You are on page 1of 26

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG

NGUYỄN THANH TRUYỀN

BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI


TRONG TỐ TỤNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH

CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH DOANH

Mã ngành: 60340102

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS-TS. NGUYỄN TIẾN HOÀNG

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2021


2

NỘI DUNG ĐỀ CƯƠNG


1. Tính cấp thiết của đề tài
Xã hội càng phát triển, tranh chấp ngày càng gia tăng và phức tạp, nhất là
tranh chấp trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh, thương mại. Pháp luật cần phải có
những cơ chế giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại (TCKDTM) linh hoạt
để tiết kiệm thời gian, chi phí và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho các bên.
Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết tranh chấp không ít trường hợp tài sản
liên quan đến vụ việc có nguy cơ bị tiêu hủy hay dịch chuyển hoặc chứng từ, giấy tờ
liên quan đến vụ việc nằm trong tay người thứ ba nhưng họ lại không thiện chí hợp
tác với trọng tài. Để đảm bảo lợi ích cho các bên, pháp luật đã trao cho trọng tài
thẩm quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời (BPKCTT).
Theo quy định tại Điều 48 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 (Luật
TTTM) thì các bên trong quan hệ pháp luật đang có tranh chấp có quyền yêu cầu
Hội đồng trọng tài (HĐTT) hoặc Tòa án áp dụng BPKCTT. Việc yêu cầu Tòa án áp
dụng BPKCTT không bị coi là sự bác bỏ thỏa thuận trọng tài hoặc khước từ quyền
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Khi nguyên đơn khởi kiện ra trọng tài, trọng tài ở đây được hiểu là HĐTT
chứ không phải trung tâm trọng tài, vì chỉ có HĐTT mới có quyền áp dụng các
BPKCTT. Xét về mặt thực tiễn, nếu cần áp dụng các BPKCTT, nguyên đơn có thể
gặp phải một số bất lợi về mặt thời gian nếu phải chờ bị đơn chỉ định trọng tài viên
và ban thư ký hoàn tất thủ tục thành lập HĐTT. Thời gian có thể kéo dài đủ lâu để
bị đơn (nếu muốn) có thể tẩu tán đáng kể các tài sản tranh chấp.
Thêm vào đó, các chủ thể khác có liên quan trong vụ tranh chấp thường cho
rằng chỉ tòa án mới có quyền áp dụng các BPKCTT can thiệp và hạn chế các quyền
định đoạt tài sản của họ. Họ cho rằng HĐTT dù có thẩm quyền áp dụng các
BPKCTT thì cũng chỉ mang tính chất tư và chỉ được áp dụng cho các bên đương sự
trong vụ tranh chấp, khó có lý do để áp dụng làm hạn chế quyền lợi với người thứ
ba.
Việc pháp luật cho phép các bên có quyền yêu cầu HĐTT hoặc Tòa án áp
dụng BPKCTT nhằm đảm bảo quyền lợi của mình trong vụ việc giải quyết tranh
3

chấp, khi các bên thấy cần phải bảo vệ tài sản bị tranh chấp trước nguy cơ tẩu tán tài
sản hoặc các hành vi khác nhằm giảm giá trị của tài sản tranh chấp. Sự hỗ trợ của
Tòa án đối với trọng tài thể hiện rất rõ ở việc Tòa án có thể dùng sức mạnh cưỡng
chế Nhà nước mà mình có được để áp dụng các BPKCTT, điều mà HĐTT tuy cũng
có thể thực hiện nhưng không thể thực hiện triệt để, tốt bằng Nhà nước do không
nhân danh Nhà nước và thực hiện quyền lực Nhà nước. Việc áp dụng BPKCTT của
Tòa án có giá trị pháp lý cao hơn, hiệu quả thi hành tốt hơn việc áp dụng BPKCTT
của HĐTT.
Vì những lý do như trên đã nêu, việc chọn vấn đề “Biện pháp khẩn cấp tạm
thời trong tố tụng trọng tài thương mại tại Việt Nam” nhằm tìm ra những giải
pháp hợp lý, phù hợp với tình hình của pháp luật Việt Nam, góp phần nâng cao chất
lượng BPKCTT trong tố tụng trọng tài thương mại tại Việt Nam.
2. Tổng quan các nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Thời gian qua đã có một số công trình khoa học về vấn đề này được công bố
mà tiêu biểu phải kể đến một số công trình sau đây:
- Hội Luật gia Việt Nam (Trưởng ban Phạm Quốc Anh), Giới thiệu tóm tắt
luật trọng tài của một số nước trên thế giới, ngày 20 tháng 4 năm 2009;
- TS. Trần Minh Ngọc, Giáo trình Trọng tài Quốc tế, NXB Công an Nhân
dân, 2018;
- TS. Đỗ Văn Đại và TS. Trần Hoàng Hải với tác phẩm “Pháp luật Việt Nam
về Trọng tài Thương mại”;
- Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam với “Trọng tài và các phương thức
giải quyết tranh chấp lựa chọn”;
- Bộ Tư pháp cũng có đăng một số chuyên đề “Pháp luật về Trọng tài
Thương mại” trên tạp chí Dân chủ và pháp luật năm 2010;
- Khóa luận tốt nghiệp: “Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong thực tiễn xét xử
tại Tòa án Việt Nam” của Nguyễn Thị Ánh Hồng; Người hướng dẫn: PGS.TS.
Nguyễn Thị Hoài Phương, Tp. Hồ Chí Minh, 2011;
4

- Khóa luận tốt nghiệp: “Các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong luật trọng tài
thương mại tại Việt Nam và kinh nghiệm từ nước ngoài” của Dương Thị Thu Hoài;
Người hướng dẫn: ThS. Đặng Quốc Chương, Tp. Hồ Chí Minh, 2020;
Ngoài ra, còn có:
- Một số luận văn thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh;
- Một số luận văn thạc sỹ luật học, Trường Đại học Kinh tế - Luật (Đại học
Quốc gia TP. Hồ Chí Minh);
Những công trình nghiên cứu trên là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích và quý
báu đối với tôi trong quá trình nghiên cứu về đề tài “Biện pháp khẩn cấp tạm thời
trong tố tụng trọng tài thương mại tại Việt Nam”.
- Nghị định số 63/2011/NĐ-CP ngày 28 tháng 7 năm 2011 quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật TTTM;
- Thông tư 12/2012/TT-BTP ngày 7 tháng 11 năm 2012 ban hành một số
biểu mẫu về tổ chức và hoạt động trọng tài thương mại;
- Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20 tháng 3 năm 2014 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định Luật
TTTM.
Việc ban hành các quy định trên đã đáp ứng được mục tiêu quản lý, góp phần
hoàn thiện pháp luật về trọng tài thương mại, đảm bảo hoạt động giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài được thuận lợi và ngày càng có hiệu quả hơn, nhất là Nghị
quyết 01/2014-HĐTP.
Ngoài ra, còn có: Một số ý kiến về hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện
hình thức, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số 7/2017,... Có thể nhận thấy rằng các
công trình kể trên mới chỉ nghiên cứu các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 về BPKCTT trong tố tụng trọng tài mà
chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện về pháp luật thương mại
theo quy định của pháp luật hiện hành. Do đó, việc nghiên cứu một cách toàn diện
các quy định về BPKCTT để tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định này trên thực
tế có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
3. Phạm vi giới hạn nghiên cứu của đề tài
5

3.1. Về không gian: Áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Việt Nam.
3.2. Về thời gian: Tập trung phân tích Luật Trọng tài thương mại năm 2010.
Với giới hạn của một đề tài luận văn thạc sỹ, học viên tập trung nghiên cứu
các quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Luật Trọng tài thương mại
năm 2010, Quy tắc tố tụng trọng tài và các văn bản pháp luật khác có liên quan đến
BPKCTT. Đồng thời, học viên cũng sẽ nghiên cứu so sánh, đối chiếu, đánh giá với
các quy định về BPKCTT trong Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Trên cơ sở những
nghiên cứu về lý luận, quy định của pháp luật hiện hành, học viên cũng nghiên cứu,
tìm hiểu, phân tích thực tế những việc có liên quan đến đề tài, nhằm xem xét vấn đề
áp dụng pháp luật vào thực tiễn. Qua đó, học viên sẽ chỉ ra những hạn chế trong quy
định của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm
góp phần hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề này. 
4. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Các BPKCTT trong tố tụng trọng tài thương mại Việt
Nam, bao gồm các biện pháp theo Luật TTTM 2010 và việc thực hiện chúng hiện
nay; Các quan điểm về BPKCTT để làm rõ cơ sở lý luận, đánh giá pháp luật và thực
tiễn áp dụng; các quy định của pháp luật hiện hành về thực hiện BPKCTT (Luật
Trọng tài thương mại năm 2010 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015), các văn bản
liên quan và các trường hợp thực tế điển hình để chỉ ra những vướng mắc trong các
quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng.
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành, cụ thể là tập trung vào các quy định về BPKCTT trong Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 và các văn bản hướng dẫn, đặt
trong tương quan một số quy định của Luật thương mại, Luật doanh nghiệp… và
thực tiễn áp dụng các quy định về BPKCTT.
5. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu giải quyết các vụ tranh chấp có BPKCTT trong tố tụng trọng tài,
trừ khi các bên có thỏa thuận khác.
6

Mục đích nghiên cứu đề tài là tìm ra các luận cứ khoa học và thực tiễn, từ đó
đề ra các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về BPKCTT theo quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Luật Trọng tài thương mại năm 2010 và các
luật chuyên ngành khác có liên quan.
Việc nghiên cứu đề tài là nhằm mục đích chỉ rõ những vấn đề lý luận về thực
hiện BPKCTT; thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng, từ đó đề xuất các giải
pháp hoàn thiện pháp luật về BPKCTT trong tố tụng trọng tài.
Trên cơ sở hệ thống hóa lý luận và nghiên cứu các chủ trương, chính sách
của Đảng và pháp luật của Nhà nước về cải cách tư pháp; các quan điểm nghiên cứu
luật học, các quy định của pháp luật về quyền yêu cầu áp dụng và quá trình thực
hiện các BPKCTT trong giải quyết TCKDTM để làm sáng tỏ một số vấn đề sau:
- Khái niệm, đặc điểm, phân loại BPKCTT;
- Khái niệm chung về BPKCTT trong giải quyết TCKDTM;
- Đặc điểm, mục đích, ý nghĩa của BPKCTT trong giải quyết TCKDTM;
- Đánh giá tổng quát lịch sử hình thành và phát triển các BPKCTT; phân tích
các quy định về việc áp dụng BPKCTT, những bất cập, hạn chế và đề ra các giải
pháp, phương hướng hoàn thiện việc áp dụng các BPKCTT trong giải quyết
TCKDTM trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ các vấn đề nghiên cứu, luận văn vận dụng một số phương pháp
nghiên cứu khoa học, cụ thể:
- Phương pháp tổng hợp, phân tích: Được sử dụng để tổng hợp, phân tích các
khái niệm quy định pháp luật hiện hành trong việc thực thi các quy định pháp luật
về thực hiện hợp đồng thương mại và chỉ ra những điểm bất cập trong việc thực thi
các quy định này ở Việt Nam.
- Phương pháp so sánh: Phương pháp này được sử dụng chủ yếu để so sánh,
đối chiếu những quy định của pháp luật hiện hành và các văn bản hướng dẫn thi
hành, so sánh các quy định pháp luật với thực tiễn áp dụng, từ đó chỉ ra những mâu
thuẫn và những khó khăn còn tồn tại trong thực tế.
7

- Phương pháp thống kê: nhằm chỉ ra những thực trạng còn tồn tại trong việc
thực thi các quy định pháp luật về thực hiện hợp đồng thương mại, từ đó đề ra
phương hướng và các giải pháp hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
luật về thực hiện hợp đồng thương mại.
Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng các phương pháp: Diễn dịch, quy nạp…
để nghiên cứu và làm sáng tỏ nội dung của luận văn; nhận diện những tồn tại, bất
cập của pháp luật về những BPKCTT, từ đó đề xuất giải pháp phù hợp, nhằm góp
phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng trong quá trình thực hiện
pháp luật về BPKCTT trong tố tụng trọng tài thương mại tại Việt Nam.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
7.1. Ý nghĩa khoa học
Về phương diện lý luận: Luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ những vấn đề có
liên quan đến BPKCTT trong tố tụng trọng tài thương mại tại Việt Nam.
Tính tạm thời của biện pháp này được thể hiện ở chỗ, quyết định áp dụng
BPKCTT chưa phải là quyết định cuối cùng về giải quyết vụ việc tranh chấp kinh
doanh, thương mại. Đây chỉ là biện pháp tạm thời được áp dụng trong quá trình giải
quyết vụ việc dân sự, chưa phải là quyết định về giải quyết vụ việc dân sự. Sau khi
quyết định áp dụng BPKCTT, nếu lý do của việc áp dụng không còn nữa thì HĐTT
có thể huỷ bỏ quyết định này. Tuy vậy, việc áp dụng BPKCTT có thể gây thiệt hại
đến quyền, lợi ích của người bị áp dụng và người khác. Do vậy, HĐTT phải xem
xét thận trọng trước khi quyết định áp dụng biện pháp này và phải thực hiện đúng
các quy định của pháp luật để tránh việc gây thiệt hại cho đương sự và các chủ thể
khác.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn ứng dụng
Với mục đích là để giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo toàn tình
trạng tài sản, bảo vệ bằng chứng hoặc để bảo đảm việc thi hành án nên việc áp dụng
BPKCTT mang nhiều ý nghĩa không những đối với việc giải quyết vụ việctranh
chấp kinh doanh, thương mại của HĐTT mà cả đối với việc bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của đương sự.
8

Trên thực tế, vì lợi ích của mình hoặc do thiếu thiện chí, nhiều người đã có
hành vi tẩu tán tài sản, huỷ hoại hoặc xâm phạm chứng cứ, mua chuộc người làm
chứng... Việc áp dụng BPKCTT trong những trường hợp này một mặt chống lại
được các hành vi đó, bảo vệ được chứng cứ, giữ nguyên được giá trị chứng minh
của chứng cứ, tránh cho hồ sơ vụ việc tranh chấp bị sai lệch, bảo đảm việc giải
quyết đúng vụ việc dân sự. Mặt khác, qua đó còn bảo toàn được tình trạng tài sản,
tránh việc gây thiệt hại không thể khắc phục được, giữ được tài sản bảo đảm cho
việc thi hành bản án, quyết định của HĐTT sau này.
Ngoài ra, việc áp dụng BPKCTT đáp ứng kịp thời nhu cầu cấp bách của
đương sự, tạo điều kiện cho đương sự sớm ổn định được cuộc sống của họ và những
người sống phụ thuộc vào họ. Trên cơ sở đó, bảo đảm được quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự.
Các quy định về BPKCTT là công cụ pháp lý quan trọng để các đương sự có
thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình một cách hợp pháp. Như vậy, việc
áp dụng BPKCTT trong quá trình giải quyết vụ việc kinh doanh, thương mại không
chỉ có ý nghĩa pháp lý mà còn có ý nghĩa xã hội sâu sắc.
Mặt khác, do những xung đột về lợi ích nên có những vụ việc đương sự đã
tẩu tán tài sản, hủy loại chứng cứ, gây khó khăn cho đương sự trong việc bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của họ, đồng thời tạo ra những khó khăn nhất định trong
việc giải quyết vụ việc của HĐTT. Vì thế, việc áp dụng các BPKCTT trong trường
hợp này đã góp phần ngăn chặn các hành vi sai trái, bảo vệ bằng chứng, giữ nguyên
được giá trị chứng minh của chứng cứ, giúp cho việc giải quyết vụ việc kinh doanh,
thương mại được chính xác.
8. Danh mục tài liệu tham khảo
8.1. Văn bản quy phạm pháp luật
Quốc hội (2005), Luật Thương mại năm 2005.
Quốc hội (2010), Luật Trọng tài Thương mại 2010.
Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự năm 2015.
Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
Quốc hội (2020), Luật Doanh nghiệp 2020.
9

8.2. Tài liệu chuyên môn


PGS-TS. Ngô Huy Cương (2013), Giáo trình Luật thương mại: Phần Chung
và Thương Nhân, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
Một số luận văn thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Một số luận văn thạc sỹ luật học, Trường Đại học Kinh tế - Luật (Đại học
Quốc gia TP. Hồ Chí Minh).
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số 7/2017.
8.3. Tài liệu internet
https://lawnet.thukyluat.vn/posts/t7088-so-sanh-viec-ap-dung-bien-phap-
khan-cap-tam-thoi-trong-to-tung-trong-tai-va-to-tung-toa-an
9. Tiến độ thực hiện luận văn: 6 tháng, kể từ tháng 6 đến tháng 11/2021
STT Nội dung nghiên cứu Thời gian dự kiến Kết quả nghiên cứu
dự định đạt được

1 Xây dựng và bảo vệ đề cương 1,5 tháng Đề cương hoàn


luận văn thiện, được thông
qua
2 Thu thập tài liệu 1 tháng
3 Viết 1 tháng (tháng 8) Chương 1
4 Viết 1 tháng (tháng 9) Chương 2
5 Viết 1 tháng (tháng 10) Chương 3
6 Chỉnh sửa theo góp ý của giáo 1/2 tháng Luận văn hoàn
viên hướng dẫn thành
7 Nộp luận văn, chuẩn bị bài trình 1/2 tháng
bày, đăng ký bảo vệ
Tổng thời gian 6 tháng

10. Đề xuất người hướng dẫn


Đề xuất người hướng dẫn khoa học: PGS-TS. Nguyễn Tiến Hoàng
11. Kết cấu dự kiến của luận văn
10

Ngoài phần cam đoan, mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung của Luận văn được kết cấu thành 3 chương:
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VỀ BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI TRONG TỐ TỤNG TRỌNG
TÀI THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của các BPKCTT và nguyên tắc áp dụng các
biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại tại Hội đồng trọng tài
1.1.1. Khái niệm
BPKCTT là biện pháp mà HĐTT quyết định áp dụng trước khi thụ lý hoặc
trong quá trình giải quyết vụ việc tranh chấp nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách của
đương sự, bảo vệ bằng chứng, bảo toàn tài sản tranh chấp, tránh gây thiệt hại không
thể khắc phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án.
Việc áp dụng BPKCTT có thể gây ra thiệt hại về quyền và lợi ích cho bên bị
áp dụng và người khác. Do đó, khi áp dụng BPKCTT phải rất thận trọng, phải thực
hiện đúng quy định của pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm
Việc áp dụng BPKCTT với mục đích giải quyết nhu cầu cấp bách của đương
sự, bảo toàn tình trạng tài sản, bảo vệ bằng chứng hoặc để bảo đảm việc thi hành án.
Do đó, việc áp dụng BPKCTT có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ kịp thời
các quyền và lợi ích hợp pháp và nhu cầu cấp bách của đương sự, tạo điều kiện cho
đương sự sớm ổn định được cuộc sống của bản thân cũng như của những ngưồi
sống phụ thuộc vào họ.
1.1.2.1.Tính khẩn cấp
HĐTT phải ra quyết định áp dụng ngay và quyết định này được thực hiện
ngay sau khi HĐTT ra quyết định, nếu không sẽ mất hết ý nghĩa, tác dụng.
1.1.2.2. Tính tạm thời
Quyết định áp dụng BPKCTT chưa phải là quyết định cuối cùng về giải
quyết vụ việc tranh chấp, nếu lý do của việc áp dụng không còn nữa thì HĐTT hoặc
Tòa án có thể hủy bỏ quyết định này.
11

1.1.2.3. Tính hiệu lực thi hành ngay khi được ban hành
BPKCTT là một công cụ pháp lý có sức cưỡng chế mạnh mẽ trong các vụ
tranh chấp dân sự. Nó tạo ra hậu quả pháp lý ngay lập tức đến đối tượng bị áp dụng,
bởi Quyết định áp dụng BPKCTT có hiệu lực như một bản án chung thẩm, tức có
giá trị thi hành ngay khi ban hành.
1.1.3. Ý nghĩa
Ý nghĩa của việc áp dụng BPKCTT là nhằm bảo vệ kịp thời các quyền và lợi
ích hợp pháp và nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo toàn được tài sản tranh chấp
hoặc bảo vệ được chứng cứ… HĐTT phải xem xét, quyết định áp dụng khi đương
sự có yêu cầu và xuất trình được chứng cứ chứng minh việc áp dụng biện pháp này
là có cơ sở và cần thiết.
1.1.4. Nguyên tắc áp dụng BPKCTT trong giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại
1.1.4.1. Nguyên tắc chung
HĐTT chỉ có thể áp dụng các BPKCTT khi có đủ cả bốn điều kiện sau:
- Phải có đương sự yêu cầu áp dụng một hoặc một số BPKCTT;
- Người yêu cầu phải cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh cho sự cần
thiết phải áp dụng BPKCTT thời đó;
- Người yêu cầu áp dụng BPKCTT đã thực hiện nghĩa vụ bảo đảm về tài
chính để đảm bảo việc bồi thường những thiệt hại do việc yêu cầu áp dụng
BPKCTT không đúng gây thiệt hại cho người bị áp dụng;
- Chưa có đương sự nào yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT.
1.1.4.2. Nguyên tắc riêng
Thông qua người giải quyết là trọng tài viên (HĐTT); không công khai (trừ
các bên có thỏa thuận); theo yêu cầu của bên khởi kiện; phán quyết mang tính chất
chung thẩm, có sự ràng buộc, bắt buộc các bên phải thi hành; có thỏa thuận về việc
giải quyết bằng trọng tài thương mại; tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của
trọng tài thương mại; linh hoạt, nhanh chóng.
Giải quyết trọng tài không bị giới hạn về mặt lãnh thổ do các bên có quyền
lựa chọn bất kỳ trung tâm trọng tài nào để giải quyết tranh chấp cho mình; tuân theo
12

một trình tự thủ tục nhất định, quyết định trọng tài không được công bố công khai,
rộng rãi, do đó bảo vệ được uy tín của các bên, giữ bí mật trong kinh doanh.
Phán quyết của trọng tài là chung thẩm, sau khi trọng tài đưa ra phán quyết
thì các bên không có quyền kháng cáo trước bất kỳ một tổ chức hay tòa án nào.
1.2. Quy định của pháp luật hiện hành về BPKCTT
1.2.1. Các BPKCTT theo Luật Trọng tài thương mại năm 2010
1.2.1.1. Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp
Trong quá trình giải quyết việc tranh chấp, HĐTT, có thể áp dụng biện pháp
khẩn cấp này khi hội tụ đầy đủ các điều kiện: (1) đối tượng mà đương sự yêu cầu áp
dụng BPKCTTphải là tài sản đang có tranh chấp; (2) người đang chiếm hữu hoặc
giữ tài sản hoặc người khác đang có hành vi làm thay đổi hiện trạng của tài sản như
phá hủy, tháo dỡ, lắp ghép xây dựng thêm hoặc có hành vi khác làm thay đổi hiện
trạng tài sản; (3) người yêu cầu áp dụng BPKCTT đã thực hiện nghĩa vụ bảo đảm
tài chính.
Đương sự yêu cầu áp dụng BPKCTT này phải đưa ra tài liệu, chứng cứ
chứng minh bên đang chiếm hữu, giữ tài sản đang có hành vi làm thay đổi hiện
trạng tài sản. Hội đồng trọng tài hoặc Thẩm phán phải xem xét các yêu cầu, các căn
cứ mà đương sự đã đưa ra để quyết định có áp dụng biện pháp khẩn cấp đó hay
không.
1.2.1.2. Cấm hoặc buộc bất kỳ bên tranh chấp nào thực hiện một hoặc một số hành
vi nhất định nhằm ngăn ngừa các hành vi ảnh hưởng bất lợi đến quá trình tố tụng
trọng tài
Trong quá trình trọng tài giải quyết tranh chấp, nếu thấy đương sự nào đó
đang có hành vi (hành động hoặc không hành động) mà hành vi đó sẽ có tác động
gây bất lợi cho quá trình tố tụng thì đương sự bên kia có quyền yêu cầu trọng tài
hoặc Tòa án áp dụng biện pháp cấm hoặc buộc bên tranh chấp thực hiện một hoặc
một số hành vi nhất định. Khi có đương sự yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp
này, nếu thấy yêu cầu đó là chính đáng và đương sự đã xuất trình được tài liệu,
chứng cứ chứng minh cho việc cần thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp này thì
trọng tài hoặc Tòa án phải áp dụng ngay.
13

1.2.1.3. Kê biên tài sản đang tranh chấp


Kê biên tài sản chỉ áp dụng cho trường hợp người chiếm giữ tài sản đang có
tranh chấp có hành vi tẩu tán, cất giấu tài sản đang có tranh chấp gây khó khăn
trong việc xem xét, giải quyết của HĐTT hoặc thi hành án sau này, thì theo yêu cầu
của một trong các bên đương sự HĐTT hoặc Tòa án có quyền áp dụng biện pháp
khẩn cấp này.
Tài sản kê biên có thể thu giữ bảo quản tại cơ quan thi hành án hoặc lập biên
bản giao cho một bên đương sự hoặc người thứ ba quản lý cho đến khi có quyết
định của HĐTT hoặc Tòa án. Khi lập biên bản kê biên phải ghi rõ ngày, giờ, loại tài
sản, mô tả đầy đủ, chính xác tình trạng tài sản.
1.2.1.4. Yêu cầu bảo tồn, cất trữ, bán hoặc định đoạt bất kỳ tài sản nào của một
hoặc các bên tranh chấp
Có những tài sản đang tranh chấp hoặc có liên quan đến tranh chấp, nếu
không xử lý kịp thời sẽ làm hư hỏng, mất giá trị, giảm giá trị hoặc làm biến dạng tài
sản, thì theo yêu cầu của một trong các bên tranh chấp có thể áp dụng BPKCTT
“bảo tồn, cất giữ, bán hoặc định đoạt bất kỳ tài sản nào của một hoặc các bên tranh
chấp” thì HĐTT hoặc Tòa án sẽ áp dụng biện pháp này khi các bên đương sự đã
đưa ra được tài liệu, chứng cứ chứng minh cho sự cần thiết phải áp dụng biện pháp
khẩn cấp này.
1.2.1.5. Yêu cầu tạm thời về việc trả tiền giữa các bên
Để kịp thời xử lý những nhu cầu cấp bách của đương sự, dù hai bên còn đang
có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ, về hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ…
đang phải chờ HĐTT phán xử, thì theo yêu cầu của một trong các bên tranh chấp,
HĐTT hoặc Tòa án có thể áp dụng BPKCTT về việc trả tiền giữa các bên tranh
chấp khi bên yêu cầu đã chứng minh yêu cầu áp dụng biện pháp này là chính đáng,
cần thiết.
1.2.1.6. Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp
Dù tố tụng trọng tài được diễn ra trong thời gian không dài so với tố tụng tại
Tòa án, nhưng nó vẫn cần một khoảng thời gian nhất định. Lợi dụng thời gian tố
tụng trọng tài đang diễn ra một bên tranh chấp có thể có hành vi bán, chuyển
14

nhượng, cho thuê, tặng cho… tài sản đang có tranh chấp, hành vi này đe dọa gây ra
những thiệt hại cho đương sự khác hoặc gây khó khăn trong việc giải quyết tranh
chấp, xử lý tài sản tranh chấp. Do đó, khi có yêu cầu của một trong các bên đương
sự áp dụng biện pháp khẩn cấp cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản
đang có tranh chấp thì HĐTT hoặc Tòa án phải áp dụng biện pháp này.
Các BPKCTT được quy định tại khoản 2 Điều 49 Luật TTTM, có biện pháp
chỉ là một hành vi, một đối tượng, một hoạt động chuyển dịch, một hành động…
cần ngăn chặn hoặc buộc phải thực hiện, cấm thực hiện, nhưng có BPKCTT có quy
định kép, nên chứa đựng nhiều nội dung, nhiều hành vi, hoạt động cần điều chỉnh
bằng BPKCTT.
Khi áp dụng BPKCTT không phải bê nguyên xi toàn bộ các hành vi, các hoạt
động, các nội dung trong các điểm, khoản quy định biện pháp kép đó mà chỉ nêu
những hành vi, hoạt động nào cần điều chỉnh, ngăn chặn theo yêu cầu của đương sự.
Nếu thực tế đang diễn ra hoặc sẽ diễn ra tất cả các hành vi, hoạt động… được quy
định trong BPKCTT đó và một bên yêu cầu áp dụng biện pháp ngăn chặn toàn bộ
các hành vi, hoạt động… đang hoặc sẽ diễn ra được quy định trong BPKCTT đó thì
mới ghi nguyên văn tất cả hành vi, hoạt động được quy định trong điểm, khoản quy
định về BPKCTT đó.
1.3. Nguyên nhân Hội đồng trọng tài ít áp dụng BPKCTT trong giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại
Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 49 Luật TTTM thì một trong số 6
BPKCTT mà HĐTT có quyền áp dụng là “Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang
tranh chấp”. Chúng ta biết rằng, “cấm thay đổi hiện trạng tài sản là việc cấm người
đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản có những hành vi tháo dỡ, lắp ghép, xây dựng
thêm; hoặc hành vi khác làm thay đổi hiện trạng tài sản như phá hỏng, phá hủy”.
Như vậy, rất dễ thấy biện pháp này sẽ không có khả năng thực thi trong trường hợp
tài sản tranh chấp đang thuộc quyền chiếm hữu (hoặc gửi giữ) bởi người thứ ba và
người này đang có những hành vi làm “thay đổi hiện trạng” tài sản đó.
Cũng tương tự như vậy khi ta xem xét quy định tại điểm c khoản 2 Điều 49
Luật TTTM về BPKCTT “kê biên tài sản đang tranh chấp”. Rõ ràng là biện pháp
15

này, nếu được ban hành, sẽ bị phá sản ngay lập tức nếu tài sản đang tranh chấp đang
nằm trong quyền kiểm soát của người thứ ba. Hơn nữa, việc kê biên tài sản thường
chỉ được thực hiện nhân danh pháp luật và luôn mang tính chất cưỡng chế nhà
nước.
HĐTT chỉ có thể áp dụng các BPKCTT khi có đủ cả bốn điều kiện sau:
- Phải có đương sự yêu cầu áp dụng một hoặc một số BPKCTT;
- Người yêu cầu phải cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh cho sự cần
thiết phải áp dụng BPKCTT đó;
- Người yêu cầu áp dụng BPKCTT đã thực hiện nghĩa vụ bảo đảm về tài
chính để bảo đảm việc bồi thường những thiệt hại do việc yêu cầu áp dụng
BPKCTT không đúng gây thiệt hại cho người bị áp dụng;
- Chưa có đương sự nào yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT.
Ngoài ra, khi nguyên đơn khởi kiện ra trọng tài, trọng tài ở đây được hiểu là
HĐTT chứ không phải Trung tâm trọng tài vì chỉ có HĐTT mới có quyền áp dụng
các BPKCTT. Xét về mặt thực tiễn, nếu cần áp dụng các BPKCTT, nguyên đơn có
thể gặp phải một số bất lợi về mặt thời gian nếu phải chờ bị đơn chỉ định trọng tài
viên và ban thư ký hoàn tất thủ tục thành lập hội đồng trọng tài. Thời gian có thể
kéo dài đủ lâu để bị đơn (nếu muốn) có thể tẩu tán đáng kể các tài sản tranh chấp.
Thêm vào đó, các chủ thể khác có liên quan trong vụ tranh chấp thường chỉ
cho rằng chỉ có Tòa án mới có quyền áp dụng các BPKCTT can thiệp và hạn chế
các quyền định đoạt tài sản của họ. Họ cho rằng HĐTT dù có thẩm quyền áp dụng
các BPKCTT thì cũng chỉ mang tính chất tư và chỉ được áp dụng cho các bên
đương sự trong vụ tranh chấp, khó có lý do để áp dụng làm hạn chế quyền lợi với
người thứ ba.
1.3.1. So sánh việc áp dụng BPKCTT theo Bộ Luật tố tụng dân sự 2015 và Luật
Trọng tài thương mại 2010
1.3.1.1. Văn bản pháp luật điều chỉnh
1.3.1.2. Mục đích áp dụng
1.3.1.3. Quyền yêu cầu áp dụng
1.3.1.4. Thẩm quyền áp dụng
16

1.3.1.5. Các BPKCTT


1.3.1.6. Biện pháp bảo đảm
1.3.1.7. Trách nhiệm của bên yêu cầu áp dụng
1.3.1.8. Trình tự, thủ tục áp dụng
1.3.1.9. Hiệu lực thi hành
1.3.1.10. Thay đổi, bổ sung, hủy bỏ áp dụng
1.3.1.11. Khiếu nại, kiến nghị về việc áp dụng
1.4. Thẩm quyền, thủ tục áp dụng BPKCTT của Hội đồng trọng tài
1.4.1. Thẩm quyền
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, một trong các bên tranh chấp yêu cầu
HĐTT áp dụng BPKCTT thì HĐTT có quyền áp dụng BPKCTT và chỉ được áp
dụng các BPKCTT mà đương sự đã yêu cầu.
Theo Điều 49 Luật TTTM thì HĐTT chỉ có thẩm quyền áp dụng BPKCTT
đối với các bên tranh chấp mà không có thẩm quyền đối với bên thứ ba. Điều này là
khác với thẩm quyền của Tòa án, bởi Tòa án có quyền áp dụng BPKCTT đối với cả
bên thứ ba nếu được yêu cầu và xét thấy có đủ căn cứ theo luật. Trong trường hợp
có yêu cầu và trọng tài áp dụng cho bên thứ ba, cần làm rõ bên thứ ba có liên quan
đến thỏa thuận trọng tài hay không, vì thông thường, thỏa thuận trọng tài chỉ có giá
trị ràng buộc đối với các bên tham gia thỏa thuận đó. Chỉ một số ít trường hợp bên
thứ ba trong thỏa thuận trọng tài bị ràng buộc bởi thỏa thuận đó, có thể kể ra là:
- Thứ nhất, theo học thuyết “tập đoàn công ty”, mà theo đó những quyền lợi
và trách nhiệm phát sinh từ một thỏa thuận trọng tài trong một số trường hợp có thể
mở rộng sang các thành viên khác trong tập đoàn;
- Thứ hai, do hiệu lực của quy tắc chung về chuyển nhượng, đại lý và kế
thừa. Theo đó một chi nhánh của một bên trong điều khoản trọng tài có thể là đồng
bị đơn trong quá trình tố tụng trọng tài...
Tuy nhiên, cần phải chỉ rõ rằng những trường hợp trên là hạn chế và thông
thường, thỏa thuận trọng tài không liên quan đến bên thứ ba. Để việc hiểu và áp
dụng thống nhất, khi sửa đổi, bổ sung Luật TTTM cần quy định rõ khi nào thì thỏa
17

thuận trọng tài sẽ có giá trị đối với bên thứ ba, và chỉ khi đó HĐTT mới có thẩm
quyền áp dụng BPKCTT đối với bên thứ ba đó.
Trước khi áp dụng, HĐTT phải hỏi đương sự và kiểm tra một trong các bên
đương sự đã yêu cầu Tòa án và Tòa án đã áp dụng một hoặc một số BPKCTT hay
chưa. Nếu một trong các bên đương sự đã yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT thì
HĐTT phải từ chối việc áp dụng BPKCTT.
1.4.2. Điều kiện để áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Theo quy định tại khoản 1, 3, 4 Điều 49 Luật TTTM thì HĐTT chỉ có thể áp
dụng BPKCTT khi có đủ 4 điều kiện sau:
- Phải có đương sự yêu cầu áp dụng một hoặc một số BPKCTT;
- Người yêu cầu phải cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh cho sự cần
thiết phải áp dụng BPKCTT đó;
- Người yêu cầu áp dụng BPKCTT đã thực hiện nghĩa vụ bảo đảm về tài
chính để bảo đảm việc bồi thường những thiệt hại do việc yêu cầu áp dụng
BPKCTT không đúng gây thiệt hại cho người bị áp dụng;
- Chưa có đương sự nào yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT.
Nếu thiếu một trong bốn điều kiện nói trên thì HĐTT sẽ không áp dụng
BPKCTT.
1.4.3. Thủ tục áp dụng BPKCTT của Hội đồng trọng tài
Theo quy định tại Điều 50 Luật TTTM thì đương sự yêu cầu áp dụng
BPKCTT phải làm đơn gửi đến HĐTT (đầy đủ nội dung theo quy định). Khi bên
yêu cầu áp dụng BPKCTT đã làm đơn và xuất trình tài liệu, chứng cứ chứng minh
sự cần thiết phải áp dụng BPKCTT, thì HĐTT ra văn bản nêu cụ thể số tiền, tài sản
khi thực hiện nghĩa vụ bảo đảm.
Trên cơ sở quyết định của HĐTT, bên yêu cầu áp dụng BPKCTT phải gửi
một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do HĐTT ấn định tương
ứng với giá trị thiệt hại có thể phát sinh, do áp dụng BPKCTT không đúng gây ra để
bảo vệ lợi ích của bên bị yêu cầu áp dụng BPKCTT. Khoản tiền, kim khí quý, đá
quý hoặc giấy tờ có giá được gửi vào tài khoản phong tỏa tại ngân hàng do HĐTT
quyết định.
18

Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đơn, ngay sau khi bên yêu
cầu đã thực hiện biện pháp bảo đảm theo yêu cầu của HĐTT thì HĐTT xem xét ra
quyết định áp dụng BPKCTT. Trường hợp không chấp nhận yêu cầu, HĐTT thông
báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho bên yêu cầu biết. Việc thi hành quyết định áp
dụng BPKCTT của HĐTT được thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành
án dân sự.
1.5. Thẩm quyền, thủ tục thay đổi, bổ sung, hủy bỏ BPKCTT của Hội đồng
trọng tài 
1.5.1. Thẩm quyền
Sau khi HĐTT đã ra quyết định áp dụng BPKCTT, theo yêu cầu của một
bên, HĐTT có quyền thay đổi, bổ sung, hủy bỏ BPKCTT vào bất kỳ thời điểm nào
trong quá trình giải quyết tranh chấp.
1.5.2. Thủ tục thay đổi, bổ sung biện pháp khẩn cấp tạm thời
Bên yêu cầu thay đổi, bổ sung BPKCTT phải làm đơn gửi HĐTT. Đơn yêu
cầu thay đổi, bổ sung BPKCTT phải có các nội dung sau:
- Ngày, tháng, năm làm đơn;
- Tên, địa chỉ của bên có yêu cầu áp dụng BPKCTT;
- Tên, địa chỉ của bên bị yêu cầu áp dụng BPKCTT;
- Tóm tắt nội dung tranh chấp;
- Lý do cần phải thay đổi, bổ sung BPKCTT;
- BPKCTTcần được thay đổi, bổ sung và các yêu cầu cụ thể.
1.5.3. Hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
Khi có một trong các căn cứ dưới đây thì HĐTT phải ra quyết định hủy bỏ
biện pháp khẩn cấp tạm thời:
- Bên yêu cầu áp dụng BPKCTT đề nghị hủy bỏ;
- Bên phải thi hành quyết định áp dụng BPKCTT đã nộp tài sản hoặc có
người khác thực hiện biện pháp bảo đảm thi hành nghĩa vụ đối với bên có yêu cầu;
- Nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ chấm dứt theo quy định của pháp luật.
1.5.4. Thủ tục hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
- Bên yêu cầu phải có đơn đề nghị hủy bỏ BPKCTT gửi HĐTT.
19

- HĐTT xem xét ra quyết định huỷ bỏ BPKCTT.


Khi HĐTT quyết định hủy bỏ BPKCTT thì phải xem xét, quyết định để
người đã thực hiện việc bảo đảm được nhận lại tài sản bảo đảm.
Nếu do việc yêu cầu áp dụng BPKCTT không đúng gây thiệt hại cho người
bị áp dụng BPKCTT hoặc người thứ ba thì HĐTT không ra quyết định trả lại tài sản
bảo đảm cho người đã thực hiện biện pháp bảo đảm đó.
Quyết định hủy bỏ BPKCTT phải được gửi ngay cho các bên tranh chấp và
Cơ quan thi hành án dân sự.
1.5.5. Trách nhiệm của HĐTT khi áp dụng BPKCTT
Theo quy định tại Điều 52 Luật TTTM thì HĐTT chỉ áp dụng BPKCTT mà
đương sự yêu cầu và đúng với mức tài sản mà đương sự nêu ra. Trong trường hợp
HĐTT áp dụng BPKCTT khác,  hoặc HĐTT áp dụng vượt quá yêu cầu áp dụng
BPKCTT của bên yêu cầu mà gây thiệt hại bên bị áp dụng hoặc người thứ ba thì
người bị thiệt hại có quyền khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu giải quyết bồi thường
theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
1.5.6. Trách nhiệm của bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Bên yêu cầu áp dụng BPKCTT phải chịu trách nhiệm về yêu cầu của mình.
Trong trường hợp bên yêu cầu áp dụng BPKCTT không đúng và gây thiệt hại cho
bên kia hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường.
Kết luận Chương 1
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM
THỜI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG
MẠI TẠI HỘI ĐỒNG TRỌNG TÀI
2.1. Thực trạng
Nếu so sánh giữa ưu và nhược điểm thì việc giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại qua hệ thống trọng tài là con đường tốt hơn cho các doanh
nghiệp. Tuy nhiên, việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại đến nay bằng
trọng tài chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với số lượng tranh chấp xảy ra trong đời
sống thương mại ở nước ta.
Nguyên nhân:
20

- Ý thức về pháp luật của các doanh nghiệp và việc kinh doanh trong điều
kiện cạnh tranh khốc liệt làm cho các chủ thể trong quan hệ đều vi phạm hợp đồng.
Trong một giao dịch, bên này vi phạm việc này, bên kia sai việc khác; hoặc hôm
nay, bên này sai, thì ngày mai, bên kia sai; người ta tìm cách thương thuyết “tay
đôi” để giải quyết ổn thoả, nhằm giữ quan hệ làm ăn lâu dài. Vì lẽ đó, việc đưa nhau
ra xử lý bằng trọng tài hoặc toà án các bên đều không muốn.
- Nhiều doanh nghiệp, cá nhân không am hiểu những vấn đề liên quan đến tố
tụng thông qua con đường trọng tài thương mại. Trước đây, trong thời kỳ bao cấp, ở
nước ta có trọng tài kinh tế nhà nước - cơ quan này quản lý hợp đồng kinh tế giữa
các chủ thể kinh tế nhà nước. Nhưng việc đó đã bãi bỏ từ lâu. Từ đó, các doanh
nghiệp chỉ quen tranh chấp bằng con đường tố tụng tại Tòa án. Thực tế cho thấy,
hầu hết các hợp đồng thương mại chỉ có quy định hai biện pháp tranh chấp là tự
thương lượng giải quyết, nếu không giải quyết được thì đưa ra giải quyết tại toà án
có thẩm quyền. Trong một ngàn hợp đồng, chỉ có một vài hợp đồng chế định việc
tranh chấp tại Trung tâm trọng tài. Như vậy, phương pháp tự xử và xử lý tranh chấp
tại Tòa án đã ăn sâu vào tiềm thức của các doanh nghiệp.
- Trọng tài thương mại là một tổ chức phi Chính phủ. Chúng ta sống trong hệ
thống chính trị mà người dân luôn nghĩ rằng chỉ có các quyết định của Đảng và Nhà
nước mới có hiệu lực và tính khả thi.
- Tồn tại trong bản thân của các Trung tâm trọng tài. Đến thời điểm hiện nay,
chúng ta chỉ có thể liệt kê các Trung tâm trọng tài trên đầu ngón tay. Đồng thời,
hoạt động của các Trung tâm trọng tài chỉ dựa vào nguồn vốn tự có của các nhà
sáng lập, nguồn thu từ các vụ tranh chấp. Nhưng các vụ tranh chấp quá ít ỏi, nguồn
thu quá hạn hẹp, hạn chế khả năng phát triển công nghệ, chất lượng chuyên môn,
nghiệp vụ của trọng tài viên…
2.1.1. Trước thời điểm áp dụng Luật Trọng tài thương mại năm 2010
Trước đây, pháp luật Việt Nam chỉ quy định việc áp dụng BPKCTT trong tố
tụng tòa án, kể cả trong trường họp các bên lựa chọn trọng tài làm phương thức giải
quyết tranh chấp, nhưng khi có nhu cầu áp dụng BPKCTT thì vẫn phải gửi đơn đến
21

Tòa án có thẩm quyền để Tòa án quyết định hỗ trợ cho hoạt động giải quyết tranh
chấp của trọng tài và bảo vệ lợi ích cho đương sự.
2.1.2. Từ khi áp dụng Luật Trọng tài thương mại năm 2010
Việc ra đời của Luật Trọng tài thương mại năm 2010 đã mở rộng hơn phạm
vi của việc áp dụng các BPKCTT, Tòa án từ chủ thể duy nhất có thẩm quyền ban
hành quyết định áp dụng BPKCTT thì nay HĐTT cũng có thẩm quyền ban hành.
Các quy đỊnh này nhằm làm tăng thêm vị thế của phương thức giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài so với trước đây. Tăng thêm sự chọn lựa giữa các hình thức giải
quyết tranh chấp. Giúp việc giải quyết các tranh chấp được giải quyết nhanh chóng,
giảm tải xét xử cho ngành Tòa án, tiết kiệm được công sức, thời gian cho các bên
trong tranh chấp.
2.2.2. Trách nhiệm nặng nề của trọng tài viên, Hội đồng trọng tài
Quyền giám sát hoạt động tố tụng của HĐTT trước hết thuộc về các bên
tranh chấp. Khoản 2 Điều 43 Luật TTTM quy định “Trong quá trình giải quyết
tranh chấp, nếu phát hiện Hội đồng trọng tài vượt quá thẩm quyền, các bên có thể
khiếu nại với Hội đồng trọng tài. Hội đồng trọng tài có trách nhiệm xem xét, quyết
định”. Cơ chế giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật Việt Nam rất hạn
chế, theo kiểu “vừa đá bóng, vừa thổi còi”.
Hiện nay, Luật TTTM quy định về thẩm quyền của Tòa án đối với hoạt động
trọng tài tại các Điều 1, 41, 42, 43, 44, 47, 48, 49, 53, 68, 68, 70, 71; vai trò của Tòa
án chỉ nằm ở giai đoạn khởi đầu và khi đã kết thúc quá trình tố tụng trọng tài. Nếu
HĐTT vượt quá thẩm quyền hoặc có những sai phạm trong suốt quá trình tố tụng,
việc ngăn chặn và khắc phục hậu quả do hành vi sai phạm của HĐTT là hết sức khó
khăn, nan giải, phải nhờ sự can thiệp của Tòa án.
2.2.3. Những điểm tương đồng và khác biệt giữa tố tụng trọng tài và Tòa án:
1. Trọng tài Thương mại chỉ giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động
kinh doanh, thương mại với điều kiện các bên có thoả thuận trọng tài; nếu các bên
không có thoả thuận trọng tài, Tòa án có thẩm quyền đương nhiên giải quyết tranh
chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh, thương mại.
22

2. Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại được tiến hành không
công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Tòa án xét xử công khai.
Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân
tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh,
bí mật cá nhân, bí mật gia đình của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ thì
Tòa án có thể xét xử kín.
3. Trọng tài giải quyết tranh chấp nhanh (Phán quyết trọng tài là chung
thẩm). Tòa án giải quyết chậm, phải bảo đảm 2 cấp xét xử: Sơ thẩm, phúc thẩm
thậm chí giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
4. Điểm giống nhau của cả hai thủ tục tố tụng Trọng tài thương mại và Tòa
án là: Các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. HĐTT và Hội đồng
xét xử có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình
trong quá trình giải quyết tranh chấp.
Kết luận Chương 2
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN
THIỆN BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI TRONG GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
3.1. Một số yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật về BPKCTT
3.1.1. Phù hợp với chính sách phát triển nền kinh tế thị trường của Việt Nam
3.1.2. Đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế trong xu thế toàn cầu
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về BPKCTT
3.2.1. Về khái niệm
3.2.2. Các quy định về điều kiện có hiệu lực
3.2.3. Các quy định về căn cứ vô hiệu và hậu quả pháp lý
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng BPKCTT trong việc
giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
3.3.1. Nâng cao vai trò của trọng tài thương mại trong giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại
Như đã phân tích tại Chương 2, luận văn xin đề xuất một số giải pháp để
nâng cao sức hấp dẫn của hoạt động trọng tài tại Việt Nam trên cơ sở khắc phục
23

những tồn tại, đồng thời duy trì những thành tựu đã đạt được một cách ổn định
trong tương lai.
Thứ nhất: Cần có cơ chế hỗ trợ pháp lý từ phía Nhà nước đối với các tổ chức
phi Chính phủ, trong đó có Trọng tài thương mại. Đây là một giải pháp quan trọng.
Nếu có sự hỗ trợ thích đáng thì Trọng tài thương mại có thể phát huy mạnh mẽ
được chức năng và vai trò của mình. Ở các nước trên thế giới, người ta chỉ giải
quyết tranh chấp thương mại bằng phương thức trọng tài là chủ yếu, giải quyết qua
toà án chiếm một tỷ lệ không lớn. Qua khảo sát thực tế, các tổ chức phi Chính phủ
chưa được các cơ quan, xã hội đánh giá đúng “tầm”… Có một thực trạng là các tổ
chức phi Chính phủ không được tiếp cận nhiều chính sách của Đảng và Nhà nước.
Nếu tư duy và nhận thức của xã hội, Nhà nước không có sự hỗ trợ đúng mức thì các
tổ chức phi Chính phủ, trong đó có trọng tài thương mại không thể phát huy hết vai
trò của mình trong việc thực hiện chức năng quản lý xã hội dân sự.
Về mặt pháp lý, thiết nghĩ cần phải sửa đổi, bổ sung Luật Trọng tài thương
mại năm 2010 và ban hành Luật về hoạt động của các tổ chức phi Chính phủ. Có
như vậy, mới tạo ra được những yếu tố bền vững đối với việc tổ chức và hoạt động
của các tổ chức phi Chính phủ.
Thứ hai: Cần có sự trợ giúp ban đầu về mặt vật chất. Thiết nghĩ, chỉ cần có
sự hỗ trợ một phần nhỏ nguồn kinh phí Nhà nước đang cấp cho các cơ quan quản lý
hiện nay thì các tổ chức phi Chính phủ thuộc ngành luật pháp, cũng như các ngành
nghề khác sẽ làm “nên chuyện”, sẽ gánh vác một phần lớn chức năng quản lý của
Nhà nước, tiết kiệm trong chi phí ngân sách. Nguồn này, có thể khai thác từ việc
giảm thiểu chi phí hành chính, giảm bớt biên chế tại các tổ chức Nhà nước. Có thể
ban hành cơ chế cho thuê trụ sở đối với các tổ chức phi Chính phủ. Nên có cơ chế
để các tổ chức phi Chính phủ được khai thác và tự quản lý nguồn tài chính viện trợ
của các tổ chức Chính phủ và phi Chính phủ, các tổ chức quốc tế. Một số đề án,
chương trình, thiết nghĩ nên chuyển giao cho tổ chức dân sự thực hiện.
Thứ ba: Cần có các biện pháp giáo dục, tuyên truyền cho nhân dân hiểu biết
vai trò và ý nghĩa của tổ chức xã hội dân sự đối với quá trình phát triển kinh tế - xã
hội, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường đã và đang hội nhập sâu rộng.
24

Với xu hướng toàn cầu hoá như hiện nay, các tranh chấp sẽ diễn ra thường
xuyên, phổ biến và gia tăng về số lượng, gia tăng tính chất phức tạp cùng với sự
phát triển về quy mô, nhịp độ, các loại, dạng hoạt động thương mại trong phạm vi
quốc gia, cũng như quốc tế.
Trong bối cảnh đó, giải quyết nhanh, gọn, có hiệu quả, hợp lý các tranh chấp
thương mại càng trở nên cần thiết đối với mục tiêu thúc đấy hoạt động kinh doanh,
thương mại. Bởi lẽ, nếu chúng được giải quyết nhanh, gọn, hợp lý, có hiệu quả các
tranh chấp thương mại không những tạo điều kiện để hoạt động kinh doanh, thương
mại diễn ra một cách suôn sẻ, không gặp ách tắc, lợi ích hợp pháp của các chủ thể
kinh doanh được bảo đảm mà còn tạo môi trường tâm lý tốt cho các thương nhân
yên tâm, mạnh dạn bỏ vốn đầu tư, kinh doanh.
Với những tiện ích rõ rệt của mình và với xu hướng được ưa thích, sử dụng
rộng rãi trong đời sống thương mại ở hầu khắp các quốc gia trên thế giới, việc giải
quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài hứa hẹn một bước phát triển mới, trong
những năm tới, đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp trong tranh chấp quan
hệ kinh tế.
3.3.2. Nâng cao chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ
Sớm hoàn thiện thể chế về pháp luật thương mại, trọng tài thương mại và hệ
thống pháp luật hỗ trợ hoạt động của trọng tài thương mại. Điều này nhằm đảm bảo
cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có hiệu quả, đảm bảo các phán quyết
trọng tài đã có hiệu lực pháp lý được thi hành trên thực tế, hạn chế việc hủy phán
quyết trọng tài thiếu cơ sở pháp lý. Thêm nữa, cần xây dựng, ban hành cơ chế tăng
cường sự kiểm tra, giám sát việc triển khai thi hành quy định pháp luật trọng tài
thương mại, đặc biệt là giám sát việc hủy phán quyết trọng tài; giám sát việc công
nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài tại Việt Nam.
Đối với trọng tài viên, cần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng về chuyên
môn, nghiệp vụ, kiến thức pháp luật, trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giải quyết tranh
chấp, đạo đức nghề nghiệp, đặc biệt trong các lĩnh vực chuyên sâu như đầu tư,
thương mại quốc tế, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm. Thêm nữa, nhanh chóng nghiên
cứu, triển khai việc thành lập Hiệp hội TTTM quốc gia nhằm hỗ trợ việc phát triển
25

hoạt động trọng tài nói chung và phát triển đội ngũ trọng tài viên nói riêng. Đồng
thời, nghiên cứu xây dựng, ban hành và triển khai Bộ quy tắc đạo đức mẫu về nghề
nghiệp cho trọng tài viên. 
Đối với Trung tâm trọng tài, cần phải nâng cao tính chuyên nghiệp, hội nhập
quốc tế của Trung tâm trọng tài; các trung tâm trọng tài chú trọng xây dựng đội ngũ
trọng tài viên có chất lượng, chuyên nghiệp, có trình độ ngoại ngữ phù hợp đáp ứng
yêu cầu giải quyết tranh chấp trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập
quốc tế. Ngoài ra, các Trung tâm Trọng tài thương mại nên xây dựng quy tắc tố
tụng phù hợp với Luật TTTM, Quy tắc trọng tài và thực tiễn của Việt Nam trong
hoạt động trọng tài thương mại. Bên cạnh đó, cũng cần tăng cường cơ sở vật chất,
đầu tư trang thiết bị hiện đại phục vụ cho hoạt động trọng tài thương mại nhằm đáp
ứng nhu cầu giải quyết tranh chấp ngày càng tăng và yêu cầu hội nhập quốc tế.
Thêm nữa, các trung tâm trọng tài cũng chủ động xây dựng cơ chế, chính sách thu
hút đội ngũ trọng tài viên quốc tế, luật sư nước ngoài, chuyên gia, luật sư trong
nước giỏi về chuyên môn, thành thạo ngoại ngữ tham gia giải quyết tranh chấp
trọng tài. Mục tiêu nhằm đáp ứng nhu cầu giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế,
nâng cao tính cạnh tranh của trung tâm trọng tài trong nước với các trung tâm trọng
tài khu vực và quốc tế. Song song đó, trung tâm trọng tài nên tăng cường cơ chế
hợp tác giữa các Trung tâm trọng tài thương mại với các tổ chức trọng tài quốc tế để
học hỏi kinh nghiệm, nhận được sự hỗ trợ cần thiết, tăng cường năng lực cho tổ
chức và hoạt động của mình.
3.3.3. Khuyến khích sử dụng dịch vụ trọng tài
Thực hiện các giải pháp đồng bộ nhằm khuyến khích nhu cầu sử dụng dịch
vụ trọng tài trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại trong và ngoài nước.
Đẩy mạnh việc tuyên truyền, phổ biến Luật TTTM bằng nhiều hình thức nhằm nâng
cao nhận thức của cá nhân, cơ quan, tổ chức, đặc biệt là cơ quan thi hành án dân dự
các cấp và cộng đồng doanh nghiệp (trong nước cũng như nước ngoài đầu tư tại
Việt Nam).
Xây dựng giáo trình, bộ môn riêng về giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại thay thế ngoài tòa án; trong đó có giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
26

thương mại được thông tin rộng rãi tại các trường đại học giảng dạy về ngành luật,
kinh tế, quản trị kinh doanh, thương mại, các trường đào tạo nghề luật sư, thẩm
phán... nhằm cung cấp kiến thức về phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài thương mại cho sinh viên và các đối tượng có liên quan. Các hoạt động nói trên
nhằm hướng tới việc nâng cao chất lượng hoạt động trọng tài thương mại, qua đó
tạo lòng tin cho cá nhân, tổ chức doanh nghiệp trong nước và nước ngoài.
Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về trọng tài thương mại, có
cơ chế ưu đãi về thuế đối với các trung tâm trọng tài. Cần củng cố cơ sở vật chất,
kiện toàn, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ tư pháp ở Trung ương và địa
phương thực hiện công tác quản lý Nhà nước về trọng tài thương mại.
Kết luận Chương 3
Kết luận

You might also like