You are on page 1of 15

1

A.1. Lý thuyết:
1/ Nguyên tắc “sử dụng hợp lý” (“fair use”) là gì? Tìm hiểu quy định của pháp
luật nước ngoài về vấn đề này và so sánh với các quy định hiện hành của pháp
luật sở hữu trí tuệ Việt Nam.
Nguyên tắc “sử dụng hợp lý” là tình huống sử dụng các đối tượng quyền sở hữu trí
tuệ không xâm phạm quyền tác giả hoặc đôi khi còn được gọi là sử dụng hợp lý (fair
use) mang bản chất là giới hạn phạm vi độc quyền đối với chủ sở hữu quyền tác giả.
Tuy nhiên, việc sử dụng này phải đảm bảo rằng người thực hiện hành vi sử dụng đó
không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây
phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và phải thông tin về
tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm.
* Quy định của một số quốc gia về nguyên tắc “sử dụng hợp lý” (“fair use”):
- Trong pháp luật Hoa Kỳ, theo quy định tại Điều 107 Luật Quyền tác giả Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ về Hạn chế đối với các quyền độc quyền - sử dụng hợp lý là “sử
dụng được phép một tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả bao gồm các hình thức sử
dụng thông qua hình thức sao chép dưới dạng bản sao hoặc bản ghi hoặc bởi bất kỳ
một phương thức nào được quy định trong Điều này cho mục đích bình luận, phê bình,
đưa tin hoặc giảng dạy (bao hàm cả việc sử dụng nhiều bản sao cho lớp học), nghiên
cứu, học tập là không vi phạm quyền tác giả. Để xác định xem liệu việc sử dụng tác
phẩm trong các trường hợp cụ thể có phải là sử dụng được phép hay không chúng ta
cần xem xét các nhân tố sau:
(1) Mục đích và đặc điểm của việc sử dụng, bao gồm việc sử dụng đó có tính chất
thương mại không hay là chỉ nhằm mục đích giáo dục phi lợi nhuận;
(2) Bản chất của tác phẩm được bảo hộ;
(3) Số lượng và thực chất của phần được sử dụng trong tác phẩm được bảo hộ như
là một tổng thể;
(4) Vấn đề ảnh hưởng của việc sử dụng đó đối với tiềm năng thị trường hoặc đối
với giá trị của tác phẩm được bảo hộ.
Ghi nhận là một tác phẩm chưa công bố về bản chất không ngăn cản việc tìm kiếm
để sử dụng hợp lý nếu việc tìm kiếm này được thực hiện dựa trên việc xem xét tất cả
các nhân tố kể trên.
- Trong pháp luật Thuỵ Điển, được quy định tại Chương 2 Luật Quyền tác giả tác
phẩm văn học và nghệ thuật năm 1960 (sửa đổi, bổ sung năm 2000) về Giới hạn quyền
2
tác giả, cụ thể là các trường hợp: Sao chép nhằm mục đích sử dụng cá nhân (Điều 12),
Sao chép trong hoạt động giáo dục (Điều 13 và Điều 14), Sao chép phục vụ các hoạt
động trong bệnh viện (Điều 15), Sao chép trong cơ quan lưu trữ và thư viện (Điều 16),
Sao chép dành cho những người khiếm thị (Điều 17), Tác phẩm hỗn hợp sử dụng trong
hoạt động giảng dạy (Điều 18), Phân phối bản sao (Điều 19), Trưng bày bản sao (Điều
20), Biểu diễn công cộng (Điều 21),...
* So sánh quy định về “fair use” của pháp luật nước ngoài với các quy định
hiện hành của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam :
- Điểm giống:
+ Thường không quy định mức độ cụ thể (con số, số phần trăm,..) như thế nào là
sử dụng hợp lí.
+ Được sử dụng tác phẩm đã được pháp luật bảo hộ về quyền tác giả không cần sự
cho phép của tác giả/chủ sở hữu.
+ Vấn đề “sử dụng hợp lí” đều không có tiêu chí cụ thể, rõ ràng để xác định mà đa
số sẽ dựa vào Tòa án xem xét trong các trường hợp cụ thể mà giải thích. Ví dụ: Tại
bản án 127/2007/DS-PT Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội, cùng một hành vi trích
dẫn toàn bộ 4 tác phẩm văn học nhưng Tòa án cấp sơ thẩm cho có vi phạm quyền tác
giả còn Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng không vi phạm quyền tác giả.
+ Không phải là hành vi xâm phạm quyền tác giả.
+ Ngoài Hoa Kỳ thì một số quốc gia xác định việc sử dụng hợp lý được liệt kê
giống như Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, cụ thể như Luật Quyền tác giả của Nhật Bản
từ Điều 30 đến Điều 50 hay từ Điều 11 đến Điều 26 Luật Quyền tác giả tác phẩm văn
học và nghệ thuật của Thụy Điển.
- Khác nhau:

Tiêu chí Pháp luật nước ngoài Pháp luật Việt Nam
Xác - Luật Quyền tác giả Hoa Kỳ đưa ra 4 Quy định liệt kê các trường hợp
định yếu tố cụ thể cần phải đáp ứng đủ theo “sử dụng hợp lí”.
việc sử quy định tại Điều 107: Ghi nhận tại các điều luật: Điều
dụng (1) Mục đích và đặc điểm của việc sử 25, 26, 32, 33 Luật SHTT.
hợp lý dụng, bao gồm việc sử dụng đó có tính
chất thương mại không hay là chỉ
nhằm mục đích giáo dục phi lợi nhuận;
3
(2) Bản chất của tác phẩm được bảo
hộ;
(3) Số lượng và thực chất của phần
được sử dụng trong tác phẩm được bảo
hộ như là một tổng thể;
(4) Vấn đề ảnh hưởng của việc sử
dụng đó đối với tiềm năng thị trường
hoặc đối với giá trị của tác phẩm được
bảo hộ.
Ngoại lệ - Tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả - Tác phẩm kiến trúc, tác phẩm
thì đều có thể sao chép nếu đáp ứng tạo hình, chương trình máy tính
được các yếu tố quy định tại Điều 107 không được sao chép dù là nhằm
Luật Quyền tác giả Hoa Kỳ. mục đích nghiên cứu khoa học,
- Việc sao chép một tác phẩm nhằm giảng dạy hay lưu trữ trong thư
mục đích học tập được pháp luật quy viện (khoản 3 Điều 25 Luật
định là hợp pháp (Điều 107 Luật SHTT).
Quyền tác giả Hoa Kỳ). - Việc sao chép nhằm mục đích
- Bình luận thời sự chính trị, kinh tế học tập không được xem là hợp
hoặc xã hội đăng tải trên báo hoặc tạp pháp.
chí không được sao chép vào các bài Pháp luật sở hữu trí tuệ Việt
viết mang tính nghiên cứu khoa học Nam không thừa nhận sao chép
(Điều 39 Luật Quyền tác giả Nhật nhằm mục đích học tập thuộc
Bản). trường hợp giới hạn quyền tác
- Quyền tác giả không ngăn cản việc giả. Cách tiếp cận này có cơ sở
sử dụng tác phẩm trong việc quản lý với giả thiết nếu học sinh, sinh
của cơ quan tư pháp hoặc công an viên được tự do sao chép mỗi
(Điều 26b Luật Quyền tác giả tác người một bản sách giáo khoa,
phẩm văn học và nghệ thuật của Thụy giáo trình, tài liệu… để phục vụ
Điển). cho việc học tập thì sách in sẽ
không bán được (vì giá thành
photocopy tác phẩm chắc chắn
sẽ rẻ hơn mua sách in) và điều
này chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến
4
quyền lợi của chủ sở hữu tác
phẩm trong việc khai thác tác
phẩm.
Mức độ - Luật Bản quyền Anh cho phép người Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam
cụ thể sử dụng sao chép tới 10% nhưng không có quy định mức độ cụ
được không quá một chương của một cuốn thể.
xem là sách.
sử dụng - New Zealand vấn đề sao chép tác
hợp lý phẩm tại thư viện phải tuân thủ Luật
Quyền tác giả 1994. Trong luật này
giới hạn về quyền tác giả với số % tác
phẩm hợp lý dành cho mục đích học
tập, nghiên cứu của các cá nhân; giới
hạn việc sao chép của các tổ chức giáo
dục phi lợi nhuận nhằm mục đích giáo
dục và giới hạn số lượng tư liệu sao
chép từ những tác phẩm có bản quyền
tại các thư viện. Thư viện có thể làm
một bản sao của một tác phẩm hoặc
một bài báo định kỳ cho sử dụng với
mức độ sao chép hợp lý; Phần trăm
(%) sao chép hợp lý được dựa trên sao
chép sử dụng cho mục đích nghiên cứu
hoặc tự học, sao chép sử dụng cho mục
đích giáo dục; Sao chép cho mục đích
giáo dục có thể được thực hiện dựa
theo thỏa thuận chuyển nhượng bản
quyền với CLL,...
Xin Luật Bản quyền 1994 của New Việc sử dụng hợp lí không phải
phép Zealand sao chép phải được sự cho xin phép, ghi nhận tại các Điều
phép của chủ sở hữu bản quyền; sự sao 25, 26, 32, 33 Luật SHTT.
chép cơ sở dữ liệu điện tử chỉ có thể
được thực hiện dưới dạng hợp đồng
5
giữa thư viện với nhà cung cấp cơ sở
dữ liệu; muốn sao chép các buổi phát
thanh, truyền hình và chương trình
truyền hình cáp phải có giấy phép bản
quyền từ Screenrights,…

Câu 2: Có mấy hình thức chuyển giao quyền tác giả ? Phân biệt các hình thức
này ?
Chuyển giao quyền tác giả gồm có 2 hình thức:
- Chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan
- Chuyển quyền sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan.
Phân biệt 2 hình thức chuyển giao quyền tác giả:

Tiêu chí Chuyển nhượng QTG, QLQ Chuyển quyền sử dụng QTG, QLQ
CSPL Điều 45 Luật SHTT Điều 47 Luật SHTT
Chuyển nhượng = chuyển giao Chuyển quyền sử dụng là cho phép tổ
quyền sở hữu. chức, cá nhân khác sử dụng.
Nội Khoản 1 Điều 46 Luật SHTT: Khoản 1 Điều 48 Luật SHTT:
dung cơ 1. Hợp đồng chuyển nhượng quyền 1. Hợp đồng sử dụng quyền tác giả,
bản của tác giả, quyền liên quan phải được quyền liên quan phải được lập thành văn
lập thành văn bản gồm những nội
HĐ dung chủ yếu sau đây: bản gồm những nội dung chủ yếu sau

a) Tên và địa chỉ đầy đủ của bên đây:


chuyển nhượng và bên được
chuyển nhượng; a) Tên và địa chỉ đầy đủ của bên chuyển
quyền và bên được chuyển quyền;
b) Căn cứ chuyển nhượng;
b) Căn cứ chuyển quyền;
c) Giá, phương thức thanh toán;
c) Phạm vi chuyển giao quyền;
d) Quyền và nghĩa vụ của các bên;
d) Giá, phương thức thanh toán;
đ) Trách nhiệm do vi phạm hợp
đồng. đ) Quyền và nghĩa vụ của các bên;
e) Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.

A.2. Bài tập:


1. Nghiên cứu tranh chấp quyền tác giả trong vụ việc Truyện tranh Thần Đồng
Đất Việt và đánh giá các vấn đề pháp lý sau:
6
a) Theo Luật SHTT, truyện tranh Thần Đồng Đất Việt có được bảo hộ quyền tác
giả không?
Đối tượng mà các bên tranh chấp cụ thể là quyền tác giả đối với hình tượng 4 nhân
vật: Tí, Sửu, Dần, Mẹo được bảo hộ quyền tác giả. Về truyện như tác phẩm truyện
tranh được thể hiện dưới dạng chữ viết và hình ảnh nên cũng được bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ (điểm a, g khoản 1 Điều 14 Luật SHTT). Căn cứ theo Khoản 1 Điều 6 Luật
SHTT: “Quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện
dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình
thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng
ký”.
Như vậy, quyền tác giả được xác lập ngay khi tác phẩm xuất hiện dưới một hình thức
lần đầu tiên. Do đó, ngay từ khi hình tượng nhân vật Tí, Sửu, Dần, Mẹo được thể hiện
trên giấy thông qua nét bút của họa sĩ Lê Linh thì đã được bảo hộ quyền tác giả. Bởi lẽ
luật về đăng ký sở hữu trí tuệ chưa có công nhận nào về đăng ký ý tưởng trong đầu (sự
hình dung) của bà Mỹ Hạnh. b) Ai là chủ sở hữu bộ truyện tranh này?
b) Ai là chủ sở hữu bộ truyện tranh này?
Chủ sở hữu bộ truyện tranh Thần Đồng Đất Việt là công ty Phan Thị. Căn cứ hợp
đồng lao động mà ông Lê Phong Linh ký kết với Công ty Phan Thị và lời trình bày của
công ty Phan Thị trong quá trình giải quyết vụ án, có cơ sở xác định ông Lê Phong
Linh làm việc cho Công ty Phan Thị theo hợp đồng lao động, nhiệm vụ là vẽ tranh
minh họa. Theo văn bản đề ngày 29/3/2002 thể hiện “Chúng tôi đứng tên dưới đây
gồm: 1. Lê Phong Linh; 2. Phan Thị Mỹ Hạnh được Công ty TNHH Thương mại dịch
vụ kỹ thuật và phát triển tin học Phan Thị,…giao nhiệm vụ thực hiện các tác phẩm:
bản vẽ nhân vật Tí, Sửu, Dần, Mẹo để in trên bộ truyện tranh Thần Đồng Đất Việt”.
Văn bản nêu trên có chữ ký của ông Lê Phong Linh. Công ty Phan Thị là tổ chức giao
nhiệm vụ cho ông Lê Phong Linh vẽ minh họa nên căn cứ theo Điều 39 Luật SHTT
công ty Phan Thị là chủ sở hữu tác phẩm bộ truyện tranh này1.
c) Ai là tác giả bộ truyện tranh này?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 745, Điều 754 Bộ luật Dân sự 1995 thì “Tác giả là
người trực tiếp sáng tạo toàn bộ hoặc một phần tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa
học”; “Quyền tác giả phát sinh kể từ thời điểm tác phẩm được sáng tạo dưới hình thức
nhất định”. Tác giả là người trực tiếp tạo ra tác phẩm, còn những người giúp đỡ, đóng

1
Bản án số 774/2019/DS-ST ngày 03/09/2019 về tranh chấp quyền Sở hữu trí tuệ của TAND TP. HCM
7
góp ý kiến không được xem là tác giả. Theo khoản 3 và khoản 5 Điều 2 Nghị định số
76 – CP ngày 29 tháng 11 năm 1996 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số quy
định về quyền tác giả trong Bộ luật Dân sự thì để được công nhận là tác giả, người trực
tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn học, nghệ thuật hoặc khoa học
phải để tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm được công bố, phổ biến; cá nhân, tổ chức
làm công việc hỗ trợ, góp ý kiến hoặc cung cấp tư liệu cho người khác sáng tạo ra tác
phẩm không được công nhận là tác giả. Xét, cá nhân được công nhận là tác giả khi
sáng tạo ra tác phẩm và thể hiện sự sáng tạo đó dưới một hình thức vật chất nhất định.
Tức là, nếu một người có ý tưởng sáng tạo tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học
nhưng chưa thể hiện ý tưởng này dưới bất kỳ hình thức vật chất nào thì không thể yêu
cầu công nhận mình là tác giả đối với ý tưởng đó. Trên các ấn phẩm phát hành đều thể
hiện nguyên đơn (bút danh Lê Linh) là người thể hiện phần tranh minh họa, ngoài ra
một số mục khác như quá trình thực hiện bộ truyện Thần Đồng Đất Việt mà theo trình
bày của bà Phan Thị Mỹ Hạnh là để giao lưu với bạn đọc thì đều thể hiện họa sĩ Lê
Linh là tác giả. Theo lời bà Phan Thị Mỹ Hạnh thì bà là người lên ý tưởng về các nhân
vật trong truyện, ông Lê Linh chỉ là người trình bày lại ý tưởng đó. Bà Mỹ Hạnh cho
rằng mình là đồng tác giả của tác phẩm. Nhận định của bà Mỹ Hạnh cùng lời giải thích
như vậy là không đủ căn cứ. Bởi lẽ luật về đăng ký sở hữu trí tuệ chưa có công nhận
nào về đăng ký ý tưởng trong đầu (sự hình dung). Hơn nữa, việc bà Mỹ Hạnh có ý
tưởng về các nhân vật cũng chưa chắc đã thể hiện được trọn vẹn trên giấy nếu không
có tài năng của người sáng tác. Theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Luật SHTT: “1.
Quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một
hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương
tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký…”. Như
vậy, quyền tác giả được xác lập ngay khi tác phẩm xuất hiện dưới một hình thức nhất
định lần đầu tiên, do đó, Họa sĩ Lê Linh là tác giả của bộ truyện tranh “Thần đồng Đất
Việt”2.
d) Công ty Phan Thị có quyền gì đối với tác phẩm này?
Công ty Phan Thị là tổ chức giao nhiệm vụ cho ông Lê Phong Linh vẽ minh họa
nên là chủ sở hữu tác phẩm Thần Đồng Đất Việt. Căn cứ theo khoản 2 Điều 39 Luật
SHTT thì “Tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng với tác giả sáng tạo ra tác phẩm là chủ
sở hữu các quyền quy định tại Điều 20 và khoản 3 Điều 19 của Luật này, trừ trường

2
Bản án số 774/2019/DS-ST ngày 03/09/2019 về tranh chấp quyền Sở hữu trí tuệ của TAND TP. HCM
8
hợp có thỏa thuận khác”. Do đó, công ty Phan Thị có các quyền được quy định tại
Điều 20 và khoản 3 Điều 19 Luật SHTT. Cụ thể:
- Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;
- Làm tác phẩm phái sinh;
- Biểu diễn tác phẩm trước công chúng;
- Sao chép tác phẩm;
- Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm;
- Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến,
mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác;
- Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính.
e) Việc Công ty Phan Thị cho xuất bản bộ truyện từ tập 79 trở đi có phù hợp với
quy định pháp luật không?
Công ty vẫn phát hành tiếp các tập truyện Thần Đồng Đất việc từ tập 79 trở đi với
hình thức thể hiện của các nhân vật khác so với hình thức thể hiện đã được đăng ký tại
Cục Bản quyền tác giả mà không có sự đồng ý của ông Linh là không phù hợp với quy
định pháp luật. Công ty Phan Thị là chủ sở hữu được sử dụng hình tượng của 4 nhân
vật này tuy được quyền làm tác phẩm phái sinh nhưng không được thay đổi hình thức
thể hiện gốc đã được đăng ký ở Cục Bản quyền khi không có sự đồng ý của ông Linh.
Cụ thể, Theo khoản 8 Điều 4 Luật SHTT, “Tác phẩm phái sinh là tác phẩm dịch từ
ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên
soạn, chú giải, tuyển chọn”. Công ty Phan Thị sử dụng hình thức thể hiện của các nhân
vật nêu trên để thực hiện các tập từ tập 79 trở đi của bộ truyện tranh Thần Đồng Đất
Việt với hình thức thể hiện khác so với hình thức thể hiện đã được đăng ký tại Cục
Bản quyền tác giả, là hoạt động làm tác phẩm phái sinh nhưng không nêu được đó là
hoạt động nào trong các hoạt động dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn,
chú giải hay tuyển chọn. Theo các Giấy chứng nhận số 246, 247, 248, 249/2002/QTG
ngày 07/5/2002 của Cục Bản quyền tác giả - Bộ Văn hóa thông tin và các tài liệu kèm
theo các giấy chứng nhận này thì hình thức thể hiện của các nhân vật Trạng Tí, Sửu
Ẹo, Dần Béo, Cả Mẹo chỉ được diễn hoạt ở một vài góc cạnh như trước, nghiêng, sau
lưng. Đây được xem hình thức thể hiện gốc của các tác phẩm. Công ty Phan Thị là chủ
sở hữu tác phẩm có quyền làm tác phẩm phái sinh nhưng không được sửa chữa tác
phẩm gốc. Ông Lê Phong Linh là tác giả của tác phẩm có quyền bảo vệ sự toàn vẹn
của tác phẩm.
9
Ngoài ra, căn cứ khoản 3 Điều 20 Luật SHTT, công ty Phan Thị khi khai thác, sử
dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền quy định tại khoản 1 Điều 20 và khoản 3
Điều 19 Luật SHTT thì công ty Phan Thị cần phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù
lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả, ở đây là ông Lê Phong
Linh.
Như vậy, việc công ty Phan Thị cho xuất bản bộ truyện từ tập 79 trở đi không phù
hợp với quy định của pháp luật.
2. Nghiên cứu Bản án số 213/2014/DS-ST của Tòa án nhân dân quận Tân Bình
ngày 14/8/2014 và trả lời các câu hỏi sau:
a) Ai là tác giả tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân gian”? Tác phẩm này
có được bảo hộ quyền tác giả không? Vì sao?
Ông Nguyễn Văn Lộc là tác giả tác phẩm “hình thức thể hiện tranh tết dân gian”.
Tác phẩm này được bảo hộ quyền tác giả căn cứ vào Giấy chứng nhận đăng ký bản
quyền số 169/2013/QTG ngày 07/01/2013 do Cục Bản quyền cấp, bên cạnh đó, ông
Lộc cũng cung cấp kèm theo hình ảnh photo đăng ký bản quyền hợp lệ.
b) Từng “cụm hình ảnh” trong tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân gian”
có được bảo hộ quyền tác giả không? Vì sao?
Từng “cụm hình ảnh” trong tác phẩn “Hình thức thể hiện tranh tết dân gian” không
được bảo hộ quyền tác giả. Bởi lẽ những hình ảnh trong tác phẩm của ông Lộc là tập
hợp những hình ảnh có nguồn gốc từ dân gian (hình ảnh ông thầy đồ, múa lân, ông
địa...) là những hình ảnh dân gian được lưu truyền lâu đời, tác giả chỉ là thay đổi một
số đường nét, sắp xếp những hình ảnh này theo một bố cục theo ý chí của ông, từ đó
tạo ra tác phẩm của riêng ông. Như vây, có thể thấy quyền tác giả của những hình ảnh
riêng rẽ (hình ảnh ông thầy đồ, múa lân, ông địa...) đã có từ lâu và không thể xác định
chính xác quyền tác giả của những hình ảnh này. Ở đây, quyền tác giả được xác định
là bố cục tác phẩm, hình thức thể hiện trong một thể thống nhất không tách rời theo
từng bộ phận để xác định quyền tác giả. Việc ông Lộc đã gộp chung cả 05 cụm hình
ảnh trong một tác phẩm để đăng ký bảo hộ quyền tác giả là chưa đúng, bởi lẽ theo
đúng trình tự thì ông phải đăng ký quyền tác giả đối với từng cụm hình ảnh riêng. Như
vậy, quyền tác giả trong từng “cụm hình ảnh” của ông Lộc chưa được đăng ký và
chính vì vậy từng “cụm hình ảnh” trong tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân
gian” không được bảo hộ quyền tác giả.
10
c) Hành vi của bị đơn có xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của nguyên đơn không?
Nêu cơ sở pháp lý.
Hành vi của bị đơn không xâm phạm đến quyền sỡ hữu trí tuệ của nguyên đơn, vì:
- Những chứng cứ của ông Lộc đưa ra được ông chụp bằng điện thoại, những hình
ảnh đưa ra giữa tác phẩm của ông và công ty Đăng Viễn chưa thật sự trùng khớp do
hình ảnh của ông Lộc và hình ảnh tranh trí tại showroom của công ty Mặt Trời có bố
cục và hình ảnh thể hiện là khác nhau đồng thời không có chứng cứ nào chứng minh
những hình ảnh Lộc chụp được trưng bày tại 18 Cộng Hòa, phường 4, Tân Bình.
- Quyền tác giả đối với từng cụm hình ảnh của ông Lộc chưa được xác lập mà ở
đây quyền giả được xác định chính là quyền tác giả đối với bố cục sắp xếp, hình thức
thể hiện trong tổng thể tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân gian”. Bên cạnh đó,
công ty Đăng Viễn có nói rõ hình ảnh được trang trí tại showroom là do công ty sưu
tầm, mua lại các hình ảnh riêng rẽ tại các websites (vectordep.vn,
nguyenthehien.com,...) từ đó thiết kế, sắp xếp bố cục theo hình thức của mình. Do đó,
việc bị đơn sử dụng các biểu tượng của văn hóa dân gian được lưu truyền lâu đời
không xác định thuộc về ai trưng bày tại showroom đã có sự sáng tạo, bố trí khác
mang phong cách của một tổng thể khác, nội dung thông điệp khác với nội dung hình
ảnh, bố cục của ông Lộc nên bị đơn không có sự xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của
nguyên đơn.
- Hợp đồng số 241212/DV-MTV ngày 24/12/2012 của công ty Đăng Viễn thi
công, lắp đặt trang trí tại showroom Tân Bình đã hoàn thành và hai bên đã nghiệm thu
thanh lý hợp đồng ngày 05/12/2012, trước ngày ông Lộc được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký bản quyền số 169/2013/QTG ngày 07/01/2013 nên không có chứng cứ chứng
minh công ty việc sử dụng hình ảnh trưng bày tại showroom Tân Bình là của ông Lộc
hay nói cách khác không ảnh hưởng đến quyền tác giả của ông Lộc.
Từ đây, dựa trên quy định Điều 28 Luật SHTT thì hành vi của bị đơn không thuộc
trường hợp quy định tại Điều này, do đó, có thể kết luận hành vi của bị đơn không xâm
phạm đến quyền sỡ hữu trí tuệ của nguyên đơn.
d) Việc bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian có những điểm khác biệt
nào so với các loại hình tác phẩm khác?
Thứ nhất, tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian là những tác phẩm được hình
thành trên nền tảng sáng tạo tập thể, mang sắc thái hình ảnh cộng đồng phản ánh
những ý nghĩa, những khát vọng của một nền văn hóa, xã hội ở mỗi vùng miền. Do đó,
11
rất khó để xác định ai là chủ sở hữu, là tác giả của các tác phẩm này. Đồng thời so với
tác phẩm thông thường, theo khoản 4 Điều 19, theo khoản 2 Điều 23, Điều 24 Luật
SHTT việc bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian là khác nhau,
theo đó, khi tổ chức cá nhân sử dụng tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian phải dẫn
chiếu đến loại hình tác phẩm đó đồng thời bảo đảm giữ gìn những giá trị cốt lõi của tác
phẩm văn học nghệ thuật dân gian.
Thứ hai, xuất phát từ đặc tính không xác định được tác giả của các tác phẩm văn
học nghệ thuật dân gian nên quyền nhân thân như đặt tên cho tác phẩm, đứng tên thật
hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công
bố, sử dụng thì không được đề cập trong các quy định bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ
thuật dân gian. Chủ yếu quyền nhân thân được thể hiện “khi sử dụng tác phẩm văn
học, nghệ thuật dân gian phải dẫn chiếu xuất xứ của loại hình tác phẩm đó và bảo đảm
giữ gìn giá trị đích thực của tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian” không giống quy
định tại Điều 19 so với các tác phẩm khác.
Thứ ba, thời hạn bảo bộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân
gian thì pháp luật không quy định cụ thể trong khi đối với các tác phẩm khác được quy
định cụ thể tại Điều 27 LSHTT.
B. Phần Câu hỏi sinh viên tự làm (có nộp bài) và KHÔNG thảo luận trên lớp:
Đọc, nghiên cứu Bản án số 5 “Tác phẩm phái sinh” Chương 2 (gồm cả phần
tình huống và bình luận) trong Sách tình huống Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam và
trả lời các câu hỏi sau:
1. Theo quy định của pháp luật SHTT, tác phẩm phái sinh là gì? Đặc điểm
của tác phẩm phái sinh?
- Theo khoản 8 Điều 4 Luật SHTT, tác phẩm phái sinh là tác phẩm dịch từ ngôn
ngữ này sang ngôn ngữ khác, tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú
giải, tuyển chọn.
- Đặc điểm của tác phẩm phái sinh:
+ Hình thành trên cơ sở một hoặc nhiều tác phẩm đã có từ trước;
+ Không được gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để
làm tác phẩm phái sinh;
+ Tác phẩm phái sinh phải có sự sáng tạo mà không được sao chép từ những tác
phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh;
+ Tác phẩm phái sinh đó cũng cần phải mang dấu ấn của tác phẩm gốc.
12
2. Với hướng lập luận của Tòa án, hành vi của Hãng phim truyện I và đạo diễn
Lộc có xâm phạm quyền tác giả của ông Ánh không? Đoạn nào trong bản án thể
hiện điều này?
Tòa án cho rằng hành vi của Hãng phim truyện I và đạo diễn Lộc không xâm phạm
quyền tác giả của ông Ánh. Đoạn thể hiện điều này là: “Xét toàn bộ các tài liệu, chứng
cứ do các bên đương sự xuất trình, các luận cứ mà các bên đương sự và luật sư bảo vệ
quyền lợi cho nguyên đơn... Do đó, Hãng phim truyện I và ông Phạm Lộc không vượt
quá quyền đã được xác định tại Điều 4 của Hợp đồng số 174/PT1-HĐ ngày
11/08/1997 về các quy định của pháp luật về quyền tác giả.”
3. Pháp luật nước ngoài có quy định nào về việc bảo hộ tác phẩm phái sinh?

*Pháp luật Hoa Kì:

Trong phạm vi của Điều 411, “quốc gia gốc” của bất kỳ một tác phẩm nào khác
thuộc diện Công ước Berne không phải là Hợp chủng quốc Hoa Kỳ: “Tác phẩm phái
sinh” là tác phẩm được hình thành trên cơ sở một hoặc nhiều tác phẩm đã có như là
các tác phẩm dịch, các tác phẩm được phổ nhạc, được chuyển thể thành kịch, được tiểu
thuyết hóa, được điện ảnh hoá, âm nhạc hoá, mỹ nghệ hoá, tóm tắt, tóm lược, hoặc bất
kỳ hình thức nào khác mà trong đó tác phẩm có thể được cải biên, chuyển thể hoặc bổ
sung. Một tác phẩm bao hàm các bản thảo đã được biên tập lại, các lời bình chú, phân
tích hoặc các sửa chữa khác một về tổng thể là một tác phẩm nguyên thuỷ độc đáo
hoàn chỉnh của tác giả là “tác phẩm phái sinh”.

Điều 103 Luật Quyền tác giả:

“(a). Đối tượng bảo hộ quyền tác giả được quy định tại Điều 102 bao gồm cả các
tác phẩm biên soạn và tác phẩm phái sinh, nhưng việc bảo hộ đối với một tác phẩm
dựa trên sự khai thác các tư liệu đã có mà đối với chúng quyền tác giả đang tồn tại sẽ
không được mở rộng đến bất kỳ phần nào của tác phẩm đó nếu trong tác phẩm này
các tư liệu đã được sử dụng bất hợp pháp.

(b). Quyền tác giả đối với các tác phẩm biên soạn hoặc tác phẩm phái sinh chỉ mở
rộng đến các phần đóng góp của tác giả của tác phẩm đó như là một phần độc lập với
các tư liệu đã được khai thác trong tác phẩm đó, và không ảnh hưởng tới bất kỳ một
quyền độc quyền nào đối với các tư liệu đã có. Quyền tác giả đối với các tác phẩm này
là độc lập, không bị ảnh hưởng hoặc chi phối về phạm vi, thời hạn bảo hộ, chủ sở hữu,
13
hoặc sự tồn tại của nó với bất kỳ sự bảo hộ quyền tác giả nào đối với các tư liệu đã
có.”

* Pháp luật Nhật Bản:

Luật quyền tác giả Nhật Bản cũng có đưa ra định nghĩa về tác phẩm phái sinh tại
Điều 2 Luật Quyền tác giả Nhật Bản như sau: “Tác phẩm phái sinh là tác phẩm biên
dịch, hòa âm phối khí, hoặc cải biên, viết thành kịch, điện ảnh hóa, hoặc là một sáng
tác chuyển thể từ một tác phẩm đã có.” Ta thấy, nhìn chung khái niệm về tác phẩm
phái sinh trong pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia về cơ bản không quá
khác biệt.

Luật quyền tác giả của Nhật Bản có sử dụng thuật ngữ tác phẩm phái sinh, trong
đó có quy định rõ việc bảo hộ tác phẩm phái sinh không làm phương hại đến quyền tác
giả của tác phẩm đã tồn tại. Điều 11 Luật Quyền tác giả Nhật Bản quy định “Việc bảo
hộ tác phẩm phái sinh của Luật này không gây ảnh hưởng đến quyền tác giả của tác
phẩm gốc.”

Về quyền tác giả bản gốc đối với khai thác tác phẩm phái sinh, pháp luật Nhật Bản
tại Điều 28 Luật Quyền tác giả Nhật Bản quy định “tác giả bản gốc của tác phẩm phái
sinh có quyền giống như quyền tác giả tác phẩm phái sinh” đối với tác phẩm điện
ảnh khi sử dụng khai thác tác phẩm phái sinh đó.

* Pháp luật của Pháp:

Pháp luật của Pháp có dùng thuật ngữ tác phẩm phái sinh. Điều L.113-2 Bộ luật
SHTT của Pháp quy định về tác phẩm tuyển chọn, tác phẩm hợp tuyển và tác phẩm
hợp tác. Pháp luật về SHTT của Pháp không định nghĩa cụ thể thế nào là tác phẩm
phái sinh mà chỉ liệt kê các loại hình tác phẩm thuộc tác phẩm phái sinh. Pháp luật về
quyền tác giả của Pháp tôn trọng quyền nhân thân của cá nhân tác giả, do đó không coi
pháp nhân là tác giả, đồng thời cũng không coi bên giao nhiệm vụ (dù là cá nhân hay
pháp nhân) cho người khác sáng tạo nên tác phẩm là tác giả.

Điều L.112-3 Bộ luật SHTT của Pháp quy định: “Tác giả của tác phẩm dịch, tác
phẩm phóng tác, chuyển thể hoặc cải biên sẽ được hưởng sự bảo hộ theo Luật này,
miễn là không phương hại đến quyền tác giả của các tác phẩm gốc. Điều này cũng áp
14
dụng tương tự đối với tác giả của tác phẩm hợp tuyển, tuyển tập hay sưu tập dữ liệu
mà sự lựa chọn hay sắp xếp nội dung của chúng tạo thành nững tác phẩm có tính sáng
tạo”.

4/ Quan điểm của tác giả bình luận về tranh chấp này như thế nào?
Tác giả đồng tình với hướng xét xử của Tòa án đối với phạm vi và mức độ sửa
chữa tác phẩm gốc để xây dựng tác phẩm tái sinh là phù hợp với quy định pháp luật.
Bởi hành vi sửa chữa, bổ sung kịch bản của Hãng phim truyện I không đến mức thay
đổi hoàn toàn chủ đề, nội dung, không vượt quá quyền đã được thỏa thuận trong hợp
đồng các bên và quy định của pháp luật.
Tác giả cho rằng nội dung của kịch bản và bộ phim đều hướng đến “ca ngợi tình
yêu, tình đồng đội và sự hy sinh của người lính không quân” tức là sáng tạo dựa trên
kịch bản; cả hai bên cùng tập trung khai thác một chủ đề nhưng không làm sai lệch,
không gây phương hại đến tác phẩm gốc vì vậy mà đương nhiên trở thành tác phẩm
tác sinh.
Theo tác giả thì chuyển thể chính là hình thức làm tác phẩm phái sinh phù hợp nhất
trong trường hợp tranh chấp trên. Như vậy tác giả xác định tác phẩm phái sinh dựa trên
sự thể hiện tác phẩm gốc dưới dạng hình thức khác, đòi hỏi sự thay đổi loại hình nghệ
thuật, cụ thể chuyển thể từ loại hình nghệ thuật kịch bản truyện sang loại hình nghệ
thuật phim.
Mặc dù vậy tác giả cũng cho rằng khái niệm về loại hình nghệ thuật còn quá mơ
hồ, không có quy định cụ thể về các tiêu chí để xác định tác phẩm phái sinh...Quy định
pháp luật còn thiếu sót về chuẩn chung làm căn cứ xác định mức độ sửa chữa, bổ sung
như thế nào là hợp lý, như thế nào là không gây phương hại bản gốc....Chính vì vậy
mà tác giả cho rằng “cần có quy định về phạm vi làm tác phẩm phái sinh, theo hướng
“bảo đảm toàn vẹn chủ đề và nội dung chính của tác phẩm gốc, việc sửa chữa nội dung
(nếu có) nhằm phục vụ chính cho yêu cầu thay đổi hình thức tác phẩm””

5/ Theo quan điểm của bạn (nhóm bạn), bộ phim do Hãng phim truyện I và ông
Lộc sản xuất có phải là tác phẩm phái sinh từ kịch bản của ông Ánh không? Giải
thích vì sao.

Theo nhóm bộ phim do Hãng phim truyện I và ông Lộc sản xuất là tác phẩm phái
sinh. Vì để được xem là một tác phẩm phái sinh phải thỏa mãn hai điều kiện sau: tác
15
phẩm đó được sáng tạo trên nền tác phẩm gốc và đó phải là sự thể hiện tác phẩm gốc
dưới hình thức khác.

Trong bản án số 5, bộ phim “Hôn nhân không giá thú” hoàn toàn được xem là một
tác phẩm phái sinh:

Thứ nhất, tác phẩm phái sinh được sáng tạo trên nền tác phẩm gốc. Bản án số 5 đã
chỉ rõ rằng: theo kết luận của Hội đồng giám định Bộ Văn hóa – Thông tin, chủ đề
chính của kịch bản văn học “Hôn nhân không giá thú” và bộ phim “Hôn nhân không
giá thú” đều là “ca ngợi tình yêu, tình đồng đội và sự hy sinh của người lính không
quân”, kịch bản văn học còn có những chủ đề khác, nhưng bộ phim tập trung chủ yếu
vào chủ đề chính của kịch bản văn học. Bộ phim được xây dựng đã được lược bỏ một
số nội dung của kịch bản nhưng không làm sai lệch chủ đề chính và nội dung của kịch
bản văn học. Do đó, bộ phim đã thỏa mãn điều kiện thứ nhất.

Thứ hai, sự thể hiện tác phẩm phái sinh phải được thể hiện dưới hình thức khác.
Tác phẩm gốc chính là kịch bản văn học “Hôn nhân không giá thú” với loại hình nghệ
thuật là “kịch bản phim”. Tác phẩm phái sinh cho kịch bản này là bộ phim cùng tên
với loại hình nghệ thuật là “phim”. Tuy nhiên, theo quan điểm của nhóm, hình thức thể
hiện kịch bản phim là “chuyển thể” với sự chuyển đổi hình thức mà vẫn giữ nguyên
bản chất, nội dung cũng như chủ đề mà kịch bản phim yêu cầu.

Từ hai lý do trên, nhóm cho rằng bộ phim “Hôn nhân không giá thú” là một tác
phẩm phái sinh.

You might also like