Professional Documents
Culture Documents
(*) Thạc sĩ triết học, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.23.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr. 87-88.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.9.
(4) Nguyễn Phú Trọng - Trần Đình Nghiêm. Nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị đại
biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994,
tr.34.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung
ương khoá VII. Hà Nội, 1994, tr.23-24.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá VIII. Trích theo: Các nghị quyết của Trung ương Đảng 1996
– 1999. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.46.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.91.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.112.
(9) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr. 27.
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr. 25.
(11) Báo Tuổi trẻ cuối tuần, số 43, 2006, ngày 29 – 10 – 2006, tr.34.
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VỀ “BỒI DƯỠNG, ĐÀO TẠO VÀ TÔN VINH
CÁC DOANH NHÂN CÓ TÀI, CÓ ĐỨC VÀ THÀNH ĐẠT”
* Phó giáo sư, tiến sĩ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
(1)
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 84.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.119.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., 133.
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO THỜI KỲ LÝ – TRẦN
DOÃN CHÍNH (*)
PHẠM THỊ LOAN (**)
Để làm rõ quá trình phát triển của Nho giáo với tư cách học thuyết chính trị– đạo
đức trong thời kỳ Lý – Trần, trong bài viết này, các tác giả đã đưa ra và luận giải:
1. Những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá, giáo dục ở thời kỳ Lý –
Trần; 2. Quan niệm của vua, quan thời Lý – Trần về đạo trị nước, yên dân của Nho
giáo; 3. Tư tưởng về “Trời” và “mệnh Trời” của Hán Nho và ảnh hưởng của nó
trong đời sống xã hội Việt Nam thời Lý –Trần; 4. Các Nho sĩ Việt Nam thời Lý –
Trần vận dụng các phạm trù đạo đức Nho giáo trong lĩnh vực chính trị và xây
dựng các chuẩn mực đạo đức; 5. Quá trình hình thành, phát triển và vị trí chủ đạo
của giáo dục Nho học trong nền giáo dục đất nước thời Lý – Trần.
Triều đại Lý – Trần được coi là thời đại hưng thịnh và vẻ vang trong lịch sử Việt
Nam với những thành tựu phát triển về mọi mặt, nhất là văn hoá tinh thần và tư
tưởng. Trong thời kỳ này, Phật giáo chiếm địa vị chủ đạo trong đời sống xã hội, có
ảnh hưởng lớn đến đời sống tâm linh, văn hoá của dân tộc. Tuy nhiên, bên cạnh đó,
Nho giáo với tư cách học thuyết chính trị – đạo đức cũng đã dần khẳng định ưu thế
của mình trong việc tổ chức bộ máy nhà nước, quản lý xã hội và có ảnh hưởng ngày
càng sâu rộng trong xã hội phong kiến tập quyền Việt Nam.
Ở nước ta, từ thế kỷ X đến giữa thế kỷ XIII (từ thời Đinh đến giữa thời Trần), chế
độ sở hữu nhà nước về ruộng đất chiếm ưu thế trong xã hội. Đại bộ phận ruộng đất
là công điền, công thổ của làng xã; bên cạnh đó còn có ruộng quốc khố của triều
đình và ruộng của nhà chùa. Từ giữa thế kỷ XIII trở đi, nền kinh tế dựa trên phương
thức sản xuất phong kiến Á châu đã hình thành do chính sách khuyến khích việc
mua bán, trao đổi ruộng đất, trong đó có các điền trang với phương thức bóc lột
nông nô pha màu sắc của phương thức bóc lột nô lệ. Năm 1254, nhà Trần cho phép
bán công điền để biến thành tư điền, “mỗi diện là năm quan tiền”(1) và cho phép
các nhà đại quý tộc thành lập các điền trang riêng vào năm 1266. Sự xuất hiện của
kinh tế công thương nghiệp và sự gia tăng của trao đổi hàng hoá làm cho tầng lớp
địa chủ càng ngày càng giữ vai trò to lớn trong đời sống xã hội, chi phối nhiều mặt
hoạt động của xã hội về kinh tế và chính trị. Khi đó, tầng lớp quý tộc có xu hướng
rút về củng cố điền trang của mình, phát triển kinh doanh ruộng đất và điều này làm
xuất hiện nguy cơ phân tán về mặt chính trị, dẫn đến khuynh hướng tăng cường bộ
máy quan liêu, đề cao Nho giáo, đưa Nho sĩ vào nắm dần các chức vụ chủ chốt
trong triều đình. Từ giữa thế kỷ XIII, kết cấu giai cấp lãnh đạo trong xã hội đã có sự
thay đổi. Nếu trước đây tầng lớp quản lý nhà nước bao gồm quý tộc, công thần,
quan liêu, cao tăng thì từ đây, kết cấu tầng lớp quản lý nhà nước bao gồm hai bộ
phận rõ rệt: thành phần quý tộc nắm giữ những chức vụ cao nhất trong triều, có nô
lệ, ruộng phong, trang ấp riêng…; và thành phần Nho sĩ quan liêu đông đảo không
phải là quý tộc đóng vai trò thừa hành trong bộ máy quản lý nhà nước. Chính những
chuyển biến về sở hữu ruộng đất trong kinh tế và những biến đổi trong kết cấu giai
cấp xã hội đã tạo điều kiện cho Nho giáo thâm nhập xã hội trong thời kỳ này.
Về mặt chính trị, bất cứ một giai cấp nào khi đã xác lập địa vị thống trị của mình
trong xã hội đều cần có một hệ tư tưởng nhằm phản ánh, bảo vệ lợi ích của giai cấp
mình, củng cố cho địa vị xã hội thêm vững chắc. Cùng với Nho giáo, Phật giáo và
Đạo giáo cũng sớm du nhập vào Việt Nam; đặc biệt, đến thời Lý – Trần, Phật giáo
đã có sự phát triển khá thịnh, được nhà nước phong kiến suy tôn, chọn làm quốc
giáo. Nhưng, trong bản chất của nó, Phật giáo và Đạo giáo chủ yếu không phải là
đạo trị nước. Giáo sư Trần Văn Giàu đã viết: “Cho dù bên Ấn Độ, bên Trung Quốc
có những nhà sư làm quân sư đắc lực cho một số nhà vua, đó là sáng kiến của
những nhà sư ấy theo tinh thần Phật giáo, chớ giáo lý Phật giáo không bàn về chính
trị”(2). Dưới thời Lý – Trần, Phật giáo mang tính nhập thế, tích cực, nhưng bản thân
nó, với toàn bộ hệ thống giáo lý của mình, không có sự giải đáp thích đáng nào về
các vấn đề có liên quan đến việc củng cố nhà nước phong kiến, như vấn đề quân
quyền, quy định các điều chương, lễ chế và cơ cấu hành chính từ triều đình cho đến
địa phương, không chú ý đến việc củng cố gia đình, dòng họ, không đề ra những
biện pháp trị nước, yên dân… những vấn đề mà giai cấp phong kiến thống trị hết
sức quan tâm. Còn Nho giáo, du nhập vào Việt Nam từ những năm đầu Công
nguyên, bằng con đường đi theo vó ngựa quân xâm lược của các triều đại phong
kiến Trung Quốc, trước hết được coi là công cụ của giai cấp thống trị nhà Hán trong
âm mưu đồng hoá dân tộc ta. Vì thế, nhân dân ta đã phản ứng lại Nho giáo nhằm
khẳng định nền độc lập và chủ quyền đất nước, bảo tồn nòi giống, tín ngưỡng,
phong tục và di sản văn hoá cổ truyền của dân tộc và do vậy, trong suốt thời kỳ Bắc
thuộc và ngay cả ở các triều đại đầu tiên của nhà nước phong kiến dân tộc độc lập,
Nho giáo vẫn chưa có vai trò gì đáng kể trong đời sống chính trị, tinh thần của xã
hội Việt Nam. Tuy nhiên, khi nền tảng và cơ cấu xã hội Việt Nam thay đổi với sự
thiết lập chế độ phong kiến trung ương tập quyền mà ít nhiều, chịu ảnh hưởng của
thiết chế xã hội phong kiến phương Bắc thì Nho giáo lại tỏ ra thích hợp, trở thành
một yêu cầu, một thứ học thuật tư tưởng mà người trong nước cần phải tiếp thu. Là
một học thuyết chính trị – đạo đức, Nho giáo chủ trương quyền hành phải thống
nhất, tập trung vào thiên tử, bảo vệ sự chính thống mà trên thực tế là bảo vệ các
vương triều với quyền lợi của dòng họ thống trị và các địa vị tôn quý của nó. Đồng
thời, nó còn đưa ra những chuẩn mực đạo đức cho hành vi ứng xử của con người,
những yêu cầu đối với các mối quan hệ vua – tôi, cha – con, chồng – vợ, đối với
việc tu thân,… có tác dụng to lớn trong việc giúp các triều đại củng cố sự thống trị
giai cấp, sự thống nhất đất nước vào chính quyền trung ương, ổn định trật tự xã hội
mà Phật giáo và Đạo giáo không thể sánh kịp. Chính vì vậy, các triều đại trong thời
Lý – Trần tuy vẫn tạo điều kiện cho tam giáo cùng phát triển trên cơ sở tôn vinh
Phật giáo nhưng “muốn trị nước, muốn củng cố chế độ phong kiến, thì, ở vào thế
một nước láng giềng có nhiều mối quan hệ văn hoá và chủng tộc với Trung Quốc,
nhà Lý không thể không cậy vào Nho giáo mỗi lúc một thêm nhiều”(3). Về cơ bản,
nhà Lý và nhà Trần vẫn tôn chuộng đạo Phật. Nhưng, để duy trì quyền lực, tổ chức
quản lý xã hội, các triều đại này đã lựa chọn một công cụ khác là Nho giáo. Khuynh
hướng dung hoà tam giáo mà trước hết, là sự kết hợp giữa Phật và Nho đã được
biểu hiện khá rõ nét trong văn học Phật giáo thời Lý – Trần. Chẳng hạn, trong bài
tựa sách Thiền tông chỉ nam, Trần Thái Tông đã trình bày rõ nhiệm vụ của Phật và
Thánh: “Đạo Phật không chia Nam Bắc đều có thể tu mà tìm, tính người có trí ngu,
cũng nhờ giác ngộ mà thành đạt. Vì vậy phương tiện dẫn dụ đám người mê muội,
con đường tắt sáng tỏ lẽ tử sinh ấy là đại giáo của đức Phật. Đặt mực thước cho hậu
thế, làm khuôn mẫu cho tương lai, ấy là trách nhiệm của Tiên Thánh vậy”(4). Nhìn
chung, Nho giáo với tư tưởng bảo vệ sự liên kết gia đình, dòng họ, bảo vệ sự liên
kết giữa cá nhân và xã hội xung quanh triều đình, giữ gìn sự phân chia đẳng cấp xã
hội theo danh phận; với khả năng dung hợp sự phân chia và liên kết này trên nền
tảng đạo đức, luân lý, chính trị mà cơ sở của nó nằm ở những nguyên tắc về lễ,
pháp hoà lẫn nhau và được thần thánh hoá là thiên mệnh, trung hiếu, tam cương ngũ
thường đã phục vụ đắc lực cho yêu cầu của giai cấp thống trị đương thời. Chính vì
thế, dưới thời Lý – Trần, nhà cầm quyền tuy theo Phật giáo, nhưng Nho giáo cũng
ngày càng được trọng dụng và có điều kiện để mở rộng tầm ảnh hưởng. Càng về
sau, Phật giáo lui dần, còn Nho giáo, với ưu thế trong việc củng cố nhà nước quân
chủ tập quyền và trật tự của xã hội phong kiến đã dần vươn lên, phát triển khá mạnh
mẽ. Sự phát triển đó tuy chậm chạp, nhưng chắc chắn. Bởi vì, cùng với yêu cầu về
tổ chức quản lý xã hội và tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, sự phát triển của
Nho giáo còn gắn liền với nhu cầu phát triển văn hoá, giáo dục.
