở rộng nền kinh tế dẫn đến mức giá
chung tăng lên gây ra hiện tượng lạm phát. Trong trường hợp này chính
phủ cần cắt giảm tổng cầu để kiềm chế lạm phát.
 Nội dung của chính sách
Chính sách tài khóa thắt chặt bao gồm hai phương án để cắt giảm
tổng cầu của nền kinh tế. Đó là việc giảm chi tiêu chính phủ và tăng thuế.
Hình 6.15 cho thấy tác động của hai biện pháp này. Trong trường hợp
chính phủ giảm chi tiêu, đường tổng chi tiêu sẽ dịch chuyển xuống dưới
(từ AE0 đến AE1) do tổng chi tiêu giảm đi một lượng là ∆G tại mỗi mức
thu nhập quốc dân. Mức sản lượng cân bằng thu hẹp từ Y 0 đến Y1. Với
thay đổi này trên mô hình thu nhập – chi tiêu, mô hình tổng cầu tổng cung
cũng chịu tác động tương ứng trong việc thu hẹp mức sản lượng cân bằng.
Tại mức giá ban đầu P0, mức sản lượng đã được thu hẹp từ Y0 đến Y1. Tại
mỗi mức giá ban đầu cho trước của nền kinh tế, hiện tượng này lập lại
tương tự, do đó đường tổng cầu dịch chuyển sang trái (từ AD 0 đến AD1).
Và trên mô hình tổng cầu – tổng cung, mức sản lượng thực tế đã trở lại Y* và
mức giá là P1< P0, và do vậy lạm phát được kiềm chế.
Nếu như chính phủ sử dụng biện pháp tăng thuế suất để cắt giảm
tổng cầu thì biện pháp này sẽ tác động trước tiên vào thu nhập khả dụng,
từ đó làm giảm tiêu dùng, tổng chi tiêu từ đó cũng giảm, đường tổng chi
tiêu xoay xuống dưới (từ AE0 đến AE2), đưa mức sản lượng cân bằng đến
Y1 và từ đó tác động đến mô hình tổng cầu – tổng cung giống như biện
pháp cắt giảm chi tiêu chính phủ trên đây. Như vậy, giải pháp này cũng
nhằm cắt giảm tổng cầu từ AD0 đến AD1và qua đó đưa mức sản lượng cân
bằng của nền kinh tế về Y*với mức giá P1 thấp hơn P0

Hình 6.15. Chính sách tài khóa thắt chặt


6.2.1.3. Chính sách tài khóa có sự ràng buộc về ngân sách
Trong trường hợp ngân sách chính phủ bị thâm hụt thì chính sách
tài khóa mở rộng gặp khó khăn. Vậy làm thế nào để vừa có thể kích thích
tổng cầu lại vừa duy trì được cán cân ngân sách không đổi? Chính sách
tài khóa đáp ứng được mục tiêu này được gọi là chính sách tài khóa có sự
ràng buộc về ngân sách.
Nội dung của chính sách này là chính phủ sẽ bù đắp những khoản
tăng chi tiêu bằng việc tăng thuế.
Ngân sách chính phủ BB được tính như sau:
BB = T - G
Trong đó:
- T là thuế thu về cho ngân sách
- G là các khoản chi tiêu của chính phủ
Để bảo đảm cho cán cân ngân sách không đổi thì ∆BB = 0 hay ∆G
= ∆T.
Mô hình nghiên cứu ở phần này là mô hình nền kinh tế đóng với
thuế độc lập với thu nhập. Như vậy, phương trình đường tổng chi tiêu sẽ
như sau:
AE  C  I  G  C  MPC  Yd  I  G
Do thuế đánh độc lập với thu nhập nên Yd  Y  T

 AE  C  MPC  T  I  G  MPC  Y
Mức sản lượng cân bắng được tính như sau:
C  MPC  T  I  G C  I  G MPC  T
Y  
1  MPC 1  MPC 1  MPC
Giả sử chi tiêu chính phủ thay đổi một lượng là ∆G và thuế thay đổi
một lượng là ∆T, mức sản lượng cân bằng sẽ thay đổi một lượng là
1 MPC
Y   G   T
1  MPC 1  MPC
Trong trường hợp chỉ có chi tiêu chính phủ thay đổi một lượng là
∆G, thuế không thay đổi thì số nhân chi tiêu của chính phủ sẽ là:
1
mG 
1  MPC
Trong trường hợp chỉ có thuế thay đổi một lượng là ∆T, chi tiêu
chính phủ không thay đổi thì số nhân thuế sẽ là:
 MPC
mT 
1  MPC
Trong trường hợp cả chi tiêu chính phủ và thuế đều thay đổi và giữ
nguyên cán cân ngân sách (∆G=∆T) thì số nhân ngân sách cân bằng sẽ là
1.
Như vậy, tăng chi tiêu chính phủ 1 đơn vị sẽ mở rộng mức sản lượng
cân bằng của nền kinh tế là 1/(1-MPC), trong khi nếu thuế cũng tăng 1
đơn vị thì thu nhập khả dụng của các hộ gia đình sẽ giảm đi 1 đơn vị, tiêu
dùng do vậy giảm MPC dẫn đến mức sản lượng cân bằng giảm đi một
lượng là MPC/(1-MPC). Tổng hợp ảnh hưởng của sự thay đổi bởi chi tiêu
chính phủ và thuế sẽ là 1, tức là tăng chi tiêu chính phủ và thuế lên 1 đơn
vị sẽ dẫn đến mức sản lượng cân bằng chỉ tăng 1 đơn vị. Để duy trì cán
cân ngân sách không đổi, ảnh hưởng mở rộng sản lượng của việc tăng chi
tiêu chính phủ bị lấn át bởi việc thu hẹp mức sản lượng do tăng thuế nên
kết quả số nhân ngân sách cân bằng chỉ bằng 1.
Hình 6.16. Chính sách tài khóa trong trường hợp
ràng buộc về ngân sách
6.2.2. Cơ chế tự ổn định
Cơ chế tự ổn định là những thay đổi trong chính sách tài khóa có tác
dụng kích thích tổng cầu khi nền kinh tế lâm vào suy thoái và cắt giảm
tổng cầu khi nền kinh tế phát triển quá nóng mà không cần bất kỳ sự điều
chỉnh nào của các nhà hoạch định chính sách.
Cơ chế tự ổn định quan trọng nhất trong các nền kinh tế hiện đại là
hệ thống thuế. Vì hầu hết các loại thuế đều liên quan chặt chẽ đến các hoạt
động kinh tế nên khi nền kinh tế lâm vào suy thoái, thu nhập của doanh
nghiệp và các hộ gia đình đều giảm nên doanh thu thuế cũng giảm. Sự cắt
giảm thuế tự động như thế đã góp phần giảm bớt sự dao động của mức
sản lượng thực tế xung quanh mức sản lượng tự nhiên.
Một số khoản mục của chi tiêu chính phủ cũng đóng vai trò như
những cơ chế tự ổn định. Đó là những khoản mục như trợ cấp thất nghiệp,
bảo hiểm xã hội và các khoản chuyển giao thu nhập khác có xu hướng
tăng lên khi nền kinh tế lâm vào suy thoái. Điều đó hạn chế sự giảm sút
trong tiêu dùng mặc dù trong bối cảnh thu nhập khả dụng của các hộ gia
đình giảm đi do nền kinh tế lâm vào suy thoái. Như vậy, sự tăng lên một
cách tự động trong các khoản chuyển giao thu nhập của chính phủ đã hạn
chế bớt sự sụt giảm của tổng cầu và thu hẹp biên độ dao động của các chu
kỳ kinh doanh.
6.2.3. Chính sách tài khóa và ngân sách chính phủ
 Chính sách tài khóa và cán cân ngân sách
Cán cân ngân sách chính phủ được tính bằng tổng thu nhập củ a chính
phủ nhận được trừ đi tổng chi tiêu cho tất cả các khoản mục của chính phủ
trong kỳ. Nói cách khác, cán cân ngân sách được tính bằng thuế ròng trừ đi chi
tiêu chính phủ mua hàng hóa và dịch vụ.
BB = (Tx - Tr) – G
BB = T - G
Trong đó:
BB là cán cân ngân sách
TX là tổng nguồn thu từ thuế
Tr là chuyển giao thu nhập
G là chi tiêu mua hàng hóa dịch vụ của chính phủ
T là thuế ròng.
Khi thu nhập chính phủ nhận được từ thuế ròng lớn hơn chi tiêu của
chính phủ, cán cân ngân sách thặng dư. Ngược lại, chi tiêu của chính phủ
lớn hơn thu nhập mà chính phủ nhận được từ thuế ròng thì cán cân ngân
sách thâm hụt.
Thông thường, cán cân ngân sách là thước đo tốt để đánh giá chính
sách tài khóa, tuy nhiên cán cân ngân sách không chỉ chịu ảnh hưởng từ
chính sách tài khóa mà còn chịu ảnh hưởng bởi chu kỳ kinh doanh. Ví dụ,
thuế suất là 20%, chi tiêu chính phủ là 60 tỷ USD, chúng ta có thể thấy
được ảnh hưởng của mức sản lượng nền kinh tế đến cán cân ngân sách
trên hình 6.17.

