You are on page 1of 26

TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN

1. Nội dung về vấn đề cơ bản của triết học:


- Theo Mác – Ăngghen: “Vấn đề cơ bản lớn nhất của mọi triết học, đặc biệt là của
triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”. Nội dung của vấn đề
này gồm hai mặt:
+ Mặt thứ nhất (mặt bản thể luận) trả lời câu hỏi: trong mối quan hệ giữa tư
duy và tồn tại, giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào
sinh ra cái nào, cái nào quyết định cái nào?
+ Mặt thứ hai (mặt nhận thức luận) trả lời câu hỏi: tư duy con người có khả
năng nhận thức thế giới xung quanh hay không?
2. Những tích cực và hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước Mác quan
niệm về vật chất. Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận định nghĩa
vật chất của Lênin:
- Quan niệm về vật chất của các nhà triết học duy vật trước Mác: “Vật chất” thường
được hiểu là một hoặc một số chất hay yếu tố khách quan, tự có trong giới tự nhiên,
đóng vai trò là cơ sở ban đầu (bản nguyên, bản căn) sản sinh ra và cấu tạo nên mọi
tồn tại trong thế giới. Bởi vậy, phương pháp luận chung của các nhà duy vật này là:
muốn hiểu được đúng đắn thế giới thì cần phải nghiên cứu để hiểu được đúng cấu
tạo vật chất đầu tiên đó. Những quan niệm như vậy có thể nhận thấy rõ khi nghiên
cứu nội dung các học thuyết duy vật thời cổ ở Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp (Đạo
gia, thuyết Âm Dương – Ngũ Hành ở Trung Quốc, trường phái Lokayata ở Ấn Độ,
trường phái nguyên tư luận ở Hy Lạp) hoặc các học thuyết triết học duy vật thời
cận đại ở các nước Anh, Pháp, Đức (triết học của Ph. Bêcơn, triết học tự nhiên của
R. Đềcáctơ, triết học tự nhiên của I. Kantơ,…)
- Ưu điểm và hạn chế của những quan niệm đó:
+ Ưu điểm: với quan niệm về vật chất như đã nói ở trên, các nhà duy vật
trước Mác đã xác lập phương pháp luận tích cực cho sự phát triển nhận thức
một cách khoa học về thế giới, đặc biệt là trong việc giải thích về cấu tạo vật
chất khách quan của các hiện tượng tự nhiên, làm tiền đề cho việc giải quyết
đúng đắn nhiều vấn đề trong việc ứng xử tích cực giữa con người và giới tự
nhiên, vì sự sinh tồn và phát triển của con người.
+ Hạn chế lịch sử: một mặt, quan niệm về vật chất của các nhà duy vật trước
Mác chưa bao quát được mọi sự tồn tại vật chất trong thế giới, /mặt khác
quan niệm này chủ yếu mới chỉ được tiếp cận từ giác độ cấu tạo bản thể vật
chất của các sự vật, hiện tượng trong thế giới, giác độ nhận thức luận chưa
được nghiên cứu đầy đủ; tức là chưa giải quyết được triệt để phạm trù vật
chất từ góc độ giải quyết hai mặt vấn đề cơ bản của triết học. Những hạn chế
này được khắc phục trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật biện
chứng.
- Định nghĩa vật chất của Lê-nin: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ
thực tại khách quan được đem lại con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và không phụ thuộc vào cảm giác”.
- Nội dung của định nghĩa:
+ Vật chất là cái khách quan, tồn tại bên ngoài ý thức và không phụ thuộc
vào ý thức, bất kể sự tồn tại ấy đã được con người nhận thức hay chưa.
+ Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi trực tiếp hoặc gián tiếp
tác động lên giác quan của con người.
+ Cảm giác, tư duy, ý thức là sự phản ánh của vật chất.
- Ý nghĩa phương pháp luận: Định nghĩa vật chất của Lê-nin đã:
+ Giải quyết triệt để hai mặt trong vấn đề cơ bản của triết học theo quan
điểm của CNDVBC.
+ Khắc phục triệt để những sai lầm, hạn chế của CNDV trước Mác về phạm
trù vật chất; bác bỏ, phủ nhận CNDT và tôn giáo về vấn đề vật chất.
+ Tạo cơ sở cho các nhà triết học DVBC xây dựng quan điểm vật chất trong
đời sống xã hội.
3. Quan điểm duy vật biện chứng về nguồn gốc, bản chất và kết cấu
của ý thức:
a). Nguồn gốc: Ý thức ra đời là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên
và xã hội.
- Nguồn gốc tự nhiên: bộ óc người và thế giới hiện thực khách quan
+ Ý thức là kết quả của quá trình tiến hóa của thuộc tính phản ánh có ở mọi
dạng vật chất. Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật
chất có ở mọi dạng vật chất khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng,
gồm phản ánh lí hóa và phản ánh sinh học.
+ Ý thức là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực, ý thức là
hình thức phản ánh chỉ có ở con người. Ý thức là đặc tính riêng của một vật
chất có tổ chức cao là bộ óc người. Bộ óc người là một tổ chức sống đặc
biệt, có cấu trúc tinh vi và phức tạp. Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý
thức. Hoạt động ý thức chỉ diễn ra trong bộ não người, trên cơ sở các quá
trình sinh lí – thần kinh của bộ não
→ Bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên nó chính là nguồn gốc tự
nhiên của ý thức.
- Nguồn gốc xã hội: Lao động và ngôn ngữ
+ Ý thức người ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc người nhờ có lao
động và ngôn ngữ.
+ Lao động là quá trình diễn biến giữa con người và tự nhiên, trong đó con
người đóng vai trò là môi giới, điều tiết và giám sát trong sự trao đổi vật chất
giữa người và tự nhiên. Đặc điểm của lao động: là hoạt động đặc thù của con
người, lao động luôn mang tính tập thể.
+ Vai trò của lao động: lao động đã sáng tạo ra bản thân con người, nhờ có
lao động mà con người tách khỏi thế giới động vật; lao động làm cho cơ thể
con người ngày càng hoàn thiện, đặc biệt là bộ óc và các giác quan; thế giới
khách quan bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động
của mình trong quá trình lao động; trong lao động, đồng thời với lao động là
ngôn ngữ (ngôn ngữ xuất hiện từ lao động).
+ Ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng.
Vai trò của ngôn ngữ: là phương tiện giao tiếp trong xã hội, để trao đổi tri
thức, kinh nghiệm...; là phương tiện để tổ kết thực tiễn, đồng thời là công cụ
của tư duy nhằm khái quát hóa, trừu tượng hóa hiện thực.
→ Không có ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành, tồn tại và phát triển. Ý thức
là nội dung thì ngôn ngữ là hình thức biểu hiện của nó.
