You are on page 1of 8

BÀI TẬP

23. A và B là vợ chồng có một đứa con chung là C (8 tháng tuổi). Cuộc sống gia đình
khó khăn, vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn. A thường nhậu nhẹt say xỉn về đánh
đập mẹ con chị B. Đêm 29/7, sau khi đi nhậu về, A tiếp tục đánh đập, chửi bới chị B
rồi vứt quần áo đuổi hai mẹ con ra khỏi nhà mặc dù ngoài trời đang mưa bão. Chị B
khóc van xin A mở cửa nhưng A kiên quyết không chịu. Quá tuyệt vọng, chị B bế
con ra bờ sông gần nhà nhảy xuống sông tự sát. Lúc này, ông X đi ngang qua thấy
vậy nhảy xuống sông cứu hai mẹ con nhưng chỉ cứu được chị B, cháu C chết do ngạt
nước.
Anh (chị) hãy xác định trong tình huống trên: ai phạm tội? Nếu có phạm tội gì? Tại sao?
Trong tình huống này cả A và B đều phạm tội.
* A phạm Tội bức tử được quy định tại Điều 130 BLHS 2015, vì căn cứ theo các dấu
hiệu pháp lí sau:
- Khách thể: xâm phạm quyền sống của con người - chị B.
+ Đối tượng tác động: người có quan hệ lệ thuộc vào người phạm tội về tôn giáo, kinh tế;
hôn nhân, gia đình – chị B và cháu C lệ thuộc anh A về quan hệ hôn nhân gia đình.
- Chủ thể đặc biệt: là người mà nạn nhân bị lệ thuộc – anh A
- Mặt khách quan:
- Hành vi: chị B bế con ra bờ sông gần nhà nhảy xuống sông tự sát.
- Hậu quả: cháu C chết do ngạt nước.
- Mối quan hệ nhân quả: Mối quan hệ đơn trực tiếp: Hành vi chị B bế con ra bờ
sông gần nhà nhảy xuống sông tự sát là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của
cháu C.
- Mặt chủ quan: Lỗi cố ý trực tiếp. Chị B nhận thức rõ hành vi ôm cháu C nhảy xuống
sông tự sát là nguy hiểm cho tính mạng của cháu C, chị B thấy trước hậu quả của hành vi
là tất yếu xảy ra nhưng chị vẫn nhảy xuống.

* B phạm tội giết người, với tình tiết định khung tăng nặng là giết người dưới 16 tuổi,
theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 123 BLHS 2015, căn cứ theo các dấu hiệu pháp lí
sau:
- Khách thể:
+ Quan hệ xã hội bị xâm phạm: xâm phạm quyền sống của con người.
+ Đối tượng tác động: con người đang sống và là “người khác” – cháu C.
- Chủ thể: Chị B là chủ thể thường, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
- Mặt khách quan:
+ Hành vi: chị B bế con ra bờ sông gần nhà nhảy xuống sông tự sát.
+ Hậu quả: cháu C chết do ngạt nước.
+ Mối quan hệ nhân quả: hành vi chị B bế con ra bờ sông gần nhà nhảy xuống sông tự
sát là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của cháu C.
- Mặt chủ quan: lỗi cố ý trực tiếp. Chị B nhận thức rõ hành vi ôm cháu C nhảy xuống
sông tự sát là nguy hiểm cho tính mạng của cháu C, thấy trước hậu quả của hành vi đó
mà mong muốn hậu quả xảy ra.
- Chủ thể thường: chị B (nếu đủ tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự).
26. A là người thường dậy sớm mang cây gậy dài có gắn vợt đi vợt ốc nhồi ở các ao
bèo. Một hôm A đang đi vợt ốc như thế thì phát hiện B là người hàng xóm đang sắp
chết đuối dưới ao. Tuy A biết rõ B là người không biết bơi (lội) nhưng vì trong cuộc
sống B thường xuyên mâu thuẫn, cãi nhau với gia đình A, thậm chí có lần B đã ném
cả phân vào bể nước ăn nhà A nên khi thấy B sắp chết đuối A không thò gậy xuống
cứu B.