Hình 6.17. Ảnh hưởng của chu kỳ kinh doanh đến cán cân
ngân sách
Có thể tính được mức sản lượng mà tại đó cán cân ngân sách cân
bằng như sau: Tại trạng thái cân bằng của ngân sách: T = G
 tY = G => 0.2Y = 60 => Y0 = 300
Với những mức thu nhập nhỏ hơn 300, cán cân ngân sách sẽ bị thâm
hụt do tiền thuế thu được từ những mức sản lượng này không đủ bù đắp
được hoàn toàn khoản chi tiêu chính phủ là 60 tỷ USD. Ngược lại, tại
những mức thu nhập lớn hơn 300, cán cân ngân sách lại có thặng dư.
Những phân tích trên cho thấy đôi khi cán cân ngân sách thâm hụt
không phải do chính sách tài khóa tác động đến, những nhận xét vội vã về
nguyên nhân gây thâm hụt ngân sách có thể sẽ đưa nền kinh tế lún sâu
hơn vào suy thoái do cắt giảm chi tiêu chính phủ.
Để có thể có thước đo tốt hơn về chính sách tài khóa, người ta sử
dụng ngân sách cơ cấu và ngân sách chu kỳ.
- Cán cân ngân sách cơ cấu BB* là cán cân ngân sách tính cho mức
sản lượng ứng với mức sản lượng tiềm năng. Sử dụng thước đo này khi
đánh giá về chính sách tài khóa sẽ không bị ảnh hưởng của chu kỳ kinh
doanh.
- Cán cân ngân sách chu kỳ được tính bằng chênh lệch giữa cán cân
ngân sách thực tế và cán cân ngân sách cơ cấu.
BB – BB* = (tY – G) – (tY* - G) = t (Y – Y*)
Cán cân ngân sách chu kỳ cho thấy tác động của những biến động
kinh tế ngắn hạn đến cán cân ngân sách, điều đó cho phép loại trừ ảnh
hưởng của biến động kinh tế ngắn hạn đến cán cân ngân sách khi đánh giá
chính sách tài khóa của chính phủ.
 Tài trợ thâm hụt ngân sách chính phủ
Để tài trợ cho cán cân ngân sách thâm hụt, chính phủ có thể sử dụng
các biện pháp sau:
- Vay tiền từ ngân hàng trung ương
Trường hợp này được hiểu như là việc tạo thêm tiền tệ cơ sở cho
nền kinh tế. Do vậy, cung tiền của nền kinh tế sẽ tăng lên theo số nhân
tiền. Điều này dẫn đến gia tăng tổng cầu của nền kinh tế, đây là một
nguyên nhân của làm phát do cầu kéo.
- Vay tiền từ các hộ gia đình và doanh nghiệp
Trong trường hợp này chính phủ bán trái phiếu chính phủ cho hộ gia
đình và doanh nghiệp. Như vậy chính phủ sẽ phải hứa hẹn trả một lãi suất
đủ để hấp dẫn người mua. Biện pháp này cho phép chính phủ có thể tài
trợ thâm hụt mà không cần tăng cơ sở tiền hay giảm dự trữ quốc tế. Tuy
nhiên, nếu sử dụng biện pháp này thường xuyên sẽ có thể làm tăng áp lực
lạm phát cho tương lai nếu tỷ lệ nợ so với GDP liên tục tăng hoặc lấn át
đầu tư tư nhân do sức ép tăng lãi suất.
- Vay nước ngoài
Biện pháp này được tiến hành thông qua việc phát hành trái phiếu
ra nước ngoài hoặc giảm dự trữ quốc tế. Việc sử dụng dự trữ quốc tế để
tài trợ cho thâm hụt ngân sách có thể dẫn đến tình trạng mất kiểm soát tài
chính, đồng nội tệ giảm giá mạnh và làm tăng sức ép lạm phát. Phát hành
trái phiếu ra nước ngoài và giảm dự trữ quốc tế có xu hướng làm tăng tỷ
giá hối đoái và làm giảm sức cạnh tranh quốc tế của hàng trong nước.
6.3. Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ với ổn định nền kinh tế
Thuật ngữ “ổn định nền kinh tế” trong kinh tế học vĩ mô được hiểu
là phải đạt đến một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, bền vững và có thể dự
báo được”.
Với mục tiêu cụ thể là một nền kinh tế với tỉ lê thất nghiệp bằng mức
thất nghiệp tự nhiên, tăng trưởng bền vững và ổn định, tỉ lệ lạm phát có
thể dự báo được và một số mục tiêu khác, sự tương tác giữa chính sách tài
khóa và chính sách tiền tệ cũng như những điểm cần lưu ý khi sử dụng
hai chính sách này để ổn định kinh tế vĩ mô là mối quan tâm của các nhà
hoạch định chính sách.
Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ có thể tương tác với nhau
để đạt được một trong các mục tiêu trên kinh tế vĩ mô. Ví dụ, trong trường
hợp chính phủ sử dụng chính sách tài khóa mở rộng dẫn đến tổng cầu gia
tăng và gây sức ép lạm phát, nếu ngân hàng trung ương đồng thời cắt giảm
cung ứng tiền tê, qua đó tăng lãi suất thì có thể triệt tiêu được một phần
hoặc toàn bộ độ gia tăng của tổng cầu, ổn định mức giá của nền kinh tế.
Ngược lại, trong bối cảnh chính phủ cắt giảm chi tiêu, chính sách tiền tệ
lại được phối hợp theo chiều hướng ngược lại để khôi phục tổng cầu.
Chẳng hạn như chính phủ cắt giảm chi tiêu cho dự án đường cao tốc một
khoản chi phí là 10 tỷ USD, điều này làm tổng cầu sụt giảm và mức sản
lượng cân bằng sẽ bị thu hẹp. Để khôi phục lại mức sản lượng cân bằng,
ngân hàng trung ương sẽ đồng thời tăng cung tiền, qua đó hạ lãi suất,
khuyến khích đầu tư tăng và mở rộng tổng chi tiêu, khôi phục lại vị trí
đường tổng cầu và mức sản lượng của nền kinh tế.

