You are on page 1of 9

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN


----------

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN

Họ và tên sinh viên: NGUYỄN QUANG THÁI

MSSV: 20100200

Họ và tên giảng viên: VŨ THỊ THU HƯƠNG

HÀ NỘI - 2021

1
Câu 1: Phân tích tác động của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường? Các tác
động này đang biểu hiện như thế nào trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện
nay? Minh hoạ bằng ví dụ cụ thể?
Cạnh tranh là quá trình kinh tế mà trong đó các chủ thể kinh tế ganh đua
nhau để chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng và các điều kiện thuận lợi trong
các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Thực chất của cạnh tranh là sự tranh
giành về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể khi tham gia thị trường.
Xét trong lĩnh vực kinh tế, cạnh tranh là yếu tố không thể thiếu, có vai trò
quan trọng trong nền sản xuất hàng hóa và các nền sản xuất kinh doanh khác.
I. Tác động của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
1. Tác động tích cực
Thứ nhất, cạnh tranh là động lực cho sự phát triển kinh tế- xã hội. Cạnh tranh
tồn tại và phát triển trên cơ sở có chế độ tư hữu hoặc những hình thức khác nhau về
tư liệu sản xuất, từ đó tạo ra sự khác biệt tương đối về kinh tế giữa những người sản
xuất với nhau. Cạnh tranh là tiền đề cho sự ra đời của nền kinh tế thị trường. Do đó,
trong nền kinh tế thị trường, mọi hành vi, hoạt động của chủ thể kinh tế đều phải
hoạt động trong môi trường cạnh tranh. Hơn nữa mọi hoạt động của các chủ thể
kinh tế đều nhằm mục đích tạo ra lợi nhuận tối đa; muốn vậy họ bắt buộc phải chấp
nhận cạnh tranh, ganh đua với nhau bằng cách cải tiến kỹ thật, hợp lý hóa sản xuất,
tăng năng suất lao động, đa dạng và nâng cao chất lượng sản phẩm… nhằm giành
được ưu thế hơn so với đối thủ, thu được lợi nhuận cao. Trong cạnh tranh, doanh
nghiệp nào có tiềm lực, có chiến lược kinh doanh đúng đắn, hiệu quả sẽ tiếp tục
vươn lên tồn tại, doanh nghiệp nào yếu kém, không đáp ứng được nhu cầu của thị
trường sẽ bị loại bỏ. Bởi vậy, cạnh tranh vừa là môi trường vừa là động lực thúc đẩy
phát triển nền kinh tế thị trường.
Thứ hai, cạnh tranh khuyến khích việc áp dụng khoa học, kĩ thuật mới, cải
tiến công nghệ nhằm kinh doanh có hiệu quả. Trong nền kinh tế thi trường, mỗi chủ
thể kinh tế tự quyết định hoạt động kinh doanh của mình. Doanh nghiệp nào có sản
phẩm phù hợp với nhu cầu của thị trường với giá phải chăng thì nhanh chóng chiếm
lĩnh thị trường và thu lợi nhuận cao, ngược lại doanh nghiệp có sản phẩm không
đáp ứng được nhu cầu thị trường sẽ gặp bất lợi. Chính vì thế, cạnh tranh là áp lực
đổi với người sản xuất, buộc họ phải cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới, tăng
năng suất lao động. Nhờ đó kỹ thuật và công nghệ sản xuất của toàn xã hội phát
triển, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển nhanh.
Thứ ba, cạnh tranh chính là cơ chế điều chỉnh linh hoạt và phân bổ lại nguồn
lực của xã hội một cách hiệu quả nhất. Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp cũng như
các quốc gia phải sử dụng các nguồn lực đặc biệt là nguồn tài nguyên một cách tối
ưu nhẩt. Khi tham gia thị trường có tính cạnh tranh, các doanh nghiệp phải cân nhắc
khi sử dụng các nguồn lực vào kinh doanh. Họ phải tính toán để sử dụng các nguồn
lực này sao cho hợp lí và có hiệu quả nhất. Mục đích hoạt động của các doanh
nghiệp là lợi nhuận tối đa, do đó họ sẽ đầu tư vào những nơi, những lĩnh vực có lợi
nhuận cao (cung nhỏ hơn cầu) và bỏ trống những nơi, những lĩnh vực có lợi nhuận
thấp hoặc không có lợi nhuận (cung lớn hơn cầu), do đó các nguồn lực kinh tế của

