You are on page 1of 24

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH


KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI

BUỔI THẢO LUẬN THỨ HAI


Môn học: Luật Sở hữu trí tuệ
Giảng viên: Th.S Đặng Nguyễn Phương Uyên
Nhóm: - TM44B.1
STT Họ và tên MSSV GHI CHÚ
1 Nguyễn Bảo Trâm 1853801011233
2 Lê Thị Hồng Loan 1953801011124
3 Lưu Thị Trúc Ly 1953801011128
4 Ngô Thị Kim Mai 1953801011134
5 Nguyễn Thị Diễm My 1953801011146
6 Ngô Thị Phương Nam 1953801011149 Nhóm trưởng
7 Trần Như Ngọc 1953801011167
8 Thân Thị Tố Nhi 1953801011192
9 Trần Ái Nhi 1953801011193

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2022


THẢO LUẬN LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ LẦN THỨ HAI

MỤC LỤC
I. Lý thuyết 3
1. Nguyên tắc “sử dụng hợp lý” (“fair use”) là gì? Tìm hiểu quy định của pháp luật nước
ngoài về vấn đề này và so sánh với các quy định hiện hành của pháp luật sở hữu trí tuệ
Việt Nam. 3
Tìm hiểu quy định của pháp luật nước ngoài về vấn đề này và so sánh với các quy định
hiện hành của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam. 5
So sánh quy định của pháp luật SHTT VN với quy định của pháp luật nước ngoài (Hoa
Kỳ) về vấn đề “sử dụng hợp lý”. 6
2. Có mấy hình thức chuyển giao quyền tác giả? Phân biệt các hình thức này. 8
II. BÀI TẬP 10
1. Nghiên cứu tranh chấp quyền tác giả trong vụ việc Truyện tranh Thần Đồng Đất Việt
(thông qua các phương tiện thông tin đại chúng) và đánh giá các vấn đề pháp lý sau (trên
cơ sở các thông tin này). 10
a) Theo Luật SHTT, truyện tranh Thần Đồng Đất Việt có được bảo hộ quyền tác giả
không? 11
b) Ai là chủ sở hữu bộ truyện tranh này? 11
c) Ai là tác giả bộ truyện tranh này? 12
d) Công ty Phan Thị có quyền gì đối với bộ truyện tranh Thần Đồng Đất Việt? 12
e) Việc công ty Phan Thị cho xuất bản bộ truyện từ tập 79 trở đi có phù hợp với quy
định pháp luật không? 13
2. Nghiên cứu Bản án số 213/2014/DS-ST của Tòa án nhân dân quận Tân Bình ngày
14/8/2014 và trả lời các câu hỏi. 14
a) Ai là tác giả tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân gian”? Tác phẩm này có
được bảo hộ quyền tác giả không? Vì sao? 14
b) Từng “cụm hình ảnh” trong tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân gian” có
được bảo hộ quyền tác giả không? Vì sao? 15
c) Hành vi của bị đơn có xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của nguyên đơn không? Nêu cơ
sở pháp lý. 15
d) Việc bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian có những điểm khác biệt nào so
với các loại hình tác phẩm khác? 17
III. Phần Câu hỏi sinh viên tự làm (có nộp bài) và KHÔNG thảo luận trên lớp: 18
1/ Theo quy định của pháp luật SHTT, tác phẩm phái sinh là gì? Đặc điểm của tác phẩm
phái sinh? 18
2/Với hướng lập luận của Tòa án, hành vi của Hãng phim truyện I và đạo diễn Lộc có xâm
phạm quyền tác giả của ông Ánh không? Đoạn nào trong bản án thể hiện điều này? 19
3/ Pháp luật nước ngoài có quy định nào về việc bảo hộ tác phẩm phái sinh? 19

2
THẢO LUẬN LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ LẦN THỨ HAI

I. Lý thuyết

1. Nguyên tắc “sử dụng hợp lý” (“fair use”) là gì? Tìm hiểu quy định của
pháp luật nước ngoài về vấn đề này và so sánh với các quy định hiện hành của
pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam.
Nguyên tắc “sử dụng hợp lý” (“fair use”)
Về mặt nguyên tắc, chỉ có có các chủ thể là chủ sở hữu, tác giả mới được
phép độc quyền khai thác giá trị của các đối tượng thuộc quyền sở hữu trí tuệ trong
một khoảng thời gian. Pháp luật sở hữu trí tuệ quy định cho phép các chủ thể này
được quyền cấm hoặc cho phép chủ thể khác khai thác, sử dụng các đối tượng thuộc
quyền sở hữu trí tuệ của mình. Việc đặt ra quy định trên nhằm bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của chủ sở hữu, tác giả, đồng thời cũng nhằm cân bằng lợi ích giữa
những chủ thể này với cộng đồng.
Song trên thực tế, việc các chủ thể này khai thác độc quyền quyền sở hữu trí
tuệ rất dễ xảy ra các khả năng gây cản trở đối với xã hội, an ninh, các lợi ích khác
của Nhà nước... Chính vì vậy, các nhà làm luật đã quy định tại Điều 7 Luật SHTT 1
về những trường hợp Nhà nước được phép cấm hoặc hạn chế chủ thể quyền sở hữu
trí tuệ thực hiện quyền của mình hoặc buộc chủ thể quyền sở hữu trí tuệ phải cho
phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng một hoặc một số quyền của mình với những
điều kiện phù hợp. Điều này nhằm bảo đảm mục tiêu quốc phòng, an ninh, dân sinh
và các lợi ích khác của, xã hội. Từ mặt thực tế cũng như theo quy định của pháp luật
có thể thấy quyền sở hữu trí tuệ không phải là quyền mang tính chất tuyệt đối. Theo
đó, tính chất của quyền sở hữu trí tuệ được hiểu theo nghĩa tương đối, được song
hành cùng với nguyên tắc sử dụng hợp lý (“fair use”).
Nguyên tắc “sử dụng hợp lý” (“fair use”) là nguyên tắc căn bản trong pháp
luật về sở hữu trí tuệ. Nguyên tắc này có nội dung ngăn chặn việc áp dụng pháp luật
về quyền sở hữu trí tuệ một cách cứng nhắc, mang bản chất là giới hạn phạm vi độc
quyền đối với chủ sở hữu, tác giả quyền sở hữu trí tuệ. Nguyên tắc này cho phép sử
dụng các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ mà không cần phải xin phép
trong một số điều kiện nhất định, việc sử dụng các đối tượng này không được làm
phương hại đến quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.
Chẳng hạn như nguyên tắc sử dụng hợp lý tại Hoa Kỳ, nguyên tắc này được
hình thành dựa trên sự tự do ngôn luận, được Tu chính án số 1 của Hiến pháp Hoa
Kỳ bảo vệ. Theo Luật Quyền tác giả Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, nội dung nguyên tắc

1 Luật SHTT viết tắt của Luật sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009, năm 2019.

3
THẢO LUẬN LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ LẦN THỨ HAI

này cho phép trích dẫn hoặc sao chép các tư liệu của người khác đã đăng ký bản
quyền một cách phi lợi nhuận mà không cần xin phép2.
Theo pháp luật Việt Nam, Luật SHTT quy định tại khoản 1 Điều 25 về các
trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố mà không phải xin phép, không phải trả
tiền nhuận bút, thù lao, đồng thời nêu lên một số hành vi được coi là hành vi sử
dụng hạn chế như:
“1. Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không
phải trả tiền nhuận bút, thù lao bao gồm:
a) Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của
cá nhân;
b) Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc
minh họa trong tác phẩm của mình;
c) Trích dẫn tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để viết báo, dùng trong ấn
phẩm định kỳ, trong chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu;
d) Trích dẫn tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác
giả, không nhằm mục đích thương mại;
đ) Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu;
e) Biểu diễn tác phẩm sân khấu, loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các
buổi sinh hoạt văn hóa, tuyên truyền cổ động không thu tiền dưới bất kỳ hình thức
nào;
g) Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng
dạy;
h) Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật
ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm
đó;
i) Chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị;
k) Nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng riêng.”