Hình 6.18. Tác động của hỗn hợp chính sách tài khóa mở rộng và
chính sách tiền tệ lỏng
Sự tương tác giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ còn được
thể hiện bởi hỗn hợp chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tiền tệ
lỏng – được gọi là chính sách thích ứng (trong điều kiện nền kinh tế còn
nhiều nguồn lực chưa sử dụng và tỉ lệ thất nghiệp cao). Chính sách này
cho phép tăng cung tiền và giữ cho lãi suất không thay đổi để duy trì độ
mở của mức sản lượng cân bằng do ảnh hưởng của chính sách tài khóa.
Giả sử chính phủ thực hiện chính sách tài khóa mở rộng bằng việc
tăng chi tiêu chính phủ một lượng là ∆G, chi tiêu chính phủ tăng từ G0
đến G1. Đường tổng chi tiêu sẽ dịch chuyển lên trên, từ AE 0 đến AE1.
Trạng thái cân bằng thay đổi từ E0 đến E1 và mức sản lượng cân bằng mở
rộng từ Y0 đến Y1. Trên mô hình tổng cầu-tổng cung, đường tổng cầu dịch
chuyển sang phải từ AD0 đến AD1. Do nền kinh tế còn nhiều nguồn lực
chưa sử dụng nên đường tổng cung ngắn hạn AS nằm ngang, và mức sản
lượng thực tế là Y1, với ∆Y = Y1 – Y0 = m.∆G.
Mức thu nhập thực tế do tác động của chính sách tài khóa mở rộng
đã tăng lên đến Y1, điều đó làm tăng cầu tiền, đường cầu tiền dịch chuyển
sang bên phải. Nếu cung tiền không đổi thì lãi suất cần phải tăng để cân
bằng thị trường tiền tệ. Do đó trên thị trường tiền tệ, lãi suất danh nghĩa
tăng từ i0 đến i1. Giả sử lãi suất thực tế bằng lãi suất danh nghĩa, thì trên
thị trường đầu tư lãi suất thực tế cũng tăng từ r0 đến r1. Lãi suất tăng làm
lượng cầu đâu tư giảm (từ I0 đến I1). Sự sụt giảm của đầu tư dẫn đến tổng
chi tiêu dự kiến giảm và đường tổng chi tiêu dịch chuyển xuống dưới, từ
AE1 đến AE2. Mức sản lượng cân bằn thu hẹp đến Y2. Trên mô hình tổng
cầu – tổng cung, đường tổng cầu dịch chuyển sang trái đến AD2. Như vậy
do chính phủ thực hiện chính sách tài khóa mở rộng khiến lãi suất tăng,
đầu tư tư nhân giảm đã làm sụt giảm tổng cầu của nền kinh tế. Hiện tượng
này được gọi là hiệu ứng lấn át. Cuối cùng mức sản lượng thực tế là Y2 <
Y1.
Nếu chính sách tiền tệ có tác động thích ứng đến ảnh hưởng trên của
chính sách tài khóa bằng cách tăng cung tiền từ MS0 đến MS1 thì lãi suất
ban đầu i0 được duy trì, loại trừ được hiệu ứng lấn át và độ mở của mức
sản lượng từ Y0 đến Y1 được bảo toàn.
TÓM TẮT CHƯƠNG
Chương 6 nghiên cứu tổng cầu của nền kinh tế, những nhân tố cấu thành
tổng cầu, các nhân tố quyết định sự biến động của tổng cầu và việc sử dụng
chính sách tài khóa tác động đến tổng cầu nhằm ổn định nền kinh tế. Một số
nội dung cơ bản được trình bày tại chương 6 như sau:
Cách tiếp cận thu nhập- chi tiêu cho biết mức sản lượng cân bằng đạt
được như thế nào trong trường hợp nền kinh tế còn nhiều nguồn lực chưa sử
dụng
Mức sản lượng cân bằng sẽ thay đổi khi có sự dịch chuyển của đường
tổng chi tiêu.
Sự thay đổi mức sản lượng cân bằng phụ thuộc vào chi tiêu tự định và số
nhân chi tiêu của nền kinh tế
Số nhân chi tiêu cho biết sự thay đổi của sản lượng cân bằng khi có sự
thay đổi trong chi tiêu tự định là 1 đơn vị. Số nhân chi tiêu có giá trị lớn hơn
1.
Do đường tổng chi tiêu được sử dụng để xác định mức sản lượng cân
bằng tại một mức giá xác định nên khi mức giá thay đổi, mức sản lượng cân
bằng của nền kinh tế sẽ thay đổi do đường tổng chi tiêu dịch chuyển. Đường
biểu diễn mối quan hệ giữa mức giá chung của nền kinh tế và mức sản lượng
cân bằng là đường tổng cầu.
Các nhà hoạch định chính sách sử dụng chính sách tài khóa để tác động
vào tổng cầu.
Việc sử dụng chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong ổn định kinh
tế vĩ mô là vấn đề còn có nhiều quan điểm khác biệt. Những quan điểm này
dựa trên những vấn đề lý thuyết và thực tiễn. Trong đó hiệu quả của hai chính
sách trên và độ trễ của chính sách là một trong những vấn đề mà các nhà hoạch
định chính sách quan tâm.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Hãy phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách tài khóa?
2. Đường tổng chi tiêu dịch chuyển là do những yếu tố nào? Hãy giải thích.
3. Chênh lệch hàng tồn kho có ảnh hưởng gì đến việc xác lập mức sản lượng
cân bằng của nền kinh tế?
4. So sánh số nhân chi tiêu trong mô hình kinh tế giản đơn, mô hình kinh tế
đóng và mô hình kinh tế mở.
5. Hãy phân tích nội dung của chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tài
khóa thắt chặt
6. Hãy phân tích vai trò của các số nhân chi tiêu trong chính sách tài khóa có
sự ràng buộc về ngân sách.
7. Tại sao cán cân ngân sách thực tế không phái là thước đo tốt để đánh giá
chính sách tài khóa? Muốn loại trừ ảnh hưởng của chu kỳ kinh doanh đến
sự thâm hụt của cán cân ngân sách cần sử dụng cán cân ngân sách nào?
Hãy giải thích
8. Giả sử nền kinh tế đang lâm vào suy thoái, trình bày tác động của các chính
sách sau đến tiêu dùng, đầu tư và mức sản lượng thực tế của nền kinh tê:
a. Một sự tăng lên trong chi tiêu chính phủ
b. Cắt giảm thuế suất
c. Việc mở rộng cung tiền của nền kinh tế.
9. Trong trường hợp nền kinh tế rơi vào suy thoái, nếu phải sử dụng chính sách
tài khóa có sự ràng buộc về ngân sách thì kết quả sẽ như thế nào? Nền kinh
tế có bị lún sâu vào suy thoái không? Hãy giải thích.
10. Giả sử chi tiêu chính phủ tăng. So sánh ảnh hưởng của chính sách này
đến tổng cầu trong trường hợp ngân hàng trung ương không can thiệp với
trường hợp ngân hàng trung ương cam kết duy trì mức lãi suất không đổi.
CHƯƠNG 7. TIỀN TỆ VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
Chính sách tiền tệ là một trong các chính sách kinh tế vĩ mô, trong
đó Ngân hàng Trung ương thông qua các công cụ của mình thực hiện việc
kiểm soát và điều tiết cung ứng tiền tệ nhằm tác động làm thay đổi lãi
suất, qua đó tác động đến mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ là lạm
phát, tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm, nhằm thực hiện mục tiêu
kinh tế - xã hội của quốc gia. Nội dung chương 7 sẽ xem xét lý thuyết ưa
thích thanh khoản của John Maynard Keynes, theo lý thuyết này lãi suất
sẽ được quyết định bởi cung - cầu tiền. Tiếp đến là xem xét ảnh hưởng
của việc thay đổi cung ứng tiền tệ đến các biến số kinh tế vĩ mô cơ bản
như: lãi suất, đầu tư, tổng cầu, sản lượng và mức giá. Từ đó, chỉ ra cách
thức, tại sao và khi nào chính sách tiền tệ ảnh hưởng đến tổng cầu, và các
yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của chính sách tiền tệ và cơ chế phối hợp
giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa.
7.1. Thị trường tiền tệ
Trong phần chương 4, chúng ta đã đề cập đến khái niệm tiền và các
chương năng của tiền. Trong phần này, chúng ta đi vào xem xét lý thuyết
ưa thích thanh khoản, đây là lý thuyết của Keynes về xác định lãi suất.
Theo lý thuyết ưa thích thanh khoản, lãi suất sẽ được quyết định bởi cung
- cầu về tiền. Chúng ta cùng tìm hiểu các nhân tố quyết định đến cung -
cầu tiền và lãi suất cân bằng trên thị trường tiền tệ.
7.1.1. Cung tiền và các nhân tố quyết định cung tiền
7.1.1.1. Cung tiền
Cung tiền hay mức cung ứng tiền tệ (MS) bao gồm tiền mặt ngoài
hệ thống ngân hàng (Cu) và tiền gửi (D).
MS = Cu + D
Mức cung ứng tiền tệ có tác động mạnh mẽ đến trạng thái hoạt động của
nền kinh tế. Tiền có chức năng là phương tiện trao đổi nên khi hàng hóa, dịch
vụ được tạo ra nhiều hơn thì cũng cần phải thay đổi mức cung ứng tiền. Mối
quan hệ này được xác định trong phương trình số lượng tiền tệ.
M.V = P.Y
Trong đó: M: Mức cung tiền (mức cung tiền còn được ký hiệu là MS)
V: Tốc độ lưu thông tiền
P: Mức giá trung bình
Y: Sản lượng thực tế (GDP thực tế - GDPr)
P.Y = GDPn (GDP danh nghĩa)
Friedman và các nhà kinh tế học thuộc trường phái trọng tiền hiện đại
cho rằng V tương đối ổn định, do đó mức cung ứng tiền cần được điều chỉnh
theo sự thay đổi của quy mô GDP danh nghĩa (GDPn). Sự thay đổi mức cung
ứng tiền sẽ làm thay đổi các biến số kinh tế vĩ mô như giá cả, sản lượng và việc
làm trong nền kinh tế. Việc kiểm soát cung ứng tiền tệ, thực hiện chính sách
tiền tệ đóng vai trò quan trọng trong quản lý kinh tế vĩ mô.
Để có thể kiểm soát và điều tiết cung ứng tiền tệ cần nắm bắt được các
nhân tố tác động đến cung tiền. Và, xét sự tác động qua lại giữa tiền mặt và
tiền gửi, thông qua hoạt động của hệ thống Ngân hàng thương mại và Ngân
hàng Trung ương tác động đến hai thành tố này của cung ứng tiền.
7.1.1.2. Các nhân tố quyết định cung tiền
Trong nội dung chương 4 chúng ta đã chỉ ra mô hình cung tiền trong
cr  1
trường hợp tổng quát: MS  xB  m M xB
cr  rr
Có thể thấy, những thay đổi tiền cơ sở (B) và các nhân tố xác định
số nhân tiền (mM) sẽ làm cho cung ứng tiền tệ thay đổi. Các nhân tố quyết
định đến cung tiền được mô tả bởi Sơ đồ 7.1.
Sơ đồ 7.1. Các nhân tố quyết định đến cung tiền
Tiền cơ sở (B): Mức B phụ thuộc vào hoạt động của Ngân hàng
Trung ương trên thị trường mở (OMO), thị trường ngoại hối (FOREX),
lãi suất chiết khấu, và các tài sản có ròng khác của Ngân hàng Trung ương.
B không nhạy cảm với các thông số thị trường mà phụ thuộc vào ý chí của
Ngân hàng Trung ương. Sự gia tăng cơ sở tiền tệ làm cho cung ứng tiền
tăng theo cấp số nhân tiền.
Ngân hàng Trung ương kiểm soát B thông qua mua bán GTCG trên
thị trường mở (OMO), mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối
(FOREX), tiến hành tăng hay giảm lãi suất chiết khấu đối với các Ngân
hàng thương mại. Ngoài ra, có hai hạng mục có ảnh hưởng đến B là: tiền
nổi và tiền gửi của kho bạc tại Ngân hàng Trung ương. Khi Ngân hàng
Trung ương tiến hành bù trừ các tờ séc cho các Ngân hàng thương mại,
giữa thời điểm ghi có ngay cho ngân hàng thụ hưởng và sau đó ghi nợ cho
ngân hàng trả tiền, tiền dự trữ tạm thời tăng lên gọi là tiền nổi. Và, khi kho
bạc chuyển tiền từ các Ngân hàng thương mại về Ngân hàng Trung ương, làm
giảm dự trữ của hệ thống ngân hàng, cơ sở tiền giảm. Tiền nổi và tiền gửi của
kho bạc tại Ngân hàng Trung ương biến động chủ yếu trong ngắn hạn, làm tiền
cơ sở biến động trong ngắn hạn. Nhưng chủ yếu thông qua nghiệp vụ thị trường
mở Ngân hàng Trung ương vẫn có thể kiểm soát được tiền cơ sở.
Số nhân tiền (mM): Cung tiền còn phụ thuộc vào số nhân tiền (mM), hai
nhân tố tác động đến số nhân tiền là tỷ lệ dự trữ thực tế của các ngân hàng (rr)
và tỷ lệ tiền mặt so với tiền gửi (cr). Hai nhân tố này không dễ xác định, và với
các nền kinh tế khác nhau, tại các thời điểm khác nhau các thông số này là khác
biệt.
Tỷ lệ dự trữ thực tế (rr): Tỷ lệ dự trữ thực tế của các Ngân hàng thương
mại phụ thuộc vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo quy định của Ngân hàng Trung
ương và tỷ lệ dự trữ vượt mức so với quy định của Ngân hàng trung ương.
- Thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc: Nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền
gửi thanh toán tăng lên, làm cho mức dự trữ bắt buộc tăng lên khi đó dự trữ
vượt mức giảm xuống. Để duy trì dự trữ vượt mức ở mức cần thiết Ngân hàng
thương mại phải giảm tín dụng, số nhân tiền giảm, kết quả là cung tiền giảm.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một trong các công cụ Ngân hàng Trung ương sử dụng
để điều tiết cung tiền, nên không phụ thuộc vào nhân tố thị trường mà phụ
thuộc vào ý chí của Ngân hàng Trung ương.
- Thay đổi tỷ lệ dự trữ vượt mức: Tỷ lệ dự trữ vượt mức tăng làm mức
dự trữ vượt mức tăng lên. Các nhân tố khác không đổi, dự trữ thực tế tăng
lên làm cung tiền giảm. Có hai nhân tố tác động đến mức dự trữ vượt mức
đó là: lãi suất và dòng tiền gửi dự kiến rút ra. Khi lãi suất tăng, chi phí cơ
hội của việc nắm giữ tiền tăng, Ngân hàng thương mại có xu hướng giảm
dự trữ vượt mức cung ứng tiền tăng. Trong điều kiện bất ổn, người gửi
tiền có thể đến ngân hàng rút tiền nhiều hơn, buộc ngân hàng phải tăng
mức dự trữ vượt mức cung ứng tiền sẽ giảm và ngược lại.
Tỷ lệ tiền mặt ngoài ngân hàng so với tiền gửi (cr): Khi tỷ lệ tiền
mặt so với tiền gửi tăng lên nghĩa là người gửi tiền đã chuyển một phần
tiền gửi sang tiền mặt. Khi đó lượng tiền được tạo ra bởi hệ thống ngân
hàng sẽ giảm, làm giảm cung tiền. Có thể thấy rõ điều này ở công thức
sau:
cr  1 1  rr
MS  B  (1  )B
cr  rr cr  rr
Cả tiền mặt và tiền gửi thanh toán đều không có lãi suất (tiền gửi
thanh toán có thể được trả lãi suất nhưng rất thấp). Vì vậy, tỷ lệ tiền mặt
công chúng nắm giữ so với tiền gửi thanh toán không nhạy cảm với lãi
suất mà phụ thuộc vào thói quen thanh toán của công chúng. Sự thuận lợi
cũng như chi phí để nhận được tiền mặt có ảnh hưởng đến tỷ lệ này. Tổng
hợp, hướng tác động của các nhân tố chính lên cung tiền được thể hiện ở
Bảng 7.1.
Bảng 7.1. Hướng tác động của các nhân tố lên cung tiền
Chủ thể Thông số Thay đổi Phản ứng
thông số của cung
tiền
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc  
(rb)  
Lãi suất chiết khấu  
NHTW
(iCk)  
 
Tiền cơ sở (B)
 
Tỷ lệ tiền mặt so với  
Người gửi tiền
tiền gửi (cr)  
Người gửi tiền Dòng tiền gửi dự  
và ngân hàng tính rút ra  
Ngân hàng và Tỷ lệ dự trữ thực tế  
người vay tiền (rr)  

7.1.1.3. Đường cung tiền (Money supply curve)


Đường cung tiền là đường thẳng đứng trên cơ sở cho rằng Ngân
hàng Trung ương sử dụng các công cụ của nó đã cung ứng cho thị trường
một lượng tiền cung ứng theo dự kiến. Cung tiền được kiểm soát bởi Ngân
hàng trung ương. Lượng tiền mà Ngân hàng Trung ương cung ứng được
giả thiết không phụ thuộc vào lãi suất.
Đường cung tiền là đường thẳng đứng trong mối quan hệ với lãi suất
và được biểu diễn như Hình 7.1.