Hãy xác định tội danh cho hành vi của A trong các tình huống sau:
a. A đứng yên trên bờ ao chờ tới khi B chìm xuống hẳn rồi bỏ đi. Theo kết quả giám
định pháp y B chết do bị ngạt nước.
Trong trường hợp A đứng yên trên bờ ao chờ tới khi B chìm xuống hẳn rồi bỏ đi và theo
kết quả giám định pháp y B chết do ngạt nước thì A phạm tội không cứu giúp người đang
ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng được quy định tại Điều 132 BLHS 2015.
Hành vi của A thỏa mãn các dấu hiệu pháp lý của tội này, cụ thể:
- Khách thể:
+ Tính mạng của B.
+ Đối tượng tác động: Người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng – B.
-Chủ thể: Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng có
chủ thể thường: A có NLTNHS và đủ tuổi chịu TNHS.
- Mặt khách quan:
+ Hành vi: A phát hiện B là người hàng xóm đang sắp chết đuối dưới ao. Tuy A biết rõ B
là người không biết bơi (lội) nhưng A không thò gậy xuống cứu B. Hành vi của A là thấy
B đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có đủ các điều kiện nhưng không
cứu giúp nên dẫn đến B chết đuối.
+ Hậu quả: B chết (đây là dấu hiệu bắt buộc của tội này).
+ Mối quan hệ nhân quả: Hành vi bỏ mặc B của A đã dẫn đến việc A chết.
- Mặt chủ quan:
A có lỗi cố ý trực tiếp. Khi A phát hiện B sắp chết đuối, tuy có điều kiện nhưng không
cứu giúp dẫn đến hậu quả B chết. A nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho tính
mạng của B, A thấy trước được hậu quả B chết đuối là tất yếu xảy ra vẫn không cứu giúp
B dù có điều kiện và A mong cho B chết.
b. Ngay lúc B gần chìm (A vẫn đứng trên bờ ao) thì có anh C (chủ ao) nhảy xuống
vớt B lên và B đã được cứu sống.
Trong trường hợp lúc này thì A không phạm tội. Bởi vì tội không cứu giúp người đang ở
trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng được quy định tại Điều 132 BLHS có hậu quả
chết người là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm, lúc này B đã được C cứu nên B còn sống.
Vậy nên không cấu thành tội phạm này.
29. T là kẻ sống lang thang. Ngày 01/7, T đã cho kẹo để rủ một cháu bé 3 tuổi đi theo
và đưa cháu vào TP HCM. Để có thể xin tiền được nhiều, T đã dùng tay đánh vào
đầu cháu bé cho đến khi chảy máu rồi đưa vào bệnh viện cấp cứu. Bệnh viện Chợ
Rẫy xác định cháu bị chấn thương sọ não. Sau khi bệnh viện băng bó và cấp thuốc
cho cháu, T đã bế cháu ra khỏi bệnh viện rồi đưa đi ăn xin trên các con phố. Ngày
19/7, T lại lại bẻ gãy chân trái của cháu rồi đưa cháu vào bệnh viện Nhi đồng I bó
bột rồi tiếp tục đưa cháu đi ăn xin. Ngày 13/8, T lại bẻ gãy tay cháu, đồng thời rạch
mặt nhiều nơi, cắt môi trên của cháu và đưa vào bệnh viện Nhi đồng II bó bột, sau
đó lại tiếp tục đưa cháu đi ăn xin. Đến ngày 15/8, thấy cháu bé T bị đánh đập rất dã
man trên đường phố, nhiều người dân đã đi báo công an bắt giữ.
Qua giám định kết luận: “Cháu bé bị gãy kín xác xương đoạn 1/3 dưới xương cánh
tay phải và trái, bị di chứng lệch trục chi phải, vỡ đầu xương chảy trái, di chứng
cứng gối trái, mặt bị dị dạng. Tỷ lệ tổn thương cơ thể mà cháu bé phải gánh chịu là
55%”.