2
xã hội sẽ được chuyển đến nơi mà chúng được sử dụng với hiệu quả cao nhất, tiết
kiệm chi phí các nguồn lực kinh tế của xã hội một cách tối đa.
Thứ tư, cạnh tranh điều tiết cung, cầu hàng hoá trên thị trường, kích thích
thúc đẩy việc ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất và tăng vốn đầu
tư vào sản xuất trên thị trường. Khi cung một hàng hóa nào đó lớn hơn cầu thì giá
cả của hàng hoá giảm xuống, làm cho lợi nhuận thu được của các doanh nghiệp sẽ
giảm xuống. Nếu như giá cả giảm xuống dưới mức hoặc bằng chi phí sản xuất thì
doanh nghiệp đó làm ăn không có hiệu quả và bị phá sản. Chỉ có những doanh
nghiệp nào có chi phí sản xuất giá cả thanh toán của hàng hoá thì doanh nghiệp đó
mới thu được. Điều đó buộc các doanh nghiệp muốn tồn tại được thì phải giảm chi
phí sản xuất hàng hoá, nâng cao năng suất lao động bằng cách tích cực ứng dụng
đưa khoa học công nghệ tiên tiến vào trong quá trình sản xuất. Ngược lại khi cung
một loại hàng hoá nào đó nhỏ hơn cầu hàng hoá của thị trường điều đó dẫn đến sự
khan hiếm về hàng hoá điều này dẫn tới giá cả của hàng hoá tăng cao dẫn đến lợi
nhuận của các doanh nghiệp tăng lên, điều này kích thích các doanh nghiệp sẽ nâng
cao năng suất lao động bằng cách ứng dụng khoa học – công nghệ tiên tiến hoặc mở
rộng qui mô sản xuất để có được lượng hàng hoá tung ra thị trường. Điều này làm
tăng thêm vốn đầu tư cho sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực sản xuất của toàn
xã hội. Điều này quan trọng là động lực này hoàn toàn tự nhiên không theo và
không cần bất kỳ một mệnh lệnh hành chính nào của cơ quan quản lý nhà nước.
2. Tác động tiêu cực
Bên cạnh những mặt tích cực, cạnh tranh cũng có những tác động tiêu cực
thể hiện ở cạnh tranh không lành mạnh. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh có
thể kể đến như:
Một số doanh nghiệp thông đồng, câu kết với nhau nhằm tăng sức cạnh tranh
của các doanh nghiệp trong hội, để từ đó loại bỏ các doanh nghiệp khác bằng cách
ngăn cản, không cho các doanh nghiệp này tham gia hoạt động kinh doanh, không
cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ, chèn ép các doanh nghiệp phải tham gia vào hiệp
hội hoặc cho phá sản.
Các doanh nghiệp thoả thuận với nhau để phân chia thị trường tiêu thụ hàng
hoá làm cho sự lưu thông hàng hoá trên thị trường bị gián đoạn, thị trường trong
nước bị chia cắt. Điều này dẫn tới việc độc quyền chi phối một số mặt hàng trong
một thời gian nhất định, làm cho giá cả của những mặt hàng này tăng cao.
  Doanh nghiệp đưa thông tin sai lệch gây nhầm lẫn về các thông tin liên quan
đến xuất xứ, chất lượng, công dụng, … của sản phẩm. Các thông tin có thể không
hoàn toàn sai lệch so với thực tế nhưng lại không đầy đủ, không rõ ràng, làm cho
khách hàng hiểu nhầm về hàng hóa, dịch vụ hoặc hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
Tóm lại, cạnh tranh không lành mạnh làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh
bình thường của doanh nghiệp chân chính bị đình trệ, gây thiệt hại tài chính, lớn hơn
nữa là có thể đi đến tình trạng phá sản hoặc bị thâu tóm, mua lại. Bên cạnh đó, cạnh
tranh cho không lành mạnh còn làm cho người tiêu dùng mất lòng tin vào tất cả các
sản phẩm vì không phân biệt được đâu là thật - đâu là giả. Ngoài ra, khi các doanh

