You are on page 1of 25

ĐỀ CƯƠNG TRIẾT

-----

Câu 1: Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất.

I. Vật chất

a) Định nghĩa: Kế thừa những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về vật chất, tổng kết

thành tựu khoa học tự nhiên, đấu tranh chống luận điệu xuyên tạc của chủ nghĩa duy tâm,

V.I.Lênin đã đưa ra định nghĩa vật chất.

“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho

con người trong cảm giác, được qua cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh

và tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác”.

Ví dụ: Quy luật Nước sôi ở 100 độ C không bị thay đổi dựa vào suy nghĩ sai lệch của con

người.

b) Phân tích định nghĩa:

+ Phân biệt vật chất với tư cách là phạm trù triết học (chỉ vật chất nói chung, không

giới hạn. Không sinh, không diệt) với vật chất trong các khoa học chuyên ngành

(vật chất cụ thể, có giới hạn, có sinh, có diệt).

+ Thuộc tính cơ bản để phân biệt vật chất với ý thức, đó là thuộc tính khách quan.

Vật chất là cái tồn tại không phụ thuộc vào ý thức, “không lệ thuộc vào cảm

giác” của con người, dù con người biết hay không biết về nó thì vẫn tồn tại.

+ “Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác…” có nghĩa là

thực tại khách quan (vật chất) là cái có trước; cảm giác, ý thức có sau và con

người có thể nhận thức được thực tại khách quan (vật chất).

c) Ý nghĩa của định nghĩa:

+ Định nghĩa đã giải quyết triệt để vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường duy

vật biện chứng.


+ Định nghĩa đã bác bỏ chủ nghĩa duy tâm, thuyết không thể biết, khắc phục được

những hạn chế trong những quan điểm duy vật siêu hình, máy móc về vật chất,

bảo vệ chủ nghĩa duy vật.

+ Định nghĩa có ý nghĩa định hướng cho các nhà khoa học trong việc tìm kiếm, phát

hiện những dạng tồn tại mới của vật chất.

+ Định nghĩa là cơ sở khoa học cho việc xác định cái gì là vật chất trong lĩnh vực xã

hội , từ đó giúp các nhà khoa học có cơ sở lý luận để giải thích nguyên nhân cuối

cùng của các biến cố xã hội, trên cơ sở đó tìm ra phương án hành động tối ưu.

II. Hình thức tồn tại của vật chất là không gian và thời gian

a) Khái niệm “không gian”, “thời gian”:

+ Không gian là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt quảng tính (chiều cao,

chiều rộng, chiều dài) tồn tại trong các mối tương quan nhất định (trước hay sau,

trên hay dưới, phải hay trái,..) với dạng vật chất khác.

+ Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất biểu hiện quá trình biến đổi nhanh hay

chậm, kế tiếp trước hay sau của các giai đoạn vận động của một khách thể vật chất

nào đó.

b) Không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất có nghĩa là: không gian và

thời gian gắn liền với vật chất vận động, phụ thuộc vào vật chất vận động; không có

vật chất tồn tại ngoài không gian và thời gian cũng không có không gian và thời gian

tồn tại bên ngoài vật chất vận động.

c) Không gian và thời gian gắn bó mật thiết với nhau. Mỗi không gian có một thời gian

tương ứng và mỗi thời gian sẽ tương ứng với một khoảng không gian xác định.
Câu 2: Nguồn gốc và bản chất của ý thức.

I. Nguồn gốc của ý thức:

a) Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm: Các nhà duy tâm cho rằng ý thức là nguyên thể

đầu tiên, tồn tại vĩnh viễn, là nguyên nhân hình thành, chi phối sự tồn tại và biến đổi

của toàn bộ thế giới vật chất

b) Quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình: Phủ nhận tính chất siêu tự nhiên của ý

thức, tinh thần. Tuy nhiên, họ đã đồng nhất vật chất và ý thức, coi ý thức là một dạng

vật chất đặc biệt do vật chất sinh ra.

c) Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng: Ý thức có nguồn gốc tự nhiên và

nguồn gốc xã hội.

● Nguồn gốc tự nhiên: Ý thức là sự phản ánh trên thế giới khách quan vào bộ

óc con người.

- Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức, ý thức là chức năng của bộ

óc người.

- Sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc người.

+ Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của hệ thống vật chất này

lên hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại lẫn

nhau giữa chúng.

+ Phản ánh là thuộc tính tất cả các dạng vật chất. Tuy nhiên, cùng

với sự phát triển của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh cũng

phát triển từ thấp đến cao: phản ánh vật lý, hóa học, phản ánh

sinh học, phản ánh tâm lý, ý thức.

+ Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất, chỉ được thực hiện ở

dạng vật chất có tổ chức cao nhất là bộ óc người.

● Nguồn gốc xã hội: Ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc con

người nhờ lao động, ngôn ngữ, ngoài ra còn có những quan hệ xã hội. Lao

động và ngôn ngữ được tiến hành trong xã hội, mang bản chất xã hội.
- Lao động là hoạt động đặc thù của con người, là quá trình con người sáng tạo

và sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải biên các dạng vật chất

của tự nhiên, tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu của con người.

+ Vai trò của lao động đối với sự hình thành ý thức:

❖ Lao động giúp con người ngày càng hiểu biết về thế giới khách

quan

❖ Lao động giúp con người tìm ra lửa và nấu chín thức ăn, làm

cho bộ óc con người ngày càng hoàn thiện, phát triển.

❖ Lao động dẫn tới sự hình thành ngôn ngữ. Ngôn ngữ, một mặt

là kết quả của lao động, mặt khác lại là nhân tố tích cực tác

động đến quá trình lao động và phát triển ý thức.

- Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức, là cái vỏ vật chất

của tư tưởng.

+ Vai trò của ngôn ngữ đối với sự hình thành ý thức:

❖ Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp, là công cụ để thể hiện tư

tưởng.

❖ Việc trao đổi thông tin và trao truyền tri thức bằng ngôn ngữ

giúp con người ngày càng thông minh hơn, khả năng nhận thức

và phản ánh thế giới khách quan của con người ngày càng hoàn

thiện hơn.

→ Như vậy, lao động và ngôn ngữ là hai sức kích thích chủ yếu làm chuyển biến dần

vượn người thành người, bộ óc vượn người thành bộ óc người, tâm lý động vật thành

ý thức.

Tóm lại: Ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội. Trong đó, nguồn gốc tự

nhiên là điều kiện cần, nguồn gốc xã hội là điều kiện đủ cho sự ra đời của ý thức.

II. Bản chất của ý thức:


Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo hiện thực khách quan vào trong bộ óc con

người; là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.

- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nhưng không phải là sự

phản ánh nguyên xi mà đã được cải biến thông qua lăng kính chủ quan của con

người (tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, kinh nghiệm, tri thức, nhu cầu,..), do

hoàn cảnh, góc nhìn, giác quan, bộ óc của mỗi người khôn giống nhau.

- Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan:

+ Trên cơ sở những tri thức đã có, ý thức có thể tạo ra những tri thức

mới.

+ Trên cơ sở hiện thực, ý thức có thể tưởng tượng ra cai không có trong

thực tế; tiên đoán, dự báo tương lai.

+ Có thể tạo ra những giả thuyết, lý thuyết khoa học trừu tượng và khái

quát.

- Ý thức là một hiện tượng mang bản chất xã hội: Sự ra đời và phát triển của ý

thức gắn liền với quá trình lao động và sự hình thành, phát triển của ngôn ngữ

do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của đời sống

xã hội.

Câu 3: Nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.

I. Khái niệm mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến

a) Mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chị sự quy định, sự tác động và chuyển hóa

lẫn nhau giữa các yếu tố trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng

vơi nhau.

b) “Mối liên hệ phổ biến” dùng để chỉ: mối liên hệ tồn tại trong toàn bộ hiện thực (tự

nhiên, xã hội, tư duy).

Những mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế

giới. Nó thuộc đối tượng nghiên cứu của phép biến cứng, đó là các mối liên hệ giữa: các mặt
đối lập, lượng - chất, khẳng định và phủ định, cái chung và cái riêng, bản chất và hiện

tượng,...

II. Tính chất của mối liên hệ

a) Tính khách quan: Các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng trong thế giới là vốn có,

không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.

Ví dụ: Con người luôn tồn tại trong mối liên hệ với môi trường tự nhiên và xã hội.

b) Tính phổ biến: Mọi sự vật, hiện tượng trong hiện thực đều có mối liên hệ với nhau;

các yếu tố, các quá trình trong bản thân mỗi sự vật, hiện tượng đều có mối liên hệ với

nhau.

Ví dụ:

- Trong tự nhiên: Mối liên hệ giữa các sự vật với lực hút Trái Đất

- Trong xã hội: Mối liên hệ giữa con người với con người

- Trong tư duy: Mối liên hệ giữa nhận thức cũ và nhận thức mới.

c) Tính đa dạng, phong phú: Các sự vật, hiện tượng khác nhau thì có các mối liên hệ

khác nhau; cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật, hiện tượng nhưng trong những

điều kiện khác nhau thì có những tính chất khác nhau.

Ví dụ:

- Mỗi người khác nhau thì có những mối liên hệ với cha mẹ, anh em, bạn bè

khác nhau.

- Cùng là mối liên hệ giữa con cái với cha mẹ nhưng trong mỗi giai đoạn khác

nhau có những tính chất và biểu hiện khác nhau.

Phân loại mối liên hệ: Mối liên hệ bên trong - bên ngoài, tất nhiên - ngẫu nhiên, trực tiếp -

gián tiếp, chủ yếu - thứ yếu,... Sự phân chia các mối liên hệ chỉ mang tính tương đối, phụ

thuộc vào từng quan hệ, góc độ xem xét.

III. Ý nghĩa phương pháp lu mố: Trong nhận thức và thực tiễn cần có những quan điểm

sau

a) Quan điểm toàn diện:


- Xem xét sự vật, hiện tượng trong các mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng đó

với các sự vật, hiện tượng khác; giữa các mặt, các yếu tố của chính sự vật, hiện

tượng đó.

- Chủ thể phải rút ra được mối liên hệ tất yếu và nhận thức chúng trong sự thống

nhất hữu cơ nội tại.

- Cần xem xét đối tượng này trong mối liên hệ với đối tượng khác và với môi

trường xung quanh, kể cả những mặt của mối liên hệ trung gian, gián tiếp.

- Tránh quan điểm phiến diện, một chiều.

b) Quan điểm lịch sử cụ thể: Mọi sự vật, hiện tượng luôn vận động, biến đổi nên các

mối liên hệ cũng luôn vận động, biến đổi. Vì thê,s khi xem xét sự vật, hiện tượng phải

đặt sự vật, hiện tượng đó trong thời gian, khong gian, trong quan hệ xác định.

Câu 4: Nội dung cặp phạm trù Nguyên nhân - Kết quả. Ý nghĩa phương pháp luận. Ví dụ

vận dụng trong thực tiễn.

I. Khái niệm:

- Nguyên nhân là phạm trù triết học chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự

vật hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó.

Nguyên cớ là những sự vậy, hiện tượng xuất hiện đồng thời cùng nguyên nhân nhưng chỉ

có quan hệ bề ngoài, ngẫu nhiên, làm cho kết quả mau diễn ra hơn chứ không sinh ra kết

quả.

- Kết quả là phạm trù triết học chi những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các

mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra.

Ví dụ: Nguyên nhân làm cho tờ giấy cháy là do tự tác động giữa tờ giấy và ngọn lửa.

II. Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả:

- Nguyên nhân sinh ra kết quả, xuất hiện trước kết quả. Quan hệ giữa nguyên nhân và kết

quả là quan hệ sản sinh chứ không phải là quan hệ nối tiếp về thời gian.
Ví dụ: Ngày không phải là nguyên nhân của đêm, đêm không phải là nguyên nhân của

ngày.

- Việc phân biệt giữa nguyên nhân và kết quả chỉ mang tính tương đối, tùy thuộc từng quan

hệ

- Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân.

● Hướng tích cực: Thúc đẩy sự hoạt động của nguyên nhân

● Hướng tiêu cực: Cản trở sự hoạt động của nguyên nhân

- Phân loại nguyên nhân: Căn cứ vào tính chất, vai trò của nguyên nhân đối với sự hình

thành kết quả, người ta chia thành: nguyên nhân chủ yếu - thứ yêu, bên trong - bên ngoài,

khách quan - chủ quan.

III. Ý nghĩa phương pháp luận:

- Phải tìm nguyên nhân chưa được phát hiện để hiểu được đúng sự thật, hiện tượng. Tìm

nguyên nhân trong thế giới hiện thực chứ không phải trong sự tưởng tượng của con người

hoặc ở thần linh, Thượng đế. Tìm nguyên nhân trong những hiện tượng xảy ra trước đó

(có chú ý tới dấu hiệu sản sinh).

- Phân loại nguyên nhân, tìm ra nguyên nhân cơ bản, bên trong, chủ yếu… đồng thời nắm

được chiều hướng tác động của các nguyên nhân để có biện pháp tác động thích hợp thúc

đẩy sự vật phải triển.

- Phát huy những kết quả đạt được để thúc đẩy nguyên nhân; tác động vào nguyên nhân cơ

bản chủ yếu để thay đổi sự vật, hiện tượng theo chiều hướng tích cực.

IV. Vận dụng trong thực tiễn

Hiện tượng hàng loại công nhân bị ngộ độc thực phẩm ngày càng gia tăng và diễn biến phức tạp.

Vậy nguyên nhân do đâu mà dẫn đến hiện tượng hàng loạt công nhân bị ngộ độc thực phẩm ở

các nhà máy, xí nghiệp lớn? Nguyên nhân ban đầu được các cơ quan điều tra xác định là do đồ

ăn hoặc đồ uống mà công nhân ăn phải tại nhà máy, xí nghiệp- nơi mà họ làm việc. Qua nhiều vụ

việc diễn ra có thể xác định được nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng này là do đồ ăn, nước

uống không hợp vệ sinh; bếp ăn không đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Thức ăn chưa được
nấu chín kỹ, biến chất, có mùi ôi thiu, ươn và bốc mùi hoặc nhiễm vi sinh vật (vi khuẩn, Ký sinh

trùng), các loại rau sống, gỏi chưa được rửa sạch, nước uống thì bị nhiễm khuẩn hoặc bị ô nhiễm

hóa học (Kim loại nặng, độc tố vi nấm .. ) kết quả mọi người phải nhập viện hàng loạt vì ngộ

độc.

Câu 5: Nội dung cặp phạm trù Bản chất và Hiện tượng. Ý nghĩa phương pháp luận. Ví dụ

vận dụng trong thực tiễn.

I. Khái niệm:

- Bản chất là phạm trù dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất

nhiên, tương đối ổn định ở bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự

vật, hiện tượng đó.

Ví dụ: Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội.

- Hiện tượng là phạm trù triết học chỉ sự biểu hiện ra ngoài của bản chất.

Ví dụ: Bản chất con người là tốt được bộc lộ ra bên ngoài thông qua cách cư xử, hành

động của người đó trong các mối quan hệ xã hội.

II. Quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng:

- Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:

+ Bản chất bao giờ cũng được bộc lộ ra qa hiện tượng, còn hiện tượng bao giờ cũng

là sự biểu hiện của một bản chất nhất định.

+ Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng cũng thay đổi theo.

- Sự đối lập giữa bản chất và hiện tượng:

+ Bản chất là cái chung, cái tất yếu, hiện tượng là cái riêng phong phú, đa dạng.

+ Bản chất là bên trong, hiện tượng là cái biểu hiện bên ngoài bản chất.

+ Bản chất là cái tương đối ổn định, hiện tượng là cái thường xuyên biến đổi.

Vì vậy, cùng một bản chất có thể biểu hiện ở nhiều hiện tượng khác nhau. Nhiều khi, hiện tượng

còn xuyên tạc bản chất.

III. Ý nghĩa phương pháp luận:


- Khi nghiên cứu bản chất sự vật, phải xuất phát từ những hiện tượng mà nó biểu hiện; phải

phân tích, tổng hợp nhiều hiện tượng, nhất là những hiện tượng điển hình mới hiểu rõ bản

chất của sự vật; phân biệt hiện tượng giả, bộc lộ sai lệch bản chất của sự vật.

- Phải dựa vào bản chất của sự vật để xác định phương hướng tác động phù hợp.

IV. Vận dụng trong thực tiễn

Trong những tệ nạn của giới sinh viên thì không thể không kể đến vấn nạn đua xe máy. Nhiều

sinh viên cho rằng đua xe mới tỏ rõ bản chất anh hùng của mình nhưng họ lại không nhận ra rằng

hiện tượng mặc dù thống nhất với bản chất, không tách rời bản chất và bản chất được biểu hiện

thông qua hiện tượng nhưng bản chất sâu sắc hơn, vững chắc hơn nhiều còn hiện tượng vô cùng

đa dạng và thường xuyên biến đổi, do vậy bản chất "người lớn" chẳng những không được biểu

hiện qua hành động đua xe mà những hành động ngông cuồng này còn gây ra những hậu quả

nghiêm trọng cho xã hội. Rất nhiều người vô tội trở thành nạn nhân của những hành động này,

phải mang thương tật suốt đời, thậm chí mất đi cả thứ quý giá nhất của con người: Tính mạng.

Câu 6: Nội dung quy luật lượng chất. Ý nghĩa phương pháp luận. VD vận dụng.

I. Vị trí, vai trò của quy luật: Quy luật Lượng - Chất là một trong ba quy luật cơ bản của

phép biện chứng duy vật, chỉ ra cách thức của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện

tượng.

II. Khái niệm:

- Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, là sự

thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho sự vật là nó và phân biệt nó với cái khác.

+ Chất được biểu hiện qua thuộc tính nhưng không phải bất kỳ thuộc tsnh nào cũng

biểu hiện chất của sự vật. Thuộc tính của sự vật có thuộc tính cơ bản và thuộc tính

không cơ bản. Những thuộc tính cơ bản tổng hợp nên chất của sự vật. Thuộc tính

cơ bản thay đổi thì chất của sự vật cũng thay đổi. Còn thuộc tính không cơ bản có

thể sinh thêm, có thể mất đi mà vẫn chưa làm thay đổi chất của sự vật.
+ Chất còn được tạo nên bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố cấu thành sự vật

(kết cấu). Trong hiện thực có nhiều sự vật được tạo thành bởi yếu tố giống nhau

nhưng chất lại khác nhau là do kết cấu khác nhau.

- Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật về

mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các

thuộc tính của sự vật.

Lượng biểu thị kích thước dài hay ngắn, quy mô to hay nhỏ, trình độ cao hay hấp, số

lượng nhiều hay ít,...

III. Nội dung quy luật lượng chất:

- Mọi sự vật đều có sự thống nhất giữa mặt chất và mặt lượng. Sự vật khi còn là nó thì chất

không thay đổi, lượng có thể thay đổi trong giới hạn độ.

Ví dụ: Nước trong khoảng từ 0 độ C đến 100 độ C thì nhiệt độ, tốc độ vận động của phân

tử nước thay đổi nhưng nước vẫn ở thể lỏng.

- Sự thay đổi về lượng trong độ tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật

thông qua bước nhảy.

+ Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về

lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật ấy.

+ Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về

lượng đã dẫn tới sự thay đổi về chất của sự vật.

+ Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình chuyển hóa về chất của sự

vật, chất cũ mất đi, chất mới hình thành do những thay đổi về lượng trước đó gây

ra.

- Các hình thức của bước nhảy:

+ Căn cứ vào quy mô, có: Bước nhảy toàn bộ (A → B), bước nhảy bộ phận (thay

đổi những mặt, những yếu tố riêng lẻ của sự vật).

+ Căn cứ nhịp điệu, có: Bước nhảy đột biến (trong thời gian ngắn làm thay đổi bản

chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật), bước nhảy dần dần (được thực hiện
từng bước bằng cách tích lũy dần dần những nhân tố của chất mới và những nhân

tố của chất cũ dần dần mất đi).

Ví dụ: Chất của nước là không màu, không mùi, không vị, là sự kết hợp của nguyên tử

Hidro và Oxi.

● Lượng của nước là số lượng, khối lượng, cấu trúc, tốc độ vận động của các phân

tử nước.

● Độ của nước là khoảng nhiệt từ 0 → 100 độ C với điểm nút là 0 độ C, 100 độ C

Tại 0 độ C, nước từ thể rắn chuyển sang thể lỏng

Tại 100 độ C, nước từ thể lỏng chuyển sang thể khí

● Bước nhảy: nước chuyển từ thể rắn sang thể lỏng, từ thể lỏng sang thể khí.

- Sự vật mới hình thành lập tức sẽ xác lập sự thống nhất giữa chất và lượng mới. Chất mới

quy định cho mình một lượng mới về kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu.

→ Tóm lại: Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt chất

và lượng. Sự thay đổi về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật thông qua

bước nhảy. Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại lượng mới, làm cho lượng mới thay đổi về quy

mô, tốc độ, trình độ… Quá trình đó liên tục diễn ra, đó chính là cách thức của sự vận động, phát

triển của sự vật, hiện tượng trong hiện thực.

IV. Ý nghĩa phương pháp luận:

- Cần coi trọng cả hai loại chỉ tiêu chất và lượng của sự vật, tạo nên nhận thức toàn diện về

sự vật.

- Vì lượng đổi dẫn đến chất đổi nên phải tích cực tích lũy về lượng để dẫn tới thay đổi về

chất theo hướng tích cực, đấu tranh chống những sự thay đổi về lượng theo chiều hướng

xấu.

- Cần chống lại tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nôn nóng muốn đốt cháy giai đoạn khi chưa

có tình thế, thời cơ.


- Khi đã tích lũy đủ về lượng phải quyết tâm thực hiện bước nhảy, khắc phục tư tưởng bảo

thủ, trì trệ, coi sự phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần về lượng.

- Linh hoạt thực hiện bước nhảy phù hợp với từng đối tượng và hoàn cảnh cụ thể.

V. Ví dụ vận dụng thực tiễn

Học sinh ngồi đi học 12 năm được học những kiến thức cơ bản về khoa học tự nhiên và khoa học

xã hội

- Quá trình tích lũy về lượng: học sinh tiếp thu kiến thức từ các môn học là quá trình dài đòi hỏi

sự đồng hành từ cả gia đình nhà trường và sự nỗ lực của học sinh

- Quy luật lượng chất thể hiện: mỗi học sinh tích lũy cho mình một khối lượng kiến thức nhất

định qua từng bài học trên lớp cũng như trong việc giải bài tập ở nhà. Việc tích lũy kiến thức sẽ

được đánh giá qua các kỳ học, trước hết là các kì thi học kì và cuối cấp là kỳ thi tốt nghiệp.

→ Trong quá trình học tập, rèn luyện của học sinh thì quá trình học tập tích lũy kiến thức chính

là độ, các kì thi chính là điểm nút, việc vượt qua các kì thi chính là bước nhảy làm cho việc tiếp

thu tri thức của học sinh bước sang giai đoạn mới, tức là có sự thay đổi về chất. Vượt qua kì thi

tốt nghiệp cấp 3 đã là một điểm nút quan trọng, nhưng vượt qua được kì thi đại học lại còn là

điểm nút quan trọng hơn, việc vượt qua điểm nút này chứng tỏ học sinh đã có sự tích lũy đầy đủ

về lượng, tạo nên bước nhảy vọt, mở ra một thời kì phát triển mới của lượng và chất, từ học sinh

chuyển thành sinh viên.

Câu 7: Nội dung quy luật phủ định. Ý nghĩa phương pháp luận. VD vận dụng.

I. Vị trí, vai trò của quy luật: Quy luật Phủ định của phủ định là một trong ba quy luật cơ

bản của phép biện chứng duy vật, chỉ ra khuynh hướng (con đường) vận động và phát

triển của sự vật, hiện tượng.

II. Khái niệm: Trong ý thức thông thường, phủ định thường được thể hiện bằng từ “không”,

là sự bác bỏ một cái gì đó.


1. Phủ định là sự thay thế sự vật, hiện tượng này bằng sự vật, hiện tượng khác, hình

thái này bằng hình thái khác của cùng một sự vật.

2. Phủ định siêu hình là sự phủ định sạch trơn, sự phủ định không tạo tiền để cho

sự phát triển, lực lượng phủ định ở bên ngoài sự vật.

3. Phủ định biện chứng là sự tự phủ định, sự phủ định tạo tiền để cho sự phát triển

tiếp theo của sự vật, có sự ra đời của cải mới thay thế cái cũ. Phủ định biện chứng

có 2 đặc trưng cơ bản là tính khách quan và tính kế thừa.

- Tinh khách quan: Tự thân sự vật phủ định, không phụ thuộc vào ý muốn

chủ quan của con người.

- Tính kế thừa: Cái mới ra đời tử cái cũ, trên cơ sở kể thừa những yêu tổ

tích cực của cái cũ.

III. Nội dung quy luật:

- Sự phát triển của thế giới mang tính chất chu kỳ. Để thực hiện một chu kỳ phát triển, sự

vật thường trải qua hai lần phủ định biện chứng lớn, gọi là phủ định của phủ định.

- Sau một chu kỳ phủ định biện chứng, cái mới ra đời dường như lắp lại cái ban đầu nhưng

trên cơ sở mới cao hơn. Sự phủ định của phủ định đánh dấu sự kết thúc một chu kỳ phát

triển, đồng thời lại là điểm xuất phát của một chu kỳ phát triển tiếp theo.

- Do tính chu kỳ, tính lập lại trên cơ sở mới cao hơn nên con đường phát triển của sự vật

không theo đường thẳng, không theo đường tròn mà theo đường xoáy ốc. Đường xoáy ốc

thể hiện tính chất biện chứng của sự phát triển, đó là tính chu ki, tính kế thừa, tỉnh phát

triển vô tận và tỉnh quanh co phức tạp…

Ví dụ:

+ Trong tự nhiên: hạt thóc → cây lúa → hạt thóc

+ Trong xã hội: xã hội không giai cấp → xã hội có giai cấp → xã hội không giai cấp

+ Trong tư duy: cụ thể → trừu tượng → cụ thể

Lưu ý: Số lần phủ định trên thực tế có thể nhiều hơn hai lần song vẫn phải có hai lần phủ định

biện chứng lớn.


Ví dụ: Vòng đời của tằm: trứng - tằm - nhộng - ngài - bướm- trứng.

→ Tóm lại: Sự phát triển của thế giới có tính chất chu kỳ. Để thực hiện một chu kỳ phát triển

thường phải trải qua hai lần phủ định biện chứng (phủ định của phủ định), Sau một chu kỳ phủ

định biện chứng, sự vật mới ra đời dường như lặp lại cái ban đầu nhưng trên một cơ sở mới cao

hơn. Do đó, con đường phát triển của sự vật là theo đường xoáy ốc.

IV. Ý nghĩa phương pháp luận:

- Quy luật này giúp ta có nhận thức đúng đắn về xu hướng phát triển của sự vật. Đó là quá

trình quanh co, phức tạp theo đường xoáy ốc nhng xu hướng chung là phát triển. Từ đó,

cần có niềm tin và thái độ lạc quan trong cuộc sống.

- Quy luật này cũng giúp chúng ta có hiểu biết khoa học về cái mới. Kết quả của phủ định

biện chứng là sự ra đời cái mới tử trong lòng cái cũ nhưng hoàn thiện hơn.Cái mới ra đời

lúc đầu còn mong manh, yếu ớt nhưng có sức sống hơn cái cũ. Vì vậy, phải biết phát hiện

cái mới, ủng hộ cái mới và đấu tranh cho cái mới thắng lợi.

- Cái mới ra đời trên cơ sở của cái cũ nên phải biết kế thừa có phê phán những di sản của

quá khứ, tránh hai khuynh hướng:

1. Phủ định sạch trơn cái cũ (quá khứ)

2. Kế thừa nguyên xi quá khứ, bảo thủ, khư khư giữ lấy những cái đã lỗi thời, cản

trở sự phát triển

V. Ví dụ vận dụng thực tiễn:

Hiện nay, ở nước ta vẫn tồn tại những tàn dư của xã hội cũ để lại đó là những hủ tục lạc

hậu, bảo thủ, mê tín dị đoan,...Chính vì vậy, xây dựng một nền văn hóa mới, phù hợp với

yêu cầu của thời đại, phù hợp với thực tiễn của đất nước trên cơ sở quán triệt quy luật phủ

định của phủ định của chủ nghĩa duy vật biện chứng là một nhiệm vụ quan trọng cho

Đảng và Nhà nước ta. Trong các Văn kiện, Nghị quyết cả các kỳ Đại hội Đảng gần đây,

Đảng ta đã nhận thức rõ điều này, đặc biệt trong Văn kiện Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp

hành Trung ương khóa VIII Đảng ta đã khẳng định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Và điều này tiếp tục được khẳng định tại Đại hội Đảng

toàn quốc lần thứ IX: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là

mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội”.

Câu 8: Con đường biện chứng của nhận thức chân lý.

I. Các nguyên tắc của lý luận nhận thức duy vật biện chứng

- Thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan bên ngoài và độc lập với thức của người.

- Thừa nhận cảm giác, trí giác, ý thức nói chung là hình ảnh chủ quan của thế giới khách

quan.

- Lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn để kiểm tra hình ảnh đúng, hinh ảnh sai của cảm giác, ý thức

nói chung

II. Nguồn gốc và bản chất của nhận thức

- Nguồn gốc của nhận thức: Không phải ý thức của con người sản sinh ra thế giới mà thế

giới vật chất tồn tại khách quan độc lập với ý thức con người là nguồn gốc "duy nhất và

cuối cùng" của nhận thức. Triết học Mác Lênin khång định khả năng nhận thức thế giới

của con người.

- Bản chất của nhận thức:

+ Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người, là quá

trình tạo thành tri thức về thể giới khách quan trong bộ óc con người;

+ Nhận thức là một quá trình biện chứng có sự vận động và phát triển, là quá trình

đi từ chưa biết đến biết, từ biết ít tới biết nhiều, từ chưa biết đầy đủ đến đầy đủ

hơn.

+ Nhận thức là quá trình tác động biện chứng giữa chủ thể nhận thức và khách thể

nhận thức trên cơ sở hoạt động thực tiễn của con người.

III. Các giai đoạn phát triển của quá trình nhận thức
Lênin đã khái quát con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý như sau: Từ trực quan sinh

động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng

của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan.

Nhận thức có hai giai đoạn:

- Trực quan sinh động (nhận thức cảm tính): Đây là giai đoạn đầu tiên của nhận thức,

diễn ra dưới 3 hình thức: Cảm giác, Tri giác, Biểu tượng.

+ Cảm giác là hình thức đầu tiên, đơn giản nhất của nhận thức cảm tính, là sự phản

ánh từng mặt, từng thuộc tỉnh bên ngoài của sự vật vảo các giác quan của con

người.

+ Tri giác là tổng hợp của nhiều cảm giác, là kết quả tác động trực tiếp của sự vật

đồng thời lên nhiều giác quan của con người.

+ Biểu tượng là hình ảnh về sự vật do trị giác đem lại nhưng được tái hiện nhờ trí

nhớ khi sự vật không trực tiếp tác động vào giác quan.

- Tư duy trừu tượng (nhận thức lý tính): Đây là giai đoạn nhận thức thực hiện chức

năng quan trọng nhất là nắm lấy cái bản chất có tính quy luật của các sự vật, hiện tượng.

Nó nảy sinh trên cơ sở của nhận thức cảm tính, diễn ra dưới 3 hình thức: Khái niệm, Phán

đoán, Suy luận.

+ Khái niệm là hình thức cơ bản của nhận thức lý tinh, phản ánh những đặc điểm

của sự vật

+ Phán đoán là hình thức liên kết các khái niệm với nhau để khẳng định hay phủ

định thuộc tính nào đó của sự vật. S

+ Suy luận (suy lý) là hình thức liên kết các phán đoán nhằm rút ra tri thức mới về

sự vật.

- Quan hệ biện chứng giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính với thực tiễn:

+ Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là hai giai đoạn của một quả trình nhin

thống nhất, chúng liên hệ bổ sung cho nhau. Nhận thức cảm tính là cơ sở của

nhận thức lý tỉnh, không có nhận thức cảm tính thì không có nhận thức lý tính.
Nhờ có nhận thức lý tính mà con người mới đi sâu nhận thức được bản chất của

sự vật, làm cho nhận thức của con người ngày càng đúng đắn hơn, đầy đủ hơn,

sâu sắc hơn.

+ Cả nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính đều phải dựa trên cơ sở thực tiền.

Nhận thức cảm tính gắn liền với thực tiễn, với sự tác động của khách thể cảm

tính. Đồng thời nhận thức phải trở về với thực tiễn để:

1. Kiểm tra trong thực tiễn xem nhận thức đó đúng hay sai;

2. Điều chỉnh, bổ sung trong thực tiền;

3. Chi đạo thực tiễn.

IV. Tính chất của chân lý

1. Khái niệm: Chân lý là những tri thức phù hợp với hiện thực khách quan và được thực

tiễn kiểm nghiệm.

2. Các tính chất của chân lý

- Tính khách quan: Nội dung của chân lý thuộc về thế giới khách quan, do thế giới

khách quan quy định.

- Tính cụ thể (không có chân lý trừu tượng): Sự phù hợp giữa nội dung phản ảnh

với thực khách quan của một đối tượng cụ thể trong một điều kiện cụ thể.

Lưu ý: Đối tượng mà chân lý phản ảnh bao giờ cũng tồn tại cụ thể, trong những

điều kiện hoàn cảnh cụ thể, trong quan hệ cụ thể. Nếu thoát ly khỏi điều kiện lịch

sử cụ thể thì cái được coi là chân lý sẽ không còn là chân lý nữa.

- Tính tuyệt đối và tương đối:

+ Tính tuyệt đối là sự phù hợp hoàn toàn và đẩy đù giữa nội dung phản ánh

của tri thức với hiện thực khách quan.

+ Tính tương đối là sự phù hợp nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ giữa nội dung

phản ánh của trí thức đã đạt được với hiện thực khách quan vốn nhiều mặt

nhiều vẻ.
3. Vai trò của chân lý đối với thực tiễn:

- Chân lý giúp con người có định hướng đúng đắn trong thực tiền để hành động đạt

kết quả tối ưu.

- Giúp con người tổng kết rút kinh nghiệm thực tiễn có hiệu quả.

Câu 9: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Mối quan hệ biện chứng của LLSX và

QHSX. Vận dụng xem xét vấn đề thực tiễn đổi mới ở nước ta hiện nay.

I. Phương thức sản xuất:

- Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất

ở những giai đoạn lịch sử nhất định.

- Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất (LLSX) ở một

trình độ nhất định và quan hệ sản xuất (QHSX) tương ứng. LLSX và QHSX chỉ

hai mối quan hệ song trùng của con người trong quá trình SXVC đó là: quan hệ

của con người với tự nhiên và quan hệ của con người với con người.

II. Khái niệm “lực lượng sản xuất", "quan hệ sản xuất”:

- LLSX là toàn bộ những nhân tố vật chất – kỹ thuật của quả trình sản xuất, bao

gồm: người lao động và tư liệu sản xuất.

- Kết cấu LLSX, gồm có: Người lao động (thể lực, trí lực, kĩ năng) và tư liệu sản

xuất (công cụ lao động, đối tượng lao động, các tư liệu phụ trợ). Trong các yếu tổ

cấu thành LLSX thì người lao động giữ vai trò quan trọng nhất.

- QHSX là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, bao gồm 3 mặt:

+ QH sở hữu đối với tư liệu sản xuất chủ yếu,

+ QH trong tổ chức, quản lý sản xuất,

+ QH phân phối sản phẩm sản xuất.

Trong đó, QH sở hữu đối với tư liệu sản xuất chủ yếu giữ vai trò quyết định đối với các quan hệ

còn lại.
III. Quy luật QHSX phù hợp với trình độ của LLSX

- LLSX quyết định sự hình thành và phát triển của QHSX, thể hiện trên hai phương diện cơ

bản:

+ Tương ứng với trình độ phát triển nhất định của LLSX sẽ có một QHSX phù hợp

với nó trên cả 3 phương diện: QH sở hữu đối với tư liệu sản xuất, QH trong tổ

chức, quản lý sản xuất, QH phân phối sản phẩm sản xuất.

+ Khi LLSX thay đổi, mâu thuẫn với QHSX thì tất yếu dẫn đến việc xã hội phải xoá

bỏ QHSX cũ và thay thế bằng kiểu QHSX mới phù hợp với trình đổi mới của

LLSX, mở đường cho LLSX phát triển. Khi đó PTSX mới xuất hiện thay thế

PTSX cũ lỗi thời.

- QHSX có tính độc lập tương đối và tác động trở lại LLSX theo 2 chiều hướng:

+ QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX se mở đường cho LLSX phát

triển.

+ QHSX không phù hợp với trình độ phát triển của LLSX sẽ kìm hãm sự phát triển

của LLSX.

IV. Vận dụng thực tiễn:


- Trước đổi mới: Chúng ta vận dụng quy luật này chưa tốt cả nhận thức và hoạt động thực

tiễn xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân về TLSX một cách ồ ạt trong khi đó đang tạo địa bàn

cho sự phát triển của LLSX. Xây dựng chế độ công hữu về TLSX một cách tràn lan,

trong khi đó trình độ LLSX còn thấp kém và phát triển không đồng đều.

- Từ đổi mới 1986 đến nay: Chúng ta có những chủ trương đổi mới để sửa chữa những sai

lầm để cải tạo XHCN và quản lý kinh tế. Đó là xóa bỏ chế độ tập trung quan liêu bao cấp

phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

+ Đối với LLSX: Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến việc phát triển LLSX thông

qua sự công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.

+ Đối với QHSX: Được chú trọng trên cả 3 mặt quan hệ xã hội đối với TLSX, quan

hệ trong tổ chức quản lý,quan hệ trong phân phối sản phẩm làm ra.

Câu 10: Nhà nước, nguồn gốc và bản chất. Vận dụng xem xét vấn đề nhà nước cộng hòa

XHCN Việt Nam hiện nay.

I. Nguồn gốc của nhà nước:

- Nhà nước là một phạm trù lịch sử, không phải khi nào xã hội cũng có nhà nước. Nhà

nước chỉ ra đời, tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhất định của sự phát triển xã hội và

sẽ mất đi khi những cơ sở tồn tại của nó không còn nữa.

- Trong xã hội nguyên thủy, do kinh tế còn thấp kém, chưa có sự phân hóa giai cấp nên

chưa có nhà nước. Khi lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến sự ra đời chế độ tư hữu

và từ đó xã hội phân chia thành các giai cấp đối kháng và cuộc đấu tranh giai cấp không

thể điều hòa được xuất hiện. Điều đó dẫn đến nguy cơ các giai cấp chẳng những tiêu diệt

lẫn nhau mà còn tiêu diệt luôn cả xã hội. Để thâm họa đó không diễn ra, một cơ quan

quyền lực đặc biệt đã ra đời, đó là nhà nước. Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là nhà nước

chiếm hữu nô lệ, xuất hiện trong cuộc đấu tranh không thể điều hòa được giữa giai cấp

chủ nô và nô lệ.
+ Nguyên nhân sâu xa của sự ra đời nhà nước là do sự phát triển LLSX dẫn đến sự

dư thừa tương đối của cải, xuất hiện chế độ tư hữu.

+ Nguyễn nhân trực tiếp của sự ra đời nhà nước là mâu thuẫn giai cấp không thể

điều hòa được.

II. Bản chất của nhà nước

- Nhà nước, về bản chất, là một tổ chức chính trị của một giai cấp thống trị về mặt kinh tế

nhằm bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác.

- Nhà nước là bộ máy quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng trong xã hội có giai cấp.

Tất cả những hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội do nhà nước tiến hành xét đến cùng đều

xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị.

III. Đặc trưng cơ bản của nhà nước

Mỗi nhà nước được tổ chức một cách khác nhau nhưng đều có ba đặc trưng cơ bàn:

- Nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định.

- Nhà nước có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế đối với

mọi thành viên trong xã hội.

- Nhà nước hình thành hệ thống thuế khóa để nuôi bộ máy chính quyền.

IV. Chức năng cơ bản của nhà nước

Bản chất giai cấp của nhà nước được thể hiện ở các chức năng của nó. Dưới góc độ tính

chất của quyền lực chính trị, nhà nước có chức năng thống trị chính trị và chức năng xã

hội. Dưới góc độ phạm vi tác động của quyền lực, nhà nước có chức năng đối nội và

chức năng đối ngoại.

1. Chức năng thống trị chính trị và chức năng xã hội

- Chức năng thống trị chính trị của giai cấp là chức năng nhà nước làm công cụ

chuyên chính của một giai cấp nhằm bảo vệ sự thống trị giai cấp đó đối với toàn

xã hội. Đây là chức năng cơ bản có vai trò chi phối chức năng xã hội.
- Chức năng xã hội của nhà nước là chức năng nhà nước thực hiện sự quản lý

những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, thỏa mãn một số nhu cầu chung

của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của nhà nước.

2. Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại

Sự thống trị chính trị và sự thực hiện chức năng xã hội của nhà nước thể hiện lĩnh

vực đối nội và đối ngoại.

- Chức năng đối nội của nhà nước nhằm duy trì trật tự mọi mặt đời sống xã

hội, thường được pháp luật hóa và được thực hiện nhờ sự cưỡng bức của

bộ máy nhà nước. Ngoài ra, nhà nước còn sử dụng nhiều phương tiện

truyền thông, các cơ quan văn hóa giáo dục để xác lập, củng cố tư tưởng, ý

chỉ của giai cấp thống trị, làm cho chúng trở thành chính thống trong xã

hội.

- Chức năng đối ngoại của nhà nước nhằm bảo vệ biên giới lãnh thổ quốc

gia và thực hiện các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội với các nhà

nước khác vì lợi ích của giai cấp thống trị cũng như lợi ích quốc gia khi lợi

ích quốc gia không mâu thuẫn với lợi ích của giai cấp thống trị.

Cả chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước thống nhất biện chứng với nhau,

đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị.

V. Các kiểu và hình thức nhà nước

- Có 4 kiểu nhà nước trong lịch sử: Nhà nước chủ nô quý tộc, nhà nước phong kiến, nhà

nước tư sản, nhà nước vô sản.

+ Các kiểu nhà nước trên đều điểm chung: đều là công cụ thống trị của giai cấp

thống trị.

+ Điểm riêng: nhà nước vô sản có sự khác biệt về chất, đó là nhà nước đặc biệt, fia

nước của số đông thống trị số ít, nhà nước "nửa nhà nước".

- Mỗi kiểu nhà nước lại có cách thức tổ chức, phương thức thực hiện quyền lực khác nhau

tạo nên những hình thức nhà nước khác nhau.


+ Kiểu nhà nước chủ nô quý tộc tồn tại những binh thức nhà nước khác nhau như:

Nhà nước quân chủ chủ nô, nhà nước cộng hòa dân chủ chủ nô.

+ Kiểu nhà nước phong kiến tồn tại những hình thức nhà nước khác nhau như: Nhà

nước phong kiến tập quyền và nhà nước phong kiến phân quyền.

+ Kiểu nhà nước tư sản tồn tại những hình thức nhà nước khác nhau như: Chế độ

cộng hòa, chế độ cộng hòa đại nghị, chế độ cộng hòa tổng thống, chế độ cộng hòa

thủ tướng, chế độ quân chủ lập hiến, nhà nước liên bang, nhà nước phúc lợi

chung...

+ Kiểu nhà nước vô sản tồn tại những hình thức nhà nước khác nhau như: Nhà nước

công xã, nhà nước Xô Viết, nhà nước dân chủ nhân dân.

VI. Vận dụng xem xét vấn đề nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam hiện nay.

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tổ chức quyền lực thể hiện và thực hiện ý chí,
quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân quản lý toàn bộ
hoạt động của đời sống xã hội. Mặt khác, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chịu sự
lãnh đạo và thực hiện đường lối chính trị của giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong là
Đảng Cộng sản Việt Nam.

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là trung tâm thực hiện quyền lực chính trị, là trụ
cột của hệ thống chính trị, là bộ máy tổ chức quản lý nhà nước về kinh tế, văn hóa, xã hội và
thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại.

Quản lý xã hội chủ yếu bằng pháp luật, Nhà nước phải có đủ quyền lực, đủ năng lực định ra pháp
luật và năng lực tổ chức quản lý các mặt của đời sống xã hội bằng pháp luật. Để Nhà nước hoàn
thành nhiệm vụ quản lý xã hội bằng pháp luật, thực hiện quyền lực nhân dân, phải luôn luôn
chăm lo kiện toàn các cơ quan nhà nước, với cơ cấu gọn nhẹ, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả với
một đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất chính trị vững vàng, năng lực chuyên môn giỏi;
thường xuyên giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức sống, làm việc theo 3 Hiến pháp và pháp luật;
có cơ chế và biện pháp ngăn ngừa tệ quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, vô trách nhiệm... của
một bộ phận đội ngũ cán bộ, công chức; nghiêm trị những hành động gây rối, thù địch; phát huy
vai trò làm chủ của nhân dân, tổ chức xã hội, xây dựng và tham gia quản lý nhà nước.

Nhấn mạnh vai trò của nhà nước xã hội chủ nghĩa, thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật cần
thấy rằng:
Một là, toàn bộ hoạt động của cả hệ thống chính trị, kể cả sự lãnh đạo của Đảng cũng phải trong
khuôn khổ của pháp luật, chống mọi hành động lộng quyền coi thường pháp luật.

Hai là, có mối liên hệ thường xuyên và chặt chẽ giữa Nhà nước và nhân dân, lắng nghe và tôn
trọng ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, quản lý đất nước vì lợi ích của nhân
dân, chứ không phải vì các cơ quan và công chức nhà nước.

Ba là, không có sự đối lập giữa nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và tăng cường hiệu lực quản
lý của Nhà nước, mà phải bảo đảm sự thống nhất để làm tăng sức mạnh lẫn nhau. Tính hiệu lực
và sức mạnh của Nhà nước chính là thể hiện hiệu quả lãnh đạo của Đảng.

You might also like