Professional Documents
Culture Documents
tiểu luận PLDC
tiểu luận PLDC
CHƯƠNG 1 :
2. NỘI DUNG VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG GIỮ GÌN, PHÁT HUY GIÁ
TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
2.1. Pháp luật thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về giữ gìn, phát huy giá
trị văn hóa truyền thống thành các mục tiêu chung của đời sống xã hội
Pháp luật chuyển tải ý chí của giai cấp cầm quyền thành ý chí chung của toàn xã hội hay
nói cách khác đó là quá trình chuyển chủ trương, đường lối của giai cấp cầm quyền trở
thành quy tắc hành vi ứng xử của mọi người, mọi tổ chức trong xã hội. Vì vậy, pháp luật
luôn phản ánh đường lối, chủ trương của Đảng, là sự thể chế hóa đường lối, chủ trương
ấy thành các quy định chung thống nhất trên quy mô toàn xã hội. Do đó, việc xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như trong công tác tổ chức và thực hiện pháp luật
phải thấm nhuần các quan điểm thể hiện trong các đường lối, chính sách của Đảng. Trên
cơ sở quan điểm, đường lối đúng đắn về giữ gìn, phát GTVHTT, công tác xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật phải bảo đảm có sự kế thừa các giá trị truyền thống của dân
tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, làm tăng sức đề kháng, chống văn hóa độc
hại, nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động của đời sống xã hội. Vai trò của pháp luật
trong việc giữ gìn, phát huy GTVHTT chỉ có được khi thông qua hoạt động xây dựng
pháp luật, những quan điểm, đường lối về giữ gìn, xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam của Đảng phải được thể chế hóa thành các chính sách, pháp luật của nhà nước
với các quy phạm pháp luật cụ thể
Các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống dân tộc rất đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, các
giá trị mặt dù đã được lịch sử thẩm định, nhưng nếu một khi chúng không được pháp luật
quy phạm hóa thì nó chưa mang tính bắt buộc chung trong đời sống xã hội hiện đại. Bởi
vì trong thực tế đời sống xã hội, “có những hành vi vi phạm chuẩn mực đạo đức song
không vi phạm pháp luật và ngược lại, có những hành vi vi phạm pháp luật nhưng chưa
hẳn là vi phạm đạo đứcVì vậy, vấn đề đặt ra ở đây là pháp luật ngày càng phải hoàn thiện
nhằm phát huy tốt vai trò trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội; đồng thời, phải
đảm bảo hài giữa tinh thần của pháp luật với các GTVHTT, sao cho không làm mờ nhạt
vai trò của pháp luật nhưng vẫn phát huy tối đa các GTVHTT trong quá trình thực hiện
các mục tiêu về văn hóa, kinh tế, xã hội. Tổng thể các GTVHTT được thể hiện thông qua
một loạt các yếu tố về hình thức và nội dung của pháp luật, nhưng trong đó nổi bật là qua
hệ thống quyền và nghĩa vụ cụ thể trong những quan hệ pháp luật cụ thể và hệ thống chế
tài tương ứng với các loại trách nhiệm pháp lý. Do vậy, tính khách quan là điều kiện căn
bản để pháp luật gánh vác vai trò giữ gìn, phát huy GTVHTT, nếu không phù hợp với các
điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của quốc gia trong những hoàn cảnh nhất
định, pháp luật sẽ trở thành công cụ quản lý kém hiệu quả, dẫn đến phá vở hệ giá trị văn
hóa tồn tại lâu dài của dân tộc. Điều đó đòi hỏi “pháp luật phải phản ánh chân thực khách
quan các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh nhưng không phải là một “dương bản” của
cuộc sống, mà trái lại là sự phản ánh tích cực và có giá trị phổ biến”
Xác định báo chí có vai trò rất quan trọng trong tiến trình phát triển đất nước cũng như
trong xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, hiện đại, giàu bản sắc dân
tộc. Thông qua báo chí các GTVHTT của dân tộc có thể được phát hiện và giữ gìn, vun
đắp, tạo động lực cho sự phát triển, góp phần thúc đẩy sự hòa nhập của Việt Nam vào thế
giới bằng con đường văn hóa và chính báo chí sẽ làm cho thế giới hiểu hơn về giá trị văn
hóa truyền thống Việt Nam, con người Việt Nam. Luật báo chí năm 1989 và năm 2016
đều thể chế hóa chủ trương của Đảng về giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống của
dân tộc, đó là: Tuyên truyền, phổ biến, góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thành tựu của đất nước và thế giới
theo tôn chỉ, Mục đích của cơ quan báo chí; góp phần ổn định chính trị, phát triển kinh tế
- xã hội, nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu văn hóa lành mạnh của Nhân dân, bảo vệ và
phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa
Xác định việc điều chỉnh các quan hệ nhằm thỏa mản nhu cầu vật chất và tinh thần hằng
ngày của con người- những quan hệ mà ở đó các GTVHTT dân tộc đã xuất hiện, được
bồi đắp, bảo vệ, giữ gìn và phát triển, do đó pháp luật phải thực hiện nhiệm vụ bảo vệ và
giữ gìn, phát huy các giá trị đó. Thể hiện vai trò quan trọng đó của pháp luật trong đời
sống xã hội, Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991 quy định “hợp đồng dân sự được giao
kết theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, không trái với pháp luật và đạo đức xã hội”
[Điều 2]. Bộ luật Dân sự năm 1995, 2005 và sau này được thay đổi bằng Bộ luật 2015; bộ
luật Lao động năm 2012 cũng thể chế hóa các quan điểm của Đảng về giữ gìn các giá trị
văn hóa truyền thống và được thể hiện ở chương “những nguyên tắc cơ bản”, trong đó có
nguyên tắc “tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp”.