3
nghiệp tiến hành các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh, Nhà nước sẽ thất thu
các khoản thuế, từ đó ảnh hưởng đến nền kinh tế nhà nước. Đồng thời, uy tín của các
doanh nghiệp trên thị trường cũng bị ảnh hưởng, dẫn đến các hoạt động xuất khẩu
diễn ra sẽ khó khăn.
II. Biểu hiện của các tác động của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam hiện nay
1. Tình trạng cạnh tranh bất bình đẳng
Cạnh tranh bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà nước
với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, giữa các doanh nghiệp trong
nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp nhà nước
được hưởng nhiều ưu đãi từ phía nhà nước như: các ưu đãi về vốn đầu tư, thuế, vị trí
địa lý, thị trường tiêu thụ … Ngoài ra các doanh nghiệp này còn tập trung trong tay
một lượng lớn các ngành nghề quan trọng: điện, nước, than, dầu lửa, bưu chính viễn
thông …. Các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động theo một quy chế riêng, không
được ưu đãi của nhà nước. Điều này gây ra một thiệt hại rất lớn về kinh tế bởi về một
số doanh nghiệp nhà nước làm ăn hiệu quả chây ì trông chời vào nhà nước đã gây ra
lãng phí nguồn lực của xã hội, trong khi các công ty tư nhân hoạt động năng nổ và
hiệu quả hơn. Bên cạnh đó có nhưng quy định không hợp lý trong hoạt động của các
doanh nghiệp nước ngoài gây nên sự e ngại về đầu tư vào nhà nước ta.
2. Hành vi cạnh tranh của các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh luôn muốn tối đa hóa lợi nhuận của
mình mà không phải vấp những khó khăn cản trở nào. Do đó mà có những hành vi
hạn chế cạnh tranh từ các doanh nghiệp Hiện nay, có một số doanh nghiệp thông
đồng cấu kết với nhau nhằm tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong hội, để
từ đó mà loại bỏ các doanh nghiệp khác bằng cách ngăn cản không cho các doanh
nghiệp khác tham gia hoạt động kinh doanh và hạn chế việc hoạt dộng, tẩy chay
không cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ chèn ép các doanh nghiệp vào tường buộc ép
phải phá sản.Hành vi lạm dụng ưu thế của doanh nghiệp để chi phối thị trường.
Hành vi này xuất phát từ một số tổng công ty độc quyền hoặc các công ty lớn có khả
năng chi phối thị trường. Họ dựa vào thế mạnh của mình mà sử dụng các biện pháp
cạnh tranh tương đối không lành mạnh để loại trừ đối thủ cạnh tranh nhằm thao túng
thị trường cho của riêng mình. Với sức mạnh độc quyền các công ty áp đặt giá cả độc
quyền, độc quyền mua thì mua với giá thấp hoặc cực thấp so với thị trường và bán
với giá cao để thu được lợi nhuận siêu ngạch cao. Nạn làm hàng giả hàng nhái hàng
kém chất lược được tung ra thị trường. Việc làm hàng giả hàng nhái bán trên thị
trường sẽ gây thiệt hại cho cả người tiêu dung lẫn những doanh nghiệp làm ăn chân
chính. Không những gây thiệt hại về doanh số hàng tiêu thụ của doanh nghiệp mà
còn làm mất uy tín của doanh nghiệp, công ty. Các hình thức quảng cáo gian dối thổi
phồng ưu điểm hàng hóa của mình và làm giảm ưu điểm các hàng hóa khác cùng loại
rồi đưa ra những mức giá cao hơn so với mức giá thực tế của sản phẩm. Điều này có
thể gây thiệt hại cho chính người tiêu thụ và những doanh nghiệp sản xuất chân
chính.