Khi chế độ phong kiến tập quyền đã bắt đầu ổn định và triển khai theo quy mô lớn
thì yêu cầu về việc xây dựng và phát triển một nền văn hoá và giáo dục độc lập, tự
chủ được đặt ra. Để nắm quyền quản lý đất nước, các triều đại Lý – Trần đã quan
tâm đến việc nâng cao tri thức. Đồng thời, do yêu cầu củng cố và phát triển của nhà
nước phong kiến, nên việc bổ nhiệm quan lại bằng con đường cũ – con đường
“nhiệm tướng” và “thủ sĩ” không đáp ứng được, mà cần phải có một phương thức
đào tạo và tuyển lựa quan lại mới để bổ sung vào đó. Điều này chỉ thực hiện được
bằng việc phát triển một nền giáo dục mới, với chế độ thi cử để tuyển lựa nhân tài.
Thực tế cho thấy, hệ thống giáo lý Phật giáo không thể đáp ứng được yêu cầu này,
mà chỉ có Nho giáo, với hệ thống lý thuyết đầy đủ về giáo dục và khoa cử, mới có
thể đảm đương được nhiệm vụ lịch sử đó. Từ đây, Nho giáo có cơ hội bám rễ sâu
vào đời sống chính trị – xã hội của nước ta. Bởi lẽ, theo con đường phát triển của
giáo dục khoa cử, Nho giáo không những tác động trực tiếp vào sự hình thành đội
ngũ trí thức của dân tộc và sự tuyển lựa nhân tài cho bộ máy nhà nước, mà nó còn
tác động đến thế giới quan, đến những quy phạm chính trị và những chuẩn mực đạo
đức của con người. Hơn thế nữa, nó còn dẫn đến những biến đổi căn bản trong
phong cách tư duy, trong sáng tác văn học, nghệ thuật và ngay cả trong nhu cầu, thị
hiếu của xã hội.
Năm 1070, nhà Lý cho xây dựng Văn Miếu và vào năm 1075 thì mở khoa thi Nho
giáo đầu tiên với tên gọi “Thi minh kinh bác học” và “Nho học tam trường”, chính
thức khai sinh cho lịch sử thi cử Nho giáo lâu dài ở nước ta(5). Năm 1076, nhà Lý
đã cho lập Quốc tử giám ngay giữa kinh thành và “chọn quan viên văn chức, người
nào biết chữ cho vào Quốc tử giám”(6). Từ đây, con em quý tộc họ Lý chính thức
được đào tạo chủ yếu theo Nho giáo. Cũng từ đây, nền đại học nước ta được khai
sinh. Năm 1156, nhà Lý cho lập miếu riêng để thờ Khổng Tử (trước đó, Văn Miếu
thờ chung cả Chu Công và Khổng Tử). Điều đó thể hiện “khuynh hướng muốn
dựng Nho giáo thành một giáo lý độc tôn, đem Khổng Tử từ bậc tử (thầy) như các
Chư Tử lên bậc Thánh Khổng vậy”(7). Với việc tổ chức khoa cử, nhà Lý đã mở đầu
cho lịch sử khoa cử Việt Nam kéo dài hơn 800 năm, qua đây tuyển chọn những
nhân tài cho bộ máy nhà nước, nêu cao vị trí Nho học, thúc đẩy việc truyền bá và
phát triển Nho học. Tuy vậy, ở thời Lý, việc học tập và thi cử chưa được tổ chức
thường xuyên và chưa có quy chế rõ ràng, chưa cho ta ý niệm về đào tạo bộ máy
quan liêu bằng giáo dục và khoa cử theo khuôn khổ Nho học. Đến thời Trần, do yêu
cầu của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, yêu cầu tuyển lựa nhân tài để bổ
dụng cho bộ máy quan liêu, giáo dục Nho học được đẩy mạnh, số người tiến thân
bằng con đường cử nghiệp ngày càng nhiều hơn, giới Nho sĩ đông đảo hơn trước.
Một năm sau khi nắm chính quyền, tức năm 1227, nhà Trần mở khoa thi Tam giáo.
Từ đó, các khoa thi được tổ chức đều đặn và thường xuyên hơn. Năm 1232, nhà
Trần mở khoa thi Thái học sinh (sau đổi thành Tiến sĩ) và từ năm 1246 về sau, tổ
chức quy củ, cứ 7 năm một kỳ. Năm 1304, thi kẻ sĩ trong nước, có tất cả 44 người
đỗ Thái học sinh và lần đầu tiên, triều đình phong kiến đã tôn vinh cả về mặt học
vấn lẫn danh dự cho những thí sinh trúng tuyển bằng việc cho "dẫn bangười đỗ đầu
ra cửa Long Môn của Phượng Thành đi du ngoạn đường phố ba ngày"(8). Về
trường học, ngoài các trường do nhà nước quản lý, như Quốc tử viện, Quốc học
viện, Thái học, Nhất toát trai, Tư thiện đường…, còn có các trường dân lập, như
trường của Trần Ích Tắc, trường của Chu Văn An. Các loại trường này ngày càng
mở rộng và thu hút được nhiều đối tượng từ các nơi đến học. Năm 1236, nhà Trần
đặt chức Thượng thư tri Quốc tử viện, đưa con em văn thần và tụng thần (chức quan
tư pháp) vào học. Đến 1397, việc nhà vua xuống chiếu đặt học quan, tổ chức việc
học tập ở cấp châu huyện để hàng năm tiến cử những người ưu tú cho triều đình đã
phản ánh sự phát triển về quy mô đào tạo của nền giáo dục Nho học thời Trần. Tuy
vào đầu Trần, ảnh hưởng của Phật giáo vẫn chi phối mọi mặt sinh hoạt của xã hội,
trong đó có giáo dục, thi cử, nhưng càng về cuối Trần, Nho giáo càng nâng cao vị
thế của mình thông qua con đường học tập, khoa cử. Có thể thấy điều đó qua việc
nhà Trần cho lập Quốc học viện, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Á Thánh
(Mạnh Tử), vẽ tranh 72 người hiền để thờ, và còn "xuống chiếu vời nho sĩ trong
nước đến Quốc tử viện giảng tứ thư lục kinh”(9) năm 1253, hay việc vua Trần
Thánh Tông "xuống chiếu tìm người tài giỏi, đạo đức, thông hiểu kinh sách làm tư
nghiệp Quốc tử giám, tìm người có thể giảng bàn ý nghĩa của Tứ thư ngũ kinh sung
vào hầu nơi vua đọc sách”(10) vào năm 1272. Đặc biệt, vào năm 1304, nhà Trần
còn quy định nội dung thi Thái học sinh: "Về phép thi: trước thi ám tả thiên Y
quốc và truyện Mục thiên tử để loại bớt. Thứ đến kinh nghi, kinh nghĩa, đề thơ
(tức thể cổ thi ngũ ngôn trường thiên) hỏi về "vương độ khoan mãnh ", theo luật
"tài nan xạ trĩ ", về phú thì dùng thể 8 vần "đế đức hiếu sinh, hiệp vụ dân tâm ". Kỳ
thứ ba thi chế, chiếu, biểu. Kỳ thứ tư thi đối sách”(11). Cuối Trần, khi Hồ Quý Ly
lên nắm quyền bính, đã chú trọng phát triển giáo dục Nho học. Ông đã sửa đổi về
thi cử cho phù hợp yêu cầu thực tế, như đưa môn tính và viết vào thi Hương,
khuyến khích việc dùng chữ Nôm, cho dịch kinh Thư ra chữ Nôm để dễ học tập. Có
thể thấy, đến thời Trần, Nho học đã thực sự phát triển, chi phối giáo dục, khoa cử
phong kiến, tạo nên đội ngũ trí thức Nho sĩ đông đảo, thúc đẩy sự phát triển của học
vấn nước nhà, tạo ra nền văn hóa mang dấu ấn Nho giáo.
Cùng với việc mở rộng giáo dục thi cử, chế độ phong kiến trên con đường đi lên đòi
hỏi phải phát triển các lĩnh vực tri thức để xây dựng một nền văn hóa với bản sắc
riêng của mình, để có thể đứng vững trước mọi mưu đồ của kẻ thù xâm lược từ bên
ngoài và âm mưu đồng hóa của chúng. Kể từ thời Lý trở đi, sự phát triển tri thức
khoa học và sáng tạo nghệ thuật của đất nước ta đã có một bước tiến rõ rệt, biểu
hiện trên các lĩnh vực lý luận chính trị và pháp quyền, sáng tác văn học và quốc sử.
Nho giáo với tư cách một học thuyết chính trị - đạo đức lấy văn để chở đạo, lấy sử
ký để giáo hóa con người và quan tâm đến các lĩnh vực thiên văn, địa lý, nhân sự,…
đã từng bước thâm nhập vào lĩnh vực tư tưởng văn hóa trong đời sống xã hội, tạo ra
những tiền đề cần thiết để tiếp tục phát triển mạnh mẽ dưới thời Trần và các thế kỷ
sau. Dấu ấn rõ rệt cho thấy sự có mặt của Nho giáo trong lĩnh vực tư tưởng, chính
trị - xã hội ngay từ thời Lý là ở bài Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn. Trong bài chiếu
này, Lý Công Uẩn đã dẫn ra những điển tích về vua Bàn Canh, vua Thành Vương
của thời Tam Đại để khẳng định chủ trương dời đô của mình là đúng đắn, nhằm
mưu nghiệp lớn, làm kế lâu dài cho con cháu(12). Các Nho sĩ thời Trần cũng bày tỏ
mong muốn xây dựng một xã hội theo quan niệm của Nho giáo, về những vị vua
như Nghiêu Thuấn, Văn Vương, Thành Thang. Chẳng hạn, trong bài Phú lầu Cần
Chính, Nguyễn Pháp đã khuyên vua chuyên tâm vào việc trị nước theo đường lối trị
nước của Nho giáo (13). Nêu ra các điển tích và khuôn mẫu theo quan niệm của
Nho giáo, các bậc vua quan và nho sĩ dưới thời Lý - Trần đã coi đó như là những
bài học kinh nghiệm, những mực thước trong việc trị nước, yên dân để xây dựng
một xã hội phong kiến thái bình, thịnh trị.
