You are on page 1of 14

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

MÔN: Luật Sở hữu trí tuệ


Buổi thảo luận thứ hai:
Quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả

Thực hiện: Nhóm 7


Danh sách thành viên
STT Họ và tên MSSV
1 Đào Tuấn Kiệt 1953801011357
2 Nguyễn Minh Hưng 1953801011081
3 Trần Thụy Hồng Lam 1953801011104
4 Võ Thanh Liêm 1953801011107

Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2021


1

Phần A:
I. Lý thuyết
Câu 1: Nguyên tắc “sử dụng hợp lý” (“fair use”) là gì? Tìm hiểu quy
định của pháp luật nước ngoài về vấn đề này và so sánh với các quy định
hiện hành của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam.
- Nguyên tắc “sử dụng hợp lý” (“fair use”) là cho phép sử dụng tác phẩm của người khác mà
không cần xin phép, không cần trả tiền. Nguyên tắc này nhằm bảo vệ sự công bằng giữa 2
nhóm lợi ích. Là nhóm lợi ích của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và lợi ích chung của xã
hội.
- Nguyên tắc Fair use, hay còn gọi là nguyên tắc sử dụng hợp lý được ghi nhận trong Luật
bản quyền Hoa Kì, thông thường để xem xét việc sử dụng hợp lý trên 4 tiêu chí:
(1)  Mục đích và đặc điểm của việc sử dụng, bao gồm việc sử dụng đó có tính chất thương
mại không hay là chỉ nhằm mục đích giáo dục phi lợi nhuận;
(2)  Bản chất của tác phẩm được bảo hộ;
(3)  Số lượng và thực chất của phần được sử dụng trong tác phẩm được bảo hộ như là một
tổng thể;
(4) Vấn đề ảnh hưởng của việc sử dụng đó đối với tiềm năng thị trường hoặc đối với giá trị
của tác phẩm được bảo hộ;
Như vậy, Nguyên tắc Fair use cho phép trích dẫn hoặc sao chép các tư liệu của người khác đã
đăng ký bản quyền một cách phi lợi nhuận mà không cần xin phép.
Nguyên tắc Fair use cho phép sử dụng tư liệu với các hình thức sau:
+ Trích dẫn tác phẩm với mục đích minh hoặc bình luận.
+ Sử dụng tư liệu cho mục đích phóng sự.
+ Sử dụng với mục đích nghiên cứu.
+ Sử dụng cho mục đích giáo dục, không nhằm mục đích lợi nhuận.
+ Nhắc lại không làm thay đổi nội dung.
Nhìn chung, ta có thấy nguyên tắc fair use trong pháp luật sở hữu trí tuệ đòi hỏi người sử
dụng không xin phép mà không vì mục đích lợi nhuận và trên cơ sở tôn trọng bản quyền.
- Theo quy định hiện hành của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam thì nguyên tắc fair use được
thể hiện rõ nét ở Điều 25 và Điều 32 Luật Sở hữu trí tuệ:
“Điều 25. Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải
trả tiền nhuận bút, thù lao
1. Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền
nhuận bút, thù lao bao gồm:
a) Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân;
2

b) Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa trong
tác phẩm của mình;
c) Trích dẫn tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để viết báo, dùng trong ấn phẩm định kỳ,
trong chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu;
d) Trích dẫn tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác giả, không
nhằm mục đích thương mại;
đ) Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu;
e) Biểu diễn tác phẩm sân khấu, loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt
văn hóa, tuyên truyền cổ động không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào;
g) Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng dạy;
h) Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được
trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó;
i) Chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị;
k) Nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng riêng.
2. Tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm quy định tại khoản 1 Điều này không được làm ảnh
hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của
tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác
phẩm.
3. Các quy định tại điểm a và điểm đ khoản 1 Điều này không áp dụng đối với tác phẩm kiến
trúc, tác phẩm tạo hình, chương trình máy tính.”
“Điều 32. Các trường hợp sử dụng quyền liên quan không phải xin phép, không phải trả tiền
nhuận bút, thù lao
1. Các trường hợp sử dụng quyền liên quan không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận
bút, thù lao bao gồm:
a) Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học của cá nhân;
b) Tự sao chép một bản nhằm mục đích giảng dạy, trừ trường hợp cuộc biểu diễn, bản ghi
âm, ghi hình, chương trình phát sóng đã được công bố để giảng dạy;
c) Trích dẫn hợp lý nhằm mục đích cung cấp thông tin;
d) Tổ chức phát sóng tự làm bản sao tạm thời để phát sóng khi được hưởng quyền phát sóng.
2. Tổ chức, cá nhân sử dụng quyền quy định tại khoản 1 Điều này không được làm ảnh
hưởng đến việc khai thác bình thường cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình
phát sóng và không gây phương hại đến quyền của người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi
âm, ghi hình, tổ chức phát sóng.“
- So sánh các quy định của Việt Nam so với một số quy định của nước ngoài:
Điểm giống nhau:
3

