You are on page 1of 23

BÀI THAM LUẬN HỘI THẢO KHOA HỌC

MÔN QUAN HỆ CÔNG CHÚNG


Trường: Khoa Chính Trị - Hành Chính, ĐHQG TP.HCM
Lớp: QLC.K1A
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Lệ Tuyền
Lê Mai Phương
Dương Lê Ngọc Trâm
Nguyễn Gia Kiệt
Niên khóa: 2021 – 2022.
Đề tài: Thực trạng hoạt động quan hệ công chúng khu vực công hiện
nay, cơ hội và thách thức của hoạt động quan hệ công chúng trong bối cảnh
chuyển đổi số của cơ quan nhà nước tại tỉnh Bến Tre
I. Giới thiệu
Trong xã hội hiện đại, nhu cầu và thang giá trị của PR đang được thừa
nhận rộng rãi trong các công ty, chính phủ, các lĩnh vực cộng đồng của tất cả
các quốc gia đặc biệt là tại cơ quan nhà nước dưới tác động của bối cảnh chuyển
đổi số. PR là lĩnh vực còn khá mới mẻ ở Việt Nam. Trong 10 năm trở lại đây,
khái niệm PR được biết đến rộng rãi hơn ở các lĩnh vực của cuộc sống như:
trong quan hệ đối nội cũng như quan hệ đối ngoại, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội… trong các cơ quan chính phủ, phi chính phủ cũng như cơ quan nhà nước.
Quan hệ công chúng hay còn gọi tắt là PR có lẽ là một thuật ngữ vô cùng
quen thuộc đối với chúng ta. Việc PR sẽ diễn ra ở nhiều lĩnh vực khác nhau,
trong kinh doanh, quản lý, giáo dục,... trong đó có cả PR trong khu vực công.
PR là một phần không thể thiếu trong quản trị chiến lược của cơ quan nhà nước
nhằm thiết lập và củng cố mối quan hệ lâu dài giữa cơ quan nhà nước và công
chúng nhằm tăng cường hiểu biết, hỗ trợ và đồng thuận đối với quá trình hoạch
định và thực thi chính sách công của cơ quan nhà nước để đạt đến sự hài lòng
của công dân. PR trong khu vực công, chúng ta có thể hiểu đơn giản là quá trình
truyền tải thông tin mà chủ thể là các cơ quan nhà nước thuộc khu vực công đến
với công chúng của mình (người dân) nhằm để nhận được sự quan tâm, thấu
hiểu và ủng hộ của công chúng. Và đây cũng chính là vấn đề chủ chốt của cho
buổi hội thảo của chúng ta ngày hôm nay.
II. Nội dung
1. Thực trạng của quan hệ công chúng trong khu vực công hiện nay:
1.1. Thành tựu của hoạt động quan hệ công chúng trong khu vực công
dưới góc nhìn cơ quan nhà nước
Hiện nay quá trình PR ở khu vực công ngày càng hiệu quả và đạt được
những thành tựu nhất định như:
Thứ nhất, mối quan hệ của cán bộ, công chức và người dân ngày càng
được cải thiện, nhìn chung khoảng cách giữa họ đã được rút ngắn rất nhiều.
Nhìn chung, các vấn đề về giao tiếp ứng xử giữa cán bộ, công chức với người
dân đã không còn quá gay gắt như trước kia.
Một ví dụ điển hình là khi nhóm chúng tôi tiến hành phỏng vấn trực tiếp
10 người dân thuộc xã Lương Hòa, Giồng Trôm, Bến Tre, câu hỏi liên quan đến
thái độ phục vụ của cán bộ, công chức với người dân thì có đến 9/10 sự đánh
giá là hài lòng. Đây là một tín hiệu rất đáng mừng.
Thứ hai, các thông tin được truyền đạt đến người dân được đánh giá là cô
đọng, dễ hiểu, phù hợp với mọi lứa tuổi. Liên quan đến vấn đề này, chúng tôi đã
phỏng vấn anh N.M.H, anh cho biết: “Các thông tin chúng tôi được nhận
thường rất dễ hiểu, các câu từ rất gần gũi, khi đọc là chúng tôi hiểu ngay”. Như
chúng ta được biết, hiệu quả của tiến trình PR không chỉ phụ thuộc vào quá
trình giao tiếp mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, trong đó, sự chỉn
chu, tính ngắn gọn dễ hiểu của các văn bản, thông báo cũng đóng vai trò quan
trọng, góp phần làm cho quá trình PR trở nên hiệu quả hơn.
Thứ ba, các kênh thông tin mà cơ quan nhà nước sử dụng để thực hiện
quá trình PR của mình ngày càng đa dạng. Nếu như trước đây, việc sử dụng loa
phát thanh là chủ yếu thì ngày nay đã có nhiều hình thức khác nhau phục vụ cho
quá trình truyền đạt thông tin. Điều đặc biệt là các hình thức đều có sự gần gũi
và đa phần người dân điều có thể tiếp cận được. Trong suốt thời gian dài chúng
ta chống dịch Covid-19, đó là một giai đoạn khó khăn và đầy thách thức đối với
Việt Nam, các công việc đều gặp trở ngại rất lớn và quá trình quan hệ công
chúng cũng nằm trong quy luật ấy. Nhưng qua quá trình khảo sát 40 hộ dân
đang sinh sống trên 3 địa phương là xã Lương Quới, xã Lương Hòa và xã
Lương Phú, các thông tin phản hồi chúng tôi nhận được như sau:
+ Có 35/40 hộ dân cho đánh giá là hài lòng với quá trình truyền tải thông
tin của cơ quan nhà nước.
Hộ dân anh T.V.B cho biết: “Gia đình tôi là F1, trong thời gian tự thực
hiện cách ly tại nhà, gia đình tôi luôn nhận được các thông báo rất kịp thời của
chính quyền. Đa phần chúng tôi nghe trên loa phát thanh mỗi sáng, có khi có
mấy cô chú lại tận nhà phát giấy cho chúng tôi về quy trình chống dịch như thế
nào. Tôi rất hài lòng với các thông tin cũng như thái độ làm việc của chính
quyền nơi đây.”