Tư tưởng về 'Trời", "mệnh Trời" được vua quan dưới thời Lý - Trần sử dụng phổ
biến cũng cho thấy ảnh hưởng khá sâu rộng của quan niệm duy tâm thần bí Hán
Nho. Việc Lý Công Uẩn lên ngôi được giải thích là "ứng mệnh trời, thuận lòng
người, nhân thời mở vận”(14). Khi dời đô ra Thăng Long, Lý Công Uẩn cũng viện
dẫn "ý trời, lòng dân" làm cơ sở cho chủ trương của mình. Bài Nam quốc sơn hàbất
hủ của Lý Thường Kiệt trong cuộc kháng chiến chống Tống (l075 – l077) đã khẳng
định nền độc lập và chủ quyền của nước Đại Việt là một sự thật theo đúng ý trời, đã
được định trước trong sách trời: "Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Tiệt nhiên phân định
tại thiên thư”. Bên cạnh đó, những quan niệm coi vua là người thi hành mệnh trời,
giữa trời và người có mối quan hệ tương cảm với nhau lại cho thấy dấu vết tư tưởng
"Thiên nhân cảm ứng", "Thiên nhân tương dữ" của Hán Nho.
Dưới thời Lý - Trần, các phạm trù đạo đức của Nho giáo, như trung, hiếu, nhân,
nghĩa... đã được vận dụng vào lĩnh vực chính trị và ngày càng trở thành chuẩn mực
đạo đức cho hành vi của con người trong xã hội. Vua Lý Thái Tông không tiếc lời
ca ngợi tấm gương trung dũng của bề tôi Lê Phụng Hiểu: "Ta thường xem sử nhà
Đường thấy Uất Trì Kính Đức giúp nạn vua, tự nghĩ là bề tôi đời sau không ai sánh
được. Ngày nay gặp biến, mới biết Phụng Hiểu còn trung dũng hơn Kính Đức
nhiều”(15). Đời Trần, xuất phát từ thực tiễn của công cuộc dựng nước và giữ nước
lúc bấy giờ, trung nghĩa được nhấn mạnh như một yêu cầu quan trọng đối với các
binh, tướng trong cuộc kháng chiến bảo vệ đất nước, bảo vệ an nguy cho triều đình.
Trần Quốc Tuấn - người được đánh giá là "có tài mưu lược anh hùng, lại một lòng
giữ gìn trung nghĩa”(16), trong bài Hịch tướng sĩ, đã lấy những tấm gương trung liệt
trong lịch sử Trung Quốc, như Kỷ Tín, Do Vu, Dự Nhượng... để giáo dục các tì
tướng của mình, kêu gọi lòng trung thành của họ với triều đình, với đất nước (17).
Nhìn chung, nội dung tư tưởng Nho giáo thời kỳ Lý - Trần chủ yếu là xoay quanh
tư tưởng chính trị - xã hội với những vấn đề về mẫu hình lý tưởng của xã hội phong
kiến Việt Nam, về đường lối cai trị, xây dựng bộ máy chính quyền phong kiến, về
đạo đức, tiết tháo của bậc trung thần, nghĩa sĩ… Đó là những vấn đề có quan hệ mật
thiết với sự phát triển của chế độ phong kiến trung ương tập quyền, chuyên chế ở
Việt Nam đương thời, góp phần củng cố sự thống nhất của xã hội, tạo ra một trật tự
xã hội theo lễ và pháp, phục vụ cho yêu cầu xây dựng và bảo vệ đất nước. Mặc dù
vậy, ở thời Trần, Nho giáo chưa phải là nhân tố quyết định sự phát triển và nội dung
của tư tưởng chính trị - xã hội, mà chính thực tiễn phong phú và hào hùng của công
cuộc dựng nước, giữ nước của nhân dân ta mới đóng vai trò quyết định. Những khái
niệm của Nho giáo được vua quan và Nho sĩ thời kỳ Lý - Trần sử dụng cũng chứa
đựng những nội dung thiết thực và gần gũi với công cuộc đấu tranh của dân tộc.
Tuy nhiên, vì Nho giáo là hệ tư tưởng của giai cấp phong kiến, gắn với yêu cầu
củng cố địa vị của giai cấp thống trị, nên cùng với sự phát triển của nó, Nho giáo
trong xã hội phong kiến Việt Nam ngày càng bộc lộ những hạn chế. Chẳng hạn,
bệnh khuôn sáo và từ chương ngày càng phát triển mạnh trong lĩnh vực tư tưởng và
ý thức hệ, trong giáo dục khoa cử… đã làm cho sự sáng tạo trong các lĩnh vực này
dần bị dập khuôn theo những khuôn mẫu sẵn có.
Cuối thế kỷ XIV, Nho giáo phát triển mạnh, chiếm ưu thế trong cung đình và đi sâu
vào sinh hoạt tinh thần của Đại Việt trên nhiều mặt. Giáo dục Nho học giữ vị trí chủ
đạo trong nền giáo dục đất nước. Tầng lớp nho sĩ trở nên đông đảo và tích cực tham
gia các công việc chính trị của đất nước, phấn đấu cho lý tưởng của Nho giáo, phát
triển những quan điểm về các mặt chính trị, xã hội, đạo đức, làm cho sinh hoạt tư
tưởng và văn hóa nước nhà khá náo nhiệt. Bên cạnh đó, vào cuối đời Trần, xã hội
phong kiến Việt Nam bước vào khủng hoảng, sự phát triển quá mức của đạo Phật
đã gây ra những hậu quả xã hội nặng nề, như tầng lớp quý tộc lợi dụng danh nghĩa
tôn giáo ra sức xây chùa, đúc tượng; nhà chùa chiếm hữu nhiều ruộng đất, tiêu phí
nhiều tiền của, tăng ni độ điệp ngày một đông đến mức chiếm quá nửa dân số. Khi
đó đã xuất hiện khuynh hướng công kích Phật giáo từ phía các Nho sĩ và ngày một
trở nên mạnh mẽ, rầm rộ, phản ánh những mâu thuẫn vốn có trong xã hội phong
kiến giữa một bên là tôn thất nhà vua có thế lực, có sản nghiệp, có khuynh hướng
ủng hộ Phật giáo với một bên là ngoại tộc đi lên bằng tài năng trí tuệ. Lê Văn Hưu
đã đứng trên lập trường của nhà Nho để lên án việc tiêu phí tiền của, sức lực của
nhân dân vào việc xây dựng chùa chiền, tháp và cho đó là "khơi vét máu mỡ của
dân(18). Trương Hán Siêu thì tố cáo các nhà sư chiếm đoạt ruộng vườn, nhà cửa,
ham mê cảnh đẹp, coi sự phát triển quá mức của đạo Phật là nguyên nhân đã gây ra
tác hại cho sản xuất; rằng, “những nơi u nhã thanh kỳ trong nước, chùa chiền đã
chiếm mất một nửa. Bọn áo thâm, áo vàng đang tụ tập ở đấy, không cày mà ăn,
không dệt mà mặc, những người thất phu, thất phụ thường bỏ cửa nhà, bỏ làng xóm
lũ lượt quy theo”(19). Không chỉ phê phán những tệ nạn và những hậu quả tiêu cực
do sự phát triển rầm rộ của Phật giáo, một số nhà Nho còn công kích cả giáo lý của
nhà Phật. Trong bài văn bia Chùa Thiện Phúc, Lê Quát đã lên án nhà chùa lấy điều
hoạ phúc để mê hoặc lòng người, làm cho người ta tin theo. Trong bài ký Tháp Linh
tế, Trương Hán Siêu đã mạt sát tín đồ đạo Phật là yêu ma, gian tà, cho giáo lý Phật
giáo chỉ mê hoặc chúng sinh(20). Trong khi công kích, bài xích Phật giáo, các Nho
sĩ nhà Trần cũng đề cao Nho giáo, giành lấy trận địa tư tưởng cho Nho giáo. Tr-
ương Hán Siêu cho rằng, “ngày nay thánh hiền muốn mở mang giáo hóa để sửa đổi
phong tục đồi bại. Dị đoan đáng phải truất bỏ, chính đạo phải được phục hưng. Đã
là kẻ sĩ đại phu, không phải đạo Nghiêu Thuấn không bày tỏ trước vua; không phải
đạo Khổng – Mạnh không trước thuật"(21). Đặc biệt, trong khi phê phán Phật giáo,
Lê Văn Hưu còn đề cao Nho giáo như là cơ sở lý luận cho mọi hoạt động chính trị
của triều đình. Vào cuối Trần, giới Nho sĩ ngày càng có vị trí đáng kể trong xã hội
và ngày càng "có đủ uy lực chẳng những để dám công khai phản đối một số đặc
quyền đặc lợi của quý tộc, mà còn công khai tiến công vào Phật giáo lúc Phật giáo
còn là tôn giáo của nhà vua”(22). Cuộc đấu tranh công kích Phật giáo vừa nhằm
khẳng định địa vị cho Nho giáo trong đời sống văn hóa - tư tưởng, vừa được coi là
cuộc đấu tranh triệt để để chuẩn bị về mặt lực lượng xã hội và tư tưởng cho tầng lớp
Nho sĩ bước lên vũ đài chính trị; đồng thời báo hiệu sự sa sút của Phật giáo không
chỉ trong thực tế, mà còn trong lĩnh vực tư tưởng và hình thái ý thức xã hội. Từ đây,
Phật giáo nước ta không còn giữ vị trí quan trọng trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng
như trước nữa, mà Nho giáo, với những điều kiện phát triển khách quan, đã dần tiến
đến nắm giữ vị trí chủ đạo trong sinh hoạt tư tưởng của nhân dân ta./.
(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Trưởng khoa Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh.
(**) Học viên Cao học triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Thành phố Hồ Chí Minh.
(1) Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, tr.25.
(2) Trần Văn Giàu. Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam. Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh, 1995, tr.88.
(3) Trần Văn Giàu. Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách
mạng Tháng Tám, t.1. Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1993, tr.66.
(4 )
Viện Văn học. Thơ văn Lý – Trần, t.2. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989, tr.27
(5) Xem: Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd., t.1, tr.277.
(6) Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd., t.1, tr.280.
(7) Nguyễn Đăng Thục. Lịch sử tư tưởng Việt Nam. Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,
1998, tr.159.
(8) Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd., t.2, tr.88.
(9) Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd., t.2, tr.25.
(10) Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd., t.2, tr.39.
(11) Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd., t.2, tr.88.
(12) Xem: Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd., t.1, tr.241.
(13) Xem: Viện Văn học. Thơ văn Lý – Trần. Sđd., t.3, tr.324.
(14) Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd., t.1, tr.240.
(15)
Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd., t.1, tr.249
(16)
Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd., t.2, tr.81
(17 )
Xem: Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd., t.2, tr.81 - 82
(18) Viện Văn học. Thơ văn Lý – Trần. Sđd., t.2, tr.368.
