You are on page 1of 29

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÔN ĐỨC THẮNG

KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-------------------

BÁO CÁO CUỐI KỲ

MÔN: Tư tưởng Hồ Chí Minh (306106)


Đề tài: Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò và
sức mạnh của đạo đức. Liên hệ thực tiễn để thấy
được vai trò và sức mạnh của đạo đức trong xã
hội hiện nay.
Tổ: 5 Nhóm: 9

Giảng viên hướng dẫn: Tăng Hữu Tân

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2021

1
Danh sách Tổ 5 nhóm 9

Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (306106) Ca: 1 Thứ: 3

% đánh
Ghi
STT MSSV Họ tên Nhiệm vụ giá hoàn
chú
thành
Viết phần 2.1. Ví dụ về tấm
Trần Phương
157 719V0135 gương của Chủ tịch Hồ Chí 90%
Uyên
Minh.
Viết phần 2.2.1 Liên hệ tình
Lê Thị Vân
158 710V0145 hình thực tiễn hiện nay và liên 90%
Trúc
hệ vào nội dung bài học.
Viết phần 1.3. Quan điểm về
Nguyễn Phạm
159 719V0147 những nguyên tắc xây dựng 90%
Băng Băng
đạo đức mới.
- Chỉnh sửa chính tả. - Trễ
- Format lại cho đúng với nội deadline
dung yêu cầu của bộ môn. - Không
160 719V0153 Lý Khởi Kha 80%
- Viết phần 1.1. Quan điểm về tham
vai trò và sức mạnh của đạo gia buổi
đức. họp
Trương Trần
161 719V0175 Viết phần mở đầu, kết luận. 85%
Thiệu Đăng
- Phân chia công việc cho các
thành viên.
- Giám sát, điều chỉnh chung bài
Võ Duy
162 B20K0134 luận. 100%
Thắng
- Viết phần 1.2. Quan điểm về
những chuẩn mực đạo đức
cách mạng.

2
Viết phần 2.2.2 Giải pháp cho
tình trạng xuống cấp đạo đức

Lời cam đoan

Chúng em xin cam đoan Báo cáo cuối kỳ do tổ 5 nghiên cứu và thự hiện.

Chúng em đã kiểm tra dữ liệu theo quy định hiện hành.

Kết quả Báo cao cuối kỳ là trung thực và không sao chép từ bất lỳ báo cáo của nhóm
khác.

Các tài liệu được sử dụng trong Báo cáo cuối kỳ có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.

(Ký và ghi rõ họ tên)

3
MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................................................ 5

PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................................................ 6

1. QUAN NIỆM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ VÀ SỨC MẠNH CỦA ĐẠO
ĐỨC: .................................................................................................................................................. 6

1.1. Quan niệm về vai trò và sức mạnh của đạo đức: .................................................................... 6

1.1.1 Đạo đức là cái gốc của người cách mạng:................................................................................ 6

1.1.2. Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội: .............................................. 7

1.2. Quan niệm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng: .......................................................... 8

1.2.1. Trung với nước, hiếu với dân: .................................................................................................. 8

1.2.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư: .................................................................................... 9

1.2.3 Thương yêu con người, sống có tình nghĩa: ............................................................................ 11

1.2.4 Tinh thần quốc tế trong sáng:.................................................................................................. 11

2. LIÊN HỆ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ VÀ SỨC MẠNH CỦA ĐẠO ĐỨC: ........................ 14

2.1. Chủ tịch Hồ Chí Minh – Tấm gương đạo đức sáng ngời:.................................................... 14

2.2. Liên hệ thực tiễn trong xã hội hiện nay: ................................................................................ 17

2.2.1 Những tấm gương trong xã hội hiện nay: ............................................................................... 17

2.2.2 Giải pháp cho tình trạng xuống cấp đạo đức. ......................................................................... 21

TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................................................. 24

Phụ lục 1: Biên bản họp Tổ. ........................................................................................................... 26

Phụ lục 2: Tiêu chí đánh giá Báo cáo cuối kỳ: .............................................................................. 28

4
PHẦN MỞ ĐẦU
Xuyên suốt quá trình cách mạng của Việt Nam, ngoài câu nói “Đoàn kết, đoàn
kết, đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành công”, mà tư tưởng đạo đức cũng
được in sâu vào người hoạt động cách mạng, tiềm thức của các thế hệ sau này. Các nhà
lãnh tụ có nói : “Tổ chức tăng sức mạnh 10 lần”, bác Hồ dạy “Đạo đức tăng sức mạnh
gấp bội”. Sự thống nhất của các yếu tố chính trị, văn hóa, kinh tế dung hòa với giá trị
đạo đức tạo nên sự toàn hòa quyện và toàn diện được đúc kết giá trị trong tư tưởng Hồ
Chí Minh.

Hồ Chí Minh luôn nhận thức được đoàn kết và giá trị nhân phẩm của con người
là vấn đề sống còn, quyết định của cách mạng, mang đến phương hướng lãnh đạo cho
Đảng xây dựng đất nước, phát triển. Trong phương hướng phát triển của tư tưởng Hồ
Chí Minh, theo Bác, người làm chính trị đơn thuần là hiểu đạo đức, mà còn thấm nhuần
tư tưởng đạo đức cách mạng dân tộc. Tư tưởng và tấm gương đạo đức cách mạng trong
sáng của Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc ta. Nghiên cứu,
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là niềm vinh dự, tự hào, qua đó
trở thành một biểu tượng đẹp đẽ của văn minh nhân loại.

Điều này chứng minh rằng, việc nhận thức đầy đủ và toàn diện quan điểm của
chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò và sức mạnh của đạo đức luôn là đề tài, đối tượng luôn
cấp thiết đối với mỗi người . Để có thể nhìn nhận toàn diện hệ thống lý luận và đối
tượng nghiên cứu trong, bài luận đã kết hợp đa bằng những phương pháp nghiên cứu
khác nhau như: Phương pháp chuyên ngành, liên ngành - áp dụng khi liên hệ những lý
luận của Bác với những quan điểm tương đồng với những quan điểm của triết học về
pháp luật của Hy Lạp - La Mã cổ đại và sự kết hợp hai phương pháp Logic - lịch sử khi
nêu ra những điểm cải tiến hơn của tư tưởng Hồ Chí Minh so với tư tưởng truyền.Từ đó
bài luận đưa ra những liên hệ thực tế và nêu ra phương pháp cải thiện đạo đức trong
tình hình xã hội ngày càng phát triển, nhất là sau thời kỳ đất nước mở cửa và đổi mới
hiện nay.

5
PHẦN NỘI DUNG
1. QUAN NIỆM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ VÀ SỨC
MẠNH CỦA ĐẠO ĐỨC:
1.1. Quan niệm về vai trò và sức mạnh của đạo đức:
1.1.1 Đạo đức là cái gốc của người cách mạng:
So với các lãnh tụ cách mạng trên thế giới và trong khu vực, Hồ Chí Minh là
người đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức, nhân cách và lối sống của con người, xã
hội. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề rèn luyện đạo đức cách
mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, để Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, xứng đáng
là đội tiền phong của giai cấp và dân tộc. Đạo đức là sức mạnh của con người. Làm
cách mạng là một việc lớn nên càng phải có sức mạnh. Người viết trong tác phẩm
“Đạo đức cách mạng”: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một
sự nghiệp vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất
phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người
cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ
cách mạng vẻ vang”.
Đối với người cách mạng, đạo đức có một vai trò vô cùng quan trọng, Người chỉ
rõ: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải
có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức
thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được Nhân dân”. Bác đều coi trọng cả đức và
tài- có đức thì phải có tài, ngược lại có tài lại phải có đức, nhưng “đức” là gốc rễ, là
nền tảng và động lực để người cách mạng đủ sức vượt qua mọi thử thách, hiểm nguy –
kể cả hiểm nguy tới tính mạng của mình trong thời chiến và vượt qua mọi nguy cơ tha
hóa đạo đức, gây hại tới nhân dân, tổ quốc ngay cả trong thời bình.
Trên cơ sở xác định vai trò to lớn của đạo đức cách mạng, Người yêu cầu mỗi cán
bộ đảng viên phải không ngừng tu dưỡng rèn luyện phẩm chất đạo đức. Theo Người,
yêu cầu đạo đức người cán bộ cần có là trung với nước, hiếu với dân; cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư; thương yêu con người, sống có tình nghĩa; tinh thần quốc tế
trong sáng. Người đặc biệt nhấn mạnh: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng
viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần, kiệm, liêm,