Anh (chị) hãy xác định hành vi của T có phạm tội không? Tại sao?
Hành vi của T sẽ bị cấu thành 2 tội đó là Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi (Điều 153
BLHS) và Tội cố ý gây thương tích ( khoản 3 Điều 134 BLHS).
Đối với tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi (Điều 153 BLHS):
T phạm tội là Tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi (Điều 153 BLHS) vì thỏa mãn các dấu
hiệu pháp lý của tội này.
- Khách thể: xâm phạm quyền con người của cháu bé (quyền được chăm sóc và quyền
được bảo vệ và sống chung với ba mẹ của cháu bé).
+ Đối tượng tác động là con người - cháu bé 3 tuổi.
- Chủ thể thường là T (nếu T là người đủ tuổi và có năng lực trách nhiệm hình sự).
- Mặt khách quan:
+ Hành vi: T đã cho kẹo để rủ một cháu bé 3 tuổi đi theo và đưa cháu vào TP HCM
+ Hậu quả: cháu bé đi theo T.
+ Mối quan hệ nhân quả: Hành vi cho kẹo để dụ dỗ của T là nguyên nhân trực tiếp dẫn
đến hậu quả là cháu bé đi theo T.
- Mặt chủ quan: lỗi cố ý trực tiếp. T nhận thức rõ hành vi của mình là xâm phạm đến
quyền nhân thân của cháu bé, thấy trước hậu quả và mong muốn hậu quả xảy ra.
* Đối với Tội cố ý gây thương tích (Điều 134 BLHS):
Đối với Tội cố ý gây thương tích (theo khoản 3 Điều 134 BLHS 2015):
Khách thể:
- Quan hệ bị xâm phạm: Quyền được bảo vệ sức khỏe, tính mạng của bé.
- Đối tượng tác động: Cháu bé 3 tuổi.
Chủ thể: Chủ thể thường, T có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi theo luật
định.
Mặt khách quan:
- Hành vi khách quan: T dùng tay đánh vào đầu cháu bé cho đến khi chảy máu và bệnh
viện xác định cháu bị chấn thương sọ não. Ngày 19/7, T lại bẻ gãy chân trái của cháu bé,
vào bệnh viện bó bột và tiếp tục đi ăn xin. Ngày 13/8, T bẻ gãy tay cháu và rạch mặt
nhiều nơi, cắt môi trên của cháu, đưa vào bệnh viện bó bột rồi tiếp tục đi ăn xin. Ngày
15/8, cháu bị T đánh đập dã man trên đường phố.
- Hậu quả: “Cháu bé bị gãy kín các đoạn xương 1/3 dưới xương cánh tay phải và cánh tay
trái, bị di chứng lệch trục chi phải, vỡ đầu trên xương chày trái, di chứng cứng gối trái,
mặt bị dị dạng. Tỷ lệ tổn thương cơ thể mà cháu bé phải gánh chịu là 55%.
- Mối quan hệ nhân quả: Mối quan hệ đơn trực tiếp: Hành vi hành vi đánh đập, hành hạ,
bẻ tay chân của T đã ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, tính mạng của cháu bé (cụ thể tỷ lệ
thương tật của cháu bé là 55%)
Mặt chủ quan: Lỗi cố ý trực tiếp. T nhận thức rõ hành vi của mình gây nguy hiểm
nghiêm trọng đến sức khỏe, tính mạng của cháu bé. T thấy trước được hậu quả và mong
muốn hậu quả đó xảy ra.
33. A (nam, 17 tuổi) và B yêu nhau. A có quan hệ tình dục khiến B có thai. Gia đình
B khiếu nại A về sự việc trên.
Anh (chị) hãy xác định hành vi của A có phạm tội không, nếu phạm tội thì là tội gì trong
các tình huống sau:
a. B 12 tuổi;
Trong trường hợp này, A có phạm tội, cụ thể là Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi được
quy định tại điểm b khoản 2 điều 142 BLHS 2015.