- Thường không quy định mức độ cụ thể (con số, số phần trăm,..) như thế nào là sử
dụng hợp lí.
- Được sử dụng tác phẩm đã được pháp luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả không cần
sự cho phép của tác giả/chủ sở hữu,
- Vấn đề “sử dụng hợp lí” đều không có tiêu chí cụ thể, rõ ràng để xác định mà đa số sẽ
dựa vào Tòa án xem xét trong các trường hợp cụ thể mà giải thích. Ví dụ: tại bản án
127/2007/DS-PT Tòa Phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội, cùng một hành vi trích dẫn
toàn bộ 4 tác phẩm văn học nhưng Tòa án cấp sơ thẩm cho có vi phạm quyền tác giả
còn Tòa án cấp Phúc thẩm cho rằng không vi phạm quyền tác giả.
- Không phải là hành vi xâm phạm quyền tác giả.
- Ngoài Hoa Kỳ thì một số quốc gia khi nhóm tìm hiểu thì xác định việc sử dụng hợp lý
được liệt kê giống như Luật SHTT Việt Nam, cụ thể như Luật quyền tác giả của Nhật
Bản từ Điều 30 đến Điều 50 hay từ Điều 11 đến Điều 26 Luật Quyền tác giả tác phẩm
văn học và nghệ thuật của Thụy Điển.
Điểm khác nhau:

Tiêu chí Pháp luật các quốc gia khác Pháp luật SHTT của Việt Nam

Xác định Luật bản quyền Hoa Kỳ đưa ra 4 yếu - Quy định liệt kê các trường hợp “sử
việc sử tố cụ thể cần phải đáp ứng đủ: dụng hợp lí”.
dụng
(1)  Mục đích và đặc điểm của việc - Ghi nhận tại các điều luật: Điều 25,
hợp lí
sử dụng, bao gồm việc sử dụng đó có 26, 32, 33 Luật Sở hữu trí tuệ
tính chất thương mại không hay là chỉ
nhằm mục đích giáo dục phi lợi
nhuận;
(2)  Bản chất của tác phẩm được bảo
hộ;
(3)  Số lượng và thực chất của phần
được sử dụng trong tác phẩm được
bảo hộ như là một tổng thể; và
(4) Vấn đề ảnh hưởng của việc sử
dụng đó đối với tiềm năng thị trường
hoặc đối với giá trị của tác phẩm
được bảo hộ (Điều 107 Luật bản
quyền Hoa Kỳ).
Việc sử dụng đáp ứng đầy đủ 4 yếu
tố trên là sử dụng hợp lí.
4

Ngoại lệ -Tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả - Tác phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo
thì đều có thể sao chép nếu đáp ứng hình, chương trình máy tính thì cũng
được các yếu tố quy định tại Điều không được sao chép dù là nhằm mục
107 Luật bản quyền Hoa Kỳ. đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy
hay lưu trữ trong thư viện (Khoản 3
- Việc sao chép một tác phẩm nhằm
Điều 25 Luật SHTT).
mục đích học tập được pháp luật quy
định là hợp pháp (Điều 107 Luật bản - Việc sao chép nhằm mục đích học tập
quyền Hoa Kỳ). không được xem là hợp pháp.
- Bình luận thời sự chính trị, kinh tế Pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam
hoặc xã hội đăng tải trên báo hoặc tạp không thừa nhận sao chép nhằm mục
chí không được sao chép vào các bài đích học tập thuộc trường hợp giới hạn
viết mang tính nghiên cứu khoa quyền tác giả. Cách tiếp cận này có cơ
học( Điều 39 Luật quyền tác giả Nhật sở với giả thiết nếu học sinh, sinh viên
Bản) được tự do sao chép mỗi người một
bản sách giáo khoa, giáo trình, tài
- Quyền tác giả không ngăn cản việc
liệu… để phục vụ cho việc học tập thì
sử dụng tác phẩm trong việc quản lý
sách in sẽ không bán được (vì giá
của cơ quan tư pháp hoặc công
thành photocopy tác phẩm chắc chắn
an( Điều 26b Luật Quyền tác giả tác
sẽ rẻ hơn mua sách in) và điều này
phẩm văn học và nghệ thuật của
chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi
Thụy Điển)
của chủ sở hữu tác phẩm trong việc
khai thác tác phẩm.

Mức độ - Luật Bản quyền Anh cho phép Luật SHTT Việt Nam không có quy
cụ thể người sử dụng sao chép tới 10% định mực độ cụ thể.
được nhưng không quá một chương của
xem là một cuốn sách.
sử dụng
- New Zealand vấn đề sao chép tác
hợp lí
phẩm tại thư viện phải tuân thủ Luật
Bản quyền 1994. Trong luật này giới
hạn về quyền tác giả với số % tác
phẩm hợp lý dành cho mục đích học
tập, nghiên cứu của các cá nhân; giới
hạn việc sao chép của các tổ chức
giáo dục phi lợi nhuận nhằm mục
đích giáo dục và giới hạn số lượng tư
liệu sao chép từ những tác phẩm có
bản quyền tại các thư viện. Thư viện
có thể làm một bản sao của một tác
phẩm hoặc một bài báo định kỳ cho
NSD sử dụng với mức độ sao chép
hợp lý; Phần trăm (%) sao chép hợp
lý được dựa trên sao chép sử dụng
5

cho mục đích nghiên cứu hoặc tự


học, sao chép sử dụng cho mục đích
giáo dục; Sao chép cho mục đích giáo
dục có thể được thực hiện dựa theo
thỏa thuận chuyển nhượng bản quyền
với CLL,...