Hộ anh T.M.H cho biết: “Do chúng tôi là F0, mà khu cách ly lại hết chỗ
nên gia đình tôi phải điều trị tại nhà. Suốt quá trình điều trị, tôi luôn nhận được
sự hướng dẫn của cán bộ y tế thông qua các cuộc điện thoại, các thông tin về
dịch bệnh cũng được xã tôi cập nhật mỗi ngày trên mạng xã hội, do vậy tôi rất
an tâm và hài lòng”.
+ Chúng tôi nhận được 2 phản hồi là không hài lòng nhưng không nêu lý
do.
+ 1 phản hồi là không hài lòng vì còn nhiều hạn chế, phần hạn chế này
chúng ta sẽ nêu ở mục sau.
+ 2 phản hồi là không có ý kiến.
Thứ tư, về vấn đề trả lời thông tin của cơ quan nhà nước đến với công
chúng. Như chúng ta đã biết, PR mà một quá trình mang tính 2 chiều, không
giống như quảng cáo hay các hình thức truyền thông khác, chỉ là mang thông tin
đến. Hoạt động PR của cơ quan nhà nước còn là quá trình tiếp nhận thông tin
ngược lại từ người dân, tiếp thu, xử lý và trả lời các câu hỏi, giải đáp các thắc
mắc của người dân. Theo quá trình nghiên cứu, vấn đề này đang rất được quan
tâm cũng như có những biện pháp không ngừng nâng cao chất lượng. Chúng tôi
có cuộc phỏng vấn ngắn đối với 50 người dân trên địa bàn xã Lương Hòa, địa
điểm là ở UBND xã Lương Hoà về vấn đề này.
+ Có 40 ý kiến là hài lòng với mức độ giải đáp của cán bộ, công chức.
Anh N.M.H cho biết: "Tôi đến đây để giải hỏi về vấn đề tiền hỗ trợ
trong quá trình cách ly, cô chú nhiệt tình lắm, hướng dẫn rất tận tình".
Anh T.V.G cho biết: “Tôi đến để hỏi về vấn đề kinh doanh của gia đình,
được mấy cô chú ở đây hướng dẫn đăng ký giấy phép thế nào, rồi giải thích về
thuế cũng như là các chính sách hỗ trợ của nhà nước, tôi an tâm phần nào”.
+ Có 5 ý kiến cho rằng không bận tâm và không có lý do giải thích.
+ Có 5 ý kiến còn lại cho rằng còn hạn chế, chúng tôi sẽ nêu lý do ở phần
sau.
1.2. Hạn chế của hoạt động quan hệ công chúng trong khu vực công
dưới góc nhìn cơ quan nhà nước.
Chúng ta có thể thấy rằng, tiến trình quan hệ công chúng của các cơ quan
Nhà nước đối với người dân ngày càng có hiệu quả và dần thay đổi theo chiều
hướng tích cực và đã đạt được những thành tựu nhất định. Song, vẫn còn tồn tại
nhiều hạn chế như sau:
1.2.1. Về mối quan hệ của cán bộ, công chức và người dân
Mối quan hệ giữa các cán bộ, công chức, viên chức và người dân vẫn đâu
đó còn tình trạng tiêu cực, cụ thể theo quan sát cá nhân khi đến Ủy ban nhân
dân xã X, chúng tôi thấy một cán bộ, công chức có thái độ lớn tiếng khi giải
thích cho người dân về quy trình làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Chúng ta có thể thông cảm vì do thời gian đã trưa cùng với áp lực công việc đè
nặng, nhưng việc cán bộ, công chức có thái độ gắt gao với người dân là đã sai.
1.2.2. Về các văn bản pháp lý
Đối với các văn bản pháp lý, nội dung còn dài dòng, chưa thật sự rõ ràng.
Các vấn đề nêu ra còn chung chung khiến cho người dân đọc cảm thấy không
hiểu rõ được vấn đề.
Câu văn dài có thể gây sự khó hiểu và dễ mất đi tính chính xác. Nhiều
người cho rằng pháp luật nước ta thường hay được diễn đạt dài dòng và khó
hiểu. Điều này là thực tế và có cơ sở. Lý do chính là nhiều văn bản dùng câu
quá dài. Quy định sau đây có thể là một ví dụ minh hoạ:
“Đối với hàng hoá, dịch vụ kinh doanh có điều kiện, các tổ chức hoặc cá
nhân không được phép kinh doanh mà kinh doanh, hoặc được phép kinh doanh
mà trong quá trình kinh doanh không thường xuyên đảm bảo các điều kiện quy
định cho loại hàng hoá, dịch vụ đó, đều coi là hành vi kinh doanh trái phép, tùy
theo mức độ vi phạm sẽ bị xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình
sự theo quy định của pháp luật hiện hành” (Điều 15 Nghị định 36-CP ngày 5
tháng 1 năm 1995 của Chính phủ).
Câu văn này dài và khó, có nhiều chỗ trùng lặp nhau có thể tránh. Trước
hết cần tránh cụm từ kinh doanh, hàng hoá, dịch vụ được lặp lại nhiều lần và sau
đó có thể rút ngắn đoạn văn này như sau:
“Việc kinh doanh những hàng hoá, dịch vụ có điều kiện khi không được
phép hoặc không đảm bảo các yêu cầu quy định đối với hàng hoá dịch vụ đó
đều bị coi là hành vi kinh doanh trái phép và có thể bị xử lý hành chính hoặc
truy cứu trách nhiệm hình sự tuỳ theo mức độ vi phạm”.
1.2.3. Về các phương tiện để truyền thông tin đến với công chúng.
Trong quá trình khảo sát ở mục trên, chúng tôi thu nhận được 2 ý kiến
góp ý và 1 ý cho rằng không hài lòng cụ thể như sau:
+ Về ý kiến góp ý: Anh B.D.T cho biết “Tôi chỉ mong là xã có được hệ
thống loa phát thanh hiện đại hơn để khi thông báo thông tin cả làng đều có thể
nghe, một số bà con khu vực hẻo lánh thì việc tiếp cận thông tin là rất khó
khăn”. một ý kiến khác của anh N.M.H cho rằng: “chúng tôi rất mong muốn là
Chính quyền thông tin đến người dân thông qua các tờ báo, vì khi ranh bà con
chúng tôi có thể mở ra xem để nắm thông tin bất cứ lúc nào”
+ Về ý kiến không hài lòng, anh N.V.T cho biết: “Tôi không thể chấp
nhận được việc thông báo qua loa phát thanh, vì tôi cho rằng không phải ai cũng
thức dậy sớm lúc 6h sáng để nghe. Và việc phát giấy thì không may gặp những
người không đọc chữ được thì phải làm sau. Do vậy tôi mong muốn có 1
phương thức hiệu quả hơn”.