(Trong 2 nguồn gốc thì nguồn gốc xã hội quyết định bản chất ý thức. Tách ra khỏi
môi trường xã hội, con người sẽ mất ý thức. Người nào mắc khiếm khuyết về ngôn
ngữ thì ý thức kém phát triển hơn. Học thức kém thì ý thức cũng kém phát triển.)
b). Bản chất của ý thức:
- Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người một cách năng
động và sáng tạo. Điều này được thể hiện ở:
+ Ý thức cũng là “hiện thực”, nhưng đó là hiện thực trong tư tưởng. Đó là sự
thống nhất giữa vật chất và ý thức. Trong đó, vật chất là cái được phản ánh,
còn ý thức là cái phản ánh.
+ Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, bởi vì ý thức con
người mang tính năng động, sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực
tiễn.
+ Phản ánh ý thức là sự phản ánh sáng tạo. Tính sáng tạo của ý thức rất đa
dạng, phong phú. Tuy nhiên, đó là sự sáng tạo dựa trên sự phản ánh.
- Quá trình ý thức được thống nhất bởi các mặt sau:
+ Trao đổi thông tin giữa chủ thể và đồi tượng phản ánh. Sự trao đổi này
mang tính chất hai chiều, có chọn lọc các thông tin cần thiết.
+ Mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần.
+ Chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan (hiện thực hóa tư tưởng
thông qua hoạt động thực tiễn)
+ Ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần túy mà là một hiện
tượng xã hội. Ý thức chỉ được nảy sinh trong lao động, trong hoạt động cải
tạo thế giới của con người. (Ý thức mang bản chất là có tính xã hội).
c). Kết cấu của ý thức: Ý thức là một hiện tượng xã hội – tâm lí có kết cấu hết sức
phức tạp. Tùy theo cách tiếp cận mà có nhiều cách phân chia khác nhau.
- Theo chiều ngang, ý thức gồm:
+ Tri thức: là kết quả của quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện
thực, làm tái hiện trong tư tưởng những thuộc tính, những quy luật của thế
giới ấy và diễn đạt chúng dưới những hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống
ký hiệu khác.
+ Tình cảm: là sự cảm động của con người trong mối quan hệ với thực tại
xung quanh và với chính mình.
+ Các yếu tố khác như niềm tin, lí trí, ý chí,... Trong tất cả các yếu tố này thì
tri thức là yếu tố quan trọng nhất.
(Tri thức là yếu tố quan trọng nhất, thiếu tri thức thì mọi thứ đều là ý thức vô hồn, ý
thức trống rỗng. Tri thức quan trọng vì thiếu tri thức thì mọi lí tưởng của con người
đều là hão huyền, ước mơ vô vọng. Muốn có ý thức thì phải học (trường học và
trường đời).
- Theo chiều dọc, ý thức bao gồm:
+ Tự ý thức: là ý thức về bản thân mình trong quan hệ với thế giới bên ngoài.
+ Tiềm thức: là những tri thức mà con người đã có được từ trước nhưng gần
như trở thành bản năng , thành kĩ năng trong tầng sâu ý thức.
+ Vô thức: là trạng thái tâm lí ở chiều sâu, điều chỉnh suy nghĩ, hành vi, thái
độ ứng xử của con người mà chưa có sự tranh luận nội tâm, chưa có sự
truyền thông tin bên trong, chưa có sự kiểm tra, tính toán của lí trí...
4. Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lí về mối liên hệ
phổ biến, nguyên lí phát triển:
a). Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến:
* Khái niệm mối liên hệ phổ biến:
+ Quan điểm siêu hình cho rằng sự vật, hiện tượng tồn tại độc lập, tách biệt
nhau, giữa chúng không có sự liên hệ hoặc nếu có thì đó chỉ là liên hệ bề
ngoài, thụ động, một chiều, giữa các hình thức liên hệ không có chuyển hóa
lẫn nhau.
+ Quan điểm DVBC cho rằng mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ
sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật,
hiện tượng, hay giữa các mặt của một sự vật hiện tượng trong thế giới.
* Tính chất của mối liên hệ:
- Mối liên hệ phổ biến mang tính khách quan, nó là cái vốn có của sự vật, hiện
tượng.
- Mối liên hệ mang tính phổ biến, thể hiện ở chỗ:
+ Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật, hiện tượng khác,
không có sự vật, hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ.
+ Mối liên hệ biểu hiện dưới nhiều hình thức riêng biệt, cụ thể tùy theo từng
điều kiện nhất định. Song, dù dưới hình thức nào chúng cũng chỉ là biểu hiện
của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất.
- Mối liên hệ mang tính đa dạng, phong phú, vì thế hình thức liên hệ giữa chúng
cũng rất đa dạng. Tuy nhiên, có thể căn cứ vào vị trí, phạm vi, vai trò, tính chất mà
phân chia ra thành những mối liên hệ khác nhau như: mối liên hệ bên trong, bên
ngoài; mối liên hệ bản chất – không bản chất; trực tiếp – gián tiếp;... Nhưng sự
phân chia này cũng chỉ là tương đối.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Khi xem xét sự vật, hiện tượng cần phải có quan điểm toàn diện. Quan điểm này
yêu cầu: phải xem xét tất cả các mặt, các mối liên hệ của sự vật và các khâu trung
gian của nó; phải nắm bắt và đánh giá đúng vai trò, vị trí của từng mặt, từng mối
liên hệ trong quá trình cấu thành sự vật.
- Trong quan điểm toàn diện bao hàm cả quan điểm lịch sử cụ thể. Vì vậy, khi xem
xét sự vật, hiện tượng phải đặt sự vật, hiện tượng vào không gian, thời gian cụ thể...
b). Nguyên lí về sự phát triển:
* Khái niệm “phát triển”:
+ Quan điểm siêu hình cho rằng phát triển chỉ là sự tăng, giảm đơn thuần về
mặt số lượng hay khối lượng mà không có sự thay đổi về chất. Phát triển
cũng như quá trình chuyển lên liên tục, không có bước quanh co, thăng trầm
phức tạp. Nguồn gốc phát triển là do bên ngoài quy định.
+ Quan điểm DVBC cho rằng phát triển là quá trình vận động tiến lên từ
thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hòa thiện đến hoàn thiện hơn.
* Tính chất của sự phát triển:
- Phát triển mang tính khách quan, nó là cái vốn có của bản thân sự vật, hiện tượng.
- Phát triển không chỉ là sự thay đổi về mặt số lượng hay khối lượng mà nó còn là
sự thay đổi về chất.
- Phát triển mang tính kế thừa nhưng trên cơ sở có sự phê phán, lọc bỏ, cải tạo và
phát triển, không kế thừa nguyên xi hay lắp ghép từ cái cũ sang cái mới một cách
máy móc, hình thức.
- Tùy vào sự vật, hiện tượng, quá trình cụ thể, phát triển còn bao gồm cả sự thụt lùi
đi xuống nhưng khuynh hướng chung là đi lên, là tiến bộ. Theo quan điểm DVBC
thì khuynh hướng của sự phát triển xảy ra theo hình đường xoáy ốc.
