Professional Documents
Culture Documents
KHOA KT&QTKD
**********
Chủ đề:
“CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐIỂM TRUNG BÌNH HỌC TẬP
CỦA SINH VIÊN”
2
http://www.mediafire.com/?wp2k5xx216y4uc6
BÁO CÁO THỰC HÀNH MÔN KINH TẾ LƯỢNG
3
người yêu hay chưa… cũng khá ảnh hưởng đến điểm học tập của sinh viên. Dựa trên
cơ sở đó, chúng tôi đã tiến hành lập hàm hồi quy để nghiên cứu và phân tích các yếu
tố ảnh hưởng đến điểm trung bình học tập của sinh viên.
X4_Số giờ
D1_Có
X1_Số X2_Số X3_Số tham gia hđ D2_Đã
thường
tiền chi giờ TB buổi ngoại khóa, có
STT Y_ĐTB xuyên
cho HT tự học ở nghỉ học chơi thể người
lên thư
(1 kỳ) nhà (1 kỳ) thao yêu?
viện?
(1 tuần)
1 8.2 620 5 1 6 1 0
2 7.38 480 3 0 5 1 1
3 5.64 310 1 25 1 0 1
4 2.71 250 0 26 2 0 0
5 6.94 420 2.5 20 5 1 0
6 7.12 450 3 2 5 1 0
7 4.53 350 1.5 10 2 0 0
8 6.28 330 2 18 4 0 1
9 7.43 450 3 1 5 1 1
10 4.73 200 1 16 2 0 0
11 7.16 420 3.5 1 4 1 1
12 6.75 400 3 2 5 1 1
13 4.33 200 1 20 2 1 0
14 5.38 300 2 8 3 0 0
15 5.72 340 2 12 2 0 1
16 5.03 350 1.5 8 2 0 1
17 7.01 390 3 3 6 1 0
18 7.22 450 3 2 5 1 1
19 7.54 600 4 2 6 1 0
20 7.31 500 4 0 4 1 1
21 5.92 350 2 10 2 0 0
22 7.4 500 3.5 1 5 1 1
23 4.01 250 1 18 0 0 0
24 7.86 580 4 1 5 1 1
25 8.11 700 5 0 9 1 0
4
26 5.7 300 3 6 1 0 1
27 7.16 410 4 2 4 1 1
28 7.04 390 2.5 3 3 1 1
29 5 300 3.5 15 3 0 0
30 7.59 550 2 1 10 1 1
31 6.94 300 3 7 6 1 1
32 7.04 390 4 3 5 1 0
33 6.91 380 2 3 4 1 1
34 8.02 650 4.5 0 7 1 0
35 5.42 200 2 12 3 0 1
36 8.2 650 5 1 5 1 0
37 7.14 400 3 3 4 1 1
38 7.21 420 3 2 5 1 0
39 8.9 700 8 0 5 1 0
40 7.52 500 3.5 2 4 1 0
41 5.92 300 1 15 3 0 0
42 6.4 360 2 5 5 0 0
43 3.49 200 0 35 3 0 1
44 5.55 340 2 6 3 0 1
45 6.02 320 2 2 3 0 0
46 8.04 650 5 1 8 1 1
47 5.71 280 1 8 5 0 0
48 4.01 250 1 18 2 0 1
49 7.99 580 4 1 5 1 0
50 8.5 650 7 0 4 1 0
5
- X2: Số giờ tự học trung bình 1 ngày ở nhà (giờ).
- X3: Số buổi nghỉ học cả kỳ (buổi).
- X4: Số giờ tham gia hoạt động ngoại khóa, chơi thể thao 1 tuần (giờ).
- D1: Biến giả (1/0) với 1 là có thường xuyên lên thư viện để học và nghiên cứu
thêm tài liệu (mỗi tuần).
- D2: Biến giả (1/0) với 1 là đã có người yêu.
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Y| Coef. Std. Err. t P>|t| [95% Conf. Interval]
-------------+--------------------------------------------------------------------------------------------------------
6
X1 | .0022809 .001182 1.93 0.060 -.0001029 .0046647
X2 | .2386873 .0919655 2.60 0.013 .0532212 .4241534
X3 | -.0451978 .0129853 -3.48 0.001 -.0713851 -.0190104
X4 | .1013942 .055577 1.82 0.075 -.0106875 .2134758
D1 | .5140254 .2199668 2.34 0.024 .07042 .9576308
D2 | .1641611 .1414324 1.16 0.252 -.1210645 .4493867
_cons | 4.396504 .3866859 11.37 0.000 3.616678 5.176331
----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
7
Ho: Không có mối quan hệ giữa biến phụ thuộc và biến X4 (b4= 0).