Khách thể:
- Quan hệ xã hội bị xâm phạm: Quyền nhân thân của B cụ thể là quyền được bảo vệ tính
mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của B.
- Đối tượng tác động: B là người dưới 16 tuổi
Chủ thể: Chủ thể thường, cụ thể là A có đầy đủ NLTNHS và đủ tuổi chịu TNHS.
Mặt khách quan: Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi có cấu thành hình thức:
- Hành vi: Hành vi thuận tình giao cấu giữa A (nam, 17 tuổi) và B (12 tuổi)
Mặt chủ quan: Lỗi của A là lỗi cố ý trực tiếp (tội phạm có cấu thành tội phạm hình
thức). A biết rõ độ tuổi của B thì không được phép có hành vi quan hệ tình dục, biết rõ
hành vi giao cấu của mình là trái pháp luật nhưng vẫn thực hiện.
b. B 15 tuổi;
Trong trường hợp B 15 tuổi và hai bên quan hệ tình dục một cách tự nguyện thì hành vi
của A không phạm tội. Vì A 17 tuổi thì không thỏa mãn điều kiện về dấu hiệu chủ thể
của tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục với người từ đủ 13 tuổi đến dưới
16 tuổi (Điều 145 BLHS 2015). Bên cạnh đó, B đã 15 tuổi nên nếu hai bên quan hệ tự
nguyện thì cũng không thể cấu thành tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142 BLHS
2015) hay tội hiếp dâm (Điều 141 BLHS 2015).
Trong trường hợp B 15 tuổi và hai bên quan hệ tình dục nhưng trái ý muốn của B thì
hành vi của A có thể cấu thành tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142 BLHS 2015).
c. B 17 tuổi.
Trong trường hợp này, A không phạm tội. Vì A với B giao cấu thuận tình nên trong
trường hợp này B và A đều 17 tuổi, theo quy định của pháp luật A sẽ không phải chịu
trách nhiệm hình sự. Theo quy định tại Điều 145 BLHS 2015 “Người nào đủ 18 tuổi trở
lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến
dưới 16 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật
này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm” mà A chưa đủ 18 tuổi, B đã trên 16 tuổi và cả
hai quan hệ trên tinh thần tự nguyện nên A không phạm tội. Ngoài ra cũng không có quy
định nào về việc xử lý hành vi quan hệ tình dục tự nguyên với người trên 16 tuổi.
41. A kết hôn với X, có hai con chung. Một thời gian sau, X bỏ đi mà không làm thủ
tục ly hôn với A. X đến địa phương khác mua nhà, sống như vợ chồng với Y. 2 năm
sau X mất, A cùng hai con đến nhà nơi X và Y sinh sống bắt Y phải giao nhà. Y xin
được chia một phần nhưng mẹ con A không đồng ý. Y gửi đơn ra Tòa, trong thời
gian chờ tòa xét xử thì A và hai con là B và C huy động hàng chục người kéo tới và
đuổi Y ra đường.
Anh (chị) hãy xác định tội danh trong tình huống trên.
Hành vi của A, B, C đã cấu thành tội: Tội xâm phạm chỗ ở của người khác được quy định
tại điểm b khoản 1 Điều 158 BLHS năm 2015, cụ thể:
- Khách thể: quyền bất khả xâm phạm về chổ ở của Y.
+ Đối tượng tác động: là chổ ở của Y.
- Chủ thể: bà A và hai con là B và C cùng hàng chục người (do B và C huy động) – (nếu
đủ tuổi và có năng lực trách nhiệm hình sự).
- Mặt khách quan:
+ Hành vi: bà A và hai con là B và C huy động hàng chục người kéo tới và đuổi Y ra
đường.
+ Hậu quả: Y không có chổ ở.
+ Mối quan hệ nhân quả: việc mà bà A và hai con là B và C huy động hàng chục người
kéo tới và đuổi Y ra đường là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến Y bị mất chổ ở.