- Nguồn gốc của sự phát triển là ở trong bản thân sự vật hiện tượng, do mâu thuẫn
của sự vật hiện tượng quy định.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Khi xem xét sự vật hiện tượng cần phải có quan điểm phát triển. Yêu cầu:
+ Xem xét sự vật hiện tượng phải đặt chúng trong sự vận động phát triển
không ngừng, vạch ra xu hướng biến đổi chuyển hóa của chúng.
+ Phải biết phân chia quá trình phát triển của sự vật thành nhiều giai đoạn,
trên cơ sở đó tìm ra phương pháp nhận thức và cách tác động phù hợp nhằm
thúc đẩy sự vật phát triển nhanh hơn hoặc kìm hãm sự phát triển của nó.
5. Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật thống nhất và
đấu tranh giữa các mặt đối lập:
Đây là một trong 3 quy luật cơ bản của phép BCDV. Nó nói lên nguồn gốc, động
lực của sự phát triển. Lênin gọi quy luật này là hạt nhân của phép biện chứng.
a). Nội dung:
- Khái niệm mặt đối lập: Mặt đối lập là những mặt có thuộc tính, khuynh hướng
vận động trái ngược nhau, bài trừ, gạt bỏ, chống đối lẫn nhau, nhưng tồn tại và gắn
bó với nhau trong một thể thống nhất hợp thành một mâu thuẫn.
- Đặc điểm của mâu thuẫn:
+ Tính khách quan: Mâu thuẫn nằm ngoài ý thức con người, không có sinh
vật nào tồn tại mà không có mâu thuẫn.
+ Tính phổ biến trong tự nhiên: Có mâu thuẫn giữa cực bắc và cực nam của
nam châm, mâu thuẫn giữa cộng trừ, nhân chia,...
Trong tư duy có mâu thuẫn đúng sai, sướng khổ,..
- Khái niệm thống nhất giữa các mặt đối lập: Được hiểu theo 2 nghĩa:
+ Nghĩa 1: Là sự liên hệ, nương tựa, rang buộc, cấu kết hữu cơ với nhau đến
mức không có cái này sẽ không có cái kia, cái này mất đi cái kia cũng mất
theo, caí này xuất hiện cái kia xuất hiện theo. (Ví dụ: không có sai thì không
có đúng)
+ Nghĩa 2: bao hàm sự khác biệt giữa những cái tưởng như không thể thống
nhất nhưng vẫn thống nhất với nhau.
- Khái niệm đấu tranh giữa các mặt đối lập: Đấu tranh không hiểu là đánh nhau,
đấu tranh được hiểu là sự bài trừ, gạt bỏ đi đến phủ định lẫn nhau, khi đủ điều kiejn
thì chuyển hóa các mặt đối lập. Có thể mặt này chuyển thành mặt kia, có thể cả 2
mặt đều biến thành thứ khác.
- Quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh: Thống nhất ứng với quan điểm cho rằng
đứng im của vật chất là tương đối, tạm thời. Đấu tranh của các mặt đối lập ứng với
quan điểm vận động là tuyệt đối, đấu tranh cũng được hiểu là tuyệt đối và nó diễn
ra cho đến khi sự vật hết mâu thuẫn. Khi đó cái chết xảy ra đối với sinh vật, đối với
sự vật nói chung → không còn lí do để tồn tại vì mất hết động lực.
b). Ý nghĩa phương pháp luận:
- Nghiên cứu quy luật mâu thuẫn giúp ta hiểu được nguồn gốc, động lực của sự tự
thân vận động, tự thân phát triển của sự vật, hiện tượng. Chống quan điểm duy tâm,
siêu hình tìm nguồn gốc vận động, phát triển từ bên ngoài, từ những nguyên nhân
thần bí.
- Xác định mâu thuẫn là hiện tượng tất yếu khách quan (chấp nhận mâu thuẫn để
tìm cách giải quyết mâu thuẫn, thúc đẩy sự vật phát triển tiến lên).
- Nắm vững mâu thuẫn cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu để xác định nhiệm vụ chiến lược
cũng như nhiệm vụ trung tâm trước mắt cho từng thời kì cách mạng.
- Có cách giải quyết thích hợp với bản chất của từng mâu thuẫn, trình độ chín muồi
và điều kiện tồn tại của mâu thuẫn.
6. Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật chuyển hóa từ
những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược
lại:
Đây là một trong 3 quy luật của phép BCDV. Nó nói lên hình thức của sự phát
triển.
a). Nội dung:
- Khái niệm:
+ Chất là tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng, nói lên sự vật đó là
cái phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác. (Chất xuất phát từ cấu trúc bên
trong của sự vật và biểu hiện ra thông qua các thuộc tính của sự vật. Chất là
tổng hợp các thuộc tính, trong đó có thuộc tính cơ bản và thuộc tính không
cơ bản. Chỉ thuộc tính cơ bản mới phân biệt chất).
+ Lượng là tính quy định của sự vật, hiện tượng về mặt quy mô, cường độ,
trình độ, tốc độ, vv.. (Lượng có thể đo được bằng con số. Tuy nhiên, sự vật
phức tạp thì thông số về lượng của nó cũng phức tạp; do đó để nhận thưc
được lượng của nó, phải sử dụng nhiều con số thống kê và phải thông qua sự
phán đoán, đánh giá của tư duy).
- Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng:
+ Tính thống nhất giữa chất và lượng trong một sự vật: Chất và lượng là hai
mặt thống nhất hữu cơ với nhau. Chất nào có lượng đó; lượng nào có chất
đó. Chất và lượng có sự phù hợp với nhau. Sự phù hợp này diễn ra trong một
phạm vi, giới hạn nhất định gọi là “độ”. Độ là phạm vi, giới hạn trong đó
lượng đổi chưa làm chất thay đổi.
+ Quá trình chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay
đổi về chất: Sự phát triển bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Lượng biến đổi
trong phạm vi “độ” chưa làm chất thay đổi. Vượt quá độ, sự biến đổi về
lượng dẫn đến sự thay đổi về chất. Chất cũ mất đi, chất mới ra đời. Sự thay
đổi về chất gọi là bước nhảy. Điểm diễn ra bước nhảy gọi là điểm nút.
+ Quá trình chuyển hóa từ những thay đổi về chất thành những sự thay đổi
về lượng: Chất mới ra đời thúc đẩy quá trình biến đổi về lượng với quy mô
và tốc độ cao hơn. Bởi vì trong phạm vi chất cũ, lượng biến đổi đến một giới
hạn nhất định thì bị chất cũ kìm hãm. Do đó, thay chất cũ bằng chất mới là
phá bỏ sự kìm hãm đó. Mặt khác, chất mới cần được kết hợp với lượng mới.