Đạo luật ra đời cũng nhằm tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, nâng cao trách nhiệm
của nhân dân trong việc bảo vệ và giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, đáp
ứng và thể chế hóa kịp thời các yêu cầu về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
trong thời kỳ hội nhập. Sự ra đời của đạo luật cũng đánh dấu sự phát triển của pháp luật
nước ta trong vai trò thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam vừa hiện đại, vừa mang đậm bản sắc truyền thống dân tộc.
Theo đó, đạo Luật không nằm ngoài mục đích xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
hiện đại nhưng giữ vững tính nhân đạo, nhân văn nhằm đưa các giá trị văn hóa Việt Nam
vào giáo dục và phát triển con người Việt Nam toàn diện về thể chất, tâm hồn và nhân
cách. Tại điều 12 Luật di sản văn hóa thể hiện nội dung trên: (1) Phát huy giá trị di sản
văn hóa vì lợi ích của toàn xã hội; (2) Phát huy truyền thống tốt đẹp của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam; (3) Góp phần sáng tạo thêm những giá trị mới, làm giàu kho tàng di
sản văn hóa Việt Nam và mở rộng giao lưu văn hóa quốc tế. Những quy định của Luật Di
sản văn hóa đã được xây dựng theo hướng cởi mở và sát với thực tiển, nhằm tạo hành
lang pháp lý thông thoáng và môi trường thuận lợi cho đầu tư phát triển kinh tế đất nước,
đồng thời đạo luật cũng góp phần mở rộng giao lưu văn hóa, hội nhập quốc tế. Qua đó,
phát huy tối đa và làm đặc sắc thêm các GTVHTT của dân tộc.
CHƯƠNG 3 :
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG
GIỮ GÌN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
3.1 Pháp luật phải thể chế hóa kịp thời, đầy đủ những quan điểm, chủ trương về giữ
gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống
Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, hiện đại, giàu bản sắc dân tộc là nội dung cốt
lỗi của tiến trình phát triển đất nước, tại Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh tiếp tục
“phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, giữ gìn bản sắc tốt đẹp của dân tộc”, đây là
nhiệm vụ vừa cơ bản, vừa cấp bách hiện nay. Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng thông qua được xác định nền văn hóa đó là một trong
tám đặc trưng của chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của Đảng ta, nó góp phần trực tiếp
tạo nên phẩm chất và giá trị của xã hội. Điều đó cũng có nghĩa là, sẽ không có chủ nghĩa
xã hội nếu chúng ta không phát triển văn hóa, không giữ gìn và phát huy được những giá
trị tốt đẹp của văn hóa truyền thống.
Từ chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm của nền văn hóa được xác định, pháp luật phải thể
hiện những xứ mệnh, trách nhiệm quan trọng đối với việc thực hiện các mục tiêu quốc
gia về xây dựng và phát triển nền văn hóa. Theo đó, pháp luật phải làm cho mọi hoạt
động văn hóa nhằm hướng đến xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn 125 diện về
chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng
nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia
đình, cộng đồng và xã hội.
Phải nhìn nhận rằng, các GTVHTT không phải là cẩm nang, không phải chìa khóa vạn
năng để làm được nhiệm vụ lớn lao về phát triển đất nước trong thời đại mới. Do đó, phải
có sự tham gia của tất cả các loại hình thuộc lĩnh vực sản xuất tinh thần; của các loại hình
văn hóa, đặc biệt là những thành tựu của văn hóa hiện đại, nếu biết khai thác và phát huy
tốt các GTVHTT hoàn toàn có khả năng tham gia nuôi dưỡng và phát triển những phẩm
chất cao đẹp của con người Việt Nam đã được hun đúc qua lịch sử ngàn năm. Những giá
trị, chuẩn mực của văn hóa truyền thống đó phải trở thành phẩm chất của con người Việt
Nam trong thời kỳ mới, tất cả các loại hình văn hóa truyền thống, thông qua sự chọn lọc,
phát huy và biết cách truyền bá sinh động, đa dạng sẽ tham gia có hiệu quả vào các nhiệm
vụ trên
3.2 Bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền
thống phải được thể hiện đồng bộ giữa các khâu xây dựng, giáo dục, thực hiện và
bảo vệ pháp luật
Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ và hiệu quả, có kế thừa và phát triển các giá
trị pháp lý của dân tộc là tiền đề vật chất thuận lợi cho việc thực hiện các mục tiêu về xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam. Do đó, hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật về văn hóa phải chú ý các GTVHTT, lấy đó làm mục tiêu và thước đo
chất lượng. Mặt khác, phải kết hợp hài hòa giữa GTVHTT với tính hiện đại trong việc
xây dựng các khung pháp lý. Làm được điều đó tức là pháp luật đã đạt được tính khách
quan, tính tôn trọng và tự giác thực hiện, đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển nền văn
hóa tiên tiến, hiện đại, giàu bản sắc dân tộc.