Hình 7.1. Đường cung tiền


Đường cung tiền có thể dịch chuyển sang phải khi mức cung tiền
tăng lên và dịch chuyển sang trái khi mức cung tiền giảm. Do vậy, khi
Ngân hàng Trung ương thực hiện nới lỏng tiền tệ đường cung tiền dịch
chuyển sang phải, còn khi Ngân hàng Trung ương thắt chặt tiền tệ đường
cung tiền dịch chuyển sang trái.
7.1.2. Cầu tiền và các nhân tố quyết định cầu tiền
7.1.2.1. Cầu tiền
Trong phần này chúng ta sẽ đi vào nghiên cứu tại sao mọi người lại
giữ tiền, những yếu tố quyết định lượng cầu tiền. Việc nắm giữ tiền mặt
của công chúng xuất phát từ 3 động cơ: Động cơ giao dịch, động cơ dự
phòng, động cơ đầu cơ.
Động cơ giao dịch
Động cơ giao dịch dựa vào chức năng của tiền là một phương tiện
trao đổi, mọi người giữ tiền vì mục đích giao dịch. Cầu về tiền giao dịch
là khối lượng tiền cần thiết để chi tiêu thường xuyên, đều đặn cho nhu cầu
tiêu dùng của cá nhân và nhu cầu kinh doanh của doanh nghiệp.
Động cơ dự phòng
Nhu cầu tiền tệ dự phòng là những nhu cầu về tiền không tính trước
được, tiền được giữ để sử dụng cho những trường hợp khẩn cấp, để thanh
toán một số chi phí bất thường như khám bệnh, thuốc thang, hay chi phí
sửa chữa,... Sự thiệt hại của việc không dự phòng tiền tệ là khoản lãi suất
bị mất đi do phải đi vay để chi trả cho những chi tiêu đột xuất, động cơ
giữ tiền như vậy là cầu tiền dự phòng.
Động cơ đầu cơ
Nhu cầu tiền cho đầu cơ dựa trên cơ sở chức năng dự trữ giá trị của
tiền. Người ta giữ tiền với tư cách là một bộ phận trong danh mục đầu tư
tối ưu của họ bởi ngoài các tài sản khác, tiền tạo ra một kết hợp khác giữa
rủi ro và lợi tức. Tiền tạo ra lợi tức danh nghĩa an toàn, trong khi giá cổ
phiếu có thể tăng hoặc giảm.
Chúng ta nghiên cứu cầu về tiền trên cơ sở các động cơ giữ tiền,
nhưng cần phải hiểu tiền nắm giữ để thỏa mãn động cơ này cũng có thể
đáp ứng động cơ khác. Tiền là một loại tài sản không sinh lãi, mọi người
không có động cơ giữ nó quá lâu. Các cá nhân hành động hợp lý luôn có
động cơ đổi tiền lấy hàng hóa hoặc tài sản sinh lãi như tiền gửi ngân hàng
có kỳ hạn, trái phiếu hay cổ phiếu. Lý do quan trọng nhất của việc giữ tiền
là sự tiện lợi của nó. Chúng ta có thể mua hàng hóa, dịch vụ bằng tiền chứ
không phải bằng sổ tiết kiệm, trái phiếu hay cổ phiếu trừ khi chúng ta phải
chuyển chúng thành tiền, nhưng điều này lại phát sinh chi phí.
7.1.2.2. Các nhân tố quyết định cầu tiền
Cầu tiền xuất hiện từ việc sử dụng nó trong việc tạo thuận lợi cho
các giao dịch được gọi là cầu về tiền giao dịch. Khi giá cả tăng lên làm
nhu cầu tiền tệ giao dịch tăng để bảo đảm mua đủ khối lượng hàng hóa,
dịch vụ cần thiết đã dự tính. Cầu về tiền giao dịch tăng cùng với thu nhập
danh nghĩa, trong khi đó lãi suất với tư cách là chi phí cơ hội của việc giữ
tiền. Sau đây, chúng ta đi vào phân tích tác động của hai nhân tố này đến
cầu tiền:
- Thu nhập: Lợi ích của việc giữ tiền liên quan đến việc sử dụng tiền
với tư cách là phương tiện trao đổi. Khi người ta giao dịch nhiều hơn, thì
lượng tiền mà họ cần giữ càng lớn. Cầu về tiền giao dịch tăng cùng với
thu nhập danh nghĩa, thu nhập cao hơn có nghĩa giá trị hàng hóa được
mua sẽ lớn hơn, điều này hàm ý giá trị giao dịch sẽ lớn hơn. Trên thực tế
cầu về tiền tăng theo giá trị danh nghĩa của thu nhập. Thu nhập danh nghĩa
được tính bằng tích của sản lượng và giá cả. Trong điều kiện các yếu tố
khác không đổi, nếu giả cả tăng gấp đôi, người ta cần số tiền gấp đôi để
thực hiện các giao dịch như cũ.
- Lãi suất: Chi phí giữ tài sản dưới dạng tiền là thu nhập từ lãi suất
mà các tài sản có thể tạo ra nếu để chúng dưới dạng trái phiếu. Đó là lãi
suất danh nghĩa chứ không phải là lãi suất thực tế. Vì, lãi suất danh nghĩa
chính là chi phí phí cơ hội của việc giữ tiền. Trong các điều kiện khác
không thay đổi, khi lãi suất tăng chi phí cơ hội của việc giữ tiền tăng, do
đó lượng cầu về tiền giảm và ngược lại.
Quan hệ giữa lãi suất và lượng cầu về tiền, giữa thu nhập và cầu tiền
được thể hiện bởi hàm cầu về tiền (hàm ưa thích tiền). Hàm này có dạng
như sau :
MD = kY – hi
Trong đó:
MD: Cầu tiền
Y: Thu nhập
i: Lãi suất
k, h: Các hệ số phản ánh độ nhạy cảm của MD với Y và i
7.1.2.3. Đường cầu tiền (Money demand curve)
Lãi suất mà cá nhân có thể nhận được từ trái phiếu có thể coi là giá
của tiền, bởi nó đo lường chi phí cơ hội của việc giữ tiền. Khi lãi suất tăng,
chi phí của việc giữ tiền tăng lượng cầu về tiền giảm. Ngược lại, khi lãi
suất giảm, chi phí của việc giữ tiền giảm lượng cầu về tiền tăng. Đường
cầu về tiền là đường dốc xuống về phía bên phải (Hình 7.2).
Bên cạnh đó, khi thu nhập tăng thì công chúng cũng cần lượng tiền
nhiều hơn để tiến hành các giao dịch. Sự gia tăng thu nhập làm dịch
chuyển đường cầu tiền sang bên phải. Đường MD0 là đường cầu về tiền
khi thu nhập ở Y0, khi thu nhập tăng từ Y0 tới Y1 thì đường MD0 dịch
chuyển đến MD1, với mức lãi suất i0 lượng tiền đã tăng lên từ M0 lên M1
(M1 > M0) (Hình 7.2)
Đường cầu tiền minh họa hai đặc điểm cơ bản của cầu tiền. Một là,
lượng cầu về tiền giảm khi lãi suất tăng. Hai là, lượng cầu tiền tăng khi
thu nhập tăng tại mọi mức lãi suất, hay cầu tiền tăng.

Hình 7.2. Đường cầu tiền


Như vậy, theo lý thuyết ưa thích thanh khoản, cầu tiền phụ thuộc
vào lãi suất và thu nhập. Với thu nhập cho trước, khi lãi suất tăng lượng
cầu tiền giảm và ngược lại, được phản ánh bằng một sự di chuyển dọc trên
đường cầu tiền. Khi thu nhập thay đổi, đường cầu tiền sẽ dịch chuyển.
Đường cầu tiền dịch chuyển sang bên phải khi thu nhập tăng và dịch
chuyển sang bên trái khi thu nhập giảm.
7.1.3. Cân bằng thị trường tiền tệ
7.1.3.1. Trạng thái cân bằng
Phân tích thị trường tiền tệ thông qua đường cung tiền (MS) và
đường cầu tiền (MD) (Hình 7.3).

Hình 7.3. Cân bằng thị trường tiền tệ


Tác động qua lại giữa cung tiền và cầu tiền xác định mức lãi suất
cân bằng (i0), tại đó lượng cầu tiền đúng bằng lượng cung tiền. Điểm cân
bằng của thị trường tiền tệ là điểm E0 (Hình 7.3).
Nếu lãi suất ở mức khác với mức lãi suất cân bằng, dân chúng sẽ
điều chỉnh cơ cấu danh mục của cải và kết quả là lãi suất sẽ trở về mức
cân bằng, điều này được giải thích rõ bởi mối quan hệ giữa thị trường tiền
tệ và thị trường trái phiếu.
7.1.3.2. Quan hệ thị trường tiền tệ và thị trường trái phiếu
Theo quan điểm của Keynes, hai loại tài sản chủ yếu mà công chúng
muốn dùng để dự trữ của cải của họ là tiền (Money) và trái phiếu (Bond).
Do đó, tổng của cải trong nền kinh tế phải bằng tổng số tiền cộng với trái
phiếu. Điều này có nghĩa là:
Tài sản = Tiền + Trái phiếu
Mức cầu tài sản tài chính có sinh lời dưới dạng trái phiếu (loại này
có sinh lời nhưng rủi ro lớn vì giá cả của nó do thị trường quy định) còn
tiền không tạo ra lãi suất nhưng ít rủi ro, trừ lạm phát. Cũng cần thấy, bên
cạnh một phần lượng tiền như tiền mặt và tài khoản viết séc không trả lãi
thì vẫn có một phần của M1 được trả lãi. Để đơn giản hóa, chúng ta sẽ
giải thích lý thuyết của Keynes về xác định lãi suất với giả thiết rằng tất
cả tiền đều không trả lãi.
Các tác nhân kinh tế chống rủi ro bằng cách đa dạng hóa tài sản, họ
giữ một phần tiền mặt và một phần trái phiếu, nên giữa tiền mặt và trái
phiếu có sự chuyển hóa từ mức cầu tiền (MD) sang cầu trái phiếu (DB).
Tổng cầu về tài sản = Cầu tiền + Cầu trái phiếu = MD + DB
Tổng tài sản tài chính của nền kinh tế có thể đo lường được từ mức
cung tiền (MS) và lượng giá trị trái phiếu đưa ra thị trường (SB).
Tổng cung về tài sản = Cung tiền + Cung trái phiếu = MS + SB
Thị trường tài sản cân bằng khi tổng mức cầu về tài sản bằng tổng
mức cung về tài sản, nên ta có:
MD + DB = MS + SB
Chuyển vế ta được:
MD – MS = SB – DB
Giả định thị trường tiền tệ cân bằng, tức MD = MS (MD – MS = 0)
thì SB = DB (SB – DB = 0) tức thị trường trái phiếu cũng cân bằng.
Theo lý thuyết ưa thích thanh khoản, lãi suất điều chỉnh để làm cân
bằng thị trường tiền tệ. Tại mức lãi suất cân bằng lượng cầu tiền bằng với
lượng cung tiền.
Trong trường hợp lãi suất cao hơn mức lãi suất cân bằng, chẳng
hạn mức lãi suất i1 (Hình 7.3). Khi đó, lượng tiền mọi người muốn nắm
giữ là M1 sẽ nhỏ hơn lượng tiền cung ứng M0. Nhiều người sẽ nhận thấy
rằng mình đang nắm giữ quá nhiều tiền và sẽ cố gắng chuyển một phần
số tiền đang giữ sang tài sản sinh lãi. Điều đó làm tăng cầu về trái phiếu,
trong khi cung trái phiếu không thay đổi, giá trái phiếu sẽ tăng. Giá trái
phiếu tăng làm cho lãi suất giảm. Khi lãi suất còn lớn hơn i 0 thì quá trình
còn tiếp diễn cho đến khi lãi suất trở về i0.
Ngược lại, khi lãi suất thấp hơn mức lãi suất cân bằng, chẳng hạn
mức i2 (Hình 7.3). Khi đó, lượng tiền mọi người muốn nắm giữ là M2, lớn
hơn lượng tiền cung ứng M0. Trong trường hợp này, để tăng lượng tiền
nắm giữ, người ta bán bớt lượng trái phiếu mà họ đang nắm giữ, làm cho
giá trái phiếu giảm, đẩy lãi suất tăng. Quá trình còn tiếp diễn cho đến khi
lãi suất tăng đến mức lãi suất i0.
Sự điều chỉnh của lãi suất tới mức lãi suất cân bằng luôn diễn ra. Tại
mức lãi suất cân bằng, mọi người đều hài lòng với tài sản bằng tiền và trái
phiếu của họ và khi thị trường tiền tệ cân bằng thì thị trường trái phiếu
cũng cân bằng.
7.1.3.3. Sự thay đổi trạng thái cân bằng
Sự thay đổi của cung tiền, cầu tiền hay cả hai sẽ làm thay đổi trạng
thái cân bằng trên thị trường tiền tệ. Sự thay đổi trạng thái cân bằng của
thị trường tiền tệ được minh họa bởi hình 7.4.
Hình 7.4. Sự thay đổi trạng thái cân bằng của thị trường tiền tệ
Khi Ngân hàng Trung ương tác động vào MS như: Bán trái phiếu
chính phủ, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc (rb), tăng lãi suất chiết khấu (iCK) làm
cung tiền giảm, đường cung tiền dịch chuyển sang trái (MS0 →MS1). Khi
đó điểm cân bằng mới được thiết lập tại E1 làm M0 giảm tới M1 và i0 tăng
tới i1 để giảm mức dư cầu tiền do mức cung tiền giảm (Hình 7.4).
Khi thu nhập tăng lên, nhu cầu tiền cho giao dịch tăng lên, lượng
cầu tiền tăng ở mọi mức lãi suất, cầu tiền tăng, đường cầu tiền sẽ dịch
chuyển sang phải từ MD0 đến MD1. Với mức cung tiền M1 lãi suất cân
bằng sẽ chuyển từ i1 sang i2 điểm cân bằng mới của thị trường tiền tệ là
E2 (Hình 7.4).
Việc kiểm soát tiền tệ trong thực tế phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ
mô thật không đơn giản. Có hai cách kiểm soát, hoặc là kiểm soát mức
cung tiền thì lãi suất thị trường sẽ lên xuống bởi tác động của cầu về tiền,
hoặc kiểm soát lãi suất (ổn định lãi suất) thì buộc phải để lực lượng thị
trường quyết định mức cung tiền. Cả hai cách đều gặp các khó khăn nhất
định như khi kiểm soát lượng tiền cơ sở (B) thì vấp phải vấn đề hạn chế
tiền mặt và tín dụng gây khó khăn cho hoạt động Ngân hàng thương mại
và các hoạt động giao dịch, khi kiểm soát lãi suất lại gặp khó khăn trong
nhận biết chính xác đường cầu tiền (MD) và sự dịch chuyển của nó. Việc
lựa chọn kiểm soát mức cung tiền hay kiểm soát lãi suất là tuỳ thuộc vào
chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương ở từng thời kỳ và điều kiện,
trạng thái cụ thể của nền kinh tế.
7.2. Tác động của chính sách tiền tệ
7.2.1. Chính sách tiền tệ
7.2.1.1. Khái niệm về chính sách tiền tệ
Với điều kiện các yếu tố khác giữ nguyên không đổi, nếu lượng tiền
tệ trong lưu thông thay đổi thì giá trị đại diện của một đơn vị tiền tệ do đó
sẽ thay đổi, dẫn đến sự thay đổi của giá cả và thu nhập. Có rất nhiều quan
điểm về chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương.
Theo Cục dự trữ Liên bang Mỹ: “Cục dự trữ liên bang thực hiện
chính sách tiền tệ của quốc gia bằng cách quản lý mức lãi suất ngắn hạn
và ảnh hưởng đến tính sẵn có và chi phí tín dụng trong nền kinh tế. Chính
sách tiền tệ trực tiếp ảnh hưởng đến lãi suất; Nó gián tiếp ảnh hưởng đến
giá cổ phiếu, sự giàu có, và tỷ giá hối đoái. Thông qua các kênh này, chính
sách tiền tệ ảnh hưởng đến chi tiêu, đầu tư, sản xuất, việc làm và lạm phát
ở Hoa Kỳ”.
Theo Ngân hàng nhà nước Việt Nam (SBV): “Chính sách tiền tệ quốc
gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu
hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp
để thực hiện mục tiêu đề ra”. (Luật NHNN 2010 – Khoản 1 điều 3)
Chính sách tiền tệ là một trong các chính sách kinh tế vĩ mô, trong
đó Ngân hàng Trung ương thông qua các công cụ của mình thực hiện việc
kiểm soát và điều tiết khối lượng tiền cung ứng nhằm tác động tới các
mục tiêu cơ bản của nền kinh tế trên cơ sở đó đạt được những mục tiêu
cuối cùng của mình là công ăn việc làm cao, tăng trưởng kinh tế, ổn định
giá cả, ổn định lãi suất, ổn định thị trường tài chính và ổn định tỷ giá hối
đoái.
Trong nền kinh tế thị trường, chính sách tiền tệ được sử dụng như
một công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với hoạt động của nền kinh
tế. Nó được hoạch định trên cơ sở mục tiêu kinh tế - xã hội của mỗi quốc
gia trong từng giai đoạn phát triển. Dựa trên cơ chế thị trường và các quy
luật vận động tất yếu của nó, chính sách tiền tệ được hoạch định cần đảm
bảo tính linh hoạt, mềm dẻo và điều hành chủ yếu bằng các công cụ gián
tiếp.
Như vậy, Chính sách tiền tệ là tổng hợp các phương thức, biện pháp
kinh tế được thể chế hóa thông qua các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của
Nhà nước về tiền tệ do NHTW khởi thảo và thực thi nhằm tác động, kiểm
soát mức cung ứng tiền tệ, và lãi suất hướng nền kinh tế vào các mục tiêu
kinh tế - xã hội đề ra.
Có hai dạng của Chính sách tiền tệ:
(1). Chính sách tiền tệ mở rộng: Là chính sách làm tăng lượng cung
ứng tiền tệ cho nền kinh tế, do đó làm giảm lãi suất và mở rộng đầu tư,
tiếp vốn cho các ngành để phát triển sản xuất kinh doanh, làm tăng tổng
cầu và giá trị sản lượng quốc gia. Chính sách này thích hợp để chống suy
thoái kinh tế và giảm thất nghiệp.
Hình 7.5. Tác động của tăng cung tiền tới lãi suất cân bằng
(2). Chính sách tiền tệ thu hẹp: Là chính sách hạn chế (hoặc giảm
mức tăng trưởng) lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế. Chính sách này
được sử dụng khi tổng cầu cao, lạm phát đang đe dọa nền kinh tế.
Việc lựa chọn chính sách tiền tệ theo xu hướng nào tùy thuộc vào
thực trạng nền kinh tế và nhu cầu về tiền trong từng giai đoạn cụ thể. chính
sách tiền tệ rất nhạy cảm và có vị trí quan trọng trong hệ thống chính sách
kinh tế vĩ mô.
7.2.1.2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Sự lựa chọn các mục tiêu trong điều hành chính sách tiền tệ của
Ngân hàng Trung ương các nước luôn có chiều hướng thay đổi phù hợp
với trình độ phát triển của thị trường tài chính và năng lực quản lý của
Ngân hàng Trung ương.
Hệ thống mục tiêu và các công cụ của chính sách tiền tệ được thể
hiện ở Sơ đồ 7.2 dưới đây:
Sơ đồ 7.2. Hệ thống mục tiêu và các công cụ của chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ không chỉ điều chỉnh khối lượng cung ứng tiền tệ
trong lưu thông phù hợp với mức tăng GDP danh nghĩa (GDPn), phù hợp
với cung – cầu tiền trong nền kinh tế, mà còn cung ứng tiền cho tín dụng,
mua ngoại tệ, tài trợ thâm hụt ngân sách, điều chỉnh sự phù hợp giữa tiền
– hàng nói chung.
Vì vậy, Ngân hàng Trung ương sẽ phải cân nhắc trong việc lựa chọn
mục tiêu, các công cụ điều hành để chính sách tiền tệ phát huy hiệu quả.
Việc lựa chọn mục tiêu phải phù hợp với tính cấp thiết của các mục tiêu
và mức độ đánh đổi giữa các mục tiêu, khả năng thực hiện được mục tiêu
đó hay không?
7.2.2. Ảnh hưởng của lãi suất đến tổng cầu
Sự tương tác giữa cung - cầu tiền trên thị trường tiền tệ ấn định lãi
suất cân bằng, tức lãi suất thị trường. Đến lượt nó, lãi suất lại tác động trở
lại đối với tiêu dùng, đầu tư và xuất khẩu ròng. Với sự thay đổi tiền cơ sở
của Ngân hàng Trung ương, tạo ra sự mở rộng hay thu hẹp của cung tiền
theo cấp số nhân sẽ tác động đến lãi suất. Sự thay đổi lãi suất (i) sẽ tác
động đến các thành tố của tổng cầu (AD).
Lãi suất và tiêu dùng. Khi cung tiền tệ tăng lên, lãi suất sẽ giảm
xuống, giá trái phiếu tăng lên (do giá trị hiện tại của thu nhập trong tương
lai tăng) gây ra hiệu ứng của cải và làm dịch chuyển đường tiêu dùng lên
trên. Tiêu dùng sẽ tăng lên ở mỗi mức thu nhập.
Lãi suất và đầu tư. Đầu tư, bao gồm tư bản (vốn cố định) và vốn
luân chuyển (hàng tồn kho) cũng có mối quan hệ mật thiết với lãi suất.
Các dự án đầu tư phải thu được lợi nhuận bù đắp được chi phí cơ hội của
vốn đầu tư đã chi ra. Lãi suất thực tế với tư cách là chi phí cơ hội của việc
sử dụng vốn đầu tư, đầu tư biến động ngược chiều với lãi suất thực tế. Ở
mức lãi suất thấp sẽ có nhiều dự án được đầu tư hơn mức lãi suất cao, và
ngược lại.
Lãi suất và xuất khẩu ròng. Khi lãi suất thấp thì đồng nội tệ bị đánh
giá thấp, đẩy tỷ giá hối đoái xuống, khi đó xuất khẩu (X) tăng lên và giảm
nhập khẩu (IM), xuất khẩu ròng (NX) sẽ tăng lên.
Lãi suất và tổng cầu. Tiêu dùng, đầu tư, xuất khẩu ròng là những
thành tố của tổng cầu.
AD = C + I + G + NX
Khi mức cung ứng tiền tệ tăng lên, lãi suất cân bằng trên thị trường
tiền tệ sẽ giảm xuống dẫn đến mở rộng khả năng tiêu dùng, khuyến khích
đầu tư và xuất khẩu ròng tăng, tổng cầu (AD) tăng. Như vậy, sự thay đổi
của lãi suất sẽ tác động đến quy mô tổng cầu và do đó tác động đến thu
nhập, đến lượt nó AD biến đổi làm thay đổi sản lượng, mức giá và tỷ lệ
thất nghiệp của nền kinh tế.
Nếu Ngân hàng Trung ương sử dụng các công cụ của mình làm thay đổi
MS, từ đó làm thay đổi lãi suất, thay đổi AD, thay đổi sản lượng, giá cả, tỷ lệ
thất nghiệp trong nền kinh tế. Hơn nữa, nếu MS=const, chính phủ tăng G làm
cho MD tăng cũng làm cho i tăng theo, qua đó cũng sẽ tác động đến các thành
tố AD, làm AD thay đổi.
Lãi suất biến động càng nhanh và càng mạnh, thì rủi ro lãi suất bộc
lộ càng lớn, làm rối loạn các hành vi mà lãi suất có ảnh hưởng, hậu quả là
nền kinh tế bị rối loạn theo có thể dẫn đến tình trạng tăng trưởng giảm,
thất nghiệp gia tăng. Vì vậy cần biến lãi suất thành nhân tố ổn định vĩ mô,
kích thích tiết kiệm và khuyến khích đầu tư, nâng cao hiệu quả chính sách
tiền tệ của Ngân hàng Trung ương.
7.2.3. Ảnh hưởng của chính sách tiền tệ đến sản lượng và giá cả
7.2.3.1. Cơ chế tác động của chính sách tiền tệ
Cơ chế tác động của chính sách tiền tệ là quá trình mà nhờ đó những
thay đổi trong lượng tiền cung ứng được chuyển thành những thay đổi
trong sản lượng, giá cả, tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế.
Sử dụng chính sách tiền tệ để ổn định nền kinh tế Ngân hàng Trung
ương phải thay đổi mức cung ứng tiền tệ (MS) qua đó làm thay đổi lãi
suất, thay đổi các thành tố trong tổng mức chi tiêu (AE), để góp phần thay
đổi tổng cầu (AD), nhằm thay đổi sản lượng, giá cả và tỷ lệ thất nghiệp
trong nền kinh tế.
Quá trình này có thể tóm tắt theo các bước sau:
MS↑ → i↓ → (C, I, NX)↑ → AE↑;AD↑ →Y↑và P↑u↓1
MS↓ → i↑ → (C, I, NX)↓ → AE↓;AD↓ →Y↓và P↓u↑
Cơ chế tác động của chính sách tiền tệ có thể phân tích trên đồ thị
như sau:
Xét trường hợp Ngân hàng Trung ương thực hiện chính sách tiền tệ
nới lỏng tăng cung tiền từ MS0 → MS1, khi đó làm tăng giá tài sản, lãi
suất trên thị trường tiền tệ sẽ giảm từ i0 → i1 (Hình 7.6.a).
Lãi suất thấp hơn sẽ kích thích các doanh nghiệp mua sắm thiết bị,
nhà xưởng… Vì vậy, tổng mức đầu tư dự kiến của nền kinh tế tăng lên từ
I0 → I1 (Hình 7.6.b). Lưu ý rằng, trong khi cầu tiền phụ thuộc vào lãi suất
danh nghĩa (ký hiệu là i), thì đầu tư phụ thuộc vào lãi suất thực tế (ký hiệu
là r). Vì ở đây chúng ta giả thiết mức giá không đổi, nên lãi suất danh

1
Sản lượng của nền kinh tế (Y) được đo lường bởi chỉ tiêu GDP thực tế (GDP r)
u: Tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế
nghĩa và lãi suất thực tế bằng nhau (i=r). Ngoài ra, chính sách tiền tệ mở
rộng sẽ làm tăng giá tài sản, giảm lãi suất trên thị trường tiền tệ và tỷ giá
hối đoái qua đó khuyến khích đầu tư, mở rộng khả năng tiêu dùng, xuất
khẩu ròng (NX) tăng, tăng tổng chi tiêu (AE) của nền kinh tế.

Hình 7.6 a Hình 7.6 b

Hình 7.6 c

Hình 7.6 d

AS

Hình 7.6. Tác động của chính sách tiền tệ đến sản lượng và giá cả
Theo mô hình thu nhập - chi tiêu của Keynes, đường tổng chi tiêu
biểu diễn mức chi tiêu dự kiến tại mỗi mức thu nhập với giả thiết mức giá
cho trước. Tăng cung tiền làm tăng tổng chi tiêu tại mỗi mức giá, tổng chi
tiêu của nền kinh tế tăng, đường tổng chi tiêu dịch chuyển lên trên từ AE0
→ AE1, lượng cân bằng sẽ tăng lên từ Y0 →Y1, sự thay đổi mức sản lượng
cân bằng được xác định bằng số nhân chi tiêu (m) nhân với sự thay đổi
của tổng chi tiêu (∆AE) trong nền kinh tế (∆Y = Y1 – Y0= m x ∆AE) (Hình
7.6.c).
Chính sách tiền tệ mở rộng làm tăng tổng chi tiêu (AE), mức sản
lượng cân bằng cao hơn tại mỗi mức giá cho trước làm tăng tổng cầu (AD)
về hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế. Trên mô hình AD – AS, đường
AD dịch chuyển sang phải (AD0 → AD1) (với giả thiết nền kinh tế còn
các nguồn lực chưa được sử dụng và giá cả cứng nhắc – đường AS là
đường nằm ngang hoàn toàn co giãn), điểm cân bằng mới được thiết lập
tại điểm E1, sản lượng cân bằng khi đó tăng lên một lượng ∆Y = Y1 – Y0.
Nhưng trong thực tế, đường tổng cung ngắn hạn lai dốc lên (đường AS0)
nên độ mở của mức sản lượng cân bằng sẽ bị thu hẹp lại (ứng với trạng
thái cân bằng E2), lúc này sản lượng cân bằng ngắn hạn sẽ chỉ tăng lên
đến Y2 giá tăng lên P1 (Hình 7.6.d).
Trong dài hạn, do sự tăng giá của nền kinh tế và sự tăng lên của sản
lượng làm tăng kỳ vọng về lạm phát, đồng thời tiền lương thỏa thuận giữa
người lao động và doanh nghiệp tăng lên do dư cầu lao động. Điều này đã
khiến các doanh nghiệp hạn chế thuê thêm lao động và thu hẹp quy mô
sản xuất, tổng cung hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế giảm xuống,
đường tổng cung dịch chuyển sang trái (AS0 → AS1). Trạng thái cân bằng
trong dài hạn ứng với điểm E3, sản lượng cân bằng dài hạn sẽ trở lại Y0
giá tiếp tục tăng lên mức giá P2 (Hình 7.6.d).
Như vậy, chính sách tiền tệ sẽ tác động đến giá và sản lượng trong
ngắn hạn, còn trong dài hạn chính sách tiền tệ chỉ tác động đến giá cả của
nền kinh tế.
7.2.3.2. Chính sách tiền tệ với mục tiêu ổn định nền kinh tế
Ổn định nền kinh tế gắn với các chính sách ổn định kinh tế, là một
hệ thống các quy định chính sách giúp nền kinh tế có khả năng giảm thiểu
tính dễ tổn thương trước các cú sốc bên ngoài, tạo điều kiện thúc đẩy đầu
tư, gia tăng triển vọng tăng trưởng bền vững và có thể dự báo được. Chính
phủ sử dụng các chính sách ổn định kinh tế để tác động đến nền kinh tế
nhằm giảm bớt những biến động của các biến số được biểu hiện và theo
dõi theo thời gian như lạm phát, thâm hụt ngân sách, biến động tỷ giá,
biến động của lãi suất và dự trữ ngoại hối… trước những thăng trầm của
chu kỳ kinh doanh.
Về mặt lý thuyết, chính sách ổn định kinh tế là chính sách của chính
phủ thực hiện nhằm giữ cho sản lượng và việc làm ở mức tự nhiên. Vì
cung ứng tiền tệ có tác động mạnh đến tổng cầu, nên chính sách tiền tệ là
một thành tố quan trọng của chính sách ổn định kinh tế.
Trường hợp nền kinh tế có mức Y<Y*:
Nền kinh tế rơi vào suy thoái, muốn thoát khỏi suy thoái Ngân hàng
Trung ương thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng (MS tăng). Thực hiện
chính sách này Ngân hàng Trung ương có thể thông qua các công cụ như
mua Trái phiều chính phủ trên thị trường mở (OMO), giảm tỷ lệ dự trữ
bắt buộc (rb), giảm lãi suất chiết khấu (iCK). Khi MS tăng sẽ làm cho lãi
suất giảm, đến lượt nó sẽ lại kích thích tiêu dùng, đầu tư, xuất khẩu ròng.
Tổng mức chi tiêu trong nền kinh tế tăng, tổng cầu tăng làm tăng sản
lượng và công ăn việc làm trong nền kinh tế.
Trường hợp nền kinh tế có mức Y>Y*:
Nền kinh tế lúc này bị áp lực của lạm phát cao, muốn chống lạm
phát, Ngân hàng Trung ương thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt (MS
giảm). Thực hiện chính sách này Ngân hàng Trung ương có thể thông qua
các công cụ như bán trái phiếu chính phủ trên thị trường mở (OMO), tăng
tỷ lệ dự trữ bắt buộc (rb), tăng lãi suất chiết khấu (iCK). Khi MS giảm, trên
thị trường tiền tệ lãi suất tăng. Sự gia tăng lãi suất bóp nghẹt đầu tư và
giảm các nhân tố có nhạy cảm với lãi suất, cuối cùng tác động làm giảm
tổng cầu, giảm sản lượng và giảm áp lực của lạm phát.
7.2.4. Hiệu quả của chính sách tiền tệ
Có ba nhân tố cơ bản quyết định sản lượng thay đổi bao nhiêu khi
cung tiền tăng một lượng nhất định: Một là, hệ số co giãn của cầu tiền với
lãi suất; Hai là, sự nhạy cảm của đầu tư với lãi suất; Ba là, giá trị của số
nhân chi tiêu.
(1). Hệ số co giãn của cầu tiền với lãi suất
Tăng cung ứng tiền tệ sẽ ít hiệu quả trong việc tăng sản lượng khi
cầu tiền co giãn mạnh với lãi suất (đường cầu tiền tương đối thoải). Vì khi
cầu tiền co giãn mạnh với lãi suất, tăng cung tiền có ảnh hưởng nhỏ đến
lãi suất, lãi suất giảm không đáng kể (Hình 7.7a). Trong điều kiện các yếu
tố khác giữ nguyên không đổi, lãi suất giảm không đáng kể dẫn đến sẽ chỉ
có sự gia tăng nhỏ của đầu tư, tiêu dùng, xuất khẩu ròng, AD tăng ít và
sản lượng chỉ tăng một lượng nhỏ.
Trong trường hợp cầu tiền ít co giãn với lãi suất thì lãi suất sẽ giảm
nhiều hơn với cùng một lượng tăng lên của cung tiền (Hình 7.7.b).
i1
i1

Hình 7.7. a. Cầu tiền co giãn với Hình 7.7. b. Cầu tiền ít co giãn
lãi suất với lãi suất
Hình 7.7. Co giãn của cầu tiền với lãi suất
(2). Sự nhạy cảm của đầu tư với lãi suất
Lãi suất thay đổi sẽ có tác động đối với tiêu dùng, đầu tư và xuất
khẩu ròng như phân tích phần trên. Tuy nhiên, để đơn giản hóa khi phân
tích hiệu quả chính sách tiền tệ và những phân tích tiếp sau chúng ta chỉ
đề cập đến sự nhạy cảm của đầu tư với lãi suất và bỏ qua tác động của lãi
suất đến các thành tố còn lại của tổng cầu.
Tăng cung tiền sẽ ít hiệu quả trong việc tăng sản lượng khi đầu tư
rất ít nhạy cảm với lãi suất (đường đầu tư rất dốc). Trong trường hợp này
việc giảm lãi suất gây ra do tăng cung tiền chỉ có ảnh hưởng nhỏ đến đầu
tư (Hình 7.8.a), do đó sản lượng cũng chỉ thay đổi một lượng nhỏ.
Trong trường hợp đầu tư nhạy cảm với lãi suất (đường đầu tư tương
đối thoải), trong trường hợp này việc giảm lãi suất gây ra do tăng cung
tiền sẽ có ảnh hưởng lớn hơn đến đầu tư (Hình 7.8.b), do đó sản lượng
cũng tăng một lượng lớn hơn.
Hình 7.8.a. Đầu tư ít nhạy cảm với Hình 10.8.b. Đầu tư
lãi suất nhạy cảm với lãi suất
Hình 7.8. Sự nhạy cảm của đầu tư với lãi suất
(3). Giá trị của số nhân chi tiêu
Việc tăng đầu tư (I), chi tiêu cho tiêu dùng (C), xuất khẩu ròng (NX)
có ảnh hưởng nhỏ đến sản lượng khi số nhân chi tiêu nhỏ. Với một sự tăng
lên nhất định của đầu tư, chi tiêu tiêu dùng, xuất khẩu ròng, tổng chi tiêu
sẽ tăng lên (∆AE), sản lượng cân bằng sẽ tăng lên (∆Y = m x ∆AE). Trong
trường hợp số nhân chi tiêu (m) càng nhỏ thì sản lượng tăng lên càng ít.
Trong mô hình thu nhập - chi tiêu của Keynes, xét mô hình nền kinh
tế mở, thuế ròng T phụ thuộc thu nhập (T=t.Y), ta có số nhân chi tiêu:
1
m
1  MPC (1  t )  MPM
Số nhân chi tiêu nhỏ khi xu hướng tiêu dùng cận biên MPC nhỏ (xu
hướng tiết kiệm cận biên MPS lớn), thuế suất (t) lớn, hoặc xu hướng nhập
khẩu cận biên MPM lớn. Ngược lại, khi số nhân chi tiêu càng lớn thì mức
sản lượng tăng lên càng lớn.
7.2.5. Chính sách tiền tệ khi nền kinh tế suy thoái
Nhiều nhà kinh tế trong đó có Keynes lập luận rằng khi nền kinh tế
lâm vào suy thoái, chính sách tiền tệ tương đối ít hiệu quả. Họ cho rằng
khi đó đường cầu tiền tương đối thoải (ít nhất là tại những mức lãi suất
thấp). Đồng thời, khi nền kinh tế đối mặt với suy thoái, mức giá có thể
giảm xuống. Đối với các nhà đầu tư họ sẽ quan tâm đến lãi suất thực tế
(lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát). Vì vậy, lãi suất danh
nghĩa giảm, nhưng tỷ lệ lạm phát giảm nhiều hơn thì lãi suất thực vẫn
tăng.
Bên cạnh đó, khi các nhà đầu tư bi quan về triển vọng kinh tế trong
tương lai, lãi suất cần giảm mạnh để khuyến khích các nhà đầu tư. Nhưng
trong thời kỳ suy thoái, một lượng lớn công suất không được sử dụng, lợi
ích cận biên của đầu tư bổ sung gần bằng 0. Đầu tư mới vào máy móc
thiết bị khi đó chỉ làm tăng công suất dư thừa mà không làm tăng lợi
nhuận. Hơn nữa, khi đối mặt với suy thoái sẽ làm cạn kiệt dự trữ tiền mặt
của doanh nghiệp và làm tăng tình trạng nợ nần. Đối mặt với tình trạng
khó khăn, nguy cơ phá sản các doanh nghiệp sẽ phải rất cân nhắc trong
việc có đầu tư vào các dự án mới hay không, ngay cả khi thuyết phục được
ngân hàng cho vay tiền. Do vậy, khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, không
chỉ đường đầu tư dịch chuyển xuống phía dưới mà còn trở nên ít co giãn
hơn, cho nên lãi suất thấp cũng chỉ tác động nhỏ đến việc tạo ra đầu tư bổ
sung.
Việc tăng cung tiền trong bối cảnh kinh tế suy thoái chỉ có ảnh
hưởng nhỏ đến lãi suất, và lãi suất giảm chỉ có ảnh hưởng nhỏ đến đầu tư,
nên chỉ ảnh hưởng nhỏ đến sản lượng. Có thể thấy, trong bối cảnh suy
thoái trầm trọng, chính sách tiền tệ có thể ít hiệu quả.
7.3. Sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa
7.3.1. Cơ chế thoái lui đầu tư và chính sách thích ứng
Về mặt lý thuyết, khi phối hợp chính sách tài khóa và chính sách
tiền tệ có thể xây dựng thành các cặp chính sách có cùng mục tiêu. Trong
trường hợp AD ở mức thấp, chính phủ có thể kích thích tổng cầu bằng
chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tiền tệ mở rộng. Trong trường
hợp AD đang ở mức cao, Chính phủ có thể cắt giảm tổng cầu bằng chính
sách tài khóa thắt chặt và chính sách tiền tệ thắt chặt. Trong trường hợp
AD ở mức ổn định, có thể sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt và chính
sách tài khóa mở rộng hoặc ngược lại. Với việc phối hợp hai chính sách
này vẫn có thể giữ cho AD ổn định, nhưng có thể thay đổi cơ cấu các
thành tố tổng cầu, như với việc C, I tăng và G giảm có lợi cho tạo việc
làm và tăng trưởng trong tương lai.
Xét trường hợp giả sử bối cảnh nền kinh tế có nhiều nguồn lực chưa
được sử dụng và thất nghiệp cao. Nếu chính phủ quyết định tăng G, thực
hiện chính sách tài khóa mở rộng (cung tiền không đổi), khi đó một mặt
AE tăng, AD tăng, giá tăng và sản lượng tăng. Mặt khác, nếu chính sách
tiền tệ không đổi, cung tiền không đổi thì việc tăng chi tiêu của chính phủ
sẽ làm tăng cầu tiền đường cầu tiền dịch chuyển sang bên phải (MD 0
→MD1), khi đó để cho cầu tiền bằng cung tiền cố định lãi suất sẽ tăng lên

(i0 →i1) (Hình 7.9), làm giảm chi tiêu cho đầu tư và giảm tổng cầu, gây ra
cơ chế thoái lui đầu tư còn gọi là hiệu ứng lấn át. Quá trình tác động này
có thể minh họa bởi sơ đồ sau:
Sơ đồ 7.3. Chính sách tài khóa mở rộng và hiệu ứng lấn át đầu

Lúc này nếu Ngân hàng Trung ương tăng mức cung ứng tiền tệ vừa
đủ để duy trì lãi suất trở về mức lãi suất ban đầu i0, đường cung tiền dịch
chuyển sang phải (MS0 → MS1), chính sách tiền tệ như vậy được gọi là
chính sách thích ứng, bởi chính sách tiền tệ đã thích ứng với sự thay đổi
của chính sách tài khóa.

Hình 7.9. MS tăng thích ứng với MD tăng


7.3.2. Điểm khác nhau giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
Để phối hợp hiệu quả giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ,
chúng ta cần hiểu những điểm khác nhau cơ bản giữa hai chính sách này.
Điểm khác nhau giữa hai chính sách là: Ảnh hưởng đến cơ cấu sản lượng;
Hiệu quả chính sách; và độ trễ của chính sách.
Ảnh hưởng đến cơ cấu sản lượng
Xét tác động của chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tiền tệ
mở rộng là các chính sách nhằm kích cầu nền kinh tế.
Khi Chính phủ sử dụng chính sách tài khóa mở rộng với mức cung
tiền cố định, lãi suất sẽ tăng vì cầu tiền lúc này tăng lên trong điều kiện
cung tiền không thay đổi. Trong khi đó, nếu chính phủ sử dụng chính sách
tiền tệ mở rộng sẽ làm giảm lãi suất và kích thích đầu tư, mức thu nhập
trong tương lai sẽ cao hơn, chính phủ thực hiện được cả hai mục tiêu là
công ăn việc làm và tăng trưởng kinh tế. Như vậy, với chính sách tài khóa
mở rộng và tiền tệ mở rộng đều có thể sử dụng để kích cầu nền kinh tế,
đưa nền kinh tế về mức toàn dụng nguồn lực nhưng chúng có ảnh hưởng
khác nhau đến cơ cấu sản lượng trong tương lai.
Cũng phải thấy rằng, sự khác biệt này sẽ ít hơn nếu chính phủ tăng
chi tiêu cho đầu tư vào tư bản hiện vật như đường, trường, trạm xá, bệnh
viện… đầu tư vào con người và đầu tư vào khoa học công nghệ, chúng sẽ
có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Hiệu quả của chính sách
- Hiệu quả của chính sách tiền tệ
Trong phần trên đã chỉ ra ba nhân tố cơ bản quyết định hiệu quả của
chính sách tiền tệ là: Hệ số co giãn của cầu tiền với lãi suất; Sự nhạy cảm
của đầu tư với lãi suất; Giá trị của số nhân chi tiêu. Hiệu quả của chính
sách tiền tệ thể hiện ở độ mở mức sản lượng thực tế khi có một sự thay
đổi nhất định trong cung tiền. Trong điều kiện tất cả các yếu tố khác không
đổi, hiệu quả của chính sách tiền tệ càng cao khi cầu tiền càng ít co giãn
với lãi suất, cầu về đầu tư càng nhạy cảm với lãi suất, số nhân chi tiêu
càng lớn.
- Hiệu quả của chính sách tài khóa
Trong trường hợp chính phủ sử dụng chính sách tài khóa mở rộng,
việc cắt giảm thuế có khi không tác dụng kích thích tiêu dùng đáng kể vì
công chúng lo lắng cho tương lai và có xu hướng tiết kiệm phần thu nhập
bổ sung.
Bên cạnh đó, thâm hụt ngân sách cũng là một vấn đề khiến các nhà
kinh tế lo ngại, bởi chính phủ phải dựa vào thị trường vốn nhằm tài trợ
thâm hụt ngân sách gây ra hiệu ứng lấn át đầu tư tư nhân.
Ngoài ra, chính sách tài khóa mở rộng làm tăng lãi suất, đồng nội tệ
tăng giá, làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong nước, giá trị
kim ngạch xuất khẩu giảm và giá trị kim ngạch nhập khẩu tăng, tổng cầu
bị suy giảm.
Độ trễ của chính sách
Độ trễ của chính sách chia làm hai loại: Độ trễ bên trong và độ trễ
bên ngoài. Độ trễ bên trong là khoảng thời gian thu thập thông tin, xử lý
thông tin và ra quyết định. Độ trễ bên ngoài là khoảng thời gian phổ biến,
thực hiện và để chính sách phát huy tác dụng.
- Độ trễ của chính sách tài khóa
Với chính sách tài khóa cả hai độ trễ tương đối dài, phụ thuộc vào
yếu tố chính trị và cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước. Tại hầu hết các quốc
gia, sự thay đổi trong chi tiêu và thuế khóa của chính sách tài khóa phải
được Quốc hội thông qua, sau đó mới được các cơ quan lập pháp triển
khai tiến hành, nên thường mất nhiều tháng, thậm chí hàng năm để thông
qua chính sách.
- Độ trễ của chính sách tiền tệ
Trong trường hợp chính sách tiền tệ mở rộng làm giảm lãi suất nhằm
kích thích đầu tư vào máy móc trang thiết bị và xây dựng. Tuy nhiên, cần
phải có thời gian để thay đổi kế hoạch đầu tư vì thường các doanh nghiệp
sẽ lập kế hoạch đầu tư từ trước khi có sự thay đổi này.
Độ trễ của của chính sách làm giảm hiệu quả của chính sách tài khóa
và chính sách tiền tệ trong ổn định nền kinh tế. Trong việc sử dụng chính
sách tài khóa và chính sách tiền tệ nhằm ổn định nền kinh tế, các nhà
hoạch định cũng cần phải cân nhắc về vấn đề này, và tìm ra các cách khắc
phục sự chậm trễ này để chính sách có thể phát huy hiệu quả.
TÓM TẮT CHƯƠNG
Cung tiền hay mức cung ứng tiền tệ bao gồm tiền mặt ngoài hệ thống
ngân hàng và tiền gửi (tiền gửi không kỳ hạn, tài khoản séc, tiền gửi có
kỳ hạn bao gồm cả đồng nội tệ và ngoại tệ).
Những thay đổi tiền cơ sở (B) và các nhân tố xác định hệ số nhân
tiền (mM) sẽ làm cho cung ứng tiền tệ thay đổi. Đường cung tiền là đường
thẳng đứng trên cơ sở cho rằng Ngân hàng Trung ương sử dụng các công
cụ của nó đã cung ứng cho thị trường một lượng tiền cung ứng theo dự
kiến.
Cầu tiền là nhu cầu về các khoản tiền thực tế, phụ thuộc vào hai nhân
tố: thu nhập thực tế (Y) và lãi suất danh nghĩa (i). Đường cầu về tiền là
đường dốc xuống về phía bên phải, đầu tư biến động ngược chiều với lãi
suất thực tế.
Tác động qua lại giữa cung và cầu tiền xác định mức lãi suất cân
bằng gọi là lãi suất thị trường. Tại mức lãi suất cân bằng: MS = MD. Sự
thay đổi của đường cung, đường cầu tiền hay cả hai sẽ làm thay đổi trạng
thái cân bằng trên thị trường tiền tệ.
Thị trường tiền tệ cân bằng, tức MD = MS thì SB = DB tức thị trường
trái phiếu cũng cân bằng.
Chính sách tiền tệ là do Ngân hàng Trung ương khởi thảo và thực
thi nhằm tác động, kiểm soát mức cung ứng tiền tệ, và lãi suất hướng nền
kinh tế vào các mục tiêu kinh tế - xã hội đề ra. Sự lựa chọn các mục tiêu
trong điều hành CSTT của Ngân hàng Trung ương các nước luôn có chiều
hướng thay đổi phù hợp với trình độ phát triển của thị trường tài chính và
năng lực quản lý của Ngân hàng Trung ương.
Khi mức cung ứng tiền tệ tăng lên, lãi suất cân bằng trên thị trường
tiền tệ sẽ giảm xuống dẫn đến mở rộng khả năng tiêu dùng, khuyến khích
đầu tư và xuất khẩu ròng tăng, tổng cầu (AD) tăng.
Cơ chế tác động của chính sách tiền tệ có thể tóm tắt như sau:
MS↑ → i↓ →(C, I, NX)↑ → AE↑;AD↑ →Y↑và P↑u↓
MS↓ → i↑ →(C, I, NX)↓ → AE↓;AD↓ →Y↓và P↓u↑
Nền kinh tế rơi vào suy thoái, muốn thoát khỏi suy thoái Ngân hàng
Trung ương thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng (MS tăng). Nền kinh tế
lúc này bị áp lực của lạm phát cao, muốn chống lạm phát, Ngân hàng
Trung ương thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt (MS giảm).
Có ba nhân tố cơ bản quyết định sản lượng thay đổi bao nhiêu khi
cung tiền tăng một lượng nhất định: Một là, hệ số co giãn của cầu tiền với
lãi suất; Hai là, sự nhạy cảm của đầu tư với lãi suất; Ba là, giá trị của số
nhân chi tiêu. Trong bối cảnh suy thoái trầm trọng, chính sách tiền tệ có
thể ít hiệu quả.
Thực hiện chính sách tài khóa mở rộng trong điều kiện cung tiền
không đổi gây ra hiệu ứng lấn át đầu tư khu vực tư nhân, Ngân hàng Trung
ương có thể thực hiện chính sách thích ứng bằng việc tăng cung ứng tiền
để giữ cho lãi suất không đổi.
Sự khác nhau cơ bản của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ là
ảnh hưởng của hai chính sách này đến cơ cấu sản lượng, hiệu quả chính
sách và độ trễ của chính sách.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Hãy trình bày các nhân tố quyết định cung tiền và các công cụ mà
NHTW có thể sử dụng để điều tiết cung tiền.
2. Tại sao công chúng cần nắm giữ tiền. Các nhân tố quyết định cầu tiền?
Tại sao lãi suất danh nghĩa chứ không phải là lãi suất thực tế là thước đo
chi phí cơ hội của việc giữ tiền.
3. Theo lý thuyết ưa thích thanh khoản, hãy giải thích những hoạt động
sau đây có ảnh hưởng như thế nào đến cung tiền, cầu tiền và lãi suất.
Hãy minh họa câu trả lời của bạn bằng đồ thị MS - MD:
a. Ngân hàng trung ương mua trái phiếu chính phủ trên thị trường mở
b. Các hộ gia đình quyết định nắm giữ tiền mặt nhiều hơn để chi tiêu
trong dịp tết.
c. Một làn sóng lạc quan khuyến khích đầu tư và mở rộng tổng cầu.
d. Ngân hàng trung ương giảm lãi suất chiết khấu khi cho các ngân
hàng thương mại vay tiền.
4. Phân tích tác động của việc tăng cung tiền đến lãi suất, đầu tư, tổng cầu
và sản lượng?
5. Phân tích tác động của việc giảm cung tiền đến lãi suất, đầu tư, tổng
cầu và sản lượng?
6. Tại sao tăng cung tiền có thể không hiệu quả trong việc kích thích tổng
cầu khi nền kinh tế đang rơi vào một cuộc suy thoái trầm trọng?
7. Hãy trình bày cơ chế thoái lui đầu tư, và chính sách thích ứng của
NHTW?
8. Hãy chỉ ra những điểm khác biệt cơ bản giữa chính sách tài khóa và
chính sách tiền tệ.

You might also like