You are on page 1of 32

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Khoa các chương trình đào tạo chất lượng cao

BÀI THẢO LUẬN THỨ HAI


QUYỀN TÁC GIẢ VÀ QUYỀN LIÊN QUAN ĐẾN TÁC GIẢ
Bộ môn: Luật Sở hữu trí tuệ
Giảng viên: TS. Nguyễn Thái Cường
Nhóm: 03

STT HỌ VÀ TÊN MSSV

1 Lại Quốc Minh 2153801015144

2 Nguyễn Vũ Thụy Nghi 2153801013174

3 Phan Thị Ngọc Hân 2153801015081

4 Phùng Thảo Vy 2153801014301

5 Lê Trần Bảo Trân 2153801011244

6 Phan Minh Nhã 2153801011148

7 Nguyễn Ngọc Huệ Trúc 2153801014285

8 Hoàng Huyền Trang 2153801014272

9 Nguyễn Thị Mai Trúc 2153801012256

10 Nguyễn Ngọc Hồng Minh 2153801012133


MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
A. Nội dung thảo luận tại lớp:.....................................................................................1
A.1. Lý thuyết:..............................................................................................................1
1. Nguyên tắc “sử dụng hợp lý” (“fair use”) là gì? Tìm hiểu quy định của pháp
luật nước ngoài về vấn đề này và so sánh với các quy định hiện hành của pháp
luật sở hữu trí tuệ Việt Nam........................................................................................1
1.1. Nguyên tắc “sử dụng hợp lý” (“fair use”):..........................................................1
1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam đối với nguyên tắc “sử dụng hợp lý” (“fair
use”/ “fair dealing”):...................................................................................................1
1.3. Quy định của pháp luật Anh Quốc đối với nguyên tắc “sử dụng hợp lý” (“fair
use”/ “fair dealing”):...................................................................................................3
1.4. So sánh quy định về nguyên tắc “sử dụng hợp lý” của pháp luật Anh Quốc và
pháp luật Việt Nam:....................................................................................................4
2. So sánh quy định của Luật SHTT hiện hành với quy định của Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật SHTT năm 2022 về hành vi xâm phạm quyền tác giả.5
3. Phân tích mối liên hệ giữa quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả.
......................................................................................................................................11
4. Phân tích trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian đối với
hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan trên môi trường Internet......12
A.2. Bài tập:.................................................................................................................15
1. Nghiên cứu tranh chấp quyền tác giả trong vụ việc Truyện tranh Thần Đồng
Đất Việt và đánh giá các vấn đề pháp lý sau:..........................................................15
a) Theo Luật SHTT, truyện tranh Thần Đồng Đất Việt có được bảo hộ quyền tác giả
không?.......................................................................................................................15
b) Ai là chủ sở hữu hình tượng nhân vật Tí, Sửu, Dần, Mẹo liên quan đến bộ truyện
tranh Thần đồng đất Việt?........................................................................................16
c) Ai là tác giả hình tượng nhân vật Tí, Sửu, Dần, Mẹo?.........................................16
d) Công ty Phan Thị có quyền gì đối với hình tượng nhân vật Tí, Sửu, Dần, Mẹo? 17
e) Việc công ty Phan Thị cho xuất bản bộ truyện từ tập 79 trở đi có phù hợp với quy
định pháp luật không?...............................................................................................17
2. Nghiên cứu Bản án số 213/2014/DS-ST của Tòa án nhân dân quận Tân Bình
ngày 14/8/2014 và trả lời các câu hỏi sau:................................................................19
a) Ai là tác giả tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân gian”? Tác phẩm này có
được bảo hộ quyền tác giả không? Vì sao?..............................................................19
b) Từng “cụm hình ảnh” trong tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân gian” có
được bảo hộ quyền tác giả không? Vì sao?..............................................................19
c) Hành vi của bị đơn có xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của nguyên đơn không?
Nêu cơ sở pháp lý.....................................................................................................20
B. Phần Câu hỏi sinh viên tự làm (có nộp bài) và KHÔNG thảo luận trên lớp:. .21
1. Phân tích quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ
năm 2022 về Giả định quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả................21
2. Bổ sung quy định mới về trách nhiệm pháp lý về quyền tác giả, quyền liên quan
đối với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian...................................................22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Luật SHTT Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung
2009, 2019, 2022)

Copyright, Designs and Patents Act 1988 -


CDPA 1988 Đạo luật Bản quyền, Thiết kế và Bản Quyền
1988

KH&CN Khoa học và công nghệ

QTG Quyền tác giả

GCN Giấy chứng nhận

Công ty TNHH Công ty Trách nhiệm hữu hạn

Công ty CP XNK & Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu và Dịch vụ


DV

Hiệp định CPTPP Comprehensive and Progressive Agreement


for Trans-Pacific Partnership - Hiệp định Đối
tác toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình
Dương
Hiệp định EVFTA European-Vietnam Free Trade Agreement -
Hiệp định thương mại tự do Liên minh Châu
Âu - Việt Nam
A. Nội dung thảo luận tại lớp:
A.1. Lý thuyết:
1. Nguyên tắc “sử dụng hợp lý” (“fair use”) là gì? Tìm hiểu quy định của pháp
luật nước ngoài về vấn đề này và so sánh với các quy định hiện hành của pháp
luật sở hữu trí tuệ Việt Nam.
1.1. Nguyên tắc “sử dụng hợp lý” (“fair use”)1:
- Sử dụng hợp lý thường được các nhà luật học định nghĩa giống như “một đặc
quyền của những người khác so với chủ sở hữu để sử dụng các tài liệu có bản quyền
một cách hợp lý mà không có sự đồng ý của chủ sở hữu, bất kể độc quyền được cấp
cho chủ sở hữu”2. Về bản chất thì sử dụng hợp lý là sự bảo vệ một cách chắc chắn các
hành vi xâm phạm bản quyền3. Theo nghĩa chung nhất, sử dụng hợp lý là việc sử dụng
bản sao tác phẩm đã được bảo hộ mà không xin phép cho những mục đích giới hạn và
biến đổi (transformative), ví dụ như để bình luận, phê bình, học tập... Nói cách khác,
sử dụng hợp lý giống như một biện pháp phòng thủ để chống lại các khiếu nại về vi
phạm bản quyền4. Cũng có quan điểm khác cho rằng đó là một quyền: “sử dụng hợp
lý là quyền sử dụng các tác phẩm đã được bảo hộ bản quyền theo một số điều kiện
nhất định mà không cần sự cho phép của chủ sở hữu tác phẩm”5.
- Có thể hiểu đơn giản là, sử dụng hợp lý quyền tác giả là việc cá nhân, tổ chức
được sử dụng các tác phẩm đã được bảo hộ quyền tác giả mà không cần có sự cho
phép của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm với những mục đích có điều kiện được quy
định trong pháp luật của mỗi quốc gia.
1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam đối với nguyên tắc “sử dụng hợp lý”
(“fair use”/ “fair dealing”):
- Trong pháp luật Việt Nam hiện nay, không có quy định mức độ cụ thể được
xem là sử dụng hợp lý. Tuy nhiên, có những trường hợp sau đây được coi là ngoại lệ,
có điểm khá tương đồng với nguyên tắc “sử dụng hợp lý”:

1
Nguyên Thị Kim Châu (2018), Luận văn cử nhân “Quy định về sử dụng hợp lý đối với quyền tác giả trong
pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam”, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.8.
2
Rosemont Enters., Inc. v. Random House, Inc., 366 F.2d 303, 306 (1966).
3
Thomas Froehlich, supra note 2, at 5 (Holger Postel, The fair use doctrine in the U.S. American Copyright Act
and similar regulations in the German law, Chicago-Kent Journal of Intellectual Property, tr.144).
4
Richard Stim, “Getting Permission”, Stanford Libraries, [https://fairuse.stanford.edu/overview/fair-use/what-
is-fair-use/] (truy cập lần cuối vào ngày 03/9/2023)
5
President and Fellows of Havard College (2016), “Copyright and Fair use: A guide for the Havard
University”, OFFICE OF THE GENERAL COUNSEL, tr.8

1
+ Những trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép,
không phải trả tiền (Khoản 1 Điều 25 Luật SHTT).
+ Những trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không xin phép nhưng
phải trả tiền (Điều 26 Luật SHTT).
- Trong đó, ba quy định thể hiện rõ nhất nguyên tắc “sử dụng hợp lý” bao gồm:
+ Theo điểm b khoản 1 Điều 25 Luật SHTT hiện hành: “Sao chép hợp lý một
phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và
không nhằm mục đích thương mại”.
Để được coi là trường hợp ngoại lệ, không xâm phạm quyền tác giả thì hành vi
sao chép tác phẩm bằng thiết bị sao chép phải đáp ứng các điều kiện: Thứ nhất, mục
đích của việc sao chép là để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm
mục đích thương mại; Thứ hai, không được sao chép toàn bộ tác phẩm mà chỉ được
sao chép hợp lý một phần tác phẩm theo quy định tại Điều 25 Nghị định 17/2023/NĐ-
CP về sao chép hợp lý một phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép; Thứ ba, việc sao
chép này phải đáp ứng điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 25 là “không được mâu
thuẫn với việc khai thác bình thường tác phẩm và không gây thiệt hại một cách bất
hợp lý đến lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả”; Thứ tư, việc sao
chép này không không áp dụng đối với tác phẩm kiến trúc, tác phẩm mỹ thuật ,
chương trình máy tính theo khoản 2 Điều 256.
+ Theo điểm c khoản 1 Điều 25 Luật SHTT hiện hành: “Sử dụng hợp lý tác
phẩm để minh họa trong bài giảng, ấn phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình,
chương trình phát sóng nhằm mục đích giảng dạy. Việc sử dụng này có thể bao gồm
việc cung cấp trong mạng máy tính nội bộ với điều kiện phải có các biện pháp kỹ
thuật để bảo đảm chỉ người học và người dạy trong buổi học đó có thể tiếp cận tác
phẩm này”.
Ngoại lệ này vì mục đích giáo dục, bằng cách trao cho người dạy quyền được
sử dụng hợp lý tác phẩm của người khác để minh họa trong bài giảng, ấn phẩm, cuộc
biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng nhằm mục đích giảng dạy.
Điều này là phù hợp với thực tiễn, pháp luật quốc tế cũng như pháp luật các quốc gia,
kể cả các quốc gia có mức độ bảo hộ quyền tác giả cao như Hoa Kỳ, Canada, Pháp,
Đức cũng có những ngoại lệ nhất định dành cho mục đích giảng dạy 7. Tương tự như

6
Đại học Luật TP.HCM (2023), Giáo trình Luật SHTT, NXB Hồng Đức, TP.HCM, tr.126-127.
7
Đại học Luật TP.HCM (2023), Giáo trình Luật SHTT, NXB Hồng Đức, TP.HCM, tr.127-128.

2
quy định trên, thuật ngữ “sử dụng hợp lý” được Chính phủ làm rõ trong khoản 1 Điều
26 Nghị định 17/2023/NĐ-CP phải đáp ứng các điều kiện:
“1. Sử dụng hợp lý tác phẩm để minh họa trong bài giảng, cuộc biểu diễn
chưa được định hình nhằm mục đích giảng dạy quy định tại điểm c khoản 1
Điều 25 của Luật SHTT phải đáp ứng các điều kiện sau:
a) Việc sử dụng tác phẩm để minh họa trong bài giảng, cuộc biểu diễn
chưa được định hình phải bảo đảm chỉ sử dụng trong phạm vi buổi học của
cơ sở giáo dục và chỉ người học, người dạy trong buổi học đó có thể tiếp
cận tác phẩm.
Trường hợp sử dụng tác phẩm trong đề thi, đáp án kiểm tra kiến thức, kỹ
năng trong hệ thống giáo dục quốc dân thì có thể sử dụng theo mức độ cần
thiết;
b) Việc sử dụng tác phẩm không gây thiệt hại một cách bất hợp lý đến lợi
ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.
2. Sử dụng hợp lý tác phẩm để minh họa trong ấn phẩm, cuộc biểu diễn đã
được định hình, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng nhằm mục
đích giảng dạy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 25 của Luật Sở hữu trí
tuệ phải trong phạm vi cơ sở giáo dục và áp dụng tương tự các điều kiện
theo quy định tại Điều 28 của Nghị định này”.
+ Theo điểm đ khoản 1 Luật SHTT hiện hành: “Trích dẫn hợp lý tác phẩm
mà không làm sai ý tác giả để bình luận, giới thiệu hoặc minh họa trong tác phẩm của
mình; để viết báo, sử dụng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát sóng,
phim tài liệu”.
Chẳng hạn trong tác phẩm “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh và Hoài
Chân, các tác giả đã sử dụng rất nhiều câu thơ của những nhà thơ nổi tiếng trong
phong trào Thơ mới để phân tích, bình luận, minh họa. Một ví dụ khác, trong khóa
luận, luận văn hay trong một bài báo, người viết có thể trích dẫn hợp lý tác phẩm của
người khác nhằm bình luận, chứng minh hay minh họa cho một vấn đề nào đó. Việc
trích dẫn này không phải xin phép tác giả nhưng phải thông tin rõ ràng về tên tác giả
và tác phẩm.
Theo hướng dẫn tại Điều 28 Nghị định số 17/2023/NĐ-CP thì trích dẫn hợp lý
tác phẩm phải đáp ứng đủ các điều kiện sau:
“1. Phần trích dẫn chỉ nhằm mục đích giới thiệu, bình luận hoặc làm sáng
tỏ vấn đề được đề cập trong tác phẩm của mình;

3
2. Phần trích dẫn từ tác phẩm được sử dụng để trích dẫn không gây thiệt
hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền
tác giả của tác phẩm được sử dụng để trích dẫn; phù hợp với tính chất,
đặc điểm của loại hình tác phẩm được sử dụng để trích dẫn;
3. Việc trích dẫn phải kèm theo chỉ dẫn về nguồn gốc tác phẩm và tên tác
giả, nếu tên tác giả được nêu trên tác phẩm sử dụng để trích dẫn.”
Ngoài ra, Công ước Berne cũng đưa ra điều kiện để một trích dẫn được công
nhận hợp pháp, đó là trích dẫn phải được rút ra từ những tác phẩm đã được phổ cập
đến công chúng một cách hợp pháp và sự trích dẫn phù hợp với các thông lệ đúng đắn,
không vượt quá mục đích trích dẫn8.
1.3. Quy định của pháp luật Anh Quốc đối với nguyên tắc “sử dụng hợp lý”
(“fair use”/ “fair dealing”)9:
- CDPA 1988 giới hạn chặt chẽ “fair use” trong các trường hợp sau: i) Nghiên
cứu hay học tập phục vụ cho mục đích cá nhân 10; ii) Phê bình, đánh giá, trích dẫn và
đưa tin11; iii) Biếm họa, nhại lại hoặc chế nhạo12; iv) Minh họa để hướng dẫn cho mục
đích giáo dục13.
- Việc đưa ra một danh sách đóng như vậy có nghĩa rằng, chỉ có những hành vi
được liệt kê bên trên mới được xem là “fair use”. Nếu việc sử dụng có thể hợp lý
nhưng cho một mục đích không được quy định trong CDPA 1988 hoặc một mục đích
hợp lý chung chung, các quy định về “fair use” sẽ không được áp dụng.
- Theo quy định của CDPA, sau khi xác định việc sử dụng thuộc một trong
những mục đích cụ thể nêu trên, câu hỏi tiếp theo là việc sử dụng (dealing) như vậy có
“hợp lý” hay không. “Hợp lý” hay “fairness” là một câu hỏi mang tính định tính, tùy
thuộc vào từng trường hợp cụ thể, về mức độ và ấn tượng của việc sử dụng. Tòa án
đôi khi xem xét tính “hợp lý” bằng cách đặt câu hỏi liệu một “người có tư tưởng hợp
lý và trung thực” có coi việc sử dụng như vậy là hợp lý hay không. Lord Phillips đã
tuyên bố trong vụ việc Ashdown v Telegraph Group Ltd [2002] Ch 149 rằng: “Điều

8
Khoản 1 Điều 10 Công ước Berne
9
TS. Lê Vũ Vân Anh, “Quy định về “sử dụng hợp lý” tác phẩm: Góc nhìn so sánh từ pháp luật Vương quốc
Anh và Việt Nam”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, [https://vjst.vn/vn/tin-tuc/6815/quy-dinh-ve-su-
dung-hop-ly-tac-pham--goc-nhin-so-sanh-tu-phap-luat-vuong-quoc-anh-va-viet-nam.aspx?
fbclid=IwAR3OXZZQ2L8L2ihQICjsyxsQed8iAcufzBh8mERufiaGF3sSbf00IM2Yofc], (truy cập lần cuối ngày
03/9/2023)
10
Điều 29 CDPA 1988
11
Điều 30 CDPA 1988
12
Điều 30A CDPA 1988
13
Điều 32 CDPA 1988

4
cần thiết là... không áp dụng các bài thử nghiệm một cách thiếu linh hoạt dựa trên
tiền lệ, nhưng hãy nhớ rằng việc cân nhắc lợi ích công là điều tối quan trọng”.
1.4. So sánh quy định về nguyên tắc “sử dụng hợp lý” của pháp luật Anh Quốc
và pháp luật Việt Nam9:
- So sánh giữa Luật SHTT Việt Nam và CDPA 1988, ta nhận thấy cả hai văn
bản pháp luật này cũng có những điểm giống nhau nhất định. Thứ nhất, cả hai đều yêu
cầu việc sử dụng “phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm”
theo ngôn ngữ của khoản 1 Điều 25 Luật SHTT Việt Nam hiện hành hay phải có “sự
thừa nhận đầy đủ” (sufficient acknowledgement) theo ngôn ngữ của CDPA 1988 đối
với việc sử dụng. Quy định này tuân thủ theo Công ước Berne14. Thứ hai, cả hai đều
có quy định rất rõ ràng và không gây nhiều tranh cãi về nghiên cứu khoa học và học
tập phục vụ cho mục đích cá nhân. Điều này chứng tỏ cả Việt Nam lẫn Vương quốc
Anh đều coi trọng và tạo điều kiện cho nghiên cứu khoa học phát triển.
- Tuy nhiên, hai văn bản pháp luật này về cơ bản có nhiều điểm khác nhau:
+ Thứ nhất, Việt Nam không quy định “biếm họa, nhại lại hoặc chế nhạo”
(“parody”) là một hành vi “sử dụng hợp lý”.
+ Thứ hai, CDPA 1988 cho phép “sự thừa nhận đầy đủ” về tên tác giả và xuất
xứ tác phẩm được miễn thực hiện vì lý do thực tế hoặc lý do khác. Ngược lại, Việt
Nam không có ngoại lệ tương đương.
+ Thứ ba, CDPA 1988 quy định “minh hoạ để hướng dẫn” phục vụ cho “mục
đích giáo dục”, bao gồm “đặt câu hỏi thi, truyền đạt câu hỏi cho học sinh và trả lời
các câu hỏi”15. Hơn nữa, bất cứ điều khoản hợp đồng nào hạn chế việc sử dụng nêu
trên sẽ bị coi là vô hiệu16. Trong khi đó, quy định tương đương ở Việt Nam bị giới hạn
ở “mục đích giảng dạy” và loại hình tác phẩm được sử dụng chỉ bao gồm “cuộc biểu
diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng” 17. Chưa kể, quy định còn yêu cầu
bảo đảm “chỉ người học và người dạy trong buổi học đó có thể tiếp cận tác phẩm
này”. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng tài liệu và tính đến điều kiện kinh tế
- xã hội của nước ta, “mục đích giảng dạy” nên được hiểu theo nghĩa rộng hơn, không
chỉ bao gồm hoạt động giảng bài tại lớp mà còn các hoạt động giáo dục khác, kể cả
hoạt động ngoại khoá. Thêm vào đó, loại hình tác phẩm sử dụng nên được quy định
mở để đảm bảo quyền tiếp cận kiến thức của học sinh - sinh viên và cho phép giáo
viên/giảng viên đứng lớp đa dạng hóa hoạt động giảng dạy.
14
Điều 10.3 Công ước Berne
15
Khoản 2 Điều 32 CDPA 1988
16
Khoản 3 Điều 32 CDPA 1988
17
điểm c khoản 1 Điều 25 Luật SHTT

5
+ Thứ tư, Luật SHTT Việt Nam không có quy định riêng về “sử dụng hợp lý”
cho mục đích đưa tin mà thay vào đó cho phép “trích dẫn hợp lý” cho việc viết báo 18.
Ngược lại, Vương quốc Anh quy định rõ ràng cho việc đưa tin, bảo đảm lợi ích mà ở
đó tự do ngôn luận là một thành phần quan trọng. Một điểm thú vị cần lưu ý là hình
ảnh không được xem là “sử dụng hợp lý” cho đưa tin 19. Điều này dựa trên lợi ích kinh
tế của các nhiếp ảnh gia vì họ chỉ có thể kiếm được lợi nhuận bằng cách bán toàn bộ
bức ảnh. Khác với văn chương, chúng ta có thể trích xuất một đoạn ngắn, thậm chí
một vài từ nhưng vẫn truyền tải được thông điệp. Trong khi đó, một bức ảnh được sử
dụng cho một tờ báo hoặc một chương trình phát sóng, nó thường là toàn bộ. Áp dụng
ngoại lệ đối với hình ảnh sẽ tước đi nguồn thu nhập quan trọng nhất của các nhiếp ảnh
gia.
+ Thứ năm, điểm d khoản 1 Điều 25 Luật SHTT Việt Nam hiện hành yêu cầu
việc trích dẫn không làm sai ý tác giả, trong khi đó mục đích của ngoại lệ trích dẫn,
đánh giá và bình luận nhằm bảo đảm tự do ngôn luận và tự do thể hiện sự sáng tạo.
Cách tiếp cận của Việt Nam khác với Vương quốc Anh khi Tòa phúc thẩm trong vụ
việc Pro Sieben Media AG v Carlton UK Television Ltd [1999] 1 WLR 605 khẳng
định rằng, tòa án không quan tâm đến việc liệu bản thân những lời chỉ trích có “hợp
lý” hay không, mà quan trọng là việc sử dụng tác phẩm gốc cho mục đích phê bình,
đánh giá, có được thực hiện “hợp lý” hay không. Cách tiếp cận như vậy khiến cán cân
lợi ích cân bằng hơn vì tác giả của tác phẩm gốc đã có cơ chế bảo vệ chống lại những
lời xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác thông qua xử phạt hành chính hoặc
truy cứu trách nhiệm hình sự, theo quy định pháp luật Việt Nam hiện hành. Quan
trọng hơn cả, các trường hợp ngoại lệ “phê bình, đánh giá và trích dẫn” theo CDPA
chỉ được áp dụng khi tác phẩm đã được phổ biến đến công chúng thông qua việc phát
hành các bản sao, hệ thống truy xuất điện tử, cho thuê hoặc cho mượn, buổi biểu diễn,
triển lãm, trình chiếu hoặc trưng bày tác phẩm và truyền thông cho công chúng. Nếu
tác phẩm chưa được phổ biến thì ngoại lệ sẽ không được áp dụng.
2. So sánh quy định của Luật SHTT hiện hành với quy định của Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật SHTT năm 2022 về hành vi xâm phạm quyền tác giả.
- Giống nhau:
+ Hành vi xâm phạm quyền đứng tên, nêu tên trên tác phẩm: khi có hành vi mạo
danh tác giả, giả mạo tên, chữ ký tác giả, không nêu hoặc cố ý nêu sai tên tác giả và

18
điểm đ khoản 1 Điều 25 Luật SHTT
19
Khoản 2 Điều 30 CDPA 1988

6
nguồn gốc, xuất xứ tác phẩm khi khai thác, sử dụng hoặc có hành vi phạm phạm đến
tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm.
+ Hành vi xâm phạm quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm gây phương hại đến
danh dự và uy tín của tác giả: Xuyên tạc tác phẩm; sửa đổi, cắt xén tác phẩm gây
phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
+ Hành vi xâm phạm quyền sử dụng, biểu diễn tác phẩm trước công chúng: Biểu
diễn, đọc, trưng bày, triển lãm, trình chiếu, trình diễn tác phẩm tại nơi công cộng hoặc
nơi bán vé, thu tiền vào cửa mà không được sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả,
đồng chủ sở hữu quyền tác giả theo quy định của pháp luật.
+ Hành vi xâm phạm quyền phát sóng: Phát sóng hoặc truyền đạt tác phẩm đến
công chúng qua mạng truyền thông và các phương tiện kỹ thuật số mà không được
phép của chủ sở hữu quyền tác giả.
- Điểm khác nhau giữa quy định của Luật SHTT hiện hành với quy định của Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT năm 2022 về hành vi xâm phạm quyền
tác giả:
Luật sửa đổi, bổ
Đặc điểm Luật SHTT 2019 sung Luật SHTT
2022
Điều khoản 16 khoản 8 khoản

Xâm phạm Thay đổi tên tác Xâm phạm đến quyền → Luật sửa đổi, bổ sung
quyền đặt phẩm mà không đặt tên cho tác phẩm Luật SHTT 2022 có bổ
tên cho tác được phép của tác quy định tại điều 19 sung thêm tác giả có
phẩm giả, đồng tác giả, Luật này quyền sử dụng quyền
trừ trường hợp tác đặt tên tác phẩm cho tổ
phẩm dịch hoặc chức, cá nhân nhận
pháp luật có quy chuyển quyền tài sản tại
định khác khoản 1 Điều 20 của
luật này

7
Xâm phạm Công bố, phân Xâm phạm đến quyền → Tuy cả 2 luật đều
đến quyền phối tác phẩm công bố và cho phép quy định về quyền công
công bố tác không có sự đồng người khác công bố bố tác giả và cho phép
phẩm ý của tác giả hoặc tác phẩm người khác công bố tác
đồng tác giả phẩm nhưng ở Luật
SHTT 2022 quyền phân
phối tác phẩm được quy
định cụ thể hơn về
quyền tài sản thay vì
quyền nhân thân

Xâm phạm Làm tác phẩm Làm tác phẩm phái → Luật SHTT 2022 quy
quyền làm phái sinh mà sinh mà không được định rõ hơn về trường
tác phẩm không được phép phép của tác giả, chủ hợp ngoại lệ không xâm
phái sinh của tác giả, chủ sở sở hữu quyền tác giả phạm quyền tác giả
hữu quyền tác giả đối với tác phẩm được dành cho người khuyết
đối với tác phẩm dùng để làm tác phẩm tật rõ ràng hơn quy định
được dùng để làm phái sinh tại điểm i khoản 1 Điều
tác phẩm phái 25 Luật 2019, ngoài ra
sinh, trừ trường tại khoản 2 điều 20 có
hợp quy định tại quy định trường hợp
điểm i khoản 1 làm tác phẩm phái sinh
Điều 25 của Luật mà ảnh hưởng đến
này. quyền nhân thân quy
định tại khoản 4 Điều 19
của Luật SHTT 2022
còn phải được sự đồng ý
bằng văn bản của tác
giả.

Xâm phạm Sao chép tác Sao chép tác phẩm mà → Luật SHTT 2022 quy
quyền sao phẩm mà không không được phép của định thêm về trường
chép được phép của tác tác giả, chủ sở hữu hợp chủ sở hữu quyền
giả, chủ sở hữu quyền tác giả điểm a tác giả không quyền
quyền tác giả, trừ khoản 3 Điều 20 ngăn cấm tổ chức, cá

8
trường hợp quy nhân khác thực hiện
định tại điểm a và hành vi sao chép còn ở
điểm đ khoản 1 Luật SHTT 2019 không
Điều 25 của Luật có quy định này
này
Xâm phạm Phân phối, nhập Phân phối, nhập khẩu → Luật SHTT 2022 quy
quyền phân khẩu để phân phối để phân phối đến định thêm về trường
phối, nhập đến công chúng công chúng thông qua hợp chủ sở hữu quyền
khẩu để bản gốc, bản sao bán hoặc hình thức tác giả không quyền
phân phối hữu hình tác chuyển giao quyền sở ngăn cấm tổ chức, cá
đến công phẩm mà không hữu khác đối với bản nhân khác thực hiện
chúng được sự đồng ý gốc, bản sao tác phẩm hành vi phân phối còn ở
của chủ sở hữu dưới dạng hữu hình, Luật SHTT 2019 không
quyền tác giả, trừ trường hợp quy có quy định này
đồng chủ sở hữu định tại điểm b khoản
quyền tác giả theo 3 Điều 20
quy định của pháp
luật
Xâm phạm Cho thuê tác Cho thuê bản gốc → Việc cho thuê tác
quyền cho phẩm mà không hoặc bản sao tác phẩm được quy định
thuê tác trả tiền nhuận bút, phẩm mà không được chặt chẽ hơn khi muốn
phẩm thù lao và quyền sự đồng ý của chủ sở cho thuê tác phẩm ngoài
lợi vật chất khác hữu quyền tác giả, việc trả thù lao nhuận
cho tác giả hoặc đồng chủ sở hữu bút thì cần sự đồng ý
chủ sở hữu quyền quyền tác giả theo của chủ sở hữu tác
tác giả quy định của pháp phẩm đồng ý.
luật

9
Xâm phạm Cố ý hủy bỏ hoặc Cố ý hủy bỏ hoặc làm → Luật SHTT 2022 quy
khác làm vô hiệu các vô hiệu biện pháp định cụ thể hơn về việc
biện pháp kỹ công nghệ hữu hiệu cố ý hủy bỏ hoặc làm vô
thuật do chủ sở do tác giả, chủ sở hữu hiệu biện pháp công
hữu quyền tác giả quyền tác giả thực nghệ của tác giả và chủ
thực hiện để bảo hiện để bảo vệ quyền sở hữu còn ở Luật
vệ quyền tác giả tác giả đối với tác SHTT 2019 chỉ nhắc
đối với tác phẩm phẩm của mình nhằm đến chủ thể là chủ sở
của mình thực hiện hành vi quy hữu, ngoài ra Luật này
định tại Điều này và cũng quy định rõ hơn về
Điều 35 của Luật này. phạm vi thực hiện hành
vi xâm phạm.

Sản xuất, lắp ráp, Sản xuất, phân phối, → Luật SHTT 2022 quy
biến đổi, phân nhập khẩu, chào bán, định nhiều hành vi cụ
phối, nhập khẩu, bán, quảng bá, quảng thể hơn (quảng bá, chào
xuất khẩu, bán cáo, tiếp thị, cho thuê bán, tàng trữ,…) các
hoặc cho thuê hoặc tàng trữ nhằm thiết bị linh kiện nhằm
thiết bị khi biết mục đích thương mại vô hiệu hóa biện pháp
hoặc có cơ sở để các thiết bị, sản phẩm bảo vệ quyền tác giả
biết thiết bị đó hoặc linh kiện, giới nghiêm khắc hơn
làm vô hiệu các thiệu hoặc cung cấp
biện pháp kỹ dịch vụ khi biết hoặc
thuật do chủ sở có cơ sở để biết thiết
hữu quyền tác giả bị, sản phẩm, linh
thực hiện để bảo kiện hoặc dịch vụ đó
vệ quyền tác giả được sản xuất, sử
đối với tác phẩm dụng nhằm vô hiệu
của mình. hóa biện pháp công
nghệ hữu hiệu bảo vệ
quyền tác giả.

Cố ý xóa, thay đổi Cố ý xóa, gỡ bỏ hoặc → Luật SHTT 2022 quy


thông tin quản lý thay đổi thông tin định thêm về hành vi cố
quyền dưới hình quản lý quyền mà ý xóa, gỡ bỏ thông tin

10
thức điện tử có không được phép của quản lý có thể dẫn đến
trong tác phẩm. tác giả, chủ sở hữu hành vi xúi giục, tạo
quyền tác giả khi biết điều kiện thuận lợi để
hoặc có cơ sở để biết che giấu hành vi xâm
việc thực hiện hành vi phạm. Ngoài ra còn bổ
đó sẽ xúi giục, tạo khả sung thêm về hành vi cố
năng, tạo điều kiện ý phân phối nhập khẩu
thuận lợi hoặc che để phân phối, phát sóng
giấu hành vi xâm bản sao khi biết thông
phạm quyền tác giả tin quản lý quyền bị
theo quy định của xóa, gỡ bỏ
pháp luật.
Cố ý phân phối, nhập
khẩu để phân phối,
phát sóng, truyền đạt
hoặc cung cấp đến
công chúng bản sao
tác phẩm khi biết
hoặc có cơ sở để biết
thông tin quản lý
quyền đã bị xóa, gỡ
bỏ, thay đổi mà không
được phép của chủ sở
hữu quyền tác giả; khi
biết hoặc có cơ sở để
biết việc thực hiện
hành vi đó sẽ xúi
giục, tạo khả năng,
tạo điều kiện thuận lợi
hoặc che giấu hành vi
xâm phạm quyền tác
giả theo quy định của
pháp luật.

Không thực hiện hoặc


thực hiện không đầy

11
đủ quy định để được
miễn trừ trách nhiệm
pháp lý của doanh
nghiệp cung cấp dịch
vụ trung gian quy
định tại khoản 3 Điều
198b của Luật này.

3. Phân tích mối liên hệ giữa quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả.
Quyền liên quan đến quyền tác giả và quyền tác giả có mối liên hệ mật thiết với
nhau: tác giả là người tạo ra tác phẩm nhưng chủ thể có quyền liên quan là người đưa
tác phẩm đến với công chúng. Phần lớn các tác phẩm chỉ có thể được phổ biến rộng
rãi đến công chúng thông qua đội ngũ trung gian cụ thể là những người biểu diễn, nhà
sản xuất bản ghi ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng20,...
Tại khoản 2 Điều 4 Luật SHTT quy định: “Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá
nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu”. Như vậy, khi cá nhân sáng
tác ra một tác phẩm và thể hiện nó dưới dạng hình thức nhất định thông qua quá trình
lao động sáng tạo hoặc một cá nhân, tổ chức được chuyển giao quyền tác giả thì
những tổ chức, cá nhân đó là chủ thể của quyền tác giả. Ngoài ra, căn cứ theo khoản 1
Điều 6 Luật SHTT thì tác phẩm được bảo hộ phải mang tính nguyên gốc, phải do
chính tác giả sáng tạo ra không được sao chép từ các tác phẩm khác. Quyền tác giả chỉ
bảo hộ hình thức sáng tạo, đó là sự thể hiện ý tưởng mà không bảo hộ nội dung sáng
tạo. Các tác phẩm đó chính là nguyên liệu cho hoạt động sáng tạo của các chủ thể
quyền liên quan và cũng chính là tiền đề sinh ra quyền liên quan.
Theo khoản 3 Điều 4 LSHTT “Quyền liên quan đến quyền tác giả là quyền của tổ
chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng,
tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa”. Để có được quyền liên quan, những
chủ thể như: người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình… phải biểu diễn, thể
hiện, tổ chức, phát sóng dựa trên tác phẩm gốc của chủ sở hữu quyền tác giả. Người
biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, người phát sóng đóng vai trò trung gian,
truyền đạt nội dung, thông tin, giá trị của tác phẩm gốc đến với công chúng. Khi một
tác phẩm được ra đời, được thể hiện dưới một hình thức nhất định, được công bố

20
Luật Quang Huy, “So sánh, mối liên hệ quyền tác giả và quyền liên quan”, Tư vấn pháp luật,
[https://luatquanghuy.vn/tu-van-luat/so-huu-tri-tue/phan-biet-quyen-tac-gia-va-quyen-lien-quan/], (truy cập lần
cuối vào ngày 03/9/2023)

12
nhưng chưa chắc cộng đồng có thể đón nhận và tiếp thu hết giá trị, thông tin mà tác
phẩm đó mang lại. Thông qua những chủ thể trung gian của quyền liên quan, tác phẩm
đó có thể dễ dàng đi vào lòng người hơn, được công chúng đánh giá cao hơn bởi khả
năng truyền đạt hấp dẫn, kỹ xảo của người biểu diễn, tổ chức phát sóng, ghi âm, ghi
hình…Đó cũng chính là lý do tại sao quyền trung gian này được gọi tên là: quyền liên
quan đến quyền tác giả.
Vì vậy, quyền liên quan đến quyền tác giả có mối liên hệ chặt chẽ không thể tách
rời, có thể khẳng định quyền liên quan giữ vai trò quan trọng giúp cho công chúng
tiếp cận được tác phẩm, thu hút được nhiều người biết đến tác phẩm, nâng cao giá trị
tác phẩm. Các tác phẩm chính là nguyên liệu cho hoạt động lao động sáng tạo của các
chủ thể quyền liên quan. Quyền tác giả tập trung bảo vệ tác giả, chủ sở hữu tác phẩm
và là tiền đề để sinh ra quyền liên quan đến tác giả thì quyền liên quan bảo vệ những
người đưa tác phẩm đến gần với công chúng trên nguyên tắc không phương hại đến
quyền tác giả.
4. Phân tích trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian đối với
hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan trên môi trường Internet.
Với thời đại ngày càng phát triển không ngừng, việc phủ sóng của các nền tảng
mạng xã hội ngày càng rộng rãi. Một tác phẩm muốn được biết đến một cách rộng
rãi hay còn được gọi là thịnh hành khi được tiếp cận mạnh mẽ trên các nền tảng mạng
xã hội internet thì các tác giả, chủ sở hữu thường chọn cách kết nối với các doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian để lan truyền tác phẩm của họ. Đối với chủ thể của
quyền liên quan đến quyền tác giả có thể là đài truyền hình, nhà tổ chức,… họ cũng sẽ
kết nối với các bên cung cấp dịch vụ trung gian để chương trình, cuộc biểu diễn, bản
ghi âm,.. của họ ngày càng phổ biến trên nền tảng Internet. Từ đó các doanh nghiệp
cung cấp dịch vụ trung gian đóng một vai trò không hề nhỏ trong việc làm cầu nối
giữa các tác phẩm, các chương trình, các buổi diễn đến khán giả trên toàn quốc, toàn
thế giới.
Và căn cứ Luật SHTT doanh nghiệp cung cấp dịch vụ được hiểu là “Doanh nghiệp
cung cấp dịch vụ trung gian là doanh nghiệp cung cấp phương tiện kỹ thuật để tổ
chức, cá nhân sử dụng dịch vụ đưa nội dung thông tin số lên môi trường mạng viễn
thông và mạng Internet; cung cấp kết nối trực tuyến cho công chúng tiếp cận, sử dụng
nội dung thông tin số trên môi trường mạng viễn thông và mạng Internet”21.
Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian là một chủ thể tương đối mới, xuất hiện
cùng với sự phát triển của KH&CN. Chủ thể này có các quyền liên quan đến thỏa
21
Khoản 1 Điều 198b Luật SHTT

13
thuận với người dùng, quyền truyền dẫn thông tin cũng như từ chối cung cấp dịch vụ
trái với quy định pháp luật. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian có
một số trách nhiệm đặc thù, nhất là khi hoạt động kinh doanh của họ gián tiếp dẫn đến
hành vi xâm phạm quyền tác giả. Trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
trung gian đối với chủ thể bị xâm phạm quyền tác giả xuất phát từ học thuyết trách
nhiệm gián tiếp22.
Vì thế, khi quyền tác giả, quyền liên quan bị xâm phạm thì các doanh nghiệp cung
cấp dịch vụ trung gian sẽ có thể thực hiện hành động ngăn chặn việc xâm phạm quyền
tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả trên môi trường Internet một cách nhanh
chóng nhất.
Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả hay thậm chí là đài truyền hình hay các ban tổ
chức,...là chủ thể của quyền liên quan phát hiện hành vi phát trực tuyến trái pháp luật
có thể khởi kiện bên vi phạm gián tiếp trong trường hợp việc khởi kiện bên vi phạm
trực tiếp khó khăn hơn hoặc không đem lại kết quả như mong muốn. Có thể hiện việc
khởi kiện bên vi phạm gián tiếp ở đây là các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung
gian còn bên vi phạm trực tiếp có thể là các khán giả, những người đang có hành động
lan truyền những tác phẩm, những buổi biểu diễn dẫn đến việc xâm phạm quyền tác
giả, quyền liên quan. Xác định chính xác người dùng thực hiện phát trực tuyến tác
phẩm xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan thường gặp khó khăn hơn so với việc
quy trách nhiệm cho doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian. Quyền lợi của tác giả,
chủ sở hữu quyền tác giả là ưu tiên hàng đầu do vậy càng có nhiều chủ thể chịu trách
nhiệm về hành vi xâm phạm thì người bị thiệt hại càng có cơ hội được bù đắp tốt
hơn23.
Để ngăn chặn những hành vi xâm phạm các tác phẩm, Pháp luật Việt Nam đã ban
hành những quy định liên quan đến trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
trung gian nhằm bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan trên môi trường Internet. Căn
cứ theo Điều 198b Luật SHTT, điển hình những biện pháp nhằm bảo hộ như:
+ Dừng phát sóng trực tuyến, gỡ bỏ và xóa nội dung vi phạm trên môi trường
mạng viễn thông và mạng Internet:
 Khi quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả bị xâm phạm trên
nền tảng Internet thì biện pháp trên là một biện pháp rất cần thiết và vô cùng ý nghĩa.
22
Alfred C. Yen (2000), “Internet service provider liability for subscriber copyright infringement, enterprise
liability, and the first amendment”, Georgetown Law Journal, 88 Geo.L.J. 1833, tr.89
23
ThS. Nguyễn Phương Thảo, “Bảo vệ quyền tác giả trong hoạt động phát trực tuyến (streaming) - trách nhiệm
của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian”, Tạp chí Toà án nhân dân, [https://tapchitoaan.vn/bao-ve-quyen-
tac-gia-trong-hoat-dong-phat-truc-tuyen-streaming-trach-nhiem-cua-doanh-nghiep-cung-cap-dich-vu-trung-
gian6554.html], (truy cập lần cuối vào ngày 03/9/2023)

14
Bởi lẽ trên nền tảng Internet, việc lan truyền và truy cập đến tác phẩm sẽ rất nhanh
thậm chí chỉ có thể tính bằng tích tắc vì thể việc xâm phạm có thể gây ra những hậu
quả khó lường đối với tác giả hay chủ sở hữu của tác phẩm đó. Biện pháp trên còn là
trách nhiệm của bên cung cấp dịch vụ trung gian khi đang là bên thực hiện việc phủ
sóng các tác phẩm trên môi trường Internet.
 Tuy nhiên, căn cứ vào khoản 3 Điều 198b Luật SHTT cũng quy định về
việc các bên cung cấp dịch vụ trung gian miễn trách nhiệm pháp lý đối với hành vi
xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan trên môi trường mạng viễn thông và mạng
Internet liên quan đến việc cung cấp hoặc sử dụng dịch vụ của mình trong một số
trường hợp đặc biệt. Nhưng việc miễn trách nhiệm như vậy là chưa hoàn toàn hợp lý
bởi vì hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan ảnh hưởng rất nhiều đối với
tác giả, chủ sở hữu cho nên việc bảo hộ đối với họ rất quan trọng và ý nghĩa.
+ Chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi có hành vi xâm phạm quyền tác giả,
quyền liên quan đến quyền tác giả:
Hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan trên môi trường Internet
theo Điều 28 Luật SHTT thì tác giả, chủ sở hữu hay đài truyền hình, các nhà tổ
chức,... có quyền yêu cầu các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian bồi thường
thiệt hại. Việc yêu cầu bên cung cấp dịch vụ trung gian bồi thường thiệt hại thì các
trường hợp có thể là: (a) Là nguồn khởi đầu đăng tải, truyền đưa hoặc cung cấp nội
dung thông tin số qua mạng viễn thông và Internet mà không được phép của chủ thể
quyền; (b) Sửa chữa, cắt xén, sao chép nội dung thông tin số dưới bất kỳ hình thức
nào mà không được phép của chủ thể quyền; (c) Cố tình huỷ bỏ hoặc làm vô hiệu hoá
các biện pháp kỹ thuật do chủ thể quyền thực hiện để bảo vệ quyền tác giả, quyền liên
quan; (d) Hoạt động như nguồn phân phối thứ cấp các nội dung thông tin số do vi
phạm quyền tác giả, quyền liên quan mà có 24. Như vậy, chủ thể thực hiện hành vi xâm
phạm QTG gián tiếp trong trường hợp này là doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung
gian. Mặc dù không trực tiếp tác động vào sản phẩm vi phạm, nhưng chủ thể này đã
cung cấp điều kiện, cơ sở để người dùng thực hiện hành vi xâm phạm và thu lợi nhuận
từ việc này. Quan trọng hơn, chủ thể này có khả năng kiểm soát hoạt động của người
dùng thông qua việc kiểm duyệt cho phép hoặc không cho phép phát trực tuyến nội
dung vi phạm. Trách nhiệm bồi thường của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian
là không thể tránh khỏi. Bên thực hiện hành vi xâm phạm QTG trực tiếp cũng phải
chịu trách nhiệm bồi thường. Khi hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan bị
phát hiện thì Luật SHTT cũng đã quy định Điều 202, 204, 205. Có thể thấy, thiệt hại

24
Khoản 5 Điều 5 Thông tư 07/2012/TTLT-BTTTT-BVHTTDL

15
xảy ra thì việc bồi thường thiệt hại phải được xác định dựa trên thực tế. Việc xác định
và bồi thường thiệt hại giữa bên cung cấp dịch vụ trung gian và các tác giả, chủ sở
hữu luôn là vấn đề cần giải quyết một cách cần thiết nhất đối với các hành vi xâm
phạm quyền tác giả, quyền liên quan trên môi trường Internet.
A.2. Bài tập:
1. Nghiên cứu tranh chấp quyền tác giả trong vụ việc Truyện tranh Thần Đồng
Đất Việt và đánh giá các vấn đề pháp lý sau:
Tóm tắt: Tranh chấp quyền tác giả giữa ông Lê Linh và Công ty Phan Thị liên
quan đến bộ truyện tranh “Thần Đồng Đất Việt”
Tranh chấp giữa Ông Lê Linh (Nguyên đơn), là người đã sáng tạo ra bốn nhân vật
Trạng Tí, Sửu, Dần, Mẹo trong truyện và Công ty Phan Thị (Bị đơn), là công ty xuất
bản bộ truyện tranh này về việc ai là chủ thể có quyền đối với bộ truyện tranh Thần
Đồng Đất Việt. Được biết ông Lê Linh đã ký hợp đồng lao động với công ty Phan Thị
một thời gian, trong khoảng thời gian đó ông nhận lương của công ty để vẽ nên bộ
truyện tranh từ tập 1 đến tập 78. Sau đó, ông nghỉ việc. Tuy nhiên, bộ truyện tranh lại
rất ăn khách nên công ty đã thuê một người khác để vẽ tiếp truyện tranh này từ tập 79
về sau. Liệu rằng công ty Phan Thị thuê một ông họa sĩ khác tiếp tục vẽ truyện tranh
mà không được sự đồng ý của ông Lê Linh thì có xâm phạm quyền tác giả của ông Lê
Linh hay không? Đó là vấn đề pháp lý mà nhóm nghiên cứu đặt ra.
a) Theo Luật SHTT, truyện tranh Thần Đồng Đất Việt có được bảo hộ quyền
tác giả không?
Căn cứ khoản 1 Điều 6 Luật SHTT:
“Quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể
hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất
lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã
đăng ký hay chưa đăng ký.”
Điểm a khoản 1 Điều 14 Luật SHTT:
“1. Tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được bảo hộ bao gồm:
a) Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm
khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác;
…”
Và Điều 15 Luật SHTT có quy định về các đối tượng không thuộc phạm vi bảo
hộ quyền tác giả:
1.Tin tức thời sự thuần túy đưa tin.
16
2.Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc
lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó.
3.Quy trình, hệ thống, phương pháp hoạt động, khái niệm, nguyên liệu, số
liệu.
Xét thấy, ý tưởng nhân vật và nội dung truyện tranh đã được họa sĩ Lê Linh sáng
tạo và thể hiện tác phẩm ra bên ngoài dưới dạng một tác phẩm văn học. Bên cạnh đó,
truyện tranh Thần Đồng Đất Việt cũng không thuộc đối tượng không được bảo hộ
quyền tác giả. Do vậy, truyện tranh Thần Đồng Đất Việt được bảo hộ quyền tác giả.
b) Ai là chủ sở hữu hình tượng nhân vật Tí, Sửu, Dần, Mẹo liên quan đến bộ
truyện tranh Thần đồng đất Việt?
Căn cứ Điều 36 Luật SHTT:
“Chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân nắm giữ một, một số hoặc
toàn bộ quyền quy định tại khoản 3 Điều 19 và khoản 1 Điều 20 của Luật
này.”
Và khoản 1 Điều 39 Luật SHTT có quy định về chủ sở hữu quyền tác giả là tổ
chức giao kết hợp đồng với tác giả:
“Tổ chức giao nhiệm vụ sáng tạo tác phẩm cho tác giả là người thuộc tổ
chức mình là chủ sở hữu các quyền quy định tại Điều 20 và khoản 3 Điều
19 của Luật này, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Xét thấy, Công ty Phan Thị và ông Lê Linh đã ký với nhau hợp đồng lao động,
trong khoảng thời gian đó ông Lê Linh nhận lương của công ty để vẽ nên bộ truyện
tranh từ tập 1 đến tập 78 nên có cơ sở đã kết luận rằng Công ty Phan Thị là chủ sở
quyền tác giả đối với hình tượng nhân vật Tí, Sửu, Dần, Mẹo liên quan đến bộ truyện
tranh Thần Đồng Đất Việt.
c) Ai là tác giả hình tượng nhân vật Tí, Sửu, Dần, Mẹo?
Căn cứ khoản 1 Điều 12a Luật SHTT:
“Tác giả là người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm. Trường hợp có từ hai
người trở lên cùng trực tiếp sáng tạo tác phẩm với chủ ý là sự đóng góp
của họ được kết hợp thành một tổng thể hoàn chỉnh thì những người đó là
các đồng tác giả.”
Và khoản 1 Điều 6 Luật SHTT:
“Quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể
hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất

17
lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã
đăng ký hay chưa đăng ký.”
Họa sĩ Lê Linh là tác giả duy nhất của hình tượng nhân vật Tí, Sửu, Dần, Mẹo.
Mặc dù, họa sĩ Lê Linh chưa đăng ký quyền tác giả đối với những hình tượng nhân vật
này nhưng họa sĩ Lê Linh là người trực tiếp sáng tạo ra những hình tượng nhân vật
này và thể hiện nó ra bên ngoài dưới dạng một tác phẩm văn học nên theo cơ chế tự
động bảo hộ trong quyền tác giả thì họa sĩ Lê Linh được bảo hộ quyền tác giả mà
không cần phải đăng ký.
d) Công ty Phan Thị có quyền gì đối với hình tượng nhân vật Tí, Sửu, Dần,
Mẹo?
Công ty Phan Thị là chủ sở hữu quyền tác giả đối với hình tượng nhân vật Tí,
Sửu, Dần, Mẹo. Căn cứ khoản 2 Điều 39 Luật SHTT có quy định về chủ sở hữu quyền
tác giả là tổ chức giao kết hợp đồng với tác giả:
“Tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng với tác giả sáng tạo ra tác phẩm là
chủ sở hữu các quyền quy định tại Điều 20 và khoản 3 Điều 19 của Luật
này, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Trong trường hợp này, Công ty Phan Thị có các quyền như sau:
+ Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;
+ Quyền làm tác phẩm phái sinh nhưng không được gây phương hại đến
quyền tác giả của ông Lê Linh đối với tác phẩm truyện tranh Thần Đồng Đất Việt
được dùng làm tác phẩm phái sinh;
+ Quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng;
+ Quyền sao chép tác phẩm;
+ Quyền phân phối, nhập khẩu để phân phối đến công chúng.
e) Việc công ty Phan Thị cho xuất bản bộ truyện từ tập 79 trở đi có phù hợp
với quy định pháp luật không?
Việc Công ty Phan Thị cho xuất bản bộ truyện từ tập 79 trở đi không phù hợp
với quy định pháp luật.
Được biết, Công ty Phan Thị và ông Lê Linh có ký hợp đồng lao động để ông Lê
linh vẽ nên các hình thức thể hiện của các nhân vật Trạng Tí, Sửu Ẹo, Dần Béo, Cả
Mẹo. Do đó, Công ty Phan Thị là chủ sở hữu quyền tác giả đối với các tác phẩm mỹ
thuật ứng dụng, là loại hình tác phẩm được bảo hộ theo quy định tại điểm g khoản 1
Điều 14 Luật SHTT của tác giả Lê Linh.

18
Căn cứ khoản 1 Điều 39 Luật SHTT: “Tổ chức giao nhiệm vụ sáng tạo tác phẩm
cho tác giả là người thuộc tổ chức mình là chủ sở hữu các quyền quy định tại Điều 20
và khoản 3 Điều 19 của Luật này, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Đối chiếu với quy định pháp luật nêu trên, Công ty Phan Thị đã giao nhiệm vụ
cho ông Lê Linh sáng tạo hình thức thể hiện các nhân vật, ngoài ra giữa hai bên không
có thỏa thuận nào khác. Do dó, Công ty Phan Thị là chủ sở hữu của quyền nhân thân
“công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm” tại khoản 3 Điều 19
Luật SHTT và các quyền tài sản tại Điều 20 Luật SHTT trong đó có quyền ‘làm tác
phẩm phái sinh”. Mặt khác, ông Lê Linh có quyền nhân thân trong đó có quyền “Bảo
vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc
tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác
giả”.
Xét thấy, trong trường hợp này, Công ty Phan Thị được quyền làm tác phẩm
phát sinh nhưng không được sửa chữa, cắt xén các nhân vật Trạng Tí, Sửu Ẹo, Dần
Béo, Cả Mẹo hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến
danh dự và uy tín của ông Lê Linh vì hành vi sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác
phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả là
hành vi xâm phạm quyền tác giả theo Điều 28 Luật SHTT.
Tuy nhiên, căn cứ khoản 8 Điều 4 Luật SHTT quy định về tác phẩm phái sinh:
“Tác phẩm phái sinh là tác phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, tác
phẩm phóng tác, cải biến, chuyển thể, biên soạn, chủ giải, tuyển chọn.”. Nhận thấy,
trong trường hợp này, Công ty Phan Thị không nêu ra được Công ty Phan Thị đã thực
hiện hoạt động nào trong các hoạt động dịch, phóng tác, cải biến, chuyển thể, biên
soạn, chủ giải, tuyển chọn. Mặt khác, từ các hình thức thể hiện của các nhân vật đã
được đăng ký tại Cục bản quyền tác giả về các tư thể, hành động, biểu cảm khác nhau
của các nhân vật từ tập 1 đến tập 78 đã bị Công ty Phan Thị thay đổi hình thức thể
hiện nhằm phù hợp với cốt truyện, bối cảnh, nội dung cụ thể từng tập truyện của các
tập 79 trở đi của bộ truyện tranh. Đây là hoạt động làm tác phẩm phái sinh có sửa
chữa tác phẩm gốc nhưng không thỏa thuận với ông Lê Linh và không được ông Lê
Linh đồng ý. Công ty Phan Thị là chủ sở hữu tác phẩm là hình thức thể hiện của bốn
nhân vật, được quyền sử dụng hình tượng của bốn nhân vật này vào các hoạt động sản
xuất, kinh doanh của mình nhưng phải tôn trọng quyền nhân thân của tác giả là sự
toàn vẹn của tác phẩm. Do vậy, công ty Phan Thị đã có hành vi xâm phạm quyền tác
giả được quy định tại khoản 5 Điều 28 Luật SHTT.

19
2. Nghiên cứu Bản án số 213/2014/DS-ST của Tòa án nhân dân quận Tân Bình
ngày 14/8/2014 và trả lời các câu hỏi sau:
Tóm tắt Bản án số 213/2014/DS-ST của Tòa án nhân dân quận Tân Bình ngày
14/8/2014 “V/v tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ”.
Nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Lộc khởi kiện vì cho rằng bị đơn là Công ty CP
XNK & DV Ô tô Mặt Trời Mọc có hành vi vi phạm quyền tác giả đối với tác phẩm
nên yêu cầu bồi thường và xin lỗi công khai trên báo chí. Bị đơn không đồng ý vì nếu
có vi phạm quyền tác giả của nguyên đơn thì trách nhiệm bồi thường và xin lỗi là của
Công ty Đăng Viễn (công ty được thuê để trang trí showroom) và căn cứ theo tác
phẩm do nguyên đơn xuất trình tại Tòa án so với phần trang trí tại phòng trưng bày
của bị đơn thì nội dung, bố cục, hình thức thể hiện là không giống nhau. Hội đồng xét
xử xét thấy không có hành vi phạm quyền tác giả đối với tác phẩm “Hình thức thể
hiện tranh tết dân gian” nên không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.
a) Ai là tác giả tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân gian”? Tác phẩm
này có được bảo hộ quyền tác giả không? Vì sao?
Tác giả của tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân gian” là ông Nguyễn Văn
Lộc, vì ông là người trực tiếp sáng tạo tác phẩm: tác phẩm là do ông tự tạo, tự vẽ vào
năm 2012, ông lấy cảm hứng từ văn hóa dân gian, tranh tết dân gian đã được nhiều tác
giả thể hiện, mỗi tác giả có bố cục và hình thức thể hiện riêng để thể hiện theo phong
cách riêng và hình thành nên tác phẩm của mình (khoản 1 Điều 12a Luật SHTT).
Tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân gian” có được bảo hộ quyền tác giả,
vì tác phẩm được tác giả là ông Nguyễn Văn Lộc trực tiếp sáng tạo ra, với loại hình là
mỹ thuật ứng dụng, đã được Cục bản quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký bản quyền
số 169/2013/QTG ngày 07/01/2013, có kèm theo bản photo hình ảnh đăng ký bản
quyền (khoản 1 Điều 12a, khoản 1 Điều 13, điểm g khoản 1 Điều 14 Luật SHTT).
b) Từng “cụm hình ảnh” trong tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân
gian” có được bảo hộ quyền tác giả không? Vì sao?
Từng “cụm hình ảnh” trong tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân gian”
không được bảo hộ quyền tác giả, vì xét nguồn gốc của các cụm hình ảnh được thể
hiện trong tác phẩm của ông Nguyễn Văn Lộc là những hình ảnh đã được lưu truyền
trong văn hóa dân gian từ lâu đời (hình ảnh múa lân, ông địa, liễn chúc tết, ông đồ viết
chữ…) các tác giả chỉ thay đổi một số đường nét và sắp xếp theo một bố cục và hình
thức thể hiện để tạo nên tác phẩm riêng của mình. Do đó, quyền tác giả của các hình
ảnh riêng rẽ đã được lưu truyền lâu đời trong văn hóa dân gian không thể xác định là
của ai. Nhận thấy, các biểu tượng thuộc về văn hóa dân gian được lưu truyền lâu đời
20
(như thầy đồ viết chữ, múa lân, liễn chúc tết, hoa mai, hoa đào, trẻ em vui chơi với
pháo….) thì mỗi người có sự hình dung và thể hiện riêng của mình nhưng bản thân
mỗi một biểu tượng riêng rẽ không thể tự thân tạo nên một tác phẩm để thể hiện
không khí tết dân gian mà các biểu tượng này phải được sắp xếp, thể hiện trong những
bố cục chỉnh thể thì mới có hình thành nên tác phẩm mang thông điệp và nội dung cụ
thể. Vì thế, quyền tác giả đối với tác phẩm ở đây được xác định chính là bố cục sắp
xếp, hình thức thể hiện trong một tổng thể thống nhất không thể tách rời ra theo từng
bộ phận để xác định quyền tác giả. Mặt khác, ông Nguyễn Văn Lộc cũng trình bày do
trình bày, theo trình tự đăng ký quyền tác giả nếu muốn bảo hộ cho từng cụm hình ảnh
ông phải lập từng hồ sơ tương ứng với từng cụm hình ảnh (ở đây là 05 cụm hình ảnh
tương ứng với 05 hồ sơ) để đăng ký quyền tác giả. Điều này sẽ mất nhiều thời gian
nên ông đã gộp chung cả 05 cụm hình vào trong một tác phẩm để đăng ký quyền tác
giả. Từ đó có thể nhận thấy quyền tác giả của ông Nguyễn Văn Lộc đối với từng cụm
hình riêng rẽ chưa được xác lập (khoản 1 Điều 12a Luật SHTT).
c) Hành vi của bị đơn có xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của nguyên đơn
không? Nêu cơ sở pháp lý.
Trong vụ việc trên, để xác định hành vi của bị đơn có xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ của nguyên đơn hay không cần xác định hành vi sử dụng tác phẩm bất hợp pháp
của nguyên đơn, cụ thể là tác phẩm được bị đơn sử dụng chính là tác phẩm được bảo
hộ quyền tác giả của nguyên đơn nhưng không thực hiện hoạt động xin phép, trả
tiền25.
Thứ nhất, căn cứ theo lời trình bày của công ty Đăng Viễn, công ty không sử
dụng tác phẩm của bị đơn để trang trí tại showroom của nguyên đơn mà công ty đã
tìm mua và tải các hình ảnh rời rạc từ các website (nguyenthehien.com ; vectordep.vn
…) trong đó có những hình ảnh như trống đồng, tranh dân gian, ông đồ, liễn chúc tết,
hoa mai, hoa đào … để thiết kế, sắp xếp thành một bố cục và hình thức thể hiện riêng
của mình nhằm phục vụ cho việc trang trí. Trong tranh chấp, tuy bị đơn đã sử dụng
những hình ảnh tương đồng với một bộ phận trong cụm hình của nguyên đơn nhưng
bộ phận này là những hình ảnh đã được lưu truyền trong văn hóa dân gian từ lâu đời
(như thầy đồ viết chữ, múa lân, liễn chúc tết, …). Vì quyền tác giả của các hình ảnh
riêng rẽ đã được lưu truyền từ lâu đời nên không thể xác định là của ai. Bên cạnh đó,
đối tượng được bảo hộ đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng của nguyên đơn là tổng
thể bố cục và hình thức sắp xếp các cụm hình ảnh nên không thể kết luận bị đơn xâm
phạm quyền tác giả của nguyên đơn.
25
ThS. Nguyễn Phương Thảo (2018), “Bình luận Bản án: Hành vi xâm phạm quyền tác gỉa”, Tạp chí Khoa học
Pháp lý Việt Nam, (05), tr.74-80

21
Thứ hai, căn cứ khoản 3 Điều 49 Luật SHTT hiện hành quy định:
“Tổ chức, cá nhân đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả,
Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan không có nghĩa vụ chứng minh
quyền tác giả, quyền liên quan thuộc về mình khi có tranh chấp, trừ trường
hợp có chứng cứ ngược lại.”
Theo quy định trên, khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả thì
nguyên đơn không có nghĩa vụ chứng minh quyền tác giả khi có tranh chấp. Tuy
nhiên, nhằm chứng minh Công ty Đăng Viễn thi công, lắp đặt, trang trí tại cửa hàng
đã hoàn thành và các bên đã nghiệm thu, thanh lý trước khi nguyên đơn được cấp
GCN, phía bị đơn đã trình Biên bản nghiệm thu và thanh lý ngày 05/12/2012 là trước
thời điểm nguyên đơn được cấp Giấy chứng nhận vào ngày 07/01/2013. Nguyên đơn
cho rằng tác phẩm mà ông đã đăng ký là do ông tự vẽ vào năm 2012 nhưng ông không
có chứng cứ chứng minh cụ thể mà chỉ có Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả
ngày 07/01/2013. Do vậy, không thể nói Công ty TNHH dịch vụ quảng cáo Đăng
Viễn hay Công ty CP XNK & DV Ô tô Mặt Trời Mọc (bị đơn) vi phạm quyền tác giả
của nguyên đơn.
Như vậy, trong vụ việc trên, nhóm cho rằng không có hành vi xâm phạm quyền
sở hữu trí tuệ từ phía bị đơn đối với nguyên đơn.
B. Phần Câu hỏi sinh viên tự làm (có nộp bài) và KHÔNG thảo luận trên lớp:
1. Phân tích quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí
tuệ năm 2022 về Giả định quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả.
“Điều 198a. Giả định về quyền tác giả, quyền liên quan
Trong các thủ tục tố tụng dân sự, hành chính, hình sự về quyền tác giả và
quyền liên quan, nếu không có chứng cứ ngược lại thì quyền tác giả, quyền
liên quan được giả định như sau:
1. Cá nhân, tổ chức được nêu tên theo cách thông thường là tác giả, người
biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng, nhà sản xuất
tác phẩm điện ảnh, nhà xuất bản được coi là chủ thể quyền đối với tác phẩm,
cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng đó;
2. Nêu tên theo cách thông thường quy định tại khoản 1 Điều này được hiểu
là được nêu tên trên bản gốc tác phẩm, bản định hình đầu tiên cuộc biểu diễn,
bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng và các tài liệu liên quan (nếu
có) hoặc trên các bản sao tương ứng được công bố hợp pháp trong trường

22
hợp bản gốc tác phẩm, bản định hình đầu tiên cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi
hình, chương trình phát sóng và các tài liệu liên quan không còn tồn tại;
3. Cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 1 Điều này được hưởng quyền tác giả
hoặc quyền liên quan tương ứng.”
So với Luật SHTT 2005, Luật SHTT 2022 đã bổ sung một điều khoản mới về giả
định quyền tác giả, quyền liên quan. Quy định này có tác dụng xác định cá nhân, tổ
chức được hưởng quyền tác giả, quyền liên quan tương ứng trong trường hợp không
có chứng cứ khi tiến hành các thủ tục tố tụng trên các lĩnh vực dân sự, hành chính,
hình sự. Với giả định này, việc xác định cá nhân là tác giả cũng như các cá nhân, tổ
chức hưởng quyền liên quan được giảm bớt khó khăn vì không có chứng cứ xác thực.
Từ đó, góp phần giúp các quyền và nghĩa vụ của chủ thể sở hữu quyền tác giả, quyền
liên quan được đảm bảo thực hiện công bằng, công minh hơn. Không những vậy,
khoản 2 Điều 198a Luật SHTT 2022 cũng đã giải thích rõ định nghĩa về việc thế nào
là “nêu tên một cách thông thường” bám sát vào việc nêu tên trên bản gốc tác phẩm,
bản định hình đầu tiên,… các bản sao tương ứng được công bố hợp pháp khi chúng
không còn tồn tại.
Lý do bổ sung của giả định quyền tác giả, quyền liên quan26:
+ Giúp suy đoán chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan (trừ trường hợp có
chứng cứ ngược lại) trong các thủ tục tố tụng dân sự, hành chính, hình sự. Bởi khác
với nhiều đối tượng sở hữu công nghiệp phải xác lập quyền thông qua thủ tục đăng ký,
quyền tác giả và quyền liên quan lại phát sinh một cách tự động mà không cần thông
qua bất cứ thủ tục đăng ký nào.
+ Nội luật hóa quy định của các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Điều 15 Công ước Beme, Điều 18.72 Hiệp định CPTPP và Điều 12.54 Hiệp định
EVFTA.
2. Bổ sung quy định mới về trách nhiệm pháp lý về quyền tác giả, quyền liên
quan đối với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian.
Luật SHTT sửa đổi 2022 bổ sung Điều 198b về trách nhiệm pháp lý về quyền tác
giả, quyền liên quan đối với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian. Cụ thể như
sau:
26
ThS. Nguyễn Phương Thảo; ThS. Nguyễn Trọng Luận; ThS. Đặng Nguyễn Phương Uyên, “Những điểm mới
của Luật Sở hữu trí tuệ và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ”, Hội nghị khoa học “Những điểm mới của luật sửa đổi,
bổ sung sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ”, do Khoa Luật Dân sự Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí
Minh tổ chức ngày 19/8/2022 tại Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr.83-85

23
“1. Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian là doanh nghiệp cung cấp
phương tiện kỹ thuật để tổ chức, cá nhân sử dụng dịch vụ đưa nội dung thông
tin số lên môi trường mạng viễn thông và mạng Internet; cung cấp kết nối
trực tuyến cho công chúng tiếp cận, sử dụng nội dung thông tin số trên môi
trường mạng viễn thông và mạng Internet.
2. Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian có trách nhiệm triển khai các
biện pháp kỹ thuật, phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các
chủ thể quyền thực thi các biện pháp bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan
trên môi trường mạng viễn thông và mạng Internet.
3. Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian được miễn trừ trách nhiệm
pháp lý đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan trên môi
trường mạng viễn thông và mạng Internet liên quan đến việc cung cấp hoặc
sử dụng dịch vụ của mình trong các trường hợp sau đây:
a) Chỉ thực hiện việc truyền dẫn nội dung thông tin số hoặc cung cấp khả
năng truy nhập đến nội dung thông tin số;
b) Khi thực hiện chức năng lưu trữ đệm trong quá trình truyền dẫn thông tin,
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian phải thực hiện một cách tự động,
tạm thời nhằm mục đích trung chuyển thông tin và làm cho việc truyền dẫn
thông tin hiệu quả hơn, với các điều kiện sau: chỉ biến đổi thông tin vì lý do
công nghệ; tuân thủ các điều kiện truy nhập, sử dụng nội dung thông tin số;
tuân thủ các quy tắc về cập nhật nội dung thông tin số được quy định cụ thể
theo cách thức được ngành công nghiệp thừa nhận và sử dụng rộng rãi;
không ngăn cản việc sử dụng hợp pháp công nghệ được thừa nhận rộng rãi
trong ngành công nghiệp để lấy dữ liệu về việc sử dụng nội dung thông tin số;
gỡ bỏ nội dung thông tin số hoặc không cho truy nhập đến nội dung thông tin
số khi biết rằng nội dung thông tin số đó đã được gỡ bỏ tại nguồn khởi đầu
hoặc nguồn khởi đầu đã hủy việc truy nhập đến nội dung thông tin số đó;
c) Lưu trữ nội dung thông tin số của người sử dụng dịch vụ theo yêu cầu của
người sử dụng dịch vụ với các điều kiện sau: không biết rằng nội dung thông
tin số đó xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan; có hành động nhanh
chóng gỡ bỏ hoặc ngăn chặn việc truy nhập đến nội dung thông tin số đó khi
biết rằng nội dung thông tin số đó xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan;
d) Các trường hợp khác theo quy định của Chính phủ.

24
4. Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian được miễn trừ trách nhiệm
pháp lý theo quy định tại khoản 3 Điều này không phải tự giám sát dịch vụ
của mình hoặc chủ động tìm kiếm các bằng chứng chỉ ra hành vi xâm phạm.
5. Nội dung thông tin số quy định tại Điều này là tác phẩm và các đối tượng
quyền liên quan được bảo hộ theo quy định của Luật này được thể hiện dưới
dạng số.”
Điều 198b đã nêu lên được hai vấn đề chính:
+ Làm rõ khái niệm doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian và các khái niệm
liên quan như nội dung thông tin số thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả, quyền liên
quan
+ Xác định trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian và đặc
biệt các trường hợp mà chủ thể này được miễn trừ trách nhiệm khi có hành vi xâm
phạm quyền tác giả, quyền liên quan.
Nguyên tắc chung của các trường hợp miễn trừ trách nhiệm là doanh nghiệp cung
cấp dịch vụ trung gian chỉ thực hiện các dịch vụ về mặt kỹ thuật, không có sự can
thiệp vào nội dung chứa đựng đối tượng vi phạm hoặc thể hiện được sự tích cực trong
việc ngăn chặn hành vi xâm phạm thông qua các hoạt động gỡ bỏ. Việc kiểm soát
thông tin đăng tải đôi khi gặp khó khăn (do lượng thông tin quá lớn). Nên nếu nhà
cung cấp trung gian không biết hoặc không có cơ sở để biết đó là thông tin bất hợp
pháp thì có thể được hưởng quyền miễn trừ.
Quy định tại điều 198b cũng mở ra theo hướng cho phép Chính phủ quy định chi
tiết về doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian, trường hợp miễn trừ và trách nhiệm
thực thi các biện pháp bảo vệ quyền tài sản, quyền liên quan.
Như vậy, việc bổ sung hoàn toàn cần thiết nhằm phù hợp với xu hướng phát triển
hiện nay khi số lượng lớn hành vi quyền tác giả trên môi trường Internet đang ngày
càng gia tăng, từ đó nâng cao vai trò và trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch
vụ trung gian trong việc bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan trên môi trường
Internet. Đồng thời, việc bổ sung điều luật trên cũng góp phần hoàn thành mục tiêu
nội luật hóa khoản 1 Điều 12.55 Hiệp định EVFTA.
Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian (như các sàn thương mại điện tử
Shopee, Lazada, Tiki,…) đóng vai trò không nhỏ trong việc truyền đạt, phân phối các
tác phẩm đến với công chúng. Trong trường hợp xảy ra hành vi xâm phạm quyền tác
giả, những doanh nghiệp này chính là chủ thể đầu tiên có khả năng ngăn chặn hành vi
xâm phạm hoặc tạo điều kiện để hành vi xâm phạm diễn ra. Do vậy, có thể nói đây là

25
chủ thể có vai trò quan trọng trong hoạt động truyền đạt tác phẩm và bảo vệ quyền tác
giả.
Quy định trên là một trong những điểm mới của Luật SHTT 2022, đã tạo cơ hội
cho chủ thể quyền tác giả được bồi thường thiệt hại thỏa đáng, khiến bên vi phạm gián
tiếp phải cân nhắc khi thực hiện hành vi xâm phạm. Trách nhiệm của doanh nghiệp
cung cấp dịch vụ trung gian được nâng cao hơn, từ đó tăng hiệu quả phòng ngừa hành
vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan.

26
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. VĂN BẢN PHÁP LUẬT:
1. Hiệp định CPTPP;
2. Hiệp định EVFTA;
3. Công ước Berne;
4. Đạo luật Bản quyền, Thiết kế và Bản Quyền 1988;
5. Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009, 2019, 2022);
6. Nghị định số 17/2023/NĐ-CP;
7. Thông tư 07/2012/TTLT-BTTTT-BVHTTDL.
B. SÁCH, TẠP CHÍ, THAM LUẬN:
1. Alfred C. Yen (2000), “Internet service provider liability for subscriber copyright
infringement, enterprise liability, and the first amendment”, Georgetown Law Journal,
88, 57pp. [10] Mark Traphagen (2019), Copyright Throughout the World, Thomson
Reuters, Chapter 41. IX. B;
2. President and Fellows of Havard College (2016), “Copyright and Fair use: A guide
for the Havard University”, OFFICE OF THE GENERAL COUNSEL, tr.8;
3. Rosemont Enters., Inc. v. Random House, Inc., 366 F.2d 303, 306 (1966);
4. Thomas Froehlich, supra note 2, at 5 (Holger Postel, The fair use doctrine in the
U.S. American Copyright Act and similar regulations in the German law, Chicago-
Kent Journal of Intellectual Property, tr.144);
5. Đại học Luật TP.HCM (2023), Giáo trình Luật SHTT, NXB Hồng Đức, TP.HCM,
tr.126-127;
6. Đại học Luật TP.HCM (2023), Giáo trình Luật SHTT, NXB Hồng Đức, TP.HCM,
tr.127-128;
7. Nguyên Thị Kim Châu (2018), Luận văn cử nhân “Quy định về sử dụng hợp lý đối
với quyền tác giả trong pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam”, Khoa Luật - Đại học Quốc
gia Hà Nội, tr.8;
8. ThS. Nguyễn Phương Thảo (2018), “Bình luận Bản án: Hành vi xâm phạm quyền
tác gỉa”, Tạp chí Khoa học Pháp lý Việt Nam, tr.74-80;
9. ThS. Nguyễn Phương Thảo; ThS. Nguyễn Trọng Luận; ThS. Đặng Nguyễn Phương
Uyên, “Những điểm mới của Luật Sở hữu trí tuệ và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ”, Hội
nghị khoa học “Những điểm mới của luật sửa đổi, bổ sung sung một số điều của Luật
Sở hữu trí tuệ”, do Khoa Luật Dân sự Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh tổ chức
ngày 19/8/2022 tại Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr.83-85;
C. NGUỒN INTERNET:
1. Richard Stim, “Getting Permission”, Stanford Libraries,
[https://fairuse.stanford.edu/overview/fair-use/what-is-fair-use/] (truy cập lần cuối vào
ngày 03/9/2023);
2. TS. Lê Vũ Vân Anh, “Quy định về “sử dụng hợp lý” tác phẩm: Góc nhìn so sánh từ
pháp luật Vương quốc Anh và Việt Nam”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam,
[https://vjst.vn/vn/tin-tuc/6815/quy-dinh-ve-su-dung-hop-ly-tac-pham--goc-nhin-so-
sanh-tu-phap-luat-vuong-quoc-anh-va-viet-nam.aspx?
fbclid=IwAR3OXZZQ2L8L2ihQICjsyxsQed8iAcufzBh8mERufiaGF3sSbf00IM2Yof
c], (truy cập lần cuối ngày 03/9/2023);
3. ThS. Nguyễn Phương Thảo, “Bảo vệ quyền tác giả trong hoạt động phát trực tuyến
(streaming) - trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian”, Tạp chí
Toà án nhân dân, [https://tapchitoaan.vn/bao-ve-quyen-tac-gia-trong-hoat-dong-phat-
truc-tuyen-streaming-trach-nhiem-cua-doanh-nghiep-cung-cap-dich-vu-trung-
gian6554.html], (truy cập lần cuối vào ngày 03/9/2023).

You might also like