(19) Viện Văn học. Thơ văn Lý – Trần. Sđd., t.2, tr.748.
(20) Xem: Viện Văn học. Thơ văn Lý – Trần. Sđd., t.2, tr.754.
(21) Viện Văn học. Thơ văn Lý – Trần. Sđd., t.2, tr.749.
(22) Trần Văn Giàu. Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách
mạng Tháng Tám. Sđd., t.1, tr.69.
*
NGUYỄN TÀI ĐÔNG
Hàn Phi (khoảng 280 – 233 TCN) là người tập đại thành tư tưởng Pháp gia. Ông đã
tiếp thu điểm ưu trội của ba trường pháp “pháp”, “thuật”, “thế”để xây dựng và phát
triển một hệ thống lý luận pháp trị tương đối hoàn chỉnh và tiến bộ so với đương
thời. Coi pháp luật là công cụ hữu hiệu để đem lại hoà bình, ổn định và công bằng,
Hàn Phi đã đề xuất tư tưởng dùng luật pháp để trị nước. Ông đưa ra một số nguyên
tắc cơ bản trong xây dựng và thực thi pháp luật, như pháp luật phải nghiêm minh,
không phân biệt sang hèn, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật... Với những tư
tưởng đó, học thuyết của Hàn Phi được người xưa gọi là “học thuyết của đế vương”.
Hàn Phi (khoảng 280 – 233 TCN), triết gia thời cuối Chiến Quốc, là người tập đại
thành tư tưởng Pháp gia. Ông xuất thân từ giới quý tộc nước Hàn, đã nhiều lần dâng
kế sách trị nước lên vua Hàn song chưa từng được sử dụng. Ông nhận thấy vua Hàn
“không sửa đổi làm rõ pháp chế” (bất vụ tu minh kỳ pháp chế), từ đó tạo nên tình
trạng “các nhà Nho dùng văn làm rối loạn pháp luật, bọn hiệp sĩ dùng võ phạm vào
điều cấm” (Nho giả dụng văn loạn pháp, nhi hiệp giả dĩ võ phạm cấm. Sử ký. Lão
Trang Thân Hàn liệt truyện). Về lý luận chính trị, ông tiếp thu điểm ưu trội của ba
trường phái trong Pháp gia: “pháp” (Thương Ưởng), “thuật” (Thân Bất Hại), “thế”
(Thận Đáo); từ đó, phát triển và xây dựng một hệ thống lý luận pháp trị(1) tương đối
hoàn chỉnh và tiến bộ so với đương thời.
Trong quá trình xây dựng học thuyết của mình, Hàn Phi phê phán mạnh mẽ lý thuyết
chính trị của Nho gia. Dưới con mắt của ông, cách cai trị dựa trên nhân đức của nhà
cầm quyền (dưới các tên gọi như “nhân trị”, đức trị” hay “lễ trị”), lý tưởng chính trị
Nghiêu Thuấn là trái với thực tế và nếu áp dụng quan niệm đó sẽ làm loạn đất nước.
Khổng Tử – người sáng lập Nho gia – làm hết sức để nhằm mục đích cho người quân
tử cai trị đất nước. Ông tin chắc rằng, nền tảng của việc cai trị đất nước chính là tự
chế ước bản thân. Một vị quân chủ cao quý nắm giữ chính quyền sẽ tự nhiên mang
lại hòa bình và ổn định cho đất nước. Khổng Tử đã từng nói: “Bản thân mà chính
đáng, dù không cần mệnh lệnh thì (người khác) cũng thi hành; còn nếu bản thân
không chính đáng, dù có mệnh lệnh thì (người khác) cũng không tuân theo” (Kỳ thân
chính, bất lệnh nhi hành; kỳ thân bất chính, tuy lệnh bất tòng. Luận Ngữ. Tử Lộ).
Mặc dù không yêu cầu mọi ông vua đều phải như Nghiêu Thuấn – thánh hiền mang
tính lý tưởng, song theo ông, tiền đề quyết định sự thành bại trong việc trị nước
chính là đức hạnh của nhà vua đang trị vì. Đức hạnh đó được gọi là “nhân” và đạt
được qua “lễ” (chế ước bản thân quay về với điều lễ là nhân. “Khắc kỷ phục lễ vi
nhân”). Khổng Tử là người đặc biệt nệ cổ, thường coi xưa hơn nay; tâm nguyện của
ông là làm sao để xã hội có thể trở về trạng thái xưa cũ. Mặc Tử, ông tổ phái Mặc
gia, cũng rất đề cao quá khứ. Theo ông, một trong ba tiêu chuẩn của chân lý (phép
“Tam biểu”), là lời nói của thánh nhân đời xưa, hay những gì đã từng được nói đến
trong quá khứ. Hàn Phi đã phê phán một cách hết sức sắc sảo loại quan điểm này:
“Khổng Tử, Mặc Tử đều nói đến Nghiêu, Thuấn nhưng chủ trương của hai người
khác nhau. Họ đều tự cho mình là Nghiêu, Thuấn chân chính. Nghiêu, Thuấn không
sống lại, vậy ai sẽ quyết định đạo Nho hay đạo Mặc là đúng với Nghiêu, Thuấn? Đời
Ân, đời Chu đã hơn bảy trăm năm, đời Ngu, đời Hạ trước đấy đã hơn hai ngàn năm
mà còn không quyết định được cái đúng của đạo Nho và đạo Mặc. Nay lại muốn
nghiên cứu cái đạo của Nghiêu, Thuấn cách đây đã ba ngàn năm, chẳng phải là
không thể nào làm được sao? Nếu như không tham nghiệm được mà lại quyết định
ngay thì đó là ngu. Nếu không thể quyết định được mà lại theo ngay thì đó là dối trá.
Cho nên chuyện nêu cao các tiên vương, quyết định theo Nghiêu và Thuấn nếu như
không phải là ngu thì cũng là dối trá vậy. Cái học ngu và dối trá, cái hành động bác
tạp và trái pháp luật này vị vua sáng không theo”(2). Các nhà Nho luôn muốn thần
thánh hóa bậc quân chủ, song để pháp luật có được tính phổ quát nhất định, hay nói
cách khác, để có được một nền pháp trị, Pháp gia nói chung và Hàn Phi nói riêng đã
tước bỏ ý nghĩa thần thánh mà những kẻ cai trị luôn muốn tự khoác lên mình.
Hàn Phi quan niệm nhà vua cũng chỉ là người bình thường như bao người khác. Cái
làm cho đất nước trị hay loạn không phải là ông vua của nước đó ra sao, mà là nền
pháp trị của nước đó như thế nào. Hiện tượng Quản Trọng và Tề Hoàn Công thường
được sử dụng như một ví dụ đắt giá cho tư tưởng này. Các nhà Nho tôn quân, Hàn
Phi cũng tôn quân, nhưng tôn quân theo một kiểu khác(3). Ông viết: “Bọn nhà Nho
đời nay nói với nhà vua lại không nói đến cái làm cho đời nay được trị mà nói đến
công lao trị an ngày xưa, không hiểu rõ công việc phép quan, không xét kỹ cái tình
hình của bọn gian tà, mà đều nói đến những chuyện truyền lại từ thời thượng cổ, ca
ngợi công lao của các tiên vương. Bọn nhà Nho tô vẽ lời nói, bảo: ‘Nghe lời nói của
ta thì có thể làm bá vương’. Loại người nói như vậy cũng như bọn thày cúng, đồng
cốt, vị vua có pháp độ không nghe. Cho nên vị vua sáng nêu lên những việc có thực,
bỏ cái vô dụng, không nói chuyện nhân nghĩa, không nghe lời bọn học giả”(4).
Hàn Phi quan niệm pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để đem lại hòa bình, ổn định
và công bằng: “Bậc thánh nhân hiểu rõ cái thực tế của việc phải và trái, xét rõ thực
chất của việc trị và loạn, cho nên trị nước thì nêu rõ pháp luật đúng đắn, bày ra hình
phạt nghiêm khắc để chữa cái loạn của dân chúng, trừ bỏ cái họa trongthiên hạ.
Khiến cho kẻ mạnh không lấn át người yếu, kẻ đông không xúc phạm số ít, người già
cả được thỏa lòng, người trẻ và cô độc được trưởng thành, biên giới không bị xâm
lấn, vua và tôi thân yêu nhau, cha con giữ gìn cho nhau”(5).
Sở dĩ tư tưởng chính trị của Hàn Phi đối lập với tư tưởng Nho gia là bởi ông có một
quan niệm hết sức sâu sắc về thực tiễn. Khác với Khổng Mạnh mượn đời xưa để phê
phán đời nay hay lấy cái quá khứ được tuyệt đối hóa để đo hiện tại, Hàn Phi cho
rằng, mọi suy nghĩ, mọi hành động, mọi lý luận phải đều được bắt nguồn từ chính
thực tiễn của đất nước. Các nhà Nho trên mây trên gió bàn việc chính sự chẳng qua
chỉ như trẻ con nghịch đất, không thể đem lại hiệu quả thực tế: “Trẻ con đùa nghịch
với nhau lấy đất làm cơm, lấy bùn làm canh, lấy gỗ làm thịt. Nhưng chiều đến, thế
nào cũng trở về nhà ăn cơm. Cơm đất, canh bùn có thể đùa để chơi, nhưng không thể
dùng để ăn. Khen những điều truyền tụng từ thượng cổ, hùng biện mà không chắc
chắn, nói chuyện nhân nghĩa của các tiên vương mà không biết sửa đổi nước, thì đó
cũng đều là những điều có thể dùng để đùa chơi chứ không dùng để trị nước”(6).
Hai thiên Giải Lão và Dụ Lão trong tác phẩm Hàn Phi Tử, đã chứng tỏ Hàn Phi rất
am hiểu Đạo gia. Nhìn chung, cả Đạo gia và Pháp gia đều yêu cầu mọi việc phải luôn
biến đổi. Đạo gia nhấn mạnh đến tính tương đối của tri thức con người cũng như của
chế độ, còn Pháp gia đi đến kết luận rằng, cần phải lấy yêu cầu trước mắt làm
phương hướng cho việc giải quyết các vấn đề chính sự. Nó đòi hỏi người đứng đầu
bộ máy quyền lực phải luôn theo sát tình hình thực tế: “Bậc thánh nhân không cốt
trau dồi chuyện xưa, không noi theo những nguyên tắc bất biến, khi bàn việc làm ở
đời thì dựa theo tình hình của thời mình mà đặt ra những biện pháp”(7). Hàn Phi phê
phán một cách gay gắt những người hủ Nho, coi đó là “bọn học giả dốt nát ở đời
không biết bản chất của việc trị và loạn, cứ nói năng nhảm nhí và dẫn những sách
của người xưa để làm rối việc cai trị ở đời này... Nếu nghe lời họ thì nguy, nếu dùng
kế họ thì loạn. Đó là điều ngu hết sức lớn và là mối lo hết sức lớn”(8).
Then chốt của việc xây dựng đất nước giàu mạnh là phải dựa vào pháp luật. Có pháp
luật, pháp luật được thi hành một cách phổ quát và đúng đắn thì xã hội mới ổn định,
xã hội ổn định lại là tiền đề quan trọng để xây dựng đất nước giàu mạnh, làm cho dân
chúng được yên bình, hạnh phúc. Từ chỗ cho rằng, “Không có nước nào luôn luôn
mạnh, cũng không có nước nào luôn luôn yếu. Hễ những người thi hành pháp luật
mà mạnh thì nước mạnh, còn hễ những người thi hành pháp luật yếu thì nước
yếu”(9), Hàn Phi đã đề xuất tư tưởng “trị nước bằng luật pháp” (dĩ pháp trị quốc),
chủ trương “luật pháp không phân biệt sang hèn” (pháp bất a quý), “hình phạt
không kiêng dè bậc đại thần, tưởng thưởng không bỏ sót kẻ thất phu” (hình quá bất tị
đại thần, thưởng thiện bất di tứ phu). Ông hết sức coi trọng tác dụng của pháp luật và
chủ trương xây dựng một lý luận pháp trị hoàn chỉnh, trong đó lấy “pháp” làm hạt
nhân, kết hợp chặt chẽ “pháp”, “thuật” với “thế”.
Hàn Phi hiểu rất rõ và sâu sắc về pháp luật, coi “pháp luật là mệnh lệnh ban bố rõ
ràng ở nơi cửa công, hình phạt chắc chắn đối với lòng dân, thưởng cho những kẻ cẩn
thận giữ pháp luật, nhưng phạt những kẻ làm trái lệnh”(10). Đây là một tư tưởng hết
sức tiến bộ so với đương thời. Cái gọi là “mệnh lệnh ban bố rõ ràng nơi cửa công”
khác xa so với cách cai trị bởi ý muốn chủ quan của các cá nhân quý tộc nắm quyền
đương thời. Pháp luật rõ ràng được ban bố cho trăm họ, làm cho dân biết pháp luật
để tránh phạm pháp; lấy đó làm chuẩn tắc cho hành vi của mọi người, chứ không
phải là cái bẫy để hại dân. Các điều luật minh bạch là phương thức phòng bị tích cực,
chứ không phải là một thủ đoạn chế tài tiêu cực. Đồng thời, nó cũng chính là “hiến
lệnh” – một công cụ - để vua cai trị thần dân. Nội dung chủ yếu của “pháp” có thể
quy về 2 khái niệm chủ yếu là “thưởng” và “phạt”.
Thực hành pháp trị tất phải xây dựng pháp luật. Hàn Phi cho rằng, lập pháp cần phải
xét đến các nguyên tắc sau: 1/ Tính tư lợi. Hàn Phi quan niệm nền tảng của quan hệ
giữa con người với con người là tư lợi, ai cũng muốn giành cái lợi cho mình. “Ông
thầy thuốc khéo hút mủ ở vết thương người ta, ngậm máu người ta không phải vì có
tình thương cốt nhục, chẳng qua làm thế thì có lợi. Cho nên, người bán cỗ xe làm
xong cỗ xe thì muốn người ta giàu sang. Người thợ mộc đóng xong quan tài thì muốn
người ta chết non. Đó không phải vì người thợ đóng cỗ xe có lòng nhân, còn người
thợ đóng quan tài không phải ghét người ta, nhưng cái lợi của anh ta là ở chỗ người
ta chết”(11). Luật pháp đặt ra thì cái lợi của nó phải lớn hơn cái hại. 2/ Hợp với thời
thế. Đây chính là thuyết biến pháp của Hàn Phi. Nguyên tắc thực tế của việc xây
dựng pháp luật, hay tính thực tiễn của luật pháp, là nét nổi bật trong tư tưởng pháp trị
của Hàn Phi. Đối với ông, không có một pháp luật siêu hình hay một mô hình pháp
luật trừu tượng tiên thiên để mà noi theo. Chỉ duy nhất có yêu cầu và tiêu chuẩn của
thực tiễn. “Pháp luật thay đổi theo thời thì trị; việc cai trị thích hợp theo thời thì có
công lao... Thời thế thay đổi mà cách cai trị không thay đổi thì sinh loạn... Cho nên,
bậc thánh nhân trị dân thì pháp luật theo thời mà thay đổi và sự ngăn cấm theo khả
năng mà thay đổi”(12). 3/ Ổn định, thống nhất. Mặc dù pháp luật phải thay đổi cho
hợp với thời thế, song trong một thời kỳ, pháp lệnh đã đặt ra thì không được tùy tiện
thay đổi (“số biến pháp”), vì nếu vậy thì dân chúng không những không thể theo, mà
còn tạo cơ hội cho bọn gian thần. 4/ Phù hợp với tình người, dễ biết dễ làm. 5/ Đơn
giản mà đầy đủ. 6/ Thưởng hậu phạt nặng.
Đối với việc chấp pháp, nguyên tắc của Hàn Phi là: 1/ Tăng cường giáo dục pháp
chế, tức là “dĩ pháp vi giáo”. 2/ Mọi người, ai ai cũng bình đẳng trước pháp luật, tức
“pháp bất a quý”, “hình bất tị đại thần, thưởng thiện bất di tứ phu”. Đến bản thân bậc
quân chủ – nhà vua – cũng phải tôn trọng và tuân thủ pháp luật: “Kẻ làm vua chúa là
kẻ phải giữ pháp luật, căn cứ vào kết quả mà xét để lập công lao”(13); Nếu nhà vua
biết bỏ điều riêng tư, làm theo phép công thì chẳng những dân sẽ được yên, mà nước
cũng được trị. Nếu xét theo ý nghĩa của những luận điểm này thì có thể thấy rằng,
mặc dù Hàn Phi chủ trương quân quyền thần thánh không thể xâm phạm, song hình
thái quân quyền này vẫn bị chế ước bởi pháp quyền. 3/ Nghiêm khắc cẩn thận, “tín
thưởng tất phạt”, không được tùy ý thưởng cho người không có công, vô cớ sát hại
người vô tội. 4/ Dùng sức mạnh đạo đức hỗ trợ cho việc thi hành pháp luật.
Hàn Phi chủ trương pháp trị, song cũng rất chú trọng đến “thuật” của nhà vua, bởi vì
“bầy tôi đối với nhà vua không phải có tình thân cốt nhục, chỉ vì bị tình thế buộc
không thể không thờ”(14). Nhà vua dựa vào pháp trị để làm cho đất nước giàu mạnh,
song nếu “không có cái thuật để biết kẻ gian thì chỉ lấy cái giàu mạnh của nước mà
làm giàu có cho các quan đại thần mà thôi”(15), Do vậy, nhà vua phải có “thuật” để
dùng người. Đối với Hàn Phi, “thuật” chính là một loạt các phương pháp bổ nhiệm,
miễn nhiệm, thi cử, thưởng phạt của nhà vua. Trong đó, phép hình danh là một thuật
không thể thiếu được của bậc quân chủ. Với cách nhìn như vậy thì “pháp” và “thuật”
gắn bó chặt chẽ với nhau: “Nhà vua không có thuật trị nước thì ở trên bị che đậy; bầy
tôi mà không có pháp luật thì cái loạn sinh ra ở dưới. Hai cái không thể thiếu cái nào,
đó đều là những công cụ của bậc đế vương”(16).
Ngoài “pháp” và “thuật”, Hàn Phi đặc biệt coi trọng “thế”. “Thế” còn được gọi là
“quyền thế”, “uy thế”, “thế trọng”, nó chỉ một sức mạnh quyền uy tuyệt đối, cũng
chính là quyền thống trị tối cao của ông vua, bao gồm quyền sử dụng người, quyền
thưởng phạt, v.v.. Hàn Phi cho rằng, chỉ khi nào nắm quyền thống trị trong tay, thì
một người nào đấy mới là kẻ thống trị, mới có thể cai trị dân chúng. Trong thiên “Bát
kinh”, ông viết: “Cái thế là cơ sở để thắng đám đông”(17) (Thế giả, thắng chúng chi
tư dã). Để yên ổn trị nước, bậc quân chủ tất phải nắm giữ quyền thế. Hàn Phi quan
niệm rất rõ ràng những điểm trọng yếu về thế: 1/Vua không được cho bề tôi mượn
quyền thế. 2/ Vua không được dùng chung quyền thế với bề tôi. 3/ Cần sử dụng thuật
thưởng phạt để củng cố quyền thế. 4/ Vua phải duy trì địa vị độc tôn của mình,
không được để bề tôi quá quý hiển, đề phòng đại thần tiếm quyền. Vì vậy, nếu chỉ
xét về bản thân vị vua, thì “thế” là cái cốt lõi nhất, quan trọng nhất, còn “pháp” và
“thuật” chỉ là công cụ.
Sử dụng “pháp”, “thuật”, “thế” cốt yếu là để tăng cường sức mạnh của tập quyền
quân chủ, tạo nên bối cảnh chính trị “việc tuy ở bốn phương song then chốt ở tại
trung ương, thánh nhân nắm giữ cái chủ yếu, bốn phương đến phục dịch” (sự tại tứ
phương, yếu tại trung ương, thánh nhân chấp yếu, tứ phương lai hiệu. “Hàn Phi tử.
Dương quyền”); từ đó, góp phần tạo ra một xu thế lịch sử cho việc xây dựng một nhà
nước trung ương tập quyền phong kiến thống nhất.
Trên thực tế, sau khi sử dụng hệ thống pháp trị, nhà Tần đã thu phục được các nước
còn lại, thống nhất Trung Quốc, mở ra một trang sử mới cho dân tộc Trung Hoa.
Song, sang đến đời Hán, Nho gia đã hưng thịnh trở lại, Pháp gia cùng hệ thống pháp
trị nhanh chóng mất đi chỗ đứng của mình. Về phương diện này, Ngô Kinh Hùng,
nhà triết học pháp luật nổi tiếng người Trung Quốc, đã đưa ra một nhận xét tương đối
xác đáng rằng, sở dĩ Pháp gia thất bại là do bản thân cách làm của Pháp gia (trong
đấy có Hàn Phi) tồn tại nhiều điểm quá cực đoan:
1. Đồng nhất việc cai trị dựa trên pháp luật với việc cai trị dựa vào các hình phạt
nghiêm khắc.
2. Quan niệm về pháp luật của Pháp gia nói chung và Hàn Phi nói riêng quá máy
móc và cứng nhắc, hoàn toàn không có tính đàn hồi trong việc sử dụng pháp luật.
3. Coi các điều khoản pháp luật chính thức là hình thức duy nhất phù hợp với pháp luật,
hoàn toàn bỏ qua nhân tố luật tập quán.
4.Giải thích mục tiêu pháp luật quá chú trọng đến phương diện vật chất; thực ra, luật
pháp cần phải giúp phát triển một cách bình đẳng các lợi ích khác nhau.
5. Ở họ, có lòng nhiệt huyết cải cách mù quáng, song lại quá thiếu ý thức lịch sử,
dường như là muốn sáng tạo lại lịch sử(18).
Thực tế sau đó cho thấy, tư tưởng Nho gia đã nhấn chìm chế độ pháp luật, mà chậm
nhất là đời Đường đã xuất hiện một chủ nghĩa Nho gia khống chế toàn bộ hệ thống
pháp luật. Ngô Kinh Hùng viết: “Bắt đầu từ đó, pháp luật là nô tỳ của đạo đức – nằm
ở địa vị thứ cấp – không được những người tài năng nhất coi trọng”; “Từ trong thâm
tâm, tôi cho rằng thắng lợi của Nho gia... đã đặt pháp luật học vào trong quan tài,
khiến nó biến thành con rối trong suốt hơn 20 thế kỷ. Khoảng cuối thế kỷ XIX, ảnh
hưởng của phương Tây mới bắt đầu giải thoát tinh thần pháp luật Trung Quốc ra khỏi
tấm áo chế ngự của truyền thống Nho gia”(19). Ông còn nói thêm rằng, ở phương Tây
thời cổ đại, người La Mã đã đạt đến trình độ cao nhất về tư tưởng pháp luật, qua suốt
thời kỳ trung cổ, đến tận thời cận đại, pháp luật luôn được coi trọng và được mọi
người công nhận là công cụ của chính nghĩa. Mặc dù đôi khi có những trào lưu hay
lý luận vô chính phủ đặt luật thói quen cao hơn luật hình thức, song những hiện
tượng này chỉ nằm ngoài lề đời sống xã hội và đời sống văn hóa. Có người nói sau
khi tư tưởng pháp luật Trung Quốc đạt đỉnh cao thời kỳ đầu, hai nghìn năm nay nó
chỉ có vị trí là một cái bóng, điều đó không phải là không có lý. Một số người khác
thường đặt Pháp gia trong sự đối chiếu với tinh thần pháp luật của người Hy Lạp, La
Mã cổ đại, song theo tôi, trên một phương diện nào đấy, khó có thể so sánh Pháp gia
với hệ thống pháp luật Hy Lạp và đặc biệt là La Mã. Tư tưởng pháp trị của Trung
Quốc mà Hàn Phi là đại biểu xuất sắc nhất vẫn thiếu một tinh thần pháp luật tối
thượng. Tuy Hàn Phi quan niệm vua phải tuân theo pháp luật, song trên thực tế, vua
là người siêu vượt lên trên pháp luật, vì mọi quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp
đều nằm trong tay nhà vua. Hơn nữa, xem xét dưới góc độ kỹ thuật, dù có một số
người vẫn quan niệm pháp luật của Hàn Phi là sự kết hợp giữa lễ và hình, song để so
sánh, thì “hình” vượt xa “lễ” rất nhiều. Trên thực tế, hình phạt là nền tảng của những
điều luật mà Pháp gia đưa ra.
Nếu nhìn trong quá trình lịch sử thì cái gọi là sự thất bại của Pháp trước Nho có
nhiều căn nguyên xã hội sâu xa. Sau khi thống nhất Trung Quốc, Tần Thủy Hoàng đã
tiến hành một loạt cải cách quan trọng, như xác lập chế độ sở hữu đất đai phong kiến
trên phạm vi cả nước, xây dựng hàng loạt các công trình thủy lợi lớn, loại bỏ chế độ
phân phong, thiết lập chế độ quận huyện, thống nhất tiền tệ, hệ thống đo lường, bánh
xe, văn tự toàn quốc, v.v.. Khi nhà Tần sụp đổ, nhà Tây Hán từ Hán Cao Tổ đến Hán
Vũ Đế vẫn tiếp tục con đường chính trị và chính sách của Pháp gia và từ đây, sự đấu
tranh giữa hai hệ tư tưởng Nho và Pháp ngày càng trở nên gay gắt hơn.
Mặc dù từ Tần Thủy Hoàng đã phế bỏ chế độ nô lệ, song đến đầu Tây Hán, việc mua
bán, sử dụng nô lệ với số lượng lớn vẫn được tiến hành, nhất là ở các nhà quý tộc sáu
nước cũ (“lục quốc cường tộc”). Ngoài ra, các nhà buôn và các ông chủ sản xuất lớn
(nhất là trong các ngành quan trọng: luyện sắt, làm muối, đúc tiền,…) cũng lấy nô lệ
làm lực lượng lao động chủ yếu. Hai thế lực này cấu kết với nhau, gây một áp lực lớn
đối với chính quyền nhà Hán. Trước tình hình đó, Hán Văn Đế và Hán Cảnh Đế tiếp
tục tiến hành con đường của Pháp gia, bác bỏ các lập luận của hai nhóm trên, mạnh
tay bãi bỏ phiên trấn, tăng cường trung ương tập quyền.
Sau khi lên ngôi, Hán Vũ Đế từng tiếp nhận kiến nghị “Độc tôn Nho học, loại bỏ các
trường phái khác” (“Bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật”) của Đổng Trọng Thư .
Về mặt tuyên ngôn ý thức hệ là như vậy, song trên bình diện hành động thực tiễn, vị
vua này vẫn triệt để đi theo con đường Pháp gia. Mặc dù Đổng Trọng Thư đề xuất
“Xuân Thu đại nhất thống”, cổ vũ “làm vua, dựng nước trên cơ sở cắt đất, chia dân”
(“cát địa phân dân nhi kiến quốc lập quân”. Xuân Thu phồn lộ. Chư hầu) nhằm quay
lại chế độ chư hầu phân phong, song Hán Vũ Đế vẫn nhất quán chính sách “tiêu
phiên” (diệt trừ phiên trấn), tiến hành trấn áp Hoài Nam Vương Lưu An, củng cố chế
độ trung ương tập quyền. Ông bác bỏ chính sách kinh tế “nhà nước không tranh lợi
với nhân dân” (“bất dữ dân tranh lợi”), “trả nghề làm muối và luyện sắt cho người
dân” (“diêm thiết giai quy ư dân”. Hán Thư. Thực hóa chí) của Đổng Trọng Thư,
thực hành chính sách nhà nước phải nắm ngành muối và sắt của Pháp gia; đồng thời,
tiến hành các biện pháp “toán mân” (thu thuế tài sản của các nhà buôn giàu có và
những người cho vay nặng lãi), “cáo mân” (đánh thuế các chủ sử dụng nô lệ?).
Đến trung kỳ, hậu kỳ Tây Hán, quá trình tập trung hóa đất đai vào tay số ít tư nhân
(các nhà quý tộc phong kiến, quan lại, đại địa chủ) diễn ra ngày càng mạnh.
Trong Hán Thư có chép: “Kẻ mạnh thì ruộng vườn ngàn mảnh, kẻ yếu thì tấc đất
cắm dùi cũng không” (“Cường giả quy điền dĩ thiên số, nhược giả tằng vô lập chùy
chi cư”. Hán Thư. Vương Mãng truyện). Thế lực đại địa chủ, thế gia hào tộc này
cũng chính là lực lượng bảo thủ trong xã hội. Họ ra sức tuyên truyền một ý thức hệ
lạc hậu nhằm kìm hãm sự bùng phát của số đông nông dân bị phá sản, tôn sùng
Khổng Mạnh, đề cao việc đọc kinh điển (tôn Khổng độc kinh), thi nhau nhận mình là
học trò của Khổng Mạnh. Sau khi Hán Vũ Đế vừa qua đời, lực lượng thế gia hào tộc
liền mở cái gọi là “Hội nghị làm muối làm sắt” (“Diêm thiết hội nghị”), tấn công
Pháp gia nhằm thay đổi con đường pháp trị. Tuy kế hoạch này thất bại, song đến lúc
Hán Nguyên Đế qua đời, lực lượng trên đã khống chế được quyền lực trong triều
đình và từ đó, ý thức hệ Nho gia chiếm địa vị thống trị. Quang Vũ Đế thành lập nhà
Đông Hán, ông đặc biệt đề cao Nho học, coi các con chữ trong kinh điển như những
lời sấm truyền, bất cứ ai tỏ thái độ hoài nghi hay bất kính với Nho gia đều bị khép
vào tội chết “phi thánh vô pháp”. Đến năm 79, Hán Chương Đế tự mình chủ trì một
cuộc hội kinh học Bạch Hổ Quan lớn, lý luận hóa thuyết “thiên nhân cảm ứng” của
Đổng Trọng Thư, biên tập ra Bạch Hổ thông nghĩa nổi tiếng, chính thức tuyệt đối
hóa địa vị ý thức hệ Nho gia. Cũng từ đây, hệ tư tưởng Pháp gia và phương thức
pháp trị hạ thêm một bậc nữa trong lịch sử Trung Quốc(20).
Tóm lại, tư tưởng của Hàn Phi hết sức sâu rộng, bao gồm chính trị, pháp luật, triết
học, xã hội, kinh tế, quân sự, giáo dục,...; trong đó, then chốt chính là tư tưởng chính
trị. Ông để tâm suy nghĩ làm sao cho vị vua trong điều kiện xã hội đương thời có thể
vận dụng vô số các phương pháp khác nhau để đạt được cục diện chính trị ổn định,
để cho nước giàu quân mạnh. Có thể nói “Hàn Phi Tử” là một bộ sách chính trị học
vĩ đại và học thuyết chính trị của ông được người xưa gọi là “học thuyết của đế
vương” (đế vương chi học).r
* Thạc sĩ, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam
(1)
Pháp trị (rule by law) ở đây được tạm hiểu là tư tưởng chính trị chủ trương căn cứ
vào pháp luật để quản lý đất nước. Tại Trung Quốc, pháp trị là tư tưởng đặc trưng cơ
bản của phái Pháp gia thời Xuân Thu – Chiến Quốc. Tư tưởng pháp trị này đối lập
(hoặc có thể coi là phản thuyết) với tư tưởng chính trị “lễ trị”, “đức trị” hay “nhân
trị” của phái Nho gia.
(2) Phan Ngọc (dịch). Hàn Phi Tử. Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 2001, tr. 561.
(3) “Nho gia tuy tôn quân nhưng coi vua là người chỉ nhận sứ mạng của trời, mà ý
dân là ý trời, nên đòi vua phải có đạo đức, ông vua nào không có tư cách đều bị
Khổng Tử, Mạnh Tử chê hoặc mạt sát; mà Nho gia lại chính là những chính trị gia
chỉ có ý niệm về đạo đức (nhân) về bổn phận (nghĩa) chứ chưa có ý niệm về pháp
luật. Trái lại Pháp gia tôn quân hơn Nho gia nhiều thì lại có ý niệm rất rõ về pháp
luật và đòi hỏi các vua chúa phải luôn luôn áp dụng đúng pháp luật. Cơ hồ họ cảm
thấy rằng phải có pháp luật để giảm bớt uy quyền của ông vua. Họ không nói đến
mệnh trời, ý dân nữa, không đề cao nhân nghĩa nữa mà chỉ nói đến pháp luật, đề cao
pháp luật” . Nguyễn Hiến Lê. Hàn Phi Tử, tr.274.(4) Phan Ngọc. Sđd., tr. 570.