Qua các ý kiến tìm hiểu được, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng, người
dân luôn mong muốn được tìm hiểu thông tin qua các kênh khác nhau và bằng
một phương thức tối ưu nhất. Vì vậy việc làm của chúng ta là nhanh chóng tìm
hiểu, nghiên cứu để tìm ra các giải pháp hợp lý, phục vụ cho lợi ích của người
dân.
Thứ 4, về yếu tố phản hồi thông tin của cán bộ, công chức với người dân.
Đa phần các thông tin đều được phản hồi lại với nội dung chính xác, dễ hiểu
cùng với đó là một thái độ chuẩn mực. Tuy nhiên liên quan đến vấn đề phản hồi
trong tiến trình quan hệ công chúng thì vẫn còn nhiều tiêu cực và ý kiến trái
chiều. Chúng ta sẽ làm rõ các mặt hạn chế này thông qua các cuộc phỏng vấn
mà chúng tôi đã đề cập ở phần trên.
+ Có 2 ý kiến cho rằng, không đồng tình với thái độ của cán bộ, công
chức khi phản hồi thông tin với người dân. Họ tỏ ra rất khó chịu, giọng điệu rất
khó nghe.
+ 2 ý kiến khác cho rằng họ nhận lại thông tin không như mong muốn. ta
có thể hiểu, có thể do khối lượng công việc lớn mà gặp phải những vấn đề khó
do vậy một số hình thành tâm lý, trả lời cho xong. nhưng họ không hề nghĩ đến
hậu quả về sau.
+ 1 ý kiến cho rằng không hài lòng với mức độ phản hồi. Vì thời gian
phản hồi rất lâu, từ trước người này đã gọi điện cho Uỷ ban nhân dân thì không
ai trả lời, khi đến thì xếp thành một hàng rất đông, đã vậy còn có tình trạng quen
biết nên hiên ngang chen hàng, những người quen biết sẽ được vào trước. Do
vậy, anh V.V.T cho rằng đây là 1 hành động thiếu tính công bằng và dân chủ.
2. Tính cấp thiết của chủ đề quan hệ công chúng trong khu vực công
- cơ hội và thách thức trong bối cảnh chuyển đổi số dưới góc nhìn của cơ
quan nhà nước trong buổi hội thảo ngày hôm nay:
“Ngày hôm nay, chúng ta đang ở thời điểm quyết định. Hãy xem những
gì đã xảy ra với Internet vào những năm 1990, (giờ đây) phải nhân điều đó lên
gấp 5 đến 10 lần [...] Trong ngắn hạn, bạn sẽ thấy mọi quốc gia, mọi doanh
nghiệp, mọi công dân, mọi gia đình, mọi phương tiện, mọi thứ có thể mang trên
người đều sẽ được kết nối. Thông điệp này sẽ cho phép bạn thay đổi mọi thứ.”
John Chambers, Chủ tịch Cisco Systems, đã phát biểu tại Hội nghị Diễn đàn
Kinh tế thế giới tại Davos, 2015. Thứ mà có thể “kết nối” mọi thứ và từ đó
“thay đổi mọi thứ” là Internet vạn vật, kết nối mọi thứ, mọi người vào trong
cùng một mạng lưới. Internet vạn vật trong bối cảnh chuyển đổi số sẽ mở ra một
trật tự mới trong mối quan hệ của con người, quy tắc trật tự từ dọc sang ngang,
ảnh hưởng đến các cơ quan Nhà nước, Chính phủ vận hành, quản lý xã hội,
cũng như cách mà người Cán bộ, công chức, “người đầy tớ của Nhân dân”,
phản ứng với những thay đổi trong bối cảnh chuyển đổi số.
Nhận thức được chuyển đổi số là xu thế tất yếu của thế giới hiện nay,
ngày 3-6-2020, Chính phủ đã ban hành quyết định số 749/QĐ-TTg, xác định rõ
chuyển đổi số là quá trình tất yếu của Việt Nam, xác định tầm nhìn Việt Nam trở
thành quốc gia thịnh vượng và ổn định, đổi mới trong căn bản, toàn diện hoạt
động quản lý, điều hành của Chính phủ, cơ quan nhà nước [...] Tuy nhiên, trong
bối cảnh chuyển đổi số, cũng như thay đổi hoạt động quản lý Nhà nước, thì
song song với những cơ hội còn có những thách thức to lớn, đặc biệt là người
cán bộ, công chức, với tư cách là một ngành nghề đặc thù, đó là phụng sự nhân
dân.
Đặt trong bối cảnh chuyển đổi số, người cán bộ, công chức phải làm thế
nào để điều hướng dư luận trước những khủng hoảng truyền thông từ công tác
quan hệ công chúng? Làm sao để có “Tiếng nói” trước nhân dân, để đẩy lùi
những tiêu cực, những luận điệu, xuyên tạc trên đa dạng phương tiện truyền
thông? Những phẩm chất nào, những kỹ năng nào người cán bộ, công chức cần
có trong bối cảnh chuyển đổi số?… Đứng trước thực tế đó, tham gia viết bài
tham luận cho hội thảo nhằm nêu ra thực trạng, những thách thức, cơ hội và thời
cơ của hoạt động Quan hệ công chúng trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay.
3. Thời cơ và thách thức quan hệ công chúng trong khu vực công
trong bối cảnh chuyển đổi số dưới góc nhìn của cơ quan nhà nước trong
buổi hội thảo ngày hôm nay
Từ những thành tựu và hạn chế của quan hệ công chúng đã và đang còn
tồn tại trong khu vực công như chúng tôi đã nêu trên, ta có thể nhận thấy được
những thời cơ và thách thức của hoạt động quan hệ công chúng trong khu vực
công dưới tác động của chuyển đổi số hiện nay qua góc nhìn của cơ quan nhà
nước. Chúng ta cùng đi làm rõ, phân tích những thời cơ và thách thức.
Bối cảnh chuyển đổi số ở nước ta đang diễn ra mạnh mẽ với tốc độ ngày
càng nhanh. Hầu như tất cả các lĩnh vực của đời sống đang dần được “số hóa”.
Hòa nhịp cùng bối cảnh chung của đất nước, tiến trình quan hệ công chúng
trong khu vực công dưới tác động của bối cảnh chuyển đổi số sẽ đặt ra nhiều cơ
hội và thách thức cho CBCC trong lĩnh vực công như sau:

3.1. Thời cơ của quan hệ công chúng trong khu vực công trong bối
cảnh chuyển đổi số dưới góc nhìn của cơ quan nhà nước.
Về thời cơ của quan hệ công chúng trong khu vực công dưới tác động của
chuyển đổi số hiện nay thì đã và đang có triển vọng rất nhiều trong hiện tại và
tương lai dưới góc nhìn của cơ quan nhà nước.
3.1.1. Các công việc truyền đạt thông tin sẽ diễn ra dễ dàng, thuận lợi hơn
và nhanh chóng hơn.
Nếu như lúc trước có một văn bản muốn truyền tải đến nhân dân thì
chúng ta phải báo về các các địa phương, thông qua các loa phát thanh để thông
tin đến người dân. Nhưng ngày nay, dưới những thành tựu của chuyển đổi số,
chúng ta chỉ cần tốn khoảng vài phút để thông tin đến người dân. Để làm rõ vấn
đề này, chúng tôi được trao đổi với ông L.V.B hiện đang công tác tại UBND xã
LH, ông cho biết “Ngày nay chuyển đổi số phát triển mạnh mẽ, khi có thông tin
chúng tôi chỉ cần chuyển cho các các bộ phận có liên quan, vài phút sau là đã có
người dân nắm được thông tin. Như lịch tiêm vaccine vừa rồi, chỉ cần ra thông
báo vài phút sau là có người biết ngay”.
3.1.2. Dưới tác động của chuyển đổi số, vấn đề giải đáp thắc mắc, trả lời
thông tin cũng trở nên dễ dàng dàng hơn.
Email là một hình thức cũng như một phương tiện khá phổ biến để chúng
ta thực hiện công việc này. Chúng ta chỉ làm việc trực tiếp đối với những đối
tượng không có email cá nhân, còn với những đối tượng có, chúng ta chỉ cần
soạn mail và gửi đến. Giải đáp thắc mắc qua email vừa nhanh chóng lại hiệu
quả. Một ưu điểm của hình thức này là giải quyết nhanh chóng, tính hiệu quả
cao, tránh làm việc trực tiếp nên cũng hạn chế được phần nào sự thể hiện cảm
xúc cá nhân trong quá trình làm việc (hạn chế lớn nhất trong tiến trình quan hệ
công chúng hiện nay). Tuy nhiên vấn đề yêu cầu đặt ra là người cán bộ, công
chức phải nắm vững các hình thức khi giao biêt qua email, đảm bảo tôn trọng,
lịch sự, các thông tin được trình bày dễ hiểu, rõ ràng,....
3.1.3. Dưới tác động bối cảnh chuyển đổi số, người cán bộ, công chức có
thể dễ dàng học hỏi thêm kiến thức và kỹ năng về quan hệ công chúng trên các
thiết bị hiện đại.
Với vô vàn những tài liệu, trang web,... hay trên các kênh thông tin điện
tử. Các lớp bồi dưỡng kỹ năng có thể diễn ra trực tuyến, vì thế việc học tập trở
nên dễ dàng và tiết kiệm được thời gian hơn. Hiện tại và tương lai, chúng ta sẽ
có một đội ngũ cán bộ, công chức về mảng quan hệ công chúng chuyên nghiệp,
sử dụng thành thạo các thiết bị thông minh, toàn bộ hoạt động của người dân
trong trao đổi, giao dịch với chính quyền đều thực hiện trên môi trường số. Đặc
biệt, những yêu cầu của người dân sẽ được phục vụ tốt hơn, nhanh gọn hơn
nhiều so với hiện nay. Chính quyền cũng sẽ hoạt động hiệu quả hơn, quản trị tốt
hơn.
Chúng ta có thể thấy lãnh đạo VNPT (Tập đoàn Bưu chính Viễn Thông)
nhấn mạnh: “Quyết định trên đã tạo ra hành lang pháp lý và mục tiêu cụ thể để
các bộ, ngành, địa phương phát huy tất cả những ứng dụng của mình, chia sẻ dữ
liệu, qua đó phục vụ tốt nhất cho người dân. Đề án nhằm mục tiêu đưa tất cả
những giao dịch của người dân lên môi trường số. Từ cơ sở dữ liệu quốc gia về
dân cư đến bảo hiểm và thuế, sắp tới là y tế, giáo dục, tất cả nền tảng sẽ được
đồng nhất với một định danh duy nhất của người dân trên môi trường số. Các
quy trình của cơ quan nhà nước, bộ ngành, địa phương cũng thông suốt dữ liệu.
Đây là một bước tiến rất lớn của Chính phủ trong thời gian qua về lĩnh vực
chuyển đổi số”.
3.2. Thách thức của quan hệ công chúng trong khu vực công trong bối
cảnh chuyển đổi số dưới góc nhìn của cơ quan nhà nước.
Mặc dù có nhiều cơ hội và thời cơ trong hoạt động PR của khu vực công
dưới tác động bối cảnh chuyển đổi số như đã nêu trên. Nhưng bên cạnh đó,
thách thức của vấn đề này hiện nay dưới góc nhìn của cơ quan nhà nước vẫn
còn tồn tại rất nhiều, cần phải chú ý kiểm soát và khắc phục.
3.2.1. Các cán bộ, công chức chưa được rà soát, kiểm tra đầu vào một
cách chặt chẽ nên còn yếu kém trong năng lực và thiếu kỹ năng, kiến thức về
quan hệ công chúng trong khu vực công.
Quan hệ công chúng trong khu vực công là một kiến thức cần thiết đối
với các cán bộ, công chức nhà nước. Một số cán bộ, công chức chưa thực sự
nghiêm túc, chưa thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện kỹ năng quan hệ công
chúng của mình theo chuẩn mực chung của ngành mà đặc biệt kỹ năng xử lý
khủng hoảng truyền thông, phục vụ người dân, giao tiếp với nhiều cơ quan tổ
chức, tầng lớp trong xã hội là hoạt động hằng ngày của một người cán bộ, công
chức; còn ngại rèn luyện, tu dưỡng, phấn đấu, còn hiện tượng cán bộ, công chức
chưa hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Thi tuyển cán bộ, công chức là hình thức tuyển chọn có thể bảo đảm tính
công bằng, công khai cho các đối tượng tham gia công vụ. Tuy nhiên, nội dung
và phương pháp tổ chức thi vẫn là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi.
Việc thi tuyển cán bộ, công chức đã được nhiều địa phương tổ chức thực hiện
nhưng còn thiếu chặt chẽ, chưa được tiến hành một cách nghiêm túc. Cụ thể như
sau:
Tiền Giang có nhiều sai phạm trong tuyển dụng công chức: 87 hồ sơ công
chức được tiếp nhận không qua thi tuyển, phát hiện UBND tỉnh Tiền Giang
tuyển dụng đặc biệt đối với 13 sinh viên có trình độ sau đại học ở trong nước;
đại học, sau đại học ở nước ngoài theo chính sách thu hút của tỉnh mà không có
văn bản gửi xin ý kiến của Bộ Nội vụ trước khi ban hành quyết định tuyển
dụng; không thành lập hội đồng kiểm tra sát hạch. 74 trường hợp được tiếp nhận
thành công chức không qua thi tuyển có 6 trường hợp chưa đủ 5 năm có trình độ
đại học; 8 trường hợp không thành lập hội đồng kiểm tra sát hạch; 8 trường hợp
có thành lập hội đồng kiểm tra sát hạch nhưng không có tài liệu thể hiện việc đã
sát hạch trình độ, năng lực.
Chúng ta có thể thấy rằng, ngoài những sai phạm trong tuyển dụng đó,
còn có những thiếu sót trong năng lực - đây chính là hậu quả của việc tiếp nhận
công chức không qua thi tuyển, việc kiểm tra sát hạch còn mơ hồ, không đúng
quy trình. Những việc làm này đã gây ra tồn tại các trường hợp thiếu chứng chỉ
tin học, ngoại ngữ, trình độ lý luận chính trị…
Trên thực tế chất lượng, trình độ tiếng Anh của đa số cán bộ, công chức,
viên chức còn hạn chế. Nhiều cán bộ, công chức chưa giao tiếp được bằng tiếng
Anh cơ bản. Những kiến thức tin học được đào tạo cũng là khá ít ỏi, trang bị
kiến thức cơ bản về công nghệ thông tin và chiếm phần nhỏ về tin học văn
phòng, dần dần bị mai một do không được sử dụng thường xuyên, phần vì ứng
dụng công nghệ thông tin trong hoạt động nghiệp vụ đòi hỏi người sử dụng phải
được trang bị những kỹ năng và mức độ cao hơn so với trình độ đào tạo được
cấp chứng chỉ. Và nếu như thiếu những trình độ cơ bản mà một người cán bộ,
công chức nhà nước bắt buộc phải có, với trọng trách là cống hiến, phụng sự đất
nước, phục vụ nhân dân thì chắc chắn là một sự thiếu sót lớn ảnh hưởng đến
hoạt động quan hệ công chúng của khu vực công trong bối cảnh chuyển đổi số
đặc biệt là trình độ về ngoại ngữ và tin học.
3.2.2. Phẩm chất của các cán bộ, công chức của một cơ quan nhà nước
có thể gây tác động lớn đến hoạt động quan hệ công chúng trong bối cảnh
chuyển đổi số hiện nay.
Trong quá trình xây dựng, thực hiện chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, đạo
đức công vụ của cán bộ, công chức, một số cấp ủy cơ sở còn lúng túng trong chỉ
đạo, hướng dẫn các cơ quan, đơn vị xây dựng chuẩn mực đạo đức. Việc này gây
ảnh hưởng nặng nề tới quá trình quan hệ công chúng trong việc tương tác giao
tiếp, truyền tải thông tin và trao đổi với người dân. Cán bộ, công chức viên chức
hiện nay có những sai phạm về pháp luật. Những lỗi lầm này nếu như xảy ra và
được người dân đăng tải và truyền thông biết đến rộng rãi, thì một tổ chức, đơn
vị hoặc cả một địa phương bị tác động bởi khủng hoảng truyền thông nặng nề.
Ví dụ cụ thể như, năm 2017, trên địa bàn huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn.
Tình trạng cán bộ, công chức xén bớt thời gian làm việc, đùn đẩy trách nhiệm,
giải quyết công việc sai quy định, hướng dẫn, giải thích công việc cho người
dân lòng vòng, khó hiểu, thái độ làm việc hời hợt, thiếu nhiệt tình và thân thiện
trong việc tiếp công dân; vẫn còn tình trạng một số cán bộ, công chức có biểu
hiện nhũng nhiễu trong giải quyết thủ tục hành chính như yêu cầu bổ sung thêm
một số thành phần hồ sơ không có trong thủ tục hành chính, có hiện tượng vòi
vĩnh, ngâm hồ sơ nhằm mục đích vụ lợi hoặc giải quyết thủ tục hành chính quá
hạn quy định…
Một số cán bộ, công chức chưa nhận thức đúng các giá trị chuẩn mực đạo
đức nghề nghiệp, đạo đức công vụ, nhất là những lĩnh vực nhạy cảm, thường
xuyên tiếp xúc với nhân dân.
3.2.3. Người dân thiếu tin tưởng và có định kiến về cách làm việc của các
cán bộ, công chức, viên chức.
Hoạt động của những nhà quản lý công có phạm vi ảnh hưởng rộng rãi
hơn, tác động đến nhiều đối tượng trong xã hội. Điều này cũng dẫn đến sự giám
sát lớn hơn của dân chúng đối với các công chức, viên chức làm việc trong khu
vực công. Công chúng luôn giám sát chặt chẽ đối với các viên chức công và mọi
hành động của họ. Vì vậy, nếu như hoạt động quan hệ công chúng của khu vực
công nhất là trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay không được hoạt động một
cách đúng quy trình, khéo léo, cẩn thận và đúng đắn, trung thực; càng về lâu
dài, lòng tin của người dân đối với cơ quan nhà nước sẽ thật sự rất mong manh.
