You are on page 1of 27

ĐẠI HỌC QUỐC GIA

ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP HỒ CHÍ MINH



BÀI TẬP LỚN MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG

ĐỀ TÀI:

ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA GIÁO DỤC
Ở KHU DÂN CƯ THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC GIAI ĐOẠN TỪ THÁNG 1/2021 ĐẾN
THÁNG 6/2022

LỚP DT04 --- NHÓM 17 --- HK 213

NGÀY NỘP 24/07/2022

Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Hữu Kỷ Tỵ

STT Sinh viên thực hiện Mã số sinh Điểm số


viên
1 Nguyễn Thanh Tín 1910611
2 Trang Hiểu Tín 2010079
3 Nguyễn Quế Trâm 2012253
4 Đặng Ngọc Trâm 2014813

Thành phố Hồ Chí Minh -2022

1
MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU………………………………………………………………………
3

PHẦN NỘI DUNG……………………………………………………………………6

CHƯƠNG 1. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT
TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN
NAY……………………………………….6

CHƯƠNG 2. VẬN DỤNG…………………………………………………………..15

2.1. Các chủ trương của Thành phố Thủ Đức………………………………


15

2.2. Đánh giá thực trạng xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư trên địa
bàn Thành phố Thủ
Đức…………………………………………………………….16

2.2.1. Thành tựu, nguyên nhân…………………………………………


16

2.2.2. Hạn chế, nguyên


nhân…………………………………………...19

2.2. Giải pháp………………………………………………………………...20

PHẦN KẾT LUẬN…………………………………………………………….…....25

TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………………..27

2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Trải qua 75 năm kể từ khi thành lập đất nước, bên cạnh chú trọng phát triển
kinh tế, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn đề cao vai trò của văn hóa và khai thác văn
hóa như nguồn lực nội sinh để phát triển kinh tế - xã hội, phát huy và hình thành các
nhân tố mới, giá trị mới của con người Việt Nam.

Văn hóa là tất cả những giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra trong
quá trình lịch sử, là những hiểu biết của con người, thể hiện nếp sống, tính cách, cấp
độ tư duy, trình độ phát triển, phẩm giá của mỗi người và mỗi dân tộc. Văn hóa cũng
là những giá trị tốt đẹp, tiến bộ, góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển của mỗi
con người, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam, văn hóa có vai trò, sức mạnh
to lớn trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng như trong sự nghiệp kiến
thiết, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc tổ chức tháng 11-1946, Hồ Chí Minh đưa ra
luận điểm “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi” và luận điểm này đã trở thành nguyên
tắc chi phối, có ý nghĩa cơ bản, lâu dài và là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt quá trình xây
dựng, phát triển văn hóa Việt Nam, là cơ sở để Đảng ta xác định xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, là nền tảng tinh thần, là
động lực phát triển của xã hội, gắn nhiệm vụ xây dựng văn hóa, con người với nhiệm
vụ xây dựng và phát triển đất nước.

Văn hoá bao gồm nhiều lĩnh vực, tuy nhiên theo quan điểm của Hồ Chí Minh
thì những lĩnh vực chính bao gồm: văn hoá giáo dục, văn hoá văn nghệ và văn hoá đời

3
sống. Trong đề tài của nhóm, văn hóa giáo dục là lĩnh vực được tập trung nghiên cứu
và làm rõ.

Sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, việc xác định xây dựng
một nền giáo dục mới được xác định là mục tiêu lâu dài và cấp bách của nước ta,
không thể để vấn đề này bị chậm trễ. Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục,
quan điểm về vai trò của giáo dục trong việc phát huy nhân tố con người giữ vị trí hết
sức quan trọng, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Hồ Chí Minh đối với con người, coi
con người là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định mọi thành công; con người vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng.

Những tư tưởng của Người về lĩnh vực này là một hệ thống quan điểm rất
phong phú và hoàn chỉnh, tạo tiền đề cho những thành tựu và phát triển của nền giáo
dục Việt Nam trong những năm cách mạng, kháng chiến và thời kỳ độc lập sau này.
Đó cũng chính là cơ sở khoa học, là kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta trong
nhận thức và hoạt động xây dựng nền giáo dục ở Việt Nam.