 
 

Câu 2: Có mấy hình thức chuyển giao quyền tác giả? Phân biệt các
hình thức này.
- Chương IV luật SHTT quy định có 2 hình thức chuyển giao quyền tác giả bao gồm: chuyển
nhượng quyền tác giả và chuyển quyền sử dụng quyền tác giả.
- Về chuyển nhượng quyền tác giả theo quy định tại khoản 1 Điều 45 Luật Sở hữu trí tuệ
2005 (sửa đổi bổ sung năm 2009, 2019) là việc chủ sở hữu quyền tác giả chuyển giao quyền
sở hữu đối với các quyền quy định tại khoản 3 Điều 19, Điều 20 Luật SHTT cho tổ chức, cá
nhân khác theo hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật có liên quan.
- Đối với hình thức chuyển quyền sử dụng quyền tác giả theo định nghĩa tại khoản 1 Điều 47
Luật SHTT là việc chủ sở hữu quyền tác giả cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng có thời
hạn một, một số hoặc toàn bộ các quyền quy định tại khoản 3 Điều 19, Điều 20 Luật này.
- Chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan là việc chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở
hữu quyền liên quan chuyển giao quyền sở hữu đối với các quyền quy định cho tổ chức, cá
nhân khác theo hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật có liên quan.
- Tác giả không được chuyển nhượng các quyền nhân thân theo quy định như: Đặt tên chotác
phẩm; Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác
phẩm được công bố, sử dụng; Công bốtác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác
phẩm; Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên
tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
- Trừ quyền công bố tác phẩm; người biểu diễn không được chuyển nhượng các quyền nhân
thân như: Được giới thiệu tên khi biểu diễn, khi phát hành bản ghi âm, ghi hình, phát sóng
cuộc biểu diễn; Bảo vệ sự toàn vẹn hình tượng biểu diễn, không cho người khác sửa chữa, cắt
xén hoặc xuyên tạc dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của
người biểu diễn.
- Trong trường hợp tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng
có đồng chủ sở hữu thì việc chuyển nhượng phải có sự thoả thuận của tất cả các đồng chủ sở
hữu; trong trường hợp có đồng chủ sở hữu nhưng tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi
hình, chương trình phát sóng có các phần riêng biệt có thể tách ra sử dụng độc lập thì chủ sở
hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan có quyền chuyển nhượng quyền tác giả,
quyền liên quan đối với phần riêng biệt của mình cho tổ chức, cá nhân khác.
6

- Đối với chuyển nhượng quyền sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan là việc chủ sở hữu
quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng có thời
hạn một, một số hoặc toàn bộ các quyền theo quy định.
- Tác giả không được chuyển quyền sử dụng các quyền nhân thân quy định tại Điều 19, trừ
quyền công bố tác phẩm; người biểu diễn không được chuyển quyền sử dụng các quyền nhân
thân quy định tại khoản 2 Điều 29 của Luật này.
- Trong trường hợp tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng
có đồng chủ sở hữu thì việc chuyển quyền sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan phải có sự
thoả thuận của tất cả các đồng chủ sở hữu; trong trường hợp có đồng chủ sở hữu nhưng tác
phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng có các phần riêng biệt có
thể tách ra sử dụng độc lập thì chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan có thể
chuyển quyền sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan đối với phần riêng biệt của mình cho tổ
chức, cá nhân khác.
- Tổ chức, cá nhân được chuyển quyền sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan có thể chuyển
quyền sử dụng cho tổ chức, cá nhân khác nếu được sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả,
chủ sở hữu quyền liên quan. 

Câu 3: Phân tích mối liên hệ giữa quyền tác giả và quyền liên quan đến
quyền tác giả.
- Quyền tác giả bảo hộ tác phẩm của tác giả đó, trong khi quyền liên quan là quyền được trao
cho một nhóm người vì vai trò quan trọng của họ đối với việc truyền bá, và làm phổ biến một
số loại hình tác phẩm đến với công chúng.
- Mối liên hệ giữa quyền tác giả và quyền liên quan: một tác phẩm được khi ra đời, được thể
hiện dưới hình thức nhất định, được công bố nhưng chưa chắc được cộng đồng đón nhận,
tiếp thu hết thông tin, giá trị mà tác phẩm đó mang lại. Thông qua các chủ thể trung gian của
quyền liên quan, tác phẩm đó có thể đi vào lòng người hơn, được công chúng đánh giá cao
hơn bởi khả năng truyền đạt hấp dẫn và kỹ xảo của người biểu diễn, cũng như tổ chức phát
sóng, ghi âm, ghi hình…
II. Bài tập
Câu 1: Nghiên cứu tranh chấp quyền tác giả trong vụ việc Truyện tranh
Thần Đồng Đất Việt và đánh giá các vấn đề pháp lý sau:
a) Theo Luật SHTT, truyện tranh Thần Đồng Đất Việt có được bảo hộ quyền
tác giả không?
- Căn cứ khoản 1 Điều 13 Luật SHTT, Truyện tranh Thần Đồng Đất Việt được ông Lê Phong
Linh trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm và công ty Phan Thị là chủ sở hữu quyền tác giả vì công
ty Phan Thị là tổ chức giao nhiệm vụ cho tác.
Do đó ông Lê Phong Linh và công ty Phan Thị là  tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả có tác
phẩm được bảo hộ quyền tác giả.
- Căn cứ khoản 1 Điều 14 Luật SHTT thì truyện tranh Thần Đồng Đất Việt là loại hình tác
phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác hoặc mỹ thuật ứng dụng.
7

Do đó truyện tranh Thần Đồng Đất Việt là đối tượng được bảo hộ quyền tác giả.
b) Ai là chủ sở hữu bộ truyện tranh này?
- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 746 Bộ luật Dân sự 1995 thì “Cơ quan, tổ chức giao nhiệm vụ
cho tác giả là chủ sở hữu toàn bộ hoặc một phần tác phẩm do tác giả sáng tạo theo nhiệm vụ
mà cơ quan hoặc tổ chức giao”.
- Căn cứ khoản 1 Điều 39 Luật Sở hữu trí tuệ thì “ Tổ chức giao nhiệm vụ sáng tạo tác phẩm
cho tác giả là người thuộc tổ chức mình là chủ sở hữu các quyền quy định tại Điều 20 và
khoản 3 Điều 19 của Luật này, trừ trường hợp có thoả thuận khác. ”.
- Căn cứ hợp đồng lao động mà nguyên đơn ký kết với Công ty Phan Thị và lời trình bày của
bị đơn trong quá trình giải quyết vụ án, có cơ sở xác định nguyên đơn làm việc cho Công ty
Phan Thị theo hợp đồng lao động, nhiệm vụ là vẽ tranh minh họa. Theo quy định tại khoản 1
Điều 746 Bộ luật Dân 12 sự 1995 thì chủ sở hữu của tác phẩm là tác giả trừ trường hợp tác
phẩm sáng tạo theo nhiệm vụ được giao, theo hợp đồng.
- Theo văn bản đề ngày 29/3/2002 thể hiện “Chúng tôi đứng tên dưới đây gồm: 1. Lê Phong
Linh; 2. Phan Thị Mỹ Hạnh được Công ty TNHH Thương mại dịch vụ kỹ thuật và phát triển
tin học Phan Thị,…giao nhiệm vụ thực hiện các tác phẩm: bản vẽ nhân vật bé Sửu Ẹo, nhân
vật Trạng Tí, nhân vật Cả Mẹo, nhân vật Dần Béo để in trên bộ truyện tranh Thần Đồng Đất
Việt”. Văn bản nêu trên có chữ ký của ông Lê Phong Linh.
- Vì Công ty Phan Thị giao nhiệm vụ cho ông Lê Phong Linh sáng tạo hình thức thể hiện của
các nhân vật Trạng Tí, Sửu Ẹo, Dần Béo, Cả Mẹo để in trong bộ truyện tranh Thần Đồng Đất
Việt, giữa 02 bên không có thỏa thuận nào khác. Do đó, Công ty Phan Thị là chủ sở hữu của
bộ Truyện Tranh Thần Đồng Đất Việt. Còn đối với hình thức thể hiện của các nhân vật Trạng
Tí, Sửu Ẹo, Dần Béo, Cả Mẹo thì Công ty Phan Thị là chủ sở hữu quyền nhân thân “ công bố
tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm ”, còn ông Lê Phong Linh là chủ sở
hữu của các quyền nhân thân trong đó có 16 quyền “ Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không
cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây
phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
c) Ai là tác giả bộ truyện tranh này?
Thứ nhất, căn cứ theo các quy định của pháp luật
Theo khoản 1 Điều 745, Điều 754 Bộ luật dân sự năm 1995, “ Tác giả là người trực tiếp sáng
tạo toàn bộ hoặc một phần tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học.”; “ Quyền tác giả phát
sinh kể từ thời điểm tác phẩm được sáng tạo dưới hình thức nhất định.”.
Theo khoản 3 và khoản 5 Điều 2 Nghị định số 76 – CP ngày 29 tháng 11 năm 1996, để được
công nhận là tác giả, người trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn học,
nghệ thuật hoặc khoa học phải đề tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm được công bố, phổ
biến; cá nhân, tổ chức làm công việc hỗ trợ, góp ý kiến hoặc cung cấp tư liệu cho người khác
sáng tạo ra tác phẩm không được công nhận là tác giả. Điều 6 của Nghị định này quy định
quyền tác giả đối với tác phẩm phát sinh thời điểm tác phẩm sáng tạo được thể hiện dưới một
hình thức vật chất nhất định, không phân biệt tác phẩm đã công bố hoặc chưa công bố, đã
đăng ký bảo hộ hoặc chưa đăng ký bảo hộ.
8

Theo khoản 1 và khoản 3 Điều 6 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP thì  “Tác giả là người trực
tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học.” và
“Người hỗ trợ, góp ý kiến hoặc cung cấp tư liệu cho người khác sáng tạo ra tác phẩm không
được công nhận là tác giả hoặc đồng tác giả.”
Như vậy, tác giả phải là người trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn học,
nghệ thuật hoặc khoa học. Những điều chỉ nằm trong suy nghĩ (tồn tại dưới dạng những ý
tưởng) mà không được thể hiện ra bên ngoài dưới một hình thức vật chất nhất định mà qua
đó tính sáng tạo về giá trị vật chất hoặc tinh thần được bộc lộ thì đó không phải là tác phẩm
văn học, nghệ thuật và khoa học. Đối với tác phẩm được công bố, phổ biến tại thời điểm
Nghị định 76 có hiệu lực thì để được công nhận là tác giả, người trực tiếp sáng tạo ra một
phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn học, nghệ thuật hoặc khoa học phải đề tên thật hoặc bút
danh trên tác phẩm được công bố, phổ biến.
Thứ hai, căn cứ trên các bằng chứng thực tế
- Trên thực tế cũng như thừa nhận của các đương sự, hình thức thể hiện của các nhân vật
Trạng Tí, Sửu Ẹo, Dần Béo, Cả Mẹo chỉ bắt đầu xuất hiện từ tập 01 bộ truyện tranh Thần
Đồng Đất Việt do Công ty Phan Thị thực hiện. Từ tập 1 đến tập 6, trên trang bìa mỗi quyển
truyện đều ghi: “Viết lời và minh họa: Lê Linh”. Từ tập 7 đến tập 78, trên trang bìa mỗi
quyển truyện đều ghi: “Truyện và tranh: Lê Linh”. Tập 24, phần phụ lục ghi nhận quy trình
thực hiện bộ truyện tranh Thần Đồng Đất Việt: Bà Hạnh chỉ đạo trực tiếp, họa sỹ Lê Linh
tính toán, phần soạn kịch bản, phác họa sơ bộ và giai đoạn lột tả đều do họa sỹ Lê Linh trực
tiếp thực hiện, bà Hạnh và ông Bá Hiền chỉ góp ý, sửa đổi nếu có. Tập 37, trang bìa cuối in
bài và ảnh ông Lê Phong Linh có nội dung “Đôi nét về tác giả Lê Linh”; mục “Thư quán” là
nội dung giao lưu giữa bạn đọc với tác giả bộ truyện – ông Lê Linh, đã ghi nhận ý tưởng về
một bộ truyện tranh sử dụng các tích trạng làm nội dung chính là của bà Mỹ Hạnh, còn ông
Linh nghiên cứu sáng tạo các nhân vật, chọn tích trạng, soạn kịch bản, bố cục, phác thảo, lên
kế hoạch sáng tác, .v.v để cho ra đời bộ truyện tranh Thần Đồng Đất Việt. Đến nay, Công ty
Phan Thị vẫn không có văn bản đính chính các thông tin nêu trên.
Như vậy, có đủ cơ sở xác định Công ty Phan Thị đã thừa nhận vai trò của ông Linh là người
duy nhất trực tiếp sáng tạo nên hình thức thể hiện của các nhân vật Trạng Tí, Sửu Ẹo, Dần
Béo, Cả Mẹo; bút danh của ông Linh đã được ghi nhận trên truyện Thần Đồng Đất Việt suốt
từ tập 1 đến tập 78. Trong suốt quá trình phát hành bộ truyện Thần Đồng Đất Việt đến nay,
Công ty Phan Thị không có ý kiến cải chính về điều này.
Mặt khác, theo khoản 1 Điều 6 Nghị định 61/2002 ngày 11/6/2002  của Chính phủ về chế độ
nhuận bút , “ Đối tượng hưởng nhuận bút là tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm của tác phẩm
thuộc một trong các nhóm nhuận bút quy định tại Điều 4 Nghị định này.”. Theo các bản ghi
nhớ do Công ty Phan Thị giao nộp thì từ tháng 5/2002 đến tháng 02/2006, Công ty Phan Thị
đã trả tiền nhuận bút cho ông Linh đến tập 78 và truy lĩnh khi truyện Thần Đồng Đất Việt
được tái bản.
Như vậy, thông qua hoạt động trả nhuận bút đều đặn trong thời gian dài đến tập 78, Công ty
Phan Thị đã thừa nhận vai trò tác giả của ông Lê Phong Linh đối với tranh và truyện từ tập
01 đến tập 78 của bộ truyện tranh Thần Đồng Đất Việt.
9

- Kết luận: Vì ông Lê Phong Linh là người trực tiếp tính toán, phần soạn kịch bản, phác họa
sơ bộ và giai đoạn lột tả, nghiên cứu sáng tạo các nhân vật, chọn tích trạng, soạn kịch bản, bố
cục, phác thảo, lên kế hoạch sáng tác, .v.v để cho ra đời bộ truyện tranh Thần Đồng Đất Việt
và sáng tạo nên hình thức thể hiện của các nhân vật Trạng Tí, Sửu Ẹo, Dần Béo, Cả Mẹo; còn
bà Hạnh chỉ là người chỉ đạo và góp ý. Trên các bằng chứng nêu trên cũng cho thấy Công ty
Phan Thị cũng công nhận ông Linh là tác giả của bộ truyện trên qua hoạt động trả nhuận bút
từ tập 1 đến tập 78. Do đó, căn cứ trên các quy định pháp luật đã nêu trên thì ông Lê Phong
Linh là tác giả của bộ truyện tranh Thần Đồng Đất Việt từ tập 1 đến tập 78.
d) Công ty Phan Thị có quyền gì đối với bộ truyện tranh Thần Đồng Đất Việt?
- Công ty Phan Thị là tổ chức giao nhiệm vụ cho ông Lê Phong Linh vẽ minh họa nên là chủ
sở hữu tác phẩm Thần Đồng Đất Việt còn như nhận định trên ông Linh là tác giả hình thức
thể hiện của các nhân vật Trạng Tí, Sửu Ẹo, Dần Béo, Cả Mẹo do ông Lê Phong Linh vẽ. Vì
vậy đối với các hình thức thể hiện của các nhân vật Trạng Tí, Sửu Ẹo, Dần Béo, Cả Mẹo thì
Công ty Phan Thị chỉ là chủ sở hữu của quyền nhân thân “ công bố tác phẩm hoặc cho phép
người khác công bố tác phẩm ”, còn ông Lê Phong Linh là chủ sở hữu của các quyền nhân
thân trong đó có 16 quyền “ Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa
chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh
dự và uy tín của tác giả.
- Do đó Công ty Phan Thị được quyền làm tác phẩm phái sinh nhưng không được sửa chữa,
cắt xén hình thức thể hiện của các nhân vật Trạng Tí, Sửu Ẹo, Dần Béo, Cả Mẹo hoặc xuyên
tạc các tác phẩm này dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của
ông Lê Phong Linh.
 
e) Việc công ty Phan Thị cho xuất bản bộ truyện từ tập 79 trở đi có phù hợp với
quy định pháp luật không?
- Xét:
Theo các Giấy chứng nhận số 246, 247, 248, 249/2002/QTG ngày 07/5/2002 của Cục Bản
quyền tác giả - Bộ Văn hóa thông tin và các tài liệu kèm theo các giấy chứng nhận này thì
hình thức thể hiện của các nhân vật Trạng Tí, Sửu Ẹo, Dần Béo, Cả Mẹo chỉ được diễn hoạt
ở một vài góc cạnh như trước, nghiêng, sau lưng. Đây được xem hình thức thể hiện gốc của
các tác phẩm.
Tuy nhiên từ tập 79 trở đi, Công ty Phan Thị đã thuê họa sĩ vẽ lại các nhân vật Trạng Tí, Sửu
Ẹo, Dần Béo, Cả Mẹo nhưng có những đường nét không đúng với hình thức thể hiện trước
đây do ông Linh vẽ làm biểu cảm của nhân vật không được tự nhiên, sinh động, ông Linh gọi
đây là các biến thể. Nguyên đơn và các bị đơn đều không cung cấp chứng cứ chứng minh có
thỏa thuận nào khác khi Công ty Phan Thị phát hành tiếp các tập tiếp theo của truyện Thần
Đồng Đất Việt và các bộ truyện tranh Thần Đồng Đất Việt Mỹ Thuật, Thần Đồng Đất Việt
Khoa Học. Tại các tập truyện này vẫn sử dụng hình ảnh, tên các nhân vật Trạng Tí, Sửu Ẹo,
Dần Béo, Cả Mẹo tuy nhiên không ghi nhận phần tranh trong truyện là sử dụng tác phẩm
hình tượng nhân vật của tác giả Lê Linh như các tập Thần Đồng Đất Việt từ 01 đến 78.
- Kết luận:.
10

Ông Lê Phong Linh chỉ là tác giả của hình thức thể hiện gốc của bốn nhân vật Trạng Tí, Sửu
Ẹo, Dần Béo, Cả Mẹo theo các Giấy chứng nhận bản quyền tác giả số 246, 247, 248,
249/2002/QTG ngày 07 tháng 5 năm 2002. Bộ truyện Thần Đồng Đất Việt là do Công ty
Phan Thị phát hành, có sử dụng hình thức thể hiện của 4 nhân vật này. Tuy Công ty Phan Thị
là chủ sở hữu tác phẩm là hình thức thể hiện của 4 nhân vật, được quyền sử dụng hình tượng
4 nhân vật này vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình nhưng phải tôn trọng quyền
nhân thân của tác giả là sự toàn vẹn của tác phẩm.
Việc đưa hình ảnh các nhân vật này vào nội dung truyện cần thể hiện các nét mặt, tư thế,
hành động phù hợp với nội dung cốt truyện, không thì sẽ làm sai lệch so với hình thức thể
hiện gốc. Việc làm sai lệch so với hình thức thể hiện gốc không có sự đồng ý của tác giả,
đồng thời Công ty Phan Thị không ghi chú rõ việc sử dụng hình thức thể hiện của 4 nhân vật
Trạng Tí, Sửu Ẹo, Dần Béo, Cả Mẹo là tác phẩm của tác giả Lê Phong Linh. Do đó, Công ty
Phan Thị đã có hành vi xâm phạm quyền nhân thân của tác giả Lê Phong Linh theo quy định
tại Điều 19, khoản 5 Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ.
Vì vậy Việc công ty Phan Thị cho xuất bản bộ truyện từ tập 79 trở đi không phù hợp với quy
định pháp luật vì đã xâm phạm đến quyền nhân thân của tác giả Lê Phong Linh Linh theo
quy định tại Điều 19, khoản 5 Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ đối với các hình thức thể hiện của
các nhân vật Trạng Tí, Sửu Ẹo, Dần Béo, Cả Mẹo.

Câu 2: Nghiên cứu Bản án số 213/2014/DS-ST của Tòa án nhân dân


quận Tân Bình ngày 14/8/2014 và trả lời các câu hỏi sau:
a) Ai là tác giả tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân gian”? Tác phẩm
này có được bảo hộ quyền tác giả không? Vì sao?
Tác giả của tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân gian” là nguyên đơn, ông Nguyễn V
L.
Tác phẩm này được bảo hộ quyền tác giả về bố cục trình bày, sắp xếp các bức tranh Tết do
các tác giả khác thực hiện theo phong cách riêng của ông Nguyễn V L.
Còn trong vụ án này, quyền tác giả của ông Nguyễn V L đối với từng cụm hình riêng rẽ chưa
được xác lập. Còn công ty Đăng Viễn thì họ đã sưu tầm, mua lại các hình ảnh riêng rẽ tại các
websites (vcctordcp.vn, nguycnthchien.com) từ đó thiết kế, sắp xếp, bố cục hình thành hình
thức thể hiện không khí Tết dân gian cho tác phẩm trang trí của họ.
Như vậy, tác phẩm này vẫn được bảo hộ quyền tác giả, còn đối với riêng từng bức tranh thì
không.
b) Từng “cụm hình ảnh” trong tác phẩm “Hình thức thể hiện tranh tết dân
gian” có được bảo hộ quyền tác giả không? Vì sao?
Trong phần “xét thấy” của bản án có đoạn:
“Xét nguồn gốc của các cụm hình ảnh được thể hiện trong tác phẩm của ông Nguyễn Văn
Lộc là những hình ảnh đã được lưu truyền trong văn hóa dân gian từ lâu đời (hình ảnh múa
lân, ông địa, liễn chúc tết, ông đồ viết chữ …) các tác giả chỉ thay đổi một số đường nét và
sắp xếp theo một bố cục và hình thức thể hiện để tạo nên tác phẩm riêng của mình. Do đó,
quyền tác giả của các hình ảnh riêng rẽ đã được lưu truyền lâu đời trong văn hóa dân gian
11

không thể xác định là của ai. Quyền tác giả đối với tác phẩm ở đây được xác định chính là bố
cục sắp xếp, hình thức thể hiện trong một tổng thể thống nhất không thể tách rời ra theo từng
bộ phận để xác định quyền tác giả. Mặt khác, ông Nguyễn Văn Lộc cũng trình bày do trình
bày, theo trình tự đăng ký quyền tác giả nếu muốn bảo hộ cho từng cụm hình ảnh ông phải
lập từng hồ sơ tương ứng với từng cụm hình ảnh (ở đây là 05 cụm hình ảnh tương ứng với 05
hồ sơ) để đăng ký quyền tác giả. Điều này sẽ mất nhiều thời gian nên ông đã gộp chung cả 05
cụm hình vào trong một tác phẩm để đăng ký quyền tác giả. Từ đó có thể nhận thấy quyền
tác giả của ông Nguyễn Văn Lộc đối với từng cụm hình riêng rẽ chưa được xác lập. Ngoài ra,
theo lời trình bày của công ty Đăng Viễn thì công ty Đăng Viễn không sử dụng tác phẩm của
ông Lộc để trang trí tại showroom của công ty Mặt Trời Mọc, mà công ty Đăng Viễn sưu
tầm, mua lại các hình ảnh riêng rẽ tại các websites (vectordep.vn, nguyenthehien.com) từ đó
thiết kế, sắp xếp, bố cục hình thành hình thức thể hiện không khí Tết dân gian cho tác phẩm
trang trí của mình, Hội đồng xét xử nhận thấy biểu tượng thuộc về văn hóa dân gian được lưu
truyền lâu đời (như thầy đồ viết chữ, múa lân, liễn chúc tết, hoa mai, hoa đào, trẻ em vui chơi
với pháo ….) thì mỗi người có sự hình dung và thể hiện riêng của mình nhưng bản thân mỗi
một biểu tượng riêng rẽ không thể tự thân tạo nên một tác phẩm để thể hiện không khí tết dân
gian mà các biểu tượng này phải được sắp xếp, thể hiện trong những bố cục chỉnh thể thì mới
có hình thành nên tác phẩm mang thông điệp và nội dung cụ thể. Do đó, việc công ty Đăng
Viễn cho rằng không sử dụng tác phẩm và không vi phạm quyền tác giả của ông Nguyễn Văn
Lộc là có cơ sở để chấp nhận.”
Theo đánh giá của hội đồng xét xử phiên Tòa, từng “cụm hình ảnh” trong tác phẩm “Hình
thức thể hiện tranh tết dân gian” của ông Lộc mặc dù được cục sở hữu trí tuệ cấp giấy chứng
nhận bảo hộ tổng thể nhưng do từng cụm hình trong tác phẩm của ông có nguồn góc từ văn
hóa dân gian và thật sự không xác định được quyền tác giả của các cụm hình ảnh này, mà các
cụm hình ảnh này chỉ được ông Lộc chụp lại bằng điện thoại và thể hiện theo phong cách
riêng của mình. Trong khi đó các bức tranh được trang trí tại cửa hàng trưng bày 18 Cộng
Hòa, phường 4, Tân Bình có bố cục và hình thức thể hiện là khác nhau so với tác phẩm của
ông Lộc nên không có căn cứ để hội đồng xét xử chấp nhận về quyền tác giả.
Theo đánh giá của hội đồng xét xử phiên Tòa, từng “cụm hình ảnh” trong tác phẩm “Hình
thức thể hiện tranh tết dân gian” của ông Lộc mặc dù được cục sở hữu trí tuệ cấp giấy chứng
nhận bảo hộ tổng thể nhưng do từng cụm hình trong tác phẩm của ông có nguồn góc từ văn
hóa dân gian và thật sự không xác định được quyền tác giả của các cụm hình ảnh này, mà các
cụm hình ảnh này chỉ được ông Lộc chụp lại bằng điện thoại và thể hiện theo phong cách
riêng của mình. Trong khi đó các bức tranh được trang trí tại cửa hàng trưng bày 18 Cộng
Hòa, phường 4, Tân Bình có bố cục và hình thức thể hiện là khác nhau so với tác phẩm của
ông Lộc nên không có căn cứ để hội đồng xét xử chấp nhận.  
Theo đánh giá của hội đồng xét xử phiên Tòa, từng “cụm hình ảnh” trong tác phẩm “Hình
thức thể hiện tranh tết dân gian” của ông Lộc mặc dù được cục sở hữu trí tuệ cấp giấy chứng
nhận bảo hộ tổng thể nhưng do từng cụm hình trong tác phẩm của ông có nguồn gốc từ văn
hóa dân gian và thật sự không xác định được quyền tác giả của các cụm hình ảnh này, mà các
cụm hình ảnh này chỉ được ông Lộc chụp lại bằng điện thoại và thể hiện theo phong cách
riêng của mình. Trong khi đó các bức tranh được trang trí tại cửa hàng trưng bày 18 Cộng
Hòa, phường 4, Tân Bình có bố cục và hình thức thể hiện là khác nhau so với tác phẩm của
ông Lộc nên không có căn cứ để hội đồng xét xử chấp nhận.  
12

c) Hành vi của bị đơn có xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của nguyên đơn
không? Nêu cơ sở pháp lý.
Hành vi của bị đơn không xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của nguyên đơn vì:
Thứ nhất, ông Lộc chưa đăng ký bảo hộ đối với các cụm hình ảnh do chính ông vẽ trong bức
tranh của mình nên không có căn cứ để Tòa án bảo vệ quyền tác giả cho ông.
Thứ hai, theo lời trình bày của công ty Đăng Viễn thì công ty Đăng Viễn không sử dụng tác
phẩm của ông Lộc để trang trí tại showroom của công ty Mặt Trời Mọc, mà công ty Đăng
Viễn sưu tầm, mua lại các hình ảnh riêng rẽ tại các websites (vectordep.vn,
nguyenthehien.com) từ đó thiết kế, sắp xếp, bố cục hình thành hình thức thể hiện không khí
Tết dân gian cho tác phẩm trang trí của mình.
Do đó, để đảm bảo quyền tác giả của mình không bị xâm phạm thì ông Lộc phải đăng ký bảo
hộ không chỉ cho  tổng thể bức tranh mà còn phải đăng ký  cho các cụm ảnh chi tiết có trong
tác phẩm để tránh các tranh chấp về sau liên quan đến quyền tác giả.  

Phần B: Phần không thảo luận trên lớp:


So sánh các quy định về bảo hộ quyền tác giả trong Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam hiện
hành và Hiệp định EVFTA. Cho biết những nội dung nào của Luật Sở hữu trí tuệ Việt
Nam chưa tương thích với Hiệp định EVFTA.
Về tổng quan, pháp luật SHTT của nước ta hiện đã tương thích với đa số cam kết trong Hiệp
định EVFTA ở ba chế định lớn là về: các nguyên tắc chung về bảo hộ quyền SHTT, các tiêu
chuẩn bảo hộ quyền SHTT và các yêu cầu về biện pháp thực thi quyền SHTT tại biên giới.
Tuy nhiên, vẫn còn tồn đọng một số quy định về bảo hộ quyền tác giả trong Luật Sở hữu trí
tuệ Việt Nam hiện hành chưa hoàn toàn phù hợp với quy định của EVFTA, do đó cần được
nghiên cứu, sửa đổi để đáp ứng với các yêu cầu chính của Hiệp định này, như sau:
Thứ nhất, vấn đề về hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Hiệp định EVFTA xác định việc
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ bao gồm cả bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh. Bảo hộ
quyền chống cạnh tranh không lành mạnh và các hành vi bị coi là hành vi cạnh tranh không
lành mạnh đã được pháp luật Việt Nam quy định cụ thể tại Luật SHTT và ở một số văn bản
quy phạm pháp luật như Luật Quảng cáo, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Doanh nghiệp,
Luật Thương mại… cũng có quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh, tuy nhiên,
khái niệm, thẩm quyền xử lý, thủ tục xử lý và quy định các hành vi được coi là cạnh tranh
không lành mạnh chưa đồng nhất. Dẫn đến sự chồng chéo hoặc khả năng đùn đẩy trách
nhiệm giữa các cơ quan thực thi pháp luật, dẫn đến tổ chức, cá nhân gặp khó khăn trong việc
để nghị các cơ quan chức năng xử lý các hành vi này.
Thứ hai, một số vấn đề quy định về quyền tác giả. Hiệp định EVFTA có những quy định
mang tính nguyên tắc chung trong việc bảo hộ và thực thi quyền tác giả, quyền liên quan,
trong đó đã yêu cầu các bên phải quy định đầy đủ việc bảo hộ bằng các biện pháp công nghệ
đối với bản quyền, nhưng điều này vẫn chưa được thể hiện rõ ràng trong pháp luật về SHTT
của Việt Nam. Cụ thể, vấn đề dễ gây tranh cãi là xác định quyền sở hữu đối với các luận văn,
luận án, đồ án tốt nghiệp. Theo Bộ luật Dân sự và Luật SHTT hiện hành đều quy định một
13

tác phẩm được tạo ra theo nhiệm vụ được giao ví dụ như: luận văn, luận án, đồ án tốt nghiệp,
… hoặc theo hợp đồng giao việc ví dụ như: công trình nghiên cứu khoa học của sinh viên, thì
quyền tài sản thuộc về cơ quan, tổ chức giao việc là trường đại học; còn quyền nhân thân
thuộc về các đồng tác giả. Các đồng tác giả có quyền nhận thù lao, nhuận bút. Chúng ta cũng
đã có những quy định liên quan đến suy đoán về tác giả hoặc chủ sở hữu quyền. Các chủ thể
quyền sẽ phải xuất trình các bằng chứng chứng minh họ là tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác
giả bằng một số hình thức trong đó việc có tên trên tác phẩm là một trong những chứng cứ
chứng minh quyền tác giả. Vì vậy, vẫn cần phải có những hướng dẫn chi tiết, cụ thể hóa hơn
về vấn đề quyền tác giả, chủ sở hữu đối với loại hình như luận văn, luận án, đồ án tốt
nghiệp... để thực sự khuyến khích các hoạt động đổi mới sáng tạo trong các trường đại học
hiện nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. https://skhcn.bacgiang.gov.vn/chi-tiet-tin-tuc/-/asset_publisher/4roH7oNwBEIm/
content/so-huu-tri-tue-viet-nam-duoi-goc-nhin-tham-chieu-voi-evfta
2. Nguyễn Thị Thu Trang, Rà soát pháp luật Việt Nam với các cam kết của Hiệp định
thương mại tự do Việt Nam - EU về Sở hữu trí tuệ,
https://trungtamwto.vn/upload/files/an-pham/257-fta/ra_soat_ve_so_huu_tri_tue.pdf 

You might also like