2 http://luatnhanhoa.vn/kien-thuc-phap-luat/372/ban-ve-nguyen-tac-su-dung-hop-ly-fair-use.html#:~:text=
%2D%20Fair%20use%20l%C3%A0%20nguy%C3%AAn%20t%E1%BA%AFc,ng%C6%B0%E1%BB
%9Di%20n%E1%BA%AFm%20gi%E1%BB%AF%20b%E1%BA%A3n%20quy%E1%BB%81n.

4
THẢO LUẬN LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ LẦN THỨ HAI

Tìm hiểu quy định của pháp luật nước ngoài về vấn đề này và so sánh
với các quy định hiện hành của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam.
Theo quy định của pháp luật Hoa Kỳ:
Điều 107 Luật Quyền tác giả Hợp chủng quốc Hoa Kỳ quy định về nguyên
tắc sử dụng hợp lý như sau:
“Việc áp dụng nguyên tắc hợp lý không được trái với các quy định tại Điều
106 và 106A, theo đó, một người được phép sử dụng tác phẩm được bảo hộ quyền
tác giả thông qua các hình thức như sao chép dưới dạng bản sao hoặc bản ghi hoặc
bởi bất kỳ một phương thức nào được quy định tại Điều này nhằm hướng đến mục
đích bình luận, phê bình, cung cấp thông tin hoặc giảng dạy (bao hàm cả việc sử
dụng cho các lớp học), nghiên cứu, học tập thì được xem là không vi phạm quyền
tác giả. Để xác định việc sử dụng tác phẩm trong các trường hợp cụ thể đó phải thỏa
mãn các điều kiện sau:
(1) Căn cứ vào mục đích và đặc điểm của việc sử dụng, không mang tính
chất thương mại, nhằm mục đích giáo dục phi lợi nhuận;

(2) Tác phẩm được sử dụng là tác phẩm được Luật Quyền tác giả bảo vệ ;

(3) Đảm bảo về tỷ lệ được sử dụng trong tác phẩm;

(4) Không gây phương hại đến việc khai thác giá trị tiềm năng thị trường
hoặc đối với giá trị của tác phẩm được bảo hộ.3

Nguyên tắc sử dụng hợp lý cho phép sử dụng tài liệu dưới các hình thức sau:

+ Trích dẫn tác phẩm để làm sáng tỏ hoặc bình luận.

+ Sử dụng tài liệu cho mục đích báo cáo.

+ Sử dụng cho mục đích nghiên cứu.

+ Sử dụng cho mục đích giáo dục, không nhằm mục đích lợi nhuận.

+ Việc lặp lại không làm thay đổi nội dung.

Theo quy định của pháp luật Việt Nam:


Điều 25 Luật SHTT dùng phương pháp liệt kê các trường hợp sử dụng hợp
lý, đáp ứng yêu cầu:
(1) Không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm;
3 Luật Quyền tác giả Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
https://vi.wikisource.org/wiki/Lu%E1%BA%ADt_Quy%E1%BB%81n_t%C3%A1c_gi%E1%BA%A3_H
%E1%BB%A3p_ch%C3%BAng_qu%E1%BB%91c_Hoa_K%E1%BB%B3/Ch
%C6%B0%C6%A1ng_1/%C4%90i%E1%BB%81u_107, truy cập ngày 10/3/2022.

5
THẢO LUẬN LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ LẦN THỨ HAI

(2) Không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền
tác giả;
(3) Phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm.
Theo khoản 3 Điều 25 Luật SHTT, sử dụng tác phẩm đã công bố không phải
xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao đối với tự sao chép một bản nhằm
mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân; và sao chép tác phẩm để lưu
trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu sẽ không áp dụng cho tác phẩm kiến
trúc, tác phẩm tạo hình và chương trình máy tính.
Ngoài ra, việc sử dụng tác phẩm nhằm mục đích học tập cũng không được
công nhận là sử dụng hợp lý.
Tựu chung lại, nguyên tắc sử dụng hợp lý có thể được quy định trong đạo
luật về quyền sở hữu trí tuệ tại các quốc gia, nguyên tắc này nhằm mục đích sử
dụng các đối tượng quyền sử hữu trí tuệ một cách phi lợi nhuận và trên cơ sở tôn
trọng tác phẩm gốc.

So sánh quy định của pháp luật SHTT VN với quy định của pháp luật
nước ngoài (Hoa Kỳ) về vấn đề “sử dụng hợp lý”.
* Điểm giống
Thứ nhất, đều được sử dụng trong giới hạn tác phẩm đã được pháp luật sở
hữu trí tuệ về quyền tác giả bảo hộ) mà không cần được sự đồng ý của tác giả/chủ
sở hữu quyền tác giả.

Thứ hai, đều không phải là hành vi xâm phạm quyền tác giả/chủ sở hữu.
Người thực hiện hành vi sử dụng này không được xâm phạm đến các quyền của tác
giả/chủ sở hữu quyền tác giả và không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình
thường của tác phẩm đó.

Thứ ba, không quy định cụ thể mức độ sử dụng như thế nào là “sử dụng hợp
lý”, không có tiêu chí cụ thể, rõ ràng để xác định mà đa phần việc xác định hành vi
“sử dụng hợp lý” được liệt kê. Xem xét, đánh giá “sử dụng hợp lí” thường dựa trên
mục đích sử dụng tác phẩm được bảo hộ. Ví dụ: sử dụng tác phẩm bảo hộ để nhận
xét, bình luận, đưa thông tin đơn thuần, nghiên cứu. Việc nhận định có “sử dụng
hợp lí” hay không trong các tranh chấp dựa trên quan điểm của thẩm phán khi giải
thích luật.4

4 https://hotrothutuc.com/nguyen-tac-su-dung-hop-ly-401.html.

6
THẢO LUẬN LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ LẦN THỨ HAI

Thứ tư, nguyên tắc sử dụng hợp lý (“fair use”) theo pháp luật Hoa Kỳ được
ghi nhận trong Luật Quyền tác giả Hoa Kỳ; tại Việt Nam, nguyên tắc này được quy
định trong Luật SHTT. Nhìn chung, nguyên tắc sử dụng hợp lý đều được ghi nhận
trong các văn bản quy phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ của quốc gia.

* Khác nhau:

Thứ nhất, về xác định sử dụng hợp lý:

Theo pháp luật Hoa Kỳ: Điều 107 Luật Quyền tác giả của Hoa Kỳ quy định
về việc xác định trường hợp có phải là sử dụng hợp lý hay không bằng cách nêu ra 4
điều kiện và chỉ được xem là sử dụng hợp lý khi và chỉ khi đáp ứng đủ điều kiện
luật định. Việc quy định này sẽ mang tính bao quát, nếu tránh việc bỏ sót các trường
hợp mà thực tế có thể xảy ra.

Theo pháp luật Việt Nam: Điều 25 quy định về các trường hợp sử dụng tác
phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao.

Điều 26 quy định về các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không
phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao.

Điều 32 quy định về các trường hợp sử dụng quyền liên quan không phải xin
phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao.

Điều 33 quy định về các trường hợp sử dụng quyền liên quan không phải xin
phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao.

Thứ hai, về ngoại lệ của nguyên tắc sử dụng hợp lý.

Theo pháp luật Hoa Kỳ: tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả thì đều có thể
sao chép nếu đáp ứng các điều kiện luật định, đồng thời việc sao chép một tác phẩm
nhằm mục đích học tập được pháp luật quy định là hợp pháp

Theo pháp luật Việt Nam: Quy định về tự sao chép một bản nhằm mục đích
nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân và sao chép tác phẩm để lưu trữ trong
thư viện với mục đích nghiên cứu sẽ không áp dụng đối với với tác phẩm kiến trúc,
tác phẩm tạo hình, chương trình máy tính. Bên cạnh đó, Luật SHTT Việt Nam
không thừa nhận trường hợp sao chép nhằm mục đích học tập là sử dụng hợp lý.
Quy định này nhằm hạn chế ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ sở hữu tác phẩm
trong việc khai thác tác phẩm. Trong trường hợp một tác phẩm phục vụ cho việc
7
THẢO LUẬN LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ LẦN THỨ HAI

học tập được sao chép tự do thì việc này ảnh hưởng rất lớn đến việc bán sách in vì
sách được sao chép có giá thành rẻ hơn.

Thứ ba, về tôn trọng quyền tác giả: Pháp luật Việt Nam quy định các
trường hợp sử dụng hợp lý phải đáp ứng điều kiện phải thông tin về tên tác giả và
nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm. Điều này đề cao vai trò, lợi ích, tính cá nhân của
chủ sở hữu/ tác giả của quyền sở hữu trí tuệ đó.

Thứ tư, về giới hạn sử dụng hợp lý: Theo pháp luật Hoa Kỳ, một trong
những điều kiện để được xem là sử dụng hợp lý là đảm bảo về tỷ lệ phần trăm được
sử dụng trong tác phẩm. Pháp luật Việt Nam không quy định về giới hạn sử dụng
hợp lý, miễn sao không làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm.

2. Có mấy hình thức chuyển giao quyền tác giả? Phân biệt các hình thức này.

Cơ sở pháp lý: Điều 45 – Điều 48 Luật SHTT

Chuyển giao quyền tác giả có 02 hình thức: chuyển nhượng quyền tác giả và
c.

Chuyển nhượng quyền tác giả Chuyển quyền sử dụng quyền tác
giả

Khái
Chuyển nhượng quyền tác giả là Chuyển quyền sử dụng quyền tác
niệm
việc chủ sở hữu quyền tác giả giả là việc chủ sở hữu quyền tác giả
chuyển giao quyền sở hữu đối với cho phép tổ chức, cá nhân khác sử
các quyền quy định tại khoản 3 dụng có thời hạn một, một số hoặc
Điều 19, Điều 20, khoản 3 Điều 29, toàn bộ các quyền quy định tại
Điều 30 và Điều 31 Luật SHTT cho khoản 3 Điều 19, Điều 20, khoản 3
tổ chức, cá nhân khác theo hợp Điều 29, Điều 30 và Điều 31 Luật
đồng hoặc theo quy định của pháp SHTT.
luật có liên quan. (khoản 1 Điều 47 Luật SHTT)
(khoản 1 Điều 45 Luật SHTT)

CSPL Điều 45, Điều 46 Luật SHTT Điều 47, Điều 48 Luật SHTT

Đối Quyền sở hữu Quyền sử dụng


tượng

8
THẢO LUẬN LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ LẦN THỨ HAI

Chuyển Luật không quy định Tổ chức, cá nhân được chuyển


giao được chuyển giao k bị hạn chế, do quyền sử dụng quyền tác giả có thể
quyền đã trở thành CSH chuyển quyền sử dụng cho tổ chức,
cho bên cá nhân khác nếu được sự đồng ý
thứ ba của chủ sở hữu quyền tác giả.

Hợp Hợp đồng chuyển nhượng quyền Hợp đồng sử dụng quyền tác giả
đồng tác giả (hay còn được gọi là hợp đồng li-
- Hình thức: phải được lập thành xăng quyền tác giả)
văn bản - Hình thức: phải được lập thành
- Nội dung chủ yếu: văn bản
+ Tên và địa chỉ của các bên - Nội dung cơ bản:
+ Căn cứ chuyển nhượng + Tên và địa chỉ của các bên
+ Cơ sở pháp lý + Căn cứ chuyển quyền
+ Giá, phương thức thanh toán + Phạm vi chuyển giao quyền
+ Quyền và nghĩa vụ của các bên + Giá, phương thức thanh toán
+ Trách nhiệm do vi phạm hợp + Quyền và nghĩa vụ của các bên
đồng + Trách nhiệm do vi phạm hợp
+ Các điều khoản khác (phạm vi, đồng
điều kiện chuyển nhượng, giải
quyết tranh chấp…) - Phân loại:
+ Căn cứ vào năng lực sử dụng
quyền: hợp đồng sử dụng
độc quyền và hợp đồng sử
dụng không độc quyền
+ Căn cứ vào phạm vi sử
dụng: hợp đồng sử dụng một
lần và hợp đồng sử dụng
nhiều lần
+ Căn cứ vào thời hạn sử
dụng: hợp đồng sử dụng có
thời hạn xác định và hợp
đồng sử dụng không xác
định thời hạn

9
THẢO LUẬN LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ LẦN THỨ HAI

II. BÀI TẬP

1. Nghiên cứu tranh chấp quyền tác giả trong vụ việc Truyện tranh Thần Đồng
Đất Việt (thông qua các phương tiện thông tin đại chúng) và đánh giá các vấn
đề pháp lý sau (trên cơ sở các thông tin này).

Tóm tắt vụ việc như sau:

Từ năm 2001, biết Công ty Phan Thị (PT) có đầu tư làm truyện tranh cho
thiếu nhi, ông Lê Phong Linh bắt đầu về làm việc tại Công ty với vị trí họa sĩ vẽ
minh họa. Khi đó, giám đốc Công ty PT là bà Phan Thị Mỹ H có đề nghị ông vẽ bộ
truyện dân gian để chuyển thể các điển tích và nhân vật trạng ngày xưa. Ông Linh
có xây dựng khoảng 30 nhân vật và chọn ra 4 hình tượng nhân vật là “Trạng Tí, Sửu
Ẹo, Dần Béo, Cả Mẹo” để sáng tác bộ truyện tranh Thần đồng đất Việt (TĐĐV).

Sau tập 78, Lê Linh ngừng sáng tác. Các tập tiếp theo do các họa sĩ khác hợp
tác với Công ty Phan Thị thực hiện. Phan Thị đã thuê họa sĩ khác sử dụng hình
tượng các nhân vật trong TĐĐV trước đó để tiếp tục thực hiện và xuất bản bộ
truyện từ tập 79 trở đi mà không có sự đồng ý của Lê Linh nên ông đã khởi kiện ra
Tòa án. Sau đó, Lê Linh phát hiện trong hồ sơ đăng ký bản quyền, bà Mỹ Hạnh ghi
tên đồng tác giả với ông. Ngày 29/3/2002, theo yêu cầu của bà Hạnh, ông Lê
Phương Linh có ký đơn để Công ty PT đăng ký quyền sở hữu đối với 4 hình tượng
nhân vật Trạng Tí, Sửu Ẹo, Dần Béo, Cả Mẹo. Sau đó, Công ty PT được Cục bản
quyền cấp Giấy chứng nhận ghi nhận là chủ sở hữu bản quyền của 4 hình tượng
nhân vật trên. Phía họa sĩ Lê Linh cho rằng chỉ có mình là tác giả nên có quyền bảo
vệ sự toàn vẹn đối với tác phẩm, không ai có quyền sáng tác các tập tiếp theo dựa
trên các nhân vật trong truyện của mình và đưa vụ việc nhờ tới pháp luật để giải
quyết.

Ông yêu cầu Tòa xác định mình là tác giả duy nhất của bộ truyện và đề nghị
Công ty Phan Thị không được sáng tác những biến thể của nhân vật trong bộ truyện.
Mặt khác, phía bị đơn cũng đã kiện ngược họa sĩ Lê Linh vì đã sử dụng nhân vật
Trạng Tí trong Thần đồng đất Việt để sáng tác nhân vật Long Tinh truyện Long
Thánh.

10
THẢO LUẬN LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ LẦN THỨ HAI

a) Theo Luật SHTT, truyện tranh Thần Đồng Đất Việt có được bảo hộ quyền
tác giả không?

Theo quy định tại khoản 7 Điều 4 Luật SHTT: “Tác phẩm là sản phẩm sáng
tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học thể hiện bằng bất kì phương tiện
hay hình thức nào.”

Khoản 1 Điều 6 Luật SHTT: “1. Quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm
được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân
biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa
công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký…”

Truyện tranh Thần đồng Đất Việt là tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả. Bởi
lẽ thỏa mãn 3 đk sau:

+ KHÔNG TRÁI VỚI ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI (nguyên tắc chung).

Thứ nhất, Theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ: “Thần đồng đất Việt”
là tác phẩm mỹ thuật ứng dụng (thể hiện qua hình ảnh các nhân vật trong truyện -
hình tượng 04 nhân vật), là tác phẩm viết (thể hiện ở cốt truyện), là tác phẩm truyện
tranh (thể hiện dưới dạng truyện, trình bày bởi chữ viết và hình ảnh).

Thứ hai, truyện tranh Thần Đồng Đất Việt được thể hiện bằng hình ảnh được
vẽ ra và câu truyện được sáng tác bởi tác giả, không phải hình ảnh hay câu truyện
mới chỉ xuất hiện trong tưởng tượng, trong tâm trí tác giả mà chưa được thể hiện ra
bên ngoài bằng một hình thức nào đó.

b) Ai là chủ sở hữu bộ truyện tranh này?

Căn cứ theo Điều 36 Luật SHTT thì: “Chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức,
cá nhân nắm giữ một, một số hoặc toàn bộ các quyền tài sản quy định tại Điều 20
của Luật này.”

và khoản 2 Điều 39 Luật SHTT: “2. Tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng với
tác giả sáng tạo ra tác phẩm là chủ sở hữu các quyền quy định tại Điều 20 và
khoản 3 Điều 19 của Luật này, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”

Từ năm 2001, họa sĩ Lê Linh bắt đầu làm việc tại Công ty Phan Thị và được
giao thực hiện bộ truyện tranh TĐĐV. Do đó, Công ty Phan Thị có giao kết hợp

11
THẢO LUẬN LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ LẦN THỨ HAI

đồng với ông Lê Linh là tác giả của bộ truyện tranh và văn bản đăng ký ở Cục Bản
quyền tác giả để Lê Linh chuyển giao quyền tài sản cho công ty này đồng thời
khẳng định công ty Phan Thị là chủ sở hữu quyền tác giả cho bộ truyện TĐĐV.
Như vậy, Bà Mỹ Hạnh và công ty Phan Thị là chủ sở hữu của tác phẩm là bộ truyện
tranh “Thần đồng đất Việt”.

CHỈ CÓ CÔNG TY PHAN THỊ LÀ CHỦ SỞ HỮU TÁC PHẨM

HOẠ SĨ LÊ LINH LÀ TÁC GIẢ.

c) Ai là tác giả bộ truyện tranh này?


Quan điểm của nhóm: Họa sĩ Lê Linh là tác giả của cuốn truyện tranh
“Thần đồng Đất Việt”. Bởi lẽ:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Nghị định 22/2018, tác giả là “người trực
tiếp sáng tạo toàn bộ hoặc một phần tác phẩm văn học, nghệ thuật”. Quyền tác
giả phát sinh từ thời điểm tác phẩm được sáng tạo dưới hình thức nhất định, không
phân biệt tác phẩm công bố hay chưa công bố, đăng ký bảo hộ hay chưa đăng ký
bảo hộ.
Tại các phiên tòa, hai bên đều thừa nhận tác giả Lê Linh là người trực tiếp vẽ
ra 4 hình tượng nhân vật. Trên các ấn phẩm đều thể hiện bút danh Lê Linh là người
thể hiện phần tranh minh họa. Tức Lê Linh là tác giả sáng tạo ra hình tượng 04 nhân
vật nêu trên. Như đã trình bày, tác phẩm được xác lập ngay khi xuất hiện dưới một
hình thức vật chất nhất định, do đó kể từ khi Họa sĩ Lê Linh vẽ nên 04 nhân vật là
“Trạng Tí, Sửu Ẹo, Dần Béo, Cả Mẹo” thì quyền tác giả của ông đã được xác lập.
Trong vụ việc này, bà Phan Thị Mỹ Hạnh cho rằng mình đã nghĩ ra những ý
tưởng trong đầu về 4 hình tượng nhân vật và thuê hoạ sĩ Lê Linh thể hiện ý tưởng
đó trên giấy. Những ý tưởng này không tồn tại ở dạng vật chất hay hình thức có thể
nhận biết được nên không đáp ứng những quy định của Luật Sở hữu trí tuệ và
không được pháp luật Việt Nam bảo hộ. Đồng thời, theo quy định tại khoản 3 Điều
6 Nghị định 22/2018/ NĐ-CP: “Người hỗ trợ, góp ý kiến hoặc cung cấp tư liệu cho
người khác sáng tạo ra tác phẩm không được công nhận là tác giả hoặc đồng tác
giả.” Như vậy, việc bà Mỹ Hạnh cung cấp ý tưởng, chỉ đạo cho ông Lê Linh không
là cơ sở để xác định bà là đồng tác giả của bộ truyện. Vì vậy, bà Phan Thị Mỹ Hạnh
không được công nhận là đồng tác giả của truyện tranh thần đồng đất Việt.

12
THẢO LUẬN LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ LẦN THỨ HAI

d) Công ty Phan Thị có quyền gì đối với bộ truyện tranh Thần Đồng Đất Việt?
Trong vụ việc, công ty Phan Thị được công nhận là chủ sở hữu quyền tác giả
nên có các quyền tài sản và một số quyền nhân thân đối với tác phẩm này. Cụ thể,
công ty Phan Thị là chủ sở hữu quyền tác giả thuộc loại tổ chức, cá nhân giao nhiệm
vụ cho tác giả hoặc giao kết hợp đồng với tác giả để sáng tạo ra tác phẩm.
Do đó, công ty Phan Thị có thể nắm giữ một, một số hoặc toàn bộ các quyền
tài sản quy định tại Điều 20 và quyền nhân thân được quy định tại khoản 3 Điều 19
Luật SHTT. Cụ thể, trong trường hợp này, chủ sở hữu có toàn bộ quyền tài sản bao
gồm: quyền làm tác phẩm phái sinh; biểu diễn tác phẩm trước công chúng; sao chép
tác phẩm; phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm; truyền đạt tác
phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, phương tiện thông tin
điện tử hoặc bất kì phương tiện nào khác; cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm
điện ảnh, chương trình máy tính và quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người
khác công bố tác phẩm.

e) Việc công ty Phan Thị cho xuất bản bộ truyện từ tập 79 trở đi có phù hợp
với quy định pháp luật không?
Việc công ty Phan Thị cho xuất bản bộ truyện từ tập 79 trở đi không phù hợp
với quy định pháp luật.
Công ty Phan Thị được công nhận là chủ sở hữu quyền tác giả nên Phan Thị
có quyền làm tác phẩm phái sinh, tức tiếp tục phát hành các tập truyện tranh “Thần
đồng đất Việt” từ tập 78 trở về trước và sử dụng nguyên mẫu 4 hình tượng Tí, Sửu,
Dần, Mẹo để sáng tạo nội dung cho những tập tiếp theo.
Căn cứ theo khoản 8 Điều 4 Luật SHTT thì: “Tác phẩm phái sinh là tác
phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, tác phẩm phóng tác, cải biên,
chuyển thể, biên soạn, chú giải, tuyển chọn”, tức là một tác phẩm sáng tạo dựa trên
một nguyên bản của tác phẩm gốc. Tác phẩm phái sinh chỉ được công nhận khi
không phương hại đến quyền nhân thân của tác giả. Tuy nhiên, việc công ty
Phan Thị cho xuất bản bộ truyện từ tập 79 trở đi lại có các hành vi sửa chữa và cắt
xén các hình tượng nhân vật, tạo nên những đặc điểm khác với hình thức thể hiện
gốc mà tác giả Lê Linh đã đăng ký. Việc làm sai lệch so với hình thức thể hiện gốc
không có sự đồng ý của tác giả, đồng thời Công ty Phan Thị không ghi chú rõ việc
sử dụng hình thức thể hiện của 4 nhân vật là tác phẩm của tác giả Lê Linh. Do đó,
có căn cứ xác định Công ty Phan Thị đã có hành vi xâm phạm quyền nhân thân của
tác giả Lê Linh theo quy định tại khoản 4 Điều 19, khoản 5 Điều 28 Luật SHTT.

13
THẢO LUẬN LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ LẦN THỨ HAI

2. Nghiên cứu Bản án số 213/2014/DS-ST của Tòa án nhân dân quận Tân Bình
ngày 14/8/2014 và trả lời các câu hỏi.
* Tóm tắt Bản án số 213/2014/DS-ST của Tòa án nhân dân quận Tân Bình
ngày 14/8/2014 về việc “Tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ” giữa nguyên đơn: Ông
Nguyễn Văn Lộc và bị đơn: CÔNG TY CP Xuất Nhập Khẩu và Dịch Vụ Ô Tô Mặt
Trời Mọc

Ông Lộc khởi kiện buộc Công ty Mặt Trời Mọc công khai xin lỗi trên 03 tờ
báo và bồi thường số tiền 20.000.000 đồng do công ty này đã sử dụng hình ảnh
trong tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân gian” của ông. Tòa án xét thấy tác
phẩm của ông Lộc và hình ảnh tại cửa hàng có bố cục và hình thức thể hiện khác
nhau, không có gì chứng minh là các bức tranh được trang trí tại cửa hàng đúng với
nguyên bản là các bức tranh của ông. Đồng thời, các hình ảnh riêng rẽ đã được lưu
truyền lâu đời trong văn hóa dân gian không thể xác định là của ai và quyền tác giả
của ông Nguyễn Văn Lộc đối với từng cụm hình riêng rẽ chưa được xác lập. Mặt
khác, bị đơn đã nộp cho Tòa hợp đồng thuê Công ty TNHH dịch vụ quảng cáo
Đăng Viễn thi công, lắp đặt, trang trí tại cửa hàng, hai bên đã nghiệm thu, thanh lý
hợp đồng trước ngày ông Lộc được cấp Giấy chứng nhận đăng ký bản quyền. Do
đó, không có hành vi vi phạm quyền tác giả, toàn bộ yêu cầu của ông Lộc không
được Tòa án chấp nhận.

a) Ai là tác giả tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân gian”? Tác phẩm
này có được bảo hộ quyền tác giả không? Vì sao?
Trả lời:
Tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân gian” là tác phẩm do ông
Nguyễn Văn Lộc tự tạo, tự vẽ và vẽ vào năm 2012, ông lấy cảm hứng từ văn hóa
dân gian, tranh tết dân gian đã được nhiều tác giả thể hiện và ông đã có cách sắp
xếp bố cục và hình thức thể hiện theo phong cách riêng để hình thành nên tác phẩm.
Do đó, căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Nghị định 22/2018/NĐ-CP “Tác
giả là người trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn học, nghệ
thuật và khoa học.” thì ông Nguyễn Văn Lộc chính là tác giả của tác phẩm “Hình
thức thể hiện tranh tết dân gian”.
Tác phẩm này được bảo hộ quyền tác giả, bởi vì, ông Lộc - tác giả của tác
phẩm - đã tiến hành đăng ký bản quyền và được Cục bản quyền cấp giấy chứng
nhận đăng ký bản quyền số 169/2013/QTG ngày 07/01/2013 đổi với tác phẩm trên
và tại phiên tòa, ông Lộc cũng đã cung cấp bản photo hình ảnh đăng ký bản quyền

14
THẢO LUẬN LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ LẦN THỨ HAI

để chứng minh tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân gian” thuộc quyền sở
hữu trí tuệ của ông. Do đó, có căn cứ để xác định tác phẩm “Hình thức thể hiện
tranh tết dân gian” được bảo hộ quyền tác giả.

b) Từng “cụm hình ảnh” trong tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân
gian” có được bảo hộ quyền tác giả không? Vì sao?
Trả lời: Có
Bởi vì đây là t/p văn học, nghệ thuật, dân gian (hình thành từ lâu đời, k xác
định được t/giả) => Được bảo hộ QTG đ/v t/p văn học, nghệ thuật, dân gian.
(Còn không được bảo hộ đ/v ông Lộc)
Từng “cụm hình ảnh” trong tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân gian”
không được bảo hộ quyền tác giả vì các lý do sau:
Thứ nhất, xét nguồn gốc của các cụm hình ảnh được thể hiện trong tác
phẩm của ông Nguyễn Văn Lộc, tác phẩm của ông là tập hợp gồm 05 cụm hình ảnh
được đặt tên là “Hình thức thể hiện tranh Tết dân gian”, 05 cụm hình ảnh này có
nguồn gốc từ văn hóa dân gian được ông thể hiện theo phong cách riêng để hình
thành nên tác phẩm. Đây là những hình ảnh đã được lưu truyền trong văn hóa dân
gian từ lâu đời (hình ảnh múa lân, ông địa, liễn chúc tết, ông đồ viết chữ... ) các tác
giả chỉ thay đổi một số đường nét, sắp xếp theo một bố cục và hình thức thể hiện để
tạo nên tác phẩm riêng của mình. Do đó, quyền tác giả của các cụm hình ảnh riêng
rẽ đã được lưu truyền lâu đời trong văn hóa dân gian không thể xác định là của ai.
Quyền tác giả đối với tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh Tết dân gian” ở đây được
xác định chính là bố cục sắp xếp, hình thức thể hiện trong một tổng thể thống nhất,
không thể tách rời 5 cụm hình ảnh ra theo từng bộ phận để xác định quyền tác giả.
Thứ hai, ông Nguyễn Văn Lộc cũng trình bày, theo trình tự đăng ký quyền
tác giả nếu muốn bảo hộ cho từng cụm hình ảnh thì ông Lộc phải tiến hành lập từng
hồ sơ tương ứng với từng cụm hình ảnh (cụ thể là 05 cụm hình ảnh tương ứng với
05 hồ sơ) để đăng ký quyền tác giả. Điều này sẽ mất nhiều thời gian nên ông Lộc đã
gộp chung cả 05 cụm hình vào trong một tác phẩm để đăng ký quyền tác giả. Do đó
có thể nhận thấy quyền tác giả của ông Nguyễn Văn Lộc đối với từng cụm hình
riêng rẽ chưa được xác lập mà quyền tác giả của ông Lộc ở đây được xác lập đối
với một tác phẩm thống nhất bao gồm 05 cụm hình ảnh được đặt tên là “Hình thức
thể hiện tranh Tết dân gian” .
Vì vậy có thể kết luận rằng, từng cụm hình ảnh trong tác phẩm “Hình thức
thể hiện tranh tết dân gian” không được bảo hộ quyền tác giả.

15
THẢO LUẬN LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ LẦN THỨ HAI

c) Hành vi của bị đơn có xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của nguyên đơn
không? Nêu cơ sở pháp lý.

CSPL: Điều 23 Luật SHTT, Điều 18 Nghị định 22/2018.

Quan điểm của nhóm cho rằng: Hành vi của bị đơn không xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ của nguyên đơn. Bởi lẽ:

Thứ nhất, quyền tác giả đối với tác phẩm nghệ thuật dân gian của ông Lộc
chính là bố cục sắp xếp, hình thức thể hiện trong một tổng thể thống nhất không thể
tách rời ra theo từng bộ phận để xác định quyền tác giả. Theo đó, từng cụm hình
ảnh trong tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh Tết dân gian” của ông là những hình
ảnh đã được lưu truyền trong văn hóa dân gian từ lâu đời. Do đó, quyền tác giả của
các hình ảnh riêng rẽ đã được lưu truyền lâu đời trong văn hóa dân gian không thể
xác định là của ai.

Thứ hai, xét nguồn gốc của các cụm hình ảnh được thể hiện trong tác phẩm
của ông Nguyễn Văn Lộc là những hình ảnh đã được lưu truyền trong văn hóa dân
gian từ lâu đời (hình ảnh múa lân, ông địa, liễn chúc tết, ông đồ viết chữ ...) các tác
giả chỉ thay đổi một số đường nét và sắp xếp theo một bố cục và hình thức thể hiện
để tạo nên tác phẩm riêng của mình. Do đó, quyền tác giả của các hình ảnh riêng rẽ
đã được lưu truyền lâu đời trong văn hóa dân gian không thể xác định là của ai.

Thứ ba, phía bị đơn trình bày đã sưu tầm, mua lại các hình ảnh riêng rẽ đó
trên các website từ đó thiết kế, sắp xếp, bố cục hình thành hình thức thể hiện không
khí tết dân gian cho tác phẩm trang trí Tết của mình. Do đó, hành vi của bị đơn
không phải là hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của nguyên đơn.

Thứ tư, Hợp đồng số 241212/DV-MTM ngày 24/12/2012 do bị đơn thuê


Công ty TNHH dịch vụ quảng cáo Đăng Viễn thi công, lắp đặt, trang trí tại cửa
hàng trưng bày đã nghiệm thu, thanh lý trước ngày ông Lộc được cấp Giấy chứng
nhận đăng ký bản quyền số 169/2013/QTG ngày 07/01/2013, do vậy không thể nói
Công ty TNHH dịch vụ quảng cáo Đăng Viễn hay Công ty CP XNK & DV Ô tô
Mặt Trời Mọc vi phạm quyền tác giả của ông Nguyễn Văn Lộc.

16
THẢO LUẬN LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ LẦN THỨ HAI

d) Việc bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian có những điểm khác biệt
nào so với các loại hình tác phẩm khác?

Tiêu Tác phẩm văn học, nghệ thuật Tác phẩm khác
chí dân gian

Chủ Toàn thể cộng đồng, sáng tạo tập Cá nhân, nhóm tập thể trực tiếp
sở hữu thể của một nhóm hoặc cá nhân, sáng tạo hoặc cá nhân, tổ chức sở
quyền không xác định được tác giả cụ thể hữu tác phẩm (Điều 13 Luật SHTT
tác giả (khoản 1 Điều 23 Luật SHTT 2005) 2005)

Do Nhà nước quản lý

Điều - Tác phẩm được bảo hộ mang tính - Tác phẩm được bảo hộ mang tính
kiện sáng tạo tập thể sáng tạo cá nhân/tập thể
bảo hộ
- Phản ánh nếp sống của cộng đồng, - Phải được thể hiện dưới dạng vật
được lưu truyền từ thế hệ này qua chất nhất định
thế hệ khác qua hình thức truyền
miệng, đa dạng thể loại

- Không thể hiện dưới hình thức


nhất định

Nội Chỉ bảo hộ quyền nhân thân (khoản Bảo hộ quyền nhân thân và quyền
dung 2 Điều 23 Luật SHTT 2005) tài sản (Điều 19, 20 Luật SHTT
bảo hộ 2005)

Thời Pháp luật không quy định, không có Có thời hạn cụ thể (Điều 27 Luật
hạn thời hạn cụ thể SHTT)
bảo hộ

17
THẢO LUẬN LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ LẦN THỨ HAI

III. Phần Câu hỏi sinh viên tự làm (có nộp bài) và KHÔNG thảo luận trên lớp:

1/ Theo quy định của pháp luật SHTT, tác phẩm phái sinh là gì? Đặc điểm của
tác phẩm phái sinh?
Theo khoản 8 Điều 4 Luật Sở SHTT: “Tác phẩm phái sinh là tác phẩm dịch
từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể,
biên soạn, chú giải, tuyển chọn”. Trong đó:
+ Dịch: là việc chuyển nội dung tác phẩm từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ
khác một cách trung thực.
+ Phóng tác: là việc mô phỏng theo nội dung một tác phẩm đã có từ trước đó,
nhưng có sự sáng tạo về nội dung, làm cho nó mang sắc thái mới.
+ Cải biên: là việc sáng tạo ra tác phẩm từ một tác phẩm đã có bằng việc thêm
những yếu tố mới, thay đổi nội dung cũng như hình thức thể hiện của tác
phẩm đó.
+ Chuyển thể: Là việc dùng tác phẩm gốc thay đổi hình thức thể hiện bằng
việc chuyển tác phẩm đó từ một hình thức nghệ thuật này sang một hình thức
nghệ thuật khác.
+ Biên soạn: tạo ra tác phẩm trên cơ sở thu thập, chọn lọc các tài liệu liên quan
để biên tập, viết thành bài theo chủ đề nhất định, có thể bình luận đánh giá.
+ Chú giải: là việc giải thích làm rõ nghĩa một số nội dung trong tác phẩm
khác.
+ Tuyển chọn: là việc chọn lọc ra một số tác phẩm trong số nhiều tác phẩm
theo những tiêu chí nhất định.
Như vậy, Tác phẩm phái sinh tồn tại ở nhiều dạng khác nhau và được tạo ra
dựa trên cơ sở nội dung từ tác phẩm gốc bằng cách sáng tạo trong việc thay đổi hình
thức diễn đạt, loại hình biểu diễn hoặc ngôn ngữ trình bày nội dung tác phẩm.

Đặc điểm của tác phẩm phái sinh:


Thứ nhất, tác phẩm phái sinh được sáng tạo trên nền tác phẩm gốc có thể là
tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả với quyền thuộc về chủ sở hữu hoặc tác phẩm
thuộc về công chúng.
Thứ hai, về dấu ấn của tác phẩm gốc trong tác phẩm phái sinh, phải hình
thành trên cơ sở thay đổi tác phẩm gốc, có dấu ấn của tác phẩm gốc. Khi tiếp xúc
với tác phẩm phái sinh, công chúng phải liên tưởng đến tác phẩm gốc, sự liên tưởng
này được thể hiện qua nội dung của tác phẩm gốc. Người sáng tạo tác phẩm phái

18
THẢO LUẬN LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ LẦN THỨ HAI

sinh phải tôn trọng quyền nhân thân không thể chuyển giao của tác giả tác phẩm
gốc.
Thứ ba, về tính nguyên gốc trong tác phẩm phái sinh, phải mang dấu ấn cá
nhân của tác giả tác phẩm phái sinh. Tác phẩm phái sinh là một tác phẩm sáng tạo
từ tác phẩm gốc nên được bảo hộ một cách độc lập, phải thể hiện được sự sáng tạo
mới mẻ mang dấu ấn tác giả nhưng phải đảm bảo không xâm phạm tới quyền tài sản
của tác phẩm gốc và không trái với thuần phong mỹ tục.
Thứ tư, về hình thức thể hiện tác phẩm phái sinh, hình thức thể hiện của tác
phẩm phái sinh phải khác biệt hoàn toàn hoặc khác biệt từng phần với hình thức thể
hiện của tác phẩm gốc.
Thứ năm, tác phẩm phái sinh được bảo hộ nếu không gây phương hại đến
quyền tác giả của đối với tác phẩm được dùng làm tác phẩm phái sinh.

2/Với hướng lập luận của Tòa án, hành vi của Hãng phim truyện I và đạo diễn
Lộc có xâm phạm quyền tác giả của ông Ánh không? Đoạn nào trong bản án
thể hiện điều này?

Với hướng lập luận của tòa án nhân dân tối cao thì hành vi của Hãng phim
truyện I và đại diễn Lộc không xâm phạm quyền tác giả của ông Ánh.

Trích đoạn: “Xét toàn bộ các tài liệu, chứng cứ do các bên đương sự xuất
trình, các luận cứ mà các bên đương sự và luật sư bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn
(ở giai đoạn giám đốc thẩm) diễn giải thì kết nêu trên của Hội Đồng giám định là
phù hợp với thực tế. Như vậy, khi làm phim, Hãng phim truyện I (mà người được
giao nhiệm vụ làm đạo diễn là ông Phạm Lộc) có sửa chữa, bổ sung kịch bản văn
học nhưng không đến mức thay đổi hoàn toàn chủ đề, nội dung kịch bản như đánh
giá của ông Ánh. Do đó, Hãng phim truyện I và ông Phạm Lộc không vượt quá
quyền được xác định tại điều 4 của Hợp đồng số 174/PT1-HĐ ngày 11/8/1997 và
các quy định của pháp luật về quyền tác giả, Án sơ thẩm đã bác yêu cầu của ông
Ánh là có cơ sở, đúng pháp luật.”

3/ Pháp luật nước ngoài có quy định nào về việc bảo hộ tác phẩm phái sinh?

Pháp luật Hoa Kỳ:

Điều 101 (D3), Luật Quyền tác giả Hợp chủng quốc Hoa Kỳ về Định nghĩa
quy định:
19
THẢO LUẬN LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ LẦN THỨ HAI

“Tác phẩm phái sinh là tác phẩm được hình thành trên cơ sở một hoặc nhiều
tác phẩm đã có như là các tác phẩm dịch, các tác phẩm được phổ nhạc, được
chuyển thể thành kịch, được tiểu thuyết hóa, được điện ảnh hoá, âm nhạc hóa, mỹ
nghệ hóa, tóm tắt, tóm lược, hoặc bất kỳ hình thức nào khác mà trong đó tác phẩm
có thể được cải biên, chuyển thể hoặc bổ sung. Một tác phẩm bao hàm các bản
thảo đã được biên tập lại, các lời bình chú, phân tích hoặc các sửa chữa khác một
về tổng thể là một tác phẩm nguyên thuỷ độc đáo hoàn chỉnh của tác giả là tác
phẩm phái sinh”.

Như vậy, điều kiện để có một tác phẩm phái sinh là trước hết phải tồn tại “một
hoặc nhiều tác phẩm”, thuật ngữ “một hoặc nhiều tác phẩm” vừa nêu có thể thuộc
một loại hình hay nhiều loại hình tác phẩm, bởi vậy không loại trừ trường hợp, một
tác phẩm phái sinh được hình thành từ một tác phẩm văn học và một tác phẩm kịch.

Luật Quyền tác giả, Kiểu dáng và Sáng chế Anh quốc 1988 (bản sửa đổi
năm 2009) không dùng thuật ngữ tác phẩm phái sinh, nhưng có quy định chi tiết về
tác phẩm phóng tác, cải biên chuyển thể (adaptation), cơ sở dữ liệu (databases) và
tuyển tập (collections), điều kiện bảo hộ quyền tác giả đối với các loại tác phẩm
này.

Pháp luật của Pháp có dùng thuật ngữ tác phẩm phái sinh (œvre dérivée). So
với pháp luật của Hoa Kỳ và Anh quốc, thì pháp luật của Pháp quy định về tác
phẩm phái sinh có phần chi tiết và cụ thể hơn. Điều L.112-3 Bộ luật SHTT của
Pháp quy định: “Tác giả của tác phẩm dịch, tác phẩm phóng tác, chuyển thể hoặc
cải biên sẽ được hưởng sự bảo hộ theo Luật này, miễn là không phương hại đến
quyền tác giả của các tác phẩm gốc. Điều này cũng áp dụng tương tự đối với tác
giả của tác phẩm hợp tuyển, tuyển tập hay sưu tập dữ liệu mà sự lựa chọn hay sắp
xếp nội dung của chúng tạo thành những tác phẩm có tính sáng tạo”.

Điều L.113-2 Bộ luật SHTT của Pháp quy định về tác phẩm tuyển chọn (œvre
collective), tác phẩm hợp tuyển (œuvre composite) và tác phẩm hợp tác (œuvre de
collaboration). Pháp luật về SHTT của Pháp cũng không định nghĩa cụ thể thế nào
là tác phẩm phái sinh mà chỉ liệt kê các loại hình tác phẩm thuộc tác phẩm phái
sinh. Pháp luật về quyền tác giả của Pháp tôn trọng quyền nhân thân của cá nhân tác
giả, do đó không coi pháp nhân là tác giả, đồng thời cũng không coi bên giao nhiệm
vụ (dù là cá nhân hay pháp nhân) cho người khác sáng tạo nên tác phẩm là tác giả.

20
THẢO LUẬN LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ LẦN THỨ HAI

Luật quyền tác giả của Nhật Bản có sử dụng thuật ngữ tác phẩm phái sinh,
trong đó có quy định rõ việc bảo hộ tác phẩm phái sinh không làm phương hại đến
quyền tác giả của tác phẩm đã tồn tại. Luật quyền này có quy định về tác phẩm sưu
tập (compilations) và phân biệt tác phẩm sưu tập (quy định tại Điều 12) với dữ liệu
(databases, được quy định tại Điều 12bis).

Luật quyền tác giả của Trung Quốc không dùng thuật ngữ tác phẩm phái
sinh, nhưng tại Điều 12 có quy định trường hợp tác phẩm được tạo ra bằng cách chú
thích, dịch, sắp xếp, chuyển thể… thì được bảo hộ quyền tác giả, miễn là không làm
phương hại đến quyền tác giả của tác phẩm đã tồn tại.

4/ Quan điểm của tác giả bình luận về tranh chấp này như thế nào?

Theo quan điểm của tác giả bình luận, Tòa án đã đưa ra hướng giải quyết về
phạm vi và mức độ sửa chữa tác phẩm gốc để xây dựng tác phẩm phái sinh phù hợp
với quy định của pháp luật. Đối với việc liên quan đến khái niệm như thế nào là tác
phẩm phái sinh, tác giả cho rằng để được xem là một tác phẩm phái sinh cần thỏa
mãn hai điều kiện: thứ nhất, tác phẩm phái sinh được sáng tạo trên nền tác phẩm
gốc và thứ hai, đó phải là sự thể hiện tác phẩm gốc dưới hình thức khác. Trong đó,
về điều kiện thứ nhất của tác phẩm phái sinh thì tác giả đã đưa ra lập luận rằng theo
kết luận của Hội đồng giám định Bộ Văn hóa - Thông tin, chủ đề chính của kịch bản
văn học “Hôn nhân không giá thú” và bộ phim “Hôn nhân không giá thú” đều là “ca
ngợi tình yêu, tình đồng đội và sự hy sinh của người lính không quân”, bộ phim loại
bỏ một số ý tưởng và nội dung của kịch bản văn học nhưng không làm sai lệch chủ
đề chính. Do đó, bộ phim “Hôn nhân không giá thú” đã được sáng tạo dựa trên tác
phẩm gốc là kịch bản phim “Hôn nhân không giá thú” và thỏa mãn điều kiện thứ
nhất để trở thành tác phẩm phái sinh.

Về điều kiện thứ hai, theo tác giả lập luận trong trường hợp này, tác phẩm gốc
chính là kịch bản phim truyện “Hôn nhân không giá thú” chuyển thể thành bộ phim
“Hôn nhân ngoài giá thú” vẫn phù hợp, bởi lẽ việc chuyển thể này vẫn giữ nguyên
bản chất, nội dung cũng như chủ đề mà tác phẩm nêu lên. Tòa án đã đưa ra hướng
giải quyết việc xác định một tác phẩm có phải là tác phẩm phái sinh hay không,
điều mà pháp luật có hiệu lực tại thời điểm diễn ra phán quyết cũng như pháp luật
hiện hành chưa giải quyết được. Theo đó, để là tác phẩm phái sinh từ tác phẩm gốc
cần phải đảm bảo điều kiện về những nội dung cơ bản của tác phẩm gốc đó là phải
giữ nguyên chủ đề chính của tác phẩm gốc thông qua việc so sánh chủ đề chính của

21
THẢO LUẬN LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ LẦN THỨ HAI

kịch bản phim “Hôn nhân không giá thú” và bộ phim “Hôn nhân không giá thú”.
Theo quan điểm tác giả, cần có quy định về phạm vi làm tác phẩm phái sinh, mức
độ thay đổi, sửa chữa tác phẩm gốc so với tác phẩm phái sinh, theo hướng bảo đảm
toàn vẹn chủ đề và nội dung chính của tác phẩm gốc, việc sửa chữa nội chung nhằm
phục vụ chính cho yêu cầu thay đổi hình thức của tác phẩm.

5/ Theo quan điểm của bạn (nhóm bạn), bộ phim do Hãng phim truyện I
và ông Lộc sản xuất có phải là tác phẩm phái sinh từ kịch bản của ông Ánh
không? Giải thích vì sao.

Theo quan điểm của nhóm, bộ phim do Hãng phim truyện I và ông Lộc sản
xuất là tác phẩm phái sinh từ kịch bản của ông Ánh.

Bởi lẽ, để được xác định là một tác phẩm phái sinh cần đáp ứng được các điều
kiện:
Thứ nhất, được hình thành dựa trên một hoặc nhiều tác phẩm gốc đã tồn
tại.
Trong tranh chấp trên, bộ phim “Hôn nhân không giá thú” do Hãng phim
truyện I và ông Lộc sản xuất là tác phẩm được chuyển thể từ kịch bản phim ““Hôn
nhân không giá thú” của ông Ánh. Chủ đề chính của kịch bản văn học và bộ phim
đều là ca ngợi tình yêu, tình đồng đội và sự hy sinh của người lính không quân.

Thứ hai, trong tác phẩm phái sinh phải mang dấu ấn cá nhân của tác giả
tác phẩm phái sinh
Dấu ấn cá nhân có thể hiểu là sáng tạo về nội dung, hình thức thể hiện tác
phẩm. Trong quá trình làm phim, ông Lộc đã có một số chỉnh sửa, bổ sung vào kịch
bản phim của ông Ánh để phù hợp với việc chuyển thể thành phim. Việc này thể
hiện dấu ấn cá nhân và sự sáng tạo của tác giả trong việc chuyển đổi loại hình của
tác phẩm gốc sang tác phẩm phái sinh.

Thứ ba, hình thức thể hiện của tác phẩm phái sinh khác biệt từng phần
hoặc hoàn toàn so với tác phẩm gốc
Ở đây, từ loại hình tác phẩm văn học là kịch bản “Hôn nhân không giá thú”,
Hãng phim truyện I và đạo diễn là ông Lộc đã chuyển kịch bản trên thành một loại
hình khác là tác phẩm điện ảnh. Hình thức thể hiện của tác phẩm phái sinh phim
“Hôn nhân không giá thú” là khác biệt hoàn toàn so với hình thức thể hiện của tác
phẩm gốc kịch bản phim “Hôn nhân không giá thú”.

22
THẢO LUẬN LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ LẦN THỨ HAI

Thứ tư, được sự cho phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả
Việc chuyển thể kịch bản phim “Hôn nhân không giá thú” thành bộ phim
“Hôn nhân không giá thú” đã được sự cho phép của tác giả kịch bản phim là ông
Ánh thông qua hợp đồng ký ngày 11/08/1997 với Hãng phim truyện I về việc sử
dụng tác phẩm kịch bản phim “Hôn nhân không giá thú”.

Thứ năm, không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm gốc.
Trong tranh chấp trên, ông Ánh đã cho rằng nội dung phim không còn giữ
nguyên kịch ban đầu, Hãng phim truyện I và đạo diễn Lộc vi phạm quyền tác giả
của ông. Tuy nhiên, kịch bản phim chứa đựng nhiều nội dung, khi đưa lên màn ảnh,
nhà xuất và đạo điện đã bỏ đi một số nội dung để tập trung vào nội dung chính
nhằm khớp với thời lượng của một bộ phim một tập. Chủ đề chính của bộ phim vẫn
là “ca ngợi tình yêu, tình đồng đội và sự hy sinh của người lính không quân” đúng
với tinh thần của kịch bản gốc. Và theo kết luận của Hội đồng giám định Bộ Văn
hóa Thông tin, xét toàn bộ tài liệu, chứng cứ do các bên cung cấp, khi làm phim,
Hãng phim có sửa chữa, bổ sung kịch bản văn học nhưng không đến mức làm thay
đổi hoàn toàn chủ đề, nội dung kịch bản như đánh giá của ông Ánh. Do đó, vì
những lý do trên, nhóm cho rằng tác phẩm điện ảnh “Hôn nhân không giá thú” đã
không gây phương hại đến quyền tác giả của ông Ánh đối với tác phẩm gốc là kịch
bản phim “Hôn nhân không giá thú”.
Như vậy, tác phẩm điện ảnh “Hôn nhân không giá thú” của Hãng phim truyện
I sản xuất và ông Lộc đạo diễn đã đáp ứng đủ các điều kiện để được xác định là một
tác phẩm phái sinh từ kịch bản phim “Hôn nhân không giá thú” của ông Ánh.

23
THẢO LUẬN LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ LẦN THỨ HAI

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Luật sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009, năm 2019
2. http://luatnhanhoa.vn/kien-thuc-phap-luat/372/ban-ve-nguyen-tac-su-dung-
hop-ly-fair use.html#:~:text=%2D%20Fair%20use%20l%C3%A0%20nguy
%C3%AAn%20t%E1%BA%AFc,ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20n
%E1%BA%AFm%20gi%E1%BB%AF%20b%E1%BA%A3n%20quy
%E1%BB%81n.
3. https://hotrothutuc.com/nguyen-tac-su-dung-hop-ly-401.html.
4. Luật Quyền tác giả Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
https://vi.wikisource.org/wiki/Lu%E1%BA%ADt_Quy%E1%BB%81n_t
%C3%A1c_gi%E1%BA%A3_H%E1%BB%A3p_ch%C3%BAng_qu
%E1%BB%91c_Hoa_K%E1%BB%B3/Ch
%C6%B0%C6%A1ng_1/%C4%90i%E1%BB%81u_107, truy cập ngày
10/3/2022.

24

You might also like