Ngay trong thời đại mà các thành tựu khoa học công nghệ ngày càng to lớn, nơi
mà tri thức trở thành một thứ công cụ không thể thiếu để giúp đất nước ta nhanh
chóng vượt lên sánh ngang với cường quốc năm châu, thì yếu tố con người trở nên
quan trọng hơn bao giờ hết. Do đó, văn hóa giáo dục cần phải được định hướng tốt,
phát huy tối đa vai trò của mình, để làm được điều này, có một đóng góp không nhỏ
đến từ những tư tưởng và chính sách của Đảng.

Từ những lí do và thực trạng nêu trên, nhóm tác giả lựa chọn đề tài “ĐẢNG
LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY” để nghiên cứu và phát triển.
2. Đối tượng nghiên cứu

Quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam hiện nay.

Quan điểm chỉ đạo của địa phương về xây dựng và phát triển văn hóa giáo dục
ở thành phố Thủ Đức.
3. Phạm vi nghiên cứu

4
Về không gian
Đề tài nghiên cứu về văn hóa giáo dục ở phạm vi thành phố Thủ Đức.
Về thời gian
Từ Tháng 1/2021 đến tháng 6/2022
4. Mục tiêu nghiên cứu

Thứ nhất, làm rõ được những quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng và phát
triển văn hóa, con người Việt Nam hiện nay.

Thứ hai, triển khai và đánh giá thực trạng đồng thời tìm hiểu nguyên nhân cho
văn hóa giáo dục ở thành phố Thủ Đức.

Thứ ba, đưa ra những giải pháp cụ thể có giá trị kiến nghị trong các chỉ đạo về
xây dựng và phát triển văn hóa giáo dục tại địa phương thành phố Thủ Đức.
5. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu áp dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu đa dạng,
trong đó một số phương pháp chính là: phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết,
phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm, phương pháp lịch sử,...
6. Kết cấu của đề tài

Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài gồm 2
chương:

Chương 1: Quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Vận dụng

5
PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG VÀ


PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Quan niệm về văn hóa và phát triển bền vững

Ngày nay, có nhiều cách tiếp cận khác nhau về văn hóa, vai trò của văn hóa đối
với sự phát triển bền vững, dù cách tiếp cận nào thì vai trò của văn hóa hết sức quan
trọng, có mặt trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, chính văn hóa làm nên “năng
lực bản chất Người”. Vì thế, nhận thức và ứng xử đúng đối với vai trò của văn hóa là chìa
khóa mở cánh cửa và tạo lập một xã hội phát triển bền vững “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh” là định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Trước tiên, văn hóa là khái niệm rất rộng và đa nghĩa, không có một định nghĩa
nào bao hàm, đầy đủ cho văn hóa, phải được nhìn nhận, tiếp cận dưới nhiều gốc độ
khác nhau: Một là, coi văn hóa như một hoạt động cho sự phát triển, hoạt động cơ bản
của con người đó là hoạt động sản xuất vật chất và hoạt động sản xuất tinh thần,
nhưng không phải hoạt động nào cũng là văn hóa. Ngược lại, không có hoạt động thì
cũng không có văn hóa được tạo ra, những hoạt động hướng đến Chân - Thiện - Mỹ
tức là văn hóa; Hai là, văn hóa là giá trị và hệ giá trị, nghĩa là văn hóa mang hệ giá trị
phổ biến và phổ quát của nhân loại, đó là Chân - Thiện - Mỹ, như vậy văn hóa được
cấu thành từ khoa học - đạo đức - nghệ thuật; Ba là, nhìn nhận văn hóa như là sự sáng
tạo, nghĩa là văn hóa là sáng tạo, đổi mới; Bốn là, văn hóa được nhìn nhận như là bộ
lộc, điều chỉnh, nghĩa là chức năng dùng văn hóa như bộ lộc, điều chỉnh hành vi, ứng
xử, đạo đức của con người.