- Mặt chủ quan:
+ Lỗi: cố ý trực tiếp. Bà A và hai con là B và C cùng hàng chục người (do B và C huy
động) nhận thức rõ hành vi xâm phạm chổ ở, đuổi bà Y ra đường là trái với pháp luật,
thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra (biểu hiện ở chổ bà A
và hai con là B và C huy động hàng chục người kéo tới và đuổi Y ra đường).
43. A (21 tuổi) và B (17 tuổi) là anh em cùng cha khác mẹ. Bà Y là mẹ ruột của B
thấy những biểu hiện khác thường của con gái nên đưa B đi đến bệnh viện khám
bệnh thì phát hiện B có thai được gần 4 tháng. Bà Y tra hỏi B thì B khai nhận rằng
do có tình cảm với A nên cả hai đã có quan hệ tình dục từ 2 năm nay và cả 2 đều
hoàn toàn tự nguyện. Bà Y hỏi A thì A cũng thừa nhận hành vi của mình và khai
nhận lần đầu tiên quan hệ là ngày B đã đủ 15 tuổi.
Anh (chị) hãy xác định hành vi của A và B có phạm tội không? Tại sao?
- Hành vi của A và B đều có phạm tội, cụ thể: A và B đã thuận tình quan hệ từ 2
năm trước (khi A 19 tuổi và B 15 tuổi). Hành vi của A đã có đủ dấu hiệu pháp lý
để cấu thành Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục với người từ đủ
13 tuổi đến dưới 16 tuổi Điều 145 và có 2 tình tiết định khung tăng nặng là có tính
chất loạn luân (Điểm c, Khoản 2, Điều 145) – vì A và B là anh em cùng cha khác
mẹ và tình tiết định khung tăng nặng làm nạn nhân có thai (Điểm d, Khoản 2, Điều
145).

* Đối với Tội loạn luân (Điều 184 BLHS).


Khách thể: Tội loạn luân xâm phạm đến sự phát triển bình thường của con cái, xâm
phạm đến thuần phong mỹ tục, hạnh phúc gia đình.
Mặt khách quan: Tội loạn luân có cấu thành hình thức:
- Hành vi khách quan: Hành vi giao cấu thuận tình giữa A và B (là anh em cùng cha
khác mẹ).
Chủ thể: Chủ thể đặc biệt:
- A và B có quan hệ huyết thống (A và B là anh em cùng cha khác mẹ).
- A và B đều đã từ đủ 16 tuổi.
- A và B đều có năng lực trách nhiệm hình sự:
Mặt chủ quan: Lỗi cố ý trực tiếp. A và B đều biết cả hai là anh em cùng cha khác mẹ mà
vẫn thực hiện hành vi giao cấu, biết rõ hành vi giao cấu của mình là trái pháp luật nhưng
vẫn thực hiện.
* Đối với Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145 BLHS).
Khách thể:
- Quan hệ bị xâm phạm: Quyền nhân thân của B cụ thể là quyền được bảo vệ tính mạng,
sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của B.
- Đối tượng tác động: là B (từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi).
Chủ thể: Chủ thể thường, A đủ 18 tuổi, A có năng lực trách nhiệm hình sự (A có khả
năng nhận thức và điều kiện hành vi của mình).
Mặt khách quan: Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến 16 tuổi có cấu thành hình
thức:
- Hành vi khách quan: Thuận tình giao cấu giữa anh chị em cùng cha khác mẹ, cụ thể
trong trường hợp này là A và B cùng cha khác mẹ đã thực hiện hành vi thuận tình giao
cấu với nhau khi A 19 tuổi và B chỉ mới đủ 15 tuổi.
Mặt chủ quan: Đây là lỗi cố ý trực tiếp (tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức).
Hành vi khách quan của tội phạm thể hiện ở hai dạng là giao cấu trái phép và thực hiện
hành vi quan hệ tình dục khác. Cụ thể trong trường hợp này là A đã giao cấu trái phép với
B mặc dù là hai bên hoàn toàn tự nguyện.

You might also like