4
3. Thực tại
Hiện nay, nước ta đang ra sức càn quét triệt để những hàng dựng, hàng kém
chất lượng, những hàng hóa không rõ nguồn gốc xuất sứ như: “Ngày 17-3, Tổng cục
Quản lý thị trường (QLTT) chỉ đạo tổ 368 phối hợp với Cục QLTT Nam Định và PC03,
Công an tỉnh Nam Định triệt phá thành công một kho hàng giả nhiều nhãn hiệu
như Hermès, LV, Chanel. Lực lượng quản lý thị trường phải dùng tới 10 xe 3,5 tấn mới
di chuyển hết số hàng vi phạm. Ước tính 20.000 - 30.000 sản phẩm nhái nhãn hiệu
Hermès, LV, Chanel... đã bị thu giữ.” Việc hàng nhái hàng kém chất lượng còn trôi nổi
ở trên thị trường nước ta đã gây ảnh hưởng xấu đến với các thương hiệu lớn đến từ
nước ngoài như LV là một thương hiệu thời trang nổi tiếng của Pháp, công ty này có
tầm ảnh hưởng rất lớn trên toàn thế giới. Việc hàng nhái hàng kém chất lượng được tiêu
thụ trên thị trường Việt Nam đã gây ảnh hưởng tổn thất rất nặng nề. Thứ nhất, ảnh
hưởng xấu đến chính nguồn tiêu thụ của doanh nghiệp làm ăn chân chính, gây ảnh
hưởng xấu đến chính đất nước. Thứ hai, gây hại cho chính người sử dụng Khi hàng
nhái xuất hiện sẽ làm sai lệch giá trị vốn có của nhãn hàng. Việc trà trộn sản phẩm
hàng nhái sẽ làm người tiêu dùng đánh giá sai về chất lượng của đồ dùng chính hãng.
Việc làm giả những thương hiệu nổi tiếng sẽ khiến họ mất đi khách hàng, người dùng
hiểu lầm, từ đó quay lưng với nhãn hàng và độ uy tín cũng sẽ giảm đi vài phần.
Những thương hiệu không thể bảo vệ được hình ảnh và những sản phẩm độc quyền là
một tổn thất lớn. Hay như trong thị trường nước ta đang có tình trạng nhiều trường
hợp quảng cáo các thực phẩm chức năng không đúng với sự thật, họ thổi phồng chức
năng gây ảnh hưởng rất nghiêm trọng cho người sử dụng. “Từ cuối tháng 4-2020 đến
ngày 8-5-2020, Cục An toàn thực phẩm (Bộ Y tế) đã phát hiện và xử lý vi phạm gần
10 sản phẩm thực phẩm chức năng, thực phẩm bảo vệ sức khỏe được quảng cáo như
thuốc chữa bệnh, lừa dối người tiêu dùng. Những sản phẩm này được quảng cáo trên
các trang web, mạng xã hội như “thần dược” điều trị khỏi một số bệnh: Đái tháo
đường, tim mạch, xương khớp, thậm chí tiêu diệt được cả vi rút SARS-CoV-2, tăng
sức đề kháng của cơ thể…” Trong thời gian qua, cơ quan chức năng nhà nước ta đã
tiến hành xử lý nhiều cá nhân, tổ chức lợi dụng website, mạng xã hội quảng cáo sai
sự thật, thổi phồng công dụng của các sản phẩm thực phẩm chức năng, thực phẩm
bảo vệ sức khỏe như thuốc điều trị bệnh. Mặc dù chưa có vắc xin phòng bệnh cũng
như thuốc điều trị đặc hiệu với Covid-19, nhưng một số loại thực phẩm chức năng lại
quảng cáo tiêu diệt vi rút SARS-CoV-2. Thậm chí, để nâng cao uy tín cho sản phẩm,
có những đơn vị quảng cáo đã “mượn” hình ảnh bác sĩ, nhân viên y tế, hay bệnh viện,
nghệ sĩ có danh tiếng để tư vấn, quảng cáo sản phẩm cho họ.Điều này đã gây nên ảnh
hưởng rất to lớn cho chính những người bác sĩ hay người nghệ sĩ bị họ lấy hình ảnh
ra quảng bá mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến người sử dụng.Họ lợi dụng trong thời
điểm nhạy cảm nhất cả nước trong khi cả nước đồng lòng chống lại dịch bệnh Covid-
19 (một căn bệnh rất nguy hiểm đến sức khỏe con người) vậy mà lại lợi dụng thời
điểm đó để họ quảng bá thổi phồng thực phẩm chức năng của họ không đúng sự thật
để cạnh tranh với với các hàng hóa khác cùng loại.

5
III. Các ví dụ
1. Ví dụ 1
Ngày 14/11/2008, Panasonic Việt Nam giới thiệu dòng máy điều hòa không
khí mới Envio I2 và Envio P2. Dòng máy điều hòa Envio I2 và P2 mới không chỉ
làm lạnh hiệu quả, tiết kiệm đến 50% lượng điện năng tiêu thụ mà còn có khả năng
lọc không khí tuyệt vời, làm sạch đến hơn 99% bụi bẩn, vi khuẩn và nấm mốc. Hệ
thống lọc khí e-ion đã chứng tỏ khả năng thu gom bụi nhanh 5,5 lần so với thông
thường và hiệu quả hơn 10% so với các model năm 2007. Bên cạnh đó, Panasonic
còn cho ra đời sản phẩm tủ lạnh mới mà theo quảng cáo thì tủ lạnh này có tính năng
tăng cường thành phần vitamin của thực phẩm lên tới 12%. Nhận thấy có dấu hiệu vi
phạm Luật Cạnh tranh, Cục Quản lý cạnh tranh đã tổ chức điều tra Công ty TNHH
Panasonic Việt Nam. Kết quả điều tra cho thấy, quảng cáo của Panasonic với tính
năng “bất hoạt đến 99,9% vi khuẩn và nấm mốc” là không đúng thực tế, trong khi
doanh nghiệp mới chỉ thử nghiệm tác động kháng khuẩn với đối với 2 loại vi khuẩn
là Staphylocccus và Escherichia Coli mà không thể diệt hay vô hiệu hóa tất cả các
loại virus, vi khuẩn. Đối với mẫu quảng cáo tủ lạnh, kết quả thử nghiệm mà công ty
cung cấp lại chỉ áp dụng đối với rau quả chứ không phải thực phẩm nói chung. Ngày
16 tháng 6 năm 2010, Cục Quản lý cạnh tranh đã ra quyết định số 66/QĐ-QLCT xử
phạt Công ty TNHH Panasonic Việt Nam với số tiền là 30 triệu đồng đối với hành vi
Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, vi phạm quy định tại khoản 3, Điều
45, Luật Cạnh tranh (2004).
2. Ví dụ 2
Năm 2016, 8 doanh nghiệp điện ảnh của Việt Nam gửi thư cầu cứu lên các
cơ quan chức năng vì bị CGV chèn ép về tỷ lệ ăn chia quá thấp cho phim Việt. Sự
việc đẩy lên đến đỉnh điểm với việc CGV từ chối phát hành một bộ phim Việt vì
không chấp nhận tỷ lệ ăn chia như phim ngoại. Sau đó, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch đã yêu cầu CGV đàm phán với 8 nhà sản xuất và phát hành phim trong nước để
giải quyết mâu thuẫn qua hình thức thương lượng. Tuy nhiên, theo Đại biểu Quốc hội
Nguyễn Sỹ Cương, “CGV đã kiên quyết yêu cầu các doanh nghiệp trong nước cùng
thống nhất và ký vào một bản đề xuất về tỷ lệ ăn chia của CGV để CGV xem xét.
Nếu làm như vậy thì các doanh nghiệp Việt sẽ vi phạm Luật Cạnh tranh hiện hành.”
Ông cũng cho biết: “các doanh nghiệp điện ảnh nước ngoài nắm giữ thị phần chi phối
có thể dẫn đến hạn chế cạnh tranh, đẩy doanh nghiệp điện ảnh nhỏ bé của Việt Nam
tới chỗ phá sản....”. Phát biểu tại hội trường, Đại biểu Quốc hội Trương Trọng Nghĩa
cũng cho biết, ông hoàn toàn tán thành ý kiến của đại biểu Nguyễn Sỹ Cương và kêu
gọi Chính phủ chỉ đạo nghiên cứu, có giải pháp cấp bách để cứu ngành Điện ảnh Việt
Nam đang bị Điện ảnh nước ngoài cạnh tranh không lành mạnh.

