Professional Documents
Culture Documents
Lớp 19DOT3D
Mỗi nhóm họp và đánh giá công sức đóng góp vào kết quả đề tài của các thành viên
(100% công sức đóng góp tương ứng với 10 điểm)
GIỚI THIỆU
Trong bối cảnh thế giới đang chạy đua theo nền công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nền
công nghiệp ô tô vẫn và đang phát triển mạnh mẽ qua nhiều thập niên với những sự phát
triển một cách vượt trội.
Cụ thể hơn thì nền công nghiệp ô tô đã góp phần rất nhiều trong các nghành nông
nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, ... và đặc biệt là khả năng di chuyển rất linh động đã làm cho
phần lớn người dân đã chọn ô tô xe máy làm phương tiện di chuyển qua đó thúc đẩy nghành
công nghiệp ô tô phát triển.
Ô tô luôn là phương tiện di chuyển hữu dụng cho bất cứ ai có khả năng sở hữu nó.
Hầu hết mọi người khi sở hữu một chiếc ô tô đều luôn quan tâm về động cơ và các hệ thống
tiện nghi trên xe. Bởi động cơ của ô tô được ví như một ‘Trái tim” của xe. Động cơ là nơi
phát sinh lực và momen xoắn truyền động đến các hệ thống của xe. Việc phát sinh các hư
hỏng trên động cơ là một vấn đề không thể tránh khỏi trong quá trình sử dụng.
Được sự hướng dẫn và giảng dạy, truyền đạt lại các kinh nghiệm thực tế về ô tô từ
thầy Th. Nguyễn Văn Bản. Qua bộ môn “Bảo Dưỡng Và Sửa Chữa Ô Tô” và đề tài tiểu
luận về “Bảo Dưỡng Và Sửa Chữa Động Cơ”. Nhóm nghiên cứu đã cùng nhau tích lũy kinh
nghiệm truyền dạy từ Thầy và tham khảo các giáo trình về chuyên ngành. Từ các cơ sở lý
thuyết và thực tế, nhóm đã xây dựng nên được những cơ sở chuẩn đoán các vấn đề hư hỏng
thường xảy ra ở động cơ. Từ đó, đưa ra các biện pháp nhận biết các biểu hiện hư hỏng, chẩn
đoán và sửa chữa, bảo dưỡng phù hợp nhất cho chi tiết hư hỏng của động cơ.
Nhóm 1 Trang 1
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 2
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Năm 1957, Động cơ đốt trong kiểu piston quay (Động cơ Wankel) được chế tạo rất
gọn nhẹ.
Nhóm 1 Trang 3
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Động cơ ô tô là được xem như là thiết bị giúp chuyển hoá một dạng năng lượng nào
đó (như xăng dầu-nhiệt năng, điện năng…) thành động năng. Đây là bộ phận quan trọng
nhất trong cấu tạo ô tô, được ví như “trái tim” của xe. Bởi chính động cơ là nơi sản sinh ra
công suất và mô men xoắn làm quay các bánh xe, nhờ đó mà ô tô có thể di chuyển.
2.1. Động cơ
Động cơ nhiệt có hai loại chính là động cơ đốt trong và động cơ đốt ngoài. Trong đó,
động cơ đốt trong cho hiệu suất cao hơn lại tiêu thụ ít nhiên liệu hơn, kích thước nhỏ gọn,
trọng lượng nhẹ hơn nên được sử dụng cho nhiều loại phương tiện, nhất là ô tô và xe máy.
Động cơ đốt trong đốt cháy nhiên liệu sinh nhiệt, sau đó biến đổi nhiệt năng thành
công cơ học ở dạng mô men quay
Động cơ đốt trong hoạt động theo nguyên lý đốt cháy nhiên liệu sinh nhiệt, từ nhiệt
năng biến đổi thành công cơ học ở dạng mô men quay. Động cơ đốt trong có hai loại: động
cơ xăng (sử dụng nhiên liệu là xăng) và động cơ Diesel (sử dụng nhiên liệu là dầu). Trong
đó, động cơ xăng được ưa chuộng hơn do ưu điểm êm ái, tăng tốc nhanh và mượt mà.
Đa số xe ô tô hiện nay dùng động cơ đốt trong để làm nơi phát sinh ra công suất và
momen truyền lực.
Nhóm 1 Trang 4
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Kỳ 1: Piston sẽ di chuyển từ điểm chết trên xuống tới điểm chết dưới. Lúc này xupap
nạp sẽ được mở ra để dẫn hòa khí đi vào buồng đốt. Xupap xả sẽ đóng lại. Đồng nghĩa với
việc trục khuỷu sẽ quay 180 độ.
Kỳ 2: Piston di chuyển từ điểm chết dưới đến điểm chết trên để đóng hòa khí lại. Cả
hai Xupap sẽ cùng đóng lúc này. Trục khuỷu vẫn quay 180 độ.
Kỳ 3: Bugi lúc này sẽ là nhiệm vụ đánh lửa để đốt cháy hòa khí, cung cấp năng lượng
cho piston. Lúc này khi có năng lượng Piston sẽ di chuyển từ điểm chết trên xuống điểm
chết dưới. Cả Xupap nạp và xả đều đóng. Trục khuỷu vẫn quay 180 độ.
Kỳ 4: Lúc này Piston sẽ di chuyển từ điểm chết dưới lên điểm chết trên. Xupap nạp sẽ
mở ra để lượng khí thải được thoát ra ngoài. Xupap nạp vẫn đóng. Thanh truyền sẽ quay
góc 180 độ.
2.2.2. So sánh nguyên lý hoạt động của động cơ 4 kỳ của động cơ xăng và động cơ
diesel
Nhóm 1 Trang 5
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
2.3.1. Theo phương pháp thực hiện theo chu trình công tác động cơ
Động cơ bốn kỳ: chu trình công tác được thực hiện trong bốn hành trình piston hoặc
hai vòng quay trục khuỷu.
Nhóm 1 Trang 6
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Động cơ hai kỳ: chu trình công tác được thực hiện trong hai hành trình piston hoặc
một vòng quay trục khuỷu.
Nhóm 1 Trang 7
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Động cơ đa nhiên liệu (dùng các nhiên liệu lỏng từ nhẹ đến nặng).
2.3.3 Theo phương pháp nạp của chu trình công tác
Động cơ không tăng áp quá trình hút không khí hoặc hòa khí vào xy lanh là do piston
hút trực tiếp từ khí trời (động cơ bốn kỳ) hoặc do không khí quét được nên tới áp suất đủ để
thực hiện việc thay đổi mới chất và nạp đẩy xy lanh (động cơ hai kỳ).
Động cơ tăng áp: không khí hoặc hòa khí vào xy lanh động cơ có áp suất lớn hơn áp
suất khí trời, nhờ thiết bị tăng áp (động cơ bốn kỳ) hoặc việc quét xy lanh và nạp không khí
hoặc hòa khí được thực hiện nhờ không khí có áp suất cao, đảm bảo chẳng những thay đổi
mới chất mà còn làm tăng lượng khí nạp vào xy lanh. Thuật ngữ “ăng áp” có nghĩa là làm
tăng khối lượng môi chất mới nhờ nâng cao áp suất trên đường nạp qua đó tăng mật độ khí
nạp.
Nhóm 1 Trang 8
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
2.3.4 Theo phương pháp hòa khí (hỗn hợp giữa không khí và nhiên liệu)
Động cơ hình thành hòa khí bên ngoài: hòa khí (còn gọi là hỗn hợp khí cháy) gồm hơi
nhiên liệu lỏng nhẹ và không khí hoặc gồm nhiên liệu thể khí và không khí hòa trộn trước
bên ngoài xy lanh động cơ (bao gồm toàn bộ động cơ dùng bộ chế hoà khí và động cơ dùng
nhiên liệu thể khí) và được đốt cháy bằng tia lửa điện.
Động cơ hình thành hòa khí bên trong: hòa khí được hình thành bên trong xy lanh là
nhờ bơm cao áp cấp nhiên liệu cao áp để phun tới vào khối không khí nóng trong xy lanh
động cơ (động cơ Diesel) hoặc nhờ phun nhiên liệu nhẹ trực tiếp vào xy lanh động cơ (động
cơ phun xăng trực tiếp vào xy lanh).
Quá trình hình thành hòa khí ở động cơ Diesel chủ yếu phụ thuộc vào loại buồng cháy,
vì vậy động cơ Diesel được chia thành ba loại sau:
- Động cơ Diesel dùng buồng chảy thống nhất: thể tích buồng cháy là một khối thống
nhất các quá trình hình thành hòa khí và quá trình cháy thực hiện ở đây.
- Động cơ Diesel dùng buồng cháy dự bị: thể tích buồng cháy được ngăn làm hai
phần: buồng cháy chính và buồng cháy dự bị, nhiên liệu được phun vào buồng cháy dự bị.
Trước tiên, việc hình thành hòa khí và bốc cháy của nhiên liệu được thực hiện trong buồng
cháy dự bị, qua đó tạo ra chênh áp giữa hai buồng cháy. Nhờ chênh áp do sản vật cháy,
nhiên liệu và không khí chưa cháy được phun ra buồng cháy chính để tiếp tục hình thành
hòa khí và kết thúc quá trình cháy trong buồng cháy chính.
- Động cơ Diesel dùng buồng cháy xoáy lốc: thể tích buồng cháy cũng được chia làm
hai phần: buồng cháy chính và buồng cháy xoáy lốc. Giữa hai buồng cháy này có đường nối
thông nằm trên đường tiếp tuyến với buồng cháy xoáy lốc, nhờ đó tạo ra dòng xoáy lốc của
môi chất ở đây vào cuối quá trình nén. Trước tiên việc hình thành hòa khí là nhờ nhiên liệu
được phun tới vào dòng xoáy lốc này, tiếp đó nhiên liệu bốc cháy tạo ra chênh áp giữa hai
buồng cháy. Nhờ chênh áp do sản vật cháy, nhiên liệu và không khí chưa chảy được phun ra
buồng cháy chính để tiếp tục hình thành hòa khí và kết thúc quá trình cháy trong buồng
cháy chính.
Nhóm 1 Trang 9
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 10
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 11
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 12
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 13
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 14
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
2.3.10. Theo khả năng thay đổi chiều quay của trục khuỷu
- Động cơ chỉ quay phải – trục khuỷu động cơ quay theo chiều kim đồng hồ nếu nhìn
từ bánh đã tới mũi tẩu (động cơ tầu thuyền) hoặc nhìn từ đầu tự do (các động cơ khác).
- Động cơ chỉ quay trái – trục khuỷu động cơ quay ngược với chiều kể trên.
Động cơ quay được hai chiều – chiều quay của trục khuỷu động cơ có thể thay đổi nhờ
cơ cấu đảo chiều (chỉ dùng cho động cơ chính tầu thủy).
2.3.11. Theo công dụng của động cơ
- Động cơ tĩnh tại: hoạt động cố định ở một điểm (trạm bơm, trạm phát điện...).
- Động cơ tầu thủy: gồm máy chính dùng để quay chân vịt hoặc máy phát điện để
truyền động điện tới chân vịt tầu thủy và máy phụ dùng cho các nhu cầu khác trên tầu (cụm
phát điện Diesel, cụm Diesel máy nén ... dùng cho các nhu cầu trên lầu).
- Động cơ đầu xe lửa.
- Động cơ ô tô máy kéo.
- Động cơ máy bay.
- Động cơ dùng trong máy nông nghiệp, máy xây dựng, máy làm đường, các máy móc
của trang thiết bị quân sự.
Ngoài những đặc trưng kể trên, cũng có thể dựa vào những đặc trưng phụ khác để
phân loại động cơ như theo hệ thống làm mát, theo cơ cấu điều chỉnh... về mặt nguyên lý
làm việc của các loại động cơ đốt trong đều phải thực hiện các quá trình.
Nhóm 1 Trang 15
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 16
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 17
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 18
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 19
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 20
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Hệ thống phân khối bao gồm các chi tiết như trục cam, xích cam (dây cuaroa cam),
xupap, lò xo xupap, cò mổ, … Ngoài ra trên các hệ thống phân phối khí hiện đại trên các
dòng xe của TOYOTA như Camry, Altis, Fortuner, LandCruiser... còn trang bị thêm các cơ
cấu điều khiển cam thông minh VVT-i, tương tự trên các dòng xe khác như HONDA,
MAZDA, KIA, HYUNDAI, BMW, MERCEDES, AUDI… đều trang bị thêm các cơ cấu để
cải thiện hiệu quả làm việc của các hệ thống phân phối khí.
Hình 3.5 – Cơ cấu phân phối khí DOCH trên các mẫu ô tô hiện đại
Nhóm 1 Trang 21
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
a. Hệ thống nhiên liệu động cơ xăng b. Hệ thống nhiên liệu động cơ diesel
Hình 3.6- Hệ thống nhiên liệu
Các loại động cơ Diesel ngày nay vẫn còn sử dụng bơm cao áp (bơm phân phối) để
cấp nhiên liệu tới động cơ. Bên cạnh đó, hệ thống phun nhiên liệu điện tử Common Rail
cũng được ứng dụng để giảm phát thải ô nhiễm, tăng công suất động cơ Diesel.
Nhóm 1 Trang 22
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 23
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 24
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 25
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 26
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 27
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Đầu trục khuỷu: Thường được lắp vấu để khởi động hoặc để quay, puly dẫn động
quạt gió, bơm nước, các bánh răng dẫn động trục cam, …Đầu trục khuỷu thường được lắp
thêm bộ giảm chấn xoắn để nâng cao hiệu quả làm việc
Cổ trục khuỷu: Đây là phần khá quan trọng của trục khuỷu. Ở hầu hết các loại động
cơ đều có cổ trục khuỷu được làm rỗng để chứa dầu bôi trơn. Đồng thời, các bánh răng dẫn
động trục cam, …. Tương tự như phần đầu thì phần cổ trục khuỷu cũng cóc thể lắp thêm bộ
giảm chấn xoắn theo ý muốn.
Chốt khuỷu: Đây là bộ phận đóng vai trò lắp nối với đầu to của thanh truyền trong cơ
cấu trục khuỷu thanh truyền. Chúng được gia công với nhiệt độ cao, giúp nâng cao độ cứng
và có độ bóng nhất định. Thông thường số chốt khuỷu bao giờ cũng bằng số xi lanh động cơ
(động cơ một hàng xi lanh). Chốt khuỷu cũng có đường kính nhỏ hơn đường kính cổ trục.
Tương tự như cổ trục, bộ phận chốt khuỷu có thể làm rỗng để giảm trọng lượng trục khuỷu
và chứa dầu bôi trơn. Bên cạnh đó, các khoảng trống còn có tác dụng lọc dầu bôi trơn.
Má khuỷu: Hầu hết có hình elip đóng vai trò phân bố ứng suất được hợp lý nhất. Đây
cũng là bộ phận nối liền cổ trục và cổ chốt.
Đối trọng: Bộ phận này đóng vai trò giúp cân bằng các lực và mô men quán tính
không cân bằng của động cơ. Bên cạnh đó, nó còn làm giảm tải cho ổ trục và là nơi khoan
bớt các khối lượng thừa khi cân bằng trục khuỷu. Đối trọng được chế tạo liền với má khuỷu
hoặc làm rời sau đó hàn hoặc bắt bulong với má khuỷu.
Đuôi trục khuỷu: Phía trên đuôi có lắp bánh đà với nhiệm vụ chính là truyền công
suất ra bên ngoài.
Nhóm 1 Trang 28
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 29
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 30
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
lắc).
Nhóm 1 Trang 31
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 32
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Đối với trục khuỷu một đầu thường được lắp vấu để khởi động hoặc để quay, puly
dẫn động quạt gió, bơm nước, các bánh răng dẫn động trục cam. Đầu còn lại được lắp với
bánh đà để truyền công suất.
Trên động cơ đầu nhỏ của thanh truyền được gắn vào chốt piston, đầu to của thanh
truyền được gắn vào chốt trục khuỷu.
Nhóm 1 Trang 33
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Hình 4.7 - Vị trí của thanh truyền và trục khuỷu bên trong động cơ ô tô
4.2. Chẩn đoán các hư hỏng, sửa chữa và bảo dưỡng trục khuỷu - thanh truyền
Nhóm 1 Trang 34
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 35
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 36
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
a. Chuẩn đoán:
Do lọt nước vào trong buồng cháy, do kích nổ hoặc do sự cố piston thanh truyền.
Do làm việc lâu ngày.
Do tháo, lắp không đúng kỹ thuật
Do chịu momen quá lớn khi làm việc
b. Sửa chữa, bảo dưỡng:
Đặt trục khuỷu lên giá đỡ chữ V, tác dụng một lực vào cổ trục chính ở giữa theo chiều
ngượclại với chiều cong của trục khuỷu. Để tránh làm xây xước cổ trục cần đặt đẹm gỗ
hoặc đệm đồng ở chỗ đầu ép và điểm đỡ của khối chữ V. ở phía dưới của cổ trục cần đặt
đồng hồ đo để khống chế áp lực. Nếu trục khuỷu bị cong nhiều quá thì phải nắn nhiều lần,
sau đó phải nung trong dầu nóng 2000C từ 5 - 6 giờ để khử ứng suất dư.
Trường hợp không có máy ép hoặc trục khuỷu nhỏ có thể dùng thân động cơ cũ hoặc
bộ khuôn chuyên dùng, đặt trục khuỷu vào đó, ở hai đầu có đệm gỗ, tác dụng lực để nắn
trục khuỷu hết cong.
a. Chuẩn đoán:
- Do nỗi của nhà chế tạo hoặc do vật liệu chế tạo không đảm bảo yêu cầu.
- Do tháo lắp không đúng kỹ thuật.
b. Sửa chữa, bảo dưỡng:
Nếu trục khuỷu bị nứt nhẹ ở phần không quan trọng như đầu, đuôi và vai má khuỷu,
có thể hàn đắp và dũa phẳng.
Nếu trục khuỷu bị nứt ở phần cổ trục và cổ biên đều phải thay mới.
Nhóm 1 Trang 37
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Đối với thanh truyền của động cơ công suất nhỏ hoặc trung bình có kích thước không
lớn, có thể dùng đồ gá nắn nắn cong và xoắn trực tiếp lên thân thanh truyền. Trường hợp
thanh truyền có kích thước lớn phải đưa lên bàn ép mới đủ lực ép cần thiết.
Nhóm 1 Trang 38
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
a. Chuẩn đoán:
Do lực tác dụng quá lớn vì những nguyên nhân kể trên, do piston bị bó kẹt trong xy
lanh.
b. Sửa chữa, bảo dưỡng: Khi thanh truyền có vết rạn nứt nhỏ ở gần lỗ lắp bu
lông hay phía đầu nhỏ hoặc mòn rộng lỗ bu lông, có thể hàn đắp đồng sau đó dũa
và mài phẳng mặt.
Nhóm 1 Trang 39
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nếu thanh truyền bị rạn nứt lớn đều phải thay thanh truyền đúng chủng loại.
Nhóm 1 Trang 40
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
4.2.7. Các thông số kỹ thuật cần chú ý khi kiểm tra của trục khuỷu
Nhóm 1 Trang 41
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 42
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 43
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
vào giữa piston và xilanh (cắm ở mặt piston không xẻ rãnh vuông góc với lỗ chốt piston),
rồi dùng cân lò xo kéo với một lực 2 - 3,5kg, nếu kéo được căn lá ra là đạt yêu cầu, độ
chênh lệch về lực kéo giữa các xilanh không được quá 1kg. Nếu cắm căn lá vào lỏng chứng
tỏ khe hở quá lớn, piston bị mòn.
Kiểm tra khe hở giữa pit tông và xi lanh
Nhóm 1 Trang 44
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Trường hợp xilanh chưa mòn quá giới hạn cho phép mà khe hở giữa piston và xilanh
quá lớn, có thể dùng phương pháp mạ và tạo màng bằng môlipđenuđisunphua để tăng kích
thước của piston. Hoặc chỉ có một piston nào đó bị hỏng, thì có thể dùng một piston cũ đã
tăng kích thước và tiến hành tiện lại cho vừa để sử dụng.
Khi piston có vết nứt không lớn, chưa ảnh hưởng đến sự làm việc bình thường của
nó thì có thể khoan một lỗ nhỏ ở cuối vết nứt để khống chế vết nứt tiếp tục mở rộng và tiếp
tục sử dụng, nếu vết lớn thì phải thay piston.
Trường hợp lỗ chốt piston mòn và biến dạng thì dùng dao doa bằng tay, dao chuốt
hoặc tiện để mở rộng lỗ chốt theo kích thước sửa chữa và lắp chốt lớn hơn.
Thay piston
Trường hợp xilanh phải mài doa hoặc piston trong xilanh quá lỏng, piston bị nứt vỡ
hoặc hư hỏng nặng, rãnh xéc măng bị mòn quá mức, lỗ chốt piston bị mòn quá kích thước
sửa chữa lớn nhất thì phải thay piston.
Khi thay pit tông cần căn cứ vào đường kính xi lanh để chọn pit tông. Kích thước
tăng lớn của pit tông có 6 mức là 0,25; 0,50, 0,75; 1,00; 1,25; và 1,50mm. Các kích thước
tăng lớn đều có ghi rõ trên đỉnh pit tông
Khi thay từng piston tốt nhất dùng loại piston có nhãn hiệu tương tự. Khe hở giữa
piston thay mới với thành xilanh phải như các xilanh khác. Độ ô van của piston mới thay so
với các piston khác chênh lệch nhau không quá 0,075mm.
Nếu dùng piston cũ thì phải kiểm tra chiều sâu và chiều cao của các rãnh xéc măng
xem có phù hợp với các xéc măng mới không, lỗ chốt piston phù hợp không. Trọng lượng
piston mới thay phải bằng trọng lượng piston cũ và không được vượt quá trọng lượng cho
phép.
Nhóm 1 Trang 45
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Khi thay cả bộ piston, trọng lượng các piston phải bằng nhau, những piston có đường
kính lớn hơn 85mm, trọng lương giữa các piston chênh lệch nhau cho phép không vượt quá
15 gam, những piston có đường kính nhỏ hơn 85mm, thì trọng lượng chênh lệch không quá
9 gam. Nếu vượt quá giới hạn cho phép không nhiều, có thể dũa bớt một ít ở mặt đầu trong
piston để giảm bớt trọng lượng.
Nhóm 1 Trang 46
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 47
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 48
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 49
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 50
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Khi cạo, dùng dao cạo sắc, cầm hai tay cạo lực đều và cân bằng để cạo hết phần gờ
bậc. Sau đó dùng giấy nhám mịn thấm dầu nhờn để đánh bóng.
Nếu gờ bậc ở miệng xéc măng quá dày, sau khi cạo xong, miệng xi lanh không còn
góc vát nữa thì phải cạo mép xi lanh thành góc vát để lắp pit tông được dễ dàng.
Thay ống lót xi lanh (áo xi lanh)
Khi ống lót xi lanh bị nứt, vỡ hoặc xi đã hết cốt sửa chữa đều phải thay ống lót xi lanh
mới.
Đối với ống lót khô, sau khi ép vào thân máy phải tiến hành doa, đánh bóng đến cốt
nguyên thuỷ (cốt 0).
Đối với ống lót ướt, khi thay mới cần chú ý thay roăng làm kín và đảm bảo không bị
rò nước.
Quy trình tháo ống lót xi lanh:
Lắp dụng cụ ép bằng tay vào thân máy
Vặn đai ốc vào để tháo ống lót ra khỏi lỗ xi lanh ở thân máy.
Nhóm 1 Trang 51
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 52
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 53
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
không đảm bảo, cần phải điều chỉnh bằng cách thêm bớt tấm đệm đồng đỏ lót dưới gờ ống
lót
4.2.3.1. Hiện tượng hư hỏng, phương pháp kiểm tra, sửa chữa xu páp cơ bản
Nhóm 1 Trang 54
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 55
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 56
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 57
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
- Khi rà bằng bột rà mịn và dầu nhờn không nên xoay mà chỉ dập xu páp xuống, bảo
đảm kết quả nhanh hơn. Muốn cho xupáp tự nẩy lên sau mỗi lần ấn xupáp xuống có thể
dùng một lò xo nhỏ luồn vào thân xupáp.
- Trong quá trình rà mỗi lần chỉ nên xoay xu páp 1/4 - 1/2 vòng, nhưng phải thường
xuyên thay đổi vị trí rà để bột rà phân bố đều. Khi xoay về bên phải thì đè xu páp xuống,
khi xoay ngược lại thì nhấc lên. Khi rà phải luôn kiểm tra, không được gõ nhịp, thời gian rà
không nên quá dài, phải thường xuyên kiểm tra để tránh mài thành vệt rãnh sâu làm giảm
tuổi thọ của xu páp.
- Khi rà xong, yêu cầu mặt nghiêng ở đầu xu páp phải bóng láng, không có vết chỉ nào
và có vết sáng nặng phía trong mặt nghiêng, bề rộng khoảng 1,5 - 2mm, đồng thời phải đảm
bảo độ kín của xupáp lúc tiếp xúc với đế. Độ kín của xu páp có thể tiến hành kiểm tra như
đã hướng dẫn ở phần trên.
Sửa chữa thân xupáp bị cong
Khi thân xupáp bị cong thì phải nắn lại rồi mới mài, còn trường hợp chỉ bị mòn thì
phải mài hoặc thay xupáp mới, đồng thời thay luôn cả ống dẫn hướng để bảo đảm khe hở
lắp ghép.
Khi sửa chữa, phải đảm bảo đường kính thân xu páp nằm trong giới hạn cho phép, độ
cong trên chiều dài 100mm không được lớn hơn 0,03 mm, độ côn và độ ôvan không được
lớn hơn 0,02 mm.
Nhóm 1 Trang 58
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 59
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
4.2.3.2. Hiện tượng hư hỏng, phương pháp kiểm tra, sửa chữa đế xu páp
4.2.2.3. Hiện tượng hư hỏng, phương pháp kiểm tra, sửa chữa ống dẫn hướng xu páp
Nhóm 1 Trang 60
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Hình 4.24 - Kiểm tra độ mòn ống dẫn hướng bằng dụng cụ đo nhỏ và pan
me
Sử dụng một loại dụng cụ đo lỗ nhỏ (hình 21 - 17) để kiểm tra độ mòn của ống dẫn
hướng, điều chỉnh đầu đo sao cho đầu tròn tách ra vừa khít nhẹ trong ống dẫn hướng, sau đó
dùng pan me đo ngoài để đo đường kính đầu tròn của dụng cụ đo.
Nhóm 1 Trang 61
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Ngoài ra, có thể kiểm tra lắp xu páp vào ống dẫn hướng rồi kéo xu páp lên xuống
nhiều lần, cuối cùng bỏ tay ra, nếu xu páp tự dịch chuyển xuống nhờ trọng lượng của nó thì
khe hở lắp ghép vừa phảI, còn nếu xu páp không dịch chuyển xuống dưới được thì khe hở
quá chặt.
c. Phương pháp sửa chữa
Nếu ống dẫn hướng bị mòn quá giới hạn cho phép, không đảm bảo khe hở giữa xu páp
và ống dẫn hướng thì phải thay mới.
4.2.2.4. Hiện tượng hư hỏng, phương pháp kiểm tra, sửa chữa lò xo xu páp
Nhóm 1 Trang 62
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Điều chỉnh tay vặn để chiều dài lò xo đúng quy định, tuỳ theo mỗi loại lò xo. Dùng lực
ép cho đến khi nghe tiếng click thì dừng lại và đọc mô men trên cần xiết và nhân số đọc
được với 2.
Dùng bàn cân
Khi dùng bàn cân để đo độ đàn hồi của lò xo phải đặt lò xo lên bàn cân, khi ấn lò xo
xuống đến chiều dài quy định, yêu cầu lực chỉ trên cân phải lớn hơn lực nén quy định,
thường lực căng lò xo không được nhỏ hơn 1/10 lực căng ban đầu
Dùng lò xo mới
Khi dùng lò xo mới để so sánh với lò xo cũ, phải đặt lò xo cũ và lò xo mới nối tiếp
nhau rồi dùng êtô ép. Lò xo cũ có độ đàn hồi kém thì chiều dài sẽ ngắn hơn so với lò xo
mới. Tuỳ theo chiều dài hay độ đàn hồi này mà quyết định lo xo còn dùng được hay không.
Trong thực tế sử dụng, tuỳ theo loại động cơ, lực ép và chiều dài lò xo khi ép mà có
quy định cụ thể, cũng có thể lấy trong phạm vi sau đây: ép lò xo xuống còn 4/5 chiều dài tự
do thì lực ép phải đạt được trên 15 kg.
Muốn kiểm tra chiều dài tự do của lò xo
Dùng thước cặp để đo chiều dài tự do của lò xo, tất cả các lò xo cho phép sai lệch 1,6
mm của chiều dài tự do được nhà chế tạo quy định.
Nhóm 1 Trang 63
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 64
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Thay thế mới nắp cacte và các ron làm kín các khe hở
Động cơ ô tô cấu tạo từ nhiều bộ phận và trục. Để giữ dầu bên trong hệ thống luôn ổn
định và không bị rò rỉ ra ngoài, nhà sản xuất sẽ lắp có các gioăng cao su để làm kín vị trí
liên kết giữa nắp máy và thành máy (được gọi là “gioăng dàn cò”), phớt chặn dầu ở mỗi
trục.
Khi động cơ hoạt động, các trục sẽ quay liên tục, động cơ đang nguội được làm nóng
lên cả trăm độ C. Do các gioăng và phớt đa phần đều làm bằng cao su, khi vừa phải chịu lực
tác động cao, lại vừa chịu sự thay đổi chênh lệch nhiệt lớn sẽ nhanh bị lão hoá như mòn,
Nhóm 1 Trang 65
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
nứt, gãy, rách… Điều này làm dầu rò rỉ ra ngoàGioăng cao su, phớt dầu bị lão hoá là một
trong các nguyên nhân dẫn đến hiện tượng xe ô tô bị chảy dầu dưới gầm
Nhóm 1 Trang 66
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Thông thường tầm trên dưới 10.000 km vận hành, hệ thống “gioăng dàn cò” sẽ bắt đầu
co cứng. Gioăng phớt càng xuống cấp sẽ càng dễ tạo ra các khe hở. Kết quả là dầu máy bị
rò rỉ, gây hiện tượng xe chảy dầu
b. Sửa chữa, bảo dưỡng: Thay mới ron làm kín và phủ keo xám lắp các khe hở
Nếu chỗ rò rỉ nhỏ các thợ thường dùng chất trám chuyên dụng để trám kín lại, ngăn
tình trạng xe oto rò rỉ dầu. Chất trám này hoạt động tương tự như chất bảo dưỡng gioăng
cao su và phớt dầu giúp chúng có thể lấy lại được hình dạng ban đầu. Chất trám không làm
ảnh hưởng đến đường dẫn dầu.
Có thể sử dụng chất trám chuyên dụng để trám kín lại các vết hở gây rò rỉ dầu xe
Bu lông lỏng cũng là một trong các nguyên nhân phổ biến khiến xe ô tô bị chảy dầu
dưới gầm. Bởi đai ốc và khớp nối sẽ có xu hướng bị nới lỏng theo thời gian. Khi bu lông
lỏng, dầu máy dễ theo đó rò rỉ ra ngoài.
Khi phát hiện xe bị chảy dầu dưới gầm cần kiểm tra và xử lý ngay bởi nếu chậm trễ sẽ bị lỗi
xe hao dầu, thiếu dầu, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của động cơ. Tuỳ theo
nguyên nhân xe oto chảy dầu mà sẽ có cách xử lý khác nhau.
Sửa chửa, bảo dưỡng : Kiểm tra và xiết chặt bu lông nắp máy, thân máy, cate
Nếu dầu bị rò rỉ do bu lông lỏng thì nên xiết chặt lại. Nếu đai ốc có hiện tượng lờn thì
tốt nhất nên thay mới. Mỗi mẫu xe thường có những thông số về kết cấu và dung sai khác
nhau để xiết bu lông. Nên lưu ý điều này khi xiết bu lông.
Nhóm 1 Trang 67
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 68
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Hệ thống phân phối khí được thiết kế để thực hiện điều đó. Hệ thống phân phối khí
có nhiệm vụ nạp đầy hỗn hợp hòa khí (xăng + không khí) hay không khí sạch vào xylanh
trong kỳ nạp và thải sạch khí cháy ra khỏi xylanh trong kỳ xả. Dựa vào nhiệm vụ trên, hệ
thống phân phối pháp đáp ứng được các yêu cầu khắc khe như:
Xupap cần được mở sớm và đóng muộn tùy theo kết cấu của từng loại động
cơ và điều kiện vận hành của động cơ.
Phải đóng mở đúng thời gian quy định.
Phải đảm bảo đóng kín buồng cháy trong kỳ nén và nổ.
Độ mở xupap phải đủ lớn để dòng khí dễ lưu thông vào buồng cháy.
Dễ dàng điều chỉnh, sửa chữa và các yêu cầu khác.
Nhóm 1 Trang 69
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Phân loại cơ cấu phân phối khí căn cứ vào cách thức đóng mở cửa nạp và cửa xả:
Cơ cấu phân phối khí dùng van trượt;
Cơ cấu phân phối khí dùng piston đóng cửa nạp và cửa xả (động cơ 2 kỳ);
Cơ cấu phân phối khí dùng upáp (cơ cấu phân phối khí xupáp treo “loại này
có hai loại loại trục cam trong thân máy và trục trên nắp máy” và xupáp đặt).
6.1.2. Cấu tạo một số bộ phận chính của hệ thống phân phối khí
a. Xupap
Nhiệm vụ: đóng mở các đường nạp và xả
Cấu tạo xupap gồm:
Nhóm 1 Trang 70
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Thân xupap: có nhiệm vụ dẫn hướng và làm kín nên phần thân xupap phải được gia
công với độ chính xác và độ bóng cao.
Ống dẫn hướng xupap: dẫn hướng chuyển động cho xupap, tránh hao cho mòn cho
thân hoặc nắp máy tại chỗ lắp xupap.
Đế xupap: để giảm hao mòn cho thân máy và nắp xy lanh khi chịu lực va đập của
xupap, người ta thường dùng đế xupap ép vào họng đường thải và đường nạp, có kết
cấudạng hình trụ, trên có vát mặt côn để tiếp xúc với mặt côn của nấm xupap, được làm
bằng thép hoặc gang hợp kim.
Công dụng: con đội là một chi tiết máy truyền lực trung gian, đồng thời con đội chịu
đựng lực nghiêng do cam phối khí gây ra trong quá trình dẫn động xupap, khiến cho xupap
có thể hoàn toàn không chịu lực nghiêng (trong cơ cấu phân phối khí xupap đặt).
Bộ phận chính và vật liệu sản xuất: kết cấu con đội gồm hai phần: phần dẫn hướng
(thân con đội) và phần mặt tiếp xúc với cam phối khí. Thân con đội đều có dạng hình trụ
còn phần mặt tiếp xúc thường có nhiều dạng khác nhau. Các loại con đội thường làm bằng
thép cacbon, gang.
Nhóm 1 Trang 71
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Phân loại: con đội hình nấm và con đội hình trụ
Con đội hình nấm được dùng rất nhiều trong cơ cấu xupap đặt. Thân con đội thường
nhỏ, đặc, vít điều chỉnh khe hở xupap bắt trên phần đầu của thân.
Nhóm 1 Trang 72
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Các con đội hình trụ đều có kết cấu rất đơn giản, nhẹ và dễ chế tạo. Thân con đội hình
trụ có kích thước vừa bằng đường kính mặt tiếp xúc.
;
Nhóm 1 Trang 73
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 74
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
c. Trục cam
Nhóm 1 Trang 75
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 76
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Dẫn động đai răng: được sử dụng nhiều nhất trên các ô tô con, nó có ưu điểm là ít ồn hơn
nhiều so với các phương pháp dẫn động khác, cũng không cần dầu bôi trơn, nhưng để sản
xuất được các dây đai cần phải có công nghệ cao
hình 6.10 – Dẫn động đai răng
Nhóm 1 Trang 77
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 78
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Đòn bẩy: hi tiết truyền lực trung gian một đầu tiếp xúc với đũa đẩy, một đầu tiếp xúc
với đuôi xupap. Khi trục cam nâng con đội lên, đũa đẩy đẩy một đầu của đòn bẩy đi lên, đầu
kia của đòn bẩy nén lò xo xupap xuống và mở xupap. Do có đòn bẩy, xupap mở đóng theo
đúng pha phân phối khí.
Hình 6.13 - Sơ đồ nguyên lý cơ cấu phân phối khí dùng xupáp đặt
Nhóm 1 Trang 79
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 80
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Hình 6.14 - Sơ đồ cấu tạo cơ cấu phân phối khí xupáp đặt 1. Đế xupáp; 2.
Xupáp; 3. ống dẫn hướng;4. Lò xo; 5. Móng hãm; 6. Đĩa chặn; 7. Bulông
điều chỉnh; 8. Đai ốc hãm; 9. Con đội; 10. Cam.
Nhóm 1 Trang 81
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Hình 6.15 - Sơ đồ nguyên lý cơ cấu phân phối khí dùng xupáp treo
1.Trục cam; 2. Con đội; 3. Lò xo xupáp; 4. Xupáp; 5. Nắp máy; 6. Thân máy; 7.
Đũa đẩy; 8. Đòn gánh; 9. Cò mổ
Nhóm 1 Trang 82
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Hình 6.16 - Sơ đồ cấu tạo cơ cấu phân phối khí xupáp treo 1.Bánh răng cam;
2. Cam xả; 3. Cam nạp; 4. Gối đỡ; 5.Con đội; 6. Xupáp; 7. Ống dẫn hướng;
8. Đũa đẩy; 9. Trục đòn gánh; 10. Cò mổ; 11. Lò xo xupáp;
12. Vít điều chỉnh;13. Bạc gối đỡ.
Nhóm 1 Trang 83
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Các dạng cơ cấu phân phối khí xupap treo thường gặp:
Hình 6.17 - Các dạng cơ cấu phân phối khí xu páp treo thường gặp 1- Xupap, 2-
Cần bẩy, 3 - Đũa đẩy, 4- Con đội, 5- Trục cam
a) Trục cam đặt trên thân máy dẫn động xupáp qua con đội, đũa đẩy và cần bẩy
b) Trục cam đặt trên nắp xylanh, dẫn động xupáp qua con dội và cần bẩy
c, d) Trục cam đặt trên nắp xylanh và dẫn động xupáp qua cần bẩy
e) Trục cam đặt trên nắp xylanh và dẫn động trực tiếp xupáp.
Nhóm 1 Trang 84
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
6.2.3. So sánh ưu nhược điểm cơ cấu phân phối khí dùng xupáp treo và xupáp
đặt
Khi dùng cơ cấu phân phối khí upáp đặt, chiều cao của động cơ giảm xuống
kết cấu nắp xi lanh đơn giản, dẫn động xupáp càng dễ dàng hơn.
Nhưng do buồng cháy không gọn, diện tích truyền nhiệt lớn nên tính kinh tế
của động cơ kém: Tiêu hao nhiều nhiên liệu ở tốc độ cao, hệ số nạp giảm làm giảm
mức độ cường hoá của động cơ.
Đồng thời khó tăng tỷ số nén, nhất là khi tỷ số nén của động cơ cỡ lớn, rất khó
bố trí buồng cháy. Vì vậy cơ cấu phân phối khí xupáp đặt thường chỉ dùng cho một số
động cơ xăng có tỷ số nén thấp, số vòng quay nhỏ.
Khi dùng cơ cấu phân phối khí xupáp treo, buồng cháy rất gọn diện tích mặt
truyền nhiệt nhỏ vì vậy giảm được tổn thất nhiệt.
Đối với động cơ ăng khi dùng cơ cấu phân phối khí xupáp treo, do buồng
cháy nhỏ gọn, nên có thể tăng tỷ số nén so với khi dùng cơ cấu phân phối khí xupáp
đặt.
Nhiệt độ quá cao trong buồng đốt có thể làm hỏng đế hoặc mặt bệ xupap (Vavle Seat
Face); hoặc cũng có thể do van EGR bị kẹt đóng, hay đóng cặn cacbon trong buồng đốt.
Nếu nhiệt độ cao có thể làm nứt đế/ mặt bệ xupap, điều này có thể gây ra:
Nhóm 1 Trang 85
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 86
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nhóm 1 Trang 87
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Nếu áp suất nén bị rò rỉ thông qua xupap nạp, ta có thể nghe thấy âm thanh lạ
từ bộ chế hòa khí (cũ) hoặc bướm ga.
Nếu áp xuất bị rò rỉ thông qua xupap xả, ta có thể nghe thấy tiếng ồn “bộp bộp
bộp” (tiếng pô ngắt quãng) từ ống xả, hoặc bô nổ k giòn.
Khi một trong số xupap gặp vấn đề, ta phải tháo nắp máy, kiểm tra mặt bệ xupap và
thay thế/ sửa chữa các xupap gặp vấn đề
Nhóm 1 Trang 88
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Động cơ bị nổ ngược xuất phát ở nhiều vấn đề: trên đường ống nạp – xả, cảm biến
MAF, rò rỉ chân không ở bầu trợ lực phanh và đường ống chân không, bơm nhiên liệu bị
nghẹt, hệ thống đánh lửa hoạt động không đúng cách (góc đánh lửa sai, hỏng bộ chia điện,
bugi mòn cực,…),… Tuy nhiên trong bài này chỉ đề cập đến việc hư hỏng trên cơ cấu phân
phối khí.
Thông thường trục cam sẽ được thiết kế nhằm để mở và đóng xupap nạp và xả. Trục
cam có chức năng giúp làm cho khí xả đi ra ngoài và khí nạp đi vào buồng đốt. Trường hợp
góc mở của xupap xả bị nhỏ lại chứng tỏ vấu cam xả đang bị mòn, lúc này trong xilanh sẽ
còn sót lại khí xả, khi xupap nạp mở khí xả này sẽ đi ra ngoài bằng đường ống nạp. Nếu vấu
cam vẫn ổn tiến đến kiểm tra lò xo xupap và đũa đẩy.
Nhóm 1 Trang 89
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Tình trạng này xảy ra khi xupap không thể đóng và làm kín buồng đốt đúng cách. Gây
ra tình trạng “tụt hơi”, giảm tỷ số nén của động cơ, hòa khí khó cháy hơn, công suất động
cơ giảm và trong nhiều trường hợp động cơ không khởi động được, xe bị rung, giật,
… Thông thường, điều này xảy ra do lò xo xupap bị yếu (thiếu tính đàn hồi) hoặc bị gãy,
nghiêng, khe hở nhiệt quá nhỏ hoặc muội than bám nhiều.
Nhóm 1 Trang 90
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Mặc dù các vấn đề cơ học là nguyên nhân chính gây ra việc xupap đóng không kín,
hoặc cũng có thể do tốc độ động cơ vượt quá mức cho phép cũng có thể ngăn xupap đóng
đúng cách, dẫn đến các vấn đề về hiệu suất động cơ.
Nhóm 1 Trang 91
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Con đội xu-páp/ con đội thủy lực bị kẹt, mòn hoặc hỏng cũng có thể gây ra âm thanh
lạch cạch. Tiếng lách cách này còn xuất hiện ở buồng xu pap hoặc nắp che giàn đòn gánh.
Do khe hở của đuôi xupap với con đội (khe hở nhiệt) quá lớn, thân xupap với ống dẫn
hướng quá lớn làm các chi tiết mòn nhanh, công suất động cơ giảm, thay đổi góc mở sớm,
đóng muộn của xupap hoặc làm cho hành trình mở xupap giảm,… Nếu vấu cam mòn lớn sẽ
giảm hành trình nâng con đội => Giảm độ mở xupap.
Bạn có thể nghe thấy tiếng gõ nhẹ hoặc tiếng ồn ào phát ra từ một hoặc nhiều trục cò
mổ khi xảy ra tình trạng trên (phát hiện bằng ống nghe).
Ngoài ra, tiếng lách cách này còn xuất hiện ở buồng xu pap hoặc nắp che giàn đòn gánh.
Nhóm 1 Trang 92
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Để biết âm thanh xuất phát từ đâu, tiến hành các kiểm tra sơ bộ ở cơ cấu phân phối
khí:
Nhóm 1 Trang 93
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Khe hở nhiệt quá lớn do con đội, vấu cam bị mòn hoặc con đội thủy lực bị chảy dầu.
Khi chạy ở tốc độ thấp, tại vị trí nắp đậy nắp máy có tiếng kêu lách tách rõ ràng và liên tục
do vấu cam va đập với con đội.
Nếu lò xo xu-páp bị gãy khi làm việc sẽ phát ra tiếng gõ nhẹ và thường kèm
theo hiện tượng máy yếu, rung do xuất hiện tình trạng xu-páp đóng không kín.
Trường hợp khe hở giữa thân xu-páp và ống dẫn hướng quá lớn ta có thể nghe
thấy tiếng gõ nhẹ với âm điệu trung bình (thường chỉ phát hiện được khi sử dụng thiết
bị nghe tiếng gõ chuyên dụng).
Nhóm 1 Trang 94
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Việc sai lệch pha phối khí có thể làm cho động cơ yếu, tăng tốc kém ở tốc độ cao, làm
việc không ổn định ở tốc độ thấp động cơ khó khởi động hoặc không thể khởi động được
(kèm theo tiếng va mạnh và đều ở xích cam hoặc dây đai), khí xả có màu đen và nhiều muội
than.
Thường chỉ xảy ra khi xích hoặc đai cam đã quá mòn và chùn, trong quá trình sửa
chữa do căn chỉnh không chuẩn.
Đặt cam sai, sai lệch nhỏ pha phân phối khí.
Khởi động khó nổ, nhưng vẫn nổ được và kèm theo tiếng nổ ở ống xả hoặc nổ dội lại bộ chế
hoà khí, động cơ hoạt động nhưng tăng tốc chậm và không chạy được chế độ không tải.
Nhóm 1 Trang 95
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Giảm áp suất nén, do mòn hở một vài xupap hoặc supáp không có khe hở.
Nhóm 1 Trang 96
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Bên cạnh đó, ống dẫn hướng xupap hoặc vòng chặn ống dẫn hướng với xupap bị mòn
(do bôi trơn kém), làm tăng khe hở giữa xupap và ống dẫn hướng. Do lúc đó, khe hở nhiệt
của xupap quá nhỏ, nấm và ổ đặt bị cháy rỗ (ở xupap thải thường xảy ra do va đập tiếp xúc
với nhiệt độ cao), dẫn đến lọt khí, làm tỷ số nén thấp. Khi khoảng hở của khe hở nhiệt bắt
đầu rộng hơn, dầu sẽ chạy dọc và lọt vào buồng đốt, đóng muội than.
Nhóm 1 Trang 97
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Khi xe hoạt động lâu ngày, hai bên của dây đai động cơ sẽ bị mòn và các lớp cao su sẽ
bị bong tróc. Bề mặt bị mòn làm kích thước giữa các bề mặt tiếp xúc nhỏ đi, gây giảm hiệu
Nhóm 1 Trang 98
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
quả truyền lực. Đồng thời nhiệt năng sinh ra do ma sát trong quá trình hoạt động sẽ làm chai
cứng dần bề mặt dây đai, thậm chí có khả năng làm nứt dây dẫn đến bị đứt. Bên cạnh đó,
dây đai cũng có thể bị kéo căng quá mức, hoặc một bộ phận nào đó trong liên quan đến
truyền động đai bị hỏng hóc có thể khiến dây đai bị trượt răng xích.
Nếu dây đai động cơ bị hỏng, ắc-quy sẽ không được sạc bởi máy phát không hoạt
động, điều hòa không khí sẽ không thổi không khí lạnh và trợ lực tay lái sẽ không hoạt
động. Ngoài ra, nếu dây đai kéo bơm nước bị đứt thì động cơ có thể bị quá nhiệt. Vì vậy,
phải thay thế dây đai ngay nếu phát hiện dấu hiệu hư hỏng để tránh gây thiệt hại nghiêm
trọng cho các chi tiết khác.
Những sự cố này có thể gây ra các vấn đề về hiệu suất động cơ như:
Tiếng gõ động cơ
Tăng mức tiêu thụ nhiên liệu
Thời gian đánh lửa chậm
Tổn thất công suất động cơ
Nhóm 1 Trang 99
Bảo dưỡng và sửa chữa ô tô GVHD: Nguyễn Văn Bản
Bất kỳ sự cố nào trong số này sẽ gây ra sự chùng xích giữa trục cam và đĩa xích trục
khuỷu. Khi xuất hiện tiếng ồn lạch cạch, việc xích bị mòn cũng ngăn cản sự đồng bộ hóa
giữa xupap và pít-tông, đồng thời làm mất công suất động cơ.
Hệ thống chia làm 2 loại: dùng bộ chế hòa khí và hệ thống phun xăng điện tử
Nhiên liệu được lấy từ bình nhiên liệu bằng bơm nhiên liệu và được phun dưới áp suất
bởi vòi phun. Áp suất nhiên liệu trong đường ống nhiên liệu phải được điều chỉnh để duy trì
việc phun nhiên liệu ổn định bằng bộ điều áp và bộ giảm rung động.
Được áp dụng phổ biến trên các dòng xe ô tô hiện nay nhằm giảm lượng khí thải, tiết
kiệm nhiên liệu và vận hành tốt hơn.
Mặt dù K-Jetronic và KE-Jetronic ra đời đã đáp ứng được tỷ lệ hỗn hợp theo yêu cầu
của các chế độ làm việc của động cơ theo hướng cải thiện đặc tính tải, tiêu hao nhiên liệu
kinh tế hơn, giảm ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên vẫn còn điều khiển bằng cơ khí kết hợp
điện tử. Để đạt hiệu quả cao hơn người ta đã chế tạo ra loại phun xăng hoàn toàn điều khiển
bằng điện tử (EFI). Hệ thống này cung cấp tỷ lệ khí hỗn hợp cho động cơ một cách tối ưu.
Tùy theo chế độ hoạt động của ôtô, EFI điều khiển thay đổi tỷ lệ xăng – không khí một
cách chính xác. Cụ thể ở chế độ khởi động trong thời tiết giá lạnh, khí hỗn hợp được cung
cấp giàu xăng. Sau khi động cơ đã đạt nhiệt độ vận hành, khí hỗn hợp sẽ nghèo xăng hơn.
Ở các chế độ cao tốc và tăng tốc khí hỗn hợp lại được cung cấp giàu xăng đúng yêu cầu.
Nhiệm vụ của hệ thống là bảo đảm hỗn hợp khí cháy có tỉ lệ lý tưởng (15:1). Bộ phận
chính của hệ thống điều khiển điện tử là bộ điều khiển trung tâm (ECU), nó nhận thông tin
từ
các cảm biến (nhiệt độ nước, nhiệt độ khí nạp, vị trí bướm ga, tín hiệu khởi động và cảm
biến oxy) cùng với tín hiệu đánh lửa và thông tin từ bộ phận đo lượng khí nạp. Sau khi xử
lý các tín hiệu thu được thì ECU sẽ phát tín hiệu điều khiển vòi phun vào luôn luôn tỷ lệ với
lượng khí nạp.
L-Jetronic (xuất phát từ chữ Luft trong tiếng Đức là không khí): với lượng
xăng phun được tính toán dựa vào lưu lượng khí nạp lấy từ cảm biến đo gió loại cánh
trượt. Sau đó có các phiên bản: LH – Jetronic với cảm biến đo gió dây nhiệt, LU –
Jetronic với cảm biến gió kiểu siêu âm…
Nếu phân biệt theo vị trí lắp đặt kim phun, hệ thống phun xăng AFC được chia làm
2 loại:
Ở những thế hệ đầu tiên xuất hiện từ 1979 đến 1986, kỹ thuật điều khiển chủ yếu dựa
trên các mạch tương tự (analog). Ở các hệ thống này, tín hiệu đánh lửa lấy từ âm bobine
được đưa về hộp điều khiển để, từ đó, hình thành xung điều khiển kim phun. Sau đó, đa số
các hệ thống điều khiển động cơ đều được thiết kế, chế tạo trên nền tảng của các bộ vi xử lý
(digital).
Hình 7.5 – Phun xăng trực tiếp
Phân loại theo hệ thống phun xăng trực tiếp và gián tiếp
Tăng công suất, tiết kiệm nhiên liệu và giảm thiểu khí xả độc hại vào môi trường là
những vấn đề các hãng xe luôn vươn tới. Lần lượt, hệ thống phun xăng điện tử rồi phun
xăng trực tiếp ra đời thay thế hoàn toàn cho bộ chế hòa khí.
Với động cơ 3.6L V6 trên chiếc Cadillac CTS, khi sử dụng hệ thống phun xăng điện
tử EFI công suất cực đại chỉ đạt 263 mã lực, mô-men xoắn cực đại đạt 253 lb/ft. Nhưng với
hệ thống phun xăng trực tiếp GDI, công suất cực đại tăng lên 304 mã lực và mô-men xoắn
cực đại 274 lb/ft. Ngoài ra mức tiêu thụ nhiên liệu cũng giảm xuống khoảng 0,5 lít cho
quãng đường 100km.
Trong những động cơ hiện đại, chúng ta thường nghe tới hệ thống phun xăng trực tiếp
GDI (Gasonline Direct Injection) hoặc hệ thống phun xăng điện tử EFI (Electronic Fuel
Injection). Vậy giữa 2 hệ thống nhiên liệu này có gì khác biệt?
Điểm khác biệt cơ bản nhất giữa GDI và EFI là vị trí của vòi phun nhiên liệu. Hệ
thống GDI sử dụng vòi phun nhiên liệu trực tiếp vào trong buồng cháy với áp suất lớn, còn
hệ thống EFI phun nhiên liệu bên ngoài buồng cháy - phun gián tiếp. Như vậy hệ thống
GDI, hỗn hợp (nhiên liệu, không khí) sẽ hình thành bên trong buồng cháy, còn EFI, hỗn
hợp sẽ hình thành bên ngoài rồi mới qua xupap nạp vào bên trong buồng cháy.
Bộ chế hòa khí hay bình xăng con là một dụng cụ dùng để trộn không khí với nhiên
liệu theo một tỉ lệ thích hợp và cung cấp hỗn hợp này cho động cơ xăng, hoạt động theo
nguyên tắc hoàn toàn cơ học.
Cấu tạo
Bộ phận cơ bản của bộ chế hoà khí là họng khuyếch tỏn (còn gọi là buồng hoà
khí), nó cấu tạo như một đoạn ống bị thắt lại ở đoạn giữa (venturi). Chính ở đoạn này
người ta bố trí ống phun của đường xăng chính.
Khi động cơ hoạt động, (bướm ga và bướm khí đều mở) không khí bị hút vào từ phía
trên, đi qua họng khuyếch tán. Tại đây, do tiết diện lưu thông bị thu hẹp lại, tốc độ của dòng
khí tăng lên làm áp suất giảm xuống tạo độ chân không hút nhiên liệu từ trong buồng phao
qua đường xăng chính và phun ra dưới dạng tia. Như vậy, xăng bị phun vào dòng khí có tốc
độ cao, hoà trộn với không khí và bay hơi để tạo thành hỗn hợp khí cháy.
Lượng khí được hút qua carburetor phụ thuộc vào độ mở của bướm ga: bướm ga mở
càng lớn thì lượng khí đi qua càng nhiều, nghĩa là tốc độ dòng khí ở họng khuyếch tán càng
tăng và lượng xăng bị hút vào càng lớn. Như vậy, bướm ga cho phép điều khiển hoạt động
của động cơ ở các chế độ tải khác nhau tuỳ theo điều kiện làm việc. Việc điều khiển bướm
ga được thực hiện nhờ một bàn đạp bố trí trong ca bin ôtô, thường được gọi là bàn đạp ga.
Đối với bộ chế hoà khí, áp suất trên mặt thoáng của buồng phao đóng vai trò rất quan
trọng, bởi vì lượng xăng mà nó cấp cho động cơ hoàn toàn phụ thuộc vào độ chênh áp giữa
họng khuyếch tán và mặt thoáng buồng phao.
1.
Chẩn đoán:
Khó khởi động
Xảy ta hiện tượng cháy không hoàn toàn ngắt quãng( khởi động nhưng động
cơ không nổ được
Tốc độ động cơ thấp
Động cơ chạy không êm
Ì động cơ, tăng tốc kém
Động cơ chết máy sau khi khởi động một thời gian ngắn
Bảo dưỡng và sửa chữa:
Dùng giáy nhám mịn đánh phẳng bề mặt tiếp điểm
Tiếp điểm bị mòn quá ½ hoặc nứt thì thay mới
Cuộn dây đứt thì thay mới
Thân, nắp bơm nứt hoặc hở thì thay mới
c. Hư hỏng bộ điều áp
Chẩn đoán
Dễ kích nổ
Phun không đều
Động cơ yếu
Động cơ không nổ
Bảo dưỡng và sửa chữa
Kiểm tra định kì
Vệ sinh sạch kim phun
Chú ý điện áp tiêu chuẩn khi đo kiểm điện áp là 11-14V
Kiểm tra điện trở từ 11,6 - 12,4 Ohm
Kiểm tra hở mạch thì điện trở dưới 1 Ohm
Cân bằng áp suất các kim phun bằng nhau
Hư thì phải thay mới
Động cơ đốt trong sử dụng nhiên liệu diesel không có bướm ga điều khiển công suất
như động cơ xăng. Thay vào đó kiểm soát công suất động cơ bằng điều chỉnh lượng mức
độ phun nhiên liệu.
Việc phân loại hệ thống cung cấp nhiên liệu diesel chủ yếu dựa vào bơm cao áp của
hệ thống nhiên liệu, cụ thể:
Hệ thống cung cấp nhiên liệu diesel sử dụng bơm cao áp dãy.
Hệ thống cung cấp nhiên liệu Diesel dùng bơm cao áp phân phối.
Hình 7.15 – Cấu tạo chi tiết hệ thống nhiên liệu Diesel
Chứa nhiên liệu và cung cấp nhiên liệu cho động cơ.
Thường có thùng nhiên liệu hàng ngày và thùng dự trữ. Thùng nhiên liệu cần có dung
tích đảm bảo chứa đủ số nhiên liệu cho động cơ hoạt động liên tục theo nhu cầu sử dụng.
b. Bơm thấp áp
Có chức năng hút nhiên liệu từ thùng chứa đẩy đến bơm cao áp. Hệ thống cung cấp
nhiên liệu diesel có thể không cần bơm thấp áp nếu bình chứa nhiên liệu đặt ở vị trí cao để
nhiên liệu có thể tự chảy xuống được.
Đầu kim phun nhiên liệu (hay còn gọi “đầu phun”) được giữ trong bộ giữ đầu phun
và gắn vào đầu xilanh động cơ. Nhiên liệu được nén dưới áp suất cao bởi bơm cao áp tới
đầu phun thông qua ống thép. Sau đó nhiên liệu được phun vào buồng đốt.
Trong hệ thống cung cấp nhiên liệu của động cơ diesel có các bộ phận rất dễ bị hư
hại như:
Đầu phun
Cặp piston-xilanh
Van triệt hồi, …
Các bộ phận này sẽ bị ảnh hưởng rất lớn nếu trong nhiên liệu có tạp chất. Do đó lọc
nhiên liệu có chức năng loại bỏ tạp chất để nhiên liệu được tinh chuẩn trước khi vào bơm
phun nhiên liệu.
e. Ống dẫn
Gồm có ống cao áp dẫn nhiên liệu có áp suất cao từ bơm cao áp đến vòi phun, ống
thấp áp dẫn diesel từ bình chứa đến bơm cao áp và dẫn nhiên liệu hồi về bình chứa.
f. Vòi phun
Có chức năng phun cao áp vào buồng đốt với cấu trúc tia nhiên liệu phù hợp với quá
trình đốt cháy. Ở một số hệ thống cung cấp nhiên liệu đặc biệt, cấu tạo vòi phun nhiên liệu
diesel còn có thêm chức năng định lượng và định thời.
Lưu trữ nhiên liệu áp suất cao trong ống Rail và phun vào xilanh của động cơ theo
thông số cài đặt bộ điều khiển ECU, cho phép phun nhiên liệu áp suất cao không phụ thuộc
vào tốc độ động cơ. Nhờ đó hệ thống Common Rail có thể làm giảm các chất gây hại như
oxit nitơ và phần tử hạt thải ra để tăng công suất động cơ.
Bơm cao áp
Có chức năng nén, định lượng và định thời gian phun nhiên liệu. Cụ thể nén nhiên
liệu đến áp suất rất cao rồi đẩy đến vòi phun. Điều chỉnh lượng nhiên liệu cung cấp vào
buồng đốt. Định thời điểm bắt đầu và kết thúc quá trình phun nhiên liệu. Ngoài ra có bơm
phun có nhiều loại khác nhau:
Nguyên lý làm việc của hệ thống nhiên liệu diesel diễn ra như sau: khi động cơ hoạt
động, nhiên liệu như dầu diesel từ bình chứa sẽ được đưa qua đường ống dẫn đến bầu lọc
thô và bơm áp thấp. Tại đây, nhiên liệu sẽ được lọc sạch và chuyển đến ngăn chứa của
bơm cao áp.
Trước khi vào xi lanh, nhiên liệu sẽ được bơm ở ngoài hòa trộn với không khí cho
đến khi đi vào xi lanh gặp áp suất và nhiệt bên trong sẽ tự bốc cháy, tạo ra động năng giúp
xe khởi động. Phần khí thải sau khi cháy sẽ theo ống xả di chuyển ra bên ngoài.
Vị trí đặt động cơ ở phía trước của Mercedes.động cơ đặt phía trước sẽ tăng không
gian ở khoang hành khách cũng như khoang hành lí phía sau.
Porsche Cayman sử dụng động cơ đặt giữa có momen quán tính thấp hơn đến 20%
so với Porsche 911 GT3 với động cơ đặt sau.
Động cơ đặt giữa đó là tối ưu hóa hiệu suất của xe. Trọng lượng của xe sẽ được phân
bố đều ra khi động cơ được đặt sau người lái và trước hệ dẫn động. Việc đặt động cơ nằm
giữa sẽ giúp các kĩ sư có thể phân phối trọng lượng của xe một cách dễ dàng hơn.
Lamborghini sử dụng động cơ đặt sau. Khi động cơ đặt phía sau, xe cũng được cung
cấp nhiều lực kéo nhất. Ngoài ra độ bám đường cũng được nâng cao với xe có động cơ đặt
sau
- Các dạng biến xấu như: nhỏ giọt khi phun, áp suất phun không đủ, thời điểm phun
không đúng... đều có biểu hiện chung là thay đổi màu sắc khí xả.
- Vì vậy khác với động cơ xăng là phân tích thành phần cháy của khí xả, thì ở động
cơ diesel người ta căn cứ vào màu sắc khí xả để chẩn đoán tình trạng kỹ thuật chung của
hệ thống cung cấp nhiên liệu, thông qua tỉ lệ CO2 có trong khí xả.
- Cần thường xuyên kiểm tra và làm sạch lỗ thông hơi ở thùng nhiên liệu, độ kíncủa
các đường, các vòi phun, bơm cao áp. Các mối nối có ren cần phải vặn chặt đúng mô men
cần thiết, nếu vặn không chặt dễ bị hở lọt hơi vào đường ống hoặc rò rỉ nhiên liệu, nếu
chặt quá dễ cháy ren. Các đường ống dẫn, thùng nhiên liệu, bầu lọc được định kỳ tháo rửa,
thổi sạch và thay thế những phần tử lọc phi kim loại đồng thời làm sạch đường ống nạp,
ống xả.
- Đối với động cơ diesel do phương pháp hòa trộn hỗn hợp công tác rất đặc biệt nên
kết cấu khá phức tạp khi làm sạch ta cần chú ý ở một số vị trí:
+ Đường ống thông gió các-te tới bầu lọc không khí.
+ Bộ phận tự hút bụi để làm sạch các phần tử của bộ lọc không khí bố trí trênđường
trích của ống xả và đường dẫn từ bầu lọc tới.
+ Bướm gió của hệ thống phanh phụ bố trí trên đường ống xả (ở một số loại xe).
- Công việc kiểm tra, điều chỉnh tùy thuộc vào mức độ trang thiết bị và yêu cầu của
các cấp bảo dưỡng mà tiến hành. Có thể kiểm tra nhanh ngay trên xe (chỉ kiểm tra được
một số bộ phận) hoặc kiểm tra trên thiết bị chuyên dùng.
- Lau sạch chóp nón của thiết bị, điều chỉnh vòi phun vào giữa hình chóp nón, chụp
kính bảo vệ.
- Tác động lên cần bơm (2), tạo áp lực để vòi phun, phun nhiên liệu, ta quan sát sự
hóa sương mù quanh chóp nón, yêu cầu phải đều, không tạo giọt, tạo vệt.
Nếu sương mù không đều, có giọt, có vệt là kim phun và đế kim phun mòn không đều
hoặc tắc một số lỗ phun (nếu có nhiều lỗ ngang) ta phải thông lỗ tắc hoặc thay bộ kim
phun - đế kim phun mới.
- Kiểm tra phần mặt côn làm việc của van và đế van tăng áp:
+ Quay trục cam của bơm cao áp để pít-tông của phần bơm kiểm tra ở ĐCD (mở
đường dầu vào – về), để van tăng áp đóng hoàn toàn.
+ Nối đường dầu cao áp ra của thiết bị (13-14) với đường dầu cao áp ra của phân bơm
cần kiểm tra van tăng áp.
+ Tác động lên cần bơm (2) của thiết bị tạo áp lực 25 MPa. Khi đã ổn định, quan sát
trên đồng hồ áp lực kế (9), sau thời gian 60 giây áp lực giảm không nhỏ hơn 20MPa, thì độ
kín giữa van và đế van tăng áp còn tốt.
Nếu áp lực giảm < 20MPa, ta phải rà lại phần mặt côn làm việc của van và đế van,
sau đó kiểm tra lại.
+ Dùng một vòng đệm hở, lắp vào mặt côn van tăng áp, để dầu có thể từtrên đỉnh van,
qua phần đệm hở ở mặt côn, xuống phần mặt trụ của van.
+ Lắp lên thiết bị kiểm tra giống kiểm tra phần mặt côn.
+ Tác động lên cần bơm (2), tạo áp lực 15MPa, dừng lại quan sát, sau 10 giây áp lực
lớn hơn 10 MPa thì độ kín của mặt trụ còn tốt, nếu áp lực nhỏ hơn 10 MPa thì thay van
tăng áp mới.
1. Đế kim phun 8. Đỡ lò xo
- Quay trục cam và kéo thanh răng để bơm ở vị trí cấp dầu lớn nhất và pít-tông đứng
ở giữa hành trình.
- Nối đường dầu cao áp ra của thiết bị (13-14), (hình 4.6) với đường dầu cao áp ra của
phân bơm kiểm tra.
- Tác động lên cần bơm (2) của thiết bị tạo áp lực 30 MPa sau thời gian 20 giây nếu
áp lực giảm còn không nhỏ hơn 20MPa thì độ kín giữa pít-tông – xy lanh bơm cao áp còn
tốt. Nếu áp suất còn dưới 20 MPa ta phải thay bộ đôi pít-tông – xy lanh bơm cao áp khác.
Ta lần lượt kiểm tra tất cả các phân bơm.
- Việc kiểm tra, điều chỉnh bơm cao áp được tiến hành trên các thiết bị chuyên dùng.
Trên hình 4.7, là sơ đồ nguyên lý thiết bị – 92IM có thể kiểm tra được tất cả các thông số
cần thiết của bơm cao áp thẳng hàng có đến 8 phân bơm. Các loại bơm cao áp kiểu phân
phối muốn kiểm tra trên thiết bị này phải dùng thêm bộ đồ gá dẫn động, kẹp chặt.
- Lắp bơm cao áp lên kiểm tra lên giá (15) và nối các đường ống dẫn nhiên liệu vào
thiết bị như trạng thái làm việc của nó trên động cơ.
1. Bơ cao áp cần kiểm tra 9. Tay điều khiển tấm chắn, bộ đếm chu
trình
2. Đường ống dẫn dầu áp suất cao 10. Trục dẫn động thiết bị thử
4. Cảm biến xác định thời điểm 12. Vạch chỉ thị của đĩa chia độ
phun
- Động cơ điện truyền chuyển động đến trục (10) của thiết bị, nhờ dây đai và qua
khớp nối (14) làm quay trục cam bơm cao áp (các khớp nối phù hợp với từng loại bơm cao
áp
riêng). Điều chỉnh tốc độ quay của trục cam bơm cao áp bằng cách, thay đổi tốc độ động cơ
điện dẫn động, và quan sát trên đồng hồ đo tốc độ của thiết bị.
- Kiểm tra, điều chỉnh lượng nhiên liệu cung cấp cho từng phân bơm và mức độ cung
cấp đồng đều giữa các phân bơm.
+ Tùy theo từng loại bơm mà người ta qui định lượng nhiên liệu tiêu chẩn cần đo sau
100 hay 200 lần phun của vòi phun. Trên thiết bị có bộ phận đặt chế độ chu trình tự động,
đo lượng phun nhiên liệu vào ống (7) được thực hiện nhờ cơ cấu (8). Các cơ cấu 6, 8, 9 sẽ
thực hiện đo nhiên liệu phun vào ống (7) theo số lần (số chu trình bơm) đã đặt sẵn (bắt đầu
đo tấm (6) mở ra, hết chu trình tấm (6) che các ống (7).
+ Cho thiết bị làm việc ta bắt đầu đo lượng nhiên liệu phun qua các vòi phun tiêu
chẩn (3) vào ống định lượng (7) ở các chế độ quay của bơm – khởi động – trung bình –
định mức sau một số chu trình nhất định tùy thuộc vào loại bơm.
+ Lượng nhiên liệu đo được ở các ống (7) được so sánh với các tiêu chẩn ở các chế
độ tốc độ với chu trình tương ứng của loại bơm đó và so sánh với nhau thông qua hệ số
không đều K. Hệ số không đều cho phép [K] không vượt quá (3÷5)%.
+ Khi lượng cung cấp nhiên liệu thu được ở các nhánh bơm đều không nằm trong
giới hạn cho phép ta phải tiến hành điều chỉnh từng phân bơm rồi kiểm tra lại, so sánh với
tiêu chẩn... đến khi đồng đều trong giới hạn cho phép là đạt yêu cầu.
+ Điều chỉnh từng phân bơm được chỉ rỏ trên Hình 4.8.Tiến hành điều chỉnh: Nới vít
hãm (2) để nới lỏng vành răng (3), xoay ống lót (1) chính là xoay pít-tông (5) để thay đổi
hành trình làm việc của pít-tông so với thanh răng (3).
Nếu xoay cùng chiều kéo với thanh răng theo xu hướng tăng nhiên liệu, thì lượng
nhiên liệu cung cấp của phân bơm đó sẽ tăng và ngược lại. Khi điều chỉnh, chú ý vị trí
thanh răng và hành trình của nó, hành trình thanh răng thông thường bằng (16 ± 0,2) mm.
- Sau khi đã bảo dưỡng, thử nghiệm, bơm cao áp được lắp vào vị trí của nó trên động
cơ phải tiến hành theo các bước.
+ Xác định pít-tông của xy lanh số 1 của động cơ phải ở ĐCT cuối hành trình nén
(quay trục khuỷu động cơ xác định dấu ở puli dẫn động đầu trục khuỷu trùng với dấu ở chi
tiết phụ bắt ở vỏ động cơ). Sau đó, quay ngược lại 100 - 150
+ Xác định thời điểm khởi phun của phân bơm thứ nhất của bơm cao áp (dấu trên vỏ
bơm cao áp trùng với dấu trên trục cam bơm cao áp).
+ Lắp các mặt bích vào vị trí và siết chặt các bulông bắt mặt bích.
+ Lắp các đường ống dẫn nhiên liệu tới bơm, từ bơm tới vòi phun theo thứ tự
+ Nổ máy, kiểm tra kín khít của các đường ống, điều chỉnh lại chế độ chạy chậm
không tải nếu thấy cần thiết.
Trong quá trình làm việc, hệ thống bôi trơn thường có các hiện tượng hư hỏng sau:
8.1.2. Phương pháp kiểm tra phát hiện hư hỏng hệ thống bôi trơn
Dùng thiết bị chuyên dùng bao gồm: bộ tai nghe, bộ que dò tiếng gõ động cơ
Vận hành động cơ đến nhiệt độ tiêu chuẩn
Tiến hành dùng các bộ nghe dò đặt vào các vùng có nhiều tiếng gõ của các cụm bầu
lọc ly tâm, bơm dầu và thay đổi tốc độ đông cơ để xác định rõ tiếng gõ của các chi tiết
Tổng hợp các giá trị âm thanh của các vùng thông qua cường độ, tần số âm thanh của
các vùng nghe để so sánh với các chi tiết tiêu chuẩn và dùng phương pháp loại trừ dần để
xác định được chi tiết hư hỏng
8.2. Hư hỏng và kiểm tra, chuẩn đoán áp suất, nhiệt độ và chất lượng dầu bôi trơn
8.2.1. Hiện tượng và nguyên nhân hư hỏng
Vận hành động cơ và kiểm tra áp suất dầu, nhiệt độ dầu tại các đường ống dầu và két
làm mát
Dùng thiết bị phân tích và so sánh để xác định chất lượng dầu bôi trơn
Tổng hợp các giá trị đo áp suất, nhiệt độ và chất lượng dầu để so sánh với các tiêu
chuẩn cho phép và dùng phương pháp loại trừ dần để xác định các chi tiết hư hỏng
Vận hành động cơ đến nhiệt độ tiêu chuẩn của động cơ (800 – 900C)
Quan sát và ghi nhận nhiệt độ dầu trên đồng hồ trong táp lô, hay lắp đồng hồ đo nhiệt
độ trên đường dầu chính.
Nếu nhiệt độ dầu quá thấp (nhỏ hơn 800C), chứng tỏ : van điều áp kẹt hỏng.
Nếu nhiệt độ đo quá lớn (lớn hơn 850C), chứng tỏ : két làm mát dầu tắc, bẩn, thiếu
dầu,van điều áp kẹt, hoặc dây đai quạt gió lỏng chùng.
Để xác định chính xác chi tiết hư hỏng cần phải dùng phương pháp loại trừ dần từng
hư hỏng bộ phận hoặc chi tiết trong hệ thống.
8.2.3. Kiểm tra tiếng gõ, ồn của hệ thống bôi trơn và chất lượng dầu bôi trơn
a. Chẩn đoán qua cảm nhận của giác quan con người
Dùng thiết bị chuyên dùng bao gồm: bộ tai nghe, bộ que dò tiếng gõ động cơ
Vận hành động cơ đến nhiệt độ tiêu chuẩn
Tiến hành dùng các bộ nghe dò đặt vào các vùng bầu lọc ly tâm, bơm dầu hoặc các te
dầu, đồng thời tăng giảm tốc độ đột ngột để xác định rõ tiếng gõ của cụm chi tiết.
Tổng hợp các giá trị âm thanh của các vùng thông qua cường độ, tần số âm thanh của
các vùng nghe để so sánh với các tiêu chuẩn và xác định tình trạng kỹ thuật của các cụm
bầu lọc và bơm dầu.
Khi tắt máy, lắng nghe tiếng ồn nhỏ đều phát ra từ bầu lọc ly tâm trong khoảng 1 phút,
chứng tỏ bầu lọc bình thường.
Nếu tiếng ồn khác thường, không đều và thời gian ngắn, chứng tỏ mòn bạc lót, hoặc
vênh bình quay, cong trục.
Bơm dầu có tiếng gõ ồn khác thường, tốc độ càng lớn, tiếng ồn càng tăng, chứng tỏ
bơm mòn xi lanh và bánh răng, hoặc gãy răng.
Để xác định chính xác chi tiết hư hỏng cần phải dùng phương pháp loại trừ dần từng
hư hỏng bộ phận hoặc chi tiết trong hệ thống.
Dầu bôi trơn nhanh loãng và kém chất nhờn, do dầu bôi trơn không đúng quy định.
Để xác định chính xác chi tiết hư hỏng cần phải dùng phương pháp loại trừ dần từng
hiện tượng và hư hỏng bộ phận hoặc chi tiết trong hệ thống.
Hệ thống làm mát cho ô tô bằng không khí có cấu tạo khá đơn giản, bao gồm 3 bộ
phận:
Cánh tản nhiệt và thân động cơ
Quạt gió
Bản dẫn gió
Trong đó, quạt gió là bộ phận nắm giữ vai trò quan trọng nhất, có tác dụng dẫn lượng
không khí từ môi trường bên ngoài vào khoang động cơ góp phần giảm nhiệt và làm mát
cho khu vực cánh tản nhiệt trên nắp xy-lanh và thân động cơ (khu vực hấp thụ nhiệt rất lớn
trong quá trình vận hành của động cơ).
Hệ thống làm mát bằng không khí có nguyên lý hoạt động khá đơn giản. Khi động cơ
vận hành, các cánh tản nhiệt trên nắp xy-lanh và thân động cơ sẽ hấp thụ nhiệt lượng từ quá
trình vận hành của động cơ. Khi đó, để giảm nhiệt độ của động cơ và tránh các hiện tượng
hỏng hóc do động cơ hoạt động ở nhiệt độ quá cao gây ra (như piston bó kẹt, dầu nhớt mất
tác dụng bôi trơn, thậm chí cháy nổ...), quạt gió lúc này sẽ dẫn không khí có nhiệt độ thấp
hơn từ môi trường bên ngoài vào bên trong khu vực này, giúp hạ nhiệt và làm mát khoang
động cơ.
Lượng không khí sau khi làm mát khoang động cơ sẽ được đưa ra ngoài. Tuy nhiên,
lượng không khí được luân chuyển vào hệ thống không đủ để làm mát hoàn toàn động cơ,
hiệu quả làm mát của hệ thống làm mát bằng không khí không cao. Chính vì vậy, hệ thống
làm mát bằng không khí hiện nay không còn được sử dụng nhiều trên ô tô, tuy nhiên, trên
xe máy thì vẫn có.
Mỗi dòng xe khác nhau mà kích thước két nước sẽ khác nhau.
Van chân không: có nguyên lý hoạt động ngược lại với van áp suất, hút nước từ
bình phụ vào két nước để duy trì hoạt động làm mát khi nhiệt độ nước tăng cao nhưng áp
suất trong két nước thấp.
- Van hằng nhiệt
Van hằng nhiệt được thiết kế tại vị trí giữa nắp xi lanh (giữa bình làm mát).
Van hằng nhiệt có chức năng kiểm soát sự lưu thông của nước làm mát giữa động cơ
và két nước:
Khi động cơ mới khởi động, van hằng nhiệt sẽ đóng đường trao đổi nước giữa động
cơ tới két làm mát để động cơ nhanh đạt tới nhiệt độ làm việc.
Khi động cơ hoạt động được một khoảng thời gian, nhiệt độ tăng, cao hơn mức cho
phép (khoảng 75 – 102 độ C), van hằng nhiệt sẽ mở đường trao đổi nước giữa động cơ và
két nước, bắt đầu quá trình làm mát.
- Bơm nước
Bơm nước được bố trí phía trước động cơ, thường là loại cánh gạt, có tác dụng hút và
đẩy một lượng lớn khối lượng nước làm mát từ két làm mát đến động cơ mà không làm gia
tăng áp suất trong hệ thống đi nhờ tận dụng lực ly tâm.
Khi tốc độ động cơ tăng, tốc độ bơm tăng, vận chuyển nhanh một lượng lớn lượng
nước làm mát vào động cơ, giúp quá trình làm mát động cơ được đáp ứng tương đương với
tốc độ nóng lên của động cơ trong quá trình vận hành.
Ưu điểm: Hiệu suất làm mát tốt hơn nhiều so với hệ thống làm mát bằng không khí;
đồng thời không gây ra tiếng ồn trong quá trình hoạt động.
Nhược điểm: cấu tạo phức tạp, giá thành cao do nhiều bộ phận, cần bảo dưỡng định kỳ
thường xuyên.
9.5. Chuẩn đoán hư hỏng và sửa chữa bảo dưỡng hệ thống làm mát
9.5.1. Hỏng Van hằng nhiệt
Van hằng nhiệt giúp điều khiển dòng nước giải nhiệt qua két làm mát khi nhiệt độ tăng
cao và giữ lượng nước đó trong máy khi chưa đủ nóng để tiếp tục hấp thụ nhiệt. Van hằng
nhiệt bị hỏng sẽ không thể tự động mở được khi nhiệt độ nước tăng cao, làm nước không
lưu thông qua két làm mát và nhiệt độ động cơ sẽ tăng mau, có thể gây hư hỏng nặng. Khi
van hằng nhiệt bị hư, bạn nên thay thế ngay van mới.
Bước 3: Kiểm tra nhiệt độ của ống tản nhiệt. Khi động cơ bắt đầu quá nóng, sử dụng
súng nhiệt độ (nhiệt kế hồng ngoại laser) để kiểm tra nhiệt độ của cả hai ống tản nhiệt.
Tiếp tục theo dõi nhiệt độ của cả hai ống, nếu động cơ bắt đầu quá nóng hơn mức quy
định từ (82 -102 độ C) và cả hai ống tản nhiệt đều lạnh hoặc chỉ có một ống nóng, thì van
hằng nhiệt bị hỏng.
b. Bảo dưỡng sữa chửa
Thay thế bộ điều chỉnh Van hằng nhiệt
9.5.2 Hỏng két nước (Két nước bị nghẹt)
Két nước được cấu tạo từ những đường ống nhỏ hẹp và qua quá trình sử dụng lâu ngày
các cặn gỉ sẽ tích lũy làm nghẹt dòng. Khi đó dòng nước sẽ không được thông suất trong két
làm mát khiến nước không giải nhiệt được tốt, tăng áp lực trên các dòng và dễ gây rò rỉ.
Trường hợp này bạn hãy kiểm tra bằng việc súc két nước và nên thông két nước nếu có hiện
tượng nghẹt để đảm bảo cho việc giải nhiệt của két nước.
Bước 3: Kiểm tra tắc nghẽn bên ngoài. Kiểm tra mặt trước của bộ tản nhiệt và tìm
kiếm bất kỳ mảnh vỡ, bụi bẩn nào làm tắc bên ngoài bộ tản nhiệt.
b. Bảo dưỡng sữa chửa
- Nếu bộ tản nhiệt bị tắc bên trong, nó phải được thay thế
- Nếu nó bị tắc ở bên ngoài, thì bạn thường có thể làm sạch nó bằng khí nén hoặc xịt
nước.
-Để đảm bảo két nước làm mát ô tô hoạt động tốt, không bị trục trặc nên kiểm tra, vệ
sinh két nước và thay nước làm mát ô tô định kỳ. Khuyến cáo nên súc rửa két nước và thay
nước làm mát ô tô định kỳ sau mỗi 40.000 – 60.000 km vận hành (hoặc sau 2 – 3 năm).
9.5.3. Hỏng quạt giải nhiệt
Quạt giải nhiệt sử dụng lâu ngày, chịu tác động của nhiệt độ cao nên lớp keo cách điện
sẽ chảy và làm motor quạt bị hư, cánh quạt bằng nhựa cũng có thể giòn và bị gãy, vỡ làm
quạt khong đồng tâm và không sử dụng được. Khi quạt bị hư ta nên thay thế quạt giải nhiệt
mới phù hợp.
Mở mui xe và xác định vị trí quạt làm mát tản nhiệt. Đây có thể là quạt điện hoặc quạt
cơ do động cơ điều khiển.
Bước 2: Làm ấm động cơ. Khởi động xe của bạn và cho phép động cơ chạy cho đến
khi nó bắt đầu nóng.
Bước 3: Kiểm tra quạt làm mát. Khi động cơ bắt đầu vượt quá nhiệt độ hoạt động bình
thường, hãy xem quạt làm mát. Nếu quạt làm mát điện không bật hoặc nếu quạt cơ không di
chuyển với tốc độ cao, thì có vấn đề với chức năng của nó.
Nếu là quạt cơ không hoạt động, phải thay thế bộ ly hợp quạt. Nếu quạt làm mát bằng
điện, mạch điện phải được chẩn đoán trước khi thay quạt.
b. Bảo dưỡng sữa chửa
- Nếu là quạt cơ không hoạt động, phải thay thế bộ ly hợp quạt
- Nếu quạt làm mát bằng điện, mạch điện phải được chẩn đoán trước khi thay quạt.
9.5.4 Hỏng ống dẫn nước bị rò rỉ
Ống dẫn nước được làm bằng cao su và lâu ngày sẽ bị chai, giòn gây rò rỉ làm hao hụt
nước làm mát dẫn đến thiếu nước giải nhiệt cho động cơ.
Như vậy, hệ thống làm mát ô tô không chỉ có công dụng giúp làm mát, duy trì nhiệt độ
phù hợp cho động cơ ô tô vận hành ổn định mà thông qua đó còn giúp tiết kiệm nhiên liệu,
giảm khí thải và kéo dài tuổi thọ cho động cơ ô tô.
Cấu tạo chi tiết của máy phát điện ô tô gồm các bộ phận sau:
- Stator và Rotor: Tạo ra dòng điện xoay chiều để chuyển đổi cơ năng thành điện năng.
- Đi-ốt: Chuyển đổi dòng điện xoay chiều thành một chiều, cho phép dòng điện đi theo
một hướng từ máy phát điện sang pin.
- Bộ điều chỉnh điện áp: Có tác dụng giúp duy trì điện áp ở mức ổn định, ngăn chặn sự
gia tăng đột ngột của dòng điện tạo ra.
- Chổi than và cổ góp: Có tác dụng giảm điện trở và điện trở tiếp xúc, từ đó duy trì độ
ổn định của nguồn điện tạo ra. Đồng thời, bộ phận này còn có khả năng hạn chế sự bào
mòn.
- Quạt làm mát: Nằm ở bên trong hoặc bên ngoài của máy phát điện, máy làm mát
nhằm đảm bảo sự an toàn cho các bộ phận. Quạt giúp tản nhiệt, ngăn chặn sự nóng lên quá
mức dẫn đến hư hỏng hoặc cháy nổ.
10.1.2. Chuẩn đoán hư hỏng và bảo dưỡng sửa chữa của hệ thống máy phát
a. Xe khó khởi động
Chuẩn đoán hư hỏng: dinamo ô tô đang gặp vấn đề, do bình ắc-quy không
được sạc do dinamo xe oto hỏng dẫn tới không đủ điện áp để khởi động động cơ.
Sửa chữa, bảo dưỡng:
Khi xe ô tô của bạn gặp tình trạng khó nổ, bạn nên kiểm tra những thứ sau:
Pin chìa khóa, điện bình ắc quy, nhiên liệu còn hay hết. Với những tình huống này
bạn hoàn toàn có thể tự xử lý được như thay pin chìa khóa, thay bình ắc quy hoặc
câu bình ắc quy, bổ xung thêm nhiên liệu vào xe ô tô của bạn
Có nhiều tình trạng khiến cuộn kích hư hỏng như: cuộn kích bị đứt, cuộn kích chạm
mát hay cuộn kích bị ngắn mạch. Nguyên nhân dẫn tới tình trạng này là do các đầu của
cuộn kích tới các vòng tiếp xúc không tốt, khiến cho từ thông giảm xuống nên điện áp nhỏ
và dòng điện không thể đi ra mạch ngoài.
Sửa chữa bảo dưỡng: Thay thế mới bộ tiết chế máy phát điện
10.1.3. Cách kiểm tra máy phát điện ô tô và sửa chữa
Để hạn chế những hư hỏng dẫn tới việc phải sửa máy phát ô tô khiến bạn tốn kém, bạn
nên thường xuyên kiểm tra tình trạng hoạt động của máy phát điện để phát hiện ra những
vấn đề bất thường.
Việc kiểm tra máy phát xe ô tô khá đơn giản. Bạn chỉ việc chuẩn bị cho mình một
đồng hồ đo điện và thực hiện theo những bước sau:
Khi đo điện áp trong khi nổ máy và điện áp lớn hơn lúc xe đang tắt máy (khoảng 13.4
– 14.2 Volt) thì có nghĩa máy phát điện đang hoạt động tốt. Ngược lại, nếu điện áp không
nằm trong khoảng này thì có nghĩa máy phát điện của đang gặp vấn đề.
Hình 10.4 – Cấu tạo máy khởi động loại giảm tốc
c. Máy khởi động loại bánh răng hành tinh
Máy khởi động loại bánh răng hành tinh sử dụng bộ truyền hành tinh để giảm tốc độ
quay lõi của motor. Bánh răng dẫn động khởi động ăn khớp với vành răng thông qua cần
dẫn động, giống như máy khởi động thông thường.
d. Máy khởi động PS
Hệ thống khởi động có máy khởi động này sử dụng các nam châm vĩnh cửu đặt trong
cuộc cảm. Cơ cấu đóng ngắt hoạt động tương tự máy khởi động loại bánh răng hành tinh.
10.2.2. Các bộ phận trên máy khởi động
Hình 10.9 – Bánh răng dẫn động khởi động và then xoắn
Bánh răng dẫn động khởi động và vành răng truyền lực trong hệ thống khởi động quay
từ máy khởi động tới động cơ nhờ sự ăn khớp an toàn. Bánh răng dẫn động khởi động được
vát mép để có thể dễ dàng ăn khớp với nhau. Then xoắn chuyển lực quay vòng của motor
trở thành lực đẩy bánh răng dẫn động khởi động, đồng thời trợ giúp cho việc ăn khớp và
ngắt sự ăn khớp của các bánh răng dẫn động khởi động với vành răng.
Hoạt động như là một công tắc chính của dòng điện chạy tới motor và điều khiển bánh
răng dẫn động bằng cách đẩy nó ăn khớp với vành răng khi bắt đầu khởi động, và kéo nó ra
sau khi đã khởi động. Cuộn kéo được cuộn bằng dây có đường kính lớn hơn cuộn giữ, và
lực điện từ của nó tạo ra lớn hơn lực điện từ được tạo ra bởi cuộn giữ.
a. Công tắt từ
Công tắc từ gồm có hai chức năng: Đóng ngắt motor và an khớp và ngắt bánh răng
khởi động dẫn động khởi động với vành răng. Công tắc này hoạt động theo ba bước khi
máy khởi động hoạt động là: Hút vào – Giữ – Hồi vị.
Nếu hở mạch trong cuộn hút, thì nó không thể hút được piston. Vậy nên máy khởi
động không thể khởi động được (không có tiếng động hoạt động của công tắc từ).
Nếu hởi mạch trong cuộn giữ, thì nó sẽ không thể giữ được piston và có thể khiến
piston đi vào/nhảy ra liên tục.
Nếu công tắc chính tiếp xúc kém, thì dòng điện đi tới cuộn cảm và phần ứng diễn ra
rất khó khăn và tốc độ của máy khởi động sẽ giảm xuống.
Hình 10.10 – Nguyên lý hoạt động của máy khởi động (hút vào)
Khi hệ thống khởi động mở khóa điện ở vị trí Start, dòng điện của ắc quy đi vào cuộn
giữ và cuộn kéo. Sau đó dòng điện sẽ đi từ cuộn kéo tới phần ứng thông qua cuộn cam làm
quay phần ứng với tốc độ thấp.
Việc tạo ra lực điện từ trong các cuộn giữ và cuộn kéo sẽ làm từ hóa các lõi cực. Vậy
nên piston của công tắc từ bị kéo vào lõi cực của nam châm điện. Nhờ sự kéo này mà bánh
răng dẫn động khởi động bị đẩy ra và ăn khớp với vành răng bánh đà, đồng thời đĩa tiếp xúc
sẽ bật công tắc chính lên.
b. Giữ:
Hình 10.11 – Nguyên lý hoạt động của máy khởi động (Giữ)
Khi công tắc chính được bật lên, thì không có bất kỳ dòng điện nào chạy qua cuộn hút
(vì 2 đầu đẳng áp), còn cuộn cảm và cuộn ứng sẽ nhận dòng điện trực tiếp từ ắc quy. Cuộn
dây phần ứng sau đó bắt đầu quay với vận tốc cao và động cơ được khởi động. Ở thời điểm
này, pitton được giữ nguyên tại vị trí chỉ nhờ lực điện từ của cuộn giữ vì không có lực điện
từ chạy qua cuộc hút.
c. Nhả hồi về
Hình 10.12 – Nguyên lý hoạt động của máy khởi động (hút vào)
Khi khóa điện được mở từ vị trí Start sang vị trí On, dòng điện từ phía công tắc chính
sẽ đi tới cuộn giữ qua cuộn kéo. Ở thời điểm này, vì lực điện từ được tạo ra bởi cuộn kéo và
giữ triệt tiêu lẫn nhau nên không giữ được pittong. Vậy nên, pittong bị kéo lại nhờ lò xo hồi
vị và công tắc chính bị ngắt khiến máy khởi động dừng lại.
10.2.5. Chuẩn đoán hư hỏng và sửa chữa bảo dưỡng hệ thống máy khởi động
Vệ sinh cổ góp điện, kiểm tra sự tiếp xúc của chổi than và cổ góp nếu cần rà
lại hoặc thay mới chổi than rồi rà với cổ góp. Hàn lại chỗ đứt, chở mạch.
Kiểm tra cuộn hút, cuộn giữ, tiếp điểm đồng.
Kiểm tra cuộn dây điện tử của rơle bảo vệ và rơle kéo, các mối nối dây.
b. Máy khởi động quay chậm:
Cân cam ô tô là cân chỉnh vị trí trục cam để điều khiển các xupap nạp và xả đúng
thời điểm đầu kỳ nổ của buồng đốt khi piston đạt đỉnh chết trên.
Các động cơ xăng và dầu thông dụng hiện nay sử dụng loại động cơ 4 thì hoặc gọi là
(4 chu kỳ) nạp + nén + nổ + xả.
Trong kỳ nạp – xupap nạp sẽ được mở để đưa lượng không khí và nhiên liệu cần sử
dụng vào buồng đốt.
Trong kỳ nén và nổ – xupap nạp và xả sẽ được đóng kín để piston nén được áp suất
cao nhất.
Trong kỳ xả – xupap xả sẽ được mở để piston đẩy lượng hổn hợp không khí đã được
đốt cháy ra khỏi buồng đốt.
Thời điểm chuyển động của trục cam sẽ ảnh hưởng trực tiếp vào 4 chu kỳ của động
cơ.
Để cho động cơ hoạt động đạt hiệu suất cao nhất thì:
Trục cam phải điều khiển 2 xupap nạp và xả được đóng kín đúng ngay chu kỳ nén của
động cơ.
Piston phải di chuyển đến đỉnh cao nhất. Khi đó piston sẽ tạo ra áp suất nén cao nhất ở
chu kỳ nổ và đạt công suất lớn nhất của động cơ.
Mục đích:
Trong quá trình động cơ làm việc, trục cam điều khiển sự đóng mở của các xú pap,
trục khuỷu điều khiển sự chuyển động lên xuống của các piston.
Do vậy, khi lắp ráp phải bảo đảm chuyển động của piston phải đúng với chuyển động
của xú pap, vị trí lắp đúng này được gọi là cân cam.
Khi xảy ra hư hỏng như đứt dây curoa cam hoặc khi thay mới dây curoa, buly tăng đơ,
thay ron quilat, các bạc đạn đỡ dây curoa và khi đại tu động cơ…. thì trục cam sẽ bị lệch.
Khi đó cảm biến trục cam sẽ nhận sai thời điểm đánh lửa và trục cam điều khiển các
xupap không đúng chu kỳ (sớm hoặc muộn). Sự sai lệch của trục cam sẽ làm giảm hiệu suất
hoạt động của động cơ và xảy ra các hiện tượng như: khó khởi động, khởi động được nhưng
hoạt động không đều.
Để cân chỉnh lại đúng chu kỳ hoạt động của buồng đốt chúng ta cần sử dụng những
dụng cụ cân cam theo hãng và từng dòng xe.
Tuy nhiên 1 số dòng xe sử dụng trục cam thông minh nhưng vẫn có dấu đặt cam. Khi
đó để thao tác sửa chữa chúng ta không cần sử dụng các dụng cụ cân cam. Chỉ cần sử dụng
dụng cụ khóa cố định trục cam.
Ngày nay công nghệ đã thay đổi nhiều, trên các dòng xe sử dụng các loại trục cam
thông minh (các loại cam biến thiên VVT-I / TOYOTA, IVTEC/HONDA,
MIVEC/MITSUBISHI) …, không còn sử dụng các dấu đặt cam như các dòng xe trước đây
vì vậy để cân chỉnh được chính xác vị trí trục cam ta cần phải có dụng cụ chuyên dùng.
Tùy theo động cơ của từng hãng xe mà các dấu lắp ráp cơ cấu phân phối khí sẽ được
bố trí ở những vị trí khác nhau. Sau đây, chúng tôi sẽ nêu ra một số trường hợp thường gặp
phải nhất.
B1. Tháo nắp đậy máy và nắp mặt trước của bộ truyền động đai
B2. Quay trục khuỷu theo chiều quay sao chõ rãnh khuyến trên puli trùng với điểm 0
trên vạch chia độ (Pittoong số 1 ở ĐCT).
B3. Kiểm tra dấu của bánh đai cam. Bạn có thể đánh dấu trên dây đai để khi lắp ráp lại
được diễn ra thuận lợi hơn.
B4. Nới lỏng bánh căng đai khoảng ½ vòng, sử dụng tuốc nơ vít bẩy bánh căng đai
theo chiều nới lỏng dây đai và xiết chặt bánh căng đai.
B6. Dùng dụng cụ chuyên dụng để tháo đai ốc đầu trục khuỷu.
B7. Dùng cảo tháo puli dẫn động đầu trục khuỷu và tháo nắp đậy mặt dưới.
B9. Đánh dấu dây đai với bánh răng trục khuỷu. Tháo dây đai ra ngoài.
B11. Lắp bánh căng đai mới và lò xo. Đẩy bánh căng theo hướng chùng đai và xiết
chặt nó lại.
B1. Kiểm tra lại vị trí điểm chết trên trục khuỷu và dấu trên bánh răng trục cam.
B2. Lắp đai cam vào động cơ đúng với vị trí ban đầu của nó.
B3. Nới lỏng bánh căng đai khoảng ½ vòng. Quay trục khuỷu 2 vòng và kiểm tra lại
dấu cân cam.
B5. Lắp miếng chặn đai cam và chú ý mặt cong hướng ra ngoài.
B6. Lắp trở lại các miếng che đầu động cơ.
B3. Nới lỏng đều từ ngoài vào trong, tháo cò mổ và trục cò mổ ra khỏi nắp máy.
B5. Sử dụng dụng cụ chuyên dụng để tháo đai ốc đầu trục khuỷu. Lấy Puli đầu trục
khuỷu ra ngoài.
B6. Tháo nắp đậy xích cam ở mặt trước của động cơ.
B8. Kiểm tra dấu cân cam: xoay trục khuỷu cho pittong số 1 ở điểm chết trên. Kiểm
tra dấu trên trục cam và dấu trên trục khuỷu phải trùng tương ứng với dấu trên xích cam.
Nếu cần thiết, đánh dấu trước khi tháo.
B9. Dùng cảo tháo bánh răng xích và lấy cả bộ truyền động xích ra ngoài.
B11. Tháo các con vít lắp ghép tấm chận dọc trục cam, nâng nhẹ trục cam và rút nó ra
khỏi các ổ đỡ.
B12. Vệ sinh các sạch sẽ các chi tiết và sắp xếp chúng theo thứ tự.
B2. Lắp miếng sắt chận dọc ở đầu trục cam và xiết chặt nó lại.
B4. Xoay trục khuỷu sao cho then trên đầu trục khuỷu hướng lên theo phương thẳng
đứng.
B5. Xoay trục cam cho then trên đầu trục cam cũng hướng lên theo phương thẳng
đứng giống với trục khuỷu.
B6. Lắp xích cam vào hai bánh răng đúng theo đánh dấu đã định sẵn.
B7. Lắp bộ truyền động xích cam vào trục khuỷu và trục cam.
B8. Lắp đai ốc đầu trục cam và xiết chặt đúng momen.
B9. Lắp bộ căng xích cam và các bộ phận còn lại vào.
Đây là trường hợp trục cam được bố trí ở thân máy, khoảng cách giữa trục cam và trục
khuỷu là gần nhau. Hiện nay, loại này thường rất ít gặp. Phương pháp cân cam động cơ ô tô
cũ này được thực hiện như sau:
B1. Quay dấu trên bánh răng trục khuỷu nằm trên đường thẳng đứng qua tâm trục
khuỷu và trục cam.
B2. Lắp trục cam vào thân máy sao cho dấu trên bánh răng cam trùng với dấu trên
bánh răng trục khuỷu.
B3. Xiết chặt miếng chặn chuyển động dọc của trục cam vào thân máy.
Hình 11.14 - Phương pháp cân cam động cơ đối với động cơ cũ
c. Cơ cấu OHD – Truyền động xích
Ở cơ cấu này, trục cam được lắp đặt trên nắp máy và phương pháp lắp xích cam vào
động cơ có hơi phức tạp. Ví dụ động cơ 1RZ và 2RZ. Bạn nên đánh dấu trước khi thao ra để
khi lắp lại không bị quên.
B1. Quay trục khuỷu cho tới khi rãnh then trên đầu trục khuỷu hướng lên trên.
B2. Lắp bánh răng truyền động xích cam vào đầu trục khuỷu.
B3. Lắp ống dầu bôi trơn bộ truyền động xích cam.
B4. Lắp bộ thanh đỡ xích và thanh căng sên vào thân máy.
B5. Lắp xích cam vào bánh răng cốt máy và bánh răng cam sao cho dấu trên bánh răng
cam hướng lên trên.
B6. Dùng dây cột thanh đỡ xích và thanh căng xích như hình vẽ.
B7. Lắp nắp đậy xích cam vào thân máy và xiết đúng lực.
B11. Lắp bánh răng cam vào trục cam và xiết chặt.
B12. Đẩy pittong căng xích vào sát thân của nó và dùng móc giữ lại.
B13. Lắp bộ căng xích cam vào thân máy và xiết chặt.
B14. Quay trục khuỷu theo chiều quay để cho pittong bộ căng xích bung ra. Nếu
không được, hãy sử dụng tuốc nơ vít xeo nhẹ hoặc dùng tay kéo thanh đỡ xích cam ra ngoài
và buông tay, pittong sẽ đẩy thanh căng xích cam.
Dấu điểm chết trên ở trục khuỷu thường như nhau ở các loại động cơ. Nhưng dấu trên
bánh răng cam thì lại rất đa dạng. Nên đánh dấu cơ cấu truyền động trục cam trước khi tháo,
nhất là truyền động bằng xích cam.
Ở một số động cơ, dấu cân cam được đánh ở các bánh răng như: bánh răng trục cân
bằng, bánh răng trục khuỷu… Khi lắp các dấu này phải lắp đúng vị trí của nó. Dấu cân cam
còn có một số dạng như sau.
Cân lửa là công việc lắp bộ chia điện vào động cơ sao cho có tia lửa điện xuất hiện ở bu
gi lúc pít tông ở cuối thì nén và đúng điểm đánh lửa do nhà chế tạo qui định.
B1. Xác định: thứ tự xy lanh, chiều quay trục khuỷu, TĐT của pít tông số 1, thứ tự thì
nổ của động cơ.
B2. Xác định điểm đánh lửa của xy lanh số 1: xem dấu cân lửa ghi ở pu ly, dấu này
nằm ở phía trước của dấu TĐT. Thí dụ các dấu 5 độ, 10 độ, … nằm trước dấu TĐT là 0 độ.
- Dùng tay xoay mỏ quẹt, chiều nào cảm thấy kéo căng được lò xo của bộ đánh lửa
sớm tự động bằng lực ly tâm là chiều quay đúng. Thí dụ như hình bên, mỏ quẹt (lắp phía
trên camcắt điện) có chiều quay trái (ngược chiều kim đồng hồ).
B1. Quay trục khuỷu theo chiều quay cho đến khi pít tông số 1 lên gần TĐT đúng
điểm đánh lửa (dấu cân lửa ở pu ly trùng dấu chỉ thị) và phải ở cuối thì nén (2 xú páp của xy
lanh 1 đều đóng hoặc 2 xú páp của xy lanh 4 trùng điệp).
B2. Điều chỉnh khe hở tối đa của mặt vít lửa là 0,4mm bằng cách: nới vít siết vỏ bộ
chia điện, xoay bộ chia điện cho mặt vít lửa mở tối đa (cam đội đến đỉnh) rồi kiểm tra khe
hở giữa 2 mặt vít lửa. Nếu đạt yêu cầu thì thôi, nếu không đạt yêu cầu thì nới vít khóa vít
đe, sau đó xoay vít lệch tâm hoặc khe điều chỉnh để đạt khe hở là 0,4mm, xong siết vít khóa
lại.
B3. Tìm điểm chớm mở của vít lửa: để cho mặt vít lửa ngậm lại rồi xoay từ từ vỏ bộ
chia điện theo ngược chiều quay của mỏ quẹt đến khi nào vít lửa chớm mở thì dừng lại. Siết
nhẹ vỏ bộ chia điện lại.
B4. Gắn mỏ quẹt ngay khớp với trục bộ chia điện, ghi chú mỏ quẹt quay về hướng nào
để sau khi đậy nắp bộ chia điện lại, ta lắp dây cao áp (dây field) từ hướng đó đến bu gi số 1.
B5. Lắp các dây cao áp còn lại dựa theo chiều quay của mỏ quẹt và TTTN của động
cơ.
B6. Kiểm tra nước làm mát, dầu bôi trơn, nhiên liệu, kiểm soát lại đường dây của hệ
thống đánh lửa lần cuối trước khi khởi động cho động cơ nổ.
B7. Tìm góc đánh lửa sớm tốt nhất: Khi động cơ đã nổ ấm lên rồi, ta nới vít siết vỏ bộ
chia điện, xoay từ từ bộ chia điện tới lui để thay đổi góc đánh lửa sớm thích hợp nhất với
tình trạng cụ thể của động cơ. Khi xoay cùng chiều quay mỏ quẹt tức là đánh lửa càn trễ
(góc đánh lửa sớm giảm) và ngược lại. Lắng nghe tiếng nổ đến khi nào thấy êm và mạnh
nhất thì dừng lại, siết chặt vỏ bộ chia điện lại.
https://thanhphongauto.com/he-thong-treo-nhun/