You are on page 1of 75

Tư liệu đọc thêm tháng 6.

2009

Tổng quan về

đạo đức kinh doanh

1
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ ĐẠO ĐỨC KINH DOANH

I. KHAI QUÁT VỀ ĐẠO ĐỨC KINH DOANH

Đạo đức là một phạm trù đặc trưng của xã hội loài người. Đạo đức là một phạm trù rất rộng đề cập
đến mối quan hệ con người và các quy tắc ứng xử. Nó gắn liền với cuộc sống, trong tất cả các hoạt động
của con người, trong giao tiếp xã hội và trong kinh doanh. Chính vì vậy, mỗi tác giả đều có một định
nghĩa khác nhau về đạo đức. Chúng ta chỉ có thể đưa ra được những khái niệm chung về đạo đức.
- Theo từ điển điện tử Tiếng việt: Theo nghĩa rộng thì “đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc
được dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội ”.
Theo nghĩa hẹp thì “đạo đức là phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn nhất
định mà có”. [20].
- Theo từ điển American Heritage Dictionary thì:
“Ethics is: 1. The study of the general nature of morals and of the specific moral choices to be made
by a person; 2. The rules or standards governing the conduct of a person or the members of a profession;
3. The branch of philosophy that deals with morality. Ethics is concerned with distinguishing between
good and evil in the world, between right and wrong human actions, and between virtuous and
nonvirtuous characteristics of people.” [48].
(Đạo đức là: 1. Sự nghiên cứu về bản chất của đạo lý và những lựa chọn mang tính đạo lý của con
người; 2. Quy tắc hoặc chuẩn mực chi phối hành vi của một con người hoặc các thành viên của một nghề
nghiệp; 3. Là một bộ môn khoa học nghiên cứu về đạo lý. Đạo đức đề cập tới sự phân biệt giữa điều tốt và
điều xấu trên thế giới, giữa cái đúng và cái sai trong hành động của con người, và giữa những phẩm chất
tốt và xấu của con người)
Như vậy nói một cách chung nhất, ta có thể hiểu: “Đạo đức là những tiêu chuẩn và nguyên tắc
chung được dư luận xã hội thừa nhận là đúng, theo đó con người tự điều chỉnh và đánh giá hành vi
của mình.”
Trong mỗi mối quan hệ xã hội đặc thù đều cần có những quy tắc và chuẩn mực hành vi phù hợp làm
cơ sở cho việc ra quyết định. Sự ra đời của hàng hóa cùng với việc trao đổi hàng hóa chính là mốc đánh
dấu sự ra đời của đạo đức kinh doanh. Đạo đức trở nên đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng và phát
triển mối quan hệ trong các hoạt động kinh doanh khi phạm vi và tính chất các mối quan hệ của một cá
nhân, tập thể trở nên đa dạng và phức tạp hơn nhiều bởi có sự xuất hiện của một loạt nhân tố kinh doanh
mới, rất đa dạng từ quan điểm, động cơ tới mục đích và hành vi.

1. Khái niệm về đạo đức kinh doanh


Sự phức tạp của thực tiễn kinh doanh đã khiến cho những chuẩn mực đạo đức đơn thuần không thể
giải quyết một loạt các vấn đề kinh doanh.

2
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
Thứ nhất, để có thể tồn tại được, các hoạt động kinh doanh phải dựa vào việc sử dụng các yếu tố vật
chất và tài chính, phải tạo ra được giá trị vật chất và tài chính để bù đắp nguồn lực đã sử dụng và tạo thêm
giá trị mới (lợi nhuận). Nói cách khác, lợi nhuận là một trong những yếu tố cần thiết cho sự tồn tại của
một doanh nghiệp và là cơ sở đánh giá khả năng duy trì hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp. Tuy
nhiên, nếu người quản lý doanh nghiệp hiểu sai bản chất của lợi nhuận và coi đó là mục đích chính của
các hoạt động kinh doanh thì sự tồn tại của doanh nghiệp có thể bị đe dọa.
Thứ hai, với tư cách là một nhân tố không thể tách rời của hệ thống kinh tế - xã hội, doanh nghiệp
luôn phải tìm cách hài hòa về lợi ích của các đối tượng hữu quan không chỉ ở việc xác định các giá trị, lợi
ích cần được tôn trọng, mà còn ở việc cân đối, hài hòa và chấp nhận hy sinh một phần lợi ích riêng, lợi
nhuận. Như vậy, khi vận dụng đạo đức vào các hoạt động kinh doanh, cần có những quy tắc riêng, phương
pháp riêng cùng với những trách nhiệm ở phạm vi và mức độ lớn hơn. Vì tầm quan trọng đó, đạo đức kinh
doanh là một vấn đề ngày càng nhận được sự quan tâm nồng nhiệt của các nhà nghiên cứu cũng như các
nhà quản lý.
Cũng giống như đạo đức, đạo đức kinh doanh là phạm trù được tiếp cận và xem xét dưới nhiều quan
điểm khác nhau. Cho đến nay vẫn còn khá nhiều mâu thuẫn xung quanh khái niệm đạo đức kinh doanh.
Theo giáo trình Văn hóa kinh doanh của tác giả Dương Thị Bích Liễu thì: “Đạo đức kinh doanh là
một tập hợp các nguyên tắc, chuẩn mực có tác dụng điều chỉnh, đánh giá, hướng dẫn và kiểm soát hành vi
của các chủ thể kinh doanh”[3]. Theo đó, các nguyên tắc là chuẩn mực của đạo đức kinh doanh là: tính
trung thực; tôn trọng con người; gắn lợi ích của doanh nghiệp với lợi ích của khách hàng và xã hội, coi
trọng hiệu quả gắn với trách nhiệm xã hội; bí mật và trung thành với các trách nhiệm đặc biệt.
Còn theo tác giả PGS.TS.Nguyễn Mạnh Quân thì: “Đạo đức kinh doanh gồm những nguyên tắc và
chuẩn mực có tác dụng hướng dẫn hành vi trong mối quan hệ kinh doanh; chúng được những người hữu
quan (như người đầu tư, khách hàng, người quản lý, người lao động, đại diện cơ quan pháp lý, cộng đồng
dân cư, đối tác, đối thủ...) sử dụng để phán xét một hành động cụ thể là đúng hay sai, hợp đạo đức hay
phi đạo đức.” [4, tr 18]
Để hiểu đơn giản theo giới hạn của luận văn dưới góc độ của người chủ doanh nghiệp, người viết xin
đưa ra khái niệm về đạo đức kinh doanh như sau: “Đạo đức kinh doanh là tập hợp các nguyên tắc,
chuẩn mực nhằm điều chỉnh, đánh giá hành vi của nhà quản lý doanh nghiệp đối với bản thân họ và
đối với những bên hữu quan khác (bao gồm người lao động, khách hàng, cộng đồng xã hội, cổ đông,
đối thủ cạnh tranh...)”
Đạo đức kinh doanh là đạo đức được áp dụng vào trong hoạt động kinh doanh. Vì vậy, đạo đức kinh
doanh phải theo những chuẩn mực đạo đức nói chung đã được xã hội thừa nhận và phải phù hợp với
những đạo lý dân tộc.
Chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu về lịch sử phát triển của phạm trù đạo đức kinh doanh để thấy được sự
đa dạng phong phú trong cách hiểu và nhận thức về vấn đề này.

3
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
2. Đôi nét về lịch sử phát triển của các chuẩn mực đạo đức kinh doanh
Khoa học khảo cổ và cổ sinh vật học đã chứng minh rằng con người bắt đầu xuất hiện trên trái đất
khoảng từ 1 tới 2 triệu năm trước. Tuy nhiên lịch sử của loài người chỉ thực sự có khi con người sống hợp
quần thành từng bầy dưới chế độ xã hội đầu tiên là công xã nguyên thủy. Lúc này, đạo đức con người thể
hiện dưới hình thức tôn giáo hay tục lệ, và chỉ lấy tinh thần “cộng đồng” để làm nền tảng. Con người
nguyên thủy cùng ăn cùng làm, sở hữu của cải công cộng với viễn cảnh cuộc sống “của rơi ngoài đường
không ai nhặt, tối ngủ không phải đóng cửa”. Xã hội công xã nguyên thủy chính là cột mốc con người
thoát khỏi trạng thái động vật, hình thành ý thức về đạo đức. Hoạt động sản xuất tuy mới dừng ở mức hết
sức hoang sơ, nhưng chế độ xã hội này nhấn mạnh tính thuần phác, ngây thơ trong đạo đức con người
nguyên thủy.
Khoảng 4 nghìn năm trước Công nguyên, kinh tế xã hội đã bắt đầu có sự phân công lao động ra 3
ngành nghề chính: chăn nuôi, thủ công và buôn bán thương mại. Chính việc buôn bán đã khiến sản phẩm
tự cung tự cấp trước đây trở thành hàng hóa, con người bắt đầu có tích trữ cá nhân. Hoạt động kinh doanh
xuất hiện cũng đồng nghĩa đạo đức kinh doanh ra đời. Nhân loại bước sang một thời kì mới, có giai cấp
mâu thuẫn đối kháng, có bộ máy nhà nước. Quan hệ con người trở nên đa dạng hơn khi nhiều chủ thể xã
hội mới được sinh ra. Chính việc kinh doanh thương mại đã buộc nhiều yêu cầu về đạo đức mới hình
thành: không được trộm cắp, phải sòng phẳng trong giao thiệp, phải giữ chữ Tín, biết tôn trọng các cam
kết và các thỏa hiệp...
Đạo đức kinh doanh xuất phát chính từ thực tiễn kinh doanh của mỗi xã hội trong các thời kì lịch sử.
Các phạm trù đạo đức kinh doanh cũng phát triển theo từng hình thái kinh tế, thay đổi tùy theo từng vùng
dân cư lãnh thổ, từng đặc điểm địa phương. Lần theo sự phát triển lịch sử của phạm trù đạo đức kinh
doanh cũng chính là việc nhìn lại những khái niệm đạo đức theo dòng phát triển của thời gian. Ta sẽ cùng
nghiên cứu sự phát triển của đạo đức kinh doanh theo hai nhánh: Đông phương và Tây phương.

2.1. Các tư tưởng triết lý đạo đức ở Đông phương


Các triết lý đạo đức ở Đông phương hầu hết đều bắt nguồn từ Trung Hoa. Ngay từ thời cổ đại, nhiều
triết gia Trung Hoa đã đóng góp những tư tưởng triết lý có ảnh hưởng chi phối không chỉ một thời kì dài
trong lịch sử phát triển xã hội của đất nước Trung Hoa, mà còn trở thành những triết lý quản lý quan trọng
ở mọi phạm vi hoạt động của con người cho đến tận ngày nay. Vai trò và ảnh hưởng của các triết lý đạo
đức phương Đông, nhất là những tư tưởng triết học Trung Hoa cổ đại là cực kì quan trọng tới sự hình
thành của hệ thống các khái niệm đạo đức kinh doanh. Điển hình và nổi bật nhất là trường phái tư tưởng
của Khổng Tử và Hàn Phi Tử.
2.1.1. Tư tưởng đức trị của Khổng Tử
Khổng Tử sinh năm 551 trước Công nguyên, là người đã đưa ra triết lý tư tưởng sâu sắc dựa trên văn
hóa tinh thần. Chữ Nhân là nhân tố cơ bản trong tư tưởng của ông.

4
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
Nhân biết yêu thương, giúp đỡ người khác và lấy đó làm phương hướng rèn luyện của bản thân.
Nhân là yếu tố quan trọng nhất, có tác dụng chi phối trong “ngũ thường” – nhân, nghĩa, lễ, trí, dũng. Nhân
là triết lý hành động.
Nghĩa thể hiện phương châm của Nhân, thấy việc gì đáng làm thì làm không mưu lợi cá nhân. Theo
ông, người quân tử phải thấy điều hợp lý thì làm, và phải cố gắng hết mình, “không thành công thì cũng
thành nhân”. Quan điểm này đã được phát triển thành “đạo đức vĩ mô” trong triết lý đạo đức phương Tây
sau này – “do the right things”
Lễ là hình thức của Nhân, chủ trương “điều mình không muốn làm cho mình thì không nên làm cho
người khác”. Thiếu yếu tố Nhân, Lễ chỉ là hình thức, giả dối.
Trí là có trí tuệ, kiến thức, biết người. Thuyết đạo đức hành vi của phương Tây cũng thể hiện tư
tưởng này qua quy tắc “hãy đối xử với người khác theo cách muốn họ đối xử với mình” – “Do unto others
as you have them do unto you”
Dũng thể hiện ở tính kiên cường, quả cảm vượt qua khó khăn để đạt được mục đích đề ra, thể hiện ở
việc người quân tử dám hy sinh bản thân vì mục đích cao cả. Ở phương Tây, triết lý quản lý của nhiều
công ty nhấn mạnh rủi ro là một nhân tố của quá trình ra quyết định quản lý, khuyến khích chấp nhận rủi
ro và đương đầu với thử thách. [4, tr 28]
2.1.2. Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử
Hàn Phi Tử chủ trương cải tổ để tạo nội lực nhằm cải thiện vị thế bằng thuật và pháp. Tư tưởng pháp
trị của Hàn Phi Tử nhấn mạnh vào mặt “ác” và coi hình phạt chính là cách thức hữu hiệu để ngăn chặn.
Điều này khác hẳn với tư tưởng đức trị của Khổng tử chú trọng đến bản tính “thiện” trong con người. Hàn
Phi Tử cho rằng bản chất mâu thuẫn chính là sự tranh giành quyền lợi. Ông đưa ra ba khái niệm cơ bản
trong thuyết cai trị của mình là: Thế, Pháp và Thuật tức là sử dụng quyền lực, công cụ luật pháp và cách
thức sử dụng. Theo thuyết Pháp trị của Hàn Phi Tử, Thế - Pháp – Thuật là ba “trụ cột” của việc trị quốc,
trị dân; mỗi nhân tố đều có tác động giúp củng cố và phát huy hiệu lực.
Khác với đạo Nho của Khổng Tử, ông đặt vị trí của Thế cao hơn Trí và Đức, coi trọng quyền thế và
đòi hỏi sự phục tùng của quyền lực. Ông cho rằng quyền lực phải được tập trung, thưởng và phạt là công
cụ để cai trị.
Pháp là Pháp luật, được lấy làm căn cứ để phân biệt đúng – sai, phải – trái. Pháp luật phải công
bằng, công khai và phổ biến.
Thuật là nghệ thuật cai trị. Trong khi Khổng tử coi trọng việc “tự cai trị” và cai trị bừng chữ tâm và
đức, thì Hàn Phi Tử lại nhấn mạnh đến nghệ thuật cai trị gồm hai khhía cạnh: kỹ thuật và tâm thuật. Kỹ
thuật là phương pháp, cách thức tuyển dụng, đánh giá và quản lý; trong khi tâm thuật là các mưu mẹo, thủ
thuật khống chế, điều khiển hành vi. [4, tr 29]
Sau hơn 2000 năm, những tư tưởng đạo đức này vẫn có ảnh hưởng rất lớn tới đời sống, xã hội và đến
các lý tuyết quản lý và đạo đức hiện đại ngày nay.

5
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
2.2. Sự phát triển của đạo đức kinh doanh ở phương Tây
Tư tưởng đạo đức học nói chung và đạo đức kinh doanh nói riêng ở phương Tây thường xuất phát từ
những tín điều tôn giáo.
Luật Tiên Tri (Law of Moses) của Tây phương có từ lâu đời đã đưa ra những lời khuyên cho con
người như: Tới mùa thu hoạch ngoài đồng ruộng, không nên gặt hái hết mà chừa một tí hoa mầu ở bên
đường cho người nghèo khó; tới ngày nghỉ lễ hàng tuần thì cả chủ và thợ cũng được nghỉ; sau 50 năm thì
mọi món nợ sẽ được hủy bỏ.
Trong thời Trung Cổ, giáo hội La Mã có luật “Canon Law” đề ra tiêu chuẩn đạo đức trong một số
hoạt động kinh doanh như nguyên tắc “Just wages and just prices” (không nên trả lương cho thợ thấp dưới
mức có thể sống được). [6].
Nhà triết học Hy Lạp cổ đại Aristotle cũng có những quan điểm mà cho đến nay được coi là nền
móng cho đạo đức kinh doanh thời hiện đại. Ông đã nêu ra ý tưởng rằng, nhiệm vụ chính của người thủ
lĩnh không phải là gia tăng quyền lực của mình trước cấp dưới mà là tạo ra những điều kiện để tất cả cán
bộ dưới quyền mình có thể thể hiện được mọi năng lực ở mức cao nhất. Nhiều câu hỏi mà Aristotle đã lập
ra và ngày nay có thể đang khiến các nhà quản lý hiện đại phải đau đầu đi tìm câu trả lời: "Tôi muốn
người ta đối xử với tôi như thế nào khi tôi là thành viên của cơ quan?", "Những tiền đề tiềm năng nào có
được để phát triển các tài năng và cả tiềm năng của các thành viên trong cơ quan?", "Tôi có nhận nhiều
hơn công sức đóng góp của mình vào quỹ chung hay không?", "Liệu hệ thống phân chia lợi nhuận đang có
ảnh hưởng như thế nào tới không khí đạo đức chung của cơ quan?", "Các nhân viên sẽ được nhận tiền
thưởng chiếm bao nhiêu phần trăm số lợi nhuận thu được nhờ áp dụng các sáng kiến và ý tưởng của
họ?"...
Theo thời gian, đạo đức kinh doanh càng trở thành một vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm của các
nhà quản lý cũng như các luật gia. Tuy nhiên, trước thời kỳ Đại Công nghiệp, công việc kinh doanh chủ
yếu là hoạt động thủ công, giản đơn có quy mô nhỏ. Mối quan hệ giữa con người với nhau trong hoạt
động kinh doanh chủ yếu được xây đắp trên cơ sở những quy tắc đạo đức xã hội. Hành vi đạo đức kinh
doanh đồng nhất với hành vi đạo đức xã hội, hay nói cách khác, đạo đức xã hội chính là đạo đức kinh
doanh. Đạo đức kinh doanh chỉ bắt đầu được nghiên cứu nghiêm túc và trở thành một môn khoa học kể từ
nửa sau của thế kỷ XX ở các nước công nghiệp phát triển phương Tây. Chúng ta sẽ cùng nghiên cứu quá
trình phát triển đạo đức kinh doanh trong thời hiện đại tại Mỹ - đại gia công nghiệp của thế giới và cũng
là nơi tập trung nhiều nghiên cứu khoa học nhất thế giới.

2.2.1. Trước năm 1960 – Kinh doanh cần đến đạo đức
Vào những năm 1920, tại nước Mỹ xuất hiện các phong trào tiến bộ đấu tranh đòi đảm bảo cho
người lao động một mức tiền công tối thiểu, mức thu nhập đủ để đảm bảo cho việc tái sản xuất sức lao
động. Bên cạnh đó vào những năm 1930, làn sóng phê phán các công ty trong việc gây ra những hậu quả
bất lợi về kinh tế và xã hội dâng cao, các công ty được yêu cầu phải hợp tác chặt chẽ với chính phủ để cải
6
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
thiện thu nhập và phúc lợi cho dân chúng. Tới những năm 1950, trách nhiệm về môi trường đã được nêu
lên thông qua các cải cách mới và trở thành vấn đề đạo đức đối với các doanh nghiệp. Cho đến trước
những năm 1960, các vấn đề đạo đức kinh doanh thường được thảo luận chủ yếu về mặt lý thuyết. Thông
qua các tổ chức và các hoạt động tôn giáo, các vấn đề đạo đức của cá nhân trong kinh doanh được đưa ra
bàn luận rộng rãi. Các câu hỏi được nêu ra về những vấn đề như mức tiền công xứng đáng, điều kiện lao
động hợp lý. Những người tiên phong đã biên soạn những bài giảng về đạo đức cho các chương trình đào
tạo về tôn giáo và nhấn mạnh các vấn đề đạo đức trong hoạt động kinh doanh, khích lệ mọi người tiết
kiệm, chăm chỉ và nỗ lực. Những truyền thống tôn giáo như vậy đã tạo ra nền tảng cho sự phát triển tương
lai của bộ môn đạo đức kinh doanh ở phương Tây.
2.2.2. Những năm 1960 và 1970 – Đạo đức kinh doanh trở thành một lĩnh vực khoa học
Những năm 60 của thế kỉ XX xã hội Mỹ chứng kiến tình trạng tàn phá cảnh quan ở các khu đô thị
và sự gia tăng các vấn đề sinh thái, như ô nhiễm không khí và xả chất thải độc hại và phóng xạ ra môi
trường sống. Năm 1962 tổng thống Mỹ đưa ra “Consumers’ Bill of Rights” (Tuyên bố về Quyền của người
tiêu dùng) nêu rõ bốn quyền lợi mà người tiêu dùng được bảo vệ là quyền được hưởng sự an toàn, quyền
được biết, quyền được lựa chọn, và quyền được lắng nghe. Phong trào người tiêu dùng nở rộ với việc một
loạt điều luật bảo vệ người tiêu dùng được thông qua như “Đạo luật về thực phẩm tươi sống an toàn”
(1967), “Đạo luật về kiểm soát phóng xạ an toàn” (1968), “Đạo luật về nước sạch”(1972) và “Đạo luật về
chất thải rắn độc hại”(1976).
Tới những năm 1970, đạo đức kinh doanh thực sự bắt đầu trở thành một lĩnh vực khoa học mới. Các
học giả và các nhà tư tưởng tôn giáo đều đề nghị cần áp dụng một số nguyên tắc giáo lý nhất định đối với
các hoạt động kinh doanh. Từ đó, các trường đại học bắt đầu viết sách và giảng dạy những vấn đề liên
quan đến trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Khi một loạt các vấn đề đạo đức kinh doanh như hối lộ,
quảng cáo lừa gạt, thông đồng về giá hay ô nhiễm môi trường nảy sinh thì đạo đức kinh doanh thật sự trở
thành một từ ngữ phổ biến.
2.2.3. Những năm 1980 – Thống nhất quan điểm về đạo đức kinh doanh
Trong thời gian này các nhà nghiên cứu và thực hành đạo đức kinh doanh nhận thấy đây thực sự là
một lĩnh vực khoa học đầy triển vọng. Ngày càng có nhiều đối tượng khác nhau quan tâm đến lĩnh vực
đạo đức kinh doanh. Môn học này được đưa vào chương trình đào tạo của nhiều trường đại học. Đạo đức
kinh doanh cũng trở thành chủ đề được quan tâm thường xuyên ở nhiều công ty lớn như GE, GM,
Caterpillar,... Năm 1986, mười tám chủ thầu trong lĩnh vực quốc phòng đã cùng nhau biên soạn “Defence
Industry on Business Ethics and Conduct” (Sáng kiến về hành vi và đạo đức kinh doanh của ngành công
nghiệp quốc phòng). Sáng kiến này có vai trò quan trọng trong việc hình thành những chuẩn mực đạo đức
và phổ biến chúng rỗng rãi cho các doanh nghiệp, đồng thời đây cũng chính là nền tảng cho những hướng
dẫn soạn thảo luật đối với doanh nghiệp của Ủy ban Lập pháp Mỹ.
2.2.4. Những năm 1990 – Thể chế hóa đạo đức kinh doanh

7
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
Chính phủ Mỹ thời kì này ủng hộ quan điểm tự kiểm soát và tự do hóa thương mại. Chủ yếu được
chú trọng là những vấn đề xã hội liên quan đến sức khỏe về các sản phẩm thuốc lá. Bản “Hướng dẫn Lập
pháp liên bang đối với công ty” được quốc hội Mỹ thông qua năm 1991 trở thành một bước ngoặt quan
trọng; lần đầu tiên đưa ra những hình thức khuyến khích pháp lý hay đưa ra những điều khoản áp dụng
hình phạt nhất định đối với những công ty, tổ chức tìm cách tránh né trách nhiệm đối với các hành vi sai
trái, thiết lập những tiêu chuẩn đạo đức và pháp lý chặt chẽ. Cách tiếp cận cứng nhắc bằng các quy định
pháp lý có tác dụng không đủ mạnh để buộc các doanh nghiệp từ bỏ những lợi ích trước mắt ngay cả khi
hình phạt là rất nặng khi bị phát hiện.
2.2.5. Từ năm 2000 cho tới nay – Sự nở rộ của đạo đức kinh doanh
Đạo đức kinh doanh ngày nay càng được nhiều người quan tâm. Những vấn đề đạo đức trong kinh
doanh được nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau như pháp lý, triết học, lý luận về khoa học xã hội, khoa
học quản lý... Việc nghiên cứu về đạo đức kinh doanh không hàm nghĩa thuần túy áp dụng hay áp đặt các
quy tắc về điều gì nên/được phép hay không nên/không được phép làm trong những hoàn cành cụ thể, mà
liên hệ một cách có hệ thống những khái niệm về trách nhiệm đạo đức với việc ra quyết định trong một tổ
chức.
Hiện nay việc nghiên cứu và thực hành đạo đức trong kinh doanh có xu thế không còn dựa vào
những quy định pháp lý về đạo đức để xây dựng các chương trình hành động, mà hướng tới xây dựng bản
sắc văn hóa và sự đồng thuận trong tổ chức. Nhiều tổ chức đều nhận ra rằng các chương trình đạo đức
kinh doanh thực thụ có thể góp phần quan trọng vào sự thành công của công việc kinh doanh. Sai lầm
trong những hành động về mặt đạo đức có thể làm mất uy tín của một tổ chức hay làm mất đi hình ảnh của
sản phẩm của công ty đó.

3. Các khía cạnh thể hiện đạo đức kinh doanh


Đạo đức kinh doanh là một phạm trù khá rộng và trừu tượng, được nhìn nhận dưới nhiều cách khác
nhau. Do đó, trong giới hạn của luận văn này, người viết xin phép nghiên cứu các khía cạnh thể hiện đạo
đức kinh doanh dưới góc độ của nhà quản lý doanh nghiệp trong mối quan hệ với các đối tượng hữu quan.
Đối tượng hữu quan là những người vì lý do riêng có mối quan tâm và/hoặc có thể bị ảnh hưởng,
trực tiếp hoặc gián tiếp, bởi một quyết định hay kết quả của một quyết định; họ là những người có quyền
lợi cần được bảo vệ và có thể có phản ứng hay khả năng can thiệp nhằm làm thay đổi quyết định hay kết
quả theo chiều hướng nhất định [4, tr 55]. Tất cả các đối tượng này đều có ảnh hưởng đến cách thức và
phương pháp hoạt động của doanh nghiệp. Dưới sự tác động ấy, các chức năng quản trị của nhà quản lý
doanh nghiệp như hoạch định, tổ chức, lãnh đạo, và kiểm soát cũng sẽ thay đổi. Đối tượng hữu quan có
thể là những người bên trong hoặc bên ngoài tổ chức, công ty; họ có thể chịu ảnh hưởng hay có ảnh hưởng
trực tiếp hoặc gián tiếp; quan điểm, mối quan tâm và lợi ích của các đối tượng này cũng rất khác nhau.
Theo cách chia chủ quan của người viết, ta sẽ nghiên cứu các khía cạnh thể hiện đạo đức kinh doanh
theo 4 nhóm chính (xem hình 1).

8
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
Hình 1 – Các nhóm đối tượng hữu quan

3.1. Đối với người lao động


- Nguyên tắc đảm bảo quyền đãi ngộ bình đẳng và xứng đáng cho người lao động
Một vấn đề đạo đức xảy ra không chỉ tại các doanh nghiệp Việt Nam mà tại rất nhiều doanh nghiệp
khác trên thế giới đó là tình trạng phân biệt đối xử trong hoạt động tuyển dụng và quản trị nhân sự. Theo
đó, người lao động sẽ không được hưởng những lợi ích như nhau với các điều kiện ngang bằng nhau. Sự
phân biệt xảy ra có thể là vì chủng tộc, giới tính, tôn giáo, địa phương, vùng văn hóa, tuổi tác hay thể chất.
Trên thế giới, vấn đề đãi ngộ bình đẳng cho người lao động đã được thể chế hóa ở nhiều nước thành luật
Equal Employment Opportunity (EEO) - cơ hội bình đẳng trong nghề nghiệp. Đây là một luật khá quan
trọng tại Mỹ, Canada, Úc và một số nước tiên tiến khác. Luật EEO yêu cầu tạo cơ hội bình đẳng cho tất cả
mọi người lao động. Theo đó, khi người chủ lao động tiến hành những quyết định về nhân sự - tuyển
dụng, sử dụng, đãi ngộ, thăng tiến, và sa thải người lao động - thì phải thực hiện hết sức công bằng và
bình đẳng dựa vào những yếu tố như năng lực, kỹ năng, kinh nghiệm và những thành quả lao động của cá
nhân đó. Người sử dụng lao động không được đưa ra những quyết định nhân sự dựa vào những yếu tố có
tính cách phân biệt đối xử như chủng tộc, màu da, tôn giáo, giới tính, nguyên quán, tuổi tác, bệnh tật, tình
trạng hôn nhân, xu hướng chính trị.
Luật pháp thừa nhận quyền của các công ty, tổ chức trong việc tuyển dụng những người có năng lực
nhất vào các vị trí công tác khác nhau theo yêu cầu trong bộ máy tổ chức. Tuy nhiên, luật cũng ngăn chặn
việc doanh nghiệp sa thải người lao động một cách tùy tiện và bất hợp lý. Những quyền cơ bản của người
lao động cần được bảo vệ là quyền được sống và làm việc, và quyền có cơ hội lao động như nhau. Việc sa
thải người lao động mà không có những bằng chứng cụ thể về việc người lao động không đủ năng lực
hoàn thành các yêu cầu hợp lý của công việc cũng được coi là vi phạm.
Ngoài ra, nghĩa vụ kinh tế của một tổ chức là tạo công ăn việc làm với mức thù lao tương xứng.
Doanh nghiệp cũng không được xem nhẹ vấn đề sử dụng lao động, sử dụng chất xám của nhân viên nhưng
9
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
không đãi ngộ xứng đáng với công sức đóng góp của họ. Đây là một hình thức bóc lột lao động để gia
tăng lợi nhuận tiêu cực. Một nguyên tắc đạo đức kinh doanh ở đây doanh nghiệp cần lưu ý là lợi nhuận
của một công ty luôn tương quan với sự đóng góp của người lao động.
- Nguyên tắc tôn trọng quyền riêng tư cá nhân
Một vấn đề khác mà các nhà quản lý cần lưu ý là phải tôn trọng quyền riêng tư cá nhân của người
lao động. Việc nắm thông tin về nhân viên của công ty về cơ bản là nhằm xác minh điều kiện về năng lực
và trạng thái thể chất của người lao động. Đồng thời, công ty cũng mong muốn có những nhân viên có
năng lực nhất, chi phí sản xuất thấp để đạt mục tiêu hiệu quả. Việc thu thập thông tin có thể được tiến
hành dưới nhiều hình thức: có thể do người lao động tự nguyện cung cấp; có thể do tổ chức công ty tiến
hành xác minh, điều tra, xét nghiệm; có thể thông qua các phương tiện kỹ thuật hiện đại để giám sát, theo
dõi hàng ngày. Công nghệ hiện đại không chỉ giảm nhẹ gánh nặng cho người quản lý mà còn tăng độ
chính xác trong việc phối hợp, điều hành kiểm soát và tăng tính hiệu quả của hoạt động sản xuất nói
chung. Tuy nhiên, giám sát từ xa bằng thiết bị hiện đại có thể gây áp lực tâm lý bất lợi cho người lao động
như cảm thấy bị giám sát thường xuyên, áp lực công việc, lo sợ mơ hồ, sự riêng tư bị xâm phạm, cường độ
lao động gia tăng, mất tự do và tự tin. Họ có quyền được tự chủ và tự do trong suy nghĩ và hành động. Vì
vậy mặc dù được coi là hợp lý, nhưng việc kiểm tra giám sát thu thập và sử dụng thông tin về các cá nhân
vẫn có thể bị coi là khó chấp nhận về mặt đạo đức ngay cả khi điều đó là nhằm mục đích bảo đảm công
việc sản xuất diễn ra tốt đẹp. Nhưng càng không thể chấp nhận được nếu những thông tin thu thập được
không phục vụ cho công việc hoặc thậm chí có thể bị lạm dụng vào các mục đích không liên quan hoặc
gây bất lợi cho người lao động.
Vì vậy, nguyên tắc đạo đức kinh doanh mà doanh nghiệp phải lưu ý là người lao động có quyền
được biết về động cơ và các phương tiện kỹ thuật sử dụng để thu thập thông tin và mục đích sử dụng
thông tin thu thập được của người quản lý. Công ty cần phải đảm bảo tính an toàn cho người lao động, vì
đây không chỉ là một yêu cầu pháp lý mà còn là một lợi ích rất thiết thực. Người lao động luôn muốn có
được môi trường và điều kiện an toàn và thuận lợi nhất cho việc phát huy năng lực và ưu thế riêng; do đó
đảm bảo độ riêng tư về thông tư đồng thời biết cách sử dụng đúng mục đích những thông tin cá nhân của
người lao động sẽ giúp cho công ty và tổ chức đạt được mục tiêu hiệu quả.
- Nguyên tắc đảm bảo điều kiện, môi trường làm việc
Luật pháp bảo vệ người lao động không chỉ bằng cách ngăn chặn tình trạng người lao động phải làm
việc trong các điều kiện nguy hiểm, độc hại, mà vòn bảo vệ quyền của họ trong việc “ được biết và được
từ chối các công việc nguy hiểm hợp lý”. Trong trường hợp các công việc nguy hiểm được nhận thức đầy
đủ và được người lao động tự nguyện chấp nhận, luật pháp cũng buộc các tổ chức, công ty phải đảm bảo
trả mức lương tương xứng với mức độ nguy hiểm và rủi ro của công việc đối với người lao động.
Liên quan tới sự an toàn về sức khỏe và sinh mạng của người lao động có hai khái niệm cần phân
biệt: an toàn lao động và vệ sinh công nghiệp. Trong đạo đức kinh doanh, vấn đề an toàn lao động thường
được sử dụng để chỉ các hoàn cảnh, tình trạng nguy hiểm hay có hại đối với sức khỏe của người lao động
10
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
mà hậu quả của chúng thường xuất hiện bất ngờ, thiệt hại được thể hiện cụ thể, nguyên nhân hay yếu tố
gây tai nạn có thể xác minh tương đối dễ dàng. Khái niệm y tế (vệ sinh) công nghiệp thường gắn với các
trường hợp liên quan đến bệnh nghề nghiệp do hậu quả phát tác về sau, nguyên nhân và nhân tố ảnh
hưởng khó xác minh và thường rất phức tạp, ảnh hưởng khó nhận thấy tức thời. Vì vậy, chúng ít được đề
phòng hơn.
Người lao động luôn phải làm việc trong những điều kiện và hoàn cảnh khác hẳn so với môi trường
sống quen thuộc. Không mấy khi họ có khả năng điều chỉnh hay thay đổi môi trường làm việc theo ý
muốn của mình. Trong khi đó, năng lực thích nghi của mỗi người lại không giống nhau và có hạn. Hậu
quả có thể là những tai nạn bất ngờ hoặc là những ảnh hưởng bất lợi về sức khỏe và tâm sinh lý sau này
mới phát tác. Kèm theo đó là những thiệt hại về kinh tế do mất hoặc giảm khả năng lao động. Vì vậy,
nghĩa vụ của doanh nghiệp phải cung cấp những điều kiện lao động hợp lý. Doanh nghiệp cần phải nhận
thức đúng đắn về tầm quan trọng phải có được một môi trường an toàn và sạch sẽ. Các biện pháp bảo hộ
tuy tốn kém tiền bạc những có thể được coi là những tiền đề cần thiết cho việc tiến hành các hoạt động sản
xuất kinh doanh nhằm thu lợi lâu dài. Chỉ khi được đảm bảo an toàn về mặt thể chất và tinh thần thì người
lao động mới phát huy tối đa năng lực của mình vì lợi ích của công ty, khi đó công ty sẽ có nguồn sức
mạnh rất lớn từ sự trung thành và tận tụy của người lao động. Vì vậy, các vấn đề về bảo hộ và vệ sinh
công nghiệp cần được coi như những khoản đầu tư về hạ tầng cho các hoạt động chính của công ty. Xét từ
góc độ tài chính, những khoản chi tiêu này cũng có ý nghĩa như những khoản chi tiêu cho việc xây dựng
các công trình phúc lợi, chi phí cho quảng cáo nhằm tạo “sự an toàn về tương lai” cho công ty. Với những
khoản chi tiêu này, hình ảnh của công ty sẽ được cải thiện.
Người lao động cần được trang bị các phương tiện bảo hộ hợp lý và đầy đủ, được tập huấn về an
toàn lao động và các vấn đề liên quan. Doanh nghiệp cần phải cung cấp các thông tin liên quan, hạn chế
các biện pháp ép buộc những người lao động có đặc điểm cá biệt về thể chất hay tâm sinh lý (ví dụ thể
lực, chiều cao, bệnh mãn tính, phụ nữ…) làm các công việc có thể gây nguy hiểm họ. Ngoài ra, doanh
nghiệp còn có trách nhiệm thu thập và phát hiện những thông tin mới liên quan đến những tai nạn, rủi ro
nghề nghiệp để thông báo và phối hợp với người lao động trong việc phòng ngừa.

