You are on page 1of 3

PHÂN TÍCH BÀI THƠ ĐỒNG CHÍ

Chế Lan Viên đã từng hùng hồn mà nói:


“ Ôi Tổ quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông…”
Chiến tranh đã qua đi, nhưng bao kì tích của dân tộc ta vẫn in đậm trong từng trang sử vàng nhờ sự góp
sức của biết bao người con của dân tộc Việt Nam, trong đó đông nhất vẫn là người nông dân. Họ đã làm
nên lịch sử từ đôi bàn tay cày cuốc, đôi bàn chân lấm lem bùn lầy. Đã có biết bao tiếng hát, lời thơ ca
ngợi những anh hùng “chân đất” ấy. Là một chiến sĩ, đồng thời cũng là một nghệ sĩ, với bài thơ Đồng chí,
Chính Hữu đã góp một bản hùng ca hoà vào bản đàn chung về những người lính anh dũng của một thời
kháng chiến gian khổ mà hào hùng.
Chính Hữu là nhà thơ hoạt động xuyên suốt trong thời kì chống Pháp – Mỹ, thơ của ông không nhiều
và luôn tập trung vào hình ảnh người lính, đặc biệt là tình đồng chí, sự gắng bó giữa tiền tuyến và hậu
phương. Chính vì vậy mà bài thơ “ Đồng chí” mang một hơi thở nồng hậu, bình dị, cảm xúc dồn nén thiết
tha của tình đồng đội trong cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp.
Mở đầu bài thơ là sự khái quát về cảnh ngộ của những người lính :
Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Ngôn ngữ thơ giản dị như lời ăn tiếng nói thường ngày của người dân quê. Ta bắt gặp ở đây những thành
ngữ quen thuộc “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”, thể hiện rõ nhất nguồn gốc xuất thân của
những người lính. Họ đến từ mọi miển Tổ quốc, từ những vùng đồng bằng châu thổ quanh năm ngập lụt
đến vùng đồi núi trung du khô cằn. Những con người xa lạ, cách nhau cả một phương trời nhưng giống
nhau ở cái nghèo, sự lam lũ khó nhọc của người dân quê Việt Nam. Chính sự đồng cảnh ấy đã khiến họ
xích lại gần nhau, để từ đó :
“ Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Chính Hữu đã thật xuất sắc khi dùng từ “ đôi người” mà không phải là “hai người” vì từ “đôi” cho ta
thấy sự sóng đôi, song hành của những người lính để cùng hướng về một mục tiêu, lý tưởng nhất định. Đó
là hướng về tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, về cách mạng hòa bình.
Chính điều đó đã khiến họ sát cánh bên nhau, họ tập hợp lại trong hàng ngũ cách mạng và trở thành
quen biết, thân thiết với nhau :
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Những hình ảnh thơ rất thực nhưng cũng đầy sức gợi. Điệp từ “súng” và “ đầu” cùng cấu trúc song hành
có tác dụng khẳng định sự gắn bó khăng khít giữa những người lính. “Súng” tượng trưng cho chiến tranh,
“đầu” tượng trưng cho lý tưởng, ý muốn nhấn mạnh dù có chiến tranh gian khổ như thế nào thì đồng đội
vẫn luôn kề vai sát cánh, một lòng hướng về hòa bình. Nếu những anh lính trẻ trong “Bài thơ về tiểu đội
xe không kính” của Phạm Tiến Duật trở nên thân thuộc bởi:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”
thì cái hay của Chính Hữu là đã biết đem cái ấm áp của “đêm rét chung chăn” vào bài thơ, sưởi nóng mối
tình đồng chí lên thành mức độ tri kỉ. Những người lính đến với nhau nhẹ nhàng bình dị, vừa có cái chung
của lí tưởng lớn, vừa có cái riêng của một đôi bạn ỷ hợp tâm đầu. Và cứ giản dị như thế, những con người
cùng chung gian khó ấy trở thành:
Đồng chí!
Hai tiếng “đồng chí” vang lên, như một tiếng gọi thiết tha. Nhịp thơ đang dàn trải, như những lời thủ
thỉ, tâm tình, đến đây chợt lắng lại, ngắt ra thành một câu thơ riêng, chỉ với hai từ và dấu chấm than, tựa
như một nốt nhấn ngân vang. Nó vừa là một định nghĩa giản dị về tình đồng chí, vừa có ý nghĩa là bản lề
đóng lại những dòng cảm xúc bên trên và mở ra những nguồn mạch biểu hiện mới của tình đồng đội.
Chính Hữu đã từng có những định nghĩa giản dị như vậy về tình đồng đội thiêng liêng :
Là hớp nước uống chung
Nắm cơm sẻ nửa
Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết.
(Chính Hữu – Giá từng thước đất)
Đồng chí là thế. Là sự gắn bó tha thiết tự trong tim, là sự sẻ chia những tâm tư, những gian khó cuộc đời,
là sự thấu hiểu những tình cảm, nghĩ suy :
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Đối với những người nông dân, thiết thân nhất là ruộng vườn cả đời cày sâu cuốc bẫm, là ngôi nhà nhỏ có
gia đình thân yêu. Vậy nhưng họ vẫn quyết tâm gạt bỏ lại sau lung, lên đường theo tiếng gọi của quê
hương, đất nước. Từ “mặc kệ” mộc mạc như cách nói quen thuộc của người dân quê vang lên, ẩn chứa cả
ý chí kiên định. Đó không phải là thái độ buông xuôi, vô trách nhiệm mà là biểu hiện của lòng quyết tâm
sắt đá. Họ vẫn gắn bó lắm, vẫn yêu nhớ lắm cái mảnh đất quê hương nghèo khó, nên mới có thể cảm nhận
được nỗi lòng của người thân nơi hậu phương : Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính
Đã bao lần ta bắt gặp hình ảnh cây đa, bến nước, sân đình trong ca dao xưa, nhưng vẫn thật mới mẻ
trong thơ Chính Hữu. Biện pháp nghệ thuật ẩn dụ “giếng nước”, “gốc đa” gợi ta nhớ tới nơi hò hẹn của
những người dân quê, nhắc đến những kỉ niệm một thời gắn bó trên mảnh đất quê hương. Chúng cũng
biết “nhớ” khi cách xa những người con thân yêu của làng quê. Nghệ thuật nhân hoá được sử dụng thật
đắc địa. Bao tình cảm nặng sâu như đều dồn tụ trong tiếng ”nhớ“ giản dị ấy.
Giữa người đi xa và người ở lại luôn có một sợi dây vô hình gắn kết. Những người lính cùng nhau san
sẻ mọi buồn vui, khó khăn của cuộc sống kháng chiến. Không chỉ thế, tình đồng chí còn tiếp thêm cho họ
sức mạnh để họ vượt qua khó khăn, gian khổ của đời lính :
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.
Câu thơ khắc hoạ hoàn cảnh thực của người lính : thường xuyên phải chống chọi với những cơn sốt rét
rừng triền miên. Hình ảnh thơ chân thực, cụ thể, nhịp thơ 3/5 đều đều như những lời kể chuyện nhẹ nhàng
mang lại cho ta cảm giác se xót trước những gian khó mà người lính phải trải qua trong cuộc đời chiến
đấu.
Những hiện thực trần trụi tưởng như không phải là thơ, nhưng lại gieo vào lòng người đọc bao cảm xúc :
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Nhịp thơ nhanh, câu thơ ngắn, kết hợp cùng cấu trúc song hành có tác dụng đặc tả sự thiếu thốn của đời
lính trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Ta cũng từng bắt gặp những câu thơ đậm chất hiện thực như
thế trong thơ Chính Hữu :
Súng nặng
Đường trơn
Vai gầy
Áo rách
(Chính Hữu – Tháng năm ra trận)
Nhưng bất chấp gian khổ, người lính vẫn cười – tiếng cười ngạo nghễ của những con người coi thường
khó khăn, tiếng cười được sưởi ấm bằng đôi bàn tay nắm chặt:
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Câu thơ giản dị, nhẹ nhàng, đậm chất lính. Hai tiếng “thương nhau” được đặt lên đầu câu khiến cho nhịp
thơ như lắng lại. “Thương” chứ không phải là “yêu”. Trong “thương” không chỉ có tình yêu mà còn có sự
cảm thông, sự xót xa cho nhau. Chính trong tâm thế đó, người lính tìm đến nhau trong cái nắm tay tình
nghĩa. Đó là cái nắm tay truyền hơi ấm để giúp đồng đội vượt qua cái giá lạnh nơi núi rừng, cũng là cái
nắm tay truyền ý chí chiến đấu, truyền ngọn lửa nhiệt tình cách mạng. Đây là ngọn nguồn tạo nên sức
mạnh bất diệt của người lính Việt Nam trong kháng chiến. Những người nông dân vốn chỉ lo “ bán mặt
cho đất, bán lưng cho trời”. Nhưng tình yêu quê hương lên tiếng giục giã họ cất bước lên đường. Những
gian khổ là nhiều, những hi sinh là không ít, nhưng tình yêu Tổ quốc và tình đồng chí thiêng liêng đã tiếp
thêm sức mạnh để người lính vượt qua những khó khăn thử thách đó, để họ vững tay súng, hoàn thành
nhiệm vụ mà Tổ quốc và nhân dân giao phó :
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Ba câu thơ ngắn là sự kết tinh tình đồng chí. Giữa nơi chiến trường khốc liệt, thiên nhiên khắc nghiệt :
(rừng hoang, sương muối) hình ảnh những người lính kề vai nhau ngời sáng lên đẹp biết bao ! Nó là sự
đối chọi với thiên nhiên khắc nghiệt và sự khốc liệt của hiện thực chiến tranh. Từ “bên” ở đây tương thích
với từ “bên” trong câu thơ: “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”. Nhưng nếu như ở trên, hai cá thể vẫn tách
biệt (súng – súng ; đầu – đầu) thì đến đây, từ “bên nhau” cho ta thấy một sự gắn kết trọn vẹn giữa những
người lính. Họ kề vai sát cánh cùng nhau, truyền cho nhau hơi ấm, sức mạnh và niềm tin để thực hiện
nhiệm vụ giữ gìn, bảo vệ Tổ quốc. Có thể nói, chính hoàn cảnh khắc nghiệt của núi rừng hoang lạnh,
hiểm nguy lại là nơi thử thách tình đồng đội thiêng liêng cao cả của những người lính. Hình ảnh họ toả
sáng trong câu thơ kết bất ngờ, độc đáo :
Đầu súng trăng treo
Đây là hình ảnh độc đáo, kết tinh giá trị nghệ thuật của cả bài thơ. Chính Hữu từng tâm sự : “Trong
chiến dịch, nhiều đêm có trăng. Phục kích giặc trong đêm trước mắt tôi chỉ có ba nhân vật : khẩu súng,
vầng trăng và người bạn chiến đấu”. Ba nhân vật quyện lại với nhau thành hình ảnh “Đầu súng trăng
treo”. Tưởng như không hề có sự dụng ý nghệ thuật trong hình ảnh đó, vậy mà nó đưa lại cho người đọc
khoái cảm thẩm mĩ thật đặc biệt. Nhịp thơ 2/2 mang một âm điệu vừa nhẹ nhàng, vừa hùng hồn, vừa sâu
lắng. “Súng” và “trăng” như cũng tạo thành một cặp đồng chí, góp phần soi rọi, tô sáng hơn vẻ đẹp của
cặp đồng chí kia, mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Súng tượng trưng cho khói lửa chiến tranh, trăng
tượng trưng cho cuộc sống thanh bình. “Súng” và “trăng” vừa đối lập lại vừa hài hoà, một bên là hiện
thực, một bên là ước mơ. Ta nhận ra trong câu thơ sự kết hợp hài hoà giữa tâm hồn chiến sĩ và thi sĩ, giữa
chất hiện thực đằm sâu và chất lãng mạn bay bổng. Đó chính là yếu tố làm nên giá trị độc đáo của câu thơ
này.
Chính Hữu đã thành công trong việc sử dụng ngôn ngữ thơ giản dị nhưng cô đọng hàm súc, kết hợp
các kiểu câu sóng đôi, các biện pháp nghệ thuật, các hình ảnh liên tưởng khiến câu thơ trở nên giàu ý
nghĩa, đọng lại trong trái tim người đọc là thứ tình cảm cao quý, thiêng liêng của chiến sĩ ta trong thời kì
kháng chiến gian khổ nghìn trùng.
Ta có thể bắt gặp tình cảm ấy trong rất nhiều bài thơ, có thể kể đến bài thơ quen thuộc nhất là
“BTVTĐXKK” – Phạm Tiến Duật hay tình đồng đội của các chị em gái thanh niên xung phong trong
“NNSXX” – Lê Minh Khuê. Tình đồng đội được khắc họa hoàn toàn dựa trên bối cảnh xã hội và lý tưởng
sống của con người, khi cùng chung lí tưởng thì sẽ biết yêu thương nhau.
“Trong bài Đồng chí, tôi muốn nhấn mạnh đến tình đồng đội. Suốt cả cuộc chiến đấu, chỉ có một chỗ dựa
dường như là duy nhất để tồn tại, để chiến đấu, là tình đồng chí, đồng đội” (Chính Hữu). Cả bài thơ là khúc ca
về tình cảm chân thành, thiêng liêng của những người lính nông dân. Từ những miền quê nghèo khác
nhau trên dải đất hình chữ S, cùng chung sự khốn khó, chung lí tưởng chiến đấu, họ đến với nhau,
giản dị mà chân thành. Bài thơ sẽ còn ngân vang mãi trong trái tim, tâm hồn mỗi người dân Việt Nam
như một biểu tượng đẹp về tình đồng chí bất tử !

You might also like