6
chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người
lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân... Đảng cần phải chăm lo giáo
dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ thành những người
thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
1.1.2. Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội:
Theo Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội chưa phải là ở lý tưởng cao
xa, mức sống vật chất dồi dào, ở tư tưởng được tự do giải phóng, mà trước hết là ở
những giá trị đạo đức cao đẹp, ở phẩm chất những người cộng sản ưu tú. Những phẩm
chất đạo đức cao quý làm cho chủ nghĩa cộng sản trở thành một sức mạnh vô địch,
khiến phong trào cộng sản công nhân quốc tế trở thành lực lượng quyết định vận mệnh
loài người. Bác nói: “Đối với phương Đông một tấm gương sống còn giá trị hơn 100
bài diễn văn tuyên truyền.” Và cuộc đời của Người chính là một tấm gương đạo đức
sáng ngời, chẳng những có sức hấp dẫn mạnh mẽ với nhân dân Việt Nam mà còn cả
với nhân dân thế giới.

Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam sẽ đảm bảo cho mỗi cá nhân phát triển lành mạnh
nhân cách của mình trong sự hài hòa giữa cá nhân và xã hội. Xã hội tôn trọng mọi cá
nhân, đồng thời cá nhân biết đề cao xã hội, có thể hy sinh lợi ích riêng vì lợi ích chung
khi xã hội cần đến… Nhìn nhận bản chất quan trọng này, Hồ Chí Minh đưa ra một
quan niệm, chủ nghĩa xã hội là xã hội trọng đó mình vì mọi người và mọi người vì
mình. Do đó, một trong những nét nổi bật của con người mới xã hội chủ nghĩa là phải
đạt tới trình độ phát triển cao về đạo đức, về nhân cách, đủ sức chiến thắng chủ nghĩa
cá nhân. Xã hội chủ nghĩa vừa đòi hỏi, vừa tạo ra những con người như thế.

Sự hấp dẫn đó được thể hiện qua đạo đức, lý tưởng cách mạng, nhân cách, lối
sống gương mẫu của người cán bộ đảng viên. Chính tấm gương đạo đức, lối sống cao
đẹp của từng cán bộ, đảng viên đã tạo nên nét riêng biệt, đặc thù của chế độ mới mà ở
các chế độ khác không hề có, nhân dân không thấy được ở những con người của chế
độ cũ. Vì thế mà nhà thơ Tố Hữu, vào năm 1938, thời điểm bắt gặp lí tưởng cộng sản
chủ nghĩa, ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin đã viết:

7
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim” - (Trích “Từ ấy” – Tố Hữu)

Thời nay, củng cố hay làm suy giảm niềm tin của quần chúng vào tương lai của
chủ nghĩa xã hội không phải ở những sai lầm và thất bại tạm thời khó tránh khỏi trên
con đường mới khai phá mà chủ yếu ở sự sa sút, thoái hóa của những người được
mệnh danh là “những chiến sĩ tiên phong” trước thắng lợi hay khó khăn của cách
mạng. Bởi lẽ, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chưa lúc nào từ bỏ âm mưu và
thủ đoạn thâm độc để chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa của nước ta. Chúng luôn thực hiện “diễn biến” về tư tưởng, đạo đức lối sống qua
con đường giao lưu, hội nhập kinh tế, qua các mạng thông tin để lôi kéo dân ta đi
chệch khỏi các định hướng giá trị của dân tộc, đánh phá từ bên trong.
Sự lành mạnh của đời sống đạo đức xã hội phụ thuốc một phần rất quan trọng
vào sự nêu gương của người lãnh đạo, nhất là những người đứng đầu các ngành, các
địa phương, các đơn vị. Điều này được Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở: “Muốn
thực sự làm người lãnh đạo, người chỉ huy, người đứng đầu cơ quan , đơn vị phải hết
sức giữ gìn và nêu gương về mặt đạo đức.
Để thực hiện theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Đảng ta vừa qua đã ra nhiều
nghị quyết, chỉ thị học tập và làm theo Người. Đặc biệt Đảng yên câu những người
lãnh đạo cao cấp phải nêu tấm gương về đạo đức, lối sống lành mạnh, phải là những
chiến sĩ đi đầu trong việc đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, sa hoa, lãng phí,
không chỉ trong xã hội mà cả trong gia đình riêng của mình.

1.2. Quan niệm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng:

Nói về những chuẩn mực đạo đức cách mạng, chủ tịch Hồ Chí Minh có khẳng
định “ trong điều kiện mới, người việt Nam cần phải có các chuẩn mực đạo đức”, đó là:
Trung với nước, hiếu với dân; cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; thương yêu con
người, sống có tình nghĩa và cuối cùng là tinh thần quốc tế trong sáng.

1.2.1. Trung với nước, hiếu với dân:

8
Hồ Chí Minh khẳng định: đây là chuẩn mực đạo đức quan trọng nhất, bao trùm
nhất và chi phối những phẩm chất khác. Vì có phẩm chất này, người cách mạng mới
vượt qua mọi khó khăn, gian khổ đề hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. Ngoài ra, trong
các quan hệ đạo đức, thì quan hệ với nước, với dân là quan hệ lớn nhất. Do đó, trung
với nước, hiếu với dân cũng là chuẩn mực đạo đức chung nhất, bao trùm nhất. Hồ Chí
Minh có kế thừa khái niệm trung - hiếu trong quan niệm truyền thống và đưa vào trong
đó những khái niệm, nội hàm mới. cụ thể như sau :
Theo quan niệm truyền thống, vua là con trời - thiên tử, vì vậy nước là của vua,
nước với vua là một. Cho nên vua và nước cũng là một, trung với nước cũng đồng
nghĩa với việc trung thành tuyệt đối với vua trong xã hội phong kiến. Còn hiếu nghĩa là
hiếu thảo, thiếu thuận, con cháu phải vâng lời, lễ phép, sống cho tròn chữ “hiếu” với
ông bà, cha mẹ. Phạm vi thực hiện đạo hiếu chỉ gói gọn trong phạm vi nhỏ hẹp - là
phạm vi gia đình.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, “ nước trước kia là của vua thì nay nước là
của dân” vì vậy trung với nước cũng đồng nghĩa với trung thành với nhân dân. Để làm
được điều đó, người cán bộ “ phải hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân
dân”. Người còn khẳng định, trung với nước thì yêu cầu mỗi người cần phải tuân thủ
những nguyên tắc như sau : Tuyệt đối trung thành với lợi ích của Tổ quốc, lợi ích của
nhân dân; Thực hiện tốt mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước. Như Hồ Chí Minh đã khẳng định, ngoài lợi ích của đất nước, nhân dân,
Đảng và Nhà nước không có lợi ích nào khác, cho nên mỗi cá nhân con người cần phải
thực hiện tốt mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà Nước.
Theo Hồ Chí Minh chữ “hiếu” còn mang phạm vi rộng hơn, hiếu còn là hiếu với
dân. Dân nghĩa là nhân dân, đồng bào, trong dân có ông bà cha mẹ. Là người cán bộ
cách mạng càng cần thiết phải thực hiện đạo hiếu với nhân dân. Người yêu cầu người
cán bộ cần phải nắm được bốn việc: Thứ nhất là nắm vững dân tình, thứ hai là hiểu rõ
dân tâm ( hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của nhân dân), thứ ba là cải thiện dân sinh (
nâng cao đời sống của nhân dân) và cuối cùng là nâng cao dân trí ( để nhân dân hiểu
được vai trò, bổn phận và trách nhiệm của mình).
1.2.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư:

9
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư được Hồ Chí Minh khẳng định là phẩm
chất cần thiết đối với con người Việt Nam trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng,
đặc biệt là trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đạo đức trong xã hội phong
kiến cũng đề cập tới “ cần, kiệm, liêm, chính” nhưng chỉ để cho quần chúng nhân dân
thực hiện để phụng sự quyền lợi cho bọn phong kiến.
Cần nghĩa là lao động cần cù, siêng năng, như Người từng nói “ Người siêng
năng thì mau tiến bộ. Cả nhà siêng năng thì chắc ấm no, cả làng siêng năng thì làng
phồn thịnh, cả nước siêng năng thì nước mạnh giàu”. Tuy nhiên, không phải cần nghĩa
là chỉ biết bỏ sức ra mà làm, mà phải gắn liền với lao động có kế hoạch, sáng tạo, có
năng suất và hiệu quả. Người khẳng định cần có tác dụng thiết thực đối với mỗi người,
mỗi gia đình và có tác dụng với cả quốc gia dân tộc.
Cần rồi thì phải đi đôi với kiệm - nghĩa là tiết kiệm. Tiết kiệm không chỉ đơn giản
tiết kiệm vật chất, tiền bạc, của cải, mà tiết kiệm bao gồm: Thứ nhất là “sức lao động”
vì sức lao động làm ra của cải, thứ hai là “thì giờ” - như Người khẳng định: “thì giờ
quý như vàng”, thứ ba là “tiền của” - Người chỉ rõ: tiền của dân, của nước là tiền của
dân, đều phải tiết kiệm và cuối cùng là “từ cái nhỏ đến cái to” vì “ góp gió thành bão”
nhiều cái nhỏ sẽ góp thành cái to. Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh “ tiết kiệm không
phải là bủn xỉn”’, “ khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi
có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc thì dù bao nhiêu công, tốn
bao nhiêu của, cũng vui lòng”.
“Cần” và “ kiệm” có mối quan hệ mật thiết với nhau, như “ tăng gia là tay phải
của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc”. Cần mà không kiệm thì như “ tiền
vào nhà gió, gió vào nhà trống”, ngược lại kiệm mà không cần thì lấy gì mà kiệm.
Liêm theo quan điểm của Hồ Chí Minh là luôn trong sạch, không tham lam.
Người có đức tính Liêm là người luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân, luôn
ham học, ham làm, ham tiến bộ. “Liêm” cũng phải đi đôi với “kiệm” giống như “kiệm”
đi đôi với “cần”vì “ có kiệm mới liêm được, vì xa xỉ mà sinh ra tham lam”
Hồ Chí Minh từng khẳng định: con người có cần, kiệm, liêm thì cần phải có
chính. Chính nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn, không gian tà. Người có đức tính chính
phải xử lý được 3 mối quan hệ, đó là: mối quan hệ đối với chính mình (không tự cao,

10
tự đại, luôn cầu tiến); đối với việc (luôn để việc công lên trên việc tư) và đối với người
(không nịnh hót người khác, không khinh thường người dưới).
Cần kiệm liêm chính rồi, thì phải có “chí công vô tư”. Chí công là yêu cầu rất
mực công minh, chính trực, công bằng, công tâm. Vô tư là không thiên vị, thiên tư. Chí
công vô tư là hoàn toàn vì lợi ích chung, không vì tư lợi, không thiên tư, thiên vị, luôn
đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân, của dân tộc lên trên hết và trước hết.
Toàn bộ những đức tính trên có mối quan hệ mật thiết với nhau. Cần, kiệm, liêm,
chính là bốn đức tính cơ bản của con người, không thể thiếu đức tính nào. Cần, kiệm,
liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư. Ngược lại đã Chí công vô tư rồi thì nhất định
thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính và nhiều đức tính khác.
1.2.3 Thương yêu con người, sống có tình nghĩa:
Bác cho rằng, người làm cách mạng là người giàu tình cảm, có tình cảm cách
mạng thì mới đi làm cách mạng. Đây là một tình cảm rộng lớn dành cho những người
nghèo khổ, bị áp bức, không phân biệt giai cấp. Tình thương yêu đó phải được xây
dựng trên lập trường giai cấp công nhân và được thể hiện trong các mối quan hệ hằng
ngày với bạn bè, đồng chí, anh em.
Yêu thương con người đi liền với tôn trọng, tìm mọi cách nâng con người lên, dù
đó là những người thất thời lầm lạc. Nhưng tuyệt đối lưu ý rằng, yêu thương không
phải là chín bỏ làm mười, bao che cho nhau cả lỗi lầm, trở thành phe cánh, phường
hội,.... như vậy chỉ có đưa đến tổn thất cho cách mạng, tổ quốc, đồng bào,...
1.2.4 Tinh thần quốc tế trong sáng:
Nội dung của phẩm chất đạo đức này bao gồm những nội dung như: tôn trọng tất
cả các dân tộc trên thế giới dù đó là dân tộc lớn hay nhỏ. Có tinh thần hòa bình, hữu
nghị, hợp tác giữa các dân tộc, không phân biệt dân tộc lớn, dân tộc nhỏ. Có tinh thần
bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ giữa các dân tộc.
Đây là một đạo đức hoàn toàn mới, có ở trong cuộc cách mạng hoàn toàn mới của
chúng ta, là một trong những phẩm chất đạo đức quan trọng nhất của đạo đức Cộng sản
chủ nghĩa. Trong suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp, xây dựng
tình đoàn kết hữu nghị giữa Việt Nam và các nước trên thế giới.

11
1.3. Quan niệm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới:
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng vấn
đề xây dựng đạo đức cách mạng, cho rằng đạo đức là cái gốc, cái nền tảng của người
cách mạng. Người khẳng định rằng: “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức
mà không có tài thì làm việc gì cũng khó” vì thế để xây dựng một nền đạo đức mới, Hồ
Chí Minh đã nêu lên những nguyên tắc mới để định hướng cho sự lãnh đạo của Đảng
cũng như việc rèn luyện của mỗi người, mỗi tổ chức và toàn xã hội. Bằng việc kế thừa
có chọn lọc tư tưởng đạo đức truyền thống và vận dụng sáng tạo tư tưởng nhân văn của
Chủ nghĩa Mác - Lê nin, Hồ Chí Minh đã đưa ra cụ thể ba quan điểm sau đây:
1.3.1. Nói phải đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức:
Nói phải đi đôi với làm là nét đẹp trong đạo đức truyền thống của dân tộc được
Hồ Chí Minh nâng lên một tầm cao mới, Người coi đây là nguyên tắc quan trọng bậc
nhất trong xây dựng nền đạo đức mới và thể hiện sự thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn, tư tưởng và hành động, nhận thức và việc làm. Đây còn là cơ sở để có thể phân
biệt rõ ràng với thói đạo đức giả của giai cấp bóc lột, một giai cấp với bản chất đặc
trưng là nói một đằng làm một nẻo, nói nhiều làm ít hoặc nói mà không làm gì cả. Sau
thắng lợi của cách mạng tháng tám¸ Hồ Chí Minh đã chỉ ra những biểu hiện của thói
đạo đức giả ở một số cán bộ “vác mặt làm quan cách mạng”, “miệng thì nói dân chủ,
nhưng làm việc thì họ theo lối quân chủ”, “miệng thì nói phụng sự quần chúng nhưng
họ làm trái ngược với lợi ích quần chúng”. Đối với mỗi người, muốn đem lại hiệu quả
thiết thực cho bản thân mình thì lời nói phải đi đôi với việc làm và có tác dụng đối với
người khác và còn là biểu hiện của sự gương mẫu, trung thực của mỗi cá nhân.
Nêu gương về đạo đức là một trong những nét đẹp truyền thống trong văn hóa
phương Đông. Theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì nêu gương có tầm quan
trọng trong đời sống đạo đức đặc biệt đối với các cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh đã
viết: “Nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ một
tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Qua đó, nêu
gương phải diễn ra ở mọi lúc mọi nơi. Trong gia đình, những người lớn tuổi đều phải
làm gương cho những người nhỏ tuổi ví dụ như ba mẹ phải làm gương cho con cái, còn
anh chị thì phải làm gương cho em nhỏ. Còn về lĩnh vực giáo dục, trong nhà trường thì

12
là tấm gương của thầy cô đối với học sinh. Để làm được như thế, phải chú ý phát hiện
những điện hình người tốt, việc tốt rất gần gũi trong đời thường, trong các lĩnh vực lao
động sản xuất, trong chiến đấu và trong học tập. Đó cũng là điều chúng ta thấy ở Hồ
Chí Minh - một tấm gương đạo đức chung cho cả dân tộc, cho cả các thế hệ người Việt
Nam mãi mãi về sau.
1.3.2. Xây đi đôi với chống:
Cái xấu luôn luôn hiện diện trong đời sống và có thể diễn ra hàng ngày vì thế theo
Hồ Chí Minh cho rằng bản thân mỗi người phải xây dựng đạo đức mới và vừa phải
chống cái phi đạo đức. Nguyên tắc xây đi đôi với chống là đòi hỏi của nền đạo đức
mới, thể hiện tính nhân đạo chiến đấu vì mục tiêu của sự nghiệp cách mạng; xây tức là
xây dựng các giá trị, các chuẩn mực về đạo đức mới; chống là chống các biểu hiện, các
hành vi vô đạo đức. Theo Người, trên con đường đi tới tiến bộ và cách mạng, đạo đức
mới chỉ có thể được xây dựng thành công trên cơ sở kiên trì mục tiêu chống chủ nghĩa
đế quốc, chống những thói quen và những tập tục lạc hậu và loại trừ chủ nghĩa cá nhân.
Đây thực sự là một cuộc chiến đấu khổng lồ giữa tiến bộ và lạc hậu, giữa cách mạng và
phản cách mạng. Đề giành được thắng lợi trong cuộc chiến này, điều quan trọng là phải
phát hiện sớm, phải tuyên truyền, vận động hình thành phong trào quần chúng rộng rãi
đấu tranh cho sự lành mạnh, trong sạch về đạo đức.
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh rằng “ Một dân tộc, một Đảng
và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm
nay và ngày mai được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng
nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Nói như vậy bởi lẽ: đạo đức cách mạng nói một
cách ngắn gọn là một phong cách đạo đức đối lập, xa lạ với chủ nghĩa cá nhân. Chủ
nghĩa cá nhân được Bác xem là giặc nội xâm, cực kì nguy hiểm vì giặc này tàn phá đất
nước từ bên trong, gây tổn thương rất lớn cho uy tín của người cách mạng, từ đó gây
mất niềm tin của nhân dân. Đôi khi, giặc ngoại xâm dù lớn mạnh như thế nào đi chăng
nữa, toàn dân toàn Đảng đồng lòng ắt sẽ chiến thắng, còn giặc nội xâm là kiểu giặc rất
khó nhận biết thậm chí sẽ thua cuộc. Vì vậy, nếu không chống được chủ nghĩa cá nhân,
thì chắc chắn sẽ không xây dựng được chủ nghĩa xã hội, không thể đạt được mục tiêu
của Đảng đề ra là “ hội nhập quốc tế, phát triển nhanh và bền vững” .

13
Tuy nhiên, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã lưu ý và làm rõ rằng: Đấu tranh chống
chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân”. Có thể nói đây là một
nhận định hết sức công tâm và thấu tình đạt lí. Như trường phái luật tự nhiên ( mà tiêu
biểu là Kant và Arítoteles) đã khẳng định: suy cho cùng mỗi người chúng ta, ai cũng có
quyền được mưu cầu hạnh phúc cá nhân và nếu hạnh phúc cá nhân đó không chà đạp
lên nỗi khổ của người khác mà còn đóng góp vào lợi ích của toàn tập thể, vào sự phát
triển của đất nước thì đó là mưu cầu hạnh phúc cá nhân đó hoàn toàn chính đáng và
nên được khuyến khích.
1.3.3. Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời:
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là đạo đức dấn thân, đạo đức trong hành
động vì độc lập tự do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Chỉ có trong hành động,
đạo đức cách mạng mới bộc lộ rõ những giá trị của nó. Bên cạnh đó, đạo đức không
phải là cái gì đó có tính “nhất thành bất biến”, mà nó được hình thành, phát triển do
môi trường giáo dục, do sự rèn luyện, phấn đấu và tu dưỡng bản thân của mỗi người.
Đạo đức cách mạng với mục đích là giải phóng và đem lại hạnh phúc, tự do cho con
người, đó là đạo đức của những con người được giải phóng. Vì vậy, tu dưỡng đạo đức
một cách tự giác, tự nguyện và phải gắn liền với hoạt động thực tiễn và đó là trách
nhiệm của mỗi người. Từ thực tiễn, Người tổng kết sâu sắc: “Đạo đức cách mạng
không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát
triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Do
vậy, Hồ Chí Minh đòi hỏi mọi người phải thường xuyên được giáo dục và tự giáo dục
về mặt đạo đức và luôn kiên trì, nhẫn nại rèn luyện phẩm chất quý báu ấy.

2. LIÊN HỆ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ VÀ SỨC MẠNH CỦA ĐẠO ĐỨC:
2.1. Chủ tịch Hồ Chí Minh – Tấm gương đạo đức sáng ngời:

Là tấm gương sáng về “hành động lớn hơn lời nói”, Chủ tịch Hồ Chí Minh được
coi là vị lãnh tụ kiệt xuất, trọn đời cống hiến vì nhân dân, vì độc lập, tự do, hạnh phúc
của dân tộc và nhân loại. Trong suốt cuộc đời của mình, Người đã toàn tâm toàn ý vì
nước, đã hi sinh tất cả kể cả cuộc sống riêng tư cho sự nghiệp độc lập, tự do, hạnh phúc

14
của tổ quốc, dân tộc và nhân dân. Để đạt được như vậy, bản thân Người – là vị lãnh tụ
của nhân dân, là một tấm gương sáng, là một điển hình mẫu mực của đạo đức.
Điều đó nói lên rằng, hình ảnh của Người sẽ mãi mãi sống trong lòng những
công dân bị áp bức trên thế giới. Người đã sống một cuộc đời quên mình và không
ngừng đấu tranh chống lại chủ nghĩa cá nhân, kẻ thù nguy hiểm nhất của bất kỳ cuộc
cách mạng và Đảng chính trị nào. Thực tế ở nhiều nước, kẻ thù này đã gây mất lòng tin
trong nhân dân và dẫn đến sự thất bại của cách mạng. Ví dụ, sự sụp đổ của chủ nghĩa
cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu cách đây 25 năm là một dấu hiệu cảnh báo và vẫn là
bài học cay đắng cho đến tận ngày nay. Sự kiện này đã cho thấy rõ tầm quan trọng
hàng đầu của các chuẩn mực đạo đức cách mạng của một Đảng, đặc biệt là một Đảng
cầm quyền và các thành viên của Đảng đó. Trong vấn đề cốt yếu này, Hồ Chí Minh đã
có một nhận thức sâu sắc và tầm nhìn sâu rộng.
Trong suốt 30 năm tìm đường phát triển của dân tộc Việt Nam , sau khi đọc tác
phẩm “Quyền dân tộc tự quyết” của V.I.Lênin, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy rằng chủ
nghĩa Mác - Lênin là hệ tư tưởng đúng đắn để giải phóng dân tộc. Từ một người yêu
nước khắc kỷ, Người đã hóa thân thành người cộng sản, thấu triệt ý nghĩa chân chính
của chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, cống hiến trọn
đời mình cho sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chính nghĩa
cao cả đó đã thúc đẩy Người dấn thân xả thân cho cách mạng, đem lại Độc lập - Tự do
- Hạnh phúc cho nhân dân, đưa dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức trong chiến đấu và cống hiến, cả
cuộc đời của mình để gần gũi với nhân dân, hành động vì nhân dân, thông cảm cho
nhân dân hơn. Trong một cuộc phỏng vấn với một nhà báo Cuba, ông nói: “Tôi sẵn
sàng cống hiến cuộc đời mình cho đất nước” và “Mỗi cá nhân đều có nỗi đau riêng,
mỗi gia đình có cuộc đấu tranh riêng. Tôi xem những đau buồn và vất vả đó là của
riêng mình”. Những lời nói như vậy của người thực sự cảm động và chạm đến trái tim
của nhiều người.
Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, cán bộ phục vụ hỗ trợ cho nhân dân chứ không phải
làm ông chủ. Trong suy nghĩ của Người, bản thân là phục vụ cho dân chứ không phải

15
là “vua”, phải luôn tôn trọng dân, “Gần dân, hiểu dân, càng thương dân hơn”. Để bày
tỏ lòng biết ơn đối với sự ủng hộ của nhân dân, ông nói: “Tôi đã, đang và sẽ luôn là
người của nhân dân”. Đây là một ví dụ kinh điển về một nhà lãnh đạo đáng kính và
trung thành của nhân dân.
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ tỏa sáng trong đấu tranh chống thù
trong, giặc ngoài mà còn ở việc rèn luyện đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư trong việc phục vụ đất nước và nhân dân. Trên cương vị là Chủ tịch nước, người
lãnh đạo của Đảng, Người là tấm gương sáng về cần, kiệm, liêm, chính, không màng
vụ lợi, coi mình chỉ là một người lính hết mình làm tròn bổn phận của mình đối với Tổ
quốc và đồng bào. đồng hương. Trong cuộc họp đầu tiên của Chính phủ Việt Nam mới
thành lập (3-9-1945), Người đã đề ra 6 nhiệm vụ trước mắt phải thực hiện để ổn định
đời sống nhân dân. Quan trọng nhất, ông yêu cầu các quan chức chính phủ nhanh
chóng quyên góp lương thực cho những người sắp chết đói, ông nói: “Cứ 10 ngày nhịn
ăn một lần không có hại gì, nhưng người dân chúng tôi sẽ có thêm thức ăn, mỗi bữa
chúng tôi có thể tiết kiệm được một lon gạo, sau đó quyên góp cho người nghèo, và tôi
sẽ làm điều đó trước”. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất tận tâm với phong trào này đến nỗi
nếu phải tổ chức tiệc chiêu đãi vào ngày ăn chay theo lịch trình, Người sẽ nhịn ăn vào
ngày hôm sau. Hành động lớn hơn lời nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn làm theo lời
Người nói, trong cả những hoạt động nhỏ đến công việc quan trọng. Tấm gương mà
Người thể hiện còn to lớn hơn nhiều so với hàng ngàn bài phát biểu. Vì vậy, nhà nước
của Hồ Chí Minh thực sự là một nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã làm nao nức lòng hàng triệu người dân Việt
Nam, được các nước quốc tế ngưỡng mộ. Trong ngày đầu tiên nhậm chức, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã gửi thư ngỏ tới nhân dân, đồng thời hoan nghênh đại diện các dân tộc,
tầng lớp đến thảo luận những vấn đề quan trọng. Tôn trọng dân chủ, sẵn sàng lắng
nghe nhân dân là chuẩn mực đạo đức trong phong cách chính trị gia Hồ Chí Minh.
Chúng ta hiếm thấy một vị lãnh tụ nào có phong cách sống khiêm tốn như Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Người sống giản dị vì dân, vì ông hiểu rằng mọi chi tiêu của chính
quyền đều từ sự lao động cần cù của người dân. Người đã tố cáo và nghiêm trị hành vi
tham nhũng, nói rằng đó là hành vi gian dối, đáng khinh bỉ và phải bị trừng trị như một

16
tội nặng. Hồ Chí Minh luôn nêu gương, chú trọng nâng cao đạo đức đảng viên, cán bộ,
thực hiện kỷ luật, kỷ cương hành chính. Ngoài ra, Người đã thành lập các cơ quan
thanh tra để giám sát hoạt động của chính phủ và hành vi của các quan chức từ rất sớm.
Các cách tiếp cận này được thực hiện vì mục tiêu “phục vụ nhân dân” và “bảo vệ nhân
dân”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người có nhân cách cao cả như vậy, nhưng Người
luôn tự cho mình là chưa làm đủ, từ chối bất kỳ huân chương nào được trao cho. Đã
hơn 50 năm kể từ ngày Bác mất, nhưng chúng ta chưa bao giờ cảm thấy vắng bóng
Người, như thể Người vẫn luôn ở đó, căn dặn chúng ta phải gần dân, sống có phẩm giá
và luôn là người phục vụ trung thành của nhân dân. Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
sẽ mãi mãi tỏa sáng trong cuộc sống của chúng ta, ở nước ta và trên toàn thế giới.
Nhà tư tưởng Hồ Chí Minh còn là nhà đạo đức Hồ Chí Minh, một anh hùng dân
tộc, một chiến sĩ kiên trung trong cuộc chiến đấu vì phẩm giá và tự do của con người.
Ngoài ra, còn là một người quan trọng của các dân tộc bị áp bức và một nghệ sĩ kiệt
xuất. Đường lối sống và làm việc của Hồ Chí Minh là chuẩn mực mà toàn Đảng, toàn
quân ta và toàn dân ta đang ra sức học tập và noi theo.
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sáng ngời là tài sản tinh thần vô giá của dân
tộc, của Đảng ta, là niềm tự hào của mỗi thế hệ Việt Nam, đó cũng là động lực để
chúng ta thực hiện công cuộc đổi mới, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Tấm
gương ấy đã trở thành chuẩn mực, kim chỉ nam cho chúng ta trong việc giáo dục và rèn
luyện các giá trị đạo đức cho con người Việt Nam hiện nay và mai sau.
Lịch sử luôn công bằng và không thiên vị. Cá nhân nào có lòng tự trọng, biết tôn
trọng phẩm giá con người sẽ thể hiện được sự đánh giá thật tâm nhất của bản thân về
đạo đức Chủ tịch Hồ Chí Minh. Và đây là một sự thật then chốt, nó sẽ vạch trần và xóa
tan mọi luận điệu sai trái về đất nước ta, Đảng và Bác Hồ kính yêu của chúng ta.

2.2. Liên hệ thực tiễn trong xã hội hiện nay:


2.2.1 Những tấm gương trong xã hội hiện nay:
Trong xã hội hiện tại, giá trị của đạo đức được lựa chọn và đánh giá dựa trên
những việc làm có ý nghĩa tích cực đối với cộng đồng và xã hội, được số đông đồng

17
tình và dư luận biểu dương. Có thể nói, câu chuyện về đạo đức cách mạng của Bác hồ
vào thời điểm hiện nay, khi đất nước ta đang đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường,
tiếp tục đổi mới sáng tạo và hội nhập kinh tế là một câu chuyện thời sừ vô cùng cho
từng người dân, từng cán bộ cách Mạng. Sinh thời Bác đã dặn “một tấm gương sống
còn quý hơn hàng trăm bài diễn văn” bởi cán bộ lãnh đạo chung sống hằng ngày với
dân, vì vậy dân đo phẩm chất đạo đức, năng lực của người cán bộ là ở chỗ: có trung
thực và gắn bó với dân hay không, qua việc làm chứ không bao giờ qua lời nói. Hay
nói cách khác “ Đảng viên đi trước, làng nước đi sau”.
Như vậy, có thể nói lợi ích xã hội là một trong những tiêu chuẩn khách quan để
đánh giá các giá trị đạo đức. Song, ở mỗi giai đoạn khác nhau, các giá trị đạo đức cũng
sẽ vẫn hành theo những cách khác nhau, tức có nghĩa là chúng luôn vận hành theo xu
hướng đổi mới để trở nên tiến bộ hơn do đó những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức,
hành vi luôn được điều chỉnh để phù hợp với yêu cầu tương ứng với từng giai đoạn tiến
bộ xã hội nhất định. Xuất phát từ những quan niệm trên, ta hiểu, giá trị đạo đức được
hình thành ở mỗi cá nhân luôn phụ thuộc vào việc các cá nhân ấy được giáo dục và tiếp
nhận những tư tưởng và các chuẩn mực đạo đức đúng đắn của xã hội.
Nhìn lại vài nhiệm kì gần đây của Đảng, đã có không ít cán bộ thiếu sự tu dưỡng,
rèn luyện đạo đức, sa vào chủ nghĩa cá nhân. Có thể đề cập những cựu cán bộ tiêu biểu
gần đây như: Nguyễn Bắc Son - cựu Bộ trưởng Bộ thông tin và Truyền thông, Nguyễn
Đức Chung- cựu Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội, hay Đinh La Thăng – cựu Bí thư
Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh,… những cán bộ bị tha hóa như nói trên đã đi
ngược lại với tiêu chí: Đảng ta là Đảng cầm quyền, là Đảng phụng sự nhân dân, vì lợi
ích nhân dân. Như ở trên đã nói, người dân nhìn vào cán bộ làm gì, có trung thực và
gắn bó với dân hay không, vì vậy những cá nhân thiểu số trên đã làm xấu đi hình ảnh
của người cán bộ Đảng viên nói chung.
Tuy nhiên trong bối cảnh đất nước đang đối mặt với nhiều đợt đại dịch liên tiếp,
vẫn còn đâu đó một vài bộ phận nhỏ cán bộ nhân viên làm trong lĩnh vực y dược, mang
trên mình trọng trách cao quý đầy lớn lao, nhưng lại bỏ quên điều quan trọng nhất của
người làm ngành y, đó là luôn lấy đạo đức làm gốc rễ, trái lại với lời Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã dạy “Lương y như từ mẫu”, người làm ngành y phải luôn tận tâm, hết lòng vì

18
bệnh nhân, vừa là thầy thuốc, vừa là mẹ hiền- y sĩ không chỉ là người cứu chữa cho
người bệnh về thể xác mà còn là người khích lệ và cảm thông với bệnh nhân về mặt
tinh thần. Chính vì những cá nhân đó mà hình ảnh cao đẹp của những người thầy
thuốc, lương y đã dần mai một đi trong mắt của người dân đất Việt, khiến cho người
dân ngày càng mất niềm tin vào nền y tế nước nhà. Cụ thể, chính là việc đấu thầu trang
thiết bị y tế của bệnh viện Bạch Mai tại Hà Nội, mà cá nhân được nhắc tới ở đây chính
là ông Nguyễn Quang Tuấn - Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai (nguyên Giám đốc Bệnh
viện Tim Hà Nội).
Mục đích của hoạt động đấu thầu là để lựa chọn nhà thầu tốt nhất, lựa chọn được
loại hàng hóa, sản phẩm dịch vụ tốt nhất, đồng thời tiết kiệm chi phí tối đa cho Nhà
nước - Nhà nước bỏ ra một khoản chi phí thấp nhất có thể nhưng lại có được sản phẩm
hàng hóa dịch vụ tốt nhất có thể. Nếu không tuân thủ các quy định về đấu thầu thì có
thể Nhà nước sẽ phải chi phí ra một khoản tiền rất lớn nhưng lại mua về các sản phẩm
hàng hóa, dịch vụ kém chất lượng, gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, tài sản của
nhân dân.
Căn cứ kết quả điều tra mở rộng vụ án, ngày 19/10/2021, Cơ quan Cảnh sát điều
tra Bộ Công an đã ban hành quyết định khởi tố bị can, Lệnh khám xét và Lệnh cấm đi
khỏi nơi cư trú về tội “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” theo
Điều 222 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, đối với Giám đốc
Bệnh viện Bạch Mai - ông Nguyễn Quang Tuấn. Theo như kết quả điều tra, một số
lãnh đạo, cán bộ tại Bệnh viện Tim Hà Nội là ủy viên Hội đồng mua sắm, thành viên
Tổ chuyên gia đấu thầu, thành viên Tổ thẩm định đấu thầu và một số cán bộ Công ty cổ
phần Đầu tư và Định giá AIC - Việt Nam đã có các hành vi vi phạm hoạt động đấu
thầu trong việc mua sắm vật tư, hóa chất, thiết bị y tế tại Bệnh viện Tim Hà Nội. Trong
đó, ông Nguyễn Quang Tuấn đã ký một số văn bản có liên quan. Theo Bộ Công an, sai
phạm của ông và các bị can đã làm tăng chi phí, gây thiệt hại hơn 40 tỷ đồng cho tài
sản Nhà nước và người bệnh, ảnh hưởng đến hoạt động đúng đắn của công tác khám
chữa bệnh, gây bức xúc trong dư luận nhân dân.
Đảng ta đã nhìn thẳng, nhìn rõ, tình trạng suy thoái của những cán bộ suy thoái
đạo đức và đã có những biện pháp thiết thực, cụ thể để khắc phục tình trạng trên. Nghị

19
quyết Trung ương 4 khóa XI của Đảng nói rất rõ về những vấn đề cấp bách trong xây
dựng Đảng, chỉ rõ những hiện tượng suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống ở một bộ
phận không nhỏ của cán bộ Đảng viên. Đến nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, Đảng
không chỉ nhấn mạnh vấn đề chủ động phòng ngừa, khắc phục những biểu hiện suy
thoái đó. Mà lần đầu tiên, Nghị quyết Đảng đã vạch ra 27 biểu hiện chia làm 3 nhóm: 9
biểu hiện suy thoái về tương tưởng chính trị, 9 biểu hiện suy thoái về đạo đức lối sống
và 9 biểu hiện thể hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa rất nguy hiểm trong nội bộ mà sâu
xa đều bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân. Với dũng khí cách mạng lần này, Đảng đã nhấn
mạnh: Đảng sẽ quyết tâm chỉnh đốn đạn, xây dựng gắn liền với chỉnh đốn làm cho
Đảng thật trong sạch, vững mạnh, để xứng đáng niềm tin cậy của Dân.
Mặc dù có những hành vi đã đi ngược lại với tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, có
những một số bộ phận người dân noi theo tấm gương tiêu biểu trong học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đáng nhắc đến, chính là các chiến sĩ
bộ đội, từ khắp các tỉnh trên toàn Việt Nam, các chiến sĩ được điều động đến tham gia,
hỗ trợ trong công tác phòng chống dịch ở từng địa phương nhất định. Thường ngày,
ngoài công việc đứng trực tại các chốt kiểm soát, các chiến sĩ bộ đội cũng tham gia vào
việc đi chợ giúp dân hay bốc xếp nhu yếu phẩm, rau củ, và mang các túi an sinh đến
tận nhà người dân. Hay hình ảnh những “chiến binh áo trắng”, các bác sĩ, y tế trên
khắp cả nước đi theo lương tâm, đạo đức nghề y đã quên thân mình để chống dịch,
thậm chí còn đi tiếp viện cho những nơi xa xứ cốt chỉ để chữa khỏi cho người bệnh,
chung tay góp sức đẩy lùi dịch bệnh. Đã có rất nhiều cán bộ bộ đội, y tá, bác sĩ nhiều
tháng trời chưa được về nhà nhưng vẫn luôn hết mình vì nước, vì dân, phụng sự tổ
quốc. Họ chính là những tấm gương thiết thực nhất về người cán bộ đi theo đúng mục
đích đạo đức mà Đảng đã đề ra, khiến cho tình đoàn kết giữa dân – Đảng ngày càng
khăng khít hơn.
Một tấm gương tiêu biểu khác không thể không nhắc đến chính là anh Hoàng
Tuấn Anh - Giám đốc công ty PHGLock. Người đã chế tạo ra chuỗi ATM khẩu trang,
ATM gạo và ATM oxy, giúp đỡ cho biết bao nhiêu người dân khó khăn, bệnh nhân
đang phải điều trị tại nhà và bệnh viện đang trong tình trạng thiếu thốn nguồn cung
trầm trọng. Vì đã từng trải qua những tháng ngày khó khăn, nên khi tận mắt chứng kiến

20
sự cơ cực của những người lao động, những mảnh đời đang phải vật lộn, kiếm từng
miếng ăn trong thời buổi dịch bệnh, anh rất đồng cảm và quyết tâm góp một phần bé
nhỏ vào công cuộc chung của toàn xã hội.

Như vậy, con người sống trên đời phải cần có đạo đức, để góp phần tạo ra giá trị,
lợi ích cho xã hội. Có thể nói, đạo đức nghề nghiệp của một cá nhân được đánh giá dựa
trên phẩm chất của họ trong quá trình làm việc, công tác. Tùy theo từng ngành nghề và
lĩnh vực kinh doanh cụ thể mà thước đo hành vi, và phẩm chất đạo đức cũng sẽ khác
nhau. Tuy nhiên, việc rèn luyện, trau dồi đạo đức để có thể trở nên thích nghi với môi
trường làm việc và đời sống xã hội là điều hoàn toàn cần thiết nhưng không phải ai
cũng có thể hiểu và vận dụng được.

2.2.2 Giải pháp cho tình trạng xuống cấp đạo đức.
Trong các văn kiện, văn bản của Đảng đã đề ra rất nhiều giải pháp. Tuy nhiên có
năm giải pháp chính rất thiết thực và gần gũi với tình hình xã hội hiện nay, đó là

Thứ nhất: Muốn góp phần cho cái tốt tăng, xấu giảm thì đầu tiên phải làm cho
toàn xã hội và từng người dân hiểu rõ cái gì là tốt cái gì là xấu. Có những thứ chúng ta
tưởng như là dễ, biết rõ là xấu nhưng vẫn sa vào phạm phải. Ví dụ như thiên vị, không
tuân thủ “ cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” là một hành vi không tốt tuy nhiên
trong thực tế xã hội, có rất nhiều người vì nể nang nhau, e ngại mà đã phớt lờ, đã “ chín
bỏ làm mười”.

Thứ hai: Kết hợp giáo dục, tuyên truyền, vận động các phong trào với việc pháp
luật hóa và xử lí. Việc xử lí nghiêm minh bằng pháp luật là một biểu hiện tiến bộ của
đạo đức, tuy nhiên suy cho cùng giải pháp này cũng là một giải pháp tình thế, răn đe
nhất thời, là một bề nổi. Sâu xa hơn, ta cần phải tuyên truyền, giáo dục toàn dân phải
biết tự điều chỉnh hành vi của mình mới là nền tảng, gốc rễ của cải thiện đạo đức.

Thứ ba: Phải nêu gương từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài – người lớn tuổi
nêu gương cho người trẻ, người có chức vị cao hơn phải nêu gương cho người có chức
vị thấp hơn.

21
Thứ tư: cần phải đặc biệt lưu ý yếu tố “Mĩ” trong bốn chữ “ Đức – Trí – Thể -
Mĩ” bên cạnh chữ “đức”. Đặc biệt lưu ý tới các ngành nghệ thuật, tôn giáo tín ngưỡng,
bởi những tác phẩm nghệ thuật hay, những hoạt động tôn giáo tín ngưỡng đúng mức
đúng pháp luật sẽ là một phương tiện thúc đẩy mọi người phát triển đạo đức một cách
toàn diện nhất, hiệu quả nhất.

Cuối cùng là chú trọng vấn đề xã hội, đạo đức nói chung song song với phát triển
kinh tế. Đây là một điểm yếu rất dễ phạm phải của các nước đang phát triển khi bị sức
ép về tăng trưởng về kinh tế, khi chưa tạo ra dòng tiền trong ngắn hạn nên dễ coi nhẹ
phạm trù đạo đức.

PHẦN KẾT LUẬN

Ý thức dân tộc luôn tiềm ẩn trong tinh thần của mỗi người con Việt Nam dù ở
phương xa hay gần. Ông cha ta có câu “ Dù ai đi ngược về xuôi, nhớ ngày giỗ tổ mùng
mười tháng 3”, được truyền tiềm thức về dân tộc qua bao thế hệ sau này. Không ngoại
lệ với thời kì cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, sự phát triển về truyền thống dân tộc
được người phát triển đến sức mạnh đỉnh cao, thực hiện phương pháp đoàn kết toàn
dân một cách sáng tạo và hiệu quả. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người làm cách
mạng, các cán bộ nhân viên luôn phải ghi nhớ câu nói: “Hết lòng, hết dạ phục vụ cách
mạng, phục vụ nhân dân”; “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Ngoài ra, phương
hướng phát triển xã hội của Đảng truyền đạt mối quan hệ quan trọng của của cá nhân
và đất nước, tạo nên giá trị “Trung với nước, hiếu với dân”
Việt Nam đã bước qua thời kì cách mạng chuyển sang giai đoạn hòa bình, nhưng
tư tưởng Hồ Chí Minh về trồng người vẫn tồn tại vĩnh cữu trong quá trình phát triển
đất nước. Qua đó, mang đến trách nhiệm cho Đảng lãnh đạo phải đảm bảo nâng cao
nhận thức toàn dân, phát huy sức mạnh đạo đức, xây dựng nền hòa bình vững trải và
độc lập tự do. Xóa bỏ đi định kiến, dung hòa 54 dân tộc anh em Việt Nam bằng sức
mạnh đoàn kết để phát triển đất nước toàn diện, dung hòa văn hóa, kinh tế bằng giá trị
đạo đức. Kết hợp tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho hành động của Đảng,
nâng cao nhận thức cán bộ, tạo ra động lực cho xã hội để ảnh hưởng giá trị đạo đức
vào mỗi cá nhân Việt Nam.

22
Qua học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, các nhân có thể hiệu được và vận dụng các
giá trị đạo đức, trồng người, sự trong sáng và hiệu quả từ kho tàng giá trị người mang
lại. Kết hợp giữa học tập với làm theo tư tưởng, đạo đức, với mỗi học sinh hiện nay
đều không quên được giá trị vĩnh cửu về trồng người do bác Hồ dạy qua các tác phẩm,
đặc biết là “5 điều bác hồ dạy” được thấm nhuần vào tư tưởng của đào tạo con người.
Từ đó hoàn thiện nên nền tảng về giá trị đạo đức, ý thức được giá trị cuộc sống, “đối
nhân xử thế” để sánh vai với thế giới, cường quốc 5 châu như nguyện vọng của Hồ
Chí Minh.
Bên cạnh đó, nâng cao công tác tuyên truyền về đạo đức con người thông qua
cán bộ, đảng viên hay những cá thể nhỏ nhất trong xã hội cũng phải thấm nhuần giá trị
đạo đức, yêu thương con người, cần kiệm liêm chính. Đối với xã hội hiện đại ngày nay
không chỉ yêu thương, tự tôn đối với mỗi dân tộc Việt Nam, mà còn phải đáp ứng giá
trị đạo đức trong sáng với quốc tế. Theo Bác có câu “Bốn phương vô sản là nhà”, dùng
giá trị đạo đức tồn tại trong xã hội làm động lực tao nên sự đoàn kết với quốc tế để
phát triển xã hội theo mong muốn của người.

23
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. https://24h68.com/quan-diem-ho-chi-minh-ve-nhung-nguyen-tac-xay-dung-dao-
duc-cach-mang/
2. https://dethiluat.com/quan-diem-cua-hcm-ve-nhung-nguyen-tac-xay-dung-dao-
duc-mohttps://24h68.com/quan-diem-ho-chi-minh-ve-nhung-nguyen-tac-xay-
dung-dao-duc-cach-mang/i/
3. http://tapchiqptd.vn/en/events-and-comments/ho-chi-minh-%E2%80%93-a-
shining-moral-example/11415.html
4. https://diendandoanhnghiep.vn/tu-vu-an-xay-ra-tai-benh-vien-tim-ha-noi-lo-
hong-trong-dau-thau-209417.html
5. https://baodauthau.vn/khoi-to-giam-doc-benh-vien-bach-mai-nguyen-quang-
tuan-do-vi-pham-quy-dinh-ve-dau-thau-tai-benh-vien-tim-ha-noi-
post115037.html
6. https://vietnamnet.vn/vn/phap-luat/ho-so-vu-an/ong-nguyen-quang-tuan-giam-
doc-benh-vien-bach-mai-bi-khoi-to-726486.html
7. https://thanhnien.vn/bo-doi-giup-nguoi-dan-chong-dich-tai-tphcm-ba-con-cuoi-
tui-em-vui-khong-ta-duoc-post1107576.html
8. https://soha.vn/nguoi-dung-sau-atm-gao-atm-khau-trang-va-atm-oxy-toi-cau-
mong-minh-khong-phai-lam-atm-nao-nua-
20210805210509755rf20210805210509755.htm
9. https://tuyenquang.gov.vn/noidung/tintuc/Pages/chi-tiet-tin-
tuc.aspx?ItemID=9760&l=TinTuc
10. https://123docz.net/document/3441893-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-dao-duc-va-
vai-tro-cua-dao-duc-trong-xa-hoi-hien-nay.htm
11. https://www.quanlynhanuoc.vn/2020/07/09/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-dao-duc-
cach-mang/
12. http://www.xaydungdang.org.vn/Home/PrintStory.aspx?distribution=6930&prin
t=true

24
13. https://tuoitre.vn/vu-nang-khong-gia-may-xet-nghiem-covid-19-khoi-to-them-2-
truong-phong-cdc-ha-noi-20200707171843753.htm
14. https://tuoitre.vn/pho-thu-tuong-vu-duc-dam-noi-gi-ve-chuyen-dao-duc-xuong-
cap-20201109144808971.htm

25
Phụ lục 1: Biên bản họp Tổ.

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

BIÊN BẢN HỌP TỔ

(V/v Phân công công việc / Đánh giá hoàn thành)

1. Thời gian, địa điểm, thành phần tham dự:

1.1. Thời gian: 24/10/2021 và 31/10/2021

1.2. Địa điểm: google meet

1.3. Thành phần tham dự:

+ Chủ trì: Võ Duy Thắng

+ Tham dự: Trần Phương Uyên; Lê Thị Vân Trúc, Nguyễn Phạm Băng Băng,
Trương Trần Triệu Đăng

+ Vắng: Lý Khởi Kha ngày 31/10/2021

2. Nội dung cuộc họp:

+ Cuộc họp 1: phân chia công việc cho các thành viên

+ Cuộc họp 2: tổng kết, đánh giá % hoàn thành công việc của từng thành viên

2.1. Tổ trưởng đánh giá mức độ hoàn thành công việc cho các thành viên như
sau:

%
đánh
Ghi
STT MSSV Họ tên Nhiệm vụ giá
chú
hoàn
thành

26
Trần Phương Viết phần 2.1. Ví dụ về tấm gương
157 719V0135 90%
Uyên của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Viết phần 2.2.1 Liên hệ tình hình


Lê Thị Vân
158 710V0145 thực tiễn hiện nay và liên hệ vào 90%
Trúc
nội dung bài học.

Viết phần 1.3. Quan điểm về


Nguyễn Phạm
159 719V0147 những nguyên tắc xây dựng đạo 90%
Băng Băng
đức mới.

Chỉnh sửa chính tả. - Trễ


deadline
Format lại cho đúng với nội dung
- Không
160 719V0153 Lý Khởi Kha yêu cầu của bộ môn. 80%
tham
Viết phần 1.1. Quan điểm về vai gia buổi
trò và sức mạnh của đạo đức họp

Trương Trần
161 719V0175 Viết phần mở đầu, kết luận. 85%
Thiệu Đăng

Phân chia công việc cho các thành


viên.

Giám sát, điều chỉnh chung bài


luận.
162 B20K0134 Võ Duy Thắng Viết phần 1.2. Quan điểm về 100%
những chuẩn mực đạo đức cách
mạng.

Viết phần 2.2.2 Giải pháp cho tình


trạng xuống cấp đạo đức

27
2.2. Ý kiến của các thành viên:

- Trúc, Băng, Đăng: Nên thêm vào lí do Kha bị trừ phần trăm vào mục ghi chú

2.3. Kết luận cuộc họp:

- Mọi người đồng ý với công việc đã được giao

- Mọi người đồng ý với % hoàn thành công việc mà nhóm trưởng nhận xét

- Mọi người đồng ý với cấu trúc bài luận mà cả nhóm đã làm.

(Đây là căn cứ đánh giá mức độ hoàn thành công việc của từng thành viên)

Cuộc họp đi đến thống nhất và kết thúc lúc 9 giờ 20 phút ngày 31 tháng 10 năm 2021.

Thư ký Chủ trì


(Ký và ghi rõ họ tên) (Ký và ghi rõ họ tên)

Phụ lục 2: Tiêu chí đánh giá Báo cáo cuối kỳ:
HÌNH PHẦN MỞ PHẦN KẾT
PHẦN NỘI DUNG
THỨC ĐẦU (1 LUẬN (1
(6.0 ĐIỂM)
(2 ĐIỂM) ĐIỂM) ĐIỂM)
0.0 – 2.0 0.0 – 1.0
0.0 – 1.0 điểm 1.0 – 3.0 điểm 3.0 – 6.0 điểm 0.0 – 1.0 điểm
điểm điểm
Bố cục; Xác định Cấu trúc của Cấu trúc của Cấu trúc của Tóm tắt nội
Trình bày; đúng tính nội dung chưa nội dung phù nội dung phù dung đề tài;
Văn phong cấp thiết của phù hợp; Nội hợp; Nội dung hợp; Nộp dung Khẳng định ý

28
vấn đề dung trong các trong các mục trong các mục nghĩa thực hiện
nghiên cứu mục lan man, đầy đủ trọng đầy đủ trọng đề tài.
(Lý do lựa chưa làm nổi tâm, có tính tâm, có tính
chọn đề tài); bật trọng tâm, thuyết phục, thuyết phục,
Mục đích và không đáp ứng đáp ứng được đáp ứng các
đối tượng được mục tiêu các mục tiêu mục tiêu
nghiên cứu nghiên cứu của nghiên cứu của nghiên cứu của
của đề tài; đề tài; Không đề tài; Có sự đề tài; Có sự
Phạm vi có sự vận vận dụng liên vận dụng, liên
nghiên cứu; dụng, liên hệ hệ thực tiễn hệ thực tiễn và
Phương thực tiễn; Sao nhưng tính khả tính khả thi
pháp nghiên chép bài của thi chưa cao; cao; Các trích
cứu. người khác Các trích dẫn dẫn có ghi
hoặc trên có ghi nguồn nguồn rõ ràng;
mạng. nhưng chưa rõ Không chép
ràng; Không bải của người
chép bài của khác hoặc trên
người khác mạng.
hoặc trên
mạng.

29

You might also like