H1: Biến X4 có ảnh hưởng đến biến phụ thuôc (b4≠0).
Theo kết quả báo cáo 1, ta có P-value của biến X4 = 0.075 < 0.1 => Bác bỏ Ho,
chấp nhận H1. Vậy, biến X4 có ý nghĩa thống kê trong mô hình.
+, Kiểm định D1:
Ho: Không có mối quan hệ giữa biến phụ thuộc và biến D1 (D1=0).
H1: Biến D1 có ảnh hưởng đến biến phụ thuôc (D1≠0).
Theo kết quả báo cáo 1, ta có P-value của biến D1 = 0.024 < 0.1 => Bác bỏ Ho,
chấp nhận H1. Vậy, biến D1 có ý nghĩa thống kê trong mô hình.
+, Kiểm định D2:
Ho: Không có mối quan hệ giữa biến phụ thuộc và biến D2 (D2=0).
H1: Biến độc lập có ảnh hưởng đến biến phụ thuôc (D2≠0).
Theo kết quả báo cáo 1, ta có P-value của biến D2 = 0.252 > 0.1=> Chưa đủ cơ
sở để bác bỏ Ho. Vậy, biến D2 không có ý nghĩa thống kê trong mô hình.
- Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến:
Ho: Mô hình không có đa cộng tuyến.
H1: Mô hình có đa cộng tuyến.
Báo cáo 2:
. vif
X1 5.88 0.170162
X2 4.62 0.216299
X4 2.54 0.393111
D1 2.45 0.408136
D2 1.08 0.924256
8
Theo kết quả báo cáo 2, Mean VIF = 3.18 << 10 => Chưa đủ cơ sở để bác bỏ
Ho. Vậy, mô hình không có đa cộng tuyến.
*Chạy mô hình với 50 quan sát, ta có bảng tóm tắt các kết quả đáng chú ý:
X1 0.0023 0.060
X2 0.2387 0.013
X3 -0.0452 0.001
X4 0.1014 0.075
D1 0.5140 0.024
D2 0.1642 0.252
R2 0.8970 0.000
Từ kết quả nghiên cứu, ta có phương trình hồi quy của mô hình:
2, Phân tích:
- Ý nghĩa của các tham số trong mô hình:
+, b1 = 0.0023 cho biết với điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi tăng 100
nghìn đồng tiền đầu tư cho học tập (mua sách, tài liệu…) thì điểm trung bình cả kỳ
sẽ tăng thêm 0.0023.
+, b2 = 0.2387 cho biết với điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi học thêm
1 giờ mỗi ngày ở nhà thì điểm trung bình cuối kỳ sẽ tăng thêm 0.2387.
+, b3 = -0.0452 cho biết với điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi nghỉ
thêm 1 buổi học thì điểm trung bình cuối kỳ sẽ giảm đi 0.0452.
9
+, b4 = 0.1014 cho biết với điều kiện các yếu tố khác không đổi, khi tăng
thêm 1 giờ tham gia hoạt động ngoại khóa, chơi thể thao mỗi tuần thì điểm trung
bình học tập sẽ tăng thêm 0.1014.
+, b5 = 0.5140 cho biết với điều kiện các yếu tố khác không đổi, những sinh
viên chăm chỉ thường xuyên lên thư viện để học và nghiên cứu thêm tài liệu vào mỗi
tuần sẽ có điểm trung bình cuối kỳ cao hơn những sinh viên không lên thư viện 1
lượng là 0.5140.
+, b6 không có ý nghĩa thống kê hay không có mối liên hệ rõ ràng giữa việc
có người yêu hay chưa với điểm trung bình học tập cả kỳ.
-Ý nghĩa của R2:
R2 = 0.8970 cho biết rằng mối quan hệ hồi quy khá chặt chẽ, các yếu tố: Số tiền
chi tiêu cho học tập cả kỳ học, số giờ tự học trung bình 1 ngày ở nhà, số buổi nghỉ
học cả kỳ, số giờ tham gia hoạt động ngoại khóa, chơi thể thao, và có thường xuyên
lên thư viện để học, nghiên cứu thêm tài liệu hay không đã giải thích được 89.7% sự
thay đổi của điểm trung bình học tập 1 kỳ học của sinh viên.
1, Kết luận:
- Sự tự giác, cố gắng trong quá trình học tập có tác động lớn đến kết quả học tập
của sinh viên, nhưng tác động lớn nhất đến điểm trung bình học tập là việc sinh viên
có thường xuyên chịu khó lên thư viện để học và nghiên cứu thêm tài liệu hay
không. Điều này hoàn toàn hợp lý vì hiện nay đa số sinh viên học đại học vẫn còn bị
động trong việc tiếp cận với kiến thức, phần lớn kiến thức có được là do quá trình
nghe giảng ở trên lớp và chỉ một số ít các sinh viên có ý thức tự học, hay tự nghiên
cứu ở nhà. Nguyên nhân chính nằm ở bản thân của sinh viên do chưa có cố gắng,
phương pháp học tập chưa hiệu quả. Mặt khác do chương trình giảng dạy cho sinh
viên đôi lúc còn quá nặng về mặt lý thuyết và chưa tạo hết điều kiện cho sinh viên tự
nghiên cứu và tìm hiểu thực tế.
- Giải trí lành mạnh như các hoạt động ngoại khóa, chơi thể thao, văn nghệ…
đôi khi có thể bị hiểu lầm là thời gian chơi bời vô ích. Nhưng thực tế không phải như
vậy, trong quá trình giải trí ta có thể xả streess rất tốt sau nhiều giờ làm việc, học tập
căng thẳng và nó còn trang bị cho ta những kiến thức xã hội-điều đó là rất cần thiết
cho sinh viên đại học. Một số hình thức giải trí khác như đọc báo, đọc truyện, xem
tivi, lướt web và ngay cả đến việc chơi game hợp lý cũng mang lại nhiều lợi ích.
10
Những hoạt động trên giúp ta hưng phấn, refresh lại tinh thần… giúp cho việc tiếp
thu kiến thức sau đó tốt hơn. Do đó, nếu dành ra một thời gian hợp lý cho giải trí thì
không những sẽ không ảnh hưởng xấu đến việc học, mà còn có thể cải thiện kết quả
học tập của chúng ta.
- Nghỉ học là một thói quen xấu của nhiều sinh viên và đương nhiên, việc nghỉ
học sẽ làm giảm kết quả học tập cả kỳ của họ vì lượng kiến thức tiếp thu không liên
tục, đầy đủ và có thể bỏ qua những kiến thức quan trọng trong buổi học đó.
- Đầu tư cho học tập qua việc mua thêm tài liệu cũng làm tăng kết quả học tập
nhưng với điểu kiện là sinh viên phải bỏ thời gian để nghiên cứu nó.
- Theo kết quả nghiên cứu trên thì việc có người yêu hay chưa không có mối
liên hệ gì với kết quả học tập. Có thể lý giải điều này là do ngoài thời gian dành cho
nhau thì họ vẫn dành thời gian để học tập, làm việc và có thể còn động viên nhau cố
gắng học tập vì tương lai của họ…
2, Đề xuất:
Qua những đánh giá, kết luận trên, chúng tôi có một số đề xuất để sinh viên có
thể cải thiện và nâng cao kết quả học tập:
- Môi trường Đại học khác xa với môi trường phổ thông, sinh viên đa số đi học
xa nhà, không còn được bố mẹ kèm cặp trong khi ngoài xã hội còn bao nhiêu cám
dỗ, lớp học quá đông, công tác quản lý còn nhiều hạn chế… Những điều trên cho
thấy muốn có kết quả học tập tốt, quan trọng nhất là sinh viên phải tự giác học là
chính. Phải xác định rõ mục tiêu trong học tập để cố gắng…Và hãy bắt đầu bằng
những việc như tăng thời gian tự học ở nhà, đầu tư nhiều hơn cho học tập, cố gắng
tập trung nghe giảng trên lớp và không nên nghỉ học.
- Phương pháp học tập cũng rất quan trọng, nó ảnh hưởng lớn đến việc học và
kết quả học tập của sinh viên. Nếu có phương pháp học đúng đắn thì sinh viên sẽ đạt
được kết quả cao hơn và có hứng thú hơn với việc học. Ví dụ sinh viên nên lên thư
viện những lúc rảnh rỗi để học, nghiên cứu thêm tài liệu vì ở đây có nhiều điều kiện
tốt cho việc học tập và ở đó có ‘‘không khí học tập’’ rất tốt. Mặt khác, cần phải cân
đối giữa học tập, làm việc với giải trí để quá trình làm việc đạt hiệu quả cao hơn.
- Ngoài ra, nhà trường nên nâng cao chất lượng đào tạo, cơ sở hạ tầng tạo điều
kiện tốt nhất cho sinh viên học tập, nghiên cứu. Giảng viên nên cố gắng tạo cho các
bài giảng không quá khô khan, quá nặng lý thuyết dễ gây nhàm chán cho sinh viên
và từ đó xuất hiện tâm lý không muốn học…
11
- Giảng viên nên cố gắng tạo điều kiện, hỗ trợ sinh viên trong quá trình tự học.
Và việc tìm hướng đi đúng cũng cần sự phối hợp và giúp đỡ rất lớn của các thầy cô,
để có thể nâng cao năng lực, kết quả học tập của mỗi sinh viên.
12