+ Bước nhảy và các hình thức của bước nhảy: Bước nhảy là sự thay đổi về
chất từ chất cũ sang chất mới. Bước nhảy có nhiều hình thức đa dạng phong
phú tùy theo bản chất của sự vật và điều kiện tồn tại của sự vật. Người ta
chia bước nhảy thành: Bước nhảy đột biến & Bước nhảy dần dần; Bước nhảy
toàn bộ & Bước nhảy bộ phận.
b). Ý nghĩa phương pháp luận:
- Giúp ta hiểu được cách thức của sự phát triển. Chống lại các quan điểm duy tâm,
siêu hình. (Quan điểm siêu hình chỉ thừa nhận sự thay đổi về lượng, phủ nhận sự
thay đổi về chất; không thừa nhận cái mới, cái tiến bộ tất yếu thay thế cái cũ, lạc
hậu và cho rằng cái mới ra đời là ngẫu nhiên hoặc do nguyên nhân bên ngoài).
- Trong hoạt động thực tiễn muốn có chất mới, cần phải có quá trình tích lũy về
lượng. Cần chống khuynh hướng bảo thủ, trì trệ, tranh thủ tạo ra những bước nhảy
để thúc đẩy sự vật phát triển tiến lên. Đồng thời, phải chống lại bệnh chủ quan
nóng vội, duy ý chí, thực hiện bước nhảy khi chưa có sự chín muồi về lượng và bất
chấp những điều kiện tồn tại cụ thể của sự vật, hiện tượng.
- Kết hợp tinh thần cách mạng với khoa học nghiêm túc.
7. Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của các cặp phạm trù: cái
chung và cái riêng, nguyên nhân và kết quả:
a). Cái chung và cái riêng
* Khái niệm:
- Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá
trình riêng lẻ nhất định.
- Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính chung
không những chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất định mà còn được lặp lại trong
nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
- Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những nét, những mặt, những
thuộc tính chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất định nào đó và không được lặp lại ở
bất kì một kết cấu vật chất nào khác.
- Cái đặc thù là phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính, những đặc điểm,
những bộ phận giống nhau tồn tại ở một số sự vật, hiện tượng (không tồn tại ở tất
cả sự vật hiện tượng).
* Tính chất và mối quan hệ biện chứng:
- CNDV cho rằng cái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại và khẳng định:
+ Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu hiện sự
tồn tại của mình. Điều này có nghĩa là không có cái chung trừu tượng, thuần
túy tồn tại độc lập ở bên ngoài cái riêng.
+ Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ đưa đến cái chung, không có cái
riêng nào tồn tại tác rời cái chung và cũng không có cái riêng nào tồn tại vĩnh
viễn.
+ Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, còn cái chung là cái bộ
phận nhưng sâu sắc hơn cái riêng vì cái chung phản ánh thuộc tính, những
mối liên hệ tất nhiên lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại → Cái chung là cái
gắn liền với bản chất, quy định phương hướng tồn tại và phát triển của cái
riêng.
+ Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa cho nhau trong quá trình phát
triển của sự vật. (Sự chuyển hóa của cái đơn nhất → cái chung là biểu hiệu
của quá trình cái mới ra đời thay thế cái cũ; sự chuyển hóa của cái chung →
cái đơn nhất là biểu hiện của cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định.)
* Ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù:
- Muốn biết được cái chung, cái bản chất thì phải xuất phát từ cái riêng, từ những
sự vật, hiện tượng riêng lẻ.
- Nhiệm vụ của nhận thức là phải tìm ra cái chung trong hoạt động thực tiễn, phải
dựa vào cái chung để cải tạo cái riêng.
- Trong hoạt động thực tiễn thấy sự chuyển hóa nào có lợi chúng ta cần chủ động
tác động để nó sớm trở thành hiện thực.
b). Cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả:
* Khái niệm:
- Nguyên nhân là phạm trù để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự
vật hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau gây ra một biến đổi nhất
định.
- Kết quả là phạm trù dùng để chỉ những biến đổi do sự tác động lẫn nhau giữa các
sự vật, hiện tượng hoặc các mặt trong cùng một sự vật, hiện tượng gây ra. Kết quả
chỉ là sự biến đổi do nguyên nhân gây ra.
* Tính chất và mối liên hệ giữa nguyên nhân và kết quả:
- Tính chất: Tính khách quan; tính tất yếu; tính phổ biến lặp đi lặp lại; nguyên nhân
khác nguyên cớ. (Nguyên cớ mang tính chủ quan dùng để che đậy những nguyên
nhân, là điều kiện cần thiết để chuyển hóa nguyên nhân thành kết quả.)
- Mối liên hệ giữa nguyên nhân và kết quả:
+ Nguyên nhân quyết định kết quả.
+ Nguyên nhân có trước, sinh ra kết quả.
+ Nguyên nhân thế nào thì sinh ra kết quả thế ấy.
- Mối quan hệ nhân quả không chỉ đơn thuần là sự đi kế tiếp nhau về thời gian mà
là mối liên hệ sản sinh: cái này tất yếu sinh ra cái kia. Cùng một nguyên nhân sinh
ra nhiều kết quả, và ngược lại, một kết quả do nhiều nguyên nhân sinh ra. Do đó,
mối quan hệ nguyên nhân – kết quả rất phức tạp.
- Nguyên nhân và kết quả có thể chuyển hóa lẫn nhau trong những điều kiện nhất
định. Nguyên nhân sinh ra kết quả, rồi kết quả lại tác động tới sự vật, hiện tượng
khác và trở thành nguyên nhân sinh ra kết quả khác nữa. Do đó, sự phân biệt
nguyên nhân, kết quả chỉ có tính tương đối.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả của phép BCDV là cơ sở lí luận để giải thích
một cách đúng đắn mối quan hệ nhân – quả; chống lại các quan điểm duy tâm, tôn
giáo về những nguyên nhân thần bí.
- Nguyên nhân quyết định kết quả nên muốn có một kết quả nhất định thì phải có
nguyên nhân và điều kiện nhất định. Muốn khắc phục một hiện tượng tiêu cực thì
phải tiêu diệt nguyên nhân sinh ra nó.
- Phân loại nguyên nhân, tìm ra nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân chủ yếu giữa vai
trò quyết định đối với kết quả.
- Biết sử dụng sức mạnh tổng hợp của nhiều nguyên nhân để tạo ra kết quả nhất
định.
- Biết sử dụng kết quả để tác động lại nguyên nhân, thúc đẩy nguyên nhân tích cực,
hạn chế nguyên nhân tiêu cực.
8. Nội dung, ý nghĩa quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất:
* Khái niệm:
- Lực lượng sản xuất là khái niệm dùng để chỉ mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên trong quá trình sản xuất. (Là khái niệm để chỉ những phương thức kết hợp
giữa người lao động với TLSX trong sản xuất vật chất.)
- Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản
xuất. QHSX bao gồm: QH về chiếm hữu TLSX, QH về quản lí và phân công LĐ,
QH về phân phối sản phẩm.
* Mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX:
- Tính thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất: LLSX và QHSX là
hai mặt đối của phương thức sản xuất, chúng không tồn tại tách rời nhau mà tác
động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật về sự phù hợp của
QHSX với trình độ và tính chất của LLSX. Phù hợp là sự thích ứng tương đối tạm
thời, thoảng qua của QHSX với LLSX, và đây là mối quan hệ luôn vận động và
biến đổi không ngừng, cái không phù hợp bị cái phù hợp phủ định... đây là sự phát
triển theo con đường xoáy ốc.
- Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất:
+ Trong phương thức sản xuất, LLSX là nội dung còn QHSX là hình thức xã
hội của nó, do đó, trong mối quan hệ giữa LLSX và QHSX thì LLSX giữ vai
trò quyết định.
+ Trong phương thức sản xuất thì LLSX là yếu tố động nhất, cách mạng
nhất.
+ Cùng với sự biến đổi và phát triển của LLSX, QHSX mới hình thành, biến
đổi, phát triển theo:
• Khi QHSX hình thành, biến đổi và theo kịp, phù hợp với trình độ
phát triển và tính chất của LLSX thì nó sẽ thúc đẩy LLSX tiếp tục phát
triển.
• Khi QHSX hình thành, biến đổi nhưng không theo kịp, không phù
hợp với trình độ phát triển và tính chất của LLSX thì nó sẽ kìm hãm
LLSX phát triển. Khi mâu thuẫn chín muồi thì QHSX cũ sẽ bị xóa bỏ,
thay thế vào là một QHSX mới tiến bộ hơn, phù hợp với trình độ phát
triển và tính chất của LLSX.
- Sự tác động trở lại của QHSX đối với trình độ phát triển và tính chất của LLSX:
QHSX là hình thức xã hội mà LLSX dựa vào đó để phát triển; do đó, QHSX tác
động trở lại đối với LLSX theo 2 hướng:
+ Thúc đẩy sự phát triển của LLSX, nếu QHSX phù hợp với trình độ LLSX.
+ Kìm hãm sự phát triển của LLSX, nếu QHSX không phù hợp với trình độ
LLSX.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Phát triển LLSX: công nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng LLSX tiên tiến. Coi
trọng yếu tố con người trong LLSX.
- Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đảm bảo sự phù hợp của QHSX với trình
độ phát triển của LLSX, nhằm phát huy mọi tiềm năng vốn có của LLSX ở nước ta.
- Từng bước hoàn thiện QHSX XHCN; phát huy vai trò chủ đạo của thành phần
kinh tế nhà nước; nâng cao sự quản lí của nhà nước đối với các thành phần kinh tế;
đảm bảo các thành phần kinh tế phát triển theo định hướng XHCN.
9. Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
của xã hội. Ý nghĩa phương pháp luận:
* Khái niệm:
- Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của một hình thái
kinh tế – xã hội nhất định. CSHT bao gồm nhiều kiểu QHSX: QHSX thống trị,
QHSX tàn dư, QHSX mầm mống(*).
- Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết
học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, v.v.. cùng với các thiết chế xã hội tương ứng
như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội... hình thành trên một cơ sở
xã hội nhất định.
* Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTH:
- CSHT quyết định KTTT: CSHT nào thì nảy sinh ra KTTT ấy. Tất cả các yếu tố
của KTTT đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào CSHT, do CSHT quyết định.
CSHT thay đổi thì sớm hay muộn KTTT cũng phải thay đổi theo. Sự thay đổi
CSHT dẫn đến sự thay đổi KTTT diễn ra rất phức tạp.
- KTTT tác động trở lại CSHT: Sự tác động này thể hiện chức năng xã hội của
KTTT là bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển CSHT sinh ra nó. Sự tác động của
KTTT đối với CSHT diễn ra theo hai hướng:
+ Nếu KTTT phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực
mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển.
+ Ngược lại, KTTT không phù hợp thì sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế –
xã hội, tuy nhiên, sự kìm hãm này chỉ là tạm thời, sớm hay muộn, bằng cách
này hay cách khác, KTTT cũ sẽ được thay thế bằng KTTT mới, phù hợp với
yêu cầu của CSHT.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Nghiên cứu mối quan hệ giữa CSHT và KTTT cho ta thấy phải đề phòng 2
khuynh hướng sai lầm :
+ Tuyệt đối hóa vai trò của kinh tế, coi nhẹ vai trò của yêu tố tư tưởng, chính
trị, pháp lí.
+ Tuyệt đối hóa vai trò của yếu tố chính trị,tư tưởng, pháp lí, biến những yếu
tố đó thành tính thứ nhất so với kinh tế.
- Nghiên cứu mối quan hệ giữa CSHT và KTTT cho ta một cái nhìn đúng đắn, đề
ra chiến lược phát triển hài hòa giữa kinh tế và chính trị, đổi mới kinh tế phải đi đôi
với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, từng bước đổi mới chính
trị.
- Nắm được mối quan hệ giữa CSHT và KTTT giúp cho sự hình thành CSHT và
KTTT xã hội chủ nghĩa diễn ra đúng theo quy luật mà chủ nghĩa duy vật lịch sử đã
khái quát.
10. Tồn tại xã hội, ý thức xã hội, mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại
xã hội và ý thức xã hội:
* Khái niệm:
- Tồn tại xã hội là toàn bộ những điều kiện vật chất cùng với những quan hệ vật
chất được đặt trong phạm vi hoạt động thực tiễn của con người trong một gia đoạn
lịch sử nhất định. Tồn tại XH bao gồm nhiều yếu tố (phương thức sx, điều kiện tự
nhiên, hoàn cảnh địa lí, dân cư,.. ), trong đó phương thức sản xuất là yếu tố quyết
định.
- Ý thức xã hội là khái niệm chỉ các hiện tượng thuộc đời sống tinh thần của xã hội,
phản ánh tông tại xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Về mặt nội dung, ý
thức xã hội gồm: tư tưởng, quan điểm, tâm trạng, tình cảm, tập quán,...
* Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội:
- Vai trò quyết định của TTXH đối với YTXH:
+ TTXH là cơ sở, là nguồn gốc khách quan và là nguồn gốc duy nhất của
YTXH, nó làm hình thành và phát triển YTXH, còn YTXH chỉ là sự phản
ánh TTXH.
+ Khi TTXH thay đổi thì sớm hay muộn YTXH cũng phải thay đổi theo.
+ Ta nói TTXH quyết định YTXH là ta nói trong tất cả các bộ phận của
TTXH đều có ảnh hưởng đến sự thay đổi của YTXH, nhưng trong đó
phương thức sản xuất là yếu tố giữ vai trò quan trọng nhất, trực tiếp nhất đến
sự thay đổi của YTXH. Có nghĩa là muốn thay đổi YTXH, muốn xây dựng
YTXH mới thì sự thay đổi và xây dựng đó phải dựa trên sự thay đổi của tồn
tại vật chất hay thay đổi bởi những điều kiện vật chất.
- Sự tác động trở lại của YTXH đối với TTXH: Sự tác động trở lại này rất lớn, tuy
nhiên hiệu quả của sự tác động còn phụ thuộc vào những điều kiện như: lực lượng
xã hội, giai cấp đề ra những quan điểm, tư tưởng cho xã hội; mức độ phù hợp ít hay
nhiều của tư tưởng đó đối với hiệ n thực; mức độ thâm nhập của những tư tưởng đó
đối với nhu cầu phát triển XH và mức độ mở rộng của tư tưởng trong quần chúng.


PHẦN KHÔNG TRONG ĐỀ CƯƠNG
1. Cách giải quyết vấn đề cơ bản của triết học của các trào lưu triết
học:
- Cách giải quyết vấn đề cơ bản của triết học của các trào lưu triết học:
* Giải quyết mặt thứ nhất:
+ Chủ nghĩa duy vật cho rằng vật chất (tồn tại, tự nhiên) có trước, ý thức (tư
duy, tinh thần) có sau, vật chất quyết định ý thức.
+ Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức (tư duy, tinh thần) có trước, vật chất có
sau, ý thức quyết định vật chất. Chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản là
CNDT khách quan và CNDT chủ quan. CNDT khách quan cho rằng có một
lực lượng siêu nhiên có trước, sinh ra và quyết định thế giới vật chất, còn
CNDT chủ quan cho rằng cảm giác, ý thức quyết định vật chất, vật chất
không tồn tại độc lập mà phụ thuộc vào cảm giác, ý thức.
+ Thuyết nhất nguyên: là khuynh hướng triết học cho rằng thế giới chỉ có
một bản nguyên duy nhất, hoặc là thực thể vật chất, hoặc là thực thể tinh
thần.(nhất nguyên duy vật/nhất nguyên duy tâm).
+ Thuyết nhị nguyên: là khuynh hướng triết học cho rằng có hai thực thể
song song tồn tại, không phụ thuộc lẫn nhau (cả vật chất lẫn tinh thần).
+ Thuyết đa nguyên: là khuynh hướng triết học cho rằng có nhiều cơ sở,
nhiều bản nguyên tồn tại. (Các nhà triết học cổ đại đưa ra những bản nguyên
đa dạng như đất, nước, lửa, không khí với tư cách là cơ sở của mọi tồn tại).
* Giải quyết mặt thứ hai: Vấn đề cơ bản của triết học có hai khuynh hướng đối lập
nhau là thuyết khả tri và thuyết bất khả tri. Đa số các nhà triết học khẳng định rằng
con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan (khả tri). Một số ít các
nhà triết học phủ nhận một phần hay toàn bộ khả năng nhận thức của con người
(bất khả tri).
2. Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật phủ định của
phủ định:
Đây là một trong 3 quy luật BCDV. Nó nói lên khuynh hướng của sự phát triển.
a). Nội dung:
- Khái niệm phủ định và phủ định biện chứng:
+ Phủ định nói chung là sự bài trừ, bác bỏ sự vật nhất định nào đó. Nói cách
khác, phủ định là một quá trình vận động trong đó sự vật, hiện tượng này
được thay thế bởi sự vật, hiện tượng khác (đây là sự biến đổi nói chung).
+ Phủ định biện chứng là quá trình tự phủ định, tự phát triển, là mắt khâu
trên con đường dẫn tới sự ra đời của cái mới, cái tiến bộ hơn so với cái tự
phủ định.
- Đặc trưng của phủ định biện chứng:
+ Tính khách quan: PĐBC là sự tự thân phủ định, là kết quả giải quyết mâu
thuẫn bên trong của sự vật tồn tại khách quan.
+ Tính kế thừa: là đặc trưng cơ bản nhất của PĐBC. PĐBC là quá trình cái
mới ra đời phủ định cái cũ, nhưng cái mới chỉ phủ định mặt lạc hậu, lỗi thời
của cái cũ, đồng thời kế thừa những giá trị của cái cũ. Do đó, PĐBC là sự
phủ định nhưng cũng là sự khẳng định.
→ Đối lập với quan điểm siêu hình.
- PĐBC được hoàn thành trong một chu kì phát triển. Sự vật ở điểm xuất phát ban
đầu qua lần phủ định thứ nhất trở thành cái đối lập với nó – bước trung gian của sự
phát triển; lần phủ định thứ hai, tái lập cái ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn. Lần
phủ định thứ hai được gọi là phủ định của phủ định. Phủ định của phủ định làm
xuất hiện cái mới là kết quả tổng hợp tất cả những yếu tố tích cực ban đầu đã được
phát triển từ trong cái khẳng định ban đầu và trong những cái phủ định tiếp theo.
Do vậy, cái mới có nội dung toàn diện và phong phú hơn. Quy luật PĐCPĐ đã khái
quát tính chất tiến lên của sự phát triển. Sự phát triển không phải diễn ra theo
đường thẳng mà theo đường “xoáy ốc”.
b). Ý nghĩa phương pháp luận:
- Giúp ta hiểu được khuynh hướng của sự phát triển: tiến lên theo đường trôn ốc,
cái mới thay thế cái cũ.
- Khắc phục cách nhìn đơn giản về sự phát triển: phát triển theo đường thẳng,
đường tròn khép kín.
- Tin tưởng vào sự tất thắng của cái mới, vào chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản. Ủng hộ và tạo điều kiện cho cái mới, cái tiến bộ chiến thắng cái cũ, cái lạc hậu.
3. Các cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật:
- Cái chung và cái riêng, nguyên nhân và kết quả ( đã có ở trên ).
- Cặp phạm trù nội dung và hình thức:
* Khái niệm:
- Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự
vật.
- Hình thức là cách tổ chức, kết cấu của nội dung, là mối liên hệ ổn định giữa các
mặt, các yếu tố, các bộ phận tạo thành nội dung. Hình thức có hình thức bên trong
và hình thức bên ngoài, trong đó hình thức bên trong quan trọng hơn.
* Mối liên hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức:
- Nội dung và hình thức gắn bó với nhau trong mỗi sự vật. Không có nội dung nào
lại không có một hình thức nhất định, cũng không có một hình thức nào lại không
chứa đựng một nội dung nhất định.
- Nội dung quyết định hình thức. Bởi vì, mối liên hệ giữa những mặt, những yếu tố,
những bộ phận nào thì do chính những mặt, những yếu tố, những bộ phận đó quyết
định.
- Hình thức phải phù hợp với nội dung, tuy nhiên sự phù hợp này không cứng nhắc,
cùng một nội dung nhưng trong những điều kiện tồn tại khác nhau có thể có các
hình thức khác nhau.