(5) Phan Ngọc. Sđd., tr. 130.
(6) Phan Ngọc. Sđd., tr. 327.
(7) Phan Ngọc. Sđd., tr. 540.
(8) Phan Ngọc. Sđd., tr. 129.
(9) Phan Ngọc. Sđd., tr. 55.
(10) Phan Ngọc. Sđd., tr. 478-479.
(11) Phan Ngọc. Sđd., tr. 150-151.
(12) Phan Ngọc. Sđd., tr. 588.
(13) Phan Ngọc. Sđd., tr. 394.
(14) Phan Ngọc. Sđd., tr. 149
(15) Phan Ngọc. Sđd., tr. 480.
(16) Phan Ngọc. Sđd., tr. 479
(17) Phan Ngọc. Sđd., tr. 524
(18) Matthias Christian. Triết học pháp luật phương Đông và phương Tây. Trung
Quốc chính pháp đại học xuất bản xã, Bắc Kinh, 2004, tr. 89.
(19) Matthias Christian. Sđd., tr. 90
(*)
NGUYỄN HỮU ĐỄ
Quản lý xã hội là hoạt động có tổ chức của con người, gắn liền với quá trình sản
xuất và là sản phẩm của xã hội ở mỗi giai đoạn phát triển cụ thể của nó, gắn với sự
phân chia xã hội thành giai cấp. Hoạt động quản lý xã hội mang tính hai mặt: mặt tổ
chức – kỹ thuật và mặt xã hội. Hai mặt này, hai chức năng này luôn tồn tại trong quá
trình thống nhất biện chứng của hệ thống quản lý. Hoạt động quản lý không chỉ
mang tính tổ chức, hành chính, mà còn là hoạt động xã hội có nội dung giai cấp,
chính trị – xã hội. Quan hệ quản lý luôn mang bản chất xã hội và trong xã hội có sự
phân chia giai cấp, nó còn mang bản chất giai cấp.
Khi nói đến quản lý xã hội là nói đến quan hệ quản lý, quan hệ giữa người với người
trong lĩnh vực quản lý. Việc chỉ ra bản chất của quan hệ quản lý xã hội theo quan
điểm chủ nghĩa Mác sẽ tạo thành cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu và phát triển lý
luận về quản lý xã hội.
Qua học thuyết Mác về sự phát triển xã hội có thể thấy, cốt lõi của quan điểm triết
học Mác khi phân tích các quan hệ trong lĩnh vực quản lý là giải thích bản chất xã
hội của chúng. Để làm rõ hơn quan điểm này, chúng ta có thể bắt đầu từ quan điểm
của C.Mác về lao động nói chung, về hoạt động quản lý nói riêng. Theo C.Mác, lao
động của con người luôn có hai mặt: mặt vật chất – kỹ thuật và mặt xã hội với hai
thuộc tính của lao động là lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Phù hợp với sự
phân công lao động xã hội, lao động được xem xét, một mặt, như sự phân công thành
các dạng lao động cụ thể nhằm thoả mãn những nhu cầu khác nhau của xã hội; mặt
khác, nó là lao động xã hội khi sản phẩm do lao động riêng biệt đó tạo ra được xã hội
thừa nhận. Vì thế, nếu sản phẩm của lao động không được đem ra trao đổi và không
trao đổi được thì nó chỉ là lao động riêng biệt của người đó, chứ không thể trở thành
lao động xã hội. Chỉ khi nào người lao động sản xuất ra sản phẩm không phải chỉ cho
mình, mà còn cho cả xã hội thì lao động đó mới có tính hai mặt mà trên cơ sở đó,
hình thành nên cơ cấu giai cấp – xã hội của xã hội. Như vậy, lao động của con người
luôn là việc sản xuất ra các sản phẩm khác nhau theo nhu cầu của xã hội, mà cũng
đồng thời là quá trình con người tự khẳng định mình với tư cách những giai tầng
khác nhau trong xã hội, khi sản phẩm của họ được xã hội thừa nhận.
Trên cơ sở phân tích về lao động, C.Mác đã chia hoạt động quản lý thành mặt tổ
chức – kỹ thuật (hoạt động có tổ chức hướng đến sự phát triển của lực lượng sản
xuất) và nội dung xã hội của nó. Nội dung này lại bị quy định bởi tính chất của quan
hệ sản xuất, bởi hình thức sở hữu và kết cấu giai cấp của xã hội. Như vậy, quản lý xã
hội biểu hiện như là hoạt động có tổ chức của con người, gắn liền với quá trình sản
xuất. Sự phát triển và hoàn thiện nó phải dựa trên cơ sở nhận thức những quy luật của
hiện thực khách quan. Đồng thời, chính hoạt động này của con người lại là sản phẩm
của xã hội ở mỗi giai đoạn phát triển cụ thể của nó mà trước hết, nó là sản phẩm của
sự phân chia xã hội thành giai cấp.
Chính C.Mác đã nói về tính chất hai mặt của quản lý như sau: “Công việc giám sát
và điều khiển tất nhiên phải xuất hiện một khi mà quá trình sản xuất trực tiếp đã
mang hình thái một quá trình kết hợp có tính chất xã hội… Nhưng nó có một tính
chất hai mặt.
- Một mặt, trong tất cả những công việc mà có nhiều người hợp tác với nhau thì mối
liên hệ chung và sự thống nhất của quá trình tất phải biểu hiện ra ở trong một ý chí
điều khiển và trong những chức năng không có quan hệ với những công việc bộ
phận, mà quan hệ với toàn bộ hoạt động của công xưởng, cũng giống như trường hợp
nhạc trưởng của một dàn nhạc vậy…
- Mặt khác,… công việc giám sát đó là cần thiết trong tất cả mọi phương thức sản
xuất dựa trên sự đối lập giữa người lao động về phương diện là người sản xuất trực
tiếp, với người sở hữu tư liệu sản xuất. Sự đối lập đó càng lớn, thì công việc giám sát
đó lại càng đóng một vai trò quan trọng”(1).
Trong hoạt động quản lý xã hội, hai mặt đó luôn có sự thống nhất với nhau và chỉ
trên cơ sở đó, xã hội mới duy trì được sự phát triển một cách ổn định. Tất nhiên, khi
nói về hai mặt của lao động, chúng ta cần phải hiểu là, C.Mác đã phân tích chúng
trong hình thái kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa và cũng từ đó, ông đã vạch ra bản
chất bóc lột người lao động của giai cấp tư sản, mà nguồn gốc của sự bóc lột đó là
chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất. Từ đó, chúng ta có
thể thấy, mặt tổ chức – kỹ thuật của quản lý hoàn thành chức năng chung của quản lý
và bản thân chức năng này cũng bị quy định bởi tính chất phối hợp về mặt xã hội
của lao động; còn mặt xã hội thì được thể hiện ở chỗ, nó hoàn thành chức năng xã
hội đặc biệt (sự cưỡng chế, giám sát, kiểm tra, thuyết phục, v.v.) và có nguồn gốc từ
sự phân chia xã hội thành giai cấp. Hai mặt này luôn tồn tại trong quá trình thống
nhất biện chứng của hệ thống quản lý. Hoạt động của con người chỉ có thể tồn tại
dưới một hình thức tổ chức nào đó và vì thế, xã hội, xét trong tổng thể, biểu hiện ra
như là hệ thống được tổ chức. Chính tổ chức xã hội này quy định quản lý phải như
một cơ chế phối hợp, kết hợp, điều chỉnh các mối liên hệ, quan hệ giữa các yếu tố
cấu thành nên tổ chức đó. Đồng thời, nội dung xã hội của hoạt động con người lại bị
quy định bởi các quan hệ xã hội mà trước hết, là các quan hệ sản xuất.
Nếu quản lý xã hội xét như một dạng hoạt động xã hội được hình thành trong tiến
trình phân công lao động xã hội thì nó được thể hiện như là chức năng của một người
hoặc một nhóm người chuyên biệt. Trong chủ nghĩa tư bản, chức năng này thường
thuộc về người sở hữu tư liệu sản xuất, thuộc về nhà tư bản, mà chính chế độ sở hữu
tư nhân này là nguồn gốc của quyền lực nhằm bảo vệ lợi ích của người sở hữu. Vì
thế, giai cấp tư sản thường sử dụng quyền lực này không chỉ với mục đích tổ chức
sản xuất, mà còn với mục đích ngày càng thu được nhiều lợi nhuận. C.Mác đã nhận
xét rằng, “không phải vì nhà tư bản lãnh đạo công nghiệp mà hắn trở thành nhà tư
bản. Trái lại hắn trở thành nhà lãnh đạo công nghiệp chỉ vì hắn là nhà tư bản”(2). Từ
đó, chúng ta thấy rằng, công việc quản lý không phải là đặc quyền của giai cấp nào,
mà chính giai cấp nào sở hữu tư liệu sản xuất thì giai cấp đó trở thành người quản lý,
người lãnh đạo xã hội thông qua những đại biểu ưu tú của mình.
Qua quan điểm của C.Mác về lao động và quản lý, chúng ta có thể khẳng định rằng,
chủ nghĩa Mác xem xét vấn đề quản lý không đơn giản như một quá trình thao tác
thuần tuý, hoặc lao động quản lý chỉ mang tính tổ chức, hành chính, mà trước hết
như là hoạt động xã hội có nội dung giai cấp, chính trị - xã hội. Nếu tách các quan hệ
quản lý khỏi nguồn gốc giai cấp trong xã hội sẽ dẫn đến việc tuyệt đối hoá mặt tổ
chức – kỹ thuật của quản lý, dẫn đến quan niệm sai lầm rằng, nhiệm vụ của quản lý
xã hội là sản xuất ra cấu trúc của quan hệ thống trị trong xã hội; rằng chủ nghĩa tư
bản sẽ tồn tại vĩnh viễn, vì nó luôn hoàn thiện và nâng cao trình độ tổ chức – kỹ thuật
của quản lý dựa trên những thành quả do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học – kỹ
thuật đem lại.
Chủ nghĩa Má còn xem xét bản chất của quản lý trong mối liên hệ không tách rời với
vai trò và hoạt động của giai cấp. Trong xã hội có giai cấp, quyền lực xã hội luôn
thuộc về giai cấp thống trị về kinh tế. Giai cấp thống trị tổ chức ra nhà nước của
mình như một công cụ nhằm điều hoà các lợi ích giai cấp, giữ cho sự xung đột giữa
các lợi ích giai cấp không đi đến chỗ loại trừ nhau. Khi nói về nguồn gốc ra đời của
nhà nước, Ph.Ăngghen đã khẳng định rằng, sự ra đời của nhà nước gắn liền với sự
xuất hiện giai cấp và sự đối lập về lợi ích giữa các giai cấp đối lập nhau trong xã hội.