6
Câu 2: Phân tích các điều kiện cần tạo lập để chuyển đổi từ nền sản xuất – xã hội lạc
hậu sang nền sản xuất – xã hội tiến bộ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
ở Việt Nam?
Công nghiệp hóa hiện đại hóa là một quá trình chuyển đổi mang tính chất
căn bản và toàn diện về những hoạt động kinh tế và quản lý kinh tế, xã hội. Từ việc
sử dụng sức lao động thủ công là chính sẽ được chuyển sang sử dụng sức lao động
với công nghệ, phương tiện và các phương pháp hiện đại, tiên tiến để giúp tạo ra
năng suất lao động hiệu quả nhất. Và để chuyển đổi từ nền sản xuất – xã hội lạc hậu
sang nền sản xuất – xã hội tiến bộ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
nước ta cần phải có những điều kiện sau.
Thứ nhất, điều kiện về vốn. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm xây dựng
cơ sở vật chất - kỹ thuật ngày một hiện đại, đòi hỏi phải có nhiều vốn trong nước và
ngoài nước, đặc biệt nhất nguồn vốn bên ngoài là quan trọng. Nguồn vốn bên trong
được hình thành bởi: vốn tích lũy từ ngân sách, vốn tích lũy từ các doanh nghiệp….
Con đường cơ bản để giải quyết vấn đề tích lũy vốn trong nước là tăng năng suất lao
động xã hội trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, hợp lý hóa sản xuất,
khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực đang có của đất nước, thực hiện tiết
kiệm. Nguồn vốn bên ngoài được huy động từ các nước trên thế giới dưới nhiều hình
thức khác nhau như vốn viện trợ của các nước, các tổ chức kinh tế - xã hội; vốn vay
ngắn hạn, dài hạn với các mức lãi suất khác nhau của các nước và các tổ chức kinh
tế, vốn đầu tư của nước ngoài vào hoạt động sản xuất kinh doanh, liên doanh liên
kết... Biện pháp để tận dụng và thu hút vốn bên ngoài là đẩy mạnh, mở rộng các hình
thức hợp tác quốc tế, tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các nhà sản xuất kinh
doanh nước ngoài, tranh thủ mọi sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, vay vốn ở các
nước.Ở nước ta hiện nay, nguồn vốn trong nước còn hạn chế phải vì thế phải tận
dụng khai thác nguồn vốn bên ngoài. Tuy nhiên, việc tạo nguồn vốn phải gắn chặt
chẽ và quản lý có hiệu quả sử dụng tốt khai thác tối đa khả năng vốn có.
Thứ hai, điều kiện về công nghệ. Công nghệ giữ vai trò quan trọng trong
phát triển rút ngắn. Kinh nghiệm của một số quốc gia thực hiện phát triển rút ngắn
cho thấy, việc xác định một chiến lược phát triển công nghệ hợp lý sẽ cho phép tận
dụng được hình thức công nghệ tiên tiến của thế giới kết hợp với công nghệ truyền
thống sẵn có để khai thác phát huy các nguồn lực phát triển. Trong thời đại công
nghệ tin học ngày càng phát triển, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước
ta không chỉ đơn giản là biến Việt Nam từ nước nông nghiệp thành nước công
nghiệp, mà quá trình đó phải bao hàm cả bước chuyển nhảy tắt lên xã hội thông tin.
Vì vậy, trong chiến lược phát triển công nghệ phải chú ý tới cả việc phát triển công
nghệ cao lẫn công nghệ truyền thống, trong đó xu hướng tăng lên của loại hình công
nghệ cao cần được ưu tiên. Làm sao để có được công nghệ cao hiện đại trong khi
nguồn vốn có hạn là một thách thức lớn đối với chúng ta hiện nay. Nếu không tiếp
cận được công nghệ cao hiện đại thì khó có thể nói đến sự phát triển rút ngắn. Để đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam cần chú trọng nhiều hơn nữa đến việc
nâng cao trình độ công nghệ sản xuất. Thực tiễn phát triển của thế giới cho thấy, cần
phải nhanh chóng chuyển từ giai đoạn nhập khẩu - cải tiến công nghệ, sang giai đoạn
nghiên cứu sáng chế công nghệ. Có như vậy mới góp phần nâng cao năng lực cạnh

7
tranh của đất nước từ đó tạo cơ sở cho phát triển bền vững. Đó là những vấn đề chính
sách rất cần có sự quan tâm đầu tư thích đáng để giải quyết. Điều này xuất phát từ vai
trò của công nghệ đối với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước
ta.
Thứ ba, điều kiện về nguồn lực con người. Trong mọi thời đại con người
luôn là nhân tố cơ bản của sự tăng trưởng. Con người có sức khỏe, có trình độ thì sẽ
đưa lại năng suất lao động cao. Năng suất chính là cái quyết định sự thắng lợi của
loại hình tổ chức kinh tế - xã hội mới. Trong nền kinh tế thị trường cùng với đội ngũ
lao động có sức khỏe nhiệt tình, cần có đội ngũ những chuyên gia kinh doanh giỏi.
Để có nền kỹ thuật công nghệ tiên tiến cần có sự đầu tư nhằm tạo ra đội ngũ cán bộ
khoa học - kỹ thuật giỏi. Chính họ sẽ là người tiếp thu, ứng dụng thành tựu của thế
giới vào chính quốc gia mình, và cũng chính họ sẽ đề xuất, xây dựng những quy trình
công nghệ mới cho phép tăng nhanh năng suất, rút ngắn các bước đi trong tiến trình
phát triển. Thực trạng nguồn nhân lực nước ta hiện nay là số lượng đông nhưng chất
lượng không cao, thể hiện là tay nghề thấp, chưa có tác phong công nghiệp, chưa có
những tổng công trình sư, kỹ sư, nhà khoa học thật sự giỏi, chưa có những chuyên
gia giỏi, chưa có những nhà tư vấn, nhà tham mưu giỏi… Báo chí nước ngoài bình
luận người Việt Nam khá thông minh, rất nhanh nhạy trong việc nắm bắt và tiếp thu
cái mới. Tiếc rằng, chúng ta lại chưa được khai thác đầy đủ, đào tạo chưa bài bản,
điều đó ảnh hưởng đến chất lượng nhân lực và ảnh hưởng đến quá trình đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng và đến sự phát triển kinh tế - xã hội Việt
Nam nói chung.
Thứ tư, điều kiện về thị trường. Chúng ta biết rằng, không thể phát triển nền
kinh tế hàng hóa khi thiếu thị trường bởi thị trường là một yếu tố quan trọng quyết
định đến sự sống còn của quá trình sản xuất lưu thông hàng hóa. Đối với các nước
đang phát triển, thị trường không chỉ là nơi tiêu thụ hàng hóa mà còn là nơi tiếp cận
nguồn vốn, lao động và công nghệ… Vì vậy muốn phát triển nhanh không thể không
mở rộng thị trường, tham gia hội nhập quốc tế. Dù quan hệ quốc tế ở nước ta đang
được mở rộng nhưng việc thâm nhập thị trường và mở rộng thị trường của hàng hóa,
dịch vụ của Việt Nam vẫn đang gặp không ít khó khăn. Đó là do chất lượng hàng
hóa, dịch vụ còn hạn chế, công tác xúc tiến thương mại cũng chưa thực sự bài bản và
nguồn lực hạn chế, công tác đăng ký bản quyền hàng hóa đôi khi chưa kịp thời làm
giảm năng lực cạnh tranh, mất thị phần… Đây cũng là những vấn đề cần có hướng
chính sách thúc đẩy giải quyết nhằm mở rộng thị trường đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ra.

8
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Cục Quản lý cạnh tranh điều tra, xử lý Công ty TNHH Panasonic Việt Nam về hành
vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh – Quyết Thắng – Bản tin Cạnh
Tranh & Người tiêu dùng số 20 – 9/2010, Bộ Công Thương, Cục Quản lí cạnh
tranh.
2.https://dantri.com.vn/kinh-doanh/dai-bieu-quoc-hoi-ban-chuyen-he-thong-rap-cgv-
bi-to-chen-ep-doanh-nghiep-viet-20171115153130102.htm
3.Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin.
4.https://thegioiluat.vn/bai-viet-hoc-thuat/Tieu-luan-Canh-tranh-trong-nen-Kinh-te-
thi-truong-10857/
5.https://tuoitre.vn/triet-pha-kho-hang-gia-hieu-hermes-lv-chanel-khung-10-xe-3-5-
tan-moi-cho-het-20210317211725611.htm
6.https://hanoimoi.com.vn/tin-tuc/Suc-khoe/967037/dep-loan-quang-cao-thuc-pham-
chuc-nang-sai-su-that
7.https://khotrithucso.com/doc/p/dieu-kien-de-thuc-hien-cong-nghiep-hoa-hien-dai-
hoa-o-nuoc-64925

You might also like