- Hình thức có tác động trở lại nội dung. Nếu hình thức phù hợp với nội dung thì sẽ
tạo điều kiện cho nội dung phát triển. Ngược lại, nếu hình thức không phù hợp với
nội dung thì sẽ cản trở sự phát triển của nội dung.
- Khi hình thức cũ, lỗi thời mâu thuẫn với nội dung mới, cuộc đấu tranh giữa nội
dung và hình thức sẽ dần đến xóa bỏ hình thức cũ, thay bằng hình thức mới cho
phù hợp với nội dung mới. Đồng thời, nội dung cũng được cải tạo lại.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Trong hoạt động thực tiễn, cần tránh sự tách rời giữa nội dung và hình thức.
- Vì nội dung quyết định hình thức cho nên khi xem xét sự vật, hiện tượng, trước
hết cần căn cứ vào nội dung của nó.
- Trong hoạt động thực tiễn, cần phải biết sử dụng nhiều hình thức để phục vụ cho
một nội dung nhất định.
- Cần thường xuyên đổi mới nội dung và hình thức hoạt động cho phù hợp với tình
hình mới.
4. Quan điểm của chủ nghĩa DVBC về bản chất của nhận thức, quan
hệ biện chứng giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính, thực tiễn
và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
a). Lênin đã nêu lên 3 kết luận được xem là cơ sở lí luận của lí luận nhận thức
DVBC:
1. Có những sự vật tồn tại độc lập với ý thức của chúng ta, ở ngoài chúng ta.
2. Dứt khoát là không có và không thể có bất kì sự khác nhau nào về nguyên tắc
giữa “hiện tượng” và “vật tự nó”. Chỉ có sự khác nhau giữa cái đã được nhận thức
và cái chưa được nhận thức.
3. Nhận thức không phải là hành động tức thời, đơn giản, máy móc và thụ động mà
là một quá trình biện chứng, tích cực, sáng tạo. Quá trình nhận thức diễn ra theo
con đường từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, rồi từ tư duy trừu tượng
đến thực tiễn. Đó cũng là quá trình nhận thức đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản
chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn.
b). Quan hệ biện chứng giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính:
- Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) là giai đoạn đầu của quá trình nhận
thức, là sự phản ánh trực tiếp, cụ thể, sinh động, hiện thực khách quan vào các giác
quan của con người. Nhận thức cảm tính bao gồm:
+ Cảm giác: Sự vật, hiện tượng tác động vào giác quan gây nên sự kích thích
của tế bào thần kinh làm xuất hiện các cảm giác. Cảm giác là sự phản ánh
các thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện tượng thông qua các giác quan của
con người.
+ Tri giác: là sự phản ánh trực tiếp các sự vật, hiện tượng thông qua các giác
quan của con người.
+ Biểu tượng: là hình ảnh được lưu giữ trong chủ thể khi không còn sự vật,
hiện tượng hiện diện trực tiếp trước chủ thể.
- Nhận thức lí tính (tư duy trừu tượng) là giai đoạn tiếp theo của quá trình nhận
thức, đây là giai đoạn phản ánh trình độ cao, nó không dừng lại ở cái vẻ bề ngoài,
cái hiện tượng mà nó là sự phản ánh bên trong, mối liên hệ bản chất. Chính vì vậy
mà nó phản ánh, vạch ra được quy luạt của sự vận động và phát triển của sự vật,
hiện tượng. Nhận thức lí tính gồm 3 giai đoạn cơ bản:
+ Khái niệm: là hình thức cơ bản của tư duy phản ánh một cách tương đối
đầy đủ và có hệ thống về bản chất, quy luật của đối tượng và thường được
biểu đạt bằng ngôn ngữ dưới dạng những thuật ngữ.
+ Phán đoán: là sự liên hệ giữa các khái niện theo một quy tắc xác định mà
chúng ta có thế xác định được trị số logic của nó.
+ Suy lí: là một thao tác của tư duy để đi đến những tri thức mới từ những tri
thức đã có.
- Nhận thức cảm tính và lí tính không tách bạch nhau mà luôn có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau. Không có nhận thức cảm tính thì không có nhận thức lí tính, không
có nhận thức lí tính thì không nhận thức được bản chất thật sự của sự vật. Nhận
thức cảm tính là cơ sở, là nơi cung cấp nguyên liệu cho nhận thức lí tính trong quá
trình nhận thức gián tiếp đối với sự vật, hiện tượng đi sâu vào bản chất. Ngược lại,
nhận thức lí tính chi phối nhận thức cảm tính, làm cho nó tinh vi, nhạy bén và chính
xác hơn.
c). Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
- Thực tiễn là những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử – xã hội của
con người nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội và cả tạo chính bản thân con người.
- Thực tiễn có nhiều hình thức khác nhau, trong đó có 3 hình thức cơ bản:
+ Hoạt động sản xuất vật chất: Đây là hình thức cơ bản của hoạt động thực t
iễn, có vai trò quyết định và là cơ sở cho các hoạt động khác của thực tiễn.
+ Hoạt động làm biến đổi các quan hệ xã hội: Đây là hình thức cao nhất của
hoạt động thực tiễn.
+ Quan sát và thực nghiệm khoa học: Nó được xem là khâu trung gian giữa
người nghiên cứu khoa học và ứng dụng KH vào thực tế. Đây là khâu quan
trọng nhất trong các khâu của thực tiễn KH.
- Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
+ Thực tiễn là cơ sở và mục đích của nhận thức: Không chỉ thông qua hoạt
động thực tiễn, thông qua sự tác động của chủ thể và khách thể khi đó các sự
vật, hiện tượng mới bộc lộ những thuộc tính vốn có của nó, nhờ vậy chúng ta
mới nhận thức được sự vật hiện tượng. Nói thực tiễn là cơ sở của nhận thức
là vì thông qua sự tác động, giác quan của con người ngày càng hoàn thiện
hơn, nhờ vậy mà nhận thức của con người ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc
hơn.
+ Thực tiễn là động lực thúc đẩy quá trình vận động, phát triển của nhận
thức: là vì thực tiễn luôn đề ra những nhu cầu, những nhiệm vụ mới cho quá
trình nhận thức. Thực tiễn cũng luôn vận động, luôn biến đổi, do vậy, mỗi
bước tiến, thay đổi của thực tiễn nó lại đặt ra cho nhận thức những vấn đề
cần phải giải quyết.
+ Thực tiễn là mục đích của quá trình nhận thức: nhận thức phải phục vụ
thực tiễn.
+ Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm nghiệm tính chân lí trong quá trình phát triển
nhận thức: Thực tiễn là thước đo tính chân thực, tính giá trị của những tri
thức mà con người đạt được. Tiêu chuẩn này vừa có tính xác định lại vừa có
tính không xác định...
5. Khái niệm sản xuất vật chất và phương thức sản xuất. Vai trò của
sản xuất vật chất và phương thức sản xuất đối với sự tồn tại và phát
triển của xã hội:
* Khái niệm:
- Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng các công cụ lao động (tác động
trực tiếp hoặc gián tiếp) vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên,
tạo ra của cải xã hội nhằm thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển, nhu cầu phong
phú và vô tận của con người.
- Phương thức sản xuất, cách thức con người tiến hành sản xuất chính là sự thống
nhất giữa lực lượng sản xuất ở trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng
trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
* Vai trò của sản xuất vật chất:
- Tạo ra các tư liệu sinh hoạt thỏa mãn các nhu cầu của con người.
- Tạo ra các mặt của đời sống xã hội, tạo ra các quan hệ xã hội về Nhà nước, pháp
quyền, đạo đức, nghệ thuật.
- Làm biến đổi tự nhiên, xã hội và chính bản thân con người.
- Sự phát triển của sản xuất quyết định sự phát triển các mặt của đời sống xã hội,
quyết định xã hội từ thấp đến cao.
* Vai trò của phương thức sản xuất:
- Sản xuất vật chất được thực hiện trong những điều kiện cụ thể về hoàn cảnh địa lí,
điều kiện tự nhiên; về điều kiện dân số và phương thức sản xuất. Trong đó, phương
thức sản xuất là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.
- Phương thức sản xuất quyết định tính chất, kết cấu của xã hội, bởi lẽ, trong mỗi
xã hội cụ thể, phương thức sản xuất thống trị như thế nào thì tính chất của chế độ
xã hội sẽ như thế ấy. Kết cấu của giai cấp, tính chất của mối quan hệ giữa các giai
cấp cũng như các quan điểm về chính trị, pháp quyền, đạo đức, v.v... suy cho cùng
đều do phương thức sản xuất quyết định.
- Khi phương thức sản xuất mới ra đời thay thế phương thức sản xuất cũ lỗi thời thì
sớm hay muộn sẽ có sự thay đổi cơ bản từ kết cấu kinh tế đến kết cấu giai cấp; từ
các quan điểm chính trị – xã hội đến các tổ chức xã hội v.v... Vì vậy, lịch sử xã hội
loài người, trước hết là lịch sử sản xuất về vật chấy, các phương thức sản xuất kế
tiếp nhau trong quá trình phát triển.
6. Ý nghĩa phương pháp luận của tồn tại xã hội và ý thức xã hội:
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Nghiên cứu ý thức xã hội không được dừng lại ở các hiện tượng ý thức mà phải đi
sâu nghiên cứu tồn tại xã hội.
- Muốn phát triển YTXH của một xã hội mới về lâu dài phải phát triển cơ sở vật
chất xã hội của nó.
- Phải thấy được tầm quan trọng và ý nghĩa của YTXH đối với quá trình phát triển
nền văn hóa mới và con người mới; phát huy, khai thác tính đa dạng, sáng tạo của
YTXH để làm cho đời sống tinh thần không bị tẻ nhạt; phát huy tính chủ động của
mỗi người.
7. Quan niệm của chủ nghĩa DVLS về cá nhân và xã hội. Quan hệ
biện chứng giữa cá nhân và xã hội. Ý nghĩa phương pháp luận:
* Khái niệm:
- Cá nhân là khái niệm chỉ con người cụ thể sống trong một xã hội nhất định và
được phân biệt với các cá thể khác thông qua tính đơn nhất và phổ biến của nó.
- Xã hội là khái niệm dùng chỉ cộng đồng các cá nhân trong mối quan hệ biện
chứng với nhau, trong đó cộng đồng nhỏ nhất của XH là cộng đồng tập thể gia
đình, cơ quan,... lớn hơn là cộng đồng xã hội quốc gia, dân tộc,... và rộng hơn nữa
là cộng đồng nhân loại.
* Quan hệ giữa cá nhân và xã hội: Cá nhân và xã hội có mối quan hệ khắng khít tác
động lẫn nhau. Quan hệ về lợi ích (trước kết là lợi ích kinh tế) là nền tảng của quan
hệ cá nhân và xã hội.
- XH giữ vai trò quyết định đồi với cá nhân:
+ Sự hình thành nhân cách của cá nhân chỉ có thể diễn ra trong những điều
kiện xã hội nhất định và phụ thuộc vào những điều kiện đó.
+ Nhu cầu và lợi ích cá nhân chỉ hình thành và được thực hiện trong những
điều kiện xã hội nhất định.
- Sự phát triển của cá nhân có tác động trở lại sự phát triển của xã hội:
+ Cá nhân tích cực có vai trò thúc đẩy sự phát triển xã hội, nhất là những vĩ
nhân. Nhân cách và hoạt động của họ để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử.
+ Cá nhân tiêu cực có tác dụng kìm hãm sự phát triển xã hội. Tuy nhiên tác
dụng kìm hãm của họ chỉ có tính chất tạm thời, vì XH phát triển theo quy
luật khách quan không phụ thuộc ý chí cá nhân nào.
8 .Quan niệm của chủ nghĩa DVLS về vĩ nhân (lãnh tụ) và quần
chúng nhân dân. Mối quan hệ biện chứng và ý nghĩ phương pháp
luận của việc nghiên cứu vấn đề trên:
* Khái niệm:
- Lãnh tụ là cá nhân kiệt xuất xuất hiện trong phong trào quần chúng nhân dân,
được quần chúng suy tôn làm người lãnh đạo phong trào quần chúng.
- Quần chúng nhân dân là bộ phận có cùng chung lợi ích căn bản bao gồm những
thành phần, những tầng lớp và những giai cấp liên kết lại thành tập thể dưới sự lãnh
đạo của một cá nhân, một tổ chức hay một đảng phái nhằm giải quyết những vấn đề
kinh tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất định. QCND là một phạm trù lịch sử,
vận động, biến đổi theo sự phát triển của lịch sử xã hội.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Hiểu được vai trò quyết định của quần chúng nhân dân, từ đó xây dựng quan điểm
quần chúng: tôn trọng và tin tưởng vào sức mạnh và khả năng to lớn của quần
chúng, dựa vào quần chúng, phát huy nguồn sức mạng tiềm tàng của quần chúng.
Hiểu được quan điểm của Hồ Chủ tịch và Đảng ta: coi sự nghiệp cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng, người cán bộ là đầy tớ trung thành của nhân dân.
- Hiểu được vai trò to lớn của lãnh tụ, lựa chọn lãnh tụ có đủ tài đức để lãnh đạo
phong trào. Tôn kính lãnh tụ, nhưng không được sùng bái cá nhân lãnh tụ. Tôn kính
lãnh tụ là tình cảm đạo đức đúng đắn, xuất phát từ chỗ hiểu biết tài năng, phẩm chất
và cống hiến của lãnh tụ. Trái lại, sùng bái cá nhân lãnh tụ xuất phát từ sự ngu dốt
và mê tín, coi lãnh tụ là thần thánh, làm cho lãnh tụ xa rời quần chúng, phạm sai
lầm không khắc phục được.

You might also like