Vì thế, để “cho những mặt đối lập đó, những giai cấp có quyền lợi kinh tế mâu thuẫn
nhau đó, không đi đến chỗ tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt luôn cả xã hội trong một
cuộc đấu tranh vô ích, thì cần phải có một lực lượng cần thiết, một lực lượng rõ ràng
là đứng trên xã hội, có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung đột đó
nằm trong vòng “trật tự”. Và lực lượng đó, nảy sinh ra từ xã hội, nhưng lại đứng trên
xã hội và ngày càng tách ra khỏi xã hội, chính là nhà nước”(3).
Như vậy, có thể nói, chủ nghĩa Mác, một mặt, phê phán nhà nước của các giai cấp
bóc lột, vì nó nhằm duy trì quan hệ bóc lột; mặt khác, không bao giờ phủ nhận vai trò
của nhà nước trong việc tổ chức, quản lý sự phát triển xã hội. Bởi lẽ, nhà nước, từ
khi xuất hiện, luôn là bộ phận quan trọng nhất của tổ chức xã hội; nó không đồng
nhất với xã hội. Nhà nước với tư cách tổ chức quyền lực sẽ tự tiêu vong khi xã hội
không còn phân chia thành giai cấp; nhưng với tư cách tổ chức quản lý, nó sẽ tồn tại
mãi, gắn liền với lịch sử phát triển của loài người. Từ đó, theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác thì nhà nước chỉ là cơ quan quản lý riêng biệt của xã hội có giai cấp.
Trong xã hội dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, thì quản lý nhà nước bảo
đảm cho quan hệ bóc lột tồn tại. Nhà nước thực hiện chức năng chung của quản lý
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị. Đó
cũng chính là bản chất giai cấp của quản lý xã hội trong xã hội có giai cấp đối kháng,
mặc dù nhìn từ bề ngoài, nhà nước như là một tổ chức đứng trên mọi lợi ích của cá
nhân, như là biểu hiện lợi ích chung của toàn thể xã hội. Ngoài ra, nhà nước, dù là
của giai cấp bóc lột, vẫn phải thể hiện chức năng xã hội của nó là phải bảo đảm được
sự kết hợp giữa các lợi ích cá nhân, tập thể và toàn xã hội. Chỉ có như vậy, giai cấp
thống trị mới duy trì được tính ổn định cho sự phát triển xã hội. Điều đó có nghĩa là
chức năng giai cấp của nhà nước chỉ có thể được thực hiện thông qua chức năng xã
hội của nó. Đúng như Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Ở khắp nơi, chức năng xã hội là
cơ sở của sự thống trị chính trị, và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào
nó còn thực hiện chức năng xã hội đó của nó”(4).
Như vậy, giữa chính trị và quản lý có quan hệ mật thiết với nhau, nhưng không đồng
nhất. Do đó, không nên đồng nhất hoạt động quản lý với hoạt động chính trị. Cũng
không nên đồng nhất chức năng tổ chức và chức năng xã hội của nhà nước với chức
năng chính trị của nó. Mọi tổ chức xã hội cũng như hệ thống chính trị bao gồm cơ
chế quyền lực và quản lý đều tồn tại trong môi trường xã hội, nghĩa là tồn tại trong
một cấu trúc của xã hội, trong tổng hoà những mối liên hệ xã hội. Vì thế, C.Mác cho
rằng, nhà nước cần tìm nguyên nhân làm cho xã hội kém phát triển là ở xã hội công
dân chứ không phải ở sự thiếu sót của tổ chức hành chính(5). Rõ ràng, quản lý luôn
phụ thuộc vào chính trị. Từ đó, chúng ta thấy rằng, thậm chí nó còn là hoạt động
phục vụ cho chính trị, khi quản lý dựa trên quan điểm chính trị để đặt ra mục đích
cuối cùng của mình. Tính hiệu quả của quản lý luôn phụ thuộc vào những mục đích
đó, phụ thuộc vào nhiệm vụ mà nó phải hướng tới để hoàn thành.
Như vậy, quan hệ quản lý luôn mang bản chất xã hội và trong xã hội phân chia thành
giai cấp thì nó mang bản chất giai cấp. Vì thế, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác,
trong mỗi xã hội khác nhau có những loại hình quản lý khác nhau. Và, trong xã hội
có giai cấp, các loại hình quản lý đều mang tính giai cấp, mà công cụ chủ yếu để
quản lý xã hội là nhà nước. Các loại hình quản lý cùng với sự phát triển của xã hội sẽ
ngày càng phức tạp hơn. Trong những xã hội trước chủ nghĩa tư bản, sự quản lý xã
hội còn mang tính giản đơn, dựa trên sự hợp tác lao động giản đơn. Còn trong chủ
nghĩa tư bản, tính chất xã hội của lao động và sản xuất đã quy định quản lý như là
loại lao động đặc thù. Hơn nữa, trong phạm vi toàn xã hội, cơ chế điều chỉnh của xã
hội tư bản là sự kết hợp giữa sức mạnh tự phát của thị trường với việc sử dụng rộng
rãi cơ chế quản lý tự giác. Tuy nhiên, hiệu quả của việc sử dụng cơ chế quản lý tự
giác trong chủ nghĩa tư bản, theo C.Mác, đạt được không cao. Còn trong chủ nghĩa
xã hội, quản lý xã hội là quá trình quản lý tự giác. Nếu trong các hình thái xã hội
trước chủ nghĩa xã hội, quản lý tự giác chỉ giới hạn ở những phạm vi và những lĩnh
vực riêng lẻ, thì trong chủ nghĩa xã hội, khách thể quản lý là xã hội trong tổng thể và
nó được quản lý một cách khoa học trên phạm vi toàn xã hội. Tuy nhiên, điều đó
không có nghĩa là trong chủ nghĩa xã hội, con người sẽ can thiệp một cách tuỳ tiện
vào quá trình xã hội, mà bị quy định bởi những điều kiện và những quy luật phát
triển khách quan của xã hội. Sự phát triển của xã hội được thực hiện như là sự tác
động biện chứng giữa nhân tố chủ quan và điều kiện khách quan. Nếu hoạt động chủ
quan của con người phù hợp với những quy luật khách quan của quá trình xã hội thì
có thể rút ngắn quá trình phát triển xã hội, và ngược lại, không phù hợp thì sẽ kìm
hãm, cản trở sự phát triển đó.
Quản lý xã hội là hoạt động chủ quan của con người hướng tới quá trình khách quan,
dựa trên sự nhận thức và vận dụng những quy luật khách quan. Từ đó, chủ nghĩa
Mác cho rằng, quản lý thể hiện như là yếu tố, như là lĩnh vực tác động của nhân tố
chủ quan trong lịch sử. Vì thế, cơ chế quản lý đó là tự giác và có tính hướng đích.
Điều đó có nghĩa là, hoạt động của con người hướng đến việc duy trì và phát triển
các quan hệ xã hội có sự phù hợp với mục đích đã đặt ra trên cơ sở nhận thức những
quy luật khách quan.
Như vậy, theo tiến trình lịch sử thì cơ chế quản lý tự giác trong đời sống xã hội ngày
càng tăng lên. Cơ sở lý luận của nó, như chủ nghĩa Mác đã khẳng định, là sự tăng lên
của vai trò nhân tố chủ quan trong lịch sử. Đến chủ nghĩa xã hội, quản lý xã hội đã
trở thành công cụ hùng mạnh cho sự phát triển nhanh chóng của toàn bộ đời sống xã
hội.
Toàn bộ sự phân tích trên cho thấy, khi đề cập đến vấn đề quản lý, chủ nghĩa Mác
luôn gắn liền quan hệ quản lý với quan hệ xã hội để trên cơ sở đó, vạch ra bản chất
xã hội, bản chất giai cấp của quan hệ quản lý. Từ đó, chủ nghĩa Mác khẳng định
rằng, tương ứng với mỗi một chế độ xã hội trong xã hội có giai cấp là một hệ thống
quản lý tương ứng và hệ thống này luôn bảo đảm chức năng giai cấp và chức năng xã
hội của mình.r
* Tiến sĩ triết học, Phó trưởng phòng Triết học Mác - Lênin, Viện Triết học, Viện
Khoa học xã hội Việt Nam
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.25, ph.I. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1994, tr.586 – 587.
(2) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.23, tr.483.
(3) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.21, tr.252 - 253.
(4) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.20, tr.253.
(5)
Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.1, tr.540 - 550.
(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Trưởng phòng Lôgíc học, Viện Triết học, Viện Khoa học xã
hội Việt Nam.
(1) Vũ Cao Đàm. Phương pháp luận
VỀ KHÁI NIỆM “TINH THẦN TUYỆT ĐỐI” TRONG TRIẾT HỌC HÊGHEN
(*) Viện Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
(1) G.W.F. Hêghen. Hiện tượng học tinh thần. Nxb Rếclam, Stútgát, 1996, tr. 16,
(tiếng Đức).
(2) Tác phẩm này được Hêghen công bố lần đầu tiên vào năm 1817 tại Haiđenbéc.
Sau đó, ông đã bổ sung và mở rộng qua hai lần tái bản vào các năm 1827 và 1830.
Chúng tôi sử dụng các trích dẫn được đánh số theo thứ tự các mục Đ của bản tiếng
Đức gồm ba tập (I-III), do Êva Môđenhauơ và Các Lútvích Misen biên soạn dựa trên
nguyên tác năm 1830 của Hêghen. Nxb Giuakăm, Phrăngphuốc a. M. , 1996.
(3) G.W.F. Hêghen. Những bài giảng về lịch sử triết học, t.III. Nxb Giuakăm,
Phrăngphuốc a. M., 1996, tr. 435 (tiếng Đức).
(4) G.W.F. Hêghen. Khoa học lôgích, t.II. Nxb Giuakăm, Phrăngphuốc a. M., 1996,
tr. 572 (tiếng Đức).
(5) Xem: Nguyễn Trọng Chuẩn, Đỗ Minh Hợp. Vấn đề tư duy trong triết học
Hêghen. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999, tr. 102-103.
(6) Xem: T.Staihe. Khái niệm “Tinh thần tuyệt đối” trong triết học G.
W.Hêghen. Nxb EOS, Xanh Ốtiliên, 1992, tr. 145 (tiếng Đức).
(**) Với tư tưởng này, Hêghen tin là mình đã khắc phục được “cái vô hạn xấu” (ví
dụ như trong triết học của Phíchtơ).
(7) Xem: T. Staihe. Sđd., tr. 193 –194 (tiếng Đức).
(8) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t. 2. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995,
tr.211.
VAI TRÒ CỦA CÁC NGUYÊN TẮC, PHẠM TRÙ LÔGÍC BIỆN CHỨNG ĐỐI
VỚI VIỆC RÈN LUYỆN NĂNG LỰC TƯ DUY BIỆN CHỨNG
(*) Thạc sĩ, giảng viên Khoa Giáo dục Chính trị, Trường Đại học Vinh.
(1) V.I.Lênin. Toàn tập, t.29. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.239.
(2) V.I.Lênin. Sđd., t.42, tr.364.
(3) V.I.Lênin. Sđd., t.42, tr.364.
(4) V.I.Lênin. Sđd., t.18, tr.167
(5) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập