Professional Documents
Culture Documents
(Văn) Ôn Gi A Kì 2
(Văn) Ôn Gi A Kì 2
“Thơ là một hình thái nghệ thuật cao quý, tinh vi. Người làm thơ phải có tình cảm mãnh
liệt thể hiện sự nồng cháy trong lòng”. Thật vậy, trong nền văn học Việt Nam cũng có một nhà
thơ say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời đến độ nồng nàn, tha thiết. Không ai khác đó chính là
Xuân Diệu – “nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới”. Đó là những hồn thơ trẻ trung,
tươi mới và cũng là quan niệm nhân sinh của Xuân Diệu. Tình yêu cuộc sống đến độ đam mê
ấy thể hiện rất rõ trong bài thơ “Vội Vàng”. Trong đó, mười ba dòng tơ đầu chứa đựng những
cảnh sắc chân thật nhất.
Xuân Diệu, tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, quê ở làng Trảo Nha, Can Lộc, Hà Tĩnh. Ông
hăng hái tham gia các hoạt động xã hội, văn hoá nghệ thuật với tư cách một nhà văn chuyên
nghiệp. Trước Cách mạng, Xuân Diệu là nhà thơ của tình yêu, mùa xuân và tuổi trẻ với giọng
thơ sôi nổi, say đắm cuộc đời. Sau đó, ông hướng mạnh vào thực tế đời sống, giàu tính thời
sự. “Vội Vàng” được trích trong tập “Thơ thơ”, bản tuyên ngôn về lẽ sống vội vàng của nhà
thơ. Mười ba dòng thơ đầu là tình yêu cuộc sống trần thế tha thiết, tỏ rõ ý thức cá nhân của
“cái tôi” thơ mới và mang đạm bản sắc riêng của hồn thơ Xuân Diệu.
Niềm ngất ngây trước cảnh sắc trần gian và những lí giải vì sao phải sống vội vàng đã
được hé lộ ngay ở phần đầu tác phẩm:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”
Đại từ nhân xưng “tôi” bắt đầu bài thơ biểu hiện một tư thế đĩnh đạc của cá nhân giữa
đất trời. Cái “tôi” xuất hiện và đòi được khẳng định mình, đồng thời mang đến những cảm xúc
mới mẻ chưa từng có trong thơ ca trước đó. Muốn “tắt nắng”, muốn “buộc gió” bởi thi sĩ lo sợ
“màu nhạt mất”, “hương bay đi”, sợ rằng xuân sắc, cảnh đẹp của trần gian sẽ phai nhạt mất.
Nghĩa là Xuân Diệu muốn bất tử hóa vẻ đẹp mùa xuân nơi trần thế, muốn mãi mãi một mùa
xuân tuyệt vời. Tác giả đã dùng những động từ mạnh “muốn, tắt, buộc” để thực hiện ý muốn
đoạt quyền của tạo hoá, muốn cưỡng lại quy luật của tự nhiên để níu giữ những thời khắc đẹp
nhất của đời người. Quả thật, phải là một hồn thơ yêu đời mãnh liệt đến nhường nào mới có
những ham muốn táo bạo đến như vậy, nếu không muốn nói là không cuồng. Câu thơ ngắn,
nhịp thơ nhanh và biện pháp điệp cấu trúc khiến khổ thơ như một khúc ca sôi nổi, bộc lộ sự tự
tin, tự tôn và những khát vọng mãnh liệt của cá nhân. Đam mê sống, đam mê cái cái đẹp gần
như tuyệt đối, khát vọng kì lạ ấy chính là nỗi thoảng thốt của thi sĩ muốn kìm lại bước đi của
thời gian, là cái tôi mê say cái đẹp và muốn giao cảm với vẻ đẹp cuộc sống “vĩnh viễn”.
Một thiên đường ngay trên mặt đất là điều mà tác giả đã phát hiện và say sưa ở những
dòng thơ tiếp theo:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;”
Cảnh miêu tả mùa xuân của Xuân Diệu rất mới, câu thơ thứ nhất và thứ tư được đảo
trật tự cú pháp nhằm tô đậm hương vị và âm sắc của mùa xuân. Những điệp từ “Này đây”
cùng với nhịp thơ dồn dập như một lời mời gọi hấp dẫn đưa du khách bước vào khu vườn trần
thế của người chủ nhân quyền uy, nơi mà trần gian hiện ra với đầy đủ vẻ đẹp, sắc hương của
nó. Mọi vật như đang căng tràn nhựa sống: đó là mật ngọt của mùa xuân đang giục giã ong
bướm bay đi hút nhuỵ, đó là hoa của đồng nội xanh tốt, mỡ màng, là lá của cành tơ mơn mởn
“phơ phất” tinh khôi, đó là khúc nhạc si mệ, quyến rũ. Còn có một liên tưởng độc đáo “ánh
sáng chớp hàng mi”: ánh sáng trần gian tựa như hàng mi của một cô gái đẹp, chìm đắm say
mê. “Thần Vui” cũng là một hình thức so sánh mới mẻ. Đây là những hình ảnh đẹp đẽ, tươi
non, trẻ trung của thiên nhiên giàu có, được mở rộng ba chiều vô tận trước sự chiêm ngưỡng
của người đọc. Khúc thơ bất ngờ chuyển sang thể thơ tám chữ liền mạch với các biện pháp
điệp từ, liệt kê đã liên tục phơi bày và mời gọi ngườu đọc thưởng thức mọi cảnh sắc trong khu
vườn.
Bức tranh mùa xuân hiện ra bằng vẻ đẹp của tháng giêng. Có lẽ đây là câu thơ hay nhất
của bài thơ: “Tháng giêng ngon như cặp môi gần”. Đây là hình thức so sánh ẩn dụ chuyển đổi
cảm giác, từ thời gian trừu tượng đến hình ảnh cụ thể. Đó cũng là một đặc trưng của thơ Xuân
Diệu: lấy vẻ đẹp của con người làm thước đo cho thiên nhiên. Tháng giêng được so sánh với
đôi môi quyến rũ của người thiếu nữ, từ đó mới thấy tháng giêng “ngon và ngọt” như Hàn Mạc
Tử cũng đã viết:
“Môi thiếu nữ vừa trang điểm
Nắng mới âm thầm ước kết hôn
Đưa má hồng đào cho nắng nhuộm
Tình thay! Một vẻ ngọt và ngon…”
(Nắng tươi)
Vẻ đẹp của người phụ nữ được ví von với tự nhiên, khiến cho thiên nhiên phải chìm
đắm tạo cảm giác ái ân tình tự. Như vậy, trần gian trong mắt nhà thơ là vô cùng tươi đẹp, mơn
mởn, ngập tràn tình yêu và hạnh phúc.
Để tỏ rõ nội dung luân lí về lẽ sống vội vàng của mình, Xuân Diệu đã tuyên bố:
“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”
Câu thơ bị ngắt làm hai bởi dấu chấm, biểu hiện cho niềm vui không trọn vẹn. Nó như
hai cái bản lề khép mở tâm trạng đắm say vẻ đẹp của tạo hoá vừa là linh cảm bất an, băn
khoăn khi thời gian qua mau. Cụm từ lạ hoá “vội vàng một nửa” là dự cảm mơ hồ về sự mong
manh, ngắn ngủi của kiếp người khiến cho thi nhân phải sống vội vàng tận hưởng. “Tôi” phải
sống từ bây giờ ngay khi đang còn trẻ, còn đầy sức xuân, sẽ không để “nắng hạ” xuân qua rồi
mới tiếc nuối một thời tươi đẹp ấy. Qua đó, thể hiện một quan niệm mới rằng: trong thế giới
này, đẹp nhất, quyến rũ nhất là con người giữa tuổi trẻ và tình yêu bởi “Tuổi trẻ không gắng
sức, già cả những ngậm ngùi”.
Mười ba dòng đầu là dung hoà của nhiều biện pháp nghệ thuật đặc sắc. Thể thơ tự do
phóng túng, tự nhiên, giọng điệu thơ gần gũi với những hình ảnh, âm thanh tươi tắn, nhẹ
nhàng. Bên cạnh đó là hàng loạt các biện pháp tu từ như so sánh, liệt kê, nhân hoá, điệp từ đã
làm cho cảnh vật thêm rực rỡ và sinh động. Tất cả đã tạo nên một cuộc sống trần gian đẹp như
giấc mộng, trong đó có con người giao hoà với thiên nhiên với thái độ hân hoan, mãn nguyện
và khoẻ khoắn.
Tóm lại, phần đầu của “Vội Vàng” là một bức tranh thiên nhiên căng tràn, đầy hương sắc
và niềm vui. Đó là niềm say mê trước cái đẹp đến độ thiết tha, cháy bỏng của tác giả. Qua đó,
thể hiện được quan niệm nhân sinh của nhà thơ về cuộc sống, về tuổi trẻ và hạnh phúc. Thời
gian quý giá nhất của đời người là tuổi trẻ mà hạnh phúc lớn nhất của tuổi trẻ là tình yêu. Do
vậy, hãy sống thật mãnh liệt, sống hết mình, hãy đón nhận và tận hưởng cuộc sống trong sự
say mê vì cuộc đời nhân thế là vô hạn còn tuổi trẻ hôm nay là có hạn, là vô cùng ngắn ngủi. Đó
cũng chính là bài học tư tưởng quý giá mà Xuân Diệu muốn gửi đến lớp trẻ thanh niên ngày
nay.