Do vậy, vấn đề xây dựng và hoàn thiện pháp luật nhằm giữ gìn, phát huy GTVHTT phải
trên cơ sở quan điểm phát triển toàn diện, hướng mọi hoạt động giữ gìn, phát huy
GTVHTT với việc xây dựng con người Việt Nam phát triển về thể chất, tâm hồn và trí
tuệ. Qua đó, tạo lập đồng bộ cơ sở pháp lý, bảo đảm tự do, dân chủ cho hoạt động sáng
tạo và hưởng thụ các giá trị văn hoá, huy động sự tham gia nhiều hơn, hiệu quả hơn của
xã hội vào việc bảo vệ, phát huy giá trị văn hoá dân tộc; ngăn chặn việc lưu hành các sản
phẩm văn hoá độc hại.
Như vậy, vấn đề không phải là làm được bao nhiêu luật mà điều quan trọng hơn là chất
lượng, tính hiệu quả, phù hợp với các chủ trương, chính sách và yêu cầu của xã hội đối
với các văn bản pháp luật. Vì vậy, những hạn chế, bất cập của pháp luật nếu không phát
hiện, sửa đổi và bổ sung kịp thời sẽ cản trở việc phổ biến, tuyên truyền các GTVHTT
trong nhân dân, phát huy các giá trị đó trong việc hướng tới các giá trị xã hội bền vững và
ổn định. Mặt khác, nếu pháp luật không đảm bảo tính ổn định với những thay đổi, xáo
trộn liên tục, tùy tiện thì cũng không có một hệ thống pháp luật hoàn thiện để bảo đảm
giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Do đó, các mục tiêu về việc xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam cũng không đạt được.
3.3 Bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền
thống phải gắn với thực hiện các mục tiêu quốc gia về văn hóa
Trong thời đại ngày nay, văn hóa trở thành vấn đề mang tính toàn cầu và liên quan tới các
quyền của con người hơn bao giờ hết. Không thể có một GTVHTT được bảo tồn và phát
triển khi mà các quyền con người, các giá trị nhân bản của xã hội bị chà đạp, hạn chế; khi
mà con người đói nghèo hoặc không có nhiều cơ hội để phát triển. Như vậy, giữ gìn, phát
huy các GTVHTT phải đảm bảo ngày càng tốt hơn các quyền con người và chính sách xã
hội trong một nền kinh tế thị trường, chỉ trong điều kiện như thế GTVHTT mới phát huy
các giá trị của mình một cách hiệu quả nhất.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là, cũng giống như các giá trị văn hóa cần phải giữ gìn và phát
triển, các quyền của con người cũng phải được bảo vệ bởi một chế độ pháp quyền mà ở
đó mọi hoạt động của cá nhân được bảo hộ bởi pháp luật, nhằm làm cho con người được
thỏa mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần. Đó là lý do gắn việc giữ gìn, phát huy
GTVHTT với việc bảo đảm các quyền con người như những mục tiêu của hoàn thiện và
nâng cao vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội.
Việc hoàn thiện pháp luật theo hướng bảo đảm các quyền con người và chính sách xã hội
hướng con người đến sự phát triển toàn diện đang đặt ra những vấn đề cần quan tâm hiện
nay:
Thứ nhất, việc thể chế hóa các quyền con người phụ thuộc rất nhiều vào ý chí, lợi ích của
giai cấp cầm quyền, vào các điều kiện kinh tế- xã hội và truyền thống văn hóa của mỗi
quốc gia. Nhưng việc mở rộng phạm vi điều chỉnh của con người là việc làm phù hợp với
xu thế phát triển của thời đại. Điều đó còn xuất phát từ những ràng buộc của các công
ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. Vì vậy, việc rà soát
lại các quy định hiện hành nhằm điều chỉnh và bổ sung những nội dung, yêu cầu cập nhật
về quyền con người trong điều kiện mới là một đòi hỏi tất yếu của hoạt động hoàn thiện
pháp luật ở nước ta hiện nay.