Năm 1943, Hồ Chí Minh đã đưa ra một quan niệm văn hóa vừa cụ thể, vừa khái
quát hết sức tinh tế: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn

6
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoại hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương
thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá, văn hoá là sự tổng
hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh
ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”1.
Quan niệm về phát triển bền vững được hình thành từ thực tiễn đời sống xã hội
và có tính tất yếu trong việc giải quyết những khó khăn và bất ổn về kinh tế - xã hội,
Chính vì thế, năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh về Môi trường và Phát triển của Liên
hợp quốc được tổ chức ở Ri-ô đơ Gia-nê-rô đề ra Chương trình nghị sự toàn cầu cho
thế kỷ XXI, theo đó, phát triển bền vững được xác định là: “Một sự phát triển thỏa
mãn những nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm hại đến khả năng đáp ứng
những nhu cầu của thế hệ tương lai”. Theo đó, ba trụ cột phát triển bền vững được xác
định là: Thứ nhất, bền vững về mặt kinh tế, hay phát triển kinh tế bền vững là phát
triển nhanh và an toàn, chất lượng; Thứ hai, bền vững về mặt xã hội là công bằng xã
hội và phát triển con người, chỉ số phát triển con người (HDI) là tiêu chí cao nhất về
phát triển xã hội, bao gồm: thu nhập bình quân đầu người; trình độ dân trí, giáo dục,
sức khỏe, tuổi thọ, mức hưởng thụ về văn hóa, văn minh; Thứ ba, bền vững về sinh
thái môi trường là khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi
trường và cải thiện chất lượng môi trường sống.
Ở nước ta, phát triển bền vững vừa là yêu cầu, vừa là mục tiêu của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, điều đó được thể hiện trong đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà
nước ta, trong mục 4, Điều 3, Luật Bảo vệ môi trường, phát triển bền vững được định
nghĩa: “Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại mà
không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ
sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo
vệ môi trường”.

2. Quan điểm của Đảng ta về vai trò của văn hóa đối với phát triển bền
vững đất nước

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, t.3, tr.458

7
Đổi mới ở nước ta đã đi qua một chặng đường hơn 30 năm, đây là quá trình
cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trên cơ sở
tổng kết Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW “Về xây dựng và phát
triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”. Sự
ra đời của Nghị quyết đã đáp ứng đòi hỏi bức thiết của yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhất là đáp ứng yêu cầu phát triển toàn
diện, bền vững đất nước trong thời kỳ mới.
Về vai trò của văn hóa đối với sự phát triển bền vững, Đảng ta xác định: Văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất
nước. Quan điểm này được thể hiện qua những nội dung cơ bản sau đây:

Một là, “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội.”

Quan diểm này một lần nữa khẳng định vai trò của văn hóa trong sự nghiệp
cách mạng của Đảng và dân tộc, xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc là chăm
lo nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh thì
không có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững, Nghị quyết số 33-NQ/TW về “Xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
đất nước”, một trong những mục tiêu quan trọng mà Đảng ta nhấn mạnh là: “xây
dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện
- mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thật sự
trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng
bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”2.

Do vậy, phát triển bền vững phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh, con người phát triển toàn diện. Văn hóa là kết quả của kinh tế, là sức mạnh
nội sinh quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và phát triển văn hóa
cũng là một mục tiêu quan trọng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Các giá trị văn
Văn phòng Trung ương Đảng, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành
2

Trung ương khóa XI, H, 2014, tr.47

8
hóa tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội vì nó được thấm nhuần trong mỗi con người và
cả dân tộc. Các giá trị văn hóa được nối tiếp, trao truyền và phát huy qua các thế hệ người
Việt Nam, đó là tất yếu của dòng chảy lịch sử từ quá khứ đến hiện tại và hướng đến tương
lai, tương lai của những giá trị phổ quát Chân - Thiện - Mỹ. Vì vậy, chúng ta làm cho văn
hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để các giá trị văn hóa trở thành nền tảng
tinh thần bền vững của xã hội.
Mặt khác, để phát triển văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc
của xã hội, chúng ta cần phải mở rộng giao lưu quốc tế và khu vực, tiếp thụ có chọn
lọc cái hay, cái tiến bộ trong tinh hoa văn hóa các dân tộc khác để làm giàu thêm cho
nền văn hóa dân tộc, tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, làm cho văn hóa Việt Nam bắt kịp sự phát triển
của văn hóa nhân loại trong thời đại ngày nay và chống lại cái đã trở nên lạc hậu, lỗi
thời, xa lạ với văn hóa.
Đảng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, nghĩa là đề cao, coi trọng
nguồn lực văn hóa của sự phát triển bền vững đất nước. Hệ thống di sản văn hóa, các
giá trị văn hóa là “tài sản” vô giá, vô tận cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đó còn là
cơ sở tinh thần cho sự ổn định xã hