Professional Documents
Culture Documents
Hình 6.1. Sự dịch chuyển của đường tổng cầu khi nền kinh tế còn
nhiều nguồn lực chưa được sử dụng
6.1.2. Đường tổng chi tiêu và ảnh hưởng đến tổng cầu
6.1.2.1. Đường tổng chi tiêu
Đường tổng chi tiêu là công cụ xác định mức sản lượng và tổng cầu tại
trạng thái cân bằng khi nền kinh tế còn dồi dào nguồn lực chưa được sử dụng,
biểu diễn mối quan hệ giữa tổng chi tiêu và thu nhập quốc dân.
Tổng chi tiêu được đề cập ở đây là một thuật ngữ chỉ tổng chi tiêu dự
kiến của nền kinh tế, bao gồm chi tiêu dự kiến cho tiêu dùng, đầu tư, hàng hóa
dịch vụ công và xuất khẩu ròng. Thu nhập quốc dân là thu nhập thực tế (GDP
thực).
Đặc điểm của đường tổng chi tiêu
- Đường tổng chi tiêu dốc lên, cho thấy khi thu nhập quốc dân tăng
thì tổng chi tiêu cũng tăng và ngược lại.
- Độ dốc của đường tổng chi tiêu nhỏ hơn 1. Nếu chúng ta vẽ 1 đường
450 đi qua gốc tọa độ thì đường tổng chi tiêu sẽ thoải hơn đường 450. Nguyên
nhân là vì người tiêu dùng tiết kiệm một phần thu nhập tăng thêm.
- Đường tổng chi tiêu cắt trục tung tại một giá trị dương, hàm ý khi
thu nhập quốc dân bằng không thì tổng chi tiêu của nền kinh tế vẫn mang
giá trị dương và khoản chi tiêu này được gọi là chi tiêu tự đinh.
Hình 6.3. Đường tổng chi tiêu của nền kinh tế và sản lượng cân bằng
Trên hình 6.3, trạng thái cân bằng đạt được là trạng thái E0 ứng với
mức thu nhập Y0. Tại mức thu nhập này, tổng chi tiêu dự kiến bằng tổng
sản lượng của nền kinh tế. Nhu cầu mua sắm của các tác nhân kinh tế bằng
với tổng sản lượng của nền kinh tế. Vấn đề đặt ra là, tại các mức thu nhập
khác với Y0 thì điều gì xảy ra? Trước hết, hãy xét tại mức thu nhập Y 1<
Y0, khi đó đường tổng chi tiêu nằm trên đường 45 0 nên tổng chi tiêu dự
kiến lớn hơn mức sản lượng của nền kinh tế. Trong trường hợp này, các
hộ gia đình, doanh nghiêp, chính phủ và người nước ngoài có mức chi tiêu
dự kiến cao hơn mức mà nền kinh tế đang sản xuất. Các doanh nghiệp
phải huy động hàng dự trữ trong kế hoạch ra bán. (Hàng dự trữ trong kế
hoạch là những hàng hóa mà các doanh nghiệp chủ động dự trữ để đảm
bảo cho việc kinh doanh có hiệu quả). Chính vì vậy dẫn đến sự sụt giảm
hàng tồn kho trong kế hoạch và các doanh nghiệp phải mở rộng sản xuất
để bù đắp sự sụt giảm của hàng tồn kho trong kế hoạch. Quá trình mở
rộng sản xuất sẽ tiếp tục cho đến khi không còn chênh lệch giữa tổng chi
tiêu dự kiến và mức sản lượng của nền kinh tế, tức là tại mức sản lượng
cân bằng Y0. Như vậy, tại các mức sản lượng nhỏ hơn Y0, các doanh
nghiệp luôn có xu hướng mở rộng sản xuất để bù đắp sự sụt giảm về hàng
tồn kho và đưa mức sản lượng tiến gần đến Y0 và cuối cùng khôi phục lại
mức sản lượng cân bằng Y0. Trong trường hợp mức sản lượng Y2 > Y0,
đường tổng chi tiêu nằm dưới đường 450, lượng hàng hóa nền kinh tế sản
xuất vượt quá sức mua của các tác nhân kinh tế, và lượng hàng hóa không
bán được sẽ được giữ lại trong kho dưới dạng hàng tồn kho ngoài kế
hoạch. (Hàng dự trữ ngoài kế hoạch là những hàng hóa doanh nghiệp sản
xuất ra nhưng không bán được). Việc hàng dự trữ ngoài kế hoạch tích tụ
lại sẽ phát sinh những tổn thất và chi phí lưu giữ, do vậy các doanh nghiệp
phản ứng bằng cách cắt giảm mức sản xuất cho đến khi mức sản lượng
trở lại Y0.
Như vậy, mức sản lượng cân bằng Y0 là mức sản lượng mà nền kinh
tế luôn hướng tới. Tại bất cứ mức sản lượng nào khác với Y0 thì chênh
lệch về hàng tồn kho luôn khiến các doanh nghiệp thay đổi mức sản lượng
theo hướng tiến gần đến và bằng Y0.
Công thức tính sản lượng cân bằng
Đường tổng chi tiêu (giả sử có dạng tuyến tinh) được viết như sau:
AE = A + αY (1)
Trong đó:
A: Phần chi tiêu tự định (Phần chi tiêu không phụ thuộc thu nhập
quốc dân)
α: Độ dốc của đường tổng chi tiêu, do độ dốc của đường tổng chi tiêu
thoải hơn đường thu nhập nên 0 < α < 1.
Tại trạng thái cân bằng, tổng chi tiêu phải bằng tổng thu nhập nên:
AE =Y (2)
Từ (1) và (2) ta có:
Y = A + αY
Mức sản lượng cân bằng:
A
Y=
1
6.1.2.3. Dịch chuyển của đường tổng chi tiêu và sự thay đổi mức sản
lượng cân bằng
Sự dịch chuyển của đường tổng chi tiêu
Đường tổng chi tiêu sẽ dịch chuyển khi có những thay đổi trong nền
kinh tế làm cho các hộ gia đình, doanh nghiệp, chính phủ và người nước
ngoài quyết định chi tiêu nhiều hơn hay ít hơn tại mỗi mức thu nhập.
Sự thay đổi mức sản lượng cân bằng
Giả sử tổng chi tiêu tăng lên là Z tại mỗi mức thu nhập quốc dân.
Điều này dẫn đến sự dịch chuyển lên trên của đường tổng chi tiêu, từ AE0
đến AE1 (hình 6.4). Trạng thái cân bằng thay đổi từ E0 đến E1, mức sản
lượng cân bằng được mở rộng từ Y0 đến Y1. Sự gia tăng mức sản lượng
cân bằng lớn hơn so với sự gia tăng của tổng chi tiêu Z (do đường tổng
chi tiêu thoải hơn đường 450).
Như vậy, gia tăng trong tổng chi tiêu dẫn đến một sự gia tăng lớn
hơn trong thu nhập. Để mô tả hiện tượng này, Keynes đã dùng thuật ngữ
số nhân chi tiêu.
Số nhân chi tiêu cho biết sự thay đổi của sản lượng cân bằng gây ra
do sự thay đổi của một đơn vị trong tổng chi tiêu.
Y Y1 Y0
m=
Z Z
Mô hình cho thấy, số nhân chi tiêu là độ gia tăng trong mức sản
lượng cân bằng tạo ra khi Z = 1. Trên đồ thị, khi đường tổng chi tiêu dịch
chuyển lên trên 1 đơn vị (tức là khi tổng chi tiêu tăng lên là 1 tại mỗi mức
thu nhập quốc dân), chi tiêu tự định tăng từ A đến A + 1, mức sản lượng
cân bằng thay đổi một lượng là:
A1 A 1
Y1 Y0
1 1 1
Theo định nghĩa về số nhân chi tiêu thì sự thay đổi của mức sản
lượng cân bằng trên là số nhân chi tiêu (m), do đó:
1
m=
1
Và trong trường hợp tổng quát, số nhân chi tiêu sẽ được tính như
sau:
Y
m=
A
Trong đó:
∆Y: Sự thay đổi của mức sản lượng cân bằng khi đường tổng chi
tiêu dịch chuyển;
∆A: Sự thay đổi của tổng chi tiêu tại mỗi mức thu nhập quốc dân.
Vì độ dốc của đường tổng chi tiêu 0 < α < 1 nên m > 1. Độ dốc của
đường tổng chi tiêu càng lớn thì số nhân chi tiêu càng lớn.
Hình 6.4. Thay đổi trạng thái cân bằng khi dịch chuyển đường tổng
chi tiêu
6.1.2.4. Cách tiếp cận thu nhâp – chi tiêu và phân tích tổng cầu – tổng
cung.
a. Đường tổng cầu
Mức sản lượng cân bằng đạt được trên mô hình thu nhập – chi tiêu
ứng với một mức giá nhất định. Vậy mức sản lượng cân bằng này sẽ thay
đổi như thế nào trong trường hợp mức giá có sự thay đổi?
Với mức giá P0, ứng với mức giá này đường tổng chi tiêu của nền
kinh tế là AE(P0), trạng thái cân bằng trên mô hình thu nhập – chi tiêu là
E0, mức sản lượng cân bằng là Y0. Giả sử mức giá tăng lên là P1, do tổng
chi tiêu của nền kinh tế là tổng chi tiêu dự kiến về tiêu dùng, đầu tư, chi
tiêu chính phủ và xuất khẩu ròng nên với tác động của các hiệu ứng của
cải, hiệu ứng lãi suất và hiệu ứng tỉ giá hối đoái, đường tổng chi tiêu AE0
sẽ dịch chuyển xuống AE1 (hình 6.5). Trạng thái cân bằng chuyển tới E1
và mức sản lượng cân bằng giảm xuống Y1.
Hình 6.5. Xây dựng đường tổng cầu từ mô hình thu nhập – chi tiêu
Như vậy, ứng với mức giá P0, sản lượng cân bằng đạt được trên mô
hình thu nhâp – chi tiêu là Y0, tương tự ứng với mức giá P1, sản lượng cân
bằng đạt được trên mô hình thu nhâp – chi tiêu là Y1. Từ đó những điểm
thể hiện mối quan hệ giữa giá và sản lượng cân bằng ứng với từng mức
giá có tính chất giống như (P0, Y0) và (P1, Y1) sẽ nằm trên đường tổng cầu
AD của nền kinh tế (hình 6.5).
b. Các cú sốc làm dịch chuyển đường tổng chi tiêu tác động đến tổng
cầu
Hình 6.6. Tác động của tăng chi tiêu chính phủ đến sản lượng và
mức giá
Ứng với một mức giá nhất định, bất kỳ một nhân tố nào tác động
làm dịch chuyển đường tổng chi tiêu cũng dẫn đến sự thay đổi của sản
lượng cân bằng và qua đó làm dịch chuyển đường tổng cầu. Ví dụ, chi
tiêu chính phủ tăng, làm tăng tổng chi tiêu tại mỗi mức thu nhập quốc dân
và do đó đẩy đường tổng chi tiêu AE0 dịch chuyển lên AE1. Mức sản
lượng cân bằng mở rộng từ Y0 đến Y1. Trên mô hình tổng cầu – tổng cung,
tại mức giá không đổi P0, mức sản lượng cân bằng trên mô hình thu nhập chi
tiêu đã mở rộng đến Y1.
Với lập luận trên, tại tất cả các mức giá ban đầu của nền kinh tế, hiện
tượng tác động đến tổng cầu lập lại tương tự. Có thể kết luận rằng, đường
tổng cầu AD0 đã dịch chuyển sang phải đến AD1 (hình 6.6).
c. Những hạn chế của cách tiếp cận thu nhập – chi tiêu
Tổng cầu có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc quyết định sản
lượng khi nền kinh tế còn nhiều nguồn lực chưa được sử dụng. Tuy nhiên,
khi nền kinh tế đã sử dụng hầu hết nguồn lực hiện có, tổng cung cần được
đưa vào mô hình để phân tích. Hình 6.6. minh họa cho tác động của việc
tăng chi tiêu chính phủ khi tính đến sự ràng buộc từ phía cung được biểu
thị bởi một đường tổng cung có độ dốc dương (đường tổng cung AS 0).
Với mức giá không thay đổi P0, việc tăng chi tiêu chính phủ một lượng là
G sẽ làm tăng sản lượng từ Y0 lên mức Y1. Trong trường hợp đường
tổng cung có độ dốc dương, sản lượng thực tế chỉ tăng lên mức Y1’ vì mức
giá không còn cố định ở mức P0 mà thực ra đã tăng lên P1 và hấp thụ một
phần sự gia tăng của tổng cầu.
6.1.3. Mô hình xác định sản lượng cân bằng
6.1.3.1. Mô hình xác định sản lượng cân bằng trong nền kinh tế giản
đơn
Nền kinh tế giản đơn chỉ bao gồm hai thành viên là hộ gia đình và
doanh nghiệp. Do đó, phương trình đường tổng chi tiêu trong nền kinh tế
giản đơn được biểu diễn như sau:
AE = C + I
Trong đó:
C: Tiêu dùng của các hộ gia đình
I: Đầu tư
Tiếp theo sẽ xem xét từng thành tố trong tổng chi tiêu của nền kinh tế giản
đơn
Tiêu dùng của các hộ gia đình
Hàm tiêu dùng
Trên cơ sở nghiên cứu tiêu dùng với vai trò là một thành tố quan
trọng trong tổng chi tiêu, ở đây chúng ta xét đến hàm tiêu dùng, tức là
hàm thể hiện mối quan hệ giữa tiêu dùng và thu nhập khả dụng của các
hộ gia đình.
Thu nhập khả dụng là tổng thu nhập các hộ gia đình nhận được từ
việc cung ứng các yếu tố đầu vào cho doanh nghiệp cộng với trợ cấp từ
chính phủ và trừ đi phần thuế phải nộp. Hộ gia đình sử dụng phần thu
nhập khả dụng để tiêu dùng và tiết kiệm. Thu nhập khả dụng ký hiệu là
Yd. Trong mô hình kinh tế giản đơn, không có vai trò của chính phủ nên
thu nhập khả dụng bằng thu nhập quốc dân (Yd = Y).
Khi thu nhập khả dụng tăng lên, chi tiêu của các hộ gia đình cho
lương thực thực phẩm, quần áo, nhà cửa, y tế, và một số hàng hóa dịch vụ
khác cũng tăng lên. Do vậy, khi thu nhập khả dụng tăng lên thì tiêu dùng
của các hộ gia đình cũng tăng lên.
Để biểu diễn hàm tiêu dùng, chúng ta hãy xem xét đến các yếu tố
cấu thành nên hàm tiêu dùng: xu hướng tiêu dùng cận biên và tiêu dùng
tự định
Xu hướng tiêu dùng cận biên. Lượng tiêu dùng tăng thêm khi thu
nhập khả dụng tăng thêm một đơn vị được gọi là xu hướng tiêu dùng cận
biên (MPC).
C
MPC
Yd
Tiêu dùng tự định. Tiêu dùng tự định là phần tiêu dùng không phụ
thuộc vào thu nhập ( C ). Đây là khoản tiêu dùng phải chi tiêu kể cả khi
không có thu nhập.
Hàm tiêu dùng có dạng như sau:
C C MPCxYd
Trong đó:
C là tiêu dùng
C là tiêu dùng tự định
Đường biểu diễn hàm tiết kiệm gọi là đường tiết kiệm. Hình 6.7 biểu
diễn hàm tiết kiệm của nền kinh tế với:
- C là mức tiết kiệm của nền kinh tế tại mức thu nhập bằng không.
MPS là xu hướng tiết kiệm cận biên và là độ dốc của đường tiết
kiệm.
Tại mức thu nhập khả dụng Y0, thu nhập khả dụng vừa đủ trang trải
chi tiêu cho tiêu dùng (Yd = C), do đó tiết kiệm S=0, A được gọi là điểm
vừa đủ. Điểm vừa đủ là điểm mà tại đó, thu nhập khả dụng vừa đủ trang
trải cho tiêu dùng và tiết kiệm bằng không.
Đầu tư
Đầu tư là thành tố quan trọng thứ hai của tổng chi tiêu. Thuật ngữ
đầu tư trong nền kinh tế giản đơn chỉ tổng đầu tư tư nhân (bao gồm cả đầu
tư thay thế và đầu tư tăng thêm). So với tiêu dùng, đầu tư chiếm tỉ trọng
khiêm tốn hơn. Đầu tư biến động rất mạnh trong chu kỳ kinh doanh. Đầu
tư chịu tác động của một số nhân tố như lãi suất thực tế, thu nhập hiện tại
của nền kinh tế và dự tính của doanh nghiệp về triển vọng tương lai…
Xem xét hàm cầu về đầu tư có thể thấy được sự phụ thuộc của đầu tư vào
những yếu tố này.
Hàm cầu về đầu tư
Hàm cầu về đầu tư thể hiện mối quan hệ giữa lượng cầu đầu tư theo
kế hoạch và lãi suất thực tế (trong điều kiện các yếu tố khác và thu nhập
của nền kinh tế không đổi).
Lãi suất thực tế
Lãi suất thực tế với tư cách là chi phí cơ hội của việc sử dụng đồng
vốn đầu tư. Chính vì vậy, đầu tư biến động ngược chiều với lãi suất thực
tế (hình 6.8). Đường cầu về đầu tư có dạng dốc xuống.
Hình 6.8. Đường cầu đầu tư
Khi lãi suất thực tế thay đổi, tạo ra sự di chuyển dọc đường cầu đầu
tư. Vậy, đường cầu đầu tư sẽ dịch chuyển khi nào?
Sự dịch chuyển đường cầu đầu tư
Đường cầu đầu tư sẽ dịch chuyển khi có sự thay đổi trong các nhân
tố như thu nhập, tâm lý của nhà đầu tư… Khi thu nhập của nền kinh tế
tăng, đường cầu đầu tư sẽ dịch chuyển sang bên phải và ngược lại, khi thu
nhập của nền kinh tế giảm, đường cầu đầu tư sẽ dịch chuyển sang trái. Khi
các nhà đầu tư lạc quan hơn về triển vọng của nền kinh tế, đường cầu về
đầu tư sẽ dịch chuyển sang phải và ngược lại, khi có làn sóng bi quan về
đầu tư trong nền kinh tế, đường cầu đầu tư sẽ dịch chuyển sang trái (hình
6.9)
Hình 6.9. Sự dịch chuyển đường cầu đầu tư do tâm lý kinh
doanh
Trong chương này chỉ tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa chi
tiêu và thu nhập quốc dân nên giả thiết lãi suất là cho trước và mức đầu tư
không liên quan đến thu nhập hiện tại của nền kinh tế (I = I)̅ .
Sản lượng cân bằng
Phương trình đường tổng chi tiêu AE của nền kinh tế giản đơn như
sau:
AE C I => AE C MPC Yd I => AE (C I ) MPC Yd
Hình 6.10. Mức sản lượng cân bằng trong nền kinh tế giản đơn
Để phân tích sản lượng cân bằng trong nền kinh tế giản đơn, chúng
ta sử dụng số liệu trong bảng 6.1
Bảng 6.1. Các thành tố trong tổng chi tiêu
Đơn vị: Tỷ đồng
Thu nhập khả Tiêu dùng Đầu tư (I) Tổng chi tiêu
dụng (Yd) (C) (AE)
80 84 50 134
120 116 50 166
160 148 50 198
200 180 50 230
240 212 50 262
280 244 50 294
320 276 50 326
360 308 50 358
400 340 50 390
Từ bảng 6.1 có thể xây dựng được phương trình của đường tiêu dùng
và đường tổng chi tiêu như sau:
C C MPC Yd => C= 20+ 0.8Yd
C = 20 + 0.8Y
AE (C I ) MPC Y
AE = 70 + 0.8Y
Tại trạng thái cân bằng: AE =Y. Do đó mức sản lượng cân bằng sẽ
là:
CI
Y hay Y = 70/ (1-0.8) = 350
1 MPC
Số nhân chi tiêu
Như trên chúng ta đã đề cập, số nhân chi tiêu cho biết sự thay đổi
của mức sản lượng cân bằng gây ra bởi sự thay đổi một đơn vị trong tổng
chi tiêu. Vậy trong mô hình kinh tế giản đơn, số nhân chi tiêu bằng bao
nhiêu và cơ chế khuếch đại của sự thay đổi trong chi tiêu tự định đến mức
sản lượng cân bằng như thế nào? Phân tích sau đây dựa vào hình 6.11 với
giả thiết đầu tư của nền kinh tế tăng thêm một lượng là ∆I, lúc đó tổng chi
tiêu của nền kinh tế tăng thêm một lượng là ∆I tại mỗi mức thu nhập quốc
dân, đường tổng chi tiêu dịch chuyển lên trên là ∆I. Mức sản lượng của
nền kinh tế tăng từ Y0 đến Y1.
Hình 6.11. Tác động của sự thay đổi chi tiêu tự định (đầu tư) đến
mức sản lượng cân bằng
Trước tiên, độ lớn của số nhân chi tiêu trong nền kinh tế giản đơn sẽ
được tính bằng độ mở của mức sản lượng cân bằng khi chi tiêu tự định
tăng lên một đơn vị. Do vậy, số nhân chi tiêu (m) sẽ được tính như sau:
Y Y0 1
m 1
I 1 MPC
Trong ví dụ trên, giả sử đầu tư tăng thêm 1 tỷ, số nhân chi tiêu của
nền kinh tế sẽ là: m = 1/(1 – 0.8) = 5
Điều đó có nghĩa là, nếu đầu tư tăng thêm 1 tỷ, mức sản lượng cân
bằng của nền kinh tế sẽ mở rộng là 5 tỷ.
Tiếp theo, sẽ xem xét cơ chế khuếch đại của số nhân chi tiêu
Giả sử nền kinh tế tăng thêm 1 tỷ đồng vốn đầu tư, điều này tác động
đến mức sản lượng làm mức sản lượng tăng thêm 1 tỷ đồng. Phần thu
nhập tăng thêm này sẽ được phân phối cho các thành viên kinh tế. Thu
nhập tăng thêm sẽ dẫn đến sự tăng lên trong tiêu dùng một lượng bằng
MPC. ∆Y, do xu hướng tiêu dùng cận biên bằng 0.8 và ∆Y lúc này là 1 tỷ
nên tiêu dùng của nền kinh tế sẽ tăng thêm 0.8 tỷ. Tiếp đến, mức sản lượng
lại tăng thêm 0.8 tỷ, rồi sau đó lại làm tăng tiêu dùng 0.8 2 tỷ, cứ tiếp tục
như vậy, mức sản lượng lại tăng thêm 0.82 tỷ và từ đó lại tạo hiệu ứng
tăng tiêu dùng…
Tổng hợp sự thay đổi của mức sản lượng qua các hiệu ứng nói trên
từ sự thay đổi đầu tư 1 tỷ đồng, ta có:
∆Y = (1 + 0.8 + 0.82 + 0.83 + …)
1
Y
1 0.8
∆Y = 5
6.1.3.2. Mô hình xác định sản lượng trong nền kinh tế đóng có sự tham
gia của chính phủ
Khi chính phủ tham gia vào nền kinh tế, ảnh hưởng này lên mô hình
thu nhập – chi tiêu thông qua hai nhân tố:
Ảnh hưởng của thuế
Thuế được đề cập ở đây là thuế ròng, tức là chênh lệch giữa thuế TX
và trợ cấp từ chính phủ (Tr). Thuế ròng T = TX – Tr
Thuế bao gồm hai bộ phận, thuế tự định (thuế đánh độc lập với thu
nhập quốc dân T ) và thuế đánh phụ thuộc vào thu nhập quốc dân. Để đơn
giản chúng ta giả thiết thuế đánh tỉ lệ với thu nhập quốc dân với tỉ suất t,
và trợ cấp bằng không nên thuế ròng bằng thuế.
Hàm thuế sẽ được biểu diễn như sau:
T T t Y
Nếu thuế đánh đầy đủ với hai bộ phận trên, đường tổng chi tiêu của
nền kinh tế sẽ vừa dịch chuyển xuống dưới do chi tiêu tự định giảm đi một
lượng bằng thuế tự định, vừa thay đổi độ dốc theo hướng thoải hơn.
Chi tiêu cho hàng hóa dịch vụ của chính phủ (G)
Đây là những khoản chi tiêu cho các dự án đầu tư công hoặc chi trả
lương cho các viên chức chính phủ và các chi phí khác của chính phủ.
Trong mô hình chúng ta đang xét, chi tiêu chính phủ được giả thiết là cố
định. Do vậy, chi tiêu chính phủ (G) tác động đến mô hình thu nhâp – chi
tiêu thông qua tác động đến chi tiêu tự định và làm dịch chuyển đường
tổng chi tiêu lên trên một lượng bằng chi tiêu chính phủ.
Công thức tính mức sản lượng cân bằng trong nền kinh tế đóng có
chính phủ
Phương trình đường tổng chi tiêu trong nền kinh tế đóng có chính
phủ:
AE = C + I + G
Trong đó:
C C MPC Yd => AE C MPC Yd I G
AE C I G MPC (1 t )Y
Tại trạng thái cân bằng:
AE =Y
Y C I G MPC (1 t )Y
Mức sản lượng cân bằng sẽ là:
C I G
Y
1 MPC (1 t )
Số nhân chi tiêu m sẽ bằng:
1
m
1 MPC (1 t )
Hình 6.12. Mức sản lượng cân bằng trong nền kinh tế đóng có
chính phủ
6.1.3.3. Mô hình xác định sản lượng trong nền kinh tế mở
Nền kinh tế mở có sự tham gia của người nước ngoài vào nền kinh
tế chúng ta đang xét. Chính vì vậy, tổng chi tiêu của nền kinh tế sẽ có
thêm một thành tố nữa là xuất khẩu ròng. Xuất khẩu ròng của một nước
là chênh lệch giữa kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu.
Xuất khẩu
Giá trị kim ngạch xuất khẩu (X) phụ thuộc vào quyết định của người
nước ngoài đối với việc mua hàng trong nước. Điều này trước tiên phụ
thuộc vào thu nhập của người nước ngoài, sau đó đến một số nhân tố khác
như thương hiệu của hàng Việt Nam, giá tương đối giữa hàng Việt Nam
so với hàng ngoại, tỉ giá hối đoái… Để đơn giản có thể giả thiết xuất khẩu
là cho trước với một giá trị cố định nào đó.
Nhập khẩu
Giá trị kim ngạch nhập khẩu (IM) phụ thuộc vào thu nhập quốc dân
và một số yếu tố khác như giá tương đối giữa hàng trong nước và hàng
nhập, tỉ giá hối đoái… Trong mô hình này, giả thiết giá trị kim ngạch nhập
khẩu chỉ phụ thuộc vào thu nhập quốc dân với xu hướng nhập khẩu cận
biên MPM, các yếu tố khác được giả thiết là cố định. Hàm nhập khẩu
được biểu diễn như sau:
̅ + MPMxY
IM = 𝐌
Trong đó:
IM: là giá trị kim ngạch nhập khẩu
MPM: là xu hướng nhập khẩu cận biên
Y: là thu nhập quốc dân
̅ : là nhập khẩu tự định, thường giả định M
M ̅ = 0. Khi đó: IM =
MPMxY
Công thức tính mức sản lượng cân bằng trong nền kinh tế mở
Phương trình đường tổng chi tiêu của nền kinh tế mở như sau:
AE = C + I + G + X- IM
AE C MPC (1 t ) Y I G X MPM Y
AE C I G X MPC (1 t ) MPM Y
Hình 6.13. Xác định mức sản lượng cân bằng trong nền kinh tế mở
Bảng 6.2. Tổng chi tiêu trong nền kinh tế mở và các thành phần
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Thu Tiêu Đầu Chi Xuất Nhập Tổng
nhập dùng tư (I) tiêu khẩu khẩu chi tiêu
thực tế (C) chính (X) (IM) (AE)
(Y) phủ (G)
0 12.5 50 60 40 0 162.5
50 45 50 60 40 7.5 187.5
100 77.5 50 60 40 15 212.5
150 110 50 60 40 22.5 237.5
200 142.5 50 60 40 30 262.5
250 175 50 60 40 37.5 287.5
300 207.5 50 60 40 45 312.5
350 240 50 60 40 52.5 337.5
400 272.5 50 60 40 60 362.5
Giả sử thuế chiếm 20% thu nhập quốc dân, từ bảng 6.2 có thể xác
định được các hàm nhập khẩu, hàm tiêu dùng, hàm tổng chi tiêu của nền
kinh tế và mức sản lượng cân bằng.
Hàm nhập khẩu có dạng: IM = MPM.Y
∆IM = MPM. ∆Y
Từ số liệu bảng 6.2, ta có MPM = 0.15
IM = 0.15Y
Hàm tiêu dùng có dạng: C C MPC (1 t )Y
AE C MPC T I G MPC Y
Mức sản lượng cân bắng được tính như sau:
C MPC T I G C I G MPC T
Y
1 MPC 1 MPC 1 MPC
Giả sử chi tiêu chính phủ thay đổi một lượng là ∆G và thuế thay đổi
một lượng là ∆T, mức sản lượng cân bằng sẽ thay đổi một lượng là
1 MPC
Y G T
1 MPC 1 MPC
Trong trường hợp chỉ có chi tiêu chính phủ thay đổi một lượng là
∆G, thuế không thay đổi thì số nhân chi tiêu của chính phủ sẽ là:
1
mG
1 MPC
Trong trường hợp chỉ có thuế thay đổi một lượng là ∆T, chi tiêu
chính phủ không thay đổi thì số nhân thuế sẽ là:
MPC
mT
1 MPC
Trong trường hợp cả chi tiêu chính phủ và thuế đều thay đổi và giữ
nguyên cán cân ngân sách (∆G=∆T) thì số nhân ngân sách cân bằng sẽ là
1.
Như vậy, tăng chi tiêu chính phủ 1 đơn vị sẽ mở rộng mức sản lượng
cân bằng của nền kinh tế là 1/(1-MPC), trong khi nếu thuế cũng tăng 1
đơn vị thì thu nhập khả dụng của các hộ gia đình sẽ giảm đi 1 đơn vị, tiêu
dùng do vậy giảm MPC dẫn đến mức sản lượng cân bằng giảm đi một
lượng là MPC/(1-MPC). Tổng hợp ảnh hưởng của sự thay đổi bởi chi tiêu
chính phủ và thuế sẽ là 1, tức là tăng chi tiêu chính phủ và thuế lên 1 đơn
vị sẽ dẫn đến mức sản lượng cân bằng chỉ tăng 1 đơn vị. Để duy trì cán
cân ngân sách không đổi, ảnh hưởng mở rộng sản lượng của việc tăng chi
tiêu chính phủ bị lấn át bởi việc thu hẹp mức sản lượng do tăng thuế nên
kết quả số nhân ngân sách cân bằng chỉ bằng 1.
Hình 6.16. Chính sách tài khóa trong trường hợp
ràng buộc về ngân sách
6.2.2. Cơ chế tự ổn định
Cơ chế tự ổn định là những thay đổi trong chính sách tài khóa có tác
dụng kích thích tổng cầu khi nền kinh tế lâm vào suy thoái và cắt giảm
tổng cầu khi nền kinh tế phát triển quá nóng mà không cần bất kỳ sự điều
chỉnh nào của các nhà hoạch định chính sách.
Cơ chế tự ổn định quan trọng nhất trong các nền kinh tế hiện đại là
hệ thống thuế. Vì hầu hết các loại thuế đều liên quan chặt chẽ đến các hoạt
động kinh tế nên khi nền kinh tế lâm vào suy thoái, thu nhập của doanh
nghiệp và các hộ gia đình đều giảm nên doanh thu thuế cũng giảm. Sự cắt
giảm thuế tự động như thế đã góp phần giảm bớt sự dao động của mức
sản lượng thực tế xung quanh mức sản lượng tự nhiên.
Một số khoản mục của chi tiêu chính phủ cũng đóng vai trò như
những cơ chế tự ổn định. Đó là những khoản mục như trợ cấp thất nghiệp,
bảo hiểm xã hội và các khoản chuyển giao thu nhập khác có xu hướng
tăng lên khi nền kinh tế lâm vào suy thoái. Điều đó hạn chế sự giảm sút
trong tiêu dùng mặc dù trong bối cảnh thu nhập khả dụng của các hộ gia
đình giảm đi do nền kinh tế lâm vào suy thoái. Như vậy, sự tăng lên một
cách tự động trong các khoản chuyển giao thu nhập của chính phủ đã hạn
chế bớt sự sụt giảm của tổng cầu và thu hẹp biên độ dao động của các chu
kỳ kinh doanh.
6.2.3. Chính sách tài khóa và ngân sách chính phủ
Chính sách tài khóa và cán cân ngân sách
Cán cân ngân sách chính phủ được tính bằng tổng thu nhập củ a chính
phủ nhận được trừ đi tổng chi tiêu cho tất cả các khoản mục của chính phủ
trong kỳ. Nói cách khác, cán cân ngân sách được tính bằng thuế ròng trừ đi chi
tiêu chính phủ mua hàng hóa và dịch vụ.
BB = (Tx - Tr) – G
BB = T - G
Trong đó:
BB là cán cân ngân sách
TX là tổng nguồn thu từ thuế
Tr là chuyển giao thu nhập
G là chi tiêu mua hàng hóa dịch vụ của chính phủ
T là thuế ròng.
Khi thu nhập chính phủ nhận được từ thuế ròng lớn hơn chi tiêu của
chính phủ, cán cân ngân sách thặng dư. Ngược lại, chi tiêu của chính phủ
lớn hơn thu nhập mà chính phủ nhận được từ thuế ròng thì cán cân ngân
sách thâm hụt.
Thông thường, cán cân ngân sách là thước đo tốt để đánh giá chính
sách tài khóa, tuy nhiên cán cân ngân sách không chỉ chịu ảnh hưởng từ
chính sách tài khóa mà còn chịu ảnh hưởng bởi chu kỳ kinh doanh. Ví dụ,
thuế suất là 20%, chi tiêu chính phủ là 60 tỷ USD, chúng ta có thể thấy
được ảnh hưởng của mức sản lượng nền kinh tế đến cán cân ngân sách
trên hình 6.17.
Hình 6.17. Ảnh hưởng của chu kỳ kinh doanh đến cán cân
ngân sách
Có thể tính được mức sản lượng mà tại đó cán cân ngân sách cân
bằng như sau: Tại trạng thái cân bằng của ngân sách: T = G
tY = G => 0.2Y = 60 => Y0 = 300
Với những mức thu nhập nhỏ hơn 300, cán cân ngân sách sẽ bị thâm
hụt do tiền thuế thu được từ những mức sản lượng này không đủ bù đắp
được hoàn toàn khoản chi tiêu chính phủ là 60 tỷ USD. Ngược lại, tại
những mức thu nhập lớn hơn 300, cán cân ngân sách lại có thặng dư.
Những phân tích trên cho thấy đôi khi cán cân ngân sách thâm hụt
không phải do chính sách tài khóa tác động đến, những nhận xét vội vã về
nguyên nhân gây thâm hụt ngân sách có thể sẽ đưa nền kinh tế lún sâu
hơn vào suy thoái do cắt giảm chi tiêu chính phủ.
Để có thể có thước đo tốt hơn về chính sách tài khóa, người ta sử
dụng ngân sách cơ cấu và ngân sách chu kỳ.
- Cán cân ngân sách cơ cấu BB* là cán cân ngân sách tính cho mức
sản lượng ứng với mức sản lượng tiềm năng. Sử dụng thước đo này khi
đánh giá về chính sách tài khóa sẽ không bị ảnh hưởng của chu kỳ kinh
doanh.
- Cán cân ngân sách chu kỳ được tính bằng chênh lệch giữa cán cân
ngân sách thực tế và cán cân ngân sách cơ cấu.
BB – BB* = (tY – G) – (tY* - G) = t (Y – Y*)
Cán cân ngân sách chu kỳ cho thấy tác động của những biến động
kinh tế ngắn hạn đến cán cân ngân sách, điều đó cho phép loại trừ ảnh
hưởng của biến động kinh tế ngắn hạn đến cán cân ngân sách khi đánh giá
chính sách tài khóa của chính phủ.
Tài trợ thâm hụt ngân sách chính phủ
Để tài trợ cho cán cân ngân sách thâm hụt, chính phủ có thể sử dụng
các biện pháp sau:
- Vay tiền từ ngân hàng trung ương
Trường hợp này được hiểu như là việc tạo thêm tiền tệ cơ sở cho
nền kinh tế. Do vậy, cung tiền của nền kinh tế sẽ tăng lên theo số nhân
tiền. Điều này dẫn đến gia tăng tổng cầu của nền kinh tế, đây là một
nguyên nhân của làm phát do cầu kéo.
- Vay tiền từ các hộ gia đình và doanh nghiệp
Trong trường hợp này chính phủ bán trái phiếu chính phủ cho hộ gia
đình và doanh nghiệp. Như vậy chính phủ sẽ phải hứa hẹn trả một lãi suất
đủ để hấp dẫn người mua. Biện pháp này cho phép chính phủ có thể tài
trợ thâm hụt mà không cần tăng cơ sở tiền hay giảm dự trữ quốc tế. Tuy
nhiên, nếu sử dụng biện pháp này thường xuyên sẽ có thể làm tăng áp lực
lạm phát cho tương lai nếu tỷ lệ nợ so với GDP liên tục tăng hoặc lấn át
đầu tư tư nhân do sức ép tăng lãi suất.
- Vay nước ngoài
Biện pháp này được tiến hành thông qua việc phát hành trái phiếu
ra nước ngoài hoặc giảm dự trữ quốc tế. Việc sử dụng dự trữ quốc tế để
tài trợ cho thâm hụt ngân sách có thể dẫn đến tình trạng mất kiểm soát tài
chính, đồng nội tệ giảm giá mạnh và làm tăng sức ép lạm phát. Phát hành
trái phiếu ra nước ngoài và giảm dự trữ quốc tế có xu hướng làm tăng tỷ
giá hối đoái và làm giảm sức cạnh tranh quốc tế của hàng trong nước.
6.3. Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ với ổn định nền kinh tế
Thuật ngữ “ổn định nền kinh tế” trong kinh tế học vĩ mô được hiểu
là phải đạt đến một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, bền vững và có thể dự
báo được”.
Với mục tiêu cụ thể là một nền kinh tế với tỉ lê thất nghiệp bằng mức
thất nghiệp tự nhiên, tăng trưởng bền vững và ổn định, tỉ lệ lạm phát có
thể dự báo được và một số mục tiêu khác, sự tương tác giữa chính sách tài
khóa và chính sách tiền tệ cũng như những điểm cần lưu ý khi sử dụng
hai chính sách này để ổn định kinh tế vĩ mô là mối quan tâm của các nhà
hoạch định chính sách.
Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ có thể tương tác với nhau
để đạt được một trong các mục tiêu trên kinh tế vĩ mô. Ví dụ, trong trường
hợp chính phủ sử dụng chính sách tài khóa mở rộng dẫn đến tổng cầu gia
tăng và gây sức ép lạm phát, nếu ngân hàng trung ương đồng thời cắt giảm
cung ứng tiền tê, qua đó tăng lãi suất thì có thể triệt tiêu được một phần
hoặc toàn bộ độ gia tăng của tổng cầu, ổn định mức giá của nền kinh tế.
Ngược lại, trong bối cảnh chính phủ cắt giảm chi tiêu, chính sách tiền tệ
lại được phối hợp theo chiều hướng ngược lại để khôi phục tổng cầu.
Chẳng hạn như chính phủ cắt giảm chi tiêu cho dự án đường cao tốc một
khoản chi phí là 10 tỷ USD, điều này làm tổng cầu sụt giảm và mức sản
lượng cân bằng sẽ bị thu hẹp. Để khôi phục lại mức sản lượng cân bằng,
ngân hàng trung ương sẽ đồng thời tăng cung tiền, qua đó hạ lãi suất,
khuyến khích đầu tư tăng và mở rộng tổng chi tiêu, khôi phục lại vị trí
đường tổng cầu và mức sản lượng của nền kinh tế.
Hình 6.18. Tác động của hỗn hợp chính sách tài khóa mở rộng và
chính sách tiền tệ lỏng
Sự tương tác giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ còn được
thể hiện bởi hỗn hợp chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tiền tệ
lỏng – được gọi là chính sách thích ứng (trong điều kiện nền kinh tế còn
nhiều nguồn lực chưa sử dụng và tỉ lệ thất nghiệp cao). Chính sách này
cho phép tăng cung tiền và giữ cho lãi suất không thay đổi để duy trì độ
mở của mức sản lượng cân bằng do ảnh hưởng của chính sách tài khóa.
Giả sử chính phủ thực hiện chính sách tài khóa mở rộng bằng việc
tăng chi tiêu chính phủ một lượng là ∆G, chi tiêu chính phủ tăng từ G0
đến G1. Đường tổng chi tiêu sẽ dịch chuyển lên trên, từ AE 0 đến AE1.
Trạng thái cân bằng thay đổi từ E0 đến E1 và mức sản lượng cân bằng mở
rộng từ Y0 đến Y1. Trên mô hình tổng cầu-tổng cung, đường tổng cầu dịch
chuyển sang phải từ AD0 đến AD1. Do nền kinh tế còn nhiều nguồn lực
chưa sử dụng nên đường tổng cung ngắn hạn AS nằm ngang, và mức sản
lượng thực tế là Y1, với ∆Y = Y1 – Y0 = m.∆G.
Mức thu nhập thực tế do tác động của chính sách tài khóa mở rộng
đã tăng lên đến Y1, điều đó làm tăng cầu tiền, đường cầu tiền dịch chuyển
sang bên phải. Nếu cung tiền không đổi thì lãi suất cần phải tăng để cân
bằng thị trường tiền tệ. Do đó trên thị trường tiền tệ, lãi suất danh nghĩa
tăng từ i0 đến i1. Giả sử lãi suất thực tế bằng lãi suất danh nghĩa, thì trên
thị trường đầu tư lãi suất thực tế cũng tăng từ r0 đến r1. Lãi suất tăng làm
lượng cầu đâu tư giảm (từ I0 đến I1). Sự sụt giảm của đầu tư dẫn đến tổng
chi tiêu dự kiến giảm và đường tổng chi tiêu dịch chuyển xuống dưới, từ
AE1 đến AE2. Mức sản lượng cân bằn thu hẹp đến Y2. Trên mô hình tổng
cầu – tổng cung, đường tổng cầu dịch chuyển sang trái đến AD2. Như vậy
do chính phủ thực hiện chính sách tài khóa mở rộng khiến lãi suất tăng,
đầu tư tư nhân giảm đã làm sụt giảm tổng cầu của nền kinh tế. Hiện tượng
này được gọi là hiệu ứng lấn át. Cuối cùng mức sản lượng thực tế là Y2 <
Y1.
Nếu chính sách tiền tệ có tác động thích ứng đến ảnh hưởng trên của
chính sách tài khóa bằng cách tăng cung tiền từ MS0 đến MS1 thì lãi suất
ban đầu i0 được duy trì, loại trừ được hiệu ứng lấn át và độ mở của mức
sản lượng từ Y0 đến Y1 được bảo toàn.
TÓM TẮT CHƯƠNG
Chương 6 nghiên cứu tổng cầu của nền kinh tế, những nhân tố cấu thành
tổng cầu, các nhân tố quyết định sự biến động của tổng cầu và việc sử dụng
chính sách tài khóa tác động đến tổng cầu nhằm ổn định nền kinh tế. Một số
nội dung cơ bản được trình bày tại chương 6 như sau:
Cách tiếp cận thu nhập- chi tiêu cho biết mức sản lượng cân bằng đạt
được như thế nào trong trường hợp nền kinh tế còn nhiều nguồn lực chưa sử
dụng
Mức sản lượng cân bằng sẽ thay đổi khi có sự dịch chuyển của đường
tổng chi tiêu.
Sự thay đổi mức sản lượng cân bằng phụ thuộc vào chi tiêu tự định và số
nhân chi tiêu của nền kinh tế
Số nhân chi tiêu cho biết sự thay đổi của sản lượng cân bằng khi có sự
thay đổi trong chi tiêu tự định là 1 đơn vị. Số nhân chi tiêu có giá trị lớn hơn
1.
Do đường tổng chi tiêu được sử dụng để xác định mức sản lượng cân
bằng tại một mức giá xác định nên khi mức giá thay đổi, mức sản lượng cân
bằng của nền kinh tế sẽ thay đổi do đường tổng chi tiêu dịch chuyển. Đường
biểu diễn mối quan hệ giữa mức giá chung của nền kinh tế và mức sản lượng
cân bằng là đường tổng cầu.
Các nhà hoạch định chính sách sử dụng chính sách tài khóa để tác động
vào tổng cầu.
Việc sử dụng chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong ổn định kinh
tế vĩ mô là vấn đề còn có nhiều quan điểm khác biệt. Những quan điểm này
dựa trên những vấn đề lý thuyết và thực tiễn. Trong đó hiệu quả của hai chính
sách trên và độ trễ của chính sách là một trong những vấn đề mà các nhà hoạch
định chính sách quan tâm.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Hãy phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách tài khóa?
2. Đường tổng chi tiêu dịch chuyển là do những yếu tố nào? Hãy giải thích.
3. Chênh lệch hàng tồn kho có ảnh hưởng gì đến việc xác lập mức sản lượng
cân bằng của nền kinh tế?
4. So sánh số nhân chi tiêu trong mô hình kinh tế giản đơn, mô hình kinh tế
đóng và mô hình kinh tế mở.
5. Hãy phân tích nội dung của chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tài
khóa thắt chặt
6. Hãy phân tích vai trò của các số nhân chi tiêu trong chính sách tài khóa có
sự ràng buộc về ngân sách.
7. Tại sao cán cân ngân sách thực tế không phái là thước đo tốt để đánh giá
chính sách tài khóa? Muốn loại trừ ảnh hưởng của chu kỳ kinh doanh đến
sự thâm hụt của cán cân ngân sách cần sử dụng cán cân ngân sách nào?
Hãy giải thích
8. Giả sử nền kinh tế đang lâm vào suy thoái, trình bày tác động của các chính
sách sau đến tiêu dùng, đầu tư và mức sản lượng thực tế của nền kinh tê:
a. Một sự tăng lên trong chi tiêu chính phủ
b. Cắt giảm thuế suất
c. Việc mở rộng cung tiền của nền kinh tế.
9. Trong trường hợp nền kinh tế rơi vào suy thoái, nếu phải sử dụng chính sách
tài khóa có sự ràng buộc về ngân sách thì kết quả sẽ như thế nào? Nền kinh
tế có bị lún sâu vào suy thoái không? Hãy giải thích.
10. Giả sử chi tiêu chính phủ tăng. So sánh ảnh hưởng của chính sách này
đến tổng cầu trong trường hợp ngân hàng trung ương không can thiệp với
trường hợp ngân hàng trung ương cam kết duy trì mức lãi suất không đổi.
CHƯƠNG 7. TIỀN TỆ VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
Chính sách tiền tệ là một trong các chính sách kinh tế vĩ mô, trong
đó Ngân hàng Trung ương thông qua các công cụ của mình thực hiện việc
kiểm soát và điều tiết cung ứng tiền tệ nhằm tác động làm thay đổi lãi
suất, qua đó tác động đến mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ là lạm
phát, tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm, nhằm thực hiện mục tiêu
kinh tế - xã hội của quốc gia. Nội dung chương 7 sẽ xem xét lý thuyết ưa
thích thanh khoản của John Maynard Keynes, theo lý thuyết này lãi suất
sẽ được quyết định bởi cung - cầu tiền. Tiếp đến là xem xét ảnh hưởng
của việc thay đổi cung ứng tiền tệ đến các biến số kinh tế vĩ mô cơ bản
như: lãi suất, đầu tư, tổng cầu, sản lượng và mức giá. Từ đó, chỉ ra cách
thức, tại sao và khi nào chính sách tiền tệ ảnh hưởng đến tổng cầu, và các
yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của chính sách tiền tệ và cơ chế phối hợp
giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa.
7.1. Thị trường tiền tệ
Trong phần chương 4, chúng ta đã đề cập đến khái niệm tiền và các
chương năng của tiền. Trong phần này, chúng ta đi vào xem xét lý thuyết
ưa thích thanh khoản, đây là lý thuyết của Keynes về xác định lãi suất.
Theo lý thuyết ưa thích thanh khoản, lãi suất sẽ được quyết định bởi cung
- cầu về tiền. Chúng ta cùng tìm hiểu các nhân tố quyết định đến cung -
cầu tiền và lãi suất cân bằng trên thị trường tiền tệ.
7.1.1. Cung tiền và các nhân tố quyết định cung tiền
7.1.1.1. Cung tiền
Cung tiền hay mức cung ứng tiền tệ (MS) bao gồm tiền mặt ngoài
hệ thống ngân hàng (Cu) và tiền gửi (D).
MS = Cu + D
Mức cung ứng tiền tệ có tác động mạnh mẽ đến trạng thái hoạt động của
nền kinh tế. Tiền có chức năng là phương tiện trao đổi nên khi hàng hóa, dịch
vụ được tạo ra nhiều hơn thì cũng cần phải thay đổi mức cung ứng tiền. Mối
quan hệ này được xác định trong phương trình số lượng tiền tệ.
M.V = P.Y
Trong đó: M: Mức cung tiền (mức cung tiền còn được ký hiệu là MS)
V: Tốc độ lưu thông tiền
P: Mức giá trung bình
Y: Sản lượng thực tế (GDP thực tế - GDPr)
P.Y = GDPn (GDP danh nghĩa)
Friedman và các nhà kinh tế học thuộc trường phái trọng tiền hiện đại
cho rằng V tương đối ổn định, do đó mức cung ứng tiền cần được điều chỉnh
theo sự thay đổi của quy mô GDP danh nghĩa (GDPn). Sự thay đổi mức cung
ứng tiền sẽ làm thay đổi các biến số kinh tế vĩ mô như giá cả, sản lượng và việc
làm trong nền kinh tế. Việc kiểm soát cung ứng tiền tệ, thực hiện chính sách
tiền tệ đóng vai trò quan trọng trong quản lý kinh tế vĩ mô.
Để có thể kiểm soát và điều tiết cung ứng tiền tệ cần nắm bắt được các
nhân tố tác động đến cung tiền. Và, xét sự tác động qua lại giữa tiền mặt và
tiền gửi, thông qua hoạt động của hệ thống Ngân hàng thương mại và Ngân
hàng Trung ương tác động đến hai thành tố này của cung ứng tiền.
7.1.1.2. Các nhân tố quyết định cung tiền
Trong nội dung chương 4 chúng ta đã chỉ ra mô hình cung tiền trong
cr 1
trường hợp tổng quát: MS xB m M xB
cr rr
Có thể thấy, những thay đổi tiền cơ sở (B) và các nhân tố xác định
số nhân tiền (mM) sẽ làm cho cung ứng tiền tệ thay đổi. Các nhân tố quyết
định đến cung tiền được mô tả bởi Sơ đồ 7.1.
Sơ đồ 7.1. Các nhân tố quyết định đến cung tiền
Tiền cơ sở (B): Mức B phụ thuộc vào hoạt động của Ngân hàng
Trung ương trên thị trường mở (OMO), thị trường ngoại hối (FOREX),
lãi suất chiết khấu, và các tài sản có ròng khác của Ngân hàng Trung ương.
B không nhạy cảm với các thông số thị trường mà phụ thuộc vào ý chí của
Ngân hàng Trung ương. Sự gia tăng cơ sở tiền tệ làm cho cung ứng tiền
tăng theo cấp số nhân tiền.
Ngân hàng Trung ương kiểm soát B thông qua mua bán GTCG trên
thị trường mở (OMO), mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối
(FOREX), tiến hành tăng hay giảm lãi suất chiết khấu đối với các Ngân
hàng thương mại. Ngoài ra, có hai hạng mục có ảnh hưởng đến B là: tiền
nổi và tiền gửi của kho bạc tại Ngân hàng Trung ương. Khi Ngân hàng
Trung ương tiến hành bù trừ các tờ séc cho các Ngân hàng thương mại,
giữa thời điểm ghi có ngay cho ngân hàng thụ hưởng và sau đó ghi nợ cho
ngân hàng trả tiền, tiền dự trữ tạm thời tăng lên gọi là tiền nổi. Và, khi kho
bạc chuyển tiền từ các Ngân hàng thương mại về Ngân hàng Trung ương, làm
giảm dự trữ của hệ thống ngân hàng, cơ sở tiền giảm. Tiền nổi và tiền gửi của
kho bạc tại Ngân hàng Trung ương biến động chủ yếu trong ngắn hạn, làm tiền
cơ sở biến động trong ngắn hạn. Nhưng chủ yếu thông qua nghiệp vụ thị trường
mở Ngân hàng Trung ương vẫn có thể kiểm soát được tiền cơ sở.
Số nhân tiền (mM): Cung tiền còn phụ thuộc vào số nhân tiền (mM), hai
nhân tố tác động đến số nhân tiền là tỷ lệ dự trữ thực tế của các ngân hàng (rr)
và tỷ lệ tiền mặt so với tiền gửi (cr). Hai nhân tố này không dễ xác định, và với
các nền kinh tế khác nhau, tại các thời điểm khác nhau các thông số này là khác
biệt.
Tỷ lệ dự trữ thực tế (rr): Tỷ lệ dự trữ thực tế của các Ngân hàng thương
mại phụ thuộc vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo quy định của Ngân hàng Trung
ương và tỷ lệ dự trữ vượt mức so với quy định của Ngân hàng trung ương.
- Thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc: Nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền
gửi thanh toán tăng lên, làm cho mức dự trữ bắt buộc tăng lên khi đó dự trữ
vượt mức giảm xuống. Để duy trì dự trữ vượt mức ở mức cần thiết Ngân hàng
thương mại phải giảm tín dụng, số nhân tiền giảm, kết quả là cung tiền giảm.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một trong các công cụ Ngân hàng Trung ương sử dụng
để điều tiết cung tiền, nên không phụ thuộc vào nhân tố thị trường mà phụ
thuộc vào ý chí của Ngân hàng Trung ương.
- Thay đổi tỷ lệ dự trữ vượt mức: Tỷ lệ dự trữ vượt mức tăng làm mức
dự trữ vượt mức tăng lên. Các nhân tố khác không đổi, dự trữ thực tế tăng
lên làm cung tiền giảm. Có hai nhân tố tác động đến mức dự trữ vượt mức
đó là: lãi suất và dòng tiền gửi dự kiến rút ra. Khi lãi suất tăng, chi phí cơ
hội của việc nắm giữ tiền tăng, Ngân hàng thương mại có xu hướng giảm
dự trữ vượt mức cung ứng tiền tăng. Trong điều kiện bất ổn, người gửi
tiền có thể đến ngân hàng rút tiền nhiều hơn, buộc ngân hàng phải tăng
mức dự trữ vượt mức cung ứng tiền sẽ giảm và ngược lại.
Tỷ lệ tiền mặt ngoài ngân hàng so với tiền gửi (cr): Khi tỷ lệ tiền
mặt so với tiền gửi tăng lên nghĩa là người gửi tiền đã chuyển một phần
tiền gửi sang tiền mặt. Khi đó lượng tiền được tạo ra bởi hệ thống ngân
hàng sẽ giảm, làm giảm cung tiền. Có thể thấy rõ điều này ở công thức
sau:
cr 1 1 rr
MS B (1 )B
cr rr cr rr
Cả tiền mặt và tiền gửi thanh toán đều không có lãi suất (tiền gửi
thanh toán có thể được trả lãi suất nhưng rất thấp). Vì vậy, tỷ lệ tiền mặt
công chúng nắm giữ so với tiền gửi thanh toán không nhạy cảm với lãi
suất mà phụ thuộc vào thói quen thanh toán của công chúng. Sự thuận lợi
cũng như chi phí để nhận được tiền mặt có ảnh hưởng đến tỷ lệ này. Tổng
hợp, hướng tác động của các nhân tố chính lên cung tiền được thể hiện ở
Bảng 7.1.
Bảng 7.1. Hướng tác động của các nhân tố lên cung tiền
Chủ thể Thông số Thay đổi Phản ứng
thông số của cung
tiền
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
(rb)
Lãi suất chiết khấu
NHTW
(iCk)
Tiền cơ sở (B)
Tỷ lệ tiền mặt so với
Người gửi tiền
tiền gửi (cr)
Người gửi tiền Dòng tiền gửi dự
và ngân hàng tính rút ra
Ngân hàng và Tỷ lệ dự trữ thực tế
người vay tiền (rr)
1
Sản lượng của nền kinh tế (Y) được đo lường bởi chỉ tiêu GDP thực tế (GDP r)
u: Tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế
nghĩa và lãi suất thực tế bằng nhau (i=r). Ngoài ra, chính sách tiền tệ mở
rộng sẽ làm tăng giá tài sản, giảm lãi suất trên thị trường tiền tệ và tỷ giá
hối đoái qua đó khuyến khích đầu tư, mở rộng khả năng tiêu dùng, xuất
khẩu ròng (NX) tăng, tăng tổng chi tiêu (AE) của nền kinh tế.
Hình 7.6 c
Hình 7.6 d
AS
Hình 7.6. Tác động của chính sách tiền tệ đến sản lượng và giá cả
Theo mô hình thu nhập - chi tiêu của Keynes, đường tổng chi tiêu
biểu diễn mức chi tiêu dự kiến tại mỗi mức thu nhập với giả thiết mức giá
cho trước. Tăng cung tiền làm tăng tổng chi tiêu tại mỗi mức giá, tổng chi
tiêu của nền kinh tế tăng, đường tổng chi tiêu dịch chuyển lên trên từ AE0
→ AE1, lượng cân bằng sẽ tăng lên từ Y0 →Y1, sự thay đổi mức sản lượng
cân bằng được xác định bằng số nhân chi tiêu (m) nhân với sự thay đổi
của tổng chi tiêu (∆AE) trong nền kinh tế (∆Y = Y1 – Y0= m x ∆AE) (Hình
7.6.c).
Chính sách tiền tệ mở rộng làm tăng tổng chi tiêu (AE), mức sản
lượng cân bằng cao hơn tại mỗi mức giá cho trước làm tăng tổng cầu (AD)
về hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế. Trên mô hình AD – AS, đường
AD dịch chuyển sang phải (AD0 → AD1) (với giả thiết nền kinh tế còn
các nguồn lực chưa được sử dụng và giá cả cứng nhắc – đường AS là
đường nằm ngang hoàn toàn co giãn), điểm cân bằng mới được thiết lập
tại điểm E1, sản lượng cân bằng khi đó tăng lên một lượng ∆Y = Y1 – Y0.
Nhưng trong thực tế, đường tổng cung ngắn hạn lai dốc lên (đường AS0)
nên độ mở của mức sản lượng cân bằng sẽ bị thu hẹp lại (ứng với trạng
thái cân bằng E2), lúc này sản lượng cân bằng ngắn hạn sẽ chỉ tăng lên
đến Y2 giá tăng lên P1 (Hình 7.6.d).
Trong dài hạn, do sự tăng giá của nền kinh tế và sự tăng lên của sản
lượng làm tăng kỳ vọng về lạm phát, đồng thời tiền lương thỏa thuận giữa
người lao động và doanh nghiệp tăng lên do dư cầu lao động. Điều này đã
khiến các doanh nghiệp hạn chế thuê thêm lao động và thu hẹp quy mô
sản xuất, tổng cung hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế giảm xuống,
đường tổng cung dịch chuyển sang trái (AS0 → AS1). Trạng thái cân bằng
trong dài hạn ứng với điểm E3, sản lượng cân bằng dài hạn sẽ trở lại Y0
giá tiếp tục tăng lên mức giá P2 (Hình 7.6.d).
Như vậy, chính sách tiền tệ sẽ tác động đến giá và sản lượng trong
ngắn hạn, còn trong dài hạn chính sách tiền tệ chỉ tác động đến giá cả của
nền kinh tế.
7.2.3.2. Chính sách tiền tệ với mục tiêu ổn định nền kinh tế
Ổn định nền kinh tế gắn với các chính sách ổn định kinh tế, là một
hệ thống các quy định chính sách giúp nền kinh tế có khả năng giảm thiểu
tính dễ tổn thương trước các cú sốc bên ngoài, tạo điều kiện thúc đẩy đầu
tư, gia tăng triển vọng tăng trưởng bền vững và có thể dự báo được. Chính
phủ sử dụng các chính sách ổn định kinh tế để tác động đến nền kinh tế
nhằm giảm bớt những biến động của các biến số được biểu hiện và theo
dõi theo thời gian như lạm phát, thâm hụt ngân sách, biến động tỷ giá,
biến động của lãi suất và dự trữ ngoại hối… trước những thăng trầm của
chu kỳ kinh doanh.
Về mặt lý thuyết, chính sách ổn định kinh tế là chính sách của chính
phủ thực hiện nhằm giữ cho sản lượng và việc làm ở mức tự nhiên. Vì
cung ứng tiền tệ có tác động mạnh đến tổng cầu, nên chính sách tiền tệ là
một thành tố quan trọng của chính sách ổn định kinh tế.
Trường hợp nền kinh tế có mức Y<Y*:
Nền kinh tế rơi vào suy thoái, muốn thoát khỏi suy thoái Ngân hàng
Trung ương thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng (MS tăng). Thực hiện
chính sách này Ngân hàng Trung ương có thể thông qua các công cụ như
mua Trái phiều chính phủ trên thị trường mở (OMO), giảm tỷ lệ dự trữ
bắt buộc (rb), giảm lãi suất chiết khấu (iCK). Khi MS tăng sẽ làm cho lãi
suất giảm, đến lượt nó sẽ lại kích thích tiêu dùng, đầu tư, xuất khẩu ròng.
Tổng mức chi tiêu trong nền kinh tế tăng, tổng cầu tăng làm tăng sản
lượng và công ăn việc làm trong nền kinh tế.
Trường hợp nền kinh tế có mức Y>Y*:
Nền kinh tế lúc này bị áp lực của lạm phát cao, muốn chống lạm
phát, Ngân hàng Trung ương thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt (MS
giảm). Thực hiện chính sách này Ngân hàng Trung ương có thể thông qua
các công cụ như bán trái phiếu chính phủ trên thị trường mở (OMO), tăng
tỷ lệ dự trữ bắt buộc (rb), tăng lãi suất chiết khấu (iCK). Khi MS giảm, trên
thị trường tiền tệ lãi suất tăng. Sự gia tăng lãi suất bóp nghẹt đầu tư và
giảm các nhân tố có nhạy cảm với lãi suất, cuối cùng tác động làm giảm
tổng cầu, giảm sản lượng và giảm áp lực của lạm phát.
7.2.4. Hiệu quả của chính sách tiền tệ
Có ba nhân tố cơ bản quyết định sản lượng thay đổi bao nhiêu khi
cung tiền tăng một lượng nhất định: Một là, hệ số co giãn của cầu tiền với
lãi suất; Hai là, sự nhạy cảm của đầu tư với lãi suất; Ba là, giá trị của số
nhân chi tiêu.
(1). Hệ số co giãn của cầu tiền với lãi suất
Tăng cung ứng tiền tệ sẽ ít hiệu quả trong việc tăng sản lượng khi
cầu tiền co giãn mạnh với lãi suất (đường cầu tiền tương đối thoải). Vì khi
cầu tiền co giãn mạnh với lãi suất, tăng cung tiền có ảnh hưởng nhỏ đến
lãi suất, lãi suất giảm không đáng kể (Hình 7.7a). Trong điều kiện các yếu
tố khác giữ nguyên không đổi, lãi suất giảm không đáng kể dẫn đến sẽ chỉ
có sự gia tăng nhỏ của đầu tư, tiêu dùng, xuất khẩu ròng, AD tăng ít và
sản lượng chỉ tăng một lượng nhỏ.
Trong trường hợp cầu tiền ít co giãn với lãi suất thì lãi suất sẽ giảm
nhiều hơn với cùng một lượng tăng lên của cung tiền (Hình 7.7.b).
i1
i1
Hình 7.7. a. Cầu tiền co giãn với Hình 7.7. b. Cầu tiền ít co giãn
lãi suất với lãi suất
Hình 7.7. Co giãn của cầu tiền với lãi suất
(2). Sự nhạy cảm của đầu tư với lãi suất
Lãi suất thay đổi sẽ có tác động đối với tiêu dùng, đầu tư và xuất
khẩu ròng như phân tích phần trên. Tuy nhiên, để đơn giản hóa khi phân
tích hiệu quả chính sách tiền tệ và những phân tích tiếp sau chúng ta chỉ
đề cập đến sự nhạy cảm của đầu tư với lãi suất và bỏ qua tác động của lãi
suất đến các thành tố còn lại của tổng cầu.
Tăng cung tiền sẽ ít hiệu quả trong việc tăng sản lượng khi đầu tư
rất ít nhạy cảm với lãi suất (đường đầu tư rất dốc). Trong trường hợp này
việc giảm lãi suất gây ra do tăng cung tiền chỉ có ảnh hưởng nhỏ đến đầu
tư (Hình 7.8.a), do đó sản lượng cũng chỉ thay đổi một lượng nhỏ.
Trong trường hợp đầu tư nhạy cảm với lãi suất (đường đầu tư tương
đối thoải), trong trường hợp này việc giảm lãi suất gây ra do tăng cung
tiền sẽ có ảnh hưởng lớn hơn đến đầu tư (Hình 7.8.b), do đó sản lượng
cũng tăng một lượng lớn hơn.
Hình 7.8.a. Đầu tư ít nhạy cảm với Hình 10.8.b. Đầu tư
lãi suất nhạy cảm với lãi suất
Hình 7.8. Sự nhạy cảm của đầu tư với lãi suất
(3). Giá trị của số nhân chi tiêu
Việc tăng đầu tư (I), chi tiêu cho tiêu dùng (C), xuất khẩu ròng (NX)
có ảnh hưởng nhỏ đến sản lượng khi số nhân chi tiêu nhỏ. Với một sự tăng
lên nhất định của đầu tư, chi tiêu tiêu dùng, xuất khẩu ròng, tổng chi tiêu
sẽ tăng lên (∆AE), sản lượng cân bằng sẽ tăng lên (∆Y = m x ∆AE). Trong
trường hợp số nhân chi tiêu (m) càng nhỏ thì sản lượng tăng lên càng ít.
Trong mô hình thu nhập - chi tiêu của Keynes, xét mô hình nền kinh
tế mở, thuế ròng T phụ thuộc thu nhập (T=t.Y), ta có số nhân chi tiêu:
1
m
1 MPC (1 t ) MPM
Số nhân chi tiêu nhỏ khi xu hướng tiêu dùng cận biên MPC nhỏ (xu
hướng tiết kiệm cận biên MPS lớn), thuế suất (t) lớn, hoặc xu hướng nhập
khẩu cận biên MPM lớn. Ngược lại, khi số nhân chi tiêu càng lớn thì mức
sản lượng tăng lên càng lớn.
7.2.5. Chính sách tiền tệ khi nền kinh tế suy thoái
Nhiều nhà kinh tế trong đó có Keynes lập luận rằng khi nền kinh tế
lâm vào suy thoái, chính sách tiền tệ tương đối ít hiệu quả. Họ cho rằng
khi đó đường cầu tiền tương đối thoải (ít nhất là tại những mức lãi suất
thấp). Đồng thời, khi nền kinh tế đối mặt với suy thoái, mức giá có thể
giảm xuống. Đối với các nhà đầu tư họ sẽ quan tâm đến lãi suất thực tế
(lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát). Vì vậy, lãi suất danh
nghĩa giảm, nhưng tỷ lệ lạm phát giảm nhiều hơn thì lãi suất thực vẫn
tăng.
Bên cạnh đó, khi các nhà đầu tư bi quan về triển vọng kinh tế trong
tương lai, lãi suất cần giảm mạnh để khuyến khích các nhà đầu tư. Nhưng
trong thời kỳ suy thoái, một lượng lớn công suất không được sử dụng, lợi
ích cận biên của đầu tư bổ sung gần bằng 0. Đầu tư mới vào máy móc
thiết bị khi đó chỉ làm tăng công suất dư thừa mà không làm tăng lợi
nhuận. Hơn nữa, khi đối mặt với suy thoái sẽ làm cạn kiệt dự trữ tiền mặt
của doanh nghiệp và làm tăng tình trạng nợ nần. Đối mặt với tình trạng
khó khăn, nguy cơ phá sản các doanh nghiệp sẽ phải rất cân nhắc trong
việc có đầu tư vào các dự án mới hay không, ngay cả khi thuyết phục được
ngân hàng cho vay tiền. Do vậy, khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, không
chỉ đường đầu tư dịch chuyển xuống phía dưới mà còn trở nên ít co giãn
hơn, cho nên lãi suất thấp cũng chỉ tác động nhỏ đến việc tạo ra đầu tư bổ
sung.
Việc tăng cung tiền trong bối cảnh kinh tế suy thoái chỉ có ảnh
hưởng nhỏ đến lãi suất, và lãi suất giảm chỉ có ảnh hưởng nhỏ đến đầu tư,
nên chỉ ảnh hưởng nhỏ đến sản lượng. Có thể thấy, trong bối cảnh suy
thoái trầm trọng, chính sách tiền tệ có thể ít hiệu quả.
7.3. Sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa
7.3.1. Cơ chế thoái lui đầu tư và chính sách thích ứng
Về mặt lý thuyết, khi phối hợp chính sách tài khóa và chính sách
tiền tệ có thể xây dựng thành các cặp chính sách có cùng mục tiêu. Trong
trường hợp AD ở mức thấp, chính phủ có thể kích thích tổng cầu bằng
chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tiền tệ mở rộng. Trong trường
hợp AD đang ở mức cao, Chính phủ có thể cắt giảm tổng cầu bằng chính
sách tài khóa thắt chặt và chính sách tiền tệ thắt chặt. Trong trường hợp
AD ở mức ổn định, có thể sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt và chính
sách tài khóa mở rộng hoặc ngược lại. Với việc phối hợp hai chính sách
này vẫn có thể giữ cho AD ổn định, nhưng có thể thay đổi cơ cấu các
thành tố tổng cầu, như với việc C, I tăng và G giảm có lợi cho tạo việc
làm và tăng trưởng trong tương lai.
Xét trường hợp giả sử bối cảnh nền kinh tế có nhiều nguồn lực chưa
được sử dụng và thất nghiệp cao. Nếu chính phủ quyết định tăng G, thực
hiện chính sách tài khóa mở rộng (cung tiền không đổi), khi đó một mặt
AE tăng, AD tăng, giá tăng và sản lượng tăng. Mặt khác, nếu chính sách
tiền tệ không đổi, cung tiền không đổi thì việc tăng chi tiêu của chính phủ
sẽ làm tăng cầu tiền đường cầu tiền dịch chuyển sang bên phải (MD 0
→MD1), khi đó để cho cầu tiền bằng cung tiền cố định lãi suất sẽ tăng lên
(i0 →i1) (Hình 7.9), làm giảm chi tiêu cho đầu tư và giảm tổng cầu, gây ra
cơ chế thoái lui đầu tư còn gọi là hiệu ứng lấn át. Quá trình tác động này
có thể minh họa bởi sơ đồ sau:
Sơ đồ 7.3. Chính sách tài khóa mở rộng và hiệu ứng lấn át đầu
tư
Lúc này nếu Ngân hàng Trung ương tăng mức cung ứng tiền tệ vừa
đủ để duy trì lãi suất trở về mức lãi suất ban đầu i0, đường cung tiền dịch
chuyển sang phải (MS0 → MS1), chính sách tiền tệ như vậy được gọi là
chính sách thích ứng, bởi chính sách tiền tệ đã thích ứng với sự thay đổi
của chính sách tài khóa.