You are on page 1of 10

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.

HỒ CHÍ MINH
Khoa Luật Dân Sự
Lớp Luật Dân Sự 44A.1

BUỔI THẢO LUẬN THỨ TƯ


CÁC TỘI XÂM PHẠM CON NGƯỜI

Bộ môn: Luật Hình sự - Phần Tội phạm

Giảng viên: ThS. Nguyễn Thị Thùy Dung

Nhóm:

Thành viên:

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 23 tháng 9 năm 2021


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS Bộ luật Hình sự

CTTP Cấu thành tội phạm

TNHS Trách nhiệm hình sự


MỤC LỤC
I. Bài Tập
Bài tập 22..........................................................................................1
Bài tập 25...........................................................................................2
Bài tập 30...........................................................................................3
Bài tập 36...........................................................................................5
Bài tập 38...........................................................................................5
I. Bài Tập
Bài tập 22
A là người thường dậy sớm mang cây gậy dài có gắn vợt đi vợt ốc nhồi ở
các ao bèo. Một hôm A đang đi vợt ốc như thế thì phát hiện B là người
hàng xóm đang sắp chết đuối dưới ao. Tuy A biết rõ B là người không biết
bơi (lội) nhưng vì trong cuộc sống B thường xuyên mâu thuẫn, cãi nhau
với gia đình A, thậm chí có lần B đã ném cả phân vào bể nước ăn nhà A
nên khi thấy B sắp chết đuối A không thò gậy xuống cứu B. 6 Hãy xác định
tội danh cho hành vi của A trong các tình huống sau:
a. A đứng yên trên bờ ao chờ tới khi B chìm xuống hẳn rồi bỏ đi. Theo kết
quả giám định pháp y B chết do bị ngạt nước.
b. Ngay lúc B gần chìm (A vẫn đứng trên bờ ao) thì có anh C (chủ ao)
nhảy xuống vớt B lên và B đã được cứu sống.
Bài làm
a. A đứng yên trên bờ ao chờ tới khi B chìm xuống hẳn rồi bỏ đi. Theo kết
quả giám định pháp y B chết do bị ngạt nước.
+ Chủ thể:
A là chủ thể thường (giả sử A - đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định
tại Điều 12 BLHS 2015 và có đủ năng lực trách nhiệm hình sự).
+ Khách thể:
Khách thể là quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ về tính mạng của con
người.
+ Mặt khách quan:
- Hành vi khách quan: Hành vi khách quan trong trường hợp này là A phát hiện
người hàng xóm là B đang sắp chết đuối dưới ao và biết rằng B không biết bơi
nhưng vì A và B luôn có mâu thuẫn nên A đứng yên trên bờ chờ B chìm hẳn
rồi mới đi. Đây là hành vi thấy người khác trong tình trạng nguy hiểm đến tính
mạng tuy có đầy đủ điều kiện để cứu (thò gậy xuống) mà không cứu.
- Hậu quả: B chết do ngạt nước.
- Mối quan hệ nhân quả: Hành vi A phát hiện người hàng xóm là B đang sắp
chết đuối dưới ao và biết rằng B không biết bơi nhưng vì A và B luôn có mâu
thuẫn nên A đứng yên trên bờ chờ B chìm hẳn không cứu, rồi bỏ đi, đây là
nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hậu quả B chết do ngạt nước.
+ Mặt chủ quan:
Căn cứ vào tình tiết vụ án, A có đầy đủ điều kiện để có thể cứu sống B đang bị
đuối nước nhưng A đã không làm vậy vì A và B thường xuyên xảy ra mâu
thuẫn, cãi nhau, A đã không gạt đi thù hằn cá nhân để thò gậy xuống nước và

1
cứu sống B mà đứng yên trên bờ, nhìn B chìm hẳn, rồi bỏ đi. Hành vi trên là
hành vi có lỗi cố ý.
b) Ngay lúc B gần chìm (A vẫn đứng trên bờ ao) thì có anh C (chủ ao) nhảy
xuống vớt B lên và B đã được cứu sống.
Hành vi này của A không được cấu thành Tội không cứu giúp người đang trong
tình trạng nguy hiểm đến tính mạng tại Điều 132 BLHS 2015 vì chưa đủ các
yếu tố để cấu thành tội này. Ở đây chúng ta hiểu “tuy có điều kiện mà không
cứu giúp” và “dẫn đến hậu quả người đó chết” là những yếu tố quan trọng cấu
thành tội phạm.
Tuy A có đầy đủ điều kiện để cứu B (thấy B đang trong tình trạng sắp chết đuối
dưới ao và biết B không biết bơi, A vẫn không thò gậy xuống cứu B) nhưng
hành động bỏ mặc của A lại không thỏa mãn điều kiện còn lại để cấu thành tội
phạm là dẫn đến cái chết của B (do B đã được C nhảy xuống cứu). Vì vậy hành
vi của A chưa đầy đủ các yếu tố để cấu thành tội phạm.

Bài tập 25
T là kẻ sống lang thang. Ngày 01/7, T đã cho kẹo để rủ một cháu bé 3 tuổi
đi theo và đưa cháu vào TP HCM. Để có thể xin tiền được nhiều, T đã
dùng tay đánh vào đầu cháu bé cho đến khi chảy máu rồi đưa vào bệnh
viện cấp cứu. Bệnh viện Chợ Rẫy xác định cháu bị chấn thương sọ não.
Sau khi bệnh viện băng bó và cấp thuốc cho cháu, T đã bế cháu ra khỏi
bệnh viện rồi đưa đi ăn xin trên các phố. Ngày 19/7, T lại bẻ gẫy chân trái
của cháu và đưa vào bệnh viện Nhi đồng I bó bột rồi tiếp tục dẫn cháu đi
ăn xin. Ngày 13/8, T lại bẻ gãy tay cháu, đồng thời rạch mặt nhiều nơi, cắt
môi trên của cháu và đưa vào bệnh viện Nhi đồng II bó bột, sau đó lại tiếp
tục đưa cháu đi ăn xin. Đến ngày 15/8, thấy cháu bé bị T đánh đập rất dã
man trên đường phố, nhiều người dân đã báo công an bắt giữ.
Qua giám định kết luận: “Cháu bé bị gãy kín các xương đoạn 1/3 dưới
xương cánh tay phải và trái, bị di chứng lệch trục chi phải, vỡ đầu trên
xương chày trái, di chứng cứng gối trái, mặt bị dị dạng. Tỷ lệ tổn thương
cơ thể mà cháu bé phải gánh chịu là 55%”.
Hãy xác định T phạm tội gì? Tại sao?
Bài làm
Trên cơ sở nội dung vụ án hình sự trên, có thể thấy T đã tội chiếm đoạt người
dưới 16 tuổi theo Điều 153 BLHS.
Các yếu tố cấu thành tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi theo Điều 153 BLHS:
+ Khách thể:
- Quan hệ xã hội bị xâm hại là quan hệ về quyền được chăm sóc, nuôi và sống
chung với cha mẹ, quyền được bảo vệ của người dưới 16 tuổi cụ thể là quyền

2
được chăm sóc, nuôi và sống chung với cha mẹ, quyền được bảo vệ của cháu
bé 3 tuổi.
- Đối tượng bị tác động là người dưới 16 tuổi cụ thể là cháu bé 3 tuổi.
+ Mặt khách quan:
- Hành vi khách quan là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn
khác để chiếm giữ hoặc giao cho người khác chiếm giữ người dưới 16 tuổi.
Chiếm đoạt ở đây được hiểu là hành vi tác chuyển, cách ly trái phép đứa trẻ
khỏi sự quản lý của gia đình hoặc người quản lý hợp pháp và thiết lập sự quản
lý đó cho mình hoặc người khác bằng các thủ đoạn nêu trên. Thủ đoạn khác có
thể là lén lút, lừa dối, bắt trộm, lợi dụng tình trạng khó khăn… Cụ thể là T đã
dùng kẹo để dụ dỗ cháu bé 3 tuổi đi theo và đưa cháu vào TPHCM nhằm chiếm
giữ cháu bé.
- Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm, nhưng là
dấu hiệu tăng nặng hình phạt đối với tội phạm này. Theo đó, T đã gây thương
tích, gây tổn hại cho sức khỏe với tỷ lệ thương tổn cơ thể mà cháu bé phải gánh
chịu là 55%. Đây là dấu hiệu tăng nặng hình phạt đối với tội phạm của T được
quy định tại điểm e khoản 2 Điều 153 BLHS.
- Tội phạm hoàn thành khi có hành vi chiếm đoạt người dưới 16 tuổi xảy ra
dưới bất kì hình thức nào kể trên. Cụ thể, T đã hoàn thành tội phạm ngay khi T
chiếm đoạt cháu bé 3 tuổi dưới bất kỳ hình thức nào.
+ Mặt chủ quan:
Người thực hiện hành vi phạm tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi với lỗi cố ý,
cụ thể là cố ý trực tiếp. Cụ thể, T nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm
cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.
Do đó, T thực hiện hành vi của mình bằng lỗi cố ý trực tiếp.
+ Chủ thể:
Chủ thể của tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi là bất kì ai có năng lực trách
nhiệm hình sự từ 16 tuổi trở lên cụ thể là T đã có năng lực trách nhiệm hình sự.
Từ những phân tích trên, so sánh với các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội
chiếm đoạt người dưới 16 tuổi được quy định trong BLHS có đủ cơ sở kết luận
T đã phạm tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi theo Điều 153 BLHS 2015.

Bài tập 30
A (nam, 17 tuổi) và B yêu nhau. A có quan hệ tình dục khiến B có thai. Gia
đình B khiếu nại A về sự việc trên. Hãy xác định hành vi của A có phạm
tội không, nếu phạm tội thì là tội gì trong các tình huống sau:
a. B 12 tuổi;
b. B 15 tuổi;
c. B 17 tuổi.

3
Bài làm
a. B 12 tuổi;
Hành vi của A phạm Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi theo quy định tại Điều
142 BLHS 2015.
+ Chủ thể:
Chủ thể của Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi theo quy định tại Điều 142
BLHS 2015 là chủ thể thường, tức chỉ cần là người đủ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự. A khi phạm tội đã 17 tuổi. Căn cứ
theo khoản 1 Điều 12 BLDS 2015, A đã thỏa mãn các điều kiện của chủ thể
của Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi theo quy định tại Điều 142 BLHS 2015.
+ Khách thể:
Khách thể mà hành vi phạm tội của A xâm phạm đến là quyền tự do và bất khả
xâm phạm về tình dục của con người. Đối tượng tác động của tội phạm này là
người dưới 16 tuổi, cụ thể ở đây là B (12 tuổi).
+ Mặt chủ quan:
Đây là lỗi cố ý. Ở đây người phạm tội là A nhận thức rõ hành vi của mình có
thể gây ảnh hưởng về mặt thể chất, tinh thần và quá trình phát triển bình
thưởng của B, tức là nhận thức rõ hành vi của mình gây nguy hiểm cho xã hội,
thấy trước hậu quả có thể xảy ra và vẫn thực hiện hành vi đó.
+ Mặt khách quan:
A đã có hành vi quan hệ tình dục thuận tình với B và dẫn đến hậu quả là B có
thai.
b. B 15 tuổi;
Hành vi của A không phạm tội.
Hành vi của A không phạm Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình
dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 145
BLHS 2015. Lí do là vì chủ thể của tội phạm này phải là người đủ mười tám
tuổi trở lên, còn A có hành vi thuận tình giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến
dưới 16 tuổi (B 15 tuổi) khi mới 17 tuổi. Do đó, A không thể trở thành chủ thể
của tội phạm này nên hành vi của A là không phạm tội.
c. B 17 tuổi;
Hành vi của A không phạm tội.
Lúc này cả A và B đã là người trên 16 tuổi và cả hai thực hiện hành vi quan hệ
tình dục tự nguyện nên A không phạm tội.

Bài tập 36
A kết hôn với X, có hai con chung. Một thời gian sau, X bỏ đi mà không
làm thủ tục ly hôn với A. X đến địa phương khác mua nhà, sống như vợ
chồng với Y. 2 năm sau khi X mất, A cùng hai con đến nhà nơi X và Y sinh

4
sống về bắt Y phải giao nhà. Y xin được chia một phần nhưng mẹ con A
không đồng ý. Y gửi đơn ra tòa, trong thời gian chờ tòa xét xử thì A và hai
con là B và C huy động hàng chục người kéo tới và đuổi Y ra đường.
Anh (chị) hãy xác định tội danh trong vụ án trên.
Bài làm
Theo nhóm, tội danh trong vụ án trên là tội xâm phạm chỗ ở của người khác và
được quy định tại khoản b Điều 158 BLHS 2015.Ở vụ án này hành vi của A, B
và C đã đủ điều kiện để cấu thành tội xâm phạm chỗ ở của người khác.
+ Khách thể: Xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở.
+ Chủ thể: A và hai con là B, C; các chủ thể đều có năng lực trách nhiệm hình
sự.
+ Mặt khách quan:
Hành vi: Hành vi đuổi trái pháp luật người khác khỏi nơi ở của họ. Được thể
hiện qua hành vi dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác buộc người bị khác rời bỏ nơi
ở của họ một cách miễn cưỡng, trái với ý muốn của họ và không đúng với quy
định của pháp luật. Cụ thể ở đây là việc A và hai con là B, C đã huy động hàng
chục người kéo tới và đuổi Y ra đường.
+ Mặt chủ quan: Lỗi cố ý. A,B và C nhận thức hành vi xâm phạm chỗ ờ của
Y là trái pháp luật nhưng vẫn thực hiện.
Chính vì vậy, theo nhóm thì A,B và C đã phạm tộixâm phạm chỗ ở của
người khác theo quy định tại khoản b Điều 158 BLHS 2015.

Bài tập 38
A (21 tuổi) và B (17 tuổi) là anh em cùng cha khác mẹ. Bà Y là mẹ ruột của
B thấy những biểu hiện khác thường của con gái nên đưa B đi đến bệnh
viện khám bệnh thì phát hiện B có thai được gần 4 tháng. Bà Y tra hỏi B
thì B khai nhận rằng do có tình cảm với A nên cả hai đã có quan hệ tình
dục từ 2 năm nay và cả 2 đều hoàn toàn tự nguyện. Bà Y hỏi A thì A cũng
thừa nhận hành vi của mình và khai nhận lần đầu tiên quan hệ là ngày B
đã đủ 15 tuổi.
Anh (chị) hãy xác định hành vi của A và B có phạm tội không? Nếu có thì
phạm tội gì? Tại sao?
Bài làm
Yếu tố cấu thành tội "Giao cấu với người từ 13 đến dưới 16 tuổi" Điều 145
BLHS 2015.
+ Chủ thể
Người phạm tội phải là người đã thành niên A (21 tuổi)

5
Việc giao cấu thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi
đến dưới 16 tuổi là hoàn toàn có sự đồng tình của hai người không bên nào ép
buộc bên nào.
Người bị hại trong vụ án giao cấu với người dưới 16 tuổi là người có độ tuổi từ
đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, là B lần đầu tiên lúc B đủ 15 tuổi.
+ Khách thể
Là quan hệ nhân thân mà nội dung là quyền được bảo vệ về nhân phẩm, danh
dự của trẻ em.
Đối tượng tác động của tội phạm là trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
+ Mặt khách quan
Đây là hành vi giao cấu có sự đồng ý, chấp nhận của nạn nhân mặc dù người
phạm tội không có bất kỳ thủ đoạn nào để ép buộc, khống chế nạn nhân.
Hành vi phạm tội trên về nguyên tắc đã xâm phạm tình dục cũng như sự phát
triển của người từ 13 đến dưới 16 tuổi. Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi
quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là tội cấu thành
hình thức, chỉ cần người phạm tội thực hiện hành vi giao cấu hoặc thực hiện
hành vi tình dục khác với nạn nhân là người từ 13 đến dưới 16 tuổi thì đã cấu
thành tội phạm này. Mục đích cuối cùng là thỏa mãn nhu cầu tình dục dù có
thuận theo ý muốn đối với nạn nhân nhưng không phù hợp với lứa tuổi và sự
non nớt về nhận thức của nạn nhân nên cần phải bị xử lý hình sự.
+ Mặt chủ quan
Người thực hiện phải có lỗi cố ý.
Chỉ coi là phạm tội khi một bên là người đã thành niên và một bên là người bị
hại là trẻ em cùng thống nhất thực hiện việc giao cấu với nhau.

You might also like