Khi đặt trên cương vị của một người dân, chứng kiến cảnh các cán bộ,
công chức vi phạm pháp luật, đạo đức nghề nghiệp xuống cấp, thờ ơ trong công
việc và không có trách nhiệm truyền đạt thông tin và phục vụ nhân dân bằng bất
kỳ hình thức phương tiện truyền thông nào (giao tiếp, báo đài, kênh thông tin,
mạng xã hội,..). Chắc chắn rằng, cách thức của các cán bộ, công chức trong hoạt
động PR sẽ gặp phải nhiều cản trở, khó khăn và thậm chí là sự chống đối của
người dân trong tương lai nếu như cán bộ, công chức không đúng đắn và không
có chuẩn mực đạo đức.
3.2.4. Những thách thức về tính bảo mật thông tin trong tiến trình quan
hệ công chúng của cơ quan nhà nước cũng là một điều đáng lo ngại.

Hiện nay, đất nước ta đang đứng trước những nguy cơ, thách thức lớn từ
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 với sự phát triển, ứng dụng mạnh mẽ
của trí tuệ nhân tạo, rô-bốt, công nghệ sinh học, sẽ hình thành nên nhiều lĩnh
vực mới như: “Internet công nghiệp”, “Nhà máy thông minh”, “Thành phố
thông minh”, “Xã hội siêu thông minh”, “Chính phủ điện tử”… hoạt động trên
môi trường không gian mạng, tạo sự đột phá về phát triển kinh tế, chính trị - xã
hội. Với xu thế phát triển của nền kinh tế chia sẻ, chuyển đổi số,… công nghiệp
công nghệ thông tin sẽ trở thành ngành kinh tế chủ đạo, quyết định sự phát triển
nhanh, bền vững của quốc gia.
Đặc biệt, các cuộc tấn công mạng, vi phạm an ninh trên không gian mạng
ngày càng tăng, chi phí cho các hoạt động bảo đảm an ninh mạng ngày càng tốn
kém. Vì vậy, các đối tượng là Hacker có thể xâm nhập vào hệ thống và làm mất,
đánh tráo, làm sai đi tính chính xác của thông tin bất cứ lúc nào.
4. Giải pháp cho hoạt động quan hệ công chúng trong khu vực công
dưới tác động của chuyển đổi số hiện nay dưới góc nhìn của cơ quan nhà
nước.
Sau khi phân tích những thời cơ và thách thức của quan hệ công chúng
trong khu vực công dưới tác động chuyển đổi số của cơ quan nhà nước trên,
chúng ta sẽ đề ra những giải pháp để thực hiện tốt hoạt động quan hệ công
chúng trong khu vực công dành cho cơ quan nhà nước hiện nay như sau:
4.1. Về quan hệ với báo chí và các phương tiện truyền thông đại chúng:
Trong PR của cơ quan nhà nước dưới tác động chuyển đổi số hiện nay,
quản lý báo chí và quản lý thông tin có vai trò quan trọng và mang tính chủ
chốt.
Các cơ quan nhà nước, tổ chức làm việc tại khu vực công phải liên kết
chặt chẽ và thường xuyên với báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng.
Những quyết định của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức,... phải được
báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng biết.
4.2. Chuẩn mực đạo đức của cán bộ
Một số cấp ủy, chính quyền cơ sở cần phải được nhận thức đầy đủ về vai
trò, tầm quan trọng của việc xây dựng và tổ chức thực hiện chuẩn mực đạo đức
của cán bộ, công chức; cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện chuẩn mực đạo
đức phải được tiến hành thường xuyên, liên tục. Khi người cán bộ có một chuẩn
mực đạo đức, giao tiếp ứng xử khéo léo và chuyên nghiệp thì mối quan hệ giữa
người dân và cán bộ công chức viên chức trở nên gần gũi và gắn kết hơn, tạo
được lòng tin đối với người dân về cơ quan nhà nước thì hoạt động PR trong
khu vực công mới diễn ra thuận lợi và thành công trong bối cảnh chuyển đổi số
đang phát triển mạnh hiện nay.
4.3. Thông tin cho người dân, nâng cao hình ảnh uy tín của cơ quan
nhà nước dưới tác động của bối cảnh chuyển đổi số.

Thông tin là yếu tố sống còn đối với những người làm công tác PR. Sức
mạnh của thông tin được ví như sức mạnh của những cơn sóng thần, có thể cuốn
hút sự tham gia của hàng triệu con người, trở thành một thứ vũ khí hiện đại
trong việc tổ chức và định hướng cho các hoạt động sống của con người.
Về mặt nguyên tắc, cơ quan nhà nước dân chủ là công cụ của dân, do
người dân lập nên và để phục vụ ý chí của người dân. Chính quyền có bổn phận
và trách nhiệm cung cấp thông tin cho người dân. Hoạt động PR trong chính
phủ dựa trên hai cơ sở nền tảng:
+ Chính phủ dân chủ phải thông tin cho người dân biết hoạt động của
mình.
+ Hoạt động quản lý chính phủ hiệu quả đòi hỏi phải có sự chủ động
tham gia và ủng hộ của người dân.
PR trở thành một yếu tố có vai trò quan trọng trong việc thông tin đến
người dân, nhằm thiết lập và củng cố mối quan hệ lâu dài giữa cơ quan nhà
nước và công chúng nhằm tăng cường sự hiểu biết và đồng thuận trong quá
trình hoạch định và thực thi chính sách công của chính phủ để đạt được sự hài
lòng của người dân. Bên cạnh đó, PR còn sử dụng để tác động vào dư luận, từ
đó dẫn tới những thay đổi về chính sách. Điều đó đã trở thành khuynh hướng
ngày càng phổ biến trong quá trình phát triển và dân chủ hóa đời sống chính trị,
kinh tế, xã hội.
4.4. Nâng cao năng lực về ngoại ngữ, tin học cho cán bộ, công chức
hiện nay.
Hiện nay, việc tuyển chọn, đề cử các cán bộ, công chức, viên chức vào
làm việc tại các cơ quan nhà nước cần phải sát sao hơn trong việc kiểm tra trình
độ ngoại ngữ và tin học. Những cán bộ, công chức và viên chức đã và đang làm
việc tại cơ quan nhà nước cũng cần phải nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học -
hai lĩnh vực cần thiết với cuộc sống hiện đại ngày nay nhằm theo kịp thời đại,
xu hướng hội nhập quốc tế và cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư và mang
lại thành tựu to lớn đối với hoạt động quan hệ công chúng trong khu vực công
của cơ quan nhà nước.
4.4.1. Chúng ta cần phải làm theo Quyết định số 1659/QĐ-TTg Phê duyệt
Đề án “Chương trình quốc gia về học tập ngoại ngữ cho cán bộ, công chức,
viên chức giai đoạn 2019 - 2030” do Thủ tướng Chính phủ đã ban hành.
Người đứng đầu các cơ quan nhà nước phải chịu trách nhiệm về nâng cao
năng lực ngoại ngữ cho đội ngũ công chức trong cơ quan mình, ban hành chiến
lược nâng cao năng lực ngoại ngữ trong thực thi công vụ và làm việc trong môi
trường quốc tế, đưa tiêu chí nâng cao năng lực ngoại ngữ phục vụ thực thi công
việc và làm việc trong môi trường quốc tế là một trong những tiêu chí đánh giá
hoàn thành nhiệm vụ.
Rà soát thực trạng năng lực, trình độ và tổng hợp nhu cầu đào tạo, bồi
dưỡng ngoại ngữ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của từng bộ, ngành,
địa phương để làm căn cứ xây dựng kế hoạch và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng
ngoại ngữ đáp ứng nhu cầu và yêu cầu theo từng nhóm đối tượng, từng lĩnh vực
công tác, từng vị trí việc làm.
Xây dựng và hoàn thiện các chương trình đào tạo, bồi dưỡng ngoại ngữ
phù hợp; đẩy mạnh việc tổ chức thực hiện các chương trình đào tạo, bồi dưỡng
ngoại ngữ để nâng cao năng lực ngoại ngữ cho cán bộ, công chức, viên chức.
4.4.2. Nâng cao trình độ tin học cho cán bộ, công chức và viên chức.
Để đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ của quan hệ công chúng trong khu
vực công, mỗi công chức cần phải đạt trình độ tin học chủ yếu: Kiến thức về hệ
điều hành; kiến thức các phần mềm nói chung và phần nghiệp vụ chuyên ngành;
về cấu tạo thiết bị tin học, sử dụng thiết bị tin học; tin học văn phòng; về bảo
mật và an toàn thông tin hệ thống. Mức độ khối kiến thức đó cũng cần phải
được đào tạo từ mức cơ bản cho đến mức chuyên sâu tùy theo vị trí công tác và
cũng cần được bồi dưỡng và cập nhật, nâng cao một cách thường xuyên.
Đối với công chức tin học chuyên trách: Ngoài trình độ chuyên môn như
hiện nay cần đào tạo kỹ năng quản lý hành chính trong lĩnh vực tin học của hệ
thống, thường xuyên cập nhật kiến thức quản trị mạng, quản trị ứng dụng…
Nói cách khác, mỗi công chức tin học chuyên trách phải đảm bảo nắm
chắc các nhiệm vụ và thực hiện tốt chức năng của phòng Tin học, có phong
cách, phương thức làm việc chuyên nghiệp; có khả năng quản lý, quản trị hệ
thống mạng, hạ tầng truyền thông cũng như các phần mềm ứng dụng một cách
hiệu quả. Trong đó cần chú ý:
Đối với mảng chuyên môn kỹ thuật: Cần đi sâu về quản lý bảo dưỡng,
bảo trì hệ thống trang thiết bị tin học; công chức phòng Tin học phải tự đảm
nhận được công tác sửa chữa trang thiết bị tin học, không phải đem thuê ngoài
vừa tốn kém chi phí vừa không đảm bảo về an toàn bảo mật. Đây cũng là mảng
công việc mà chưa được quan tâm đào tạo cho công chức tin học.
4.5. Xây dựng khung lý thuyết giải quyết khủng hoảng truyền thông
cho các cán bộ công chức có thể áp dụng trong tổ chức công:

Quản trị tốt truyền thông, đặc biệt trong bối cảnh có khủng hoảng không
chỉ là nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước mà còn là nhiệm vụ tự thân
của chính các cơ quan, tổ chức, của chính từng cán bộ, công chức. Ngày nay,
với xu thế phát triển chung, chúng ta không thể coi nhẹ, không thể không chăm
lo, xử lý tốt mối quan hệ với công chúng xã hội/khách hàng và nhân dân nói
chung. Mối quan hệ hết sức quan trọng và ý nghĩa này đang được nâng tầm
thông qua báo chí - truyền thông.
4.5.1. Các cán bộ, công chức, viên chức cần đảm bảo giải quyết khủng
hoảng truyền thông theo một quy trình thích hợp.
Một là, phải phủ định thông tin tiêu cực bằng sự thật, dùng sự thật để nói
và thừa nhận sai lầm. Đây là bước đầu tiên cũng là bước rất quan trọng trong
quy trình xử lý khủng hoảng truyền thông. Cần hạn chế sự xuất hiện của những
thông tin sai lệch hay mang tính chất tiêu cực làm nghiêm trọng vấn đề đang
diễn ra, bằng nhiều cách khác nhau. Khủng hoảng truyền thông được xử lý hiệu
quả nhất là trong vòng 12 giờ, kể từ khi những tín hiệu đầu tiên xuất hiện và kéo
dài đến 24 giờ. Bên cạnh đó, việc tổ chức thừa nhận sai lầm của mình sẽ giúp
xoa dịu dư luận và trước mắt giảm thiểu đến mức tối đa sự công kích, phản đối
từ phía công chúng. Mỗi thành viên trong tổ chức công (là những cán bộ công
chức viên chức) cần nhận rõ sai lầm của tổ chức mình là ở đâu để có hướng giải
quyết và khắc phục.
Hai là, tạo ra nhiều thông tin tích cực để làm mờ thông tin tiêu cực. Tổ
chức công cần tận dụng triệt để lợi thế của mình - có tầm ảnh hưởng tới số đông
trong xã hội - để thực hiện những hành động và việc làm mang tính tích cực cao
vì lợi ích chung của cộng đồng, từ đó tạo ra sự lan truyền thông tin tích cực -
xuất phát chính từ nhận xét và đánh giá khách quan của công chúng. Những
thông tin theo hướng này giúp xoá nhoà thông tin tiêu cực của tổ chức đã được
lan truyền trước đó.