Thứ hai, không phải cứ mở rộng quyền con người, xây dựng các chính sách xã hội thì
mặc nhiên chúng ta đã giữ gìn, phát huy được các GTVHTT, vấn đề là ở chỗ tạo ra
những cơ sở thực tế và được bảo đảm bằng pháp luật để cho các quyền đó được thực hiện
Thứ ba, việc đảm bảo vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT còn đòi hỏi
phải sử dụng pháp luật như một phương tiện có hiệu quả để thực hiện các mục tiêu quốc
gia về văn hóa. Thực tiễn sự điều chỉnh của pháp luật đối với các chính sách văn hóa còn
nhiều hạn chế, bất cập, điều đó không những bộc lộ trong hệ thống pháp luật thực định
mà cả hoạt động thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật của các chủ thể
3.4 Bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền
thống phải phù hợp với đường lối chính trị, điều kiện kinh tế- xã hội, với truyền
thống dân tộc và phải xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, đồng thời tiếp thu có chọn
lọc về kinh nghiệm của quốc tế
Trong mối quan hệ với chính trị thì “một đạo luật là một biện pháp chính trị, là chính trị”
cụ thể hơn pháp luật trong trường hợp này là sự cụ thể hóa đường lối của đảng về xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, hiện đại, giàu bản sắc dân tộc. Ở một
phương diện khác, pháp luật lại là công cụ tổ chức và thực hiện đường lối chính trị có
hiệu quả nhất. Chính sự phù hợp giữa pháp luật với đường lối của Đảng sẽ đặt ra những
đòi hỏi chính đáng cho cả hai phía, đó là: một mặt, pháp luật phải trở thành phương tiện
đắc lực cho việc thể chế hóa và thực thi kịp thời, chính xác chủ trương, đường lối của
Đảng về văn hóa, nhưng mặc khác, để có pháp luật đúng đắn, đáp ứng các yêu cầu về giữ
gìn, phát huy các GTVHTT của dân tộc thì trước hết, đường lối chính trị của Đảng về văn
hóa phải xuất phát từ những luận cứ khoa học, phù hợp với cuộc sống, với các giá trị văn
hóa của dân tộc, hợp lòng dân và có khả năng hội nhập vào xu thế của thời đại.
Học thuyết Mác- Lênin về pháp luật chỉ ra rằng pháp luật là ghi chép lại một cách tích
cực sự tồn tại và vận động của các quan hệ kinh tế. Do đó các giá trị văn hóa nếu được
giữ gìn, phát huy trong điều kiện hệ thống pháp luật cao hơn hoặc thấp hơn trình độ và
chính sách phát triển của một nền kinh tế, tất yếu sẽ mang lại những hậu quả tiêu cực:
hoặc nó sẽ trở nên duy ý chí hoặc nó sẽ không được phát huy trong đời sống xã hội. Vì
vậy, để bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT trước tiên cần
phải có hệ thống pháp luật phù hợp với những điều kiện về kinh tế - xã hội trong những
giai đoạn nhất định. Tuy nhiên, pháp luật không phải là bản sao các quan hệ kinh tế, mà
pháp luật phải có khả năng tiên liệu xu hướng vận động các quan hệ kinh tế, về những
tiền đề khách quan và chủ quan để từ đó tham gia vào việc hoạch định chính sách kinh tế
đúng đắn. Bên cạnh đó, pháp luật còn phải có vai trò đảm bảo sự kết hợp giữa các giá trị
văn hóa với tăng trưởng kinh tế bền vững. Đảng đã chỉ rõ: “Những thành tựu của cách
mạng khoa học- công nghệ thế giới cùng với việc mở rộng giao lưu quốc tế là cơ hội để
chúng ta tiếp thụ những thành quả trí tuệ của loài người, đồng thời cũng đặt ra những
thách thức mới trong việc giữ gìn bản sắc dân tộc”
Tính độc đáo của mỗi nền pháp luật tuyệt nhiên không phải là lý do để chúng tồn tại biệt
lập với nhau. Giao thoa, hội nhập với các hệ thống pháp luật khác là phương cách để một
nền pháp luật tự nhận ra mình, để tích lũy và phát triển theo một định hướng. Trong xu
thế quốc tế hóa, giao lưu, tiếp biến là qui luật cơ bản của sự phát triển văn hóa, không
một nền văn hóa nào trên thế giới lại tuyệt đối cổ xưa, thuần khiết và không bị ảnh hưởng
bởi bất cứ nền văn hóa nào khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định văn hóa Việt
Nam là do ảnh hưởng của văn hóa phương Đông và phương Tây chung đúc lại. Thực
hiện chính sách mở cửa, hội nhập trên tất cả các lĩnh vực, do đó Việt Nam cần thiết tiếp
thu và chấp nhận tiếp biến giá trị tốt đẹp của văn hóa các quốc gia, dân tộc khác để phát
triển nền văn hóa dân tộc. Vì vậy, không thể đứng ngoài xu thế chung của nhân loại,
muốn phát triển đất nước thì phải hội nhập, phải tiếp nhận những giá trị văn hóa, văn
minh của nhân loại, những tiền đề vật chất và tinh thần mà thời đại tạo ra.
3.5 Bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống phải gắn với
bảo đảm tính thống nhất trong đa dạng của cộng đồng văn hóa các dân tộc Việt Nam
Việt Nam là một quốc có sự đa dạng về dân tộc, tôn giáo nhưng đoàn kết, thống nhất
trong các quá trình dựng nước và giữ nước đã tạo nên “một bản sắc Việt 132 Nam” trước
cộng đồng thế giới, như Đảng đã khẳng định: “Hơn 50 dân tộc sống trên đất nước ta đều
có những giá trị và sắc thái văn hóa riêng. Các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau,
làm phong phú nền văn hóa Việt Nam và củng cố sự thống nhất dân tộc là cơ sở để giữ
vững sự bình đẳng và phát huy tính đa dạng văn hóa của các dân tộc anh em”
Vì thế chính sách, pháp luật về văn hóa đối với các dân tộc, tôn giáo là một bộ phận
không thể tách rời của chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, là một nội dung quan trọng
trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về văn hóa, nhằm bảo đảm vai trò giữ
gìn, phát huy các GTVHTT của dân tộc. Trong bối cảnh quốc tế nhiều diễn biến phức tạp
như hiện nay, chính sách, pháp luật đó, một mặt phải đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và
không tín ngưỡng; tự do sáng tạo văn hóa, bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc
mình; mọi dân tộc, tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật; chống lợi dụng dân tộc, tôn
giáo vì những ý đồ xấu. Nhưng mặt khác, phải tôn trọng và khuyến khích các nhân tố tích
cực của các dân tộc, tôn giáo trong đời sống xã hội. Những ý tưởng về công bằng, bác ái,
hướng thiện trong mỗi tôn giáo tuy có sắc thái, mức độ khác nhau song cần được khuyến
khích vì chúng phù hợp với truyền thống văn hóa, đạo lý và pháp luật của chúng ta
Để quán triệt quan điểm chỉ đạo và thực hiện tốt các phương hướng trên, đòi hỏi cần phải
có những giải pháp bảo đảm vai trò của pháp luật thích hợp nhằm tạo động lực thúc đẩy
cho sự phát triển, thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng thành
công nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, hiện đại, giàu bản sắc dân tộc
Tính đa dạng văn hóa đang trở thành một xu thế tất yếu trong bối cảnh toàn cầu hóa,
nhưng tính đa dạng văn hóa phải đi đôi với việc đảm bảo vai trò điều chỉnh của pháp luật
trong việc thực hiện các mục tiêu văn hóa mới đảm bảo phát triển văn hóa bền vững và
đúng hướng. Trái lại, nếu trong quá trình giao lưu, hội nhập giữa các vùng văn hóa hoặc
giữa văn hóa nước ta với văn hóa các nước trên thế giới, lại chỉ chú trọng trong tính đa
dạng mà không có ý thức giữ gìn, phát huy những giá trị độc đáo của văn hóa dân tộc thì
đó sẽ là một nguy cơ phát triển không bền vững. Từ đó, chẳng những làm mất đi giá trị
văn hóa dân tộc mà còn làm cho việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
không đạt được mục tiêu mà Đảng đã đề ra, đó cũng là điều mà cả thế giới quan tâm và
chính UNESCO cũng đã cảnh báo.
4. GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG GIỮ GÌN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1 Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với đối với việc thực hiện các mục tiêu xây
dựng nền văn hóa Việt Nam
Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội, đường lối lãnh đạo
của Đảng là tư tưởng chỉ đạo cho việc xây dựng các văn bản pháp luật, với phương châm
là linh hồn của pháp luật và nó phải hóa thân vào pháp luật. Tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng không có nghĩa là Đảng bao biện, làm thay nhà nước, làm phai mờ các chức
năng quản lý, điều hành của các cơ quan chức năng nhà nước, mà chính là tăng cường sự
lãnh đạo thông qua đường lối chung về mọi mặt của đời sống xã hội và đường lối về xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam nói riêng.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng không phải bằng cách đưa ra nhiều Chỉ thị, Nghị quyết
của Đảng mà cần định hướng chung và các cấp ủy địa phương, cơ sở cần định hướng các
chuyên đề cụ thể phù hợp với tình hình thực tiễn về công tác văn hóa của từng địa
phương, từng vùng, miền khác nhau. Đồng thời, sự lãnh đạo của Đảng phải bảo đảm
không gây cản trở cho các cơ quan chức năng thực hiện tốt vai trò, chức năng, nhiệm vụ
của mình trong việc giám sát, kiểm tra, thanh tra và xử lý các vi phạm pháp luật của các
tổ chức, cá nhân đối với GTVHTT. Có như vậy mới đảm bảo được nguyên tắc pháp chế
xã hội chủ nghĩa, tránh được tình trạng can thiệp của Đảng vào công tác xử lý các hành vi
vi phạm pháp luật, bảo đảm được phương châm: “Mọi người sống và làm việc theo pháp
luật”. Ngoài ra, cần đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 32- CT/TW ngày 09 tháng 12 năm
2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công
tác phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân
dân.
Không một cán bộ, đảng viên nào được phép đặt mình trên pháp luật, mọi hoạt động đều
trên cơ sở pháp luật. Về vấn đề này ngay từ Đại hội Đảng lần thứ VI đã nhấn mạnh:
“Trong điều kiện Đảng cầm quyền, mọi cán bộ, bất cứ ở cương vị nào, đều phải sống và
làm việc theo pháp luật, gương mẫu trong việc tôn trọng pháp luật. Không cho phép bất
cứ ai dựa vào quyền thế để làm trái pháp luật. Mọi vi phạm đều phải bị xử lý”
4.2 Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa
Để bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT đạt hiệu quả thiết
thực, Nhà nước phải dựa trên những phương hướng, đường lối của Đảng về xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam, về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm đề
ra các biện pháp cụ thể, phù hợp với những điều kiện, hoàn cảnh trong mỗi giai đoạn nhất
định. Các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa các cấp đóng vai trò quan trọng trong xây
dựng kế hoạch, đề ra nhiệm vụ thực hiện các mục tiêu văn hóa, bảo đảm hoàn thành các
mục về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam. Do đó, hệ thống các cơ quan phải
bảo đảm kiện toàn đồng bộ với các đơn vị quản lý và đơn vị sự nghiệp nhằm thực hiện
đồng bộ nghiên cứu, quản lý mọi mặt của đời sống văn hóa một cách có hiệu quả nhất.
Để thực hiện mục tiêu đó đòi hỏi các chủ thể quản lý phải:
Thứ nhất, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học pháp lý, nghiên cứu GTVHTT của
dân tộc nhằm đề xuất luật hóa các giá trị văn hóa truyền thống, phát huy tối đa các giá trị
đó trong đời sống xã hội. Nghiên cứu giải pháp nhằm tạo ra sự hài hòa giữa văn hóa và
pháp luật trong quản lý góp phần vào thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội.
Thứ hai, xây dựng và thực hiện các chương trình, chiến lược phát triển văn hóa phải chú
trọng các GTVHTT, coi đó là cội nguồn tạo ra những giá trị bất tận về văn hóa, làm nên
nền tảng tinh thần của xã hội. Do đó, cần phải thực hiện tốt các nhiệm vụ bảo tồn và phát
huy các giá trị của di sản văn hóa theo quy định hiện hành như bảo vệ di sản văn hóa các
dân tộc thiểu số nhất là tiếng nói, chữ viết, trang phục, lễ hội truyền thống tốt đẹp. Đồng
thời, ra sức tuyên truyền, bài trừ các hủ tục lạc hâu, mê tín dị đoan, kiên quyết xử lý
nghiêm những hành vi cố tình vi phạm.
Thứ ba, thực hiện tốt các nhiệm vụ được thể chế trong Luật Di sản văn hóa như sớm hoàn
thành cơ bản việc tổ chức nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê, phân loại di sản văn hóa; tổ
chức truyền dạy, phổ biến, xuất bản, trình diễn và phục dựng các loại hình di sản văn hóa
phi vật thể; khuyến khích và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân nghiên cứu, sưu tầm, lưu
giữ, truyền dạy và giới thiệu di sản văn hóa phi vật thể.
Thứ tư, xây dựng cơ chế phối hợp trong việc thực hiện các mục tiêu chương trình, chiến
lược về văn hóa trong hoạt động quản lý nhà nước giữa ngành văn hóa với các ngành, các
cấp; giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước nhằm tăng
cường các hoạt động hợp tác quốc tế về văn hóa, quảng bá hình ảnh, đất nước, con người,
văn hóa Việt Nam. Qua đó, cũng cố nguồn lực phát triển nền công nghiệp văn hóa góp
phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội nhằm tạo nguồn nội lực ổn định thực
hiện các mục tiêu về giữ gìn, phát huy GTVHTT.
Thứ năm, thường xuyên theo dõi, kiểm tra, rà soát nhằm phát hiện những hạn chế, bất cập
của các chính sách, pháp luật và chủ động tham mưu đề xuất các cấp có thẩm quyền điều
chỉnh cho phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội. Đồng thời, theo dõi và có ý kiến khi các
dự thảo chính sách, pháp luật điều chỉnh không phù hợp với các yều cầu, mục tiêu về xây
dựng và phát triển nền văn hóa cũng như gây ra những khó khăn cho các chủ thể trong
việc giữ gìn, phát huy GTVHTT.
Thứ sáu, các cơ quan quản lý các cấp cần thực hiện tốt chính sách tôn vinh, đãi ngộ đối
với các nghệ sĩ, nghệ nhân tiêu biểu có nhiều đóng góp cho việc bảo tồn và phát triển các
giá trị di sản văn hóa.
4.3 Tăng cường công tác thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về giữ
gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống và chuyển tải nội dung, bảo đảm hiệu quả
điều ước quốc tế về văn hóa mà Việt Nam tham gia
Pháp luật là cơ sở, nền tảng để tiến hành mọi hoạt động quản lý nhà nước trong một
khuôn khổ nhất định và hiệu quả nhất, từ đó làm cho xã hội được ổn định, có trật tự hơn.
Muốn bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT cần tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực này. Do đó, cần tăng cường thể chế
hóa quan điểm của Đảng thành pháp luật, tạo ra sự ràng buộc và động viên tối đa các chủ
thể văn hóa tham gia vào việc giữ gìn, phát huy GTVHTT. Phải thường xuyên rà soát,
đánh giá, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về văn hóa bảo đảm đồng bộ,
tránh chồng chéo, trùng lắp và thúc đẩy sự phát triển nền văn hóa. Phải xây dựng các
chương trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật, trong đó chú trọng hoàn hệ thống pháp
luật tạo hành lang pháp lý vững chắc về giữ gìn, phát huy GTVHTT. Trên cơ sở Nghị
quyết số 48/- NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị “về Chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm
2020”, Kết luận số 01-KL/TW, ngày 04/4/2016 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực
hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW, Nhà nước thông qua hệ thống các cơ quan có thẩm quyền
cần tiến hành lập kế hoạch xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật về xây
dựng nền văn hóa Việt Nam mang tính chiến lược lâu dài. Chiến lược xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về văn hóa Việt Nam sẽ có ý nghĩa rất lớn trong việc củng cố, bổ sung,
đổi mới hệ thống pháp luật về giữ gìn và phát triển các GTVHTT ngày càng đầy đủ, đồng
bộ; thể chế kịp thời, đúng đắn đường lối của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa; tạo
tiền đề cơ sở cho việc đảm bảo vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT
hiện nay.
4.4 Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách,
pháp luật về văn hóa, kết hợp với việc tuyền truyền, phổ biến các giá trị văn hóa
truyền thống nhằm nâng cao ý thức giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống
trong nhân dân
Có thể nói mọi hoạt động của xã hội muốn thành công phải bắt đầu từ con người và vì
con người. Muốn giữ gìn, phát huy GTVHTT cần phải nâng cao ý thức người dân để họ ý
thức được trách nhiệm, vai trò quan trọng của chính họ trong sự nghiệp này. Do đó, cần
phải tiến hành công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của nhân dân
đối với GTVHTT trong đời sống xã hội, giúp cho người dân thấy được sự cần thiết và
tầm quan trọng của giá trị đó trong đời sống cộng đồng cũng như trong quá trình phát
triển. Giáo dục pháp luật là nội dung quan trọng trong việc bảo đảm vai trò của pháp luật
điều chỉnh các quan hệ xã hội, vì “công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật
là hoạt động có mục đích, tác động đến các chủ thể thông qua việc cung cấp một lượng tri
thức pháp lý cần thiết, nhằm nâng cao ý thức pháp luật, là cơ sở hình thành hành vi hợp
pháp của mỗi công dân”
Trước tiên, cần đặc biệt chú trọng giáo dục về ý thức tôn trọng lẽ phải, cái đúng, cái tốt
đẹp, tôn trọng các giá trị đạo đức, văn hóa, thuần phong mỹ tục được cộng đồng thừa
nhận trong các trường học, ở các bậc học; cần nêu cao gương tốt trong xã hội như lối ứng
xử nhân hậu, nhân văn, tương trợ giúp đở nhau trong cuộc sống; những ràng buộc pháp
luật phù hợp với những ràng buộc về mặt đạo đức xã hội.
Cần phối hợp với cơ quan giáo dục về chương trình giáo dục các giá trị văn hóa truyền
thống ở các cấp học hiện nay, nhất là đối với các bậc học phổ thông; việc giáo dục về ý
thức giữ gìn các GTVHTT phải được cải tiến về nội dung và phương pháp giảng dạy. Do
đó, để đạt được mục tiêu trên, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần phải phối hợp với Bộ
Giáo dục và Đào tạo về việc đưa các nội dung giáo dục GTVHTT vào trường học. Phải
coi các GTVHTT của dân tộc như là một nội dung của giáo dục- đào tạo. Tuy nhiên, bên
cạnh việc giáo dục các GTVHTT cần phải biết “gạn đục, khơi trong” để các thế hệ mai
sao thấy được các giá trị đích thực của văn hóa truyền thống trong việc xây dựng và phát
triển đất nước trong lịch sử và hiện tại. Đồng thời với thực hiện nhiệm vụ trên là kết hợp
giáo dục con người về các giá trị tích cực của cuộc sống hiện đại như tôn trọng pháp luật,
kỷ cương, kỷ luật, lao động cần cù nhưng biết sáng tạo, ứng dụng thành tựu khoa học kỹ
thuật trong cuộc sống. Thực hiện được điều này sẽ có ý nghĩa giáo dục con người mới
trong tương lai văn minh, hiện đại, có kỷ luật, kỷ cương nhưng đồng thời cũng biết yêu
quí những giá trị tốt đẹp của dân tộc và có nhân cách tốt, có lối sống nhân văn, nhân
nghĩa. Như vậy sẽ có một lớp người có kỷ luật, kỷ cương, có ý thức cao trong việc giữ
gìn, phát huy các giá trị của văn hóa truyền thống nhưng đồng thời cũng biết xây dựng,
phát triển đất nước trên nền tảng các giá trị văn hóa đó.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu, đánh giá vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT ở Việt Nam
là vấn đề phức tạp ở cả phương diện lý luận và thực tiễn- sự phức tạp thể hiện ở ngay đối
tượng nghiên cứu của luận án, đó là lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội. Việc nghiên
cứu các vấn đề thuộc nội dung của luận án nhằm thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ của đề
tài luận án về cơ bản đã đạt được. Kết quả nghiên cứu trên các phương diện lý luận và
thực tiễn đời sống pháp lý ở nước ta đã được thể hiện ở các chương 2, chương 3 và qua
đó đã làm sáng tỏ các vấn đề sau:
Trong thời kỳ đổi mới đến nay nhận thức về văn hóa nói chung và văn hóa truyền thống
nói riêng đã có sự thay đổi rõ rệt, nhất là từ khi Nghị quyết Trung ương lần thứ năm
(khóa VIII) đề ra chiến lược “về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc”. Từ đó, vấn đề giữ gìn, phát huy GTVHTT cũng đã thu hút được
sự quan tâm của xã hội. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự nghiệp đổi mới ở
Việt Nam hiện nay, vì có giữ được các GTVHTT và phát huy các giá trị đó trong công
cuộc kiến tạo xây dựng và phát triển đất nước thì đó sẽ là đóng góp rất quan trọng cho
chiến lược phát triển văn hóa mà Đảng đã đề ra trong thời kỳ quá độ tiến lên xã hội chủ
nghĩa của đất nước. Giữ gìn, phát huy được GTVHTT không chỉ là nhằm thực hiện mục
tiêu xây dựng nền văn hóa mà còn là bảo đảm cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế,
góp phần ổn định chính trị, bảo đảm sự mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế.