3.2. Đối với khách hàng


Không có một tổ chức hay công ty nào có thể tồn tại được nếu thiếu đối tượng phục vụ là khách
hàng. Khách hàng chính là người thể hiện nhu cầu, sử dụng hàng ngày dịch vụ, đánh giá chát lượng, tái
tạo và phát triển nguồn tài chính cho doanh nghiệp. Do vậy, mọi hoạt động của công ty đều phải định
hướng vào khách hàng vì họ là người quyết định cuối cùng cho việc công ty sẽ thất bại hay thành công.
- Nguyên tắc cung cấp thông tin trung thực về sản phẩm
Luôn luôn xuất hiện sự bất bình đẳng thông tin giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Người hiểu
rõ về sản phẩm nhất chính là người sản xuất ra nó. Trong khi đó, người tiêu dùng lại chỉ có trong tay vốn
kiến thức hạn hẹp về sản phẩm. Bởi vậy, người tiêu dùng đôi khi chịu thiệt trong việc mua hàng và thường

11
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
bị các công cụ marketing hiện đại đánh lạc hướng khi đưa ra quyết định có mua hàng hay không. Quảng
cáo lừa gạt và quảng cáo không trung thực là những biểu hiện cụ thể của các vấn đề đạo đức kinh doanh
và thường được che giấu rất kỹ lưỡng dưới những hình thức, hình ảnh lời văn rất hấp dẫn. Điều này dẫn
đến niềm tin sai lầm của người tiêu dùng và sau khi sử dụng sản phẩm gây nên nỗi thất vọng của khách
hàng. Việc dán nhãn mác cũng có thể gây ra những vấn đề đạo đức khó nhận biết. Những thông tin trên
nhãn mác đôi khi không giúp ích khách hàng trong việc lựa chọn hay sử dụng, hoặc không đánh giá nội
dung bên trong của sản phẩm. Bán khuyến mại cũng có thể dẫn đến những vấn đề đạo đức do khách hàng
không dễ nhận ra được những thông tin che đậy dưới những hình thức quảng cáo như vậy. Đó có thể là
những hình thức bán kèm, bán tháo hàng tồn kho, chất lượng thấp…Bán hàng qua mạng hay thương mại
điện tử có thể trở thành một cơ hội cho các hành vi lừa gạt do khách hàng có sự nhận biết sai lệch hoặc
thiếu thông tin. Chính thông tin không chính xác có thể làm mất đi sự tin cậy của người tiêu dùng đối với
tổ chức.
Do đó vấn đề đạo đức kinh doanh đặt ra ở đây với doanh nghiệp là họ cần giúp người tiêu dùng hiểu
biết đúng về sản phẩm, công năng và cách thức khai thác, những thông tin cần thiết cũng được cung cấp
thông qua bao gói, nhãn hiệu, ghi chú.
- Nguyên tắc đảm bảo lợi ích bền vững cho khách hàng
Trách nhiệm của doanh nghiệp đối với khách hàng của mình là phát hiện nhu cầu, làm ra những sản
phẩm, dịch vụ có thể thỏa mãn nhu cầu của họ. Tuy nhiên một vấn đề đạo đức kinh doanh liên quan tới
khách hàng có thể nảy sinh từ việc xuất không cân đối được nhu cầu trước mắt và nhu cầu lâu dài của
khách hàng.Trong những năm gần đây, mối quan tâm của người tiêu dùng và xã hội không chỉ dừng lại ở
sự an toàn đối với sức khỏe và lợi ích của những người tiêu dùng trong quá trình sử dụng các sản phẩm và
dịch vụ cụ thể, mà được dành cho những vấn đề mang tính xã hội, lâu dài hơn liên quan đến quá trình sản
xuất sản phẩm và dịch vụ như bảo vệ môi trường. Người tiêu dùng muốn có nguồn năng lượng rẻ và dồi
dào cho việc vận hành phương tiện giao thông và sản xuất; nhưng họ không muốn các nhà máy điện thải
ra các chất gây ô nhiễm phá hủy cảnh quan, môi trường sinh thái quanh nơi họ sống hoặc bệnh tật đối với
người dân quanh vùng. Nếu nhà sản xuất chỉ chạy theo nhu cầu trước mắt mà không tính đến mong muốn
lâu dài của họ là những sản phẩm đó không được gây ô nhiễm môi trường, nguồn nước thì những sản
phẩm của nhà sản xuất đó cũng không được chấp nhận trên thị trường.
- Nguyên tắc bảo mật thông tin cho khách hàng
Với tốc độ phát triển khá nhanh của máy tính và Internet thì vấn đề đạo đức ngày càng nhức nhối
liên quan đến khách hàng là việc bảo mật thông tin cá nhân. Công nghệ hiện đại giúp ích rất nhiều cho
việc thu thập, lưu trữ và xử lý các thông tin cá nhân. Một vấn đề đạo đức kinh doanh nảy sinh từ việc
khách hàng không thể kiểm soát được những thông tin cá nhân mà công ty đã thu thập và vì thế, các doanh
nghiệp có thể lạm dụng chúng vào các mục đích khác nhau ngoài mong muốn của khách hàng. Những
thông tin này có thể được cung cấp cho các công ty khách để truy nhập vào hộp thư riêng để quảng cáo,

12
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
gửi hoặc lấy thông tin. Nhiều công ty muốn có được những thông tin đó chỉ để quảng bá sản phẩm được
dễ dàng hơn nhưng điều này cũng lại vi phạm sự riêng tư của khách hàng.
- Nguyên tắc an toàn sản phẩm
Một vấn đề đạo đức kinh doanh điển hình liên quan đến người tiêu dùng là an toàn sản phẩm, bao
gồm vệ sinh thực phẩm. An toàn sản phẩm còn liên quan tới những rủi ro tiềm ẩn do những khiếm khuyết
của sản phẩm. Khiếm khuyết có thể là do thiết kế sai, công nghệ sản xuất không hoàn thiện, người lao
động cẩu thả, người quản lý vô trách nhiệm, thậm chí chỉ vì tiết kiệm nguyên liệu hay chi phí sản xuất.
Những sản phẩm khiếm khuyết tiềm ẩn những tai nạn, rủi ro bất ngời không thể đề phòng và chống đỡ đối
với người sử dụng. Việc kinh doanh những sản phẩm như vậy không chỉ gây ra những thiệt hại về doanh
số trước mắt mà còn gây khó khăn về lâu dài, do làm mất đi sự tin cậy và lòng trung thành của khách hàng
đối với sản phẩm và công ty, tạo nên ấn tượng và hình ảnh bất lợi cho công ty. Do đó doanh nghiệp cần
phải tuân thủ các tiêu chuẩn về độ an toàn thiết kế, sử dụng nguyên liệu hợp chuẩn, tuân thủ nghiêm ngặt
các quy tắc kĩ thuật và công nghệ trong quá trình gia công và lắp ráp, kiểm tra chất lượng, bao gói để tránh
hư hại, biến chất.

3.3. Đối với cộng đồng xã hội - Trách nhiệm xã hội


Đạo đức kinh doanh đối với đối tượng cộng đồng xã hội hiện nay đang rất được quan tâm. Vấn đề
này liên quan mật thiết với khái niệm “trách nhiệm xã hội” (CSR – Corporate Social Responsibility).
Cộng đồng xã hội là một đối tượng hữu quan đặc biệt. Hoạt động của doanh nghiệp có thể gây ảnh hưởng
đến môi trường tự nhiên – văn hóa – xã hội xung quanh nơi doanh nghiệp hoạt động và đến môi trường
sống của họ. Khi cuộc sống và lợi ích của cộng đồng vì thế bị ảnh hưởng, họ luôn quan tâm và đòi hỏi
doanh nghiệp phải có ý thức và có trách nhiệm về sự bền vững và lành mạnh của môi trường tự nhiên –
kinh tế - văn hóa – xã hội tại cộng đồng. Để thực hiện điều đó, doanh nghiệp đòi hỏi phải thực hiện đầy đủ
và tự nguyện các trách nhiệm xã hội của mình.
- Nguyên tắc bảo vệ môi trường tự nhiên
Sản xuất về mặt xã hội ngày nay đã đặt ra hai vấn đề mà các nước đều đang cần phải giải quyết: nạn
ô nhiễm môi trường và tình trạng cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. Chưa bao giờ trong lịch sử con người
vấn đề đạo đức trong kinh doanh liên quan môi trường lại được quan tâm đến vậy. Nguyên nhân chính là
sự bành trướng vô giới hạn của các doanh nghiệp ngày càng sử dụng nhiều chất độc hại và khai thác tài
nguyên bừa bãi như nạn phá rừng, đánh bắt cá hủy diệt sinh thái…Có rất nhiều chủ sở hữu đặt lợi ích của
bản thân lên trên lợi ích xã hội, mục tiêu của họ là tối đa hóa lợi nhuận và phớt lờ đi những quy định,
những chuẩn mực của xã hội về môi trường. Và cái giá mà những người chủ này phải trả đó chính là sự
tẩy chay hàng hóa của những doanh nghiệp không tuân thủ những đạo luật về môi trường. Những doanh
nghiệp đó sẽ không thể tồn tại nếu không tuân thủ những vấn đề đạo đức mang tính xã hội. Một vấn đề
phổ biến được quan tâm hiện nay là việc thải chất thải độc hại trong sản xuất vào môi trường không khí,
nước, đất đai và tiếng ồn. Bao bì được coi là một nhân tố quan trọng trong các biện pháp marketing của

13
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
doanh nghiệp nhưng chúng chỉ có giá trị đối với người tiêu dùng trong quá trình lựa chọn và bảo quản
hàng hóa. Chất thải bao bì ngày càng trở nên nghiêm trọng, trong khi các doanh nghiệp lại ngày càng coi
trọng yếu tố marketing này.
Trách nhiệm của doanh nghiệp là phải gắn liền công việc sản xuất, kinh doanh, dịch vụ với công
nghệ xử lý chất thải, với nghĩa vụ bảo vệ môi trường sinh thái và tài nguyên thiên nhiên. Việc khai thác tài
nguyên thiên nhiên cũng phải hợp lý để bảo vệ cân bằng sinh thái, tránh các hiểm họa, thiên tai cho con
người.
- Nguyên tắc bảo vệ môi trường văn hóa – xã hội
Bên cạnh những vấn đề ô nhiễm môi trường tự nhiên, vật chất, vấn đề bảo vệ môi trường văn hóa –
xã hội, phi vật thể cũng được chú trọng ở nhiều quốc gia. Ngoài việc có thể làm thay đổi cảnh quan và môi
trường tự nhiên, sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp tại địa phương còn có thể làm thay đổi nếp sống,
nếp nghĩ và thói quen, tập tục địa phương. Những giá trị truyền thống có thể biến mất, thay vào đó là
những giá trị và thói quen mới. Tác động của các biện pháp và hình thức quảng cáo tinh vi, đặc biệt thông
qua phim ảnh, có thể dẫn đến những trảo lưu tiêu dùng, làm xói mòn giá trị văn hóa và đạo đức truyền
thống, làm thay đổi giá trị tinh thần và triết lý đạo đức xã hội, làm mất đi sự trong sáng và tinh tế của ngôn
ngữ.
Vì vậy, các quyết định kinh doanh không chỉ được xem xét về khía cạnh kinh tế, pháp lý mà còn cần
cân nhắc đến lợi ích của những người dân địa phương. Xét cho cùng, cộng đồng xã hội chính là thị trường
lâu dài của doanh nghiệp; do đó bảo vệ lợi ích của cộng đồng cũng là bảo vệ lợi ích lâu dài của chính
doanh nghiệp.
- Nguyên tắc nhân đạo chiến lược
Giúp đỡ những người bất hạnh hay đóng góp cho giáo dục cũng là một lĩnh vực nhân đạo thuộc
phạm vi của trách nhiệm xã hội. Những người bị bệnh thì luôn mong muốn được điều trị, nhưng đôi khi
họ không có khả năng tiếp cận với các phương pháp chữa trị cần thiết chỉ vì khả năng tài chính có hạn.
Trong khi giáo dục luôn đóng vai trò quan trọng không chỉ đối với quốc gia hay cá nhân mỗi người mà
còn đối với công ty trong tương lai. Vì thế hình ảnh những doanh nhân làm từ thiện cũng là một hình ảnh
mà doanh nghiệp cần vươn tới, bởi khía cạnh nhân đạo chiến lược này sẽ giúp doanh nghiệp củng cố và
phát triển lợi ích đa phương với các đối tượng hữu quan khác, và được coi là các khoản đầu tư khôn ngoan
cho tương lai.

3.4. Đối với các đối tượng hữu quan khác


Như đã phân tích ở trên, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp còn có tác động và bị tác
động ngược trở lại bởi rất nhiều đối tượng hữu quan khác nữa. Ngoài ba đối tượng hữu quan chính là
người lao động, khách hàng và cộng đồng xã hội mà người viết lựa chọn để phân tích kĩ trong bài luận văn
này, còn có những đối tượng hữu quan khác như: cổ đông, chính phủ, nhà cung cấp, hiệp hội kinh doanh
và ngành, các đối thủ cạnh tranh, các nhóm hoạt động xã hội, công đoàn và giới truyền thông.

14
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
Chúng ta hãy xét về vấn đề đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp đối với cổ đông của công ty. Vấn
đề đạo đức kinh doanh thể hiện ở đây liên quan đến việc thông báo tình trạng tài chính hàng năm cho cổ
đông. Công việc kế toán có nhiệm vụ chuẩn bị và cung cấp những thông tin, số liệu về tình trạng tài chính
của doanh nghiệp; nêu lên kết quả hoạt động của doanh nghiệp, xác minh giá trị tài sản của công ty. Số
liệu tài chính cung cấp những thông tin quan trọng, giúp cổ đông ra những quyết định liên quan đến việc
đầu tư, phát triển hay điều chỉnh những nguồn tài chính lớn. Tuy nhiên, trong các doanh nghiệp, việc điều
chỉnh số liệu trong các bảng cân đối kế toán cuối kỳ cũng là một điều hiển nhiên, đa phần là những thay
đổi nhỏ mang mục đích tích cực cho phù hợp với những biến động của thị trường, những tác động cạnh
tranh hay do chu kỳ sản xuất kinh doanh của ngành, của công ty. Vì đối với cổ đông, việc kế toán lên
xuống có thể là dấu hiện không ổn định. Việc cổ đông không yên tâm và rút vốn có thể sẽ làm cho công ty
rơi vào tình thế khó khăn. Nhưng dù thiện chí hay không, việc cung cấp thông tin không chính xác, vô tình
hay hữu ý, có thể được coi là lường gạt. Và khi bị phát hiện việc làm này sẽ làm mất niềm tin của cổ đông.
Với chính phủ, vấn đề sai lệch báo cáo tài chính cũng là một vấn đề đạo đức kinh doanh. Báo cáo
tài chính chính là căn cứ chủ yếu để nhà nước quản lý các doanh nghiệp. Bất kì chính phủ nào cũng đặt ra
các tiêu chuẩn, quy định chung mà các kế toán viên của từng doanh nghiệp phải tuân theo như các chuẩn
mực kế toán. Các số liệu kế toán đòi hỏi phải chính xác đến từng con số trong khi không phải lúc nào
nhân viên kế toán cũng có thể dự trù hết được những chi phí vượt trội và không chính thức. Số liệu báo
cáo sai lệch lại dẫn đến tiền thuế nộp cho Nhà nước thay đổi. Như vậy vấn đề đạo đức kinh doanh mới
nảy sinh chính là trốn thuế, dù nhiều hay ít thì đây cũng là một việc vi phạm pháp luật.
Hoạt động của doanh nghiệp còn liên quan đến các công ty khác trong và ngoài ngành, và đặc biệt
ảnh hưởng tới những đối thủ cạnh tranh trực tiếp. Đó là những doanh nghiệp, tổ chức, công ty hoạt động
trong cùng một thị trường, một lĩnh vực. Cạnh tranh trong thương trường là không tránh khỏi và được coi
là nhân tố thị trường tích cực. Cạnh tranh thúc đẩy các doanh nghiệp phải cố vượt lên trên đối thủ và lên
chính bản thân mình. Đối với nhiều doanh nghiệp, cạnh tranh thành công thể hiện bằng lợi nhuận, thị
phần. Lợi nhuận và thị phần càng cao càng tốt, vì thể họ mong muốn đạt được bằng nhiều cách trong đó
có cả các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh, không được các công ty trong ngành và xã hội chấp
nhận và thậm chí phải đương đầu với sự phán xét của hệ thống giá trị xã hội và pháp lý. Khi đó, kết quả
đạt được về lợi nhuận và thị phần không còn mang ý nghĩa tích cực mà chỉ là những tính toán ích kỷ,
thiển cận.
Bên cạnh đó, còn có rất nhiều các đối tượng hữu quan khác như công đoàn, các nhà cung cấp, hiệp
hội ngành,… mà một doanh nghiệp đều phải cân nhắc và có hành xử đúng mức phù hợp với các chuẩn
mực đạo đức kinh doanh tương ứng. Trong số các đối tượng hữu quan chúng ta đã đề cập, không thể nói
tầm ảnh hưởng và phản ứng của các đối tượng này quan trọng hơn hay kém quan trọng hơn đối tượng
khác đối với một doanh nghiệp, bởi những đôi tượng này có mối quan tâm và lợi ích khác nhau. Doanh
nghiệp vận hành sản xuất, kinh doanh trong một môi trường là sự tổng hòa của tất cả các đối tượng hữu
quan này.
15
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẠO ĐỨC KINH DOANH VÀ VĂN HÓA DOANH NGHIỆP

1. Khái niệm về văn hóa doanh nghiệp

1.1. Định nghĩa văn hóa doanh nghiệp (VHDN)


Thuật ngữ văn hóa công ty, hay văn hóa doanh nghiệp (corporate culture) là một khái niệm được biết
với các tên khác như văn hóa tổ chức (organization culture) hay văn hóa kinh doanh (business culture).
Bởi sự phong phú của khái niệm văn hóa, khái niệm văn hóa doanh nghiệp cũng vô cùng đa dạng.
Charles W. L. Hill và Gareth R. Jones nêu lên định nghĩa về VHDN như sau: “Organizational
culture is the specific collection of values and norms that are shared by people and groups in an
organization and that control the way they interact with each other and with stakeholders outside the
organization.” [45]. (Văn hóa tổ chức là một tập hợp cụ thể các giá trị và quy tắc cùng được chia sẻ bởi
các thành viên và các nhóm trong một tổ chức và điều chỉnh cách họ tương tác với nhau cũng như với các
đối tượng hữu quan khác bên ngoài tổ chức đó)
Các tác giả của Việt Nam cũng đưa ra rất nhiều tranh luận xung quanh vấn đề này.
Theo tác giả Đỗ Minh Cương thì: “Văn hóa doanh nghiệp (văn hóa công ty) là một dạng của văn
hóa tổ chức bao gồm những giá trị, những nhân tố văn hóa mà doanh nghiệp làm ra trong quá trình sản
xuất kinh doanh”. [1].
PGS. TS. Nguyễn Mạnh Quân đưa ra định nghĩa: “Văn hóa công ty là một hệ thống các ý nghĩa, giá
trị, niềm tin chủ đạo, nhận thức và phương pháp tư duy được mọi thành viên của một tổ chức cùng đồng
thuận và có ảnh hưởng ở phạm vi rộng đến cách thức hành động của các thành viên”. [4, tr 249]

1.2. Vai trò của văn hóa doanh nghiệp


- VHDN có vai trò to lớn đối với việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- VHDN là tài sản tinh thần của doanh nghiệp, là nguồn lực để doanh nghiệp phát triển bền vững và
là bộ phận quan trong nhất trong những nguồn lực vô hình của doanh nghiệp
- VHDN điều chỉnh hành vi của nhân viên trong doanh nghiệp. Những doanh nghiệp có nền văn hoá
tích cực sẽ tạo ra bầu không khí làm vệc hăng say hào hứng vì mục tiêu chung khiến cho các cá nhân
thường xuyên phấn đấu để đạt nhiều lợi ích cho bản thân và doanh nghiệp.
- VHDN định hướng cho hoạt động của doanh nghiệp. VHDN thậm chí quyết định cả ý nghĩa, việc
làm của công nhân, viên chức vì nó khẳng định tính chân chính của công việc và lý tưởng của doanh
nghiệp.

2. Đạo đức kinh doanh là giá trị cốt lõi của văn hóa doanh nghiệp
Bản thân văn hóa và đạo đức cũng là hai phạm trù đồng đẳng. Ở cấp độ quốc gia và dân tộc, văn hóa
và đạo đức đều thể hiện những điều tốt đẹp nhất, kết tinh qua quá trình phát triển lâu dài của cả đất nước
đó. Khái niệm đạo đức kinh doanh và VHDN cũng vậy. Đạo đức kinh doanh và VHDN đều là những chắt
lọc giá trị mà doanh nghiệp đã cố gắng và đạt được qua quá trình hoạt động và phát triển.
16
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
Xét ở một góc độ nào đó thì đạo đức kinh doanh là một phần của VHDN (đây là ý kiến của riêng tác
giả hay trích dẫn). Bởi VHDN là sự tổng hòa của quan niệm giá trị, tiêu chuẩn đạo đức, triết lý kinh
doanh, quy phạm hành vi, ý tưởng kinh doanh, phương thức quản lý và quy tắc chế độ được toàn thể thành
viên trong doanh nghiệp chấp nhận, tuân theo. Thành phần quan trọng nhất trong VHDN chính là triết lý
kinh doanh, là định hướng của doanh nghiệp để phát triển kinh doanh. Khi xây dựng được triết lý kinh
doanh của riêng mình, bản thân doanh nghiệp đã tự xác định những chuẩn mực đạo đức mà họ cần tuân
theo để thống nhất với triết lý ấy. Những chuẩn mực ấy đương nhiên luôn được các doanh nghiệp xây
dựng nhằm mang lại lợi ích không chỉ cho công ty mà còn cho cộng đồng xã hội, cho người lao động…
Đó chính là đạo đức kinh doanh. Như vậy, một doanh nghiệp muốn xây dựng một nền VHDN vững mạnh
và có ảnh hưởng thì doanh nghiệp đó phải xây dựng những quy định trong đạo đức kinh doanh thật đúng
đắn, hợp với mong muốn và lợi ích xã hội.
Khi đánh giá VHDN của một doanh nghiệp, chúng ta không chỉ nhìn vào những biểu hiện hữu hình
bên ngoài của doanh nghiệp như logo, đồng phục… mà còn dựa vào những hành xử của doanh nghiệp
trong kinh doanh, liệu doanh nghiệp đó có một môi trường làm việc tốt cho người lao động hay không, có
đóng góp cho xã hội hay sản phẩm của họ có đảm bảo chất lượng và an toàn cho khách hàng khi sử dụng?
Đó cũng chính là những vấn đề của đạo đức kinh doanh. Như vậy, đánh giá VHDN bao hàm cả đánh giá
đạo đức kinh doanh. Có đạo đức kinh doanh tức là doanh nghiệp đã có nền tảng cho một nền VHDN bền
vững.

III. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẠO ĐỨC KINH DOANH VÀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI

1. Khái niệm trách nhiệm xã hội

1.1. Định nghĩa về Trách nhiệm xã hội (CSR)


Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR – Corporate Social Responsibilities) đang là xu thế ngày
càng lớn mạnh trên thế giới. Trong nền kinh tế hội nhập hiện nay, CSR đang dần trở thành một khái niệm
được nhiều người quan tâm và có tầm quan trọng chiến lược đối với doanh nghiệp. Người ta nhắc tới CSR
không chỉ là “điều đúng đắn cần làm” mà còn là “điều khôn ngoan nên làm”. Đã có rất nhiều định nghĩa
của đông đảo các nhà nghiên cứu và nhà kinh doanh đưa ra về CSR.
Prakash Sethi đưa ra định nghĩa về CSR năm 1975 như sau: “Trách nhiệm xã hội hàm ý nâng hành
vi của doanh nghiệp lên một mức phù hợp với các quy phạm, giá trị và kỳ vọng xã hội đang phổ biến”.
Hay định nghĩa của nhà kinh tế Archie.B Carroll đưa ra vào năm 1979: “Trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp bao gồm sự mong đợi của xã hội về kinh tế, luật pháp, đạo đức và lòng từ thiện đối với các
tổ chức tại một thời điểm nhất định”.
Maignan và Ferrell cũng đưa ra khái niệm súc tích về CSR: “Một doanh nghiệp có trách nhiệm xã
hội khi quyết định và hoạt động của nó nhằm tạo ra và cân bằng các lợi ích khác nhau của những cá
nhân và tổ chức liên quan”.

17
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
Còn theo định nghĩa của Nhóm phát triển kinh tế tư nhân của Ngân hàng thế giới về CSR, được coi
là một định nghĩa khá hoàn chỉnh và rõ ràng nhất thì: “CSR là sự cam kết của doanh nghiệp đóng góp vào
việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua những hoạt động nhằm nâng cao chất lượng đời sống của
người lao động và các thành viên gia đình họ, cho cộng đồng và toàn xã hội, theo cách có lợi cho cả
doanh nghiệp cũng như phát triển chung của xã hội” [40].

1.2. Nội dung của Trách nhiệm xã hội


THXH của doanh nghiệp hiện nay đã phổ biến nhưng vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về khái
niệm, nội dung và phạm vi của CSR. Trong số đó, mô hình “kim tự tháp” của A. Carroll có tính toàn diện
và được sử dụng rộng rãi nhất. Theo đó, CSR bao gồm trách nhiệm kinh tế, pháp lý, đạo đức và từ thiện
(xem hình 2).
Hình 2- Mô hình kim tự tháp trách nhiệm xã hội (CSR) của A. Carroll [15].

- Trách nhiệm kinh tế, thể hiện qua hiệu quả và tăng trưởng, là điều kiện tiên quyết bởi doanh nghiệp
được thành lập trước hết từ động cơ tìm kiếm lợi nhuận của doanh nhân. Hơn thế, doanh nghiệp là các tế
bào kinh tế căn bản của xã hội. Vì vậy, chức năng kinh doanh luôn phải được đặt lên hàng đầu. Các trách
nhiệm còn lại đều phải dựa trên ý thức trách nhiệm kinh tế của doanh nghiệp.
- Trách nhiệm tuân thủ pháp luật chính là một phần của bản cam kết giữa doanh nghiệp và xã hội.
Nhà nước có trách nhiệm thể chế hóa các quy tắc xã hội, đạo đức vào văn bản luật, để doanh nghiệp theo
đuổi mục tiêu kinh tế trong khuôn khổ đó một cách công bằng và đáp ứng được các chuẩn mực và giá trị
cơ bản mà xã hội mong đợi ở họ. Trách nhiệm kinh tế và pháp lý là hai bộ phận cơ bản, không thể thiếu
của TNXH.
- Trách nhiệm đạo đức là những quy tắc, giá trị được xã hội chấp nhận nhưng chưa được đưa vào
văn bản luật. Thông thường, luật pháp chỉ có thể đi sau để phản ánh các thay đổi trong các quy tắc ứng xử
xã hội vốn luôn mới. Hơn nữa, trong đạo đức xã hội luôn tồn tại những khoảng đúng - sai không rõ ràng;
mà khi các cuộc tranh luận trong xã hội chưa ngã ngũ, chúng chưa thể được cụ thể hóa vào luật.
- Trách nhiệm từ thiện là những hành vi và hoạt động của xã hội muốn doanh nghiệp hướng tới và có
tác dụng quyết định giá trị của doanh nghiệp đó. Trách nhiệm này thể hiện những mong muốn hiến dâng
tự nguyện và tự hoàn thiện của doanh nghiệp cho xã hội.

18
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
2. Trách nhiệm xã hội là sự phát triển cao của đạo đức kinh doanh
Thực tế có rất nhiều tiêu chuẩn để đánh giá đạo đức kinh doanh của một DN nhưng tiêu chí TNXH
là một tiêu chí quan trọng hàng đầu. Thuật ngữ TNXH xuất hiện hàng ngày trên các phương tiện thông tin
đại chúng. Báo chí thường xuyên đăng tải những sự việc liên quan đến các doanh nghiệp mà một số người
gọi là vô TNXH và phi đạo đức.
Trên thực tế nhiều người sử dụng hai khái niệm TNXH và đạo đức kinh doanh đồng nghĩa với nhau.
Tuy nhiên, về bản chất đây là hai khái niệm khác nhau, TNXH chính là sự phát triển cấp cao của đạo đức
kinh doanh. Trong khi đạo đức kinh doanh đề cập đến những quy tắc ứng xử được cân nhắc kỹ lưỡng về
mặt tổ chức của doanh nghiệp làm cơ sở cho việc ra quyết định trong quan hệ kinh doanh; thì TNXH được
coi là một sự cam kết của doanh nghiệp đối với xã hội, người lao động nói chung. Điều này khác hẳn với
định nghĩa về TNXH trong giai đoạn đầu phát triển của khái niệm này, khi Milton Friedman đưa ra tuyên
bố nổi tiếng năm 1970 rằng “có một và chỉ một trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp – đó là sử dụng
nguồn tài nguyên của mình và tham gia vào các hoạt động nhằm tăng lợi nhuận”.[40]. Câu nói này khẳng
định rằng mục tiêu chủ yếu của doanh nghiệp chỉ là thỏa mãn nhu cầu của các cổ đông. Thực chất, TNXH
có nghĩa là doanh nghiệp cần phải: Giữ gìn và phát triển bản sắc văn hóa công ty; bảo vệ quyền lợi cho
người lao động; chống tham nhũng; bảo vệ môi trường; tạo điều kiện làm việc thuận lợi cho người lao
động; thu hẹp khoảng cách nhân viên và lãnh đạo; vì lợi ích cộng đồng.
Như vậy TNXH tập trung vào đóng góp của doanh nghiệp cho sự phát triển bền vững của xã hội, và
coi điều đó cũng đồng nghĩa với một sự tồn tại bền vững cho doanh nghiệp. Nghĩa vụ của doanh nghiệp ở
đây là luôn đặt lợi ích của cộng đồng lên trên hết. Trong khi đó, đạo đức kinh doanh chỉ là những nguyên
tắc và chuẩn mực hướng dẫn hành vi của doanh nghiệp, và nhiều khi tính đúng sai của các nguyên tắc này
còn khá mơ hồ, phụ thuộc vào quan điểm của từng đối tượng hữu quan đánh giá. Một quyết định của
doanh nghiệp được coi là hợp lý và mang tính đạo đức kinh doanh đối với một đối tượng hữu quan nhất
định chưa chắc đã là có lợi cho đối tượng khác, và quan trọng sự phát triển kinh tế bền vững của cộng
đồng xã hội. Vì thế, chỉ khi đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp phát triển đến mức độ cao, doanh
nghiệp biết cách cân bằng giữa các lợi ích của mình, các đối tượng hữu quan khác và đặc biệt là đặt mục
tiêu phát triển bền vững của xã hội lên hàng đầu; thì lúc đó doanh nghiệp đã hoàn thành THXH của mình.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG
TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP

19
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
I. TÁC ĐỘNG CỦA TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC KINH
DOANH CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

1. Đôi nét về tiến trình hội nhập của Việt Nam

1.1. Các khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế


Trước tiên chúng ta hãy cùng làm rõ một số khái niệm liên quan tới vấn đề hội nhập.
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong nền kinh tế thế giới,
tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ
văn hoá, kinh tế, v.v. trên quy mô toàn cầu. Đặc biệt trong phạm vi kinh tế, toàn cầu hoá hầu như được
dùng để chỉ các tác động của thương mại nói chung và tự do hóa thương mại hay "tự do thương mại" nói
riêng. Cũng ở góc độ kinh tế, người ta chỉ thấy các dòng chảy tư bản ở quy mô toàn cầu kéo theo các dòng
chảy thương mại, kỹ thuật, công nghệ, thông tin, văn hoá.
Hội nhập kinh tế, theo quan niệm đơn giản nhất và phổ biến trên thế giới, là việc các nền kinh tế
gắn kết lại với nhau; còn nếu hiểu theo một cách chặt chẽ hơn, hội nhập kinh tế là việc gắn kết mang tính
thể chế giữa các nền kinh tế lại với nhau.
Liên kết kinh tế quốc tế là một hình thức trong đó diễn ra quá trình xã hội hóa có tính chất quốc tế
đối với quá trình tái sản xuất giữa các chủ thể kinh tế quốc tế. Đó là sự thành lập một tổ hợp kinh tế quốc
tế của một nhóm thành viên nhằm tăng cường phối hợp và điều chỉnh lợi ích giữa các bên tham gia, giảm
bớt sự khác biệt về điều kiện phát triển giữa các bên và thúc đẩy quan hệ kinh tế quốc tế phát triển cả bề
rộng và bề sâu. Quá trình liên kết kinh tế quốc tế đưa tới việc hình thành một hình thể kinh tế mới ở cấp
độ cao hơn với các mối quan hệ kinh tế quốc tế phức tạp và đa dạng. Liên kết kinh tế quốc tế gồm các cấp
độ sau:
- Khu mậu dịch tự do hay buôn bán tự do (Free trade area): là một liên minh quốc tế giữa hai hoặc
nhiều nước nhằm mục đích tự do hóa việc buôn bán vè một hoặc một số nhóm mặt hàng nào đó.
- Liên minh thuế quan (Customs Union): Đây là một liên minh quốc tế với nội dung bãi miễn thuế
quan và những hạn chế về mậu dịch khác giữa các nước thành viên. Tuy nhiên liên minh thuế quan có
điểm khác với khu vực mậu dịch tự do là ở liên minh quốc tế này người ta thiết lập một biểu thuế quan
chung của các nước thành viên đối với phần còn lại của thế giới, tức là thực hiện chính sách cân đối mậu
dịch với những nước không phải là thành viên đã trở thành một bộ phận trong chính sách mậu dịch nói
chung và các nước bên ngoài liên minh.
- Thị trường chung (Common market): đây là một liên minh quốc tế áp dụng các biện pháp tương tự
như liên minh thuế quan trong việc trao đổi thương mại nhưng nó đi xa thêm một bước là cho phép di
chuyển ở cả tư bản và lao động tự do giữa các nước thành viên với nhau và từ đó tạo điều kiện cho sự hình
thành thị trường thống nhất theo nghĩa rộng.
- Liên minh tiền tệ: Đây là một liên minh quốc tế chủ yếu trên lĩnh vực tiền tệ trong đó các nước
thành viên phải phối hợp chính sách tiền tệ với nhau và cùng thực hiện một chính sách tiền tệ thông nhất
20
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
toàn khối. Trong liên minh tiền tề người ta thực hiện thống nhất các giao dịch tiền tệ giữa các thành viên,
thống nhất về đồng tiền dự trưc và phát hành đồng tiền tập thể cho các nước liên minh.
- Liên minh kinh tế (Economic Union): Đây là một liên minh quốc tế với một bước phát triển cao
hơn vè sự di chuyển hàng hóa, dịch vụ sức lao động và tư bản tự do giữa các nước thành viên, đồng thời
có biểu hiện thuế quan chung với các nước không phải là thành viên. Liên minh kinh tế thực hiện thống
nhất hài hòa các chính sách kinh tế tài chính, tiền tệ giữa các nước thành viên, bởi vậy đây là hình thức
phát triển cao nhất của liên minh kinh tế quốc tế cho đến giai đoạn hiện nay. [2].
Không ai có thể phủ nhận rằng quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra ngày một mạnh mẽ trên toàn thế
giới. Hầu như không có quốc gia nào không tận dụng và tập trung để tham gia hội nhập kinh tế quốc tế sâu
rộng hơn. Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ. Chúng ta hãy cùng điểm qua những sự kiện chính
đánh dấu mốc hội nhập quốc tế của Việt Nam.

1.2. Các cột mốc hội nhập quốc tế của Việt Nam
Trong điều kiện quốc tế ngày nay khi quá trình hội nhập ngày càng được xúc tiến nhanh, ngoại giao
đa phương ngày càng giữ một vị trí quan trọng, góp phần nâng cao vị thế quốc tế của đất nước trên thế
giới. Cho đến nay, Việt Nam là thành viên của 63 tổ chức quốc tế và có quan hệ với hơn 650 tổ chức phi
chính phủ trên thế giới. Việt Nam đã hoạt động tích cực với vai trò ngày càng tăng tại Liên hợp quốc (ủy
viên ECOSOC, ủy viên Hội đồng chấp hành UNDP, UNFPA và UPU...), phát huy vai trò thành viên tích
cực của phong trào Không liên kết, Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp, ASEAN ... Một số mốc
quan trọng trong con đường hội nhập quốc tế của Việt Nam bao gồm:
- Tháng 7/1995: Việt Nam tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và đồng thời
tham gia ngay vào chương trình thực hiện hiệp định thương mại tự do AFTA. Việt Nam bắt đầu thực hiện
lộ trình giảm thuế quan tham gia AFTA từ ngày 1/1/1996.
- Tháng 3/1996: Việt Nam cùng 25 thành viên khác sáng lập nên Tiến trình hợp tác Á-Âu hay Diễn
đàn hợp tác Á-Âu (ASEM). Là một trong những thành viên sáng lập ASEM, cho đến nay Việt Nam luôn
phát huy vai trò chủ động tham gia hợp tác Á-Âu trên cả 3 lĩnh vực: đối thoại chính trị, hợp tác kinh tế và
hợp tác khác (như y tế, văn hóa, giao thông vận tải). Bên cạnh việc hoàn thành tốt vai trò điều phối viên
châu Á trong ASEM từ năm 2000 đến 2004, đóng góp lớn nhất của Việt Nam là tổ chức thành công Hội
nghị Cấp cao ASEM 5 ở Hà Nội vào tháng 10 năm 2004.
- Tháng 11/1998: Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á –
Thái Bình Dương (APEC). Tham gia APEC, Việt Nam đã tích cực chủ động tham gia các chương trình
hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư và quá trình tự do hóa thương mại của APEC. Đặc biệt, năm 2006,
Việt Nam đã đăng cai Hội nghị cấp cao APEC lần thứ 16. Việc tổ chức thành công rực rỡ Hội nghị cấp
cao APEC 16 là bằng chứng cho thấy những đóng góp to lớn của Việt Nam đối với khu vực châu Á Thái
Bình Dương, khẳng định năng lực và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

21
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
- Tháng 7/2000: Hiệp định thương mại Việt – Mỹ được kí kết, và chính thức đi vào hiệu lực vào
ngày 11/12/2001. Hiệp định thương mại Việt Mỹ được soạn thảo dựa vào các tiêu chuẩn nội dung của Tổ
chức thương mại Thế giới (WTO) dành cho các nước kém phát triển, do đó hiệp định này có ý nghĩa quan
trọng giúp cho Việt Nam sớm gia nhập tổ chức WTO. Kết cấu của hiệp định bao gồm các điều khoản liên
quan tới lĩnh vực thương mại hàng hóa, quyền sở hữu trí tuệ, thương mại dịch vụ, phát triển quan hệ đầu
tư cùng các điều khoản quy định về tính minh bạch, công khai trong kinh doanh.
- Ngày 1/1/2007: Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO). Đây một dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Tham gia
vào WTO đồng nghĩa với việc thực hiện một loạt các cam kết. Qua hơn 2 năm gia nhập, Việt Nam đã thực
thi đầy đủ và nghiêm túc các cam kết gia nhập WTO, bao gồm các cam kết về mở cửa thị trường hàng hóa
và dịch vụ, và các cam kết đa phương về tuân thủ các quy định chung trong WTO.
- Ngày 16/10/2007 : Việt Nam trở thành thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo An Liên
hợp quốc. Việt Nam chính thức gia nhập Liên hợp quốc vào ngày 20/9/1977. Với những đóng góp của
mình, Việt Nam đã lần lượt được tin tưởng giao cho những trọng trách trong tổ chức Liên hợp quốc: thành
viên Ban Điều hành UFNPA/UNDP, thành viên Hội đồng kinh tế - xã hội ECOSOC, Phó Chủ tịch Đại
Hội đồng Liên hợp quốc…Ngày 16/10/2007, tại khoá họp thường niên lần thứ 62 Đại hội đồng Liên hợp
quốc, Việt Nam đã chính thức được bầu làm thành viên không thường trực của HĐBA Liên hợp quốc
nhiệm kỳ 2008-2009. Sự kiện này được coi là đỉnh cao của quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, thể
hiện vị thế chính trị và ngoại giao của Việt Nam trên trường quốc tế.

2. Tác động của tiến trình hội nhập đối với vấn đề xây dựng đạo đức kinh doanh ở các doanh
nghiệp Việt Nam
Nhắc tới hội nhập kinh tế quốc tế là nhắc tới toàn cầu hóa.Toàn cầu hóa là xu hướng tất yếu của
không chỉ tất cả các quốc gia mà còn của mọi doanh nghiệp hiện nay. Vì vậy, bên cạnh những tác động
trực tiếp lên lĩnh vực kinh tế, các lĩnh vực khác như môi trường chính trị, xã hội hay văn hóa của một đất
nước cũng có những thay đổi đáng kể. Đối tượng cảm nhận được sự thay đổi này rõ nhất không ai khác
chính là những thành viên tham gia trực tiếp và hình thành nên các hoạt động của nền kinh tế - các doanh
nghiệp. Do đó, vấn đề xây dựng đạo đức kinh doanh tại các doanh nghiệp Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng
đáng kể từ một nhân tố thời đại là hội nhập quốc tế.

2.1. Tuân theo các quy định pháp luật và tiêu chuẩn quốc tế mới
Tham gia ngày càng sâu vào sân chơi quốc tế, Việt Nam phải có nghĩa vụ chấp hành các “luật chơi”
của các tổ chức quốc tế với tư cách là một thành viên. Chúng ta có thể lấy ví dụ về tổ chức có các quy
định chặt chẽ và có khả năng kiểm soát thương mại toàn cầu nhất mà Việt Nam gia nhập - WTO. Các hiệp
định của WTO không ngừng nâng cao tính minh bạch của chính sách thương mại và tập quán thương mại
quốc tế. Do đó, khi trở thành thành viên, nhất là với một nước đang phát triển và đang có ngành kinh tế
chuyển đổi như Việt Nam sẽ phải xây dựng và tăng cường các chính sách và thể chế điều hành, quản lý
22
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
nền kinh tế của mình phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế. Đó là các quy định về mở cửa, cạnh tranh
tự do và bình đẳng, luật lệ về quyền sở hữu trí tuệ, nguyên tắc không phân biệt đối xử, các biểu thuế và
hạn ngạch mới, tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh động thực vật, tác động môi trường …Không ai khác mà
chính các doanh nghiệp Việt Nam sẽ là đối tượng thực hiện các quy định mới này. Điều này ảnh hưởng
trực tiếp tới những nhiều khía cạnh của đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp bởi nhiều lĩnh vực của đạo
đức kinh doanh trở nên thể chế hóa. Ví dụ như, khía cạnh đạo đức kinh doanh đối với đối thủ cạnh tranh
về cạnh tranh lành mạnh như chống bán phá giá, giờ đây không phải một lựa chọn có hay không tuân theo
quy tắc đạo đức này nữa, mà doanh nghiệp buộc phải tuân theo, nếu không muốn rơi vào tình trạng vi
phạm pháp luật và gây ra tranh chấp khiếu kiện.
Ngoài việc phải tuân theo những quy định luật pháp bắt buộc, doanh nghiệp còn phải làm quen với
sự du nhập của nhiều hệ thống tiêu chuẩn chất lượng quốc tế. Các tiêu chuẩn này không mang tính bắt
buộc thực hiện như một văn bản pháp luật, tuy nhiên bởi tính quốc tế của mình, các tiêu chuẩn này đang
ngày càng được áp dụng ở nhiều quốc gia và xuất hiện trong các quy tắc chất lượng ở các doanh nghiệp.
Phổ biến nhất hiện nay chính là các tiêu chuẩn quản lý chất lượng của tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế
(International Organization for Standardization - ISO). Tuy là một tổ chức phi chính phủ, nhưng các tiêu
chuẩn quốc tế của ISO được xuất hiện thông qua các hiệp định hay các tiêu chuẩn quốc gia. Do đó khi đất
nước hội nhập, các doanh nghiệp Việt cũng ngày càng có cơ hội mở rộng kinh doanh với các doanh
nghiệp nước bạn cũng như thị trường người tiêu dùng nước ngoài, và buộc lòng phải làm quen với các tiêu
chuẩn quốc tế một cách tự nguyện. Đạo đức kinh doanh đối với khách hàng, người lao động và xã hội
càng trở nên chặt chẽ với các tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm như ISO 9001:2000, tiêu chuẩn về quản
lý chất lượng môi trường như ISO 14000, hay tiêu chuẩn về quản trị xã hội về người lao động như SA
8000…

2.2. Tăng cường đầu tư vào đạo đức kinh doanh


Một thách thức lớn nhất và được nhắc tới nhiều nhất khi Việt Nam hội nhập chính là tính cạnh tranh
gay gắt mà các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp phải. Khi gia nhập các tổ chức khu vực và quốc tế với vai
trò là thành viên, Việt Nam cũng phải có trách nhiệm và nghĩa vụ cắt giảm mức thuế quan của mình theo
một lộ trình được vạch sẵn và dần bãi bỏ hạn ngạch nhập khẩu. Ví dụ như từ khi gia nhập WTO, nước ta
đãcắt giảm trên 3.000 dòng thuế liên quan hàng dệt may, xi-măng, nông thổ sản, rau quả tươi, cà-phê,
hàng tiêu dùng, thiết bị xây dựng, ô-tô… Việc này sẽ làm cho lượng hàng hóa nhập khẩu sẽ tràn vào Việt
Nam một cách ồ ạt. Cùng với xu hướng đó là việc các doanh nghiệp nước ngoài đổ đầu tư trực tiếp vào
Việt Nam, sự xuất hiện của các tập đoàn đa quốc gia vào kinh doanh tại Việt Nam và cạnh tranh với các
doanh nghiệp nội địa trên chính sân nhà. Vì vậy vấn đề quan trọng hàng đầu với các doanh nghiệp Việt
Nam chính là tăng cường năng lực cạnh tranh. Một phương pháp cơ bản để làm được điều này chính là
xây dựng một thương hiệu đẹp bằng đạo đức kinh doanh.

23
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
Trong một thị trường cạnh tranh, sự tồn tại của doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào sự tin tưởng giữa
các đối tác chứ không thể trên nền tảng của sự lừa dối lẫn nhau. Tôn trọng luân lý xã hội và thực hiện đạo
đức trong kinh doanh chính là cách tăng tài khoản niềm tin của doanh nghiệp đối với khách hàng và đối
tác làm ăn. Đối với những doanh nghiệp luôn gắn lợi ích của mình với lợi ích của khách hàng và xã hội,
thì sự tin tưởng và thỏa mãn của khách hàng cũng sẽ ngày càng tăng lên. Một khách hàng vừa lòng, sẽ
quay lại với doanh nghiệp và kéo tới cho doanh nghiệp những khách hàng khác. Ngược lại, một khách
hàng không vừa lòng sẽ không bao giờ trở lại và cũng kéo đi những khách hàng khác. Hơn nữa, nhiều khi
các doanh nghiệp được mọi người nhận ra không hẳn qua sản phẩm, qua ký hiệu của doanh nghiệp ấy mà
bởi những hành động không liên quan gì đến các mục đích thương mại như việc ủng hộ quỹ người nghèo,
tài trợ quỹ giáo dục, các chương trình xã hội… Như vậy khi có trách nhiệm cao với cộng đồng, xã hội,
doanh nghiệp cũng sẽ nhận được sự ủng hộ tích cực của cộng đồng. Hình ảnh doanh nghiệp được nâng
cao hơn, tạo dựng được sự tín nhiệm lâu dài đối với mọi người. Điều này không phải doanh nghiệp nào
cũng làm được và cũng không phải có tiền là tạo dựng được.
Đặc biệt là, trong xu thế hội nhập, không có sự chênh lệch quá lớn giữa công nghệ và chất lượng
giữa các sản phẩm, dịch vụ; bởi công nghệ và kĩ thuật dần sẽ được lấp đầy khoảng cách nhờ quá trình toàn
cầu hóa. Thông qua hội nhập kinh tế, sự lựa chọn của người tiêu dùng đối với sản phẩm và doanh nghiệp
sản xuất ra nó ngày càng thoát khỏi mặt vật chất và chuyển dần sang mặt giá trị văn hóa, họ mua thương
hiệu của sản phẩm chứ không phải mua sản phẩm đơn thuần. Mà thương hiệu chỉ đạt được khi doanh
nghiệp có một chiến lược đạo đức kinh doanh bền vững và lành mạnh. Vì lẽ này, chất lượng sản phẩm
không phải là tiêu chuẩn duy nhất để quyết định sự lựa chọn sản phẩm, dịch vụ của người tiêu dùng. Mà
lúc này chính phương thức cung cấp hàng hóa, dịch vụ hay nói cách khác VHDN và đạo đức kinh doanh
mới là nhân tố quyết định. Đạo đức kinh doanh trở thành một phương thức cạnh tranh chiếm lĩnh trái tim,
tình cảm của người tiêu dùng đối với sản phẩm, dịch vụ, đáp ứng nhu cầu càng cao và tinh tế của khách
hàng.
Tất cả những điều này đều nhấn mạnh cho các doanh nghiệp Việt Nam một lần nữa vai trò của đạo
đức kinh doanh. Và hơn lúc nào hết, trong thời điểm hội nhập này, các doanh nghiệp cần phải quan tâm
đầu tư vào xây dựng đạo đức kinh doanh cho công ty của mình; bởi đạo đức kinh doanh chính là vấn đề
sống còn của doanh nghiệp trên thương trường.

2.3. Đổi mới trong quản trị nguồn nhân lực và phương pháp kinh doanh
Ngoài tác động của các quy phạm pháp luật và tiêu chuẩn quốc tế khiến doanh nghiệp cần phải thay
đổi cách quản trị đạo đức kinh doanh, hội nhập quốc tế còn tạo ra những nhân tố tác động khác là sự thay
đổi trong nguồn nhân lực và phương pháp kinh doanh.
Mở cửa khiến cho một số lượng lớn các doanh nghiệp nước ngoài quyết định đầu tư kinh doanh tại
Việt Nam; và vấn đề cạnh tranh xảy ra với các doanh nghiệp nội địa, cạnh tranh không chỉ để giữ được
khách hàng mà còn để giữ được nguồn nhân lực có khả năng của công ty. Điều này một lần nữa nhấn

24
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
mạnh vai trò xây dựng đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp. Bởi khi quan tâm tới các chuẩn mực đạo
đức kinh doanh, thì doanh nghiệp cũng rất tôn trọng và quan tâm tới nhân viên. Doanh nghiệp càng quan
tâm tới nhân viên, nhân viên càng tận tâm với doanh nghiệp. Hơn nữa, bất cứ ai cũng muốn làm việc cho
những doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh minh bạch, trong sáng. Họ tin tưởng hơn vào sự phát triển
bền vững của công ty. Khi làm việc trong một doanh nghiệp hướng tới cộng đồng, hướng tới lợi ích của xã
hội, bản thân mỗi nhân viên cũng thấy công việc của mình có giá trị hơn. Họ làm việc tận tâm hơn và sẽ
trung thành với doanh nghiệp hơn. Một môi trường làm việc trung thực, công bằng sẽ gây dựng được
nguồn nhân lực quý giá cho doanh nghiệp.
Hội nhập quốc tế cũng tạo điều kiện cho sự du nhập của các phương tiện kỹ thuật hiện đại, cùng với
sự bùng nổ nhanh chóng của thông tin truyền thông tại Việt Nam. Thương mại điện tử đang trở thành một
xu hướng, làm thay đổi mối quan hệ kinh tế giữa các thành viên tham gia. Không thể phủ nhận sự hấp dẫn
và tiện lợi của phương pháp kinh doanh mới này, nhưng bán hàng qua mạng cũng đang tạo ra một loạt các
vấn đề đạo đức kinh doanh khác như sự lừa gạt về sản phẩm, ăn cắp thông tin thẻ tín dụng, thông tin cá
nhân của khách hàng…Đạo đức kinh doanh lúc này là chỗ dựa quan trọng nhất, là điều kiện tiên quyết để
đảm bảo việc kinh doanh của bất kì một doanh nghiệp nào mong muốn có mối quan hệ vững chắc với
khách hàng.
Tóm lại, hội nhập quốc tế là một nhân tố tác động không nhỏ tới các doanh nghiệp Việt Nam, mà ở
đây là khía cạnh xây dựng đạo đức kinh doanh. Bởi toàn cầu hóa là xu hướng không thể tránh khỏi, và
Việt Nam cũng đã, đang và sẽ còn hội nhập sâu hơn vào các sân chơi quốc tế; các doanh nghiệp Việt Nam
hơn lúc nào hết cần phải chủ động hội nhập và có chiến lược xây dựng đạo đức kinh doanh của riêng
mình. Bởi đây cũng là con đường duy nhất giúp doanh nghiệp Việt có thể tồn tại, cạnh tranh và phát triển
bền vững trong một môi trường Việt Nam toàn cầu hóa.

II. THỰC TIỄN XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
HIỆN NAY

1. Những nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề đạo đức kinh doanh ở Việt Nam

1.1. Lịch sử phát triển khái niệm đạo đức kinh doanh tại Việt Nam
Như đã từng đề cập đến quá trình phát triển của phạm trù đạo đức kinh doanh, chúng ta có thể khẳng
định rằng đạo đức kinh doanh chỉ ra đời khi có sự xuất hiện của hàng hóa và trao đổi buôn bán các loại
hàng hóa. Vì vậy có thể nói rằng sự hình thành và phát triển của hoạt động buôn bán hay hoạt động
thương nghiệp cũng chính là nguồn gốc tạo ra khái niệm đạo đức kinh doanh. Việt Nam cũng không nằm
ngoài quy luật này. Muốn xác minh được lịch sử phát triển khái niệm đạo đức kinh doanh ở Việt Nam thì
chúng ta phải lần theo dấu vết lịch sử phát triển hoạt động thương nghiệp của Việt Nam. Tuy nhiên cho tới
nay chưa có một nghiên cứu nào chính thức công bố về thời gian hình thành chính xác của nền thương
nghiệp Việt Nam.

25
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
Tuy vậy, từ xa xưa người Việt Nam đã có câu nói rằng: “Phi thương bất phú” tức là “Không có buôn
bán thì không thể giàu có được”. Song đồng thời người xưa vẫn thường không coi trọng và công nhận tầm
quan trọng của nghề buôn bán, coi những người làm nghề này là “con buôn” và “con phe”. Thái độ này
thậm chí còn giữ tới trước thời kì đổi mới năm 1986 của nước ta. Điều này có thể được giải bởi vì người
đời xưa thường trọng đạo đức mà coi thường những gì là tiền bạc giả dối, trong khi những người buôn bán
thì thường vì tham lợi mà không thành thật. Do đó trong thời phong kiến kéo dài hàng nghìn năm tại nước
ta, con người Việt Nam thường chỉ hướng vào thi phú và quan trường. Ngành nghề duy nhất được coi
trọng là nông nghiệp; tuy nhiên bản thân nền sản xuất nông nghiệp cũng có nhu cầu trao đổi buôn bán, nên
nhiều ngôi chợ cũng được sinh ra từ nhu cầu này. Nhưng theo các nhà sử học Việt Nam thì xã hội Việt
Nam dựa trên nền tảng của một nền kinh tế tiểu nông gắn với cơ cấu làng xã cùng với chính sách có xu
hướng "ức thương" của các Nhà nước phong kiến nên khó hình thành một tầng lớp thương nhân lớn,
những đại gia tạo thành một thế lực xã hội. Ngay những địa điểm được coi là đô hội và buôn bán trù phú
nhất như Phố Hiến cũng chỉ là sự bùng phát một thời với những yếu tố ngoại thương của các thương nhân
nước ngoài đến tham dự hội chợ theo mùa và cuối cùng tàn lụi. Đó chính là nguyên cớ khiến nước ta luôn
nghèo và không theo kịp với nhịp độ kinh tế của các nước khác. Tuy nhiên, không thể phủ nhận bắt đầu từ
thế kỉ 16 thương mại của Việt Nam cũng phát triển vượt bậc với sự ra đời của các đô thị thương mại lớn
như Phố Hiến, Hội An, Vân Đồn, Thanh Hà, Gia Định. Nhưng khái niệm đạo đức kinh doanh nhắc tới ở
thời điểm này còn khá xa vời khi nhắc tới người làm nghề thương nghiệp người ta chỉ nhắc tới sự tham
lam chuộc lợi.
Đến cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20, thực dân Pháp hoàn thành xâm chiếm và tăng cường khai thác Việt
Nam, xã hội nước ta cũng bị phân hóa mạnh mẽ. Giai cấp tư sản ra đời và tập trung đầu tư vào kinh
doanh, buôn bán. Hàng loạt cuộc vận động cải cách đất nước đều đề cao thương mại. Ví dụ tiêu biểu về
khái niệm đạo đức kinh doanh thời kì này là “Đạo làm giàu” của cụ Cử Lương Văn Can. Tuy nhiên ông
cũng chỉ giới hạn việc kinh doanh ở mức thương nghiệp, và đưa ra những quy tắc cơ bản về đạo đức cho
người thương nhân như việc giữ chữ Tín, việc không được đầu cơ nâng giá một cách trái lý, việc cân đong
thiếu chính xác… Tới thời Duy Tân, chúng ta thấy các hoạt động kinh tế không chỉ dừng trên lĩnh vực
buôn bán lưu thông mà còn cả trên lĩnh vực dịch vụ như vận tải đường sông - biển, hay sản xuất, khai
khoáng, chế tạo sản phẩm như xà bông, đóng tàu, sơn dầu... gắn với cái tên tuổi của các doanh nhân Việt
Nam như Bạch Thái Bưởi, Trương Văn Bền, Nguyễn Sơn Hà, Nguyễn Hữu Thu... Một nét đáng chú ý nữa
là hoạt động thương mại của Việt Nam thời kì này là tinh thần dân tộc, yêu nước. Quan điểm về đạo đức
kinh doanh của các nhà tư sản dân tộc lúc ấy là gắn hoạt động kinh doanh của mình với vận mệnh dân tộc,
phát huy tinh thần và lòng tự hào quốc gia thể hiện trước hết trong sự cạnh tranh.
Đặc biệt, một quan niệm tương đối hoàn chỉnh về đạo đức kinh doanh đã hình thành khi nước Việt
Nam thực hiện được nền độc lập về chính trị khi chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra được con đường phát triển
đất nước: kiến tạo một nước Việt Nam hiện đại và đặt Việt Nam vào một xu thế hội nhập. Lần đầu tiên
quan niệm các nhà công thương (hay nhà công nghiệp và nhà thương nghiệp) được Hồ Chí Minh sử dụng.
26
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
Tính hiện đại của tư tưởng này còn thể hiện ở chính sách đối ngoại của nước Việt Nam Dân Chủ non trẻ
“Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong một lĩnh
vực: nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài
trong tất cả các ngành kỹ nghệ của minh - Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường
sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế dưới sự lãnh đạo cửa Liên Hiệp quốc - Nước Vệt
Nam sẵn sàng ký kết với các lực lượng hải quân, lực quân trong khuôn khổ của Liên Hiệp Quốc những
Hiệp định An ninh đặc biệt và những Hiệp ước liên quan đến việc sử dụng một vài căn cứ hải quân …”
(Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, tr.470) [18].. Đây chính là quan điểm phát triển nền kinh tế quốc dân không
tách khỏi thị trường và bối cảnh kinh tế quốc tế, nói cách khác là tư tưởng hội nhập thị trường. Chính nhận
thức chính trị ấy đã định hướng cho những quan điểm xây dựng nền kinh tế quốc dân cũng như lựa chọn
con đường phát triển của đất nước và cùng với nó là sự hình thành đội ngũ doanh nhân Việt Nam cho tới
tận ngày nay.
Tuy nhiên vào thời kì sau đó, khi nước ta thực hiện chế độ bao cấp kế hoạch hóa tập trung, định
nghĩa thị trường và các quy luật thị trường không được công nhận, các doanh nghiệp Việt Nam tiến hành
sản xuất kinh doanh chỉ theo chỉ tiêu được ban hành theo pháp lệnh, sản phẩm làm ra nhằm đạt kế hoạch
mà không phải đáp ứng nhu cầu thị trường, không hạch toán về giá cả, tiền lương để tính toán kết quả sản
xuất. Thời kì này doanh nghiệp bị giới hạn trong tính sáng tạo, bị hạn chế tinh thần kinh doanh của bản
thân người doanh nhân. Kinh doanh không còn ở bản chất đích thực, mà chỉ dừng ở mức độ sản xuất mà
không kinh doanh. Do đó khái niệm đạo đức kinh doanh thời kì này chỉ là cố gắng đạt được mục tiêu kế
hoạch của cấp trên ban xuống.
Mốc đánh dấu quan trọng về khái niệm kinh doanh và cùng với nó là vấn đề đạo đức kinh doanh của
các doanh nghiệp Việt Nam chính là thời điểm chúng ta tiến hành cải cách kinh tế, mở cửa thị trường vào
năm 1986. Kinh tế thị trường được công nhận đã mở ra một cơ hội phát triển mới cho các doanh nghiệp.
Tuy nhiên trên thực tế, quyền tự do kinh doanh ở Việt Nam chỉ mới được ghi nhận lại trong Hiến pháp
năm 1992. Từ việc được ghi nhận cho đến được đảm bảo thực hiện trong cuộc sống lại là một chặng
đường dài. Trong một thời gian ngắn và với bối cảnh như vậy, tinh hoa kinh doanh của người Việt khó có
đủ thời gian để tích tụ thành đạo đức kinh doanh. Do đó đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp Việt
vẫn đang trong giai đoạn hình thành và phát triển. Khi Việt Nam bắt đầu tham gia các sân chơi lớn cùng
với các quốc gia khác trong khu vực và thế giới, các doanh nghiệp lại càng chịu nhiều sức ép phải có
những thay đổi nhất định để có thể thích nghi trong môi trường mới này như những gì chúng ta đã đề cập
trong phần trên. Đạo đức kinh doanh đã thực sự trở thành một vấn đề sống còn đối với các doanh nghiệp
Việt Nam.

1.2. Những nhân tố ảnh hưởng tới vấn đề xây dựng đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam
1.2.1. Truyền thống đạo đức và văn hóa của dân tộc

27
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
Truyền thống đạo đức và văn hóa dân tộc là một trong những nhân tố ảnh hưởng rất lớn tới sự hình
thành và phát triển của đạo đức kinh doanh trong mỗi doanh nghiệp. Việt Nam là một nước vốn được coi
là có nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Trải qua một thời gian dài chiến tranh, truyền thống đoàn kết
tương thân tương ái đã được coi là đặc điểm nổi bật của người dân Việt Nam. Tới ngày nay, truyền thống
“lá lành đùm lá rách” này được thể hiện rõ nét nhất thông qua các cuộc quyên góp ủng hộ đồng bào bị lũ
lụt, thiên tai; các đợt ủng hộ trẻ em khuyết tật, nhiễm chất độc hóa học hay mồ côi; ủng hộ người nghèo
hay người già neo đơn… Không thể phủ nhận các doanh nghiệp chính là lực lượng tiên phong và dồi dào
nhất đóng góp vào các quỹ này, đây cũng chính là một khía cạnh nhân ái của đạo đức kinh doanh của
doanh nghiệp Việt.
Đối với người Việt Nam, chữ Tín cũng rất quan trọng. “Một lần bất tín, vạn lần chẳng tin” do đó
khi xây dựng đạo đức kinh doanh, bản thân mỗi doanh nghiệp Việt Nam cũng đều nhận thức được điều
này. Bên cạnh chữ Tín, trung thực cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến việc xây dựng đạo đức
kinh doanh. Công chúng và xã hội sẽ không cho phép một doanh nhân Việt nào ăn xài sang trọng và làm
giàu bất hợp pháp trên mồ hôi của những người công nhân làm việc rất cực nhọc trong môi trường bẩn
thỉu và chật chội, hay đang làm ô nhiễm môi trường sống của cả một vùng dân cư một cách âm thầm.
Tựu chung lại, ai cũng nhận ra rằng sâu trong mỗi người Việt đều mang một góc những phẩm chất
truyền thống của dân tộc, và chính điều này đã thổi hồn những bản sắc văn hóa và đạo đức của dân tộc trở
thành những nét đặc trưng của đạo đức kinh doanh các doanh nghiệp Việt Nam, và giúp nó khác hẳn với
nét đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp ở bất kì một quốc gia nào khác trên thế giới.
1.2.2. Cơ chế thị trường của Việt Nam
Thể chế kinh tế mà nước ta đã lựa chọn là cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều
này nghĩa là các đặc điểm kinh doanh cũng như phạm trù đạo đức ở Việt Nam sẽ khác so với những nước
đi theo chế độ tư bản chủ nghĩa hay phong kiến. Bởi kinh doanh thì luôn phản ánh bản chất của nền kinh
tế; trong khi các quy tắc đạo đức theo triết học thì luôn phản ánh tính giai cấp. Đạo đức sẽ thể hiện lợi ích
của giai cấp thống trị, và ở Việt Nam thì giai cấp thống trị thuộc về số đông – người lao động. Do đó, đạo
đức kinh doanh của doanh nghiệp Việt luôn được định hướng xây dựng vì lợi ích của người lao động hài
hòa với mục tiêu tối ưu hóa lợi nhuân, tức là tạo ra nhiều công ăn việc làm, tạo điều kiện cho người làm có
môi trường làm việc phù hợp và có cơ hội phát huy tài năng.
Tuy nhiên Việt Nam cũng vừa mới thoát khỏi chế độ quan liêu bao cấp được hơn hai thập kỉ, điều
này cũng ảnh hưởng không nhỏ tới vấn đề đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp Việt. Dưới chế độ kế
hoạch hóa tập trung, doanh nghiệp không cần chú ý điều gì khác ngoài việc sản xuất cho đạt mục tiêu số
lượng đã được đề ra. Điều này tạo tâm lý ỷ lại cửa quyền vào Nhà nước, mà cho đến những năm gần đây
vẫn còn xuất hiện ở một bộ phận doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp Nhà nước. Vì thế mà
các vụ tham ô nhũng nhiễu vẫn tồn tại, với những ví dụ nổi tiếng như Minh Phụng Epco, Năm Cam, Lã
Thị Kim Oanh hay PMU18…Và cho tới nay, khi đất nước ngày càng mở cửa hội nhập sâu vào nền kinh tế

28
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
thế giới, vấn đề xây dựng đạo đức kinh doanh lại càng trở nên quan trọng, các doanh nghiệp có xu thế trở
nên minh bạch và tự nguyện hơn.
1.2.3. Hệ thống pháp luật của Việt Nam
Nước ta đang trong giai đoạn quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, vì thế hệ thống pháp luật cũng đang trong
giai đoạn được hoàn thiện. Cơ chế thị trường và môi trường kinh doanh của Việt Nam cũng chưa được ổn
định, hệ thống pháp lý còn nhiều sơ hở, đây là lý do làm xuất hiện nhiều hiện tượng kinh doanh không
lành mạnh, vi phạm nghiêm trọng đạo đức kinh doanh. Đó là những vụ tham ô, tham nhũng tài sản nhà
nước gây thất thoát hàng tỷ đồng tài sản quốc gia; là hiện tượng những “doanh nghiệp ma” sinh ra hàng
loạt chỉ nhằm mục đích mua bán hóa đơn bất hợp pháp, thu lợi bất chính; là các vụ trốn lậu thuế buôn
hàng qua biên giới… Chính sự sơ hở trong nhiều văn bản pháp luật hướng dẫn, thiếu các quy tắc tiêu
chuẩn chất lượng cũng là động cơ thúc đẩy nhiều doanh nghiệp vi phạm pháp luật, bỏ qua đạo đức kinh
doanh.

29
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009

2. Thực trạng đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam
Trong giới hạn của luận văn, chúng ta sẽ cùng nghiên cứu cụ thể thực tiễn đạo đức kinh doanh tại
các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đối với 3 đối tượng hữu quan chính là: người lao động, khách hàng
và cộng đồng xã hội.

2.1. Đối với người lao động


2.1.1. Chế độ lương thưởng và bảo hiểm
Các nguyên tắc đạo đức kinh doanh
Các đãi ngộ về mặt vật chất bao gồm vấn đề lương thưởng và bảo hiểm luôn là vấn đề được người
lao động rất quan tâm. Như đã phân tích ở chương I, các nguyên tắc đạo đức kinh doanh đối với người lao
động đã và đang được thể chế hóa ngày càng hoàn thiện hơn. Ở Việt Nam, Nhà nước đã ban hành rất
nhiều quy định pháp luật điều chỉnh vấn đề này như quy định về tiền lương tối thiểu, chế độ trợ cấp, phụ
cấp, hệ số phụ cấp các công việc nặng nhọc và độc hại cho người lao động; các chế độ bảo hiểm như bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế… Tuy chưa thật sự hoàn thiện và đầy đủ, song các quy định này cũng liên tục
được Nhà nước Việt Nam cập nhật thường xuyên theo mức trượt giá của đồng tiền và tình hình phát triển
kinh tế của đất nước. Từ đó, cùng với các thỏa ước riêng mà công ty đặt ra, các doanh nghiệp có thể dựa
vào các văn bản quy định pháp luật mới nhất của nhà nước để tự điều chỉnh mối quan hệ của mình với
người lao động, nhằm đảm bảo lợi ích cho người lao động.
Chúng ta có thể lấy ví dụ về nguyên tắc đạo đức kinh doanh đối với người lao động là đồng lương
đủ sống. Nguyên tắc này ở Việt Nam đã được thể chế hóa thành luật tiền lương tối thiểu.
- Các doanh nghiệp nhà nước trả lương cho người lao động thì phải dựa vào mức tiền lương tối thiểu
và bậc lương do Nhà nước ban hành. Trong các năm 2004-2006, mức lương tối thiểu đã được tăng từ
210.000 lên 290.000, 350.000 và 450.000 đồng. Từ 1/1/2008 mức lương tối thiểu cũng được điều chỉnh
lên 540.000 đồng. Từ ngày 1/1/2009, mức lương này lại được Chính phủ quy định lại là 650.000
đồng/tháng.
- Khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh không có vốn đầu tư nước ngoài được phép trả lương theo
thỏa thuận, nhưng phải tuân thủ quy định mức lương tối thiểu theo vùng mà Nhà nước ban hành. Cụ thể
theo quy định mới nhất là 800.000 đồng/tháng đối với doanh nghiệp hoạt động thuộc địa bàn vùng I,
740.000 đồng với vùng II, 690.000 đồng với vùng III và 650.000 đồng với vùng IV.
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) lại được quy định mức lương tối thiểu cao hơn,
cụ thể là 1,2 triệu đồng/tháng vói vùng I, 1,08 triệu đồng/tháng đối với vùng II, 950.000 đồng với vùng III,
và 920.000 đồng với vùng IV (xem hộp 1).
Hộp 1 – Bốn vùng áp dụng lương tối thiểu của các doanh nghiệp [43].

Vùng I: Các quận và thành phố Hà Đông thuộc thành phố Hà Nội; các quận thuộc thành
phố Hồ Chí Minh.

30
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
Vùng II: Các huyện Gia Lâm, Đông Anh, Sóc Sơn, Thanh Trì, Từ Liêm, Thường Tín,
Hoài Đức, Đan Phượng, Thạch Thất, Quốc Oai và thành phố Sơn Tây (Hà Nội); Các
huyện thuộc thành phố Hồ Chí Minh; các quận, huyện Thủy Nguyên, An Dương (Hải
Phòng); các quận, huyện Ninh Kiều, Bình Thủy (Cần Thơ); thành phố Hạ Long (Quảng
Ninh); thành phố Biên Hòa, thị xã Long Khánh và các huyện Nhơn Trạch, Long Thành,
Vĩnh Cửu, Trảng Bom (Đồng Nai); thị xã Thủ Dầu Một và các huyện Thận An, Dĩ An,
Bến Cát, Tân Uyên (Bình Dương); thành phố Vũng Tàu và huyện Tân Thành (Bà Rịa -
Vũng Tàu).
Vùng III: Các thành phố trực thuộc tỉnh (trừ các thành phố thuộc tỉnh nêu ở vùng II); các
huyện còn lại thuộc thành phố Hà Nội; thành phố Bắc Ninh, thị xã Từ Sơn và các huyện
Quế Võ, Tiên Du, Yên Phong (Bắc Ninh); thành phố Bắc Giang và các huyện Việt Yên,
Yên Dũng (Bắc Giang); thị xã Hưng Yên và các huyện Mỹ Hào, Văn Lâm, Văn Giang,
Yên Mỹ (Hưng Yên); thành phố Hải Dương và các huyện Cẩm Giàng, Nam Sách, Chí
Linh, Kim Thành, Kinh Môn (Hải Dương); thành phố Vĩnh Yên, thị xã Phúc Yên (Vĩnh
Phúc); các huyện còn lại thuộc thành phố Hải Phòng; thành phố Móng Cái, thị xã Uông
Bí, Cẩm Phả (Quảng Ninh); thành phố Đà Lạt, thị xã Bảo Lộc (Lâm Đồng); thành phố
Nha Trang, thị xã Cam Ranh (Khánh Hòa); huyện Trảng Bàng (Tây Ninh); các huyện còn
lại Bình Dương, Đồng Nai; thị xã Tân An và các huyện Đức Hòa, Bến Lức, Cần Đước
(Long An); các quận, huyện còn lại thuộc thành phố Cần Thơ; thị xã Bà Rịa và các
huyện Châu Đức, Long Điền, Đất Đỏ, Xuyên Mộc (Bà Rịa - Vũng Tàu).
Vùng IV gồm các địa bàn còn lại.
Những thành tích đã đạt được
Nhìn chung, các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp có quy mô lớn, đặc biệt các công ty
100% vốn nước ngoài, các tập đoàn và công ty có vốn của nhà nước đều chấp hành nghiêm chỉnh các quy
định pháp luật liên quan.
Có thể lấy ví dụ về chế độ bảo hiểm xã hội (BHXH) cho người lao động mà nhiều doanh nghiệp
Việt Nam đang thực hiện tốt. Doanh nghiệp tham gia BHXH đầy đủ là đảm bảo quyền lợi cho người lao
động. Nhìn chung, số lượng các doanh nghiệp tham gia BHXH cho nhân công ngày càng tăng. Năm 2006,
trước khi Luật BHXH có hiệu lực thi hành chỉ có trên 6,6 triệu người tham gia BHXH bắt buộc. Năm
2007, thời điểm bắt đầu thực hiện Luật BHXH, số lượng người tham gia tăng 18,5% so với năm 2006.
Tính đến cuối năm 2008, cả nước có 8,527 triệu người tham gia BHXH bắt buộc, chiếm 67% số lao động
thuộc diện tham gia bắt buộc. Bên cạnh đó, trên 6.200 người tham gia BHXH tự nguyện, trong đó chủ yếu
là những người trước đó đã tham gia BHXH bắt buộc. [30].
Những tồn tại cần khắc phục
Tuy nhiên, một bộ phận nhỏ các doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài, các công ty của tư
nhân có quy mô nhỏ và vừa lại chưa thực hiện nghiêm chỉnh chính sách lao động như ký kết hợp đồng lao
31
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
động không đúng hình thức, chưa xây dựng cụ thể thang bảng lương, tổ chức làm thêm giờ vượt quá quy
định, chậm đóng bảo hiểm xã hội, thực hiện chưa đầy đủ về chế độ nghỉ phép hàng năm đối với người làm
công việc có yếu tố nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm…
Lại lấy ví dụ cũng về vấn đề chế độ BHXH cho người lao động. Vẫn còn một số lượng lớn lao động
thuộc diện bắt buộc nhưng chưa được tham gia, nhiều người chưa được hưởng quyền lợi theo qui định của
pháp luật. Tình trạng đối tượng tham gia BHXH là người sử dụng lao động và người lao động không
đóng, đóng không đúng thời gian, không đúng mức qui định, đóng không đủ số người thuộc diện tham gia
BHXH bắt buộc còn xảy ra ở nhiều nơi, hầu như địa phương nào cũng có. Ví dụ như thực tế tại Thành phố
Hồ Chí Minh có một số doanh nghiệp đi vào hoạt động, có sử dụng lao động từ những năm 2004, 2006,
thậm chí, có doanh nghiệp bắt đầu hoạt động từ năm 1999 (như Công ty TNHH thuỷ, hải sản Phước Hoà)
đến nay vẫn chưa tham gia BHXH cho người lao động. Tình trạng đóng BHXH không đúng thời gian qui
định như chậm đóng, nợ đọng, nợ dây dưa kéo dài vẫn còn diễn ra ở nhiều địa phương, thậm chí có doanh
nghiệp nợ tiền BHXH lên đến hàng tỷ đồng trong thời gian vài ba năm. Ví dụ như tại TP. Hồ Chí Minh có
công ty TNHH Lucky Việt Nam nợ 887,6 triệu đồng tiền BHXH, công ty giày Anjin nợ gần 5,53 tỷ đồng.
Theo báo cáo tổng hợp, số tiền nợ đóng BHXH trên cả nước là 2.000 tỷ đồng, chiếm 7,0% tổng số phải
thu. [33].
Chính tình trạng phúc lợi cho người lao động không được đảm bảo đã dẫn tới hàng loạt vụ đình công
diễn ra tại Việt Nam trong thời gian gần đây. Theo số liệu của Bộ Lao động Thương Binh và Xã hội cho
thấy, tình trạng đình công ở Việt Nam đang tăng nhanh về số lượng, ngày càng lớn về quy mô và tính chất
càng gay gắt phức tạp hơn. (xem hộp 2)
Hộp 2 – Tình trạng đình công ở Việt Nam

Riêng Long An năm 2008:


Số vụ đình công:
- Số lượng: 63 vụ, tăng 140% so với năm 2007 và 4 lần so với năm
- Năm 2006: 387 vụ
2006.
- Năm 2007: 541 vụ
- Thời gian: trung bình 3 ngày, nhưng không ít vụ đình công kéo dài
- Năm 2008: 762 vụ
7 – 10 ngày [17].
Tính chất:
- Tập trung ở các khu kinh tế công nghiệp, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Chủ yếu mang tính tự phát, không do công đoàn tổ chức
Nguyên nhân:
- Do định giá sản phẩm thấp, định mức lao động cao, kéo dài thời gian lao động, không tăng
lương cho người lao động theo quy định hay bố trí thời gian lao động không hợp lý.
- Tình hình suy thoái kinh tế và lạm phát cao, nhiều người lao động có mức thu nhập thấp
dưới mức chi phí sinh hoạt tối thiểu.
- Người sử dụng lao động chưa tôn trọng lao động, đối xử không phù hợp với văn hóa Việt

32
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009

Nam.

2.1.2. Vấn đề an toàn và vệ sinh lao động


Các nguyên tắc đạo đức kinh doanh
An toàn và vệ sinh lao động là một yếu tố rất quan trọng mà các doanh nghiệp phải chú ý đảm bảo
cho người lao động, đặc biệt trong các khu vực nghề nghiệp có mức nguy hiểm cao. Cũng như các vấn đề
về lương thưởng cho người lao động, các nguyên tắc đảm bảo an toàn vệ sinh lao động cũng được Chính
phủ quy định để doanh nghiệp tuân theo như Luật lao động, Luật Phòng cháy chữa cháy…. Ngoài ra, các
doanh nghiệp cũng có thể dựa vào các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế hoặc tự tạo lập văn bản quy định cụ thể
về mức độ an toàn vệ sinh cho người lao động. Tập hợp các văn bản này sẽ tạo thành bộ nguyên tắc mà
doanh nghiệp Việt Nam cần phải tuân theo. Các quy định, nguyên tắc này bao gồm việc cảnh báo được
mức độ nguy hiểm nghề nghiệp cho người lao động; việc cung cấp dụng cụ bảo hộ; đảm bảo một môi
trường vệ sinh và an toàn về vật lý, hóa học, sinh học cho người lao động…
Ví dụ như trong các phân xưởng cơ khí, cụ thể hóa nguyên tắc đảm bảo an toàn vệ sinh lao động cho
nhân công có nghĩa là doanh nghiệp phải lắp đặt hệ thống thông gió, đặc biệt ở những phân xưởng tỏa
nhiều nhiệt như phân xưởng đúc hay rèn. Doanh nghiệp cũng cần trang bị thêm các màng chắn nước trước
các lò luyện gang để có thể hấp thụ 80 – 90% năng lượng bức xạ, hoặt thay đổi vận tốc gió để tản nhiệt
tốt. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng phải chú ý tới vấn đề cường độ ánh sáng, tiếng ồn, lượng bụi hay mức độ
chấn động, rung tới người lao động (xem bảng 1)
Bảng 1 - Tiêu chuẩn rung cho phép ở ghế ngồi, bàn làm việc theo TCVN 5127 – 90 [9].

33
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009

Những thành tích đạt được


Hệ thống luật pháp và quản lý kiểm soát của Nhà nước về vấn đề an toàn lao động đã tương đối hoàn
thiện. Nhà nước đã ban hành rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định về vấn đề này, như Luật Lao
động 2007, Luật về phòng cháy chữa cháy 2001, Luật về an toàn sử dụng điện 2004 cùng hàng loạt các
văn bản dưới luật như nghị định, quyết định, thông tư…. Chính phủ cũng đã thành lập các cơ quan chuyên
trách riêng quản lý về vấn đề bảo hộ an toàn lao động của các doanh nghiệp, như Cục An toàn Lao động
trực thuộc Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cùng phối hợp quản lý cùng bộ máy các chính quyền địa
phương.
Hộp 3 – Công tác bảo đảm an toàn – bảo hộ lao động (AT-BHLĐ) tại Tổng công ty Sông Đà

Thành tích đạt được trong năm 2008


- Duy trì thường xuyên công tác huấn luyện cho người lao động dưới nhiều hình thức
khác nhau như mời các giảng viên là các chuyên gia của các Sở Lao động Thương binh
và Xã hội có kinh nghiệm về giảng dạy tổ chức các buổi nói chuyện, tọa đàm về an toàn
lao động, in tờ rơi tuyên truyền, tổ chức các hội thi về an toàn lao động tại các đơn vị.
- Tổng công ty đã chỉ đạo các đơn vị rà soát lại nội quy, trang thiết bị bổ sung và thay thế
các thiết bị phòng cháy chữa cháy (PCCC) hết niên hạn sử dụng, liên hệ mời công an
PCCC đến huấn luyện và cấp chứng chỉ cho đội PCCC.
- Số lượng an toàn viên tăng 9% so với năm 2007, toàn tổng công ty không xảy ra vụ
cháy nào.
Pương hướng thực hiện công tác bảo hộ lao động (BHLĐ) trong năm 2009
- Thực hiện tốt pháp luật về BHLĐ và PCCC
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện bộ máy làm công tác BHLĐ của các đơn vị, đảm bảo
chất lượng và hiệu quả, bố trí đủ cán bộ làm công tác BHLĐ theo đúng quy định
- Đôn đốc các Ban điều hành dự án, ban quản lý dự án, các đơn vị lập báo cáo thực hiện

34
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
công tác BHLĐ theo định kỳ
- Tổ chức công tác huấn luyện về AT-BHLĐ trong toàn Tổng công ty
- Tuyên truyền giáo dục kết hợp với Ban chấp hành Công đoàn đẩy mạnh phong trào thi
đua
Nhìn chung, các doanh nghiệp Việt Nam đã có ý thức chấp hành các nguyên tắc đảm bảo an toàn vệ
sinh cho người lao động. Đặc biệt ở các công ty xuất khẩu hàng hóa ra các thị trường EU, Mỹ hay Nhật
phải đáp ứng các tiêu chuẩn về an toàn vệ sinh do bạn hàng yêu cầu; do đó các doanh nghiệp này có ý
thức cao và khá tự nguyện trong việc đảm bảo bảo hộ, an toàn vệ sinh cho người lao động. Theo Cục An
toàn lao động (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội), trong năm 2008, hơn 1,33 triệu công nhân và người
lao động được tập huấn về an toàn và vệ sinh lao động, tăng gần gấp rưỡi so với năm trước đó. Nhiều điển
hình các công ty luôn đảm bảo an toàn bảo hộ lao động cho công nhân như Tổng công ty Sông Đà luôn
coi công tác an toàn – bảo hộ lao động coi là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu. (xem hộp 3)
Những tồn tại cần khắc phục
Tuy nhiên, tình trạng vi phạm bảo hộ an toàn lao động và môi trường làm việc xấu tại nhiều doanh
nghiệp Việt Nam vẫn là khá phổ biến và đang là một trong số các vấn đề nổi cộm nhất hiện nay.
Tai nạn lao động (TNLĐ) hàng năm có chiều hướng gia tăng cả về số lượng và tần suất, gây thiệt
hại nghiêm trọng về người và tài sản của Nhà nước và của doanh nghiệp. Năm 2008 cả nước đã xảy ra
5.836 vụ TNLĐ làm 6.047 người bị tai nạn, có 508 vụ TNLĐ chết người, làm 573 người chết, 1.262 người
bị thương nặng. Tiêu biểu nhất trong năm là vụ nổ khí metan tại mỏ than Khe Chàm - Quảng Ninh (tháng
12 năm 2008) làm 11 người chết và 22 người bị thương nặng. TNLĐ xảy ra nhiều trong lĩnh vực xây
dựng, sản xuất công nghiệp, do điện giật, ngã cao, té hầm, do vật rơi, đổ, do máy móc cắt, cuốn, kẹp...
Nguyên nhân xảy ra TNLĐ chủ yếu do vi phạm quy trình, quy phạm an toàn vệ sinh lao động. Tuy nhiên
nguyên nhân sâu xa gây ra tai nạn lao động là ý thức chấp hành pháp luật bảo hộ lao động của nhiều người
lao động và đặc biệt là của người sử dụng lao động chưa tốt. Điều này thể hiện ý thức về đạo đức kinh
doanh của nhiều doanh nghiệp còn rất kém. Rất nhiều doanh nghiệp không chú trọng việc huấn luyện,
thực hành, kiểm tra an toàn lao động ngay tại công ty, xí nghiệp của mình. Mặt khác, việc kiểm tra bảo hộ
lao động của các cơ quan quản lý trước nay còn qua loa, đại khái, không xử lý triệt để các vụ việc vi
phạm... càng làm giảm đi ý thức tuân thủ, chấp hành nội quy của nhiều doanh nghiệp.
Cùng với TNLĐ thì bệnh nghề nghiệp (BNN) cũng là vấn đề khá nhức nhối. Theo số liệu của Cục Y
tế Dự phòng (Bộ Y tế), tính đến hết năm 2008 cả nước có trên 24.000 người mắc bệnh nghề nghiệp. Bệnh
nghề có tỉ lệ mắc cao là bụi phổi silic (chiếm 76,7%), điếc do tiếng ồn (chiếm 19,5%). (xem bảng 2)

Bảng 2- Kết quả khám bệnh nghề nghiệp giai đoạn 2001- tháng 6/2008 [16].
STT Thời gian Số khám Số phát Tỉ lệ phát hiện Số giám Tỉ lệ giám
BNN hiện /số khám định định
35
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
/phát hiện
1 2001 28.464 4.118 14,46% 1.156 28,07%
2 2002 62.917 8.036 12,77% 1.781 22,16%
3 2003 56.899 4.774 8,39% 1.609 33,7%
4 2004 57.480 7.908 13,76% 1.577 19,94%
5 2005 30.427 3.286 10,8% 1.482 45,1%
6 2006 53.863 5.018 9,3% 537 10,7%
7 2007 55.252 2.842 5,1% 523 18,4%
8 6.2008 34.463 1.535 4,5% 39 2,5%
Tổng cộng 379.765 38.177 10,1% 8.704 22,8%

Số lao động mắc BNN xuất hiện nhiều nhất ở các lĩnh vực xây lắp dân dụng, công nghiệp, giao
thông, khai thác khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng và cơ khí chế tạo. Môi trường làm việc xấu và
điều kiện an toàn vệ sinh không đảm bảo là nguyên nhân chính dẫn đến sự gia tăng BNN. Nổi bật là
số người bị TNLĐ và mắc BNN vẫn có xu hướng gia tăng; các hội đồng bảo hiểm lao động tại một số
cơ sở chưa thực hiện đầy đủ chức năng nhiệm vụ, hoạt động còn thụ động, chưa xây dựng kế hoạch
bảo hiểm lao động hằng năm; số người được huấn luyện về an toàn vệ sinh lao động còn ít. Trong khi
đó, công tác khám sức khoẻ tuyển dụng, khám sức khoẻ định kỳ và khám phát hiện BNN cho người
lao động chưa đạt yêu cầu cả về số lượng và chất lượng; cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các cơ sở
điều trị và phục hồi chức năng cho người lao động bị BNN còn thiếu thốn chưa được trang bị đầy đủ.
Điều này càng cho thấy doanh nghiệp chưa thực sự tự nguyện trong công tác bảo vệ nguồn nhân lực
quý giá của mình, chưa chú ý tới tầm quan trọng của vấn đề đạo đức kinh doanh đối với người lao
động.
2.1.3. Việc tạo lập môi trường làm việc thân thiện
Các nguyên tắc đạo đức kinh doanh
Môi trường làm việc thân thiện là một yếu tố quan trọng giúp người lao động có động lực làm việc
và cống hiến hơn cho doanh nghiệp. Các nguyên tắc đạo đức kinh doanh về tạo lập môi trường làm việc ở
đây thường phụ thuộc nhiều vào tính tự nguyện của doanh nghiệp mà không có tính pháp lý bắt buộc
nhiều. Các nguyên tắc này thường được quy định tại điều khoản hợp đồng, các thỏa ước mà doanh nghiệp
ký kết với người lao động, hoặc được quy định trong điều lệ và quy tắc của công ty. Các vấn đề liên quan
tới việc tạo lập môi trường làm việc thân thiện rất đa dạng, như việc ủng hộ thành lập các tổ chức của
người lao động (như Công đoàn, Đảng bộ, các câu lạc bộ sinh hoạt); cung cấp phương tiện giao thông đi
lại, bữa ăn cho công nhân; đối xử bình đẳng và tôn trọng đối với người lao động; đem lại các cơ hội nghề
nghiệp (như các cơ hội thăng tiến, giáo dục đào tạo, tôn vinh nghề nghiệp); gia tăng các các giá trị văn hóa
tinh thần cho người lao động (như đi nghỉ mát, dã ngoại, nghỉ lễ Tết…).
Những thành tích đạt được

36
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
Điểm mạnh của các doanh nghiệp Việt Nam là các doanh nghiệp nhà nước và các công ty lớn, làm
ăn đứng đắn đều thực hiện tốt các chính sách lao động cho nhân công, có ý thức xây dựng một bầu không
khí làm việc thân thiện và lành mạnh cho người lao động.
Việt Nam là đất nước đi theo chế độ chủ nghĩa xã hội, do đó lợi ích của người lao động nói chung
đều được đặt lên hàng đầu. Chính phủ nước ta khá quan tâm trong việc định hướng cho các doanh nghiệp
Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải ngày càng quan tâm hơn tới việc chăm lo
đời sống cho người lao động, thông qua việc thành lập các tổ chức cơ sở bảo vệ quyền lợi cho người lao
động như Công đoàn và tổ chức Đảng bộ cơ sở.
Theo Thông tư số 17/2009/TT-BTC thì các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp
Việt Nam do nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần trên 49% và văn phòng điều hành của phía nước ngoài
trong hợp đồng hợp tác kinh doanh tại Việt Nam đều phải trích nộp kinh phí công đoàn bằng 1% quỹ tiền
lương, tiền công phải trả cho lao động người Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang có
hoạt động Công đoàn và Đảng bộ rất tốt. Ví dụ như ở Hà Nội, có 80% các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
ủng hộ các hoạt động của công đoàn cơ sở trong công tác văn nghệ, thể dục thể thao, tạo điều kiện để hoạt
động công đoàn phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp. Đến nay, đã có 74% số doanh nghiệp đã xây
dựng được quy chế phối hợp công đoàn – ban giám đốc. Hay tại TP. Hồ Chí Minh, trong 5 năm (2003 -
2008) đã thành lập được 149 tổ chức đảng trong các doanh nghiệp tư nhân, nâng tổng số lên 216 doanh
nghiệp với 2.239 đảng viên. Hiện ở các khu công nghiệp và khu chế xuất, có 618 tổ chức công đoàn cơ sở
trong số 968 doanh nghiệp, chiếm 64%. Những nơi chưa có thường là những doanh nghiệp có số lượng
lao động thấp.
Những tồn tại cần khắc phục
Tuy nhiên, chiếm đa số ở Việt Nam là các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì vẫn chưa thực sự có ý thức
xây dựng một môi trường làm việc thuận lợi cho người lao động. Số lượng các doanh nghiệp chưa đảm
bảo được lợi ích cho người lao động cũng là không nhỏ.
Có thể lấy ví dụ về việc thành lập Công đoàn hay Đảng bộ ở các doanh nghiệp. Theo báo cáo của
các cơ quan chức năng, hiện nay cả nước có hơn 230.000 doanh nghiệp, trong đó số doanh nghiệp đủ điều
kiện thành lập công đoàn chỉ chiếm 50%. Việc không thành lập được công đoàn cơ sở các doanh nghiệp
FDI đã dẫn đến tình trạng người lao động không có đại diện để thương lượng, ký kết thỏa ước lao động
tập thể, không thành lập được Hội đồng hòa giải, không có đại diện lãnh đạo đình công đúng theo trình tự,
thủ tục của pháp luật quy định. Với các doanh nghiệp đã thành lập công đoàn, thì chủ tịch công đoàn cơ sở
hầu hết là thuộc bộ máy quản lý điều hành của doanh nghiệp (là phó giám đốc, trưởng, phó phòng ban), do
người lao động cử ra để Đại hội công đoàn cơ sở bầu làm chủ tịch công đoàn. Chủ tịch công đoàn này
được chủ doanh nghiệp trả lương, mọi quyền lợi của chủ tịch công đoàn đều hoàn toàn phụ thuộc vào
giám đốc, do giám đốc quyết định. Vì vậy, người chủ tịch gần như không có khả năng tự bảo vệ mình
cũng như không thể đấu tranh bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động. Nếu chủ tịch công đoàn cơ sở
là công nhân trực tiếp thì năng lực thương lượng và đối thoại sẽ hạn chế, còn nếu chủ tịch công đoàn cơ sở
37
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
là trưởng các phòng ban hoặc phó giám đốc doanh nghiệp thì khó vì quyền lợi của họ gắn liền với người
sử dụng lao động.

2.1.4. Vấn đề sa thải nhân công


Các nguyên tắc đạo đức kinh doanh
Sa thải lao động là một vấn đề đạo đức kinh doanh mà doanh nghiệp cần phải chú ý, đặc biệt trong
tình trạng suy thoái kinh tế hiện nay. Nhiều doanh nghiệp hiện đang phải cắt giảm lao động và rõ ràng là
điều này đang ảnh hưởng tới đời sống của nhiều lao động và sự tồn tại của các doanh nghiệp Việt Nam,
nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Sau nhiều năm tăng trưởng mạnh, nền kinh tế đã chậm lại với mức
tăng trưởng 6.23% trong năm 2008. Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF, mức tăng trưởng năm 2009 của Việt
Nam có thể khoảng 5%. Theo Cục Việc làm Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chỉ trong 2 tháng đầu
năm 2009, đã có hơn 66.700 lao động mất việc làm. Dự kiến 6 tháng đầu năm có thể lên tới 300.000
người. Thực chất, sa thải lao động không hề có nghĩa là vi phạm đạo đức kinh doanh, mà ngược lại, doanh
nghiệp vẫn thực hiện tốt đạo đức kinh doanh với người lao động nếu việc sa thải đó là hợp lý và tuân thủ
đúng theo các quy định của công ty và pháp luật.
Những lúc khó khăn như khi xảy ra khủng hoảng kinh tế hoặc lạm phát, chủ doanh nghiệp có thể
phải thu hẹp quy mô, sa thải người, làm cho doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn và chỉ bằng cách đó
mới có thể tạo công ăn việc làm mới trong dài hạn. Mặt khác, nhiều công ty tự đặt ra các quy chế về lao
động chặt chẽ, mà người lao động nếu vi phạm sẽ bị buộc cho thôi việc. Ví dụ điển hình là các doanh
nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài, các doanh nghiệp nằm trong khu công nghiệp, khu chế xuất thường
xây dựng các quy định rất chặt chẽ về giờ giấc, ngày nghỉ, trang phục…Điều này giúp tạo tính kỉ luật và
quy củ cho người lao động, giúp hoạt động của doanh nghiệp thêm hiệu quả.
Như vậy, sa thải một cách có đạo đức kinh doanh là khi doanh nghiệp cho nhân công nghỉ việc vì lý
do thỏa đáng, hợp lý theo quy định; chứ không phải do cách quản lý thiếu minh bạch, trù úm và không
công bằng của người sử dụng lao động. Bên cạnh đó, khi cho người lao động nghỉ việc, doanh nghiệp phải
đảm bảo trợ cấp thất nghiệp đúng theo luật pháp của Việt Nam và hợp đồng lao động quy định. Ví dụ như
khi muốn sa thải, luật Lao động quy định chủ doanh nghiệp phải có sự nhất trí của Công đoàn cơ sở.
Ngoài ra, đối với lao động ký hợp đồng trên 12 tháng, doanh nghiệp phải cung cấp trợ cấp thất nghiệp
bằng 60% mức tiền lương.
Thành tích và tồn tại cần khắc phục
Đa số các doanh nghiệp Việt Nam đều thực hiện việc sa thải nhân công một cách hợp lý và đúng
luật. Tuy nhiên cũng không thể tránh khỏi một số nhỏ những trường hợp tiêu cực gây bức xúc cho người
lao động. Như việc 102 công nhân nhân thuộc Công ty May Quốc tế Việt-Pan Pacific bị sa thải trong năm
2006, mà không có một lời thông báo trước từ phía lãnh đạo Công ty. Hoặc trường hợp sa thải nhân viên

38
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
một cách vô cớ của Công ty Công ty cổ phần chứng khoán Biển Việt (Hà Nội) với lý do đưa ra không
đúng sự thật và trái với các quy định của pháp luật lao động vào tháng 4 năm 2008.
Nhìn chung, vấn đề đạo đức kinh doanh đối với người lao động của các doanh nghiệp mới dừng ở
mức tuân thủ Bộ Luật lao động và các luật liên quan. Số lượng các doanh nghiệp thực sự chú trọng đến
khía cạnh đạo đức kinh doanh này một cách tự nguyện còn khá ít ỏi, và thường tập trung ở các doanh
nghiệp có vốn nhà nước, những doanh nghiệp lớn, có thương hiệu và văn hóa doanh nghiệp tốt. Tuy
nhiên, số lượng các doanh nghiệp Việt Nam vi phạm các quy định trong Luật lao động cũng là không nhỏ,
thường tập trung ở các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa, các doanh nghiệp tư nhân, địa phương, làng
nghề. Nhiều hiện tượng lách luật vẫn xảy ra, phúc lợi cho người lao động không được đảm bảo. Rõ ràng,
thực hiện tốt đạo đức kinh doanh với người lao động là khi doanh nghiệp biết cách cân bằng giữa lợi ích
của bản thân doanh nhân và lợi ích cho người lao động. Người lao động là một nhân tố thuộc nội bộ doanh
nghiệp, vì thế muốn phát triển bền vững và tăng tính cạnh tranh, thì các doanh nghiệp Việt Nam sẽ cần
phải chú ý nhiều hơn nữa tới khía cạnh đạo đức kinh doanh này.

2.2. Đối với khách hàng


2.2.1. Về chất lượng sản phẩm
Các nguyên tắc đạo đức kinh doanh
Chất lượng sản phẩm luôn là vấn đề được khách hàng quan tâm hàng đầu. Như đã phân tích ở
chương I, nguyên tắc đạo đức kinh doanh quan trọng nhất của doanh nghiệp ở đây là cung cấp sản phẩm
có chất lượng đúng và chính xác như những gì doanh nghiệp công bố. Có rất nhiều các tiêu chuẩn và
nguyên tắc quy định về chất lượng sản phẩm như các tiêu chuẩn chất lượng ISO, TCVN, BVQI; các văn
bản luật bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam như Pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng năm 1999, luật chất
lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007; các quy tắc và tiêu chuẩn chất lượng nội bộ của doanh nghiệp…
Hộp 4 – Nghĩa vụ của người sản xuất theo Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa số 05/2007/QH12 ngày
21/11/2007

Điều 10. Nghĩa vụ của người sản xuất


1. Tuân thủ các điều kiện bảo đảm chất lượng đối với sản phẩm trước khi đưa ra thị
trường theo quy định tại Điều 28 của Luật này và chịu trách nhiệm về chất lượng sản
phẩm do mình sản xuất.
2. Thể hiện các thông tin về chất lượng trên nhãn hàng hóa, bao bì, trong tài liệu kèm
theo hàng hóa theo quy định của pháp luật về nhãn hàng hóa.
3. Thông tin trung thực về chất lượng sản phẩm, hàng hoá.
4. Cảnh báo về khả năng gây mất an toàn của sản phẩm và cách phòng ngừa cho người
bán hàng và người tiêu dùng.
5. Thông báo yêu cầu về vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, sử dụng sản phẩm, hàng hóa.
6. Cung cấp thông tin về việc bảo hành và thực hiện việc bảo hành sản phẩm, hàng hóa

39
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
cho người mua, người tiêu dùng.
7. Sửa chữa, hoàn lại hoặc đổi hàng mới, nhận lại hàng có khuyết tật bị người bán hàng,
người tiêu dùng trả lại.
8. Kịp thời ngừng sản xuất, thông báo cho các bên liên quan và có biện pháp khắc phục
hậu quả khi phát hiện sản phẩm, hàng hóa gây mất an toàn hoặc sản phẩm, hàng hoá
không phù hợp với tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng.
9. Thu hồi, xử lý sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng. Trong trường hợp phải
tiêu huỷ hàng hóa thì phải chịu toàn bộ chi phí cho việc tiêu huỷ hàng hoá và chịu trách
nhiệm về hậu quả của việc tiêu huỷ hàng hoá theo quy định của pháp luật.
….
Những thành tích đạt được
Rõ ràng, vẫn có một bộ phận các doanh nghiệp Việt Nam luôn cố gắng hoàn thiện và phát triển chất
lượng sản phẩm của doanh nghiệp mình. Theo xu thế hiện nay, các doanh nghiệp bắt đầu quan tâm đến
một số hệ thống tiêu chuẩn có thể giúp cho hình ảnh của mình ngày một nâng cao và có uy tín vững chắn.
Bên cạnh các tiêu chuẩn riêng biệt về sản phẩm, hiện nay một số doanh nghiệp đã xây dựng và áp dụng
thành công các tiêu chuẩn quản lý như: công ty TNHH Lusk Xi măng Thừa Thiên- Huế (được chứng nhận
phù hợp tiêu chuẩn ISO 9000, ISO 14000, ISO 18000), Xi măng Hoàng Thạch, Xi măng Chinfon Hải
Phòng, Xi măng Hà Tiên 2, Xi măng Hoàng Mai, Xi măng Sài Sơn (với ISO 9000 và ISO 14000)... Các hệ
thống quản lý chất lượng tiên tiến và nhiều phương pháp, công cụ quản lý chất lượng hiện đại khác như
TQM, Q-base, HACCP, GMP, 5S, QC cũng được đưa vào áp dụng.
Theo Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng, hiện cả nước có trên 4.000 tổ chức, doanh nghiệp
được chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2000. Theo đó, Cuối năm
2008, có 135 doanh nghiệp nhận cúp vàng ISO 2008, hay mới đây có 350 doanh nghiệp Việt Nam được
công bố đạt danh hiệu hàng Việt Nam chất lượng cao năm 2009.
Việc xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý tiêu chuẩn chất lượng đang trở thành một yêu cầu bắt
buộc đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Nó được coi như một tờ giấy thông hành giúp doanh nghiệp dễ
dàng hơn khi xâm nhập vào thị trường, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu cần phải đáp ứng yêu cầu
về chất lượng hàng hóa của đối tác nước ngoài. Khi áp dụng các hệ thống tiêu chuẩn như vậy, lợi ích
doanh nghiệp có được sẽ tăng gấp đôi, không chỉ tạo dựng một vị thế cạnh tranh vững chắc mà còn hướng
tới một sự phát triển toàn diện lâu dài.
Những tồn tại cần khắc phục
Tuy nhiên, số lượng các doanh nghiệp xây dựng uy tín đảm bảo chất lượng cho sản phẩm như trên là
khá ít. Hiện nay ở Việt Nam có trên 230.000 doanh nghiệp, nhưng chỉ có hơn 4.000 doanh nghiệp đạt tiêu
chuẩn ISO 9001:2000. Và trong số các doanh nghiệp còn lại, không ít doanh nghiệp đánh lừa người tiêu
dùng dưới nhãn mác đảm bảo chất lượng. Gần đây, các vụ việc tiêu cực về chất lượng sản phẩm thực

40
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
phẩm ở Việt Nam đang bùng nổ với tốc độ chóng mặt. Người tiêu dùng đang coi thời kì này ở Việt Nam
là thời kì “loạn thực phẩm”.
Gần kề ngày Tết Trung Thu, sự kiện “kẹo bột đá” làm nóng ran dư luận mọi nơi. Cho đến khi đoàn
kiểm tra phát hiện sai phạm thì đã có tới hàng tấn kẹo La Phù, Minh Khai với tỷ lệ pha trộn tới 30-50%
bột đá được bán ra thị trường. [29].
Bên cạnh đó là câu chuyện vi phạm về sữa ở Việt Nam. Năm 2006 với việc sữa tươi tiệt trùng là
78% là sữa bột của một số nhãn hiệu lớn như Vinamilk, Dutch Lady. Các doanh nghiệp Việt Nam vốn
nhận được sự tin tưởng tuyệt đối của người tiêu dùng đã thừa nhận sử dụng phần lớn nguyên liệu là sữa
bột nhập khẩu để chế biến sản phẩm này. Tới gần đây lại xảy ra sự kiện về sữa siêu nghèo đạm. Vi phạm
này bắt đầu được phát hiện sau đợt thanh tra do Sở Y tế TP.HCM thực hiện hồi tháng 8/2008, với kết quả
cực kì bất ngờ là 100% số mẫu sữa chưa công bố tiêu chuẩn không đạt hàm lượng protein. Một tháng sau,
Hội Tiêu chuẩn - Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam mua ngẫu nhiên 20 mẫu sữa bột nhãn hiệu khác nhau
được bán tại các chợ, siêu thị tại TP.HCM và Bình Dương để phân tích hàm lượng đạm. Kết quả là có đến
10 mẫu không đạt tỷ lệ đạm như công bố trên nhãn. Trong đó 6 mẫu đạm rất thấp (dưới 10%), đặc biệt 4
mẫu sữa có tỷ lệ đạm cực thấp (dưới 2%). Một khảo sát khác với lượng đạm trong sữa bột cũng được
Viện Vệ sinh Y tế Công cộng TP.HCM thực hiện trong năm 2008. Theo đó, 31/49 mẫu sữa bột nội địa có
hàm lượng protein thấp hơn công bố. Nhiều loại sữa mức chênh lệch giữa hàm lượng protein kiểm tra thực
tế thấp hơn nhiều so với ghi trên bao bì sản phẩm đã công bố chất lượng từ 1 - 30 lần, nhất là sữa cho trẻ
em. Cục Quản lý cạnh tranh (thuộc Bộ Công thương) tiết lộ thông tin rằng nhiều sản phẩm sữa tại
TP.HCM quảng cáo 24% đạm, thực tế chỉ 0,5%. Thông thường, hàm lượng đạm ở sữa phải ở mức 11-14%
tổng năng lượng/100g sản phẩm mới đạt tiêu chuẩn. Với trẻ em hoặc người già - những người dùng sữa
như thức ăn chính, thì việc dùng sữa nghèo đạm giống như uống nước đường, cơ thể bị bỏ đói lâu ngày sẽ
suy mòn, dẫn đến giảm miễn dịch. Riêng trẻ thì dễ bị phù nề, dễ bị xơ gan nhiễm mỡ, suy tim suy thận
cấp. [26].
Vụ việc nước tương có chứa chất 3-MCPD gây hại cũng là một điểm nóng trong thời gian qua. 3-
MCPD là chất có thể gây biến đổi gene - một trong những nguyên nhân hàng đầu gây nên ung thư. Đáng
lưu ý là độc chất 3-MCPD trong nước tương chỉ phát sinh ra nếu nhà sản xuất áp dụng sản xuất theo kỹ
thuật cũ là phương pháp thuỷ phân còn nếu nhà sản xuất áp dụng theo công nghệ mới là lên men sinh học
thì chất 3-MCPD hoàn toàn không có, hoặc nếu có thì cũng ở mức cho phép, nên không gây hại cho sức
khoẻ người tiêu dùng. Tuy nhiên có lẽ do để tiết kiệm chi phí, không muốn thay đổi hệ thống máy móc cũ
lạc hậu, mà nhiều doanh nghiệp vứt bỏ đạo đức kinh doanh để sẵn sàng lừa dối người tiêu dùng. Ví dụ như
công ty sản xuất nước tương Nam Dương công bố trên toàn quốc rằng sản phẩm nước tương của doanh
nghiệp là sạch, nhưng khi được thanh tra y tế kiểm tra lại cho kết quả hàm lượng 3-MCPD tăng gấp 2.343
lần.[22].

41
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
Ngoài ra còn vô vàn những vi phạm nóng về thực phẩm khác, như hoa quả để cả tháng không hỏng
vì được ngâm hóa chất, rau xanh đẹp vì vừa được phun thuốc trừ sâu, bánh chưng mau nhừ là nhờ luộc với
pin, bánh cuốn, giò chả giòn, dai vì đã tẩm hàn the...
Tiêu thụ những sản phẩm như vậy đa số không gây hại ngay lập tức, mà có tác động từ từ và hậu
quả sau này khó có thể tưởng tượng được. Đặc biệt nguy hiểm là những sản phẩm sữa thiếu tiêu chuẩn có
thể đầu độc cả một thế hệ tương lai của đất nước. Điều này không chỉ đơn thuần là việc vi phạm pháp luật
kinh doanh, mà còn là sự xuống cấp trầm trọng của đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp và là một tội ác.
2.2.2. Về giá cả hàng hóa
Các nguyên tắc đạo đức kinh doanh
Nguyên tắc đạo đức kinh doanh về giá cả hàng hóa thường chỉ phụ thuộc vào tinh thần tự nguyện và
tính thiện chí của doanh nghiệp đối với khách hàng. Hiện nay ở Việt Nam, văn bản pháp luật có tính
cưỡng chế cao nhất điều chỉnh mối quan hệ này của doanh nghiệp là Pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng
năm 1999 và các nghị định hướng dẫn liên quan.
Ví dụ như trong Pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng năm 1999 đã quy định rõ:
Điều 14: Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có đăng ký kinh doanh phải đăng
ký, công bố tiêu chuẩn, chất lượng hàng hoá, dịch vụ theo quy định của pháp luật và thực hiện đúng cam
kết với người tiêu dùng; phải thường xuyên kiểm tra về an toàn, chất lượng hàng hoá, dịch vụ, thực hiện
việc cân, đong, đo, đếm chính xác.
Chính phủ quy định cụ thể việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong trường hợp sản xuất, kinh
doanh hàng hoá, dịch vụ không đăng ký, công bố tiêu chuẩn, chất lượng hàng hoá, dịch vụ.
Điều 15: Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ phải thông tin, quảng cáo chính
xác và trung thực về hàng hoá, dịch vụ; niêm yết giá hàng hoá, dịch vụ; công bố điều kiện, thời hạn, địa
điểm bảo hành và hướng dẫn sử dụng hàng hoá, dịch vụ của mình cho người tiêu dùng.
Điều 16: Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ phải giải quyết kịp thời mọi
khiếu nại của người tiêu dùng về hàng hoá, dịch vụ của mình không đúng tiêu chuẩn, chất lượng, số
lượng, giá cả đã công bố hoặc hợp đồng đã giao kết; thực hiện trách nhiệm bảo hành hàng hoá, dịch vụ đối
với khách hàng.
Thành tích và tồn tại cần khắc phục
Nói chung, do tính chất cạnh tranh ngày một tăng trong nền kinh tế thị trường mở cửa của Việt Nam
hiện nay, các doanh nghiệp đều cố gắng cung cấp sản phẩm với mức giá hợp lý, giữ uy tín và thương hiệu
với khách hàng.
Tuy nhiên, vẫn tồn tại việc ép giá của một số doanh nghiệp, và tập trung ở các doanh nghiệp kinh
doanh các mặt hàng độc quyền. Tuy tốc độ gia tăng lạm phát đã và đang chậm lại thế nhưng giá cả các
mặt hàng, dịch vụ thiết yếu đối với người dân vẫn giữ nguyên hoặc tăng cao hơn. Về nguyên tắc, có rất
nhiều lý do giúp giá cả hàng hoá ở nước ta giảm. Đó là: Giá cả trên thị trường thế giới giảm mạnh; các
biện pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ đã phát huy tác dụng, trong đó lãi suất ngân hàng đã giảm;
42
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
nhu cầu và giá cả nhiều mặt hàng, nhất là các hàng hóa vật tư quan trọng như xăng dầu, sắt thép, gạo đều
giảm... Thế nhưng, thực tế giá cả các mặt hàng thực phẩm, dịch vụ trong nước không giảm mà còn gia
tăng. Các doanh nghiệp đã lợi dụng các sự kiện bão lụt, ngập úng... để tăng giá, hoặc trây ỳ không chịu
giảm giá. Nhu cầu sử dụng hàng hoá, dịch vụ của người tiêu dùng, dù trong thời kì khủng hoảng kinh tế
cũng có giảm nhưng chỉ ở mức độ nhất định chứ không thể giảm ở mức tối đa, nên những sản phẩm thiết
yếu thì ai cũng phải mua. Lợi dụng nhu cầu của người tiêu dùng, các nhà kinh doanh gồm cả người sản
xuất và người bán hàng đã làm giá để kiếm lời cao.
Đáng lo ngại là các nhà kinh doanh thậm chí đã liên minh làm giá để trục lợi. Ví dụ điển hình chính
là việc giá sữa bột dành cho trẻ em tăng liên tục, mặc dù người dân Việt Nam đang phải đương đầu với
cuộc khủng hoảng tài chính; bởi sữa cho trẻ là mặt hàng không thể thiếu với những gia đình có con nhỏ,
cộng với tâm lý người Việt Nam dù có tiết kiệm vẫn luôn cố gắng dành những loại sữa tốt nhất cho con.
Một ví dụ khác là việc giảm giá nhỏ giọt xăng dầu trong thời gian qua. Giá dầu thế giới xuống thấp
nhưng giá xăng trong nước thì giảm cầm chừng. Khi giá dầu thế giới tăng lên mức cao nhất là gần
150USD/thùng trong tháng 7 năm 2008, giá xăng trong nước là 19.000đ/lít. Trong 2 tháng cuối năm 2008,
giá dầu thô đã liên tục rớt sâu và duy trì mức trên dưới 40 USD/thùng. Mức giá xăng trong nước trong
tháng 3 năm 2009 là 11.000 đồng/lít, tương ứng với giá xăng hồi tháng 3/2007 - thời điểm này, giá dầu thô
là 60 USD/thùng. Như vậy khi giá dầu thô đã giảm từ 73 - 77% thì giá bán lẻ xăng dầu trong nước chỉ
giảm 42%. Các doanh nghiệp bán lẻ xăng dầu trong nước đồng loạt lý giải nguyên nhân này là do bù lỗ,
và giảm giá xăng một cách nhỏ giọt trong suốt thời gian qua. Từ ngày 11/4/2009 cho tới nay, giá xăng
tăng so với tháng 3 lên 12.000 đồng/lít, và được các doanh nghiệp giải thích do giá xăng nhập khẩu đã
tăng quanh ngưỡng 64 – 65 USD/thùng. Như vậy, khi giảm giá thì các doanh nghiệp lừng chừng và nhỏ
giọt; trong khi tăng giá thì luôn đột ngột và được thực hiện ngay lập tức. Nhận xét về vấn đề này, nhiều
nhà phân tích cho rằng đây là tình trạng lạm dụng độc quyền doanh nghiệp để xâm phạm lợi ích xã hội,
khi mà các doanh nghiệp bán lẻ xăng dầu cùng liên minh giá. Rõ ràng điều này vi phạm các nguyên tắc về
đạo đức kinh doanh.
Hay có thể lấy một ví dụ khác cũng đang được đông đảo người tiêu dùng quan tâm là mặt hàng dược
phẩm. Theo nhận định của các chuyên gia Cục Quản lý Cạnh tranh thì các công ty phân phối dược phẩm
trong và ngoài nước đang cấu kết với nhau đẩy giá thuốc tại Việt Nam cao gấp 200%-300% giá gốc. [42].
Trong hệ thống phân phối dược phẩm Việt Nam đang diễn ra một thực trạng là các đơn vị môi giới, nhập
khẩu… đang liên kết với nhau để lách luật. Thuốc trước khi nhập khẩu vào Việt Nam đã được các nhà
phân phối, công ty môi giới cấu kết với văn phòng đại diện của công ty nước ngoài ấn định giá. Như vậy
rõ ràng, người tiêu dùng đang phải chịu thiệt rất nhiều khi phải chi trả số tiền gấp nhiều lần giá trị đích
thực của lượng dược phẩm mình mua.
Giá cả hàng hoá, dịch vụ mà các nhà kinh doanh làm giá không đứng trên giá trị hàng hoá. Nền kinh
tế nước ta là nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Ở khía cạnh thứ nhất, quy luật thị trường
sẽ điều chỉnh giá cả. Nhưng nguyên tắc mua bán theo thoả thuận đã không được tôn trọng khi các nhà
43
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
kinh doanh "liên minh" làm giá, trong khi nhu cầu người tiêu dùng không thể giảm quá mức và họ có đủ
tiềm lực để thoả thuận. Ở khía cạnh thứ hai, Nhà nước sẽ không cho phép các nhà kinh doanh vì siêu lợi
nhuận mà móc túi người tiêu dùng. Nhưng một mặt, các nhà kinh doanh tránh né sự điều tiết của Nhà
nước với lý do quy luật thị trường tự điều chỉnh cung cầu; mặt khác, hiện các chế tài chưa đủ cũng như
các cơ quan chức năng chưa kiên quyết điều tiết. Do đó, việc làm trái đạo đức kinh doanh của các nhà
kinh doanh vẫn ngang nhiên tồn tại. Không phải người nào cũng bị ảnh hưởng bởi giá cả tăng, nhưng tất
cả người dân bình thường với thu nhập trung bình hoặc thấp đều bị ảnh hưởng lớn. Ở nước ta những người
như vậy lại chiếm đa số. Trục lợi trên lưng người nghèo không chỉ trái với đạo đức kinh doanh mà còn là
tội ác. Trong cơ chế thị trường, không phải lúc nào cũng có sự can thiệp của Nhà nước. Nhưng trong bối
cảnh hiện nay, sự can thiệp của Nhà nước về giá cả với biện pháp mạnh là hết sức cần thiết, bởi sẽ ngăn
chặn những tội ác trong kinh doanh nhằm đảm bảo sự hài hoà, ổn định của xã hội.

2.3. Đối với cộng đồng xã hội


Các nguyên tắc đạo đức kinh doanh
Như đã phân tích ở chương I, các nguyên tắc đạo đức kinh doanh đối với cộng đồng xã hội với
doanh nghiệp bao gồm nguyên tắc bảo vệ môi trường và nguyên tắc nhân đạo. Trong khi nguyên tắc nhân
đạo hoàn toàn phụ thuộc vào tính tự nguyện của doanh nghiệp, nguyên tắc bảo vệ môi trường lại được
pháp luật quy định khá chặt chẽ thành các văn bản pháp luật. Hệ thống các văn bản luật và tiêu chuẩn môi
trường là căn cứ chuẩn mực quan trọng cho các doanh nghiệp tự đánh giá và điều chỉnh hành vi của mình.
Ở Việt Nam, có thể lấy ví dụ như Luật Bảo vệ môi trường có hiệu lực từ 01/07/2006 quy định doanh
nghiệp có khu chôn lấp chất thải nguy hại phải đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ môi trường là được bố trí
đúng quy hoạch, thiết kế theo yêu cầu kỹ thuật đối với khu chôn lấp chất thải nguy hại; có khoảng cách an
toàn về môi trường đối với khu dân cư, khu bảo tồn thiên nhiên, nguồn nước mặt, nước dưới đất phục vụ
mục đích sinh hoạt; có hàng rào ngăn cách và biển hiệu cảnh báo… Hay các tiêu chuẩn về môi trường đất,
nước và không khí như TCVN 5942-1995 về giới hạn tối đa cho phép của dư lượng hoá chất bảo vệ thực
vật trong đất, TCVN 6984-2001 về tiêu chuẩn nước thải công nghiệp thải vào vực nước sông dùng cho
mục đích bảo vệ thuỷ sinh, TCVN 5938-1995 về chất lượng không khí - nồng độ tối đa cho phép của một
số chất độc hại trong không khí xung quanh.
Những thành tích đạt được
Mặt mạnh của khía cạnh đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp nước ta là các doanh nghiệp đã
nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề đạo đức kinh doanh với cộng đồng, hay nói cách khác là trách
nhiệm xã hội (CSR) của doanh nghiệp. Từ năm 2005, ở nước ta đã có giải thưởng “Trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp hướng tới phát triển bền vững” được tổ chức bởi phòng thương mại và Công nghiệp
Việt Nam, Bộ Lao Động Thương binh và Xã hội, Bộ Công Thương cùng các hiệp hội Da giày, Dệt may tổ
chức, nhằm tôn vinh các doanh nghiệp thực hiện tốt công tác CSR trong bối cảnh hội nhập. Giải thưởng
này được tổ chức dựa trên việc chấm điểm theo các tiêu chí: doanh nghiệp đạt hiệu quả kinh tế cao trong 3

44
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
năm, thực hiện chính sách xã hội tốt với người lao động, góp phần bảo vệ môi trường...Trong năm 2006
đã có 50 doanh nghiệp trong ngành dệt may và da giày tham dự giải thưởng này. Tới năm 2007 có tới 33
doanh nghiệp vào vòng chung kết của giải thưởng trong số gần 2000 doanh nghiệp trong các ngành này.
Bên cạnh đó còn có một loạt các hội thảo và giải thưởng được tổ chức nhằm khuyến khích TNXH của
doanh nghiệp khác. Ví dụ như giải thưởng Sao vàng đất Việt, những doanh nghiệp tham gia phải vừa làm
tốt nhiệm vụ chính trị xã hội, phát triển kinh tế, quốc phòng an ninh, vừa làm tốt nhiệm vụ an sinh xã hội,
chăm lo, nâng cao đời sống người dân. Để đạt giải, 3 tiêu chí quan trọng hàng đầu của doanh nghiệp phải
có là: có đường hướng phát triển bền vững, tuân thủ đúng pháp luật; quan tâm tới đời sống của người lao
động. Hay vừa qua, Phòng Thương mại và Công nghiệp VN- VCCI hợp tác với Chương trình phát triển
Liên Hợp Quốc (UNDP) tổ chức vào ngày 1/4/2009 hội thảo “Trách nhiệm Xã hội doanh nghiệp và Chiến
lược Truyền thông, kinh nghiệm quốc gia và quốc tế” có sự tham gia của hơn 50 CEO. Tại đây, các doanh
nghiệp Việt Nam có cơ hội trình bày quan điểm, học hỏi kinh nghiệm từ các chuyên gia về TNXH và đạo
đức kinh doanh của châu Á. Điều này cho thấy vấn đề CSR đã bắt đầu được các doanh nghiệp quan tâm
tại Việt Nam.
Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã rất chú trọng đến việc thực hiện các các chương trình
TNXH cũng như đóng góp vào các chương trình nhân đạo. Các doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ đều đã bắt
đầu có ý thức sử dụng một phần lợi nhuận của công ty mình để làm từ thiện và gắn TNXH trở thành một
trong các triết lý kinh doanh, tạo lập hình ảnh của công ty. Rất nhiều các doanh nghiệp Việt Nam đang nỗ
lực làm từ thiện thông qua các chương trình ủng hộ toàn quốc như Chương trình mổ tim nhân đạo: Trái
tim cho em, Nối vòng tay lớn, Chúng tôi là chiến sĩ, Như chưa hề có cuộc chia ly, chương trình phẫu thuật
nụ cười…
Hộp 5 – Các chương trình trách nhiệm xã hội của tập đoàn FPT

- Từ năm 2005 thành lập Quỹ Cộng đồng gồm các quỹ nhỏ: Quỹ Tài năng trẻ; Quỹ Đồng
bào; Quỹ Đồng đội
- Xin phép Bộ Nội vụ để được thành lập Quỹ phát triển cộng đồng FPT nhằm ưu tiên cho
lĩnh vực giáo dục và công nghệ thông tin, đồng thời hướng tới đầu tư hiệu quả cho một số
lĩnh vực khác như môi trường, trẻ em, cứu trợ khẩn cấp…
- Phát triển mạng xã hội www.vicongdong.vn với mong muốn đưa website này trở thành
cổng thông tin trực tuyến lớn nhất Việt Nam phục vụ cho các hoạt động xã hội.
Bên cạnh đó, rất nhiều doanh nghiệp đã và đang áp dụng các tiêu chuẩn quản lý nhằm giữ gìn và bảo
vệ môi trường. Trên cả nước có khoảng 150 doanh nghiệp đã xây dựng, áp dụng và được chứng nhận ISO
14000 góp phần quan trọng vào việc bảo vệ môi trường và tạo môi trường tốt cho sản xuất, kinh doanh.
Các doanh nghiệp này đều đã ý thức được việc song hành giữa lợi nhuận của doanh nghiệp và đảm bảo
một môi trường sống bền vững cho cộng đồng xã hội.
Những tồn tại cần khắc phục

45
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
Tuy nhiên đáng tiếc rằng, bên cạnh một bộ phận các doanh nghiệp đang tích cực đầu tư cho hình ảnh
của công ty mình thông qua xây dựng đạo đức kinh doanh đối với cộng đồng, lại đang có một số các
doanh nghiệp Việt Nam vứt bỏ những nguyên tắc đạo đức kinh doanh tối thiểu, xâm phạm lợi ích cộng
đồng. Đó là những câu chuyện giết chết môi trường sống đang gây xôn xao trong thời gian qua của công
ty Vedan, nhà máy đóng tàu Vinashin…
Một điển hình không thể không nhắc tới là công ty Vedan Việt Nam với sự việc gây ô nhiễm trầm
trọng sông Thị Vải âm thầm trong 14 năm qua. Công ty bị phát hiện trốn nộp phí bảo vệ môi trường 127
tỷ đồng đối với nước thải; gian trá thiết kế, lắp đặt hệ thống bồn chứa, bể chứa, máy bơm, hệ thống đường
ống kỹ thuật rất tinh vi, được ngụy trang bằng các hệ thống bơm nước, đường ống chủ yếu chìm dưới đất
để xả trực tiếp dịch thải lên men ra sông Thị Vải ở Đồng Nai. Ngoài việc bị viêm xoang, những người
sống ven con sông này cũng bị điêu đứng bởi tình trạng cá tôm nuôi bị chết phơi bụng hàng loạt, vì vậy
những dãy hồ nuôi cá dọc bờ sông thuộc địa bàn bị bỏ không từ nhiều năm nay. Không những thế, tình
hình sức khỏe của người dân sống gần sông cũng đang bị đe dọa. Khi vụ việc này còn chưa có hồi kết thì
nhà máy chế biến tinh bột mì Hà Tĩnh (một trong bốn chi nhánh của công ty này) cũng bắt đầu gây ô
nhiễm dù mới trong giai đoạn chạy thử, khiến sông Rào Trổ trở thành một nạn nhân mới của doanh nghiệp
này.
Một vi phạm khác xảy ra ở công ty Nhà máy tàu biển Hyundai Vinashin (HVS). Để làm sạch các
mảng dơ bẩn, lớp sơn cũ, lớp gỉ sét... bám chặt thành vỏ tàu, HVS đã dùng xỉ đồng bắn tẩy trước khi tàu
được sửa chữa, sơn mới. Từ năm 1999-2007, HVS đã đưa vào Việt Nam xấp xỉ đến 750.000 tấn xỉ đồng.
[27]. Bộ Tài nguyên và môi trường đã xác định hạt xỉ đồng làm phát sinh bụi và việc xử lý chúng không
hề đơn giản, do nhiều kim loại nặng độc hại lẫn trong đó và những chất độc hại này có thể gây ra nhiều
thứ ô nhiễm nguy hiểm cho sức khỏe cộng đồng.
Bên cạnh đó còn có một loạt các vi phạm khác như tình trạng gây ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt của
4 nhà máy chế biến tinh bột sắn ở Đắc Lắc; các vụ khai thác bừa bãi tài nguyên thiên nhiên như tình trạng
khai thác bừa bãi nguồn nước ngầm ở Đồng Nai tới mức báo động, khai thác đá trái phép của hàng chục
doanh nghiệp chế biến đá tại Bà Rịa – Vũng Tàu…
Như vậy, hiện nay tình hình vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường đang ngày càng phức tạp và
xuất hiện này một nhiều. Trong đó, hoạt động sản xuất của các khu công nghiệp, khu chế xuất, làng nghề
truyền thống, nhà máy gây ô nhiễm nghiêm trọng và nóng bỏng nhất. Qua kiểm tra của Bộ Công An trên
192 khu công nghiệp trên cả nước thì có tới 70% chưa xây dựng hệ thống xử lý chất thải; khoảng 1.500
làng nghề thì hầu hết thải trực tiếp chưa qua xử lý các loại khí thải, rác thải, nước thải ra mương, ruộng
lúa, sông ngòi…[23]. Các doanh nghiệp khi lập dự án hoặc khi đầu tư mở rộng quy mô sản xuất thường
không lập báo cáo đánh giá tác động môi trường, không lập hồ sơ đăng ký chủ nguồn thải để tránh bị giám
sát, kiểm tra và giám định chất lượng môi trường định kỳ, có hệ thống xử lý chất thải nhưng không vận
hành hoặc chỉ vận hành để đối phó khi bị thanh tra, kiểm tra. Trong 2 năm qua, Bộ Công An đã phát hiện
được 750 vụ vi phạm pháp luật về môi trường.
46
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
Có thể thấy thực trạng vấn đề đạo đức kinh doanh đối với cồng động xã hội của các doanh nghiệp
Việt Nam đang trở thành bài toán nóng hổi nhất hiện nay và được công chúng quan tâm theo dõi. Một
mặt, đông đảo các doanh nghiệp Việt Nam rất có ý thức về việc xây dựng chiến lược nhân đạo của công ty
thông qua các chương trình từ thiện và tỏ ra quan tâm tới THXH của doanh nghiệp mình. Nhưng mặt
khác, có một bộ phận đáng cảnh báo các doanh nghiệp đang gây ra các vấn đề về môi trường nghiêm
trọng.

3. Đánh giá chung về thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam

3.1. Những thành tích đạt được


- Vấn đề đạo đức kinh doanh đã và đang được các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng quan tâm và
có ý thức đầu tư. Trải qua hơn 20 năm mở cửa nền kinh tế, cùng với những nhân tố ảnh hưởng tốt đẹp của
truyền thống dân tộc, đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam đang ngày càng phát triển và
hoàn thiện hơn.
- Nhà nước đã thể chế hóa được các nguyên tắc đạo đức kinh doanh cơ bản thành các văn bản luật
như Luật Lao động, Luật bảo vệ người tiêu dùng, Luật bảo vệ môi trường.
- Đạo đức kinh doanh ngày càng được nâng cao thông qua các giải thưởng, hoạt động tuyên truyền
cổ vũ của các tổ chức phi chính phủ, hiệp hội doanh nghiệp…
- Nhiều doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các công ty lớn rất có ý
thức về TNXH và đạo đức kinh doanh, tự nguyện đóng góp và phát triển các chương trình cộng đồng;
đảm bảo chất lượng sản phẩm và quyền lợi người lao động, nhằm tạo uy tín và xây dựng thương hiệu cho
bản thân doanh nghiệp.

3.2. Những tồn tại cần khắc phục


- Nhiều hiện tượng vi phạm đạo đức kinh doanh vẫn diễn ra với mức độ ngày càng phức tạp và tinh
vi hơn. Các vi phạm thường tập trung ở các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa ở địa phương, các khu
công nghiệp và chế xuất, các doanh nghiệp tư nhân.
- Đối với người lao động vẫn còn nhiều vi phạm đạo đức kinh doanh như việc trả lương dưới mức
sống tối thiểu, không đảm bảo an toàn bảo hộ lao động, vi phạm quyền được đãi ngộ bình đẳng và tôn
trọng của người lao động…
- Tình trạng vi phạm đạo đức kinh doanh đối với khách hàng đang gia tăng, với các vụ việc quảng
cáo không trung thực, cung cấp sản phẩm không đảm bảo chất lượng, các vụ việc ép giá người tiêu dùng.
- Các vụ việc sản xuất gây ô nhiễm môi trường đang xâm hại nghiêm trọng tới lợi ích của cộng đồng
xã hội, gây ảnh hưởng xấu tới người dân.

47
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
3.3. Nguyên nhân tồn tại
- Các văn bản pháp luật của Việt Nam vẫn cần được tiếp tục hoàn thiện. Đặc biệt trong tiến trình hội
nhập, Nhà nước cần thể chế chặt chẽ hơn nữa các nguyên tắc đạo đức kinh doanh, phù hợp với các tiêu
chuẩn và luật pháp quốc tế
- Tính hiệu lực của các văn bản pháp luật còn thấp, công tác giám sát thanh tra và quản lý việc thực
thi của các doanh nghiệp còn thiếu và yếu.
- Đa số các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô nhỏ và vừa, mới chỉ quan tâm đến việc sản xuất kinh
doanh nhằm đạt lợi nhuận tối đa mà không chú ý tới lợi ích tối ưu cho người lao động, khách hàng và
cộng đồng xã hội.
- Công tác tuyên truyền về đạo đức kinh doanh còn thiếu, người dân chưa có kiến thức cơ bản về đạo
đức kinh doanh và luật pháp có liên quan.

III. PHÂN TÍCH THỰC TIỄN XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC KINH DOANH Ở TẬP ĐOÀN BẢO VIỆT

1. Giới thiệu về tập đoàn Bảo Việt

1.1. Lịch sử phát triển


Thành lập ngày 15/1/1965, đến nay Bảo Việt đã trở thành Tập đoàn Tài chính - Bảo hiểm hàng đầu
Việt Nam. Không chỉ có mạng lưới rộng khắp trên toàn quốc, Bảo Việt còn được biết đến là thương hiệu
mạnh, uy tín số 1 trong lĩnh vực bảo hiểm. Với khả năng tài chính mạnh, sự thông hiểu thị trường trong
nước, Bảo Việt là doanh nghiệp duy nhất tại Việt Nam kinh doanh cả 2 loại hình bảo hiểm nhân thọ và phi
nhân thọ. Bảo Việt đã được công nhận là một trong số 25 doanh nghiệp lớn nhất của Việt Nam; là doanh
nghiệp bảo hiểm lâu đời, được tin cậy đối với đông đảo các tầng lớp dân cư, cá nhân, tổ chức, doanh
nghiệp.
Ngày 31/5/2007, Bảo Việt bán cổ phần lần đầu ra công chúng chính thức trở thành công ty cổ phần
kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực. Ngày 15/10/2007, Tập đoàn Bảo Việt đã hoàn thành đăng ký kinh
doanh công ty cổ phần hình thành Tập đoàn Tài chính – Bảo hiểm Bảo Việt.
Là một Tập đoàn Tài chính - Bảo hiểm kinh doanh đa ngành, với ngành nghề chính là kinh doanh
bảo hiểm, Tập đoàn Tài chính - Bảo hiểm Bảo Việt có công ty mẹ - “Tập đoàn Bảo Việt” và các công ty
con như: Tổng công ty Bảo Việt Nhân Thọ, Tổng Công ty bảo hiểm Bảo Việt, Công ty quản lý quỹ Bảo
Việt, Công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo Việt,…

1.2. Lĩnh vực hoạt động


Với tiềm lực tài chính hùng mạnh (vốn điều lệ hiện lên tới 5.730 tỷ đồng), Tập đoàn Bảo Việt đã,
đang và sẽ không ngừng mở rộng các loại hình kinh doanh dịch vụ: Bảo hiểm nhân thọ; Bảo hiểm phi
nhân thọ; Tái bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ; Đầu tư tài chính; Quản lý quỹ đầu tư; Chứng khoán;
Ngân hàng; Kinh doanh bất động sản và các lĩnh vực kinh doanh khác.

48
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
Bảo Việt đã thiết lập quan hệ với nhiều công ty tái bảo hiểm và môi giới tái bảo hiểm hàng đầu trên
thế giới như Munich Re, Swiss Re, CCR, Hannover RE, AON, Athur Gallagher, Marsh… Mối quan hệ
hợp tác quốc tế rộng lớn của Bảo Việt vừa giúp Tập đoàn tăng cường khả năng hợp tác, vừa giúp phân tán
rủi ro, tăng khả năng thanh toán.

1.3. Triết lý kinh doanh


Triết lý cơ bản nhất trong toàn bộ hoạt động kinh doanh của Bảo Việt là "Phục vụ Khách hàng tốt
nhất để phát triển". Triết lý này được thấu hiểu và thống nhất thực hiện trong toàn thể các thành viên của
Bảo Việt bằng bốn nguyên tắc cụ thể sau:
- Nguyên tắc khách hàng là trung tâm của mọi hoạt động: Điều này có nghĩa là quyền lợi, sự thoả
mãn của khách hàng khi sử dụng các dịch vụ của Bảo Việt luôn luôn được ưu tiên hàng đầu trong các
quyết định kinh doanh của Bảo Việt.
- Nguyên tắc phục vụ khách hàng tận tâm, trung thực và hợp tác: Điều này đỏi hỏi các thành viên
Bảo Việt phải tuân thủ các chuẩn mực về đạo đức kinh doanh đối với khách hàng, tôn trọng và hợp tác với
đồng nghiệp vì mục tiêu phát triển chung.
- Nguyên tắc tối ưu quyền lợi và sự thuận tiện cho khách hàng: Mọi thành viên Bảo Việt có trách
nhiệm tư vấn để khách hàng lựa chọn được sản phẩm bảo hiểm thích hợp nhất, với biểu phí và điều kiện
bảo hiểm tối ưu, tiến hành các hoạt động giám định và bồi thường nhanh chóng, chính xác và thuận tiện
cho khách hàng.
- Nguyên tắc liên tục cải tiến: Nguyên tắc này đòi hỏi cán bộ Bảo Việt cần tạo nhiều kênh thông tin
thuận lợi để tiếp thu các ý kiến phản hồi của khách hàng, luôn tìm tòi cải tiến, đổi mới sản phẩm, cung cấp
các dịch vụ giá trị gia tăng cho khách hàng nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của đông đảo khách
hàng.

2. Vấn đề xây dựng đạo đức kinh doanh tại tập đoàn Bảo Việt

2.1. Đề cao đạo đức kinh doanh đối với khách hàng
Tập đoàn Bảo Việt luôn coi khách hàng là trung tâm của mọi hoạt động với phương châm “Phục vụ
khách hàng tốt nhất để phát triển”. Đây là nguyên tắc trọng tâm, và được thể hiện rất rõ trong triết lý kinh
doanh của Bảo Việt. Do đó vấn đề xây dựng đạo đức kinh doanh đối với khách hàng luôn được Bảo Việt
đặt lên hàng đầu. Điều này được thể hiện qua việc không ngừng nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho các
đại lý bảo hiểm và qua nguyên tắc hoạt động của công ty.
2.1.1. Xây dựng tư cách và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ đại lý
Tư vấn viên bảo hiểm (TVV), hay đại lý bảo hiểm, là người được công ty bảo hiểm ủy quyền thực
hiện các hoạt động liên quan đến công việc khai thác bảo hiểm, thu phí bảo hiểm và các hoạt động khác
trong khuôn khổ về quyền và trách nhiệm của người tư vấn được nêu trong hợp đồng đại lý và Luật kinh
doanh Bảo hiểm. Đạo đức nghề nghiệp của TVV luôn đối với khách hàng luôn được đề cao và được nêu
rõ trong phụ lục hợp đồng đại lý của Bảo Việt:
49
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
- TVV phải bảo mật các thông tin, tài liệu liên quan đến Khách hàng: TVV phải đảm bảo giữ kín
thông tin của khách hàng có liên quan đến các ván đề cá nhân và kinh doanh. Bên cạnh đó, TVV tuyệt đối
không được sử dụng bất cứ thông tin nào của khách hàng vào mục đích tư lợi.
- TVV phải luôn luôn đặt quyền lợi của Khách hàng lên trên lợi ích của chính mình: tìm hiểu thông
tin về Khách hàng trên nhiều mặt, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau đối với Khách hàng, cùng phân tích
những nhu cầu về bảo hiểm; tư vấn cho Khách hàng lựa chọn nhóm sản phẩm/sản phẩm phù hợp với khả
năng kinh tế cũng như nhu cầu thực tế của Khách hàng, không được vì lợi ích của bản thân mình mà làm
tổn hại đến lợi ích của Khách hàng. Phải giải thích rõ ràng, tận tụy và cặn kẽ trong quá trình tư vấn.
- TVV phải cẩn thận, chính xác hướng dẫn Khách hàng điền vào Giấy yêu cầu bảo hiểm, phải tiến
hành xem xét, kiểm tra Giấy yêu cầu bảo hiểm và những thông tin quan trọng có liên quan đến Khách
hàng mà bản thân biết được hoặc tìm hiểu được mà có thể ảnh hưởng đến việc chấp nhận bảo hiểm của
Công ty; phải lập báo cáo một cách chính xác và chuyển, thông báo kịp thời cho Công ty. Điều này nhằm
mục đích bảo đảm tốt nhất quyền lợi bảo hiểm cho khách hàng nếu có sự kiện bảo hiểm xảy ra.
- TVV cam kết phục vụ khách hàng đầy đủ, chu đáo, tận tụy và chuyên nghiệp với phương châm
“Phục vụ khách hàng tốt nhất để phát triển”: TVV phải lập danh sách và cập nhật các thông tin có liên
quan đến Khách hàng một cách hoàn chỉnh; kịp thời nhắc nhở và hỗ trợ Khách hàng thực hiện các công
việc có liên quan đến nghĩa vụ và quyền lợi của Khách hàng trong Hợp đồng bảo hiểm; kịp thời hỗ trợ
Khách hàng thực hiện thủ tục thay đổi Hợp đồng bảo hiểm và giải quyết quyền lợi bảo hiểm; kịp thời giải
đáp những thắc mắc của Khách hàng; định kì liên lạc với Khách hàng trước khi thu phí bảo hiểm; kịp thời
cung cấp các loại tài liệu mà Công ty yêu cầu chuyển đến Khách hàng; thay mặt Công ty thăm hỏi Khách
hàng khi Khách hàng bị đau ốm, tặng quà Khách hàng vào những dịp đặc biệt.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề đạo đức kinh doanh đối với khách hàng, việc xây dựng
đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ TVV bảo hiểm được Bảo Việt rất chú trọng và đưa vào trực tiếp trong
chương trình huấn luyện và đào tạo cho tư vấn viên mới của công ty.

2.2.2. Thống nhất triết lý kinh doanh trong mọi hoạt động
Như đã đề cập, triết lý kinh doanh của Bảo Việt là "Phục vụ Khách hàng tốt nhất để phát triển".
Triết lý này cũng thể hiện nỗ lực cao nhất của công ty trong việc xây dựng đạo đức kinh doanh đối với
khách hàng.
- Minh bạch thông tin đối với khách hàng
Mọi ý muốn tìm hiểu thông tin, thắc mắc và khiếu nại, cũng như góp ý đều được công ty nhanh
chóng đáp ứng nhờ sự bố trí nhân sự và thời gian tiếp khách thích hợp hằng tuần, ngay tại trụ sở chính của
Bảo Việt.

50
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
Ngoài ra, thông qua hệ thống cán bộ nghiệp vụ, đại lý, cộng tác viên bảo hiểm, cũng như các phòng
bảo hiểm khu vực, chi nhánh và công ty trên khắp các tỉnh, thành phố, Bảo Việt luôn đảm bảo rằng khách
hàng sẽ có được câu trả lời cho mọi nhu cầu của mình nhanh nhất và tiện lợi nhất.
Đặc biệt, Bảo Việt đã có một bước tiến dài trong việc nâng cao chất lượng phục vụ, mở rộng quan
hệ cũng như uy thế của mình trên thị trường bảo hiểm trong và ngoàI nước bằng việc cho ra đời Website
Bảo Việt tại địa chỉ www.baoviet.com.vn. Với website này, khách hàng có thể tìm hiểu một cách nhanh
chóng và thuận tiện về các dịch vụ bảo hiểm hiện có ở Việt Nam, các thủ tục yều cầu bồi thường, cũng
như có thể trực tiếp tham khảo, nắm bắt thông tin, góp ý, yêu cầu giải đáp, khiếu nại thông qua mạng
thông tin toàn cầu internet.
- Đảm bảo quyền lợi bảo hiểm tối đa cho khách hàng
Việc bồi thường cho khách hàng không may bị thiệt hại do thiên tai, tai nạn được tiến hành nhanh
chóng, với chất lượng phục vụ ngày càng được nâng cao. Đến nay, thủ tục yêu cầu bồi thường đối với
khách hàng đã được đơn giản hoá nhiều lần. Thời gian đáp ứng yêu cầu được rút ngắn, nhất là đối với các
dịch vụ bảo hiểm học sinh, bảo hiểm con người chỉ còn 3-5 ngày, rất nhiều trường hợp, yêu cầu của khách
hàng được giải quyết tức thời do đã chuẩn bị đủ hồ sơ. Nhờ sự nhanh chóng nhận được tiền bảo hiểm,
doanh nghiệp có thể sớm trở lại hoạt động bình thường và giảm thiểu gián đoạn kinh doanh, các cá nhân
và gia đình có thể nhanh chóng ổn định cuộc sống và công việc. Bảo Việt còn trực tiếp hỗ trợ khách hàng
trong việc đề phòng và hạn chế tổn thất, tư vấn cho khách hàng lựa chọn loại hình bảo hiểm, sử dụng các
dịch vụ thích hợp để có được hiệu quả cao nhất. Quan điểm của Bảo Việt là luôn sẵn sàng cùng khách
hàng của mình bàn bạc, hợp tác để mang lại lợi ích cao nhất cho khách hàng.
- Tăng cường khả năng phục vụ khách hàng
Coi khách hàng là trung tâm của mọi hoạt động, công ty cũng đang nhanh chóng đổi mới toàn bộ hệ
thống của mình (hệ thống nghiên cứu phát triển sản phẩm, hệ thống dịch vụ, hệ thống hỗ trợ khách hàng,
hệ thống tổ chức quản lý,..) để phục vụ khách hàng ngày càng tốt hơn. Nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ
chuyên môn, học tập kỹ năng quản lý tiên tiến, phát triển các dịch vụ hoàn hảo hơn, và mở rộng mạng lưới
phục vụ khách hàng, Bảo Việt có chính sách chuyên biệt để phát triển mối quan hệ hợp tác quốc tế với hầu
hết các tập đoàn bảo hiểm, tái bảo hiểm và tài chính trên thế giới.
Bảo Việt đã và đang đào tạo ra nguồn nhân lực tận tâm phục vụ khách hàng chu đáo, có kiến thức
kinh doanh hiện đại, có trình độ nghiệp vụ chuyên môn mang tính chuyên nghiệp cao nhằm vươn tới mục
tiêu “ Phục vụ khách hàng tốt hơn – Hội nhập kinh doanh quốc tế”.
Với mạng lưới máy tính hiện đại cùng hệ thống các phần mềm quản lý thông nhất, Bảo Việt đã và
đang tăng hiệu quả quản lý và công tác phục vụ khách hàng, giảm đáng kể sức lao động và chi phí gián
tiếp để tập trung tốt hơn vào công tác phục vụ khách hàng.

51
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
2.2. Trách nhiệm với cộng đồng xã hội
Xuất phát từ nhận thức rằng hoạt động kinh doanh để mang lại lợi ích kinh tế phải đi đôi với ý thức
cao trong trách nhiệm cộng đồng, Bảo Việt có nhiều hoạt động phong phú tích cực tham gia vào công tác
nhân đạo và xã hội.
Mỗi năm, Bảo Việt chi hàng trăm triệu đồng để ủng hộ các quỹ đền ơn đáp nghĩa, nuôi dưỡng Bà
Mẹ Việt Nam Anh Hùng,... đến nay, Bảo Việt đã xây dựng 50 ngôi nhà tình nghĩa, nuôi dưỡng suốt đời 40
Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng. Hằng năm, Bảo Việt còn đóng góp hàng trăm triệu đồng vào các quỹ nhân
đạo khác như Quỹ ủng hộ Nạn nhân Chất độc Màu Da cam, Quỹ ủng hộ Người Tàn tật, Hội Chữ Thập đỏ
Việt Nam, ... Bảo Việt đã phân phối với Trung ương Đoàn Thanh niên Công sản Hồ Chí Minh lập Giải
thưởng “ Tuổi trẻ Dũng cảm” (từ năm 1989) và “Giải Thưởng Kim Đồng” (từ năm 1995) với mục đích
giáo dục cho các em học sinh trong cả nước. Kể từ năm 1996 đến nay, trung bình có trên 600 em học sinh
được khen thưởng với số tiền trên 180 triệu đồng mỗi năm. Bảo Việt cũng rất tích cực đóng góp và trực
tiếp đưa ra các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất, giảm thiểu thiệt hại khi rủi ro xảy ra. Các công
trình tường và lan can phòng hộ, biển báo giao thông, lưới bảo hiểm trên tàu, đặc biệt là các con đường
lánh nạn,... đã mang lại ý nghĩa và hiệu quả kinh tế - xã hội cao, mỗi năm cứu được hàng trăm người, một
lượng lớn xe cộ, tàu thuyền khỏi bị tai nạn, được nhân dân và chính quyền các địa phương đánh giá cao.
Để giúp các tỉnh trong cả nước xoá đói - giảm nghèo, Bảo Việt đã trực tiếp hỗ trợ cho một số tỉnh với
nhiều hình thức như mua thuốc chữa bệnh trang bị cho trạm xá xã, mua bảo hiểm cho các đối tượng nằm
trong diện chính sách xã hội, cấp học bổng cho học sinh nghèo vượt khó, xây dựng điểm vui chơi cho trẻ
em vùng cao, hỗ trợ trung tâm nuôi dưỡng nguời già và trẻ em mồ côi... Trong năm 2008, Bảo Việt cũng
đã xây dựng và thực hiện một loạt các chương trình từ thiện cộng đồng như trao quà Tết cho trẻ em mồ
côi chùa Bồ Đề Hà Nội, ủng hộ đồng bào lũ lụt và các quỹ xã hội, trao quà cho trẻ em nghèo vượt khó của
Thủ đô nhân ngày 1/6, phối hợp với Quỹ Bảo trợ trẻ em Việt Nam trao 1000 suất quà trên cả nước hay
ủng hộ chương trình “Nối vòng tay lớn” 100 triệu đồng…

52
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT
NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP

I. NHÓM GIẢI PHÁP HỖ TRỢ TỪ PHÍA CHÍNH PHỦ

1. Nguyên nhân cần sự tham gia của Chính phủ

1.1. Chính phủ là đối tượng hữu quan có quyền lực cao nhất
Trước hết phải khẳng định rằng, Chính phủ cũng là một đối tượng hữu quan trong hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, và còn là một đối tượng đặc biệt và có quyền lực nhất.
Tính đặc biệt thể hiện ở lợi ích và sự hiện diện của Chính phủ trong các quyết định kinh doanh của
doanh nghiệp. Chính phủ có tính chất khác hẳn với các đối tượng khác như người lao động, khách hàng
hay các đối thủ cạnh tranh. Chính phủ là một đối tượng trung gian, mang tầm vĩ mô và không có lợi ích cụ
thể, trực tiếp trong các quyết định và hoạt động của doanh nghiệp. Với bản chất là một cơ quan đại diện
cho tất cả các đối tượng khác nhau trong xã hội, lợi ích của Chính phủ không thể đo bằng lợi ích thông
thường của doanh nghiệp hay một đối tượng xã hội cụ thể. Lợi ích đó là sự bình đẳng, công lý, là sự phát
triển bền vững của môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội và tự nhiên. Sự hiện diện của Chính phủ trong các
quyết định kinh doanh của doanh nghiệp cũng thể hiện tính đặc biệt của đối tượng hữu quan này. Rõ ràng,
trong mọi quyết định kinh doanh với bất kì một đối tượng nào, doanh nghiệp đều phải cân nhắc tới bên
thứ ba là Chính phủ. Chính phủ tồn tại ở đây dưới hình thức các văn bản pháp luật liên quan như luật
Doanh nghiệp, Luật Thương mại, Luật Lao động… làm cơ sở điều chỉnh quan hệ kinh doanh giữa doanh
nghiệp và các đối tượng hữu quan khác, giúp đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho các bên. Đương nhiên, khi
có nảy sinh mâu thuẫn không tự giải quyết được giữa các chủ thể kinh tế thì Chính phủ sẽ can thiệp. Như
vậy, trong bất kì một hoạt động kinh doanh nào của doanh nghiệp với một chủ thể khác, đều tồn tại bên
thứ ba vô hình là Chính phủ, khiến mối quan hệ này trở thành mối quan hệ ba bên.
Một lý do cần có sự tham gia của Chính phủ trong vấn đề xây dựng đạo đức kinh doanh cho các
doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hội nhập hiện nay là bởi chỉ có Chính phủ mới có khả năng và
quyền lực tối cao để đề ra các giải pháp hỗ trợ tầm vĩ mô, mang tính bền vững. Chính phủ được sinh ra
với chức năng nhiệm vụ quan trọng nhất là một cơ quan quyền lực, với hệ thống pháp luật và đại diện cho
lợi ích của tất cả mọi người dân. Với khả năng tối cao mà không một định chế nào trong xã hội có được là
lập pháp – tư pháp – hành pháp,nắm trong tay lực lượng cưỡng chế mà mọi đối tượng đều phải phục tùng,
cùng với quỹ tài chính lớn do người dân đóng góp; Chính phủ có sức mạnh và có tiềm lực lâu dài, bền
vững để hỗ trợ cho vấn đề xây dựng đạo đức kinh doanh cho doanh nghiệp. Các giải pháp do Chính phủ
đề ra, vì được thể chế hóa nên sẽ có tác dụng mạnh trong việc cưỡng chế doanh nghiệp trên toàn đất nước
phải thực hiện, tạo ra sự thống nhất cho đạo đức kinh doanh Việt. Hơn nữa, vì là một định chế đại diện

53
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
cho quốc gia, Chính phủ mới có khả năng tham gia các tổ chức quốc tế, kí kết các hiệp định, hiệp ước thúc
đẩy quá trình toàn cầu hóa một cách có lợi nhất cho các doanh nghiệp.
Tóm lại, Chính phủ là đối tượng hữu quan duy nhất có khả năng điều tiết, định hướng vấn đề xây
dựng đạo đức kinh doanh cho các doanh nghiệp, giúp cho đạo đức ấy vừa có sự phát triển bắt kịp với quá
trình toàn cầu hóa trên thế giới, vừa giúp bảo toàn những nét văn hóa – đạo đức dân tộc Việt.

1.2. Đạo đức kinh doanh đem lại lợi ích cho cộng đồng xã hội
Cộng đồng xã hội như ở trên chúng ta đã phân tích cũng là một đối tượng hữu quan đặc biệt. Mọi
quyết định kinh doanh của doanh nghiệp cũng đều sẽ có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên cộng đồng,
đặc biệt là những quyết định liên quan tới môi trường tự nhiên – văn hóa – xã hội. Khi doanh nghiệp triển
khai các hoạt động tuân theo các chuẩn mực đạo đức kinh doanh thì cộng đồng xã hội sẽ không chỉ được
bảo toàn, mà còn được gia tăng lợi ích bởi doanh nghiệp đã đóng góp vào nền kinh tế chung một lượng
hàng hóa, gia tăng giá trị cuộc sống cho xã hội mà vẫn duy trì được hiện trạng môi trường. Ngoài ra, khi
doanh nghiệp thực hiện các chương trình từ thiện, nhân đạo thì đã đóng góp trực tiếp, tạo ra ích lợi lớn
cho xã hội.
Không chỉ thế, thực hiện đạo đức kinh doanh còn là cách doanh nghiệp gia tăng lợi ích cho tất cả các
đối tượng hữu quan, trong đó có người lao động, người tiêu dùng, nhà cung cấp hay thậm chí cả đối thủ
cạnh tranh; tức là giúp mọi thành viên trong xã hội đều được hưởng lợi. Trong khi đó, mục đích của sự tồn
tại của Chính phủ cũng chính là giúp đảm bảo và gia tăng quyền lợi cho người dân, cho mọi thành phần
trong xã hội; với các mục tiêu cụ thể hóa như: đảm bảo lợi ích cho người tiêu dùng, bảo vệ môi trường
sinh thái, cải thiện thu nhập và điều kiện làm việc cho người lao động, hay tạo một môi trường kinh doanh
cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh… Đó cũng chính là những gì mà đạo đức kinh doanh của doanh
nghiệp hướng tới. Như vậy, khi doanh nghiệp xây dựng đạo đức kinh doanh vững mạnh cũng có nghĩa
Chính phủ đã đạt được mục đích của mình.

1.3. Xây dựng đạo đức kinh doanh cho doanh nghiệp là nâng cao vị thế kinh tế của quốc gia
Một vai trò quan trọng của đạo đức kinh doanh chính là nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp. Tính cạnh tranh được đo lường bởi giá trị thặng dư của sản phẩm. Nói một cách khác, mức độ
cạnh tranh là mức độ lợi nhuận của doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh là khả năng làm giàu được trong
kinh tế thị trường. Như đã phân tích trong chương II, trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, lòng tin và
thương hiệu mới là những nhân tố chính tạo nên khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp. Một thương hiệu
có uy tín có thể bán sản phẩm giá cao hơn sản phẩm cùng loại của một hãng khác chưa có uy tín bằng.
Như vậy tính cạnh tranh, hay nói một cách khác là khả năng sinh lợi trong kinh doanh, không nhất thiết
phải tùy thuộc vào mặt hàng nào, công nghệ nào hay số vốn mà thực tế là trên độ tin cậy của người tiêu
thụ mặt hàng hoặc dịch vụ đó. Trong khi đó, đạo đức kinh doanh là phương tiện hữu hiệu tạo ra giá trị
lòng tin, có nghĩa là tạo ra khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp.

54
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
Khi đại đa số các doanh nghiệp của một quốc gia đều có khả năng cạnh tranh tốt đối với các doanh
nghiệp nước ngoài, thì lúc này quốc gia đó được gọi là có năng lực cạnh tranh, và đương nhiên dẫn tới
việc nâng cao vị thế kinh tế của quốc gia đó. Tương tự như kinh tế doanh nghiệp, tính cạnh tranh của một
nền kinh tế quốc gia không tùy thuộc vào số lượng nhà khoa học hay lượng đầu tư vào ngành nghề công
nghệ cao, mà tùy thuộc vào khả năng cung cấp và đáp ứng được nhu cầu của thị trường thế giới một cách
khác biệt. Và trong thời kì toàn cầu hóa, với xu thế công nghệ kĩ thuật, và thậm chí nguồn nhân lực cũng
được san bằng khoảng cách, chữ Tín về mặt đảm bảo chất lượng của hàng hóa dịch vụ quốc gia ấy mới là
điều tạo nên sự khác biệt. Thụy Sĩ là một trong những nước có thu nhập đầu người cao nhất thế giới chỉ
nhờ vào khả năng kinh doanh chữ tín của họ trong dịch vụ ngân hàng. Bất kì ai bỏ tiền vào ngân hàng
Thụy Sĩ cũng tin rằng tiền của mình sẽ không mất và được bảo mật tuyệt đối nên họ chấp nhận mức lãi
suất thấp nhất thế giới, tạo cho Thụy Sĩ một thế cạnh tranh tuyệt đối trong ngành này, giúp nâng tầm vị thế
và khả năng kinh tế của quốc gia này lên đáng kể.
Đạo đức kinh doanh trước hết là một vấn đề thuộc tầm vi mô, phụ thuộc vào bản thân của mỗi doanh
nghiệp. Tuy nhiên, khi gộp lại, những chủ thể vi mô ấy tạo nên một sự thống nhất vĩ mô, tạo ra giá trị cho
Đạo kinh doanh Việt. Và vì lý do ấy, vấn đề xây dựng đạo đức kinh doanh cho doanh nghiệp Việt Nam
cần có sự tham gia hỗ trợ quan trọng của Chính phủ.

2. Giải pháp hỗ trợ

2.1. Hoàn thiện và bổ sung khung chính sách và pháp luật có liên quan
Ở bất kì một quốc gia nào, môi trường pháp lý cũng là một trong các nhân tố quan trọng nhất, là điều
kiện tiên quyết để nâng cao chất lượng hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt đối với vấn đề xây dựng đạo
đức kinh doanh. Bởi bao giờ những phạm trù liên quan tới đạo đức đều gây nên nhiều tranh cãi và mâu
thuẫn nếu không có sự quy chuẩn của luật pháp. Về bản chất, luật pháp dù có ở đâu cũng sinh ra để đảm
bảo lợi ích cho giai cấp thống trị và thể chế hóa từ những quy tắc, chuẩn mực đạo đức của xã hội đó. Luật
pháp luôn đi sau và có độ trễ so với các chuẩn mực đạo đức, do đó việc hoàn thiện luật pháp luôn phải
diễn ra liên tục. Ở Việt Nam công tác này lại càng quan trọng, nhất là khi nước ta đang trong giai đoạn
đầu của quá trình hội nhập, việc chuẩn hóa các văn bản pháp luật cho phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế là
hết sức cần thiết.
2.1.1. Bổ sung và sửa đổi các văn bản pháp luật
Tăng trưởng nhanh và môi trường sinh thái luôn là hai mặt khác nhau của các nền kinh tế đang phát
triển. Sau quá trình tăng trưởng kinh tế nhanh, nhiều nước đã phải trả giá về môi trường. Việt Nam cam
kết thực hiện các mục tiêu Thiên niên kỷ cho thấy chúng ta không hy sinh chất lượng sống của người dân
vì mục tiêu tăng trưởng nhanh trong ngắn hạn. Nhưng, điều đó đòi hỏi hệ thống quy định pháp luật phải có
độ chính xác cao. Luật pháp phải làm sao không thừa (không tạo chi phí không đáng có cho doanh nghiệp)
vừa không thiếu để bảo vệ lợi ích công cộng ở mức cần thiết. Qua các vụ thực phẩm nhiễm độc như nước

55
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
tương, sữa bột vừa qua, chúng ta thấy cơ quan nhà nước thường ở thế bị động và văn bản luật không bám
sát thực tiễn.
Chính phủ cần phải xây dựng thêm nhiều văn bản pháp luật nhằm đảm bảo hoạt động của doanh
nghiệp là bảo đảm lợi ích của người lao động, người tiêu dùng, của ngành và của xã hội nói chung. Xét về
mặt bản chất, đạo đức kinh doanh đích thực có nghĩa là ngoài những nghĩa vụ và trách nhiệm theo luật
định phải tuân thủ thì doanh nghiệp còn phải có trách nhiệm về những tác động của hoạt động của mình
mà pháp luật không quy định tường minh nhưng lại có thể ảnh hưởng đến môi trường, đến khách hàng,
đến nhà cung cấp, đến người lao động, đến cộng đồng, đến các chủ sở hữu và đến những người liên quan
khác. Những trách nhiệm theo luật định đương nhiên phải được tuân thủ, ngoài trách nhiệm ấy ra doanh
nghiệp còn phải có trách nhiệm tự nguyện thêm. Doanh nghiệp có thể vi phạm đạo đức kinh doanh, nhưng
không có tội, không bị lên án về mặt pháp lý. Nhưng tại Việt Nam hiện nay, khi việc xây dựng đạo đức
kinh doanh của các doanh nghiệp còn ở mức ban đầu sơ khai, ý thức thực hiện chưa tự nguyện, thì việc
cưỡng chế là nên làm. Hầu hết doanh nghiệp khi tham gia thị trường đều có xu hướng vị kỷ, hoạt động
nhắm đến lợi ích của mình trước khi nghĩ rộng đến toàn xã hội. Vì thế, Nhà nước khó lòng kêu gọi các
doanh nghiệp phải có đạo đức một cách tự giác mà phải đặt ra những chuẩn mực tối thiểu buộc họ tuân
theo nhằm tạo nên một hiệu ứng cộng hưởng xã hội tốt nhất có thể bởi “Thể chế nào sẽ tạo ra doanh nhân
ấy”. Khi đã được luật định, thì nghĩa vụ và trách nhiệm (về kế toán, thuế, an toàn lao động, môi trường…)
phải được tuân thủ, làm trái là phạm luật. Như thế, thực hiện tốt những nghĩa vụ và trách nhiệm được luật
định đã là thực hiện đạo đức kinh doanh thực chất.
Ví dụ ở Việt Nam chưa có khung pháp luật và hướng dẫn về việc các doanh nghiệp phải có báo cáo
về hạch toán xã hội, kiểm toán xã hội và báo cáo xã hội để cộng đồng biết và giám sát. Việt Nam đã ban
hành Luật Cạnh tranh nhưng chưa có Luật Kiểm soát độc quyền và việc thực hiện Luật Cạnh tranh còn có
nhiều hạn chế. Điều này gây khó khăn trong việc giám sát THXH của cộng đồng với doanh nghiệp. Hay
hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường trong khu công nghiệp (KCN) cũng cần được hoàn thiện. Kể từ
khi KCN đầu tiên ra đời vào năm 1991 tại TP Hồ Chí Minh, tính đến cuối năm 2008 cả nước có 154 KCN.
Điều tra của Bộ Công thương cho thấy: hiện chỉ có 39 KCN có hệ thống xử lý nước thải tập trung, chiếm
hơn 25%, còn lại là đang xây dựng hoặc có kế hoạch xây dựng, riêng 61 KCN chưa có kế hoạch xây dựng
hệ thống xử lý nước thải tập trung, chiếm gần 40% tổng số KNC cả nước.[23]. Các KCN hàng ngày thải
ra môi trường hàng trăm nghìn m3 nước chưa qua xử lý. Bên cạnh đó, việc quản lý khí thải, chất thải rắn,
nhất là các chất thải công nghiệp nguy hại tại nhiều KCN đang trong tình trạng báo động về ô nhiễm môi
trường, chưa được quản lý chặt. Nhiều KCN đã và đang trở thành nguyên nhân chính gây ô nhiễm nghiêm
trọng nguồn nước và mạch nước ngầm, lưu vực sông tại nhiều địa phương. Nguyên nhân của tình trạng ô
nhiễm do thiếu hệ thống xử lý chất thải tại các KCN hiện nay là do các quy định hiện hành về quản lý môi
trường đã bộc lộ nhiều bất cập, chưa hoàn chỉnh, như: Quyết định 62 của Bộ Khoa học Công nghệ - Môi
trường quy định tỷ lệ lấp đầy dưới 70% tại KCN thì chưa phải xây dựng trạm xử lý nước thải tập trung,
tạo sự chủ quan trong việc đầu tư bảo vệ môi trường tại nhiều KCN hiện nay. Hay do nhiều địa phương vì
56
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
khó khăn về kinh phí đầu tư, đã khoán trắng hoặc giao cho Công ty phát triển hạ tầng KCN đầu tư, nhưng
thiếu sự kiểm soát, dẫn đến KCN phát triển thiếu đồng bộ, đặc biệt là thiếu các công trình xử lý nước thải.
Nhiều KCN quy định tuỳ tiện, cho phép doanh nghiệp tự ý khai thác nước ngầm, không kết nối vào hệ
thống thu gom xử lý tập trung, dẫn đến gia tăng các đường xả nước thải trong cùng KCN nhưng không thể
kiểm soát được. Do đó, các văn bản luật về vấn đề bảo vệ môi trường tại các KCN cần phải thay đổi về
phương thức tổ chức quản lý môi trường; hình thành các quy định quản lý môi trường mới; và tạo cơ chế
tài chính để chủ động bảo vệ môi trường tại KCN.
Sửa đổi khung chế tài xử lý đối với các vụ việc vi phạm cũng là cần thiết. Bởi hiện nay, rõ ràng mức
xử phạt đối với các đối tượng vi phạm là quá nhẹ và không tương xứng với chi phí mà doanh nghiệp đó
gây ra cho xã hội. Một ví dụ điển hình là vụ việc Vedan gây ô nhiễm trầm trọng sông Thị Vải. Trong vụ
việc này, công ty đã trốn nộp phí thải khoảng 127 tỉ đồng nhưng mức phạt tối đa chỉ là 216,5 triệu đồng.
Khi mức xử phạt quá nhẹ thì chế tài phạt sẽ không mang tính chất răn đe mà chỉ có tính hình thức. Do đó,
Chính phủ cũng cần xem xét lại mức hình phạt tương xứng đối với các vụ việc vi phạm, từ trốn thuế, sản
xuất sản phẩm kém chất lượng đến các vụ gây ô nhiễm môi trường.
2.1.2. Áp dụng RIA và RIE để nâng cao chất lượng các quy định pháp luật
Ngay cả khi quy định pháp luật có đủ, thì tính hiệu lực của chúng tại nước ta còn quá thấp. Nhiều vụ
ô nhiễm môi trường diễn ra hơn chục năm không bị phát hiện và xử lý, cho thấy cơ quan quản lý không
làm hết trách nhiệm của mình. Đây chính là vấn đề mấu chốt, quan trọng nhất chúng ta phải giải quyết,
làm sao cho khi văn bản pháp luật ra đời phải thực sự phù hợp với thực tiễn, tránh tình trạng doanh nghiệp
lại lách luật, vứt bỏ đạo đức kinh doanh để kiếm được lợi nhuận trước mắt. Một biện pháp đang được áp
dụng phổ biến trên thế giới là sử dụng các báo cáo dự báo tác động của dự luật (RIA - Regulatory Impact
Assessment) và báo cáo đánh giá hiệu quả của các văn bản pháp luật sau khi được áp dụng trong thực tế
(RIE - Regulatory Impact ex-post Evaluation). Về cơ bản, cả RIA và RIE đều được thực hiện thông qua
việc khảo sát thực tế lấy ý kiến của nhóm đối tượng chịu tác động, và tập trung chủ yếu vào doanh nghiệp.
Mục tiêu chính của việc yêu cầu các Bộ, ngành lập RIA và RIE là đảm bảo các văn bản pháp luật có chất
lượng cao hơn.
Phương pháp đánh giá tác động văn bản pháp luật RIA đã được sử dụng khá phổ biến trên thế giới từ
20 năm trở lại đây và ở các nước phát triển nó đã trở thành điều kiện bắt buộc khi xây dựng bất cứ một
văn bản pháp luật nào (các nước thuộc OECD, cộng đồng chung Châu Âu, Mỹ…). Năm 2000, 13 nước
OECD cam kết sử dụng RIA trước khi ban hành luật. RIA là một phương pháp giúp nâng cao chất lượng
của luật bởi ban hành luật mà không thể thực thi vì thiếu căn cứ thực tiễn, thiếu khoa học tất yếu sẽ tạo
điều kiện cho một số nhóm người sử dụng luật vào lợi ích riêng, nảy sinh tham nhũng. RIA là một quá
trình phân tích các tác động có thể của một sự thay đổi về chính sách và đưa ra một loạt các lựa chọn để
thực hiện điều đó. Công cụ này có thể được sử dụng nhằm đánh giá tất cả các tác động tiềm năng - xã hội,
môi trường, tài chính và kinh tế; tất cả các quy định chính thức: Văn bản pháp luật chính thức (luật, pháp
lệnh, nghị định, quyết định, các bản kế hoạch) và các quy định không chính thức (ví dụ: các chương trình
57
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
nâng cao nhận thức của công chúng...); sự phân bổ về tác động đối với người tiêu dùng, doanh nghiệp,
nhân viên, nông thôn, đô thị hoặc nhóm đối tượng khác. Quá trình RIA nên bắt đầu ngay khi có những
thảo luận đầu tiên về dự kiến thay đổi và phải tiến hành song song với quá trình xây dựng đề xuất về thay
đổi chính sách và cần được coi là một phần không thể tách rời của quá trình xây dựng chính sách.
Báo cáo đánh giá tác động của văn bản sau khi ban hành RIE cũng là một công cụ quan trọng để
hoàn thiện chính sách. RIE sẽ đánh giá được sự tuân thủ các quy định trong văn bản và chế tài để răn đe,
phòng ngừa vi phạm. Đó là những cơ sở thực tiễn quan trọng cho việc kiến nghị để sửa đổi, bổ sung hay
hủy bỏ văn bản nếu tác động của văn bản đối với kinh tế - xã hội là những kết quả không mong muốn.
Thực chất Việt Nam đã áp dụng RIA và RIE trong quá trình làm chính sách. Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật hiện hành và Nghị định 161/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 đã có quy định về việc
đánh giá dự báo tác động là một công đoạn bắt buộc trong quy trình xây dựng văn bản, trong hồ sơ trình
dự thảo văn bản quy phạm pháp luật phải thể hiện nội dung đánh giá dự báo tác động pháp luật. Tuy
nhiên, trong thực tiễn, việc đánh giá dự báo tác động đang gặp nhiều khó khăn. Các cơ quan chính có
trách nhiệm đánh giá là các cơ quan soạn thảo, thẩm định, thẩm tra của Chính phủ gồm: Bộ chủ trì soạn
thảo, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Văn phòng Chính phủ. Nhưng mỗi cơ quan chỉ đánh giá tác
động trong lĩnh vực của mình, chưa có cơ quan nào chịu trách nhiệm đánh giá toàn diện và thống nhất
trong suốt cả quá trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Công chúng và các tổ chức phi
chính phủ, doanh nghiệp có tham gia trong quá trình lấy ý kiến về dự thảo văn bản quy phạm pháp luật
nhưng chưa phổ biến, hịêu quả hạn chế. Việc đánh giá phần nhiều là hình thức, chiếu lệ, chất lượng thấp,
chỉ có để đáp ứng yêu cầu về thủ tục hơn là để cải thiện, nâng cao chất lượng văn bản pháp luật có liên
quan. Nguyên nhân là do chưa thể chế hoá thành một quy trình đánh giá thống nhất và toàn diện dự báo
tác động pháp luật, với những tiêu chí rõ ràng, chưa quy định rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham
gia đánh giá; các cơ quan có trách nhiệm của Chính phủ chưa nhận thức đúng ý nghĩa quan trọng của đánh
giá dự báo tác động pháp luật đối với việc nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp lụât. Do đó giải
pháp ở đây là Chính phủ cần phải tiếp tục nghiên cứu kỹ lưỡng, tiếp thu một cách có chọn lọc những ý
kiến và kinh nghiệm thiết thực, khả thi về đánh giá dự báo tác động pháp luật của các nước áp dụng thành
công để có thể thực hiện tại nước ta.

2.2. Tăng cường và minh bạch công tác thanh tra giám sát
Kinh nghiệm của các nước phát triển cho thấy, tầm quan trọng đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp
chỉ được nhấn mạnh và trở nên cấp thiết khi xây dựng được một cơ chế giám sát đồng bộ kết hợp giữa
chính quyền và các lực lượng dân sự trong xã hội như cộng đồng dân cư, các nhà nghiên cứu… Ở Việt
Nam hiện nay, tình trạng phổ biến đáng lo ngại là chỉ khi sự việc bị vỡ lở, các doanh nghiệp đã vi phạm
tới mức nghiêm trọng, thì các nhóm đoàn chức năng mới bắt đầu công tác thanh tra. Sự muộn màng này
dẫn tới hậu quả nghiêm trọng mà xã hội phải gánh chịu. Chúng ta lại có thể lấy ví dụ về vụ việc Vedan và
sông Thị Vải, sau 14 năm công ty này âm thầm gây ô nhiễm dòng sông mới bị thanh tra phát hiện vi

58
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
phạm. Thực tế, hơn 10 năm trước đã có những lời cảnh báo từ các nhà nghiên cứu và đơn thư của người
dân địa bàn về tình trạng ô nhiễm của dòng sông. Hơn 10 năm qua, hàng nghìn hộ dân sống gần công ty
Vedan và dọc sông Thị Vải đã nhiều lần kiến nghị ngành chức năng cũng như gửi đơn kêu cứu về tình
trạng ô nhiễm ngày một nghiêm trọng ở đây, nhưng mọi chuyện vẫn không có chuyển biến. Hàng chục
đoàn chức năng đến tìm hiểu, ghi nhận ở các ấp sống cập theo sông Thị Vải, từ các đoàn đại biểu của
Quốc hội cho tới Hội đồng nhân dân huyện, tỉnh nhưng những phản ánh của người dân vẫn không được
giải quyết, trừ một lần vào năm 1995, Vedan đã bồi thường cho người dân nơi đây. Tuy nhiên sự việc
không được giải quyết tận gốc nên tình trạng ô nhiễm vẫn tiếp tục diễn ra. Nhiều đoàn về quan trắc không
khí nguồn nước, lấy mẫu nước rồi cũng không ai thông báo cho dân có hay không tình trạng ô nhiễm.
Ngay cả các lời cảnh báo từ 10 năm trước của các nhà nghiên cứu cũng bị các cơ quan chức năng bỏ ngoài
tai. Các nhà khoa học cho biết cách đây hơn 10 năm họ đã phát hiện ra sự ô nhiễm trên sông Thị Vải. Năm
1997, Công trình nghiên cứu về mức độ ô nhiễm tại sông Thị Vải được các chuyên gia nghiên cứu gửi cho
Bộ Khoa học - Công nghệ và Môi trường, nhưng báo cáo này lại không được quan tâm đích đáng. Sự việc
này cho thấy hai vấn đề: Thứ nhất, các cơ quan chức năng đã không làm tròn nghĩa vụ thanh tra giám sát
hoạt động các doanh nghiệp của mình, dẫn tới tình trạng chỉ có khảo sát hình thức mà không đem lại kết
quả. Thứ hai, có sự không minh bạch trong công tác thanh tra và giải quyết thắc mắc của người dân cũng
như các nhà khoa học. Đây cũng là tình trạng chung của nhiều vụ việc tại Việt Nam, với nguyên nhân sâu
xa là sự quan liêu của giới chức năng Nhà nước. Vì thế, Chính phủ cần quy định chặt chẽ trách nhiệm của
các cơ quan có thẩm quyền, cần đẩy mạnh công tác thanh tra giám sát ở cấp địa phương, và quan trọng là
minh bạch hóa các kết quả cho cộng đồng người dân được biết. Thanh tra giám sát chặt chẽ chính là một
biện pháp cưỡng chế vô cùng hiệu quả, buộc các doanh nghiệp vào nếp tự giác thực hiện đạo đức kinh
doanh cho doanh nghiệp mình.

2.3. Đào tạo kiến thức về đạo đức kinh doanh


Bất kì một vấn đề nào đều cần có hai bước để giải quyết, đó là: Nhận thức được vấn đề và đề ra giải
pháp giải quyết vấn đề đó. Do đó một vấn đề quan trọng đặt ra là Chính phủ cần giúp cho người dân, cho
đội ngũ quản lý Nhà nước, và cho giới doanh nhân hiểu được đạo đức kinh doanh là gì. Chỉ khi nhận thức
được thật sự tầm quan trọng của đạo đức kinh doanh trong thời đại toàn cầu hóa, doanh nghiệp mới tự
nguyện xây dựng đạo đức kinh doanh vững mạnh, đội ngũ quản lý nhà nước mới biết cách hỗ trợ và xử lý
các vấn đề vi phạm đạo đức kinh doanh liên quan tới pháp luật, và người dân mới biết và lên tiếng khi
thấy doanh nghiệp vi phạm đạo đức kinh doanh.
2.3.1. Cho đội ngũ quản lý nhà nước
Đội ngũ quản lý nhà nước là thành phần trực tiếp, thay mặt Chính phủ giám sát và thanh tra các hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Thực tiễn tại Việt Nam đã cho thấy, trong các vấn đề liên quan tới đạo
đức kinh doanh, các vụ việc gắn với môi trường sinh thái đang bùng phát một phần là bởi các nhà quản lý

59
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
của Nhà nước thiếu kiến thức về kinh tế môi trường, dẫn đến tình trạng thanh tra giám sát và quản lý
không triệt để.
Kinh tế môi trường là môn học mới hình thành vài năm gần đây trong một số trường đại học hệ kinh
tế của Việt Nam. Về cơ bản, đây là kiến thức rất hữu ích cho đào tạo chuyên viên kinh tế, cán bộ quản lý,
lãnh đạo ở mọi cấp.Kinh tế học môi trường nêu rõ: tăng trưởng kinh tế (đặc biệt trong trường hợp tăng
trưởng chủ yếu dựa trên công nghiệp) và khả năng bảo vệ môi trường thường mâu thuẫn nhau.
Phần lớn các trường hợp chi phí khắc phục hậu quả đều do ngân sách nhà nước gánh chịu, do luật
pháp chưa quy định rõ ràng chế tài với thủ phạm gây ô nhiễm, hay việc thực thi thiếu nghiêm minh của
các cơ quan chức năng, hoặc đối tượng doanh nghiệp vi phạm không đủ khả năng khắc phục. Không chỉ
tài chính, kỹ thuật và thời gian để khắc phục, hầu hết trường hợp ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đều
gây thiệt hại lớn đến sức khỏe, tính mạng cộng đồng. Ngay cả du lịch, lâu nay vẫn được gọi với tên là
ngành “công nghiệp không khói”, kinh tế học môi trường cũng phát hiện tiềm ẩn khả năng gây ô nhiễm
môi trường. Không được xử lý tốt, chất thải từ hoạt động du lịch sẽ hủy hoại môi trường những nơi đặc
biệt nhạy cảm như các khu bảo tồn sinh thái. Quan niệm văn hóa vật thể và phi vật thể của cộng đồng là
một thành phần quan trọng của môi trường, kinh tế học môi trường nêu rõ: lối sống xa lạ du nhập từ du
khách có thể làm biến dạng bản sắc văn hóa của cộng đồng bản địa, hành vi phá hoại của du khách vô ý
thức làm nhiều di tích lịch sử, công trình văn hóa, kiến trúc bị hư hại nghiêm trọng.
Kiến thức kinh tế môi trường sẽ là cơ sở để lựa chọn giải pháp tối ưu nhất nhằm đạt mức tăng trưởng
kinh tế hợp lý với mục tiêu chính là phát triển bền vững. Theo quy định hiện hành, muốn được đề bạt, bổ
nhiệm các chức danh cán bộ chủ chốt hoặc lãnh đạo, ngoài thâm niên công tác, điều kiện không thể thiếu
là phải qua bồi dưỡng chính trị ở cấp tương đương đại học hoặc cao đẳng. Thế nhưng, các trung tâm bồi
dưỡng chính trị hiện nay hoàn toàn xa lạ với kinh tế học môi trường.
Công việc thường nhật của cán bộ là tham mưu hoặc ra quyết định các vấn đề kinh tế, xã hội nơi
mình đảm nhiệm. Thực tế, khi đề xuất dự án đầu tư để được cơ quan tham mưu thẩm định, các doanh
nghiệp thường chỉ nhấn mạnh vào triển vọng thu ngân sách, tạo việc làm, mà không đề cập hoặc đả động
rất it về tác động xấu đến môi trường. Trong khi đó, cán bộ tham mưu phần lớn không có kiến thức kinh tế
môi trường, hiếm khi phản biện. Chỉ khi thực tế triển khai, nhiều dự án mới được phát hiện là gây ô nhiễm
nghiêm trọng, điển hình là các trường hợp của Nhà máy tàu biển Hyundai-Vinashin, Nhà máy bột ngọt
Vedan cùng nhiều vụ tương tự.
Trong nhiều năm tới, để phát triển kinh tế, công nghiệp hóa vẫn sẽ là lựa chọn không thể tránh. Kinh
tế học môi trường cung cấp hiểu biết cần thiết để đánh giá trình độ tiên tiến, thân thiện với môi trường của
các công nghệ, thiết bị công nghiệp, hoặc lựa chọn các dự án thuộc các lĩnh vực công nghệ cao, phù hợp
và khả thi, ít gây ô nhiễm môi trường, ít tốn tài nguyên để đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Trong bối cảnh ấy, việc trang bị kiến thức về kinh tế môi trường cho đội ngũ chuyên viên kinh tế, cán bộ
quản lý các cấp đang là đòi hỏi khách quan và cấp thiết hơn bao giờ hết. Do đó cần tổ chức các khóa bồi

60
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
dưỡng về kinh tế học môi trường cho cán bộ hữu quan và đưa môn học này vào các trung tâm bồi dưỡng
chính trị.
2.3.2. Cho tầng lớp doanh nhân
Những người trực tiếp và quyết định tới vấn đề xây dựng đạo đức kinh doanh ở doanh nghiệp hay
không chính là các nhà quản lý của doanh nghiệp. Cách duy nhất để đạo đức kinh doanh được hình thành
một cách tự giác, tự nguyện và được quan tâm đầu tư đúng mức là tầng lớp doanh nhân ở nước ta phải tự
nhận thức được tầm quan trọng của đạo đức kinh doanh. Họ cần phải nhận thức đầy đủ được rằng đạo đức
kinh doanh sẽ là một lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp, và cần phải hành động đổi mới chiến lược đạo
đức kinh doanh cho công ty mình. Vì vậy, để cung cấp kiến thức và giúp các chủ doanh nghiệp hiểu được
tầm quan trọng của vấn đề đạo đức kinh doanh, Chính phủ cần hỗ trợ xây dựng các trung tâm tư vấn hỗ
trợ doanh nghiệp, các diễn đàn doanh nghiệp; tổ chức các khóa học, hội thảo quốc tế và trong nước bàn về
đạo đức kinh doanh, THXH; đầu tư cho các viện nghiên cứu về văn hóa và đạo đức trong kinh doanh.
Việc ra đời các trung tâm tư vấn hỗ trợ doanh nghiệp cũng như các diễn đàn doanh nghiệp là rất cần
thiết. Hiện tại, chúng ta đã có các trung tâm tư vấn về kinh tế, xã hội, khoa học hay pháp luật; nhưng các
trung tâm tư vấn về quản lý kinh doanh còn khá ít ỏi, đặc biệt là vấn đề đạo đức kinh doanh còn chưa
được đề cập một cách đầy đủ trong công tác tư vấn. Các diễn đàn doanh nghiệp cũng ở trong một tình
trạng tương tự, thông thường được thành lập không nhằm mục đích chuyên sâu vào khía cạnh đạo đức
kinh doanh, cho dù đây là một vấn đề liên quan trực tiếp tới cách quản trị và cực kì phức tạp nếu muốn
xây dựng được đạo đức kinh doanh lành mạnh. Nói chung, hiện nay hoạt động của các trung tâm tư vấn
hay các diễn đàn doanh nghiệp chỉ mang tính tự phát, không có định hướng của Nhà nước, nên hiệu quả
của các tổ chức này còn khá thấp và không bền vững. Nổi bật nhất hiện nay tại Việt Nam phải kể đến các
hoạt động của Trung tâm Văn hóa Doanh nhân. Sự ra đời của trung tâm này đã phàn nào đáp ứng được
nhu cầu về cung cấp thông tin và tư vấn hướng dẫn cho giới doanh nhân Việt Nam. Trung tâm được ra đời
từ cuối năm 2002, với mục đích định hướng về một nền VHDN cho Việt Nam, mà trọng tâm là hình thành
đạo đức kinh doanh cho các doanh nghiệp Việt. Từ ngày thành lập, trung tâm đã tích cực hoạt động biểu
dương cổ vũ các doanh nghiệp, doanh nhân có "Tâm, Tài, Trí, Dũng" xứng đáng là lực lượng tiên phong
trong sự nghiệp làm giàu cho đất nước. Trung tâm đã tổ chức nhiều sự kiện nhằm xây dựng VHDN, doanh
nhân và phối hợp với nhiều cơ quan khác trong cả nước để tổ chức các sự kiện nhằm tôn vinh các doanh
nghiệp Việt như: phối hợp với Ðài Truyền hình Trung Ương tổ chức trao hai đợt "Cúp vàng Văn hóa
Doanh nhân" cho 327 doanh nhân trong cả nước, cùng Hội Ðông - Nam Á trao cúp "Thương hiệu, nhãn
hiệu" uy tín, Phối hợp Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam trao cúp "Vì sự tiến bộ xã hội", Phối hợp Trung
ương Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam tổ chức giao lưu "Nữ doanh nhân, truyền thống và hội nhập"…Ngoài
ra, trung tâm còn thành lập nhiều đơn vị thành viên ở các địa phương như câu lạc bộ văn hóa doanh nhân
ở Hưng Yên, Hải Dương để phổ biến kiến thức về VHDN và đạo đức kinh doanh cho giới doanh nhân
cũng như các đối tượng khác.

61
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
Ngoài ra Chính phủ cũng nên hỗ trợ các cơ quan tổ chức các hội thảo bàn về đạo đức kinh doanh.
Tại Việt Nam, Phòng Thương mại – Công nghiệp Việt Nam VCCI đang đóng một vai trò tích cực, tổ chức
rất nhiều hội thảo và khóa học cho doanh nghiệp có cơ hội học hỏi và trao đổi kinh nghiệm với nhiều nhà
nghiên cứu, doanh nhân của các tập đoàn lớn trên thế giới. Ví dụ như Hội thảo “Trách nhiệm Xã hội
doanh nghiệp và Chiến lược Truyền thông, kinh nghiệm quốc gia và quốc tế” do VCCI hợp tác với
Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tổ chức ngày 1/4/2009 có sự tham gia của hơn 50 CEO.
Vì vậy, Chính phủ cần hỗ trợ về mặt tài chính cho các doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ (NGO) và
các cơ quan Nhà nước trực thuộc có cơ hội tham gia và tổ chức các khóa học, hội thảo.
Bên cạnh đó, đẩy mạnh công tác nghiên cứu về mặt lý luận vấn đề đạo đức kinh doanh tại các viện
và trung tâm nghiên cứu cũng là điều cần thiết. Hiện nay việc xây dựng đạo đức kinh doanh tại các doanh
nghiệp là khá tự phát, do vấn đề nhận thức chưa thật rõ ràng. Thông qua công tác nghiên cứu, các viện có
thể cho ra đời các bộ quy tắc đạo đức cho doanh nghiệp Việt Nam ứng dụng và thực hiện. Điều này có ý
nghĩa định hướng, tạo sự thống nhất và chuẩn hóa vấn đề xây dựng đạo đức kinh doanh cho các doanh
nghiệp. Về lâu dài, sự thống nhất này có thể tạo thành một nét bản sắc về đạo kinh doanh Việt.
2.3.3. Cho học sinh sinh viên và người dân nói chung
Ý thức cộng đồng và ý thức bảo vệ quyền lợi của người dân rất thấp. Người dân Việt Nam nói chung
không nhận thức được, thậm chí không biết đạo đức kinh doanh hay THXH của doanh nghiệp là gì?
Trong khi đó, tác động của dư luận là rất lớn. Nhiều trường hợp khi luật pháp không quy định chặt chẽ, và
không thể buộc tội vi phạm cho doanh nghiệp, chính luồng dư luận lại có sức mạnh khiến doanh nghiệp
phải có hành động đền bù. Do đó, cần phổ biến thêm về kiến thức cho người dân, để họ nhận thức được
quyền lợi của mình bằng cách thực hiện các chương trình truyền thông, quảng cáo phi lợi nhuận. Điều này
rất phổ biến ở các nước phát triển, và hiện nay được áp dụng cả ở các nước trong khu vực như Singapore,
Trung Quốc. Các đài truyền hình, truyền thanh ở nước ta vẫn thuộc sở hữu nhà nước, do đó, Chính phủ có
thể chỉ đạo các đài dành một tỷ lệ nhất định trong thời lượng quảng cáo hàng ngày miễn phí cho các mục
tiêu công cộng.
Một khía cạnh rất quan trọng khác là công tác giáo dục đào tạo cho học sinh sinh viên. Thế hệ trẻ
chính là lực lượng doanh nhân tương lai của đất nước. Do đó, giáo dục ngay từ trên ghế nhà trường là một
cách đầu tư và đào tạo đúng đắn nhất. Ở cấp học sinh, có thể đưa nội dung đạo đức kinh doanh và trách
nhiệm xã hội lồng ghép vào môn học Giáo dục công dân, nhằm đưa ra cách nhìn tổng quan nhất. Ở cấp
đại học, do sự phân hóa tính chất giữa các trường, nên thường chỉ có các trường kinh tế mới đưa nội dung
đạo đức kinh doanh vào giảng day. Tuy nhiên, công tác đào tạo đại học ở Việt Nam nói chung còn chưa
toàn diện. Trường đại học là nơi tập trung giáo dục về mặt kiến thức, trí tuệ cho sinh viên; thông qua đó
tác động đến mặt nhận thức, giúp phát triển tâm hồn của các công dân Việt trẻ tuổi theo hướng cao đẹp, có
đạo đức. Mặt kiến thức thì phải đảm bảo hai yếu tố: lý thuyết và thực hành. Nhưng ở các trường đại học
Việt Nam mới chủ yếu giảng dạy phần lý thuyết, mà thiếu công tác đào tạo thực hành. Đặc biệt khi nội
dung giảng dạy liên quan đến đạo đức kinh doanh. Các trường đại học mới dừng ở mức dạy nghiệp vụ, kỹ
62
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
thuật kinh doanh chứ không dạy về cách ứng xử, giao tiếp trong hoạt động kinh doanh, chứ chưa nói tới
cách giải quyết vấn đề kinh doanh một cách có đạo đức. Trong khi đó, thực tiễn kinh doanh thì có rất
nhiều tình huống, liên quan tới nhiều đối tượng khác nhau. Để thành công trong tương lai, ngoài sự nỗ lực
của bản thân sinh viên, thì rất cần có sự giúp đỡ, định hướng của thầy cô giáo. Do đó, các giảng viên nên
dành thời gian chỉ bảo, truyền đạt những kinh nghiệm thực tiễn trong kinh doanh mà giảng viên đã có cơ
hội tiếp xúc. Giờ giảng dạy trên lớp nên dành thêm nhiều thời lượng cho hoạt động tranh luận, nghiên cứu
“case study” liên quan tới thực tế kinh doanh. Ngoài ra, nhà trường cần tổ chức các đợt thực tập, kiến tập
cho sinh viên, giúp sinh viên hiểu được việc áp dụng khái niệm đạo đức kinh doanh ở một doanh nghiệp
Việt Nam là như thế nào. Bên cạnh đó, tổ chức Đoàn và các hiệp hội tại trường và liên trường của sinh
viên cũng cần tăng cường công tác hỗ trợ. Các tổ chức này cần kết hợp với nhà trường, các doanh nghiệp
để giúp tu dưỡng đạo đức cho sinh viên, giới thiệu cho sinh viên về những kiến thức xã hội, tổ chức các lễ
hội, chương trình hội thảo… Có như vậy thì sinh viên các ngành kinh tế nói riêng, và sinh viên Việt Nam
nói chung – thế hệ doanh nhân tương lai của đất nước - mới nhận thức được mục đích đích thực của công
việc kinh doanh không phải vì lợi nhuận, mà là đem lại sự phát triển kinh tế bền vững cho đất nước, giúp
cho bản thân mình và tất cả mọi người cùng có cuộc sống tốt đẹp hơn.

2.4. Xây dựng các giải thưởng và chế độ ưu đãi


Vinh dự luôn đi đôi với trách nhiệm, do đó một giải pháp giúp tăng tinh thần tự nguyện xây dựng
đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp là trao tặng cho các doanh nghiệp xây dựng tốt các giải thưởng và
được hưởng các chế độ ưu đãi từ Chính phủ. Cần có những bảng xếp hạng các doanh nghiệp nộp thuế thu
nhập doanh nghiệp cao nhất, hay có đóng góp lớn nhất cho các quỹ từ thiện, những doanh nghiệp dành tỷ
lệ lớn lợi nhuận của mình cho các công tác cộng đồng. Bởi các doanh nghiệp đó thực sự xứng đáng nhận
được sự vinh danh của xã hội. Ngoài ra, khi được Nhà nước trao giải khích lệ có nghĩa là thương hiệu của
các doanh nghiệp càng được tăng thêm. Các nhà kinh doanh sẽ tạo dựng được thiện cảm, uy tín với các
đối tác, với đông đảo người tiêu dùng, phục vụ tốt cho việc phát triển các hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Nhận thức được điều này, các doanh nghiệp khác cũng sẽ cố gắng làm từ thiện nhiều hơn. Ở nước ta hiện
nay cũng đã có nhiều giải thưởng vinh danh cho doanh nghiệp như giải thưởng Sao vàng đất Việt, Hàng
Việt Nam Chất lượng cao, Thương hiệu mạnh Việt Nam…Hệ thống tiêu chí xét duyệt các giải thưởng này
nên được đổi mới, đưa thêm tiêu chí về đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội. Bên cạnh đó, cũng nên
xây dựng các hệ thống giải thưởng mới dành riêng cho vấn đề xây dựng đạo đức kinh doanh của doanh
nghiệp. Ví dụ như giải thưởng “Doanh nghiệp và Cộng đồng” sẽ được tổ chức lần đầu tiên vào tháng 6
năm 2009 do Bộ Công Thương và Cục Xúc tiến thương mại bảo trợ. Các doanh nghiệp được giải sẽ được
xét duyệt trên những tiêu chí: Kinh doanh hiệu quả, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước, làm tốt trách
nhiệm trong nội bộ doanh nghiệp (với người lao động, với cổ đông, minh bạch trên thị trường chứng
khoán, xây dựng văn hoá doanh nghiệp), làm tốt trách nhiệm trong kinh doanh với đối tác, bạn hàng, thực
hiện tốt trách nhiệm với người tiêu dùng, đóng góp cho việc bảo vệ môi trường và làm tốt công tác từ

63
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
thiện, nhân đạo. Hay giải thưởng “Doanh nghiệp xanh” do UBND TPHCM, Bộ Tài nguyên và Môi trường
chủ trì. Đây là giải thưởng thường niên nhằm tôn vinh những doanh nghiệp có những đóng góp, thành tích
tốt trong công tác bảo vệ môi trường nói riêng và nâng cao nhận thức cộng đồng cùng bảo vệ môi trường
nói chung. Các giải thưởng được xây dựng có thể tạo ra làn sóng chạy đua hình thức giữa các doanh
nghiệp, nhưng đây thực sự là một biện pháp tốt để khen thưởng và động viên kịp thời các doanh nghiệp có
tâm.
Việc xác lập các chế độ ưu đãi cũng là một giải pháp tốt. Ví dụ như khi doanh nghiệp giảm được
một lượng nước thải nhất định ra môi trường so với định mức thì sẽ được Nhà nước giảm mức thu phí
thải. Biện pháp này tác động trực tiếp vào tài chính của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp cải thiện được
mối quan hệ với các cơ quan chức năng, giảm chi phí đầu vào. Do đó, sẽ là một động lực tốt thúc đẩy
doanh nghiệp cố gắng xây dựng đạo đức kinh doanh vững mạnh.

2.5. Đổi mới hoạt động các hiệp hội bảo vệ quyền lợi cộng đồng
Thực trạng hiện nay tại Việt Nam là ý thức bảo vệ quyền lợi cộng đồng rất thấp. Có thể nói, đứng
trước các doanh nghiệp (DN) lớn, người dân địa phương cảm thấy đơn lẻ, yếu thế, thiếu sự hỗ trợ của
chính quyền. Cơ chế khiếu kiện dân sự ở nước ta hầu như rất ít được sử dụng. Điều này một phần là do
Việt Nam hầu như không có các thiết chế đại diện, trung gian, đó là các tổ chức phi chính phủ (NGOs),
hiệp hội, nhóm lợi ích; trong khi các tổ chức này đóng vai trò rất lớn ở các nước phát triển. Vai trò của các
hiệp hội ở nước ta rất thấp. Hầu như không có sự hiện diện của hiệp hội người tiêu dùng trong các vụ việc
ô nhiễm thực phẩm, môi trường vừa qua. Đã xảy ra những vụ việc xâm hại quyền lợi người tiêu dùng
(NTD) rõ ràng như gian lận xăng dầu, sữa nghèo đạm… nhưng chưa có vụ kiện nào về vi phạm quyền của
người tiêu dùng xảy ra; chưa DN gian dối nào bị cơ quan chức năng nêu tên và bị phạt. Phản ứng tức giận
của người tiêu dùng Việt Nam chẳng cho kết quả, khi mà họ không được cơ quan chức năng và pháp luật
hỗ trợ. Theo kết quả tổng điều tra ý kiến NTD trên phạm vi cả nước năm 2008 của Hội Tiêu chuẩn - Bảo
vệ NTD Việt Nam, 41% NTD Việt Nam không biết mình có quyền lợi gì, số còn lại có biết nhưng không
biết cách nào để bảo vệ quyền lợi đó. Hầu hết NTD Việt Nam không biết về 8 quyền cơ bản của họ là:
Quyền được an toàn; quyền được thông tin; quyền được lựa chọn; quyền được lắng nghe; quyền được thoả
mãn những nhu cầu cơ bản; quyền được bồi thường; quyền được giáo dục và quyền được có một môi
trường lành mạnh và bền vững [32].. Đặc biệt, rất ít người biết cơ quan nhận khiếu nại tiêu dùng. Tại Việt
Nam có Ban Bảo vệ NTD (thuộc Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công thương) là cơ quan quản lý nhà nước
về bảo vệ NTD và Hội Tiêu chuẩn - Bảo vệ quyền lợi NTD là cơ quan đại diện tiếng nói NTD. Ngay các
cơ quan này cũng phải thừa nhận rằng nhiệm vụ chủ yếu là hòa giải chứ không có quyền xử phạt các DN;
và việc DN có bồi thường hay không phụ thuộc vào tính tự nguyện của DN chứ không hề có một sự
cưỡng chế nào. Trong khi, ở nhiều nước trên thế giới, các vấn đề liên quan NTD không chỉ mang tính xã
hội, tính nhân đạo, tính mục đích của sản xuất kinh doanh, mà còn mang màu sắc chính trị - khiến cho
người dân chấp nhận hay không chấp nhận một hệ thống tư tưởng đạo đức. Ví dụ tại Pháp có Hiệp hội

64
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
Bảo vệ NTD với hơn 500.000 thành viên, có tờ báo riêng, có phòng thí nghiệm riêng. Và khi 1 DN bị phát
hiện là gây tổn hại cho cộng đồng như ô nhiễm môi trường, mất vệ sinh an toàn thực phẩm, điều kiện lao
động tồi... thì chính hiệp hội này sẽ đứng ra kêu gọi các thành viên có phản ứng cụ thể. NTD ở Pháp có
một quyền lực mạnh mẽ, đó là quyền tẩy chay, không mua sản phẩm khi nhà sản xuất vì lợi nhuận mà gây
tổn hại cho xã hội. Họ cũng rất biết cách sử dụng quyền lực đó để buộc các DN phải sửa đổi chính sách,
thực hiện các cam kết về trách nhiệm xã hội của họ. Những ví dụ thực tế khác như tại Mỹ năm 1996 hãng
Nike bị NTD tẩy chay sản phẩm sau khi phát hiện hãng này sử dụng lao động trẻ em. Tại Ấn Độ, từng
diễn ra biểu tình phản đối tập đoàn nước ngọt toàn cầu Coca-Cola đã làm ảnh hưởng đến nguồn nước
ngầm. Tại Nhật Bản năm 1950, một cuộc biểu tình tương tự cũng diễn ra, nhằm phản đối Công ty công ty
hóa chất lớn Chisso đã đổ thẳng ra biển chất thải công nghệ có thành phần thủy ngân hữu cơ không qua xử
lý, từ đó gây nhiễm độc cho cá, súc vật và người. Cuộc biểu tình của NTD và sức ép của chính quyền đã
buộc DN này phải bồi thường. Còn tại Việt Nam, chưa có một tiền lệ DN phải ra toà vì hành vi gian dối,
hoặc gây hại cho NTD, các ban, hội bảo vệ NTD hầu như không có tiếng nói đáng kể.
Như vậy nước ta cần phải đổi mới cách thức hoạt động các hiệp hội tổ chức quyền lợi cho cộng đồng
và NTD ở hai điểm:
Thứ nhất tăng cường thành lập các hiệp hội bảo vệ NTD ở cấp trung ương, địa phương, và ở từng
ngành. Đương nhiên, tạo ra nhiều cấu trúc trung gian sẽ mất chi phí đại diện, nhưng xét tổng thể, nó giúp
giảm thiểu chi phí để những người dân, cộng đồng đơn lẻ đạt các mục đích xã hội của mình. Biện pháp
này sẽ làm tăng tiếng nói cho các hiệp hội, và giúp đảm bảo quyền lợi cho cộng đồng ngay tại mỗi địa
phương trong trường hợp có sự kiện vi phạm của DN.
Thứ hai Chính phủ cần gia tăng quyền hạn cho các hiệp hội, cho phép các tổ chức này có quyền đòi
hỏi các DN phải giải trình và xử phạt các DN. Đây là giải pháp mang tính cưỡng chế, làm cho DN sợ khi
thực hiện các hành vi phản cạnh tranh vì sẽ phải chịu chế tài trừng phạt vô cùng nặng nề.
Khi hoạt động của các hiệp hội này trở nên tích cực và được chủ động hơn, các DN sẽ tự động có ý
thức không được thực hiện các hành vi vi phạm đạo đức kinh doanh, xâm phạm lợi ích của người tiêu
dùng, của xã hội.

II. NHÓM GIẢI PHÁP TỪ PHÍA BẢN THÂN DOANH NGIHỆP

1. Giải pháp về nhận thức


Nhận thức luôn là vấn đề vô cùng quan trọng. Trong bất kì một lĩnh vực nào, giải pháp cưỡng chế
chỉ là giải pháp trước mắt và không lâu dài. Về dài hạn, có thể gây ra tình trạng lách luật của DN. Do đó,
chỉ khi DN tự nhận thức được tầm quan trọng của đạo đức kinh doanh thì họ mới trở nên tự giác và tự
nguyện.

65
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
1.1. Xây dựng đạo đức kinh doanh gắn với xây dựng văn hóa doanh nghiệp và xây dựng thương
hiệu
Một thực tế tại Việt Nam là cả hai khái niệm VHDN và đạo đức kinh doanh đều là những danh từ
mới đối với các doanh nghiệp. Tuy nhiên, số đông doanh nghiệp có xu hướng đề cao VHDN mà ít nói tới
đạo đức kinh doanh. Chỉ cho tới vài năm gần đây, khi một loạt vụ việc vi phạm quyền lợi khách hàng và
gây ô nhiễm môi trường nổi lên, đạo đức kinh doanh mới thực sự bắt đầu được các doanh nghiệp Việt
Nam quan tâm.
Lý giải điều này là do các doanh nghiệp chưa nhận thức được sự liên quan hữu cơ giữa hai phạm trù
này. Các doanh nghiệp Việt Nam thường có một nhược điểm chung là chạy theo số đông và “hô khẩu
hiệu” để tạo thương hiệu. Cùng với quá trình toàn cầu hóa, khi bắt đầu được tiếp xúc với một phạm trù
mới là VHDN, các doanh nghiệp có xu hướng hồ hởi và đều cố gắng xây dựng cho công ty mình một
thương hiệu là có VHDN, nhằm mục đích cuối cùng là đánh bóng hình ảnh công ty, giúp công ty tăng thu
được lợi nhuận nhiều hơn. Nhưng nhiều doanh nghiệp mới dừng ở việc xây dựng bề ngoài của VHDN mà
chưa đi đến cốt lõi của VHDN, là đạo đức kinh doanh. Điều này thể hiện ở việc nhiều công ty khá chú
trọng trong hình thức bộc lộ bên ngoài của doanh nghiệp như thiết kế đồng phục cho nhân viên, làm logo,
trang trí văn phòng với màu sắc chủ đạo, tạo ra các nghi thức hội họp… Tuy nhiên như chúng ta đã đề cập
và phân tích ở trên, đạo đức kinh doanh mới chính là giá trị cốt lõi của VHDN, mới là yếu tố bền vững
qua thời gian của nét văn hóa kinh doanh. Do đó, xây dựng VHDN phải bắt đầu và cùng lúc với việc xây
dựng đạo đức kinh doanh, biến đạo đức kinh doanh thành nền tảng và trung tâm giá trị của VHDN. Trong
thời đại toàn cầu hóa ngày nay, các xu hướng mới trong VHDN lại không hề xa lạ, khác biệt với các giá trị
truyền thống được cả thế giới chấp nhận và đề cao. Những giá trị này không gì khác hơn là việc coi trọng
đạo đức kinh doanh; sự thể hiện trách nhiệm không chỉ đối với cổ đông mà còn đối với khách hàng, cộng
đồng, môi trường, người lao động, đối tác…; là việc hoạt động công khai, minh bạch, tuân thủ pháp luật;
phát triển bền vững, không vì lợi nhuận ngắn hạn; khuyến khích phản biện nội bộ; coi trọng uy tín doanh
nghiệp… Từ những giá trị rất chung này, doanh nghiệp sẽ xây dựng các chuẩn mực đạo đức, hành vi, tạo
lập các phong cách lề lối làm việc của riêng mình.
Ngoài ra, một xu hướng mạnh trong các doanh nghiệp hiện nay là đầu tư xây dựng cho công ty mình
một thương hiệu mạnh. Trong thời đại hiện nay, thương hiệu mạnh được nhìn nhận như một công cụ tạo
lợi thế cạnh tranh đặc thù cho doanh nghiệp, là công cụ lợi nhuận của doanh nghiệp. Người tiêu dùng sẵn
sàng chi thêm nhiều tiền hơn cho một sản phẩm có thương hiệu tốt. Về bản chất, thương hiệu là hình thái
thiết lập quan hệ kinh doanh dựa trên một mức độ tin cậy, là chỗ dựa cho niềm tin của khách hàng vào sản
phẩm của doanh nghiệp, là giấy chứng nhận vô hình sự đảm bảo chất lượng. Trong khi đó, cơ sở của sự
tin cậy lại chính là những kì vọng của khách hàng, của đối tác vào những hành xử có tính hợp lý, phù hợp
với các chuẩn mực đạo đức của xã hội của doanh nghiệp khi có biến cố hay sự kiện xảy ra. Hay có thể nói
là, thương hiệu chính là “niềm tin vào đạo đức” của doanh nghiệp. Do đó đạo đức kinh doanh trở thành
nền tảng cho việc xây dựng thương hiệu thật sự mạnh, muốn chiếm lĩnh thị phần và lòng tin của khách
66
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
hàng thì không gì khác ngoài việc xây dựng một thương hiệu tốt gắn liền với đạo đức kinh doanh lành
mạnh.
Vậy chìa khóa để xây dựng một VHDN vững mạnh và tạo ra một thương hiệu tốt chính là đạo đức
kinh doanh. Muốn như vậy, doanh nghiệp cần phải:
- Để thành công, khái niệm đạo đức kinh doanh phải được xây dựng từ nền tảng sứ mệnh hay triết lý
kinh doanh của doanh nghiệp: Mỗi doanh nghiệp cần xây dựng một tôn chỉ triết lý kinh doanh mang bản
sắc riêng của mình, trong đó vừa thể hiện lên bản chất ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp, vừa thể
hiện đạo đức kinh doanh lành mạnh thông qua các mục tiêu vì lợi ích của người lao động, của khách hàng
hay cộng đồng… Ví dụ như tập đoàn Bảo Việt có triết lý kinh doanh “Phục vụ khách hàng tốt nhất để
phát triển”.
- Xây dựng một văn hóa đạo đức kinh doanh ngay từ khi mới thành lập doanh nghiệp: Doanh nghiệp
cần bắt tay xây dựng đạo đức kinh doanh cùng lúc với VHDN, lồng ghép các chuẩn mực đạo đức kinh
doanh vào trong nội quy làm việc của công ty, vào tôn chỉ hoạt động… Điều này sẽ dễ dàng hơn là xây
dựng rồi phải thay đổi VHDN sau này cho tương thích.

1.2. Chú trọng vấn đề trách nhiệm xã hội trong xây dựng đạo đức kinh doanh
Hoạt động kinh doanh luôn gắn liền với lợi ích kinh tế, nên đạo đức kinh doanh cũng có những đặc
trưng riêng của nó. Chẳng hạn, tính thực dụng, coi trọng hiệu quả kinh tế luôn là yêu cầu hàng đầu đặt ra
đối với giới kinh doanh, thì đối với người khác đôi khi lại là những biểu hiện không tốt. Khi đánh giá đạo
đức kinh doanh, người ta thường dựa vào 3 nguyên tắc:
- Tính trung thực: Trung thực với bản thân, với khách hàng. Không dùng các thủ đoạn gian dối, xảo
trá để kiếm lời. Giữ lời hứa, giữ chữ tín trong kinh doanh, nhất quán trong nói và làm. trung thực trong
chấp hành luật pháp của nhà nước....
- Tôn trọng con người: Đối với những người cộng sự và dưới quyền tôn trọng phẩm giá, quyền lợi
chính đáng, tôn trọng hạnh phúc, tôn trọng tiềm năng phát triển của nhân viên... Đối với khách hàng: tôn
trọng nhu cầu, sở thích và tâm lý khách hàng. Đối với đối thủ cạnh tranh, tôn trọng lợi ích của đối thủ.
- Trách nhiệm với cộng đồng, xã hội: Luôn gắn lợi ích của doanh nghiệp với lợi ích của xã hội. Tích
cực góp phần giải quyết những vấn đề chung của xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển.
Như vậy, TNXH chính là một khía cạnh quan trọng và mang tính bản chất để đánh giá một doanh
nghiệp có đạo đức kinh doanh lành mạnh hay không. Chúng ta đã đề cập trong phần lý luận rằng, TNXH
cũng chính là sự phát triển cao của đạo đức kinh doanh. Do đó, chú trọng vấn đề TNXH trong xây dựng
đạo đức kinh doanh từ những bước đầu là rất cần thiết. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp cần phải nhận
thức được rằng đạo đức kinh doanh là phải đối với mọi nhóm đối tượng có liên quan, chứ không phải chỉ
tập trung đạo đức kinh doanh cho cổ đông của công ty mà bỏ qua vấn đề đạo đức kinh doanh đối với
khách hàng, hay vì đạo đức kinh doanh với người lao động mà vi phạm đạo đức kinh doanh đối với cộng
đồng… Như vậy, khi nhận thức được vấn đề TNXH, doanh nghiệp cần phải áp dụng TNXH trong mọi

67
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
khía cạnh hoạt động của công ty và tất cả các nhóm có quyền lợi liên quan, cân bằng đạo đức kinh doanh
đối với các nhóm đối tượng này, nhằm hướng tới sự phát triển bền vững của cộng đồng và của doanh
nghiệp. Khả năng cân bằng và dung hòa được lợi ích cho các nhóm là không hề đơn giản, do đó chú trọng
tới yếu tố này trong xây dựng đạo đức kinh doanh từ những giai đoạn sơ khai sẽ phần nào giảm bớt sự
phức tạp sau này của vấn đề.

2. Tăng cường đầu tư cho chiến lược đạo đức kinh doanh
Một chiến lược đạo đức kinh doanh là vô cùng cần thiết để doanh nghiệp hình thành một đạo đức
kinh doanh lành mạnh và mang tính chuyên nghiệp. Đạo đức kinh doanh sẽ chắc chắn mang đến sự giàu
có thịnh vượng cho doanh nghiệp. Điều này thể hiện ở hai khía cạnh độc đáo của đạo đức kinh doanh cho
doanh nghiệp: bảo hiểm và đầu tư.
Khía cạnh bảo hiểm của đạo đức kinh doanh được phát huy khi doanh nghiệp gặp một sự kiện bất
ngờ, ví dụ như các sự kiện tiêu cực và rắc rối như kiện tụng với khách hàng, hay liên quan tới pháp luật
như các hình phạt, án phạt, các thể chế của chính phủ... Rõ ràng, nếu một công ty được đánh giá là có đạo
đức kinh doanh kém thì hoạt động kinh doanh của họ sẽ tụt dốc một cách nhanh chóng khi gặp phải một
sự kiện tiêu cực, và ngược lại, khi công ty có một danh tiếng tốt về đạo đức kinh doanh, các chỉ số kinh
doanh của công ty sẽ ít bị ảnh hưởng hơn. Khi có một điều gì xấu xảy ra (ví dụ như đơn kiện của khách
hàng hoặc hình phạt của chính phủ) đối với một công ty được đánh giá là có đạo đức kinh doanh tốt, các
nhà đầu tư sẽ kết luận rằng công ty đó chỉ phạm sai lầm và chắc chắn có thể làm tốt hơn vào lần sau, rằng
không có điều gì xấu về mặt cơ cấu tổ chức trong công ty hoặc không có điều gì phải lo lắng. Nhưng nếu
công ty đó không có đạo đức kinh doanh hay THXH, thì khách hàng của công ty có thể tẩy chay sản
phẩm, các nhà cung cấp có thể từ chối làm nguồn cung, các nhà đầu tư trong thị trường chứng khoán sẽ rút
lại hỗ trợ tài chính và làm cho giá cổ phiếu của công ty tụt thảm hại. Như vậy, mức độ ảnh hưởng của các
sự kiện tiêu cực còn phụ thuộc vào việc doanh nghiệp đó có đạo đức kinh doanh ở mức nào. Thật vậy,
những công ty có đạo đức kinh doanh tốt thì sau cùng bao giờ cũng phát triển. Đầu tư vào đạo đức kinh
doanh sẽ phát huy tính hữu ích nhất là khi doanh nghiệp gặp khó khăn.
Khía cạnh đầu tư của đạo đức kinh doanh thể hiện ở việc doanh nghiệp sẽ kiếm được nhiều lợi
nhuận hơn nhờ vào xây dựng chiến lược đạo đức kinh doanh đúng đắn. Trong tiến trình hội nhập như hiện
nay, vấn đề cạnh tranh luôn được nhắc tới nhiều nhất. Chúng ta sẽ lấy ví dụ về việc cạnh tranh trong tuyển
dụng nguồn nhân lực, nhân tố nào giúp cho các doanh nghiệp tuyển dụng được nguồn nhân lực chất lượng
nhất.
Thông qua bảng 4 dưới đây về “Các nhân tố quan trọng nhất để tuyển dụng được nguồn nhân lực
chất lượng” có thể thấy, ngoài yếu tố danh tiếng tốt thì tất cả các yếu tố còn lại đều nằm trong bao quát
của vấn đề đạo đức kinh doanh. Mà như chúng ta đã phân tích, danh tiếng tốt hay thương hiệu, về bản chất
trong thời đại hiện nay cũng chính là niềm tin vào đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy có thể
nói, có một đạo đức kinh doanh lành mạnh là doanh nghiệp đã chiếm được thế cạnh tranh lớn để tuyển

68
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
dụng được nguồn nhân lực tài năng nhất. Đây chính là tiền đề cơ bản nhất để phát triển một doanh nghiệp,
bởi suy cho cùng, con người chính là nhân tố quyết định trong bất kì một vấn đề nào.
Bảng 3 - Các nhân tố quan trọng nhất để tuyển dụng được nguồn nhân lực chất lượng
Năm: 2007 Đơn vị: %

Nhân tố Nước Trung Quốc Ấn Độ Hàn Quốc Malaysia


Danh tiếng tốt 53.1 31.8 36.7 20.4
Mức lương cạnh tranh 28.6 41.2 14.4 43.9
Phúc lợi liên quan 8.2 1.2 5.8 19.4
Chính sách đãi ngộ với gia 0.0 8.2 6.5 0.0
đình
Cơ hội nghề nghiệp 9.2 11.8 18.7 12.2
Điều kiện làm việc tốt 1.0 5.9 15.1 4.1
Các nhân tố khác 0.0 0.0 2.0 0.0
Nguồn: Điều tra thực tế về môi trường làm việc của ILO [47].
Ngoài ra, khi đầu tư vào đạo đức kinh doanh, doanh nghiệp cũng có thể cùng lúc đạt được mục tiêu
lợi nhuận nhờ biết khai thác các cơ hội. Đạo đức kinh doanh và THXH không chỉ là những vấn đề gây tốn
kém và bó buộc mà còn có thể là những cơ hội tiềm tàng trong kinh doanh cho những ai nhận ra và đón
bắt được. Đây là một kinh nghiệm mà nhiều công ty nổi tiếng trên thế giới đã chứng minh.Ví dụ xu hướng
tiêu dùng những sản phẩm sạch và xanh, dùng phương tiện giao thông an toàn và ít ô nhiễm đang tạo ra thị
trường tiềm năng cho nhiều sản phẩm mới. Thành công của Toyota trên thị trường xe động cơ hybrid (xe
chạy điện và xăng) hay của TRW trên lĩnh vực thiết bị an toàn trong xe hơi đều xuất phát từ việc lấy mục
tiêu an toàn của người tiêu dùng và môi trường làm chiến lược kinh doanh. Motorola thường xuyên có
những đột phá về kỹ thuật vì công ty luôn chủ động đầu tư vào các chương trình đào tạo và chăm sóc đời
sống cho nhân viên. Những năm đầu thập niên 1990, Proctor & Gamble đã đi tiên phong và gặt hái nhiều
thành công nhờ chiến lược tiếp thị các sản phẩm có thành phần và bao bì không gây hại môi trường. Các
sản phẩm “xanh” đã thành thời thượng ngay sau đó. Công ty 3M khởi xướng chương trình giảm ô nhiễm
3P (Pollution Prevention Pays) ngay từ những năm 1970 nên đã tiết kiệm rất nhiều chi phí về sau khi các
vấn đề về môi trường được áp đặt bằng luật lệ.
Như vậy qua đây có thể thấy, giải pháp đầu tư cho chiến lược đạo đức kinh doanh sẽ là một ý tưởng
đúng đắn để đạt được mục tiêu lợi nhuận cho doanh nghiệp. Cụ thể là việc đầu tư cho điều kiện làm việc
của người lao động, tạo bầu không khí cởi mở cho công ty thông qua các cuộc đi chơi dã ngoại, hoạt động
tập thể ở donah nghiệp; phát triển các chương trình bảo vệ môi trường hay tăng cường bảo vệ khách hàng
vào chiến dịch kinh doanh của công ty…. Xem đạo đức và THXH là một phần thiết yếu của chiến lược
kinh doanh, các doanh nghiệp cũng sẽ cảm thấy tự nguyện và chủ động hơn trong việc thực hiện. Khi đó,
những vấn đề này không còn là một gánh nặng hay điều bắt buộc mà là nguồn và cơ sở của những thành
công.

69
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
3. Tự giác tuân thủ luật pháp có liên quan
Cách thức xây dựng đạo đức kinh doanh tốt nhất chính là việc tự giác tuân thủ các quy định của
pháp luật có liên quan tới hoạt động của doanh nghiệp, bởi bản thân luật pháp đã là sự thể chế hóa các
nghĩa vụ để đảm bảo lợi ích của các đối tượng liên quan. Ở Việt Nam, tuy hệ thống pháp luật còn chưa
thật sự hoàn thiện và chuẩn mực như các nước phát triển khác, nhưng có nhiều doanh nghiệp cũng đã thực
hiện các hoạt động vi phạm luật pháp. Thực chất, hoạt động của doanh nghiệp liên quan tới rất nhiều đối
tượng; trong mỗi mối quan hệ đó, lại có một điều luật riêng điều chỉnh. Chỉ riêng các bộ luật và điều luật ở
Việt Nam có thể kể đến như Luật Doanh nghiệp Việt Nam, Luật Đầu tư, Luật Lao động, Luật Chứng
khoán, Luật Giao dịch điện tử, Luật Kế toán doanh nghiệp…Mỗi một loại luật, lại có các nghị định, thông
tư hướng dẫn đi kèm. Bên cạnh đó là một loạt các tiêu chuẩn của quốc tế và Việt Nam mà doanh nghiệp
cam kết tham gia như ISO, SA, TCVN…Do đó, dù vô tình hay hữu ý, các doanh nghiệp Việt Nam, đặc
biệt các donah nghiệp vừa và nhỏ chỉ có kiến thức luật pháp hữu hạn và mô hình nhỏ, rất dễ rơi vào tình
trạng vi phạm luật.
Vì lý do này, để tuân thủ luật pháp một cách tự giác và đầy đủ thì doanh nghiệp cần lưu ý một vài
điểm như:
- Các nhà quản lý của doanh nghiệp cần có kiến thức về luật pháp để áp dụng trong công việc điều
hành và quản trị công ty
- Doanh nghiệp nên xây dựng một bộ phận riêng chuyên trách công việc pháp lý: các doanh nghiệp
có thể thuê một luật sư riêng cho công ty mình, hoặc lập một phòng chuyên về pháp lý cho công ty. Tuy
chi phí cho vấn đề này khá tốn kém, nhưng khi hoạt động kinh doanh, điều này là vô cùng cần thiết. Đặc
biệt nếu các doanh nghiệp có quan hệ kinh doanh với các công ty nước ngoài thì sự am hiểu về luật pháp
càng nên được đề cao, giúp doanh nghiệp đảm bảo được lợi ích của các đối tượng hữu quan.
- Bồi dưỡng và cập nhật kiến thức luật pháp cho mọi người trong doanh nghiệp, đặc biệt là các nhà
quản trị doanh nghiệp, những người đứng đầu các phòng ban, bộ phận trong công ty.

4. Xây dựng các chương trình đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp
Đạo đức kinh doanh của một doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào nhận thức và đạo đức của bản thân
những người chủ doanh nghiệp. Tuy nhiên, ngay cả khi người quản lý thông suốt được tầm quan trọng của
đạo đức kinh doanh thì họ cũng cần sự thực hiện chuẩn xác của các nhân viên cấp dưới tuân theo những
chuẩn mực đạo đức kinh doanh đó. Do đó, doanh nghiệp cần phải xây dựng trong nội bộ các chương trình
đạo đức kinh doanh. Các chương trình triển khai đạo đức kinh doanh là hệ thống các hoạt động nhằm biến
những giá trí, những các quy tắc và chuẩn mực hành vi đạo đức kinh doanh thành nhận thức chung, phổ
biến, thống nhất của mọi thành viên và nhằm hỗ trợ cho các thành viên trong việc vận dụng vào hoạt động
tác nghiệp hàng ngày. Chương trình đạo đức không chỉ nhằm điều chỉnh thái độ hành vi của nhân viên, mà
còn quy định về các chuẩn mực nghề nghiệp chuyên môn. Mỗi doanh nghiệp cần xây dựng được một
chương trình đạo đức hiệu quả đảm bảo tất cả các nhân viên đều hiểu và tuân thủ theo các nguyên tắc đạo
70
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
đức kinh doanh đưa ra. Doanh nghiệp hướng dẫn mọi thành viên thực hiện, đồng thời thường xuyên kiểm
tra, đánh giá chương trình đạo đức, và không ngừng hoàn thiện chương trình đạo đức. Xây dựng và phát
triển đạo đức trong doanh nghiệp là cả một quá trình, đòi hỏi sự tận tâm của mọi thành viên trong doanh
nghiệp. Giải pháp này gồm 4 bước cơ bản, tạo thành một chu trình vòng tròn vận động không ngừng mà
doanh nghiệp cần thực hiện:
- Bước 1 - Xây dựng chương trình đạo đức kinh doanh
Doanh nghiệp lập ra một ban chịu trách nhiệm xây dựng chương trình đạo đức cho doanh nghiệp.
Ban này cần có sự tham gia và chịu trách nhiệm của ban giám đốc hoặc các nhà quản lý cao cấp. Trong
chương trình đạo đức kinh doanh, doanh nghiệp đề ra các nguyên tắc, quy định phù hợp với các chuẩn
mực đạo đức kinh doanh, với văn hóa, với mục tiêu tổng quát của doanh nghiệp; và và các quy tắc mà
doanh nghiệp đã thông qua nhằm đảm bảo quy trình sản xuất tuân thủ theo các tiêu chuẩn mà doanh
nghiệp đã cam kết. Các nguyên tắc, quy định cần phải rõ ràng, cụ thể, cần cho nhân viên biết rõ hành vi
nào được chấp nhận, hành vi nào không được chấp nhận trong doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có thể tự thiết kế xây dựng, biên soạn ra bộ chương trình đạo đức của riêng mình;
hoặc có thể sử dụng các chương trình đạo đức của quốc tế như: hệ thống quy tắc ứng xử (Code of
Conduct) hay hệ thống quản lý chất lượng.
- Bước 2 - Phổ biến chương trình đạo đức
Doanh nghiệp phổ biến bản quy định, quy tắc cho tất cả các nhân viên, các doanh nghiệp con, doanh
nghiệp liên kết... để đảm bảo mọi thành viên trong doanh nghiệp đều chấp nhận và thực hiện theo. Có thể
áp dụng nhiều hình thức khác nhau: thông qua các chương trình đào tạo, các buổi gặp mặt truyền thống,
các buổi hướng dẫn, trao đổi trực tiếp với nhân viên. Hoặc đơn giản và cụ thể hơn là biên soạn thành
những tài liệu chính thức và có thể giúp các thành viên trong công ty sử dụng như: cẩm nang kỹ thuật, sổ
tay chất lượng, sổ tay đạo đức nghề nghiệp, cẩm nang hướng dẫn đạo đức…Doanh nghiệp cũng có thể sử
dụng phương tiện truyền thông hiện đại khác như băng hình, đĩa CD, VCD, trang web…
- Bước 3: Thực hiện, kiểm tra, đánh giá chương trình đạo đức
Trước hết, bản thân ban giám đốc, lãnh đạo phải là người thực hiện những quy định của chương
trình đạo đức đầu tiên. Nếu những người đứng đầu doanh nghiệp hành động vi phạm thì không thể tạo ra
và phát triển một doanh nghiệp có đạo đức kinh doanh. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần phải hướng dẫn
nhân viên thực hiện theo những quy định đã được đề ra. Bản quy định về đạo đức cần trở thành đạo đức
nghề nghiệp của mọi nhân viên, trở thành một bộ phận của văn hóa công ty.
Doanh nghiệp phải thường xuyên kiểm tra, đánh giá xem việc thực hiện các nguyên tắc, quy định
của các thành viên đạt tới đâu. Trong quá trình đánh giá, cần có mức thưởng công bằng đối với những
người làm tốt và nhắc nhở kịp thời những người làm chưa tốt.
- Bước 4: Không ngừng hoàn thiện chương trình đạo đức
Cùng với sự phát triển của doanh nghiệp và đặc biệt với tiến trình hội nhập và toàn cầu hóa ngày
càng sâu sắc tại Việt Nam, bản chương trình đạo đức kinh doanh cũng cần phát triển và hoàn thiện dần.
71
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
Doanh nghiệp cần phải cam kết phục vụ khách hàng tốt hơn, quan tâm tới đời sống nhân viên hơn, có
trách nhiệm với xã hội, cộng đồng hơn nữa...Tất cả những hoạt động đó cần được duy trì và phát triển gắn
liền với sự phát triển của doanh nghiệp.

*
* *
Tóm lại, bất kì một giải pháp nào nếu đứng riêng lẻ cũng sẽ không thể phát huy được tác dụng mong
muốn. Đặc biệt đối với vấn đề đạo đức kinh doanh với quy mô tổng quát, vừa là vấn đề riên của mỗi
doanh nghiệp, vừa là vấn đề chung của toàn xã hội. Nhà nước và các doanh nghiệp Việt Nam cần phải hợp
tác chặt chẽ, cùng nhau tiến hành các giải pháp một cách đồng bộ và nghiêm túc. Chỉ có vậy, việc xây
dựng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp mới theo định hướng đúng đắn và trở nên hoàn thiện.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt
[1]. Đỗ Minh Cương (2001). Văn hóa và triết lý kinh doanh. NXB Chính trị Quốc Gia
[2]. PGS. TS. Tô Xuân Dân, PTS. Vũ Chí Lộc (1997). Lý thuyết & Thực tiễn Quan hệ kinh tế quốc
tế. NXB Thống kê
[3]. Dương Thị Bích Liễu (2006). Văn hóa kinh doanh. NXB Đại học Kinh tế quốc dân
[4]. PGS.TS. Nguyễn Mạnh Quân (2007). Giáo trình đạo đức kinh doanh và văn hóa công ty. NXB
Đại học Kinh tế quốc dân
[5]. GS. TS. Võ Thanh Thu (2003). Quan hệ kinh tế quốc tế. NXB Thống kê
[6]. Phạm Quốc Toản (2002). Đạo đức kinh doanh. NXB Thống kê
[7]. Tập thể tác giả trường Đại học Ngoại Thương (2000). Giáo trình Marketing lý thuyết. NXB Giáo
Dục.
[8]. Robbins, Coulter, Bergman & Stagg (2003). Quản trị học. Khoa QTKD, ĐH Ngoại thương dịch
từ Management 3rd Edition. NXB Prentice Hall.
[9]. International Labour Organization (2008). An toàn – Vệ sinh Lao động trong sản xuất cơ khí.
NXB Lao Động Xã Hội.
[10]. Tổng công ty Bảo Việt Nhân Thọ (2008). Giáo trình Bảo Việt Lập nghiệp. Công ty Cổ phần in
Tổng hợp LIKSIN.
[11]. Trương Thị Lan Anh. Tường trình từ Hội nghị Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp châu Á
năm 2008. Thời báo Kinh tế Sài Gòn số 47/2008
[12]. Quang Chung. Xử lý Vedan:Phải chọn lựa!. Thời báo Kinh tế Sài Gòn số 47/2008
[13]. Thanh Danh. Chấp nhận chuyển dịch nhân sự. Thời báo Kinh tế Sài Gòn số 46/2008
[14]. Ths. Lưu Minh Đức. Doanh nghiệp: Vì lợi nhuận hay là một công dân?. Thời báo Kinh tế Sài
Gòn số 44/2008
[15]. Ths. Lưu Minh Đức. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Thế nào là đủ?. Thời báo Kinh tế
Sài Gòn số 45/2008

72
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
[16]. Mai Hương. Môi trường làm việc xấu!. Lao Động số 60 Ngày 19/03/2009
[17]. Kỳ Quan. Đình công ở Long An: Thách thức ngày càng lớn. Lao Động số 4 Ngày 06/01/2009
[18]. Dương Trung Quốc. Đạo Kinh doanh của Doanh nghiệp Việt. Báo Kinh doanh và Tiếp thị năm
2007
[19]. Nguyễn Thị Hồng Nhung. Văn hóa và đạo đức kinh doanh trong các doanh nghiệp Việt Nam:
Thực trạng và giải pháp. Khóa luận tốt nghiệp trường Đại học Ngoại Thương. 2008
[20]. Bamboo Tra từ: Hệ thống từ điển chuyên ngành mở.
http://tratu.baamboo.com/
[21]. TS. Nguyễn Quang A. Đạo đức kinh doanh? . Báo điện tử Lao động ngày 02/11/2008
http://www.laodong.com.vn/Home/Dao-duc-kinh-doanh/200811/112447.laodong
[22]. Đình Cung. An toàn cho vài người,Hiểm họa cho triệu người. Báo điện tử Vietnamnet ngày
27/05/2007.
http://www.vietnamnet.vn/kinhte/2007/05/699414/
[23]. Lâm Danh. Hoạt động của các khu công nghiệp, làng nghề đang gây ô nhiễm nghiêm trọng .Báo
Công An nhân dân và An ninh thế giới online ngày 14/11/2008
http://antg.cand.com.vn/vi-VN/ktvhkh/2008/11/67779.cand
[24]. TS. Bùi Thị Thanh Hà. Công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn
Hà Nội. Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 05/11/2008
http://www.tapchicongsan.org.vn/details.asp?Object=14350272&news_ID=51163096
[25]. Thúy Hải. Doanh nghiệp với trách nhiệm cộng đồng - Bắt đầu từ tấm lòng. Báo Sài Gòn giải
phóng Online ngày 14/02/2009.
http://sggp.org.vn/kinhte/2009/2/181116/
[26]. Quảng Hạnh. Sữa "siêu" nghèo đạm: Tội ác vô tình, niềm tin chết yểu. Báo điện tử Vietnamnet
ngày 09/02/2009 .
http://vietnamnet.vn/bvkh/2009/02/827801/
[27]. Quang Hòa. Ô nhiễm hạt nix ở Hyundai Vinashin: "Kẻ giết người thầm lặng". Báo điện tử Việt báo
ngày 05/11/2007
http://www.vietbao.vn/Xa-hoi/O-nhiem-hat-nix-o-Hyundai-Vinashin-Ke-giet-nguoi-tham-lang/40226739/157/
[28]. Thu Hòa. Công đoàn không can thiệp vì... sợ mất việc. Báo điện tử Vietnamnet ngày 11/02/2009.
http://vietnamnet.vn/chinhtri/2009/02/828230/
[29]. Phạm Huyền. Loạn thực phẩm. Báo điện tử An Ninh Thủ Đô ngày 13/09/2008.
http://www.anninhthudo.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=32145&ChannelID=122
[30]. Phạm Mai. Lao động thiệt vì DN dây dưa bảo hiểm. Báo điện tử Đất Việt ngày 02/10/2008
http://www.baodatviet.vn/Utilities/PrintView.aspx?ID=16259
[31]. Phan Mai. Giá xăng giảm nhỏ giọt: Do bất chấp đạo đức kinh doanh?. Báo Pháp luật Thành phố
Hồ Chí Minh Online ngày 16/11/2008.
http://www.phapluattp.vn/news/kinh-te/view.aspx?news_id=234182

73
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
[32]. Song Nhi. Có “quyền” mà không được dùng. Báo điện tử Diễn đàn Doanh nghiệp ngày
17/03/2009.
http://dddn.com.vn/2009031710013485cat97/co-quyen-ma-khong-dung-duoc.htm
[33]. L. Nguyên. Nợ đóng BHXH: 2.000 tỷ đồng. Báo Sài Gòn giải phóng ngày 28/03/2009.
http://sggp.org.vn/kinhte/2009/3/181116/
[34]. Tô Phán. Làm giá là tội ác. Báo điện tử Lao động ngày 11/11/2008.
http://www.laodong.com.vn/Home/Lam-gia-la-toi-ac/200811/113990.laodong
[35]. Hoàng Hữu Phước. Đạo đức kinh doanh cũng là tài sản doanh nghiệp. Báo Sài Gòn tiếp thị
online ngày 10/10/2008.
http://sgtt.com.vn/Detail23.aspx?ColumnId=23&newsid=41619&fld=HTMG/2008/1009/41619
[36]. Quốc Phương. Đình công ở Việt Nam sẽ tiếp tục tăng. BBC Việt Ngữ ngày 08/08/2008.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2008/08/080807_ilo_director.shtml
[37]. Võ Văn Tạo . Kiến thức kinh tế môi trường cho cán bộ quản lý. Báo Tuổi trẻ online ngày
11/02/2009
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=301186&ChannelID=119
[38]. Anh Thoa. Xây dựng Đảng trong doanh nghiệp tư nhân: Vì mục tiêu phát triển doanh nghiệp.
Báo điện tử Sài Gòn giải phóng ngày 18/03/2009
http://www.sggp.org.vn/chinhtri/2009/3/184049/
[39]. Quang Thiện. Phản bội cộng đồng, doanh nghiệp tự kết liễu mình. Báo điện tử Thời báo kinh tế
Việt Nam ngày 29/09/2008.
http://vneconomy.vn/home/20080929011048587P0C5/phan-boi-cong-dong-doanh-nghiep-tu-ket-lieu-
minh.htm
[40]. Ths. Nguyễn Thị Thu Trang. Trách nhiệm xã hội của doanh ngihệp. Báo điện tử
doanhnhan360.com ngày 24/08/2008
http://www.doanhnhan360.com/Desktop.aspx/Cuoc-song-360/Tu-thien-
360/Trach_nhiem_xa_hoi_cua_doanh_nghiep/
[41]. Thế Vinh. Tìm chuẩn mới về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Báo điện tử Thể thao văn hóa
ngày 13/02/2009.
http://www.thethaovanhoa.vn/132N20090213110556378T14/Tim-chuan-moi-ve-trach-nhiem-xa-hoi-cua-
doanh-nghiep.htm
[42]. Hoàng Yến. Dược phẩm giá cao gấp 300% so với giá gốc. Báo điện tử Báo mới ngày
06/12/2008
http://www.baomoi.com/Home/KinhTe/www.sggp.org.vn/Duoc-pham-Gia-cao-gap-300-so-voi-gia-
goc/2556765.epi
[43]. Trang dữ liệu pháp luật điện tử CSR Law Database
http://csr.vn/index
[44]. Trang thông tin điện tử Tập đoàn Bảo Việt.
http://www.baoviet.com.vn/?lang=VN

74
Tư liệu đọc thêm tháng 6.2009
Tiếng Anh
[45]. Charles W. L. Hill, and Gareth R. Jones (2001). Strategic Management. Houghton Mifflin
Company.
[46]. Philip Kotler (2002). Marketing Management, Millenion Edition (Tenth Edition). Pearson
Custom Publishing
[47]. International Labour Organization (2008). Labour and Social Trends in ASEAN 2008 - Driving
Competitiveness and Prosperity with Decent Work. Regional Office for Asia and the Pacific
[48]. Houghton Mifflin Company. American Heritage Dictionary 4th Edition (2008).
[49]. Milton Friedman, The Social Responsibility of Business is to Increase Its Profits. The New York
Times Magazine 13/09/1970

75

You might also like