Ba là, giảm thông tin tiêu cực bằng sửa chữa sai lầm. Đến bước thứ 3 của
quy trình là khi mọi việc dần đi vào ổn định. Cách tốt nhất để giảm thông tin
tiêu cực vẫn là sửa chữa sai lầm đã được chính tổ chức thừa nhận trước đó. Tùy
thuộc vào tính chất và mức độ của sai lầm mà tổ chức sẽ đưa ra cách giải quyết
hợp lý nhất có thể.
Bốn là, chủ động minh bạch thông tin không né tránh. Né tránh vấn đề,
né tránh sai lầm, né tránh đối mặt với công chúng là những sai lầm trong việc
giải quyết khủng hoảng truyền thông. Có thể nói, tổ chức càng né tránh thì sẽ
càng khoét sâu vấn đề và tạo sai lầm chồng chất sai lầm. Mọi thông tin đều phải
được tổ chức truyền tải đến công chúng một cách công khai và minh bạch, kịp
thời và chính xác.
Năm là, tuân thủ pháp luật trong quá trình xử lý khủng hoảng. Sử dụng tư
vấn pháp lý, mời luật sư. Trong một nhà nước pháp quyền như Việt Nam, bất kể
tổ chức nào đều phải tuân thủ theo pháp luật trong mọi tình huống, có cả việc
giải quyết khủng hoảng truyền thông. Hơn thế nữa, tổ chức công càng cần phải
nhận ra vai trò to lớn của pháp luật hơn bất cứ tổ chức nào khác. Đảm bảo tuân
thủ pháp luật sẽ tạo được tính công khai, công bằng, minh bạch và sự tin tưởng
của công chúng (người dân).
4.5.2. Cần hệ thống giải pháp đồng bộ từ bên trong thể chế, nhất là vấn
đề pháp trị cho đến các “vành đai” kiểm soát xã hội, thông qua giám sát xã hội
và phản biện xã hội của nhân dân.
Một là, cần nhận định đúng và rõ tính chất, nguyên nhân xảy ra sự kiện,
vấn đề mấu chốt đang gây “nóng” dư luận; phân tích khu vực và hướng tác
động, ảnh hưởng của sự kiện gây khủng hoảng để có phương án khoanh vùng,
hạn chế, đi đến dập tắt khủng hoảng.
Hai là, người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước sau khi nhận định,
đánh giá một cách nghiêm túc, nắm bắt thông tin một cách toàn diện, cần tổ
chức họp báo, cung cấp thông tin chính thức cho báo chí truyền thông để ngăn
ngừa các luồng ý kiến lệch lạc, xuyên tạc, bất lợi cho tâm lý và tâm trạng xã
hội. Trong phát ngôn cung cấp thông tin cho báo chí - truyền thông, cần tuân thủ
nguyên tắc nói nhanh, nói hết và nói đúng.
Ba là, quản trị nội bộ tốt, tức là các cơ quan phải nhanh chóng nhận ra sai
sót (nếu có), không né tránh sự thật, không tìm cách bao che cho nhau, cần
nghiêm khắc kiểm điểm, nhận sai sót trước tổ chức; từ đó cầu thị và chân thành
sửa chữa.
Bốn là, trong bối cảnh môi trường truyền thông số và mạng xã hội, những
rủi ro và tác động xấu của khủng hoảng càng gia tăng theo cấp số nhân, do vậy
để xử lý được khủng hoảng thì các cơ quan quản lý trước hết phải làm chủ được
công nghệ, biết cách thiết lập quan hệ truyền thông trên mạng xã hội và quản trị
quan hệ trên mạng xã hội; đồng thời khi có khủng hoảng xảy ra chú ý xử lý các
nguồn tin và địa chỉ trên mạng xã hội nhanh và hiệu quả.
Năm là, người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cần quan tâm thiết
lập, phát triển mối quan hệ với cộng đồng, với nhân dân thông qua báo chí -
truyền thông xã hội, coi đây là việc quan trọng trong quan hệ với quần chúng
nhân dân; bảo đảm quyền được biết, được thông tin và quyền tiếp cận thông tin
của nhân dân theo luật định.
Sáu là, giải pháp quan trọng nhất là thường xuyên chăm lo sinh hoạt nội
bộ cơ quan/tổ chức để giáo dục cán bộ, công chức, viên chức trong từng cơ
quan; tăng cường kỷ luật và phát huy dân chủ nội bộ để bảo đảm đạo đức công
vụ được quán triệt, nhắc nhở, thực hiện thường xuyên.
III. Kết luận
Quan hệ công chúng trở thành một hoạt động chiếm giữ vai trò quan
trọng và không thể thiếu đối với mọi tổ chức hiện nay, bao gồm những tổ chức ở
cả khu vực công và khu vực tư. Dưới tác động của chuyển đổi số, nhiều cơ hội
cũng như thách thức đã đặt ra cho các tổ chức công trong công tác “có được sự
quan tâm, thấu hiểu và ủng hộ từ công chúng của mình”. Theo như điều tra tình
hình thực tế và từ đó có được những số liệu cùng với thông tin cụ thể về hoạt
động PR của các tổ chức công tại địa bàn các xã thuộc huyện Giồng Trôm tại
tỉnh Bến Tre nói riêng, nhóm chúng tôi - đứng dưới góc nhìn của cơ quan nhà
nước - đã phân tích và khái quát được những cơ hội, thách thức của quan hệ
công chúng trong khu vực công nói chung.
Với bài tham luận về chủ đề “Thực trạng quan hệ công chúng trong khu
vực công hiện nay, cơ hội và thách thức trong bối cảnh chuyển đổi số tại tỉnh
Bến Tre” này, nhóm tác giả mong muốn mang lại cho độc giả, đặc biệt là đội
ngũ cán bộ công chức một cái nhìn khách quan nhất (không chỉ dựa trên những
lý thuyết suông mà được đúc kết từ quá trình điều tra thực tế và tổng kết thực
tiễn) về cơ hội và thách thức của quan hệ công chúng trong khu vực công đặt
trong bối cảnh chuyển đổi số. Mục đích cao nhất là để góp phần giúp họ rèn
luyện và trau dồi thêm về phẩm chất, kỹ năng và tư duy trong quá trình thực
hiện công tác PR - mối quan hệ 2 chiều - đối với công chúng của mình.

You might also like