Đây là một vấn đề lớn không thể giải quyết ngay được, mà đòi hỏi phải có một quá trình
với sự hỗ trợ của một hệ thống đồng bộ các phương tiện chính trị, pháp luật, kinh tế, văn
hóa, xã hội. Lẽ tất nhiên pháp luật luôn được coi là phương tiện quan trọng và không thể
thay thế nhờ vào các hình thức, phạm vi, các thuộc tính của nó. Vai trò của pháp luật
trong giữ gìn, phát huy GTVHTT được thể hiện trong hoạt động xây dựng pháp luật với
việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, hiện đại, giàu bản sắc dân tộc bằng việc xác lập được một hệ
thống pháp luật đồng bộ và thống nhất, bảo đảm hiệu quả thực thi trên phạm vi toàn xã
hội. Từ đó GTVHTT được giữ gìn và phát huy thông qua việc thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể và thông qua ý thức pháp luật của nhân dân.
Huy động các yếu tố truyền thống để phát triển xã hội nhưng không đồng nhất với bảo
thủ trì trệ. Do đó, mọi hệ chính sách và chiến lược phát triển văn hóa phải bù đắp và chọn
lọc các yếu tố của truyền thống. Các chính sách về xây dựng và phát triển các yếu tố văn
hóa từ trong lòng sâu của xã hội phải thiết lập được sự đổi mới. Giữ gìn, phát huy
GTVHTT bằng cách kế thừa, tiếp thu có chọn lọc hệ giá trị truyền thống của dân tộc, của
nhân loại và xây dựng một hệ giá trị mới trên nền tảng truyền thống, đó là mục tiêu của
các chính sách và chiến lược văn hóa. Với những gì làm được, luận án hy vọng đóng góp
vào việc giải quyết những đòi hỏi cấp thiết về lý luận và thực tiễn nhằm bảo đảm vai trò
của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT ở Việt Nam hiện nay
12. Đỗ Văn Bích (1996), Đổi mới, hoàn thiện pháp luật trong phòng chống văn hóa độc hại và tệ nạn xã
hội ở nước ta hiện nay, Luận án phó tiến sĩ khoa học Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
13. Trần Văn Bính (2004), Văn hóa các dân tộc Tây Nam Bộ thực trạng và những vấn đề đặt ra, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
14. Trần Văn Bính (Chủ biên) (2006), Đời sống văn hóa các dân tộc thiểu số trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
15. Trương Quốc Bình (2013), "Vận dụng những quan điểm của UNESCO vào việc hoạch định chính sách
và hệ thống pháp lý về bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam", Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc
tế: 10 năm thực hiện Công ước Bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO - Bài học kinh nghiệm và
định hướng tương lai, Viện văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam, Hà Nội.
16. Bộ Ngoại Giao (2015), Báo cáo quốc gia kiểm điểm định kỳ việc thực hiện quyền con người ở Việt
Nam, tại trang http://www.mofahcm.gov.vn [truy cập ngày 29/8/2018].
17. Bộ Văn hóa - Thông tin (2005), Báo cáo tổng kết chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa giai đoạn
2001- 2005, kế hoạch năm 2006 và định hướng triển khai xây dựng và thực hiện chương trình giai đoạn
2006-2010, Hà Nội.
18. Bộ Văn hóa - Thông tin (2007), Đề án hỗ trợ phát triển văn hóa 16 dân tộc thiểu số có số dân dưới 5
ngàn người giai đoạn 2007- 2010, Hà Nội.
19. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Ban Tuyên giáo Trung ương, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Báo Nhân dân, Hội đồng Lý luận Trung ương (2015), Hội thảo khoa học quốc gia- Những giải pháp
tổ chức triển khai Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, Hà Nội.
20. Bộ Văn hóa, Thể thao Và Du lịch (2017), Đề án Hoàn thiện hệ thống pháp luật về văn hóa, gia đình
đến năm 2021, định hướng đến 2026, Hà Nội.
21. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du Lịch (2018), Báo cáo về Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt
Nam vì sự phát triển bền vững, Tại Hội nghị Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam vì sự phát
triển bền vững, vào ngày 27/7/2018 tại Hà Nội.
22. C.Mác (1971), Sự khốn cùng của triết học, Nxb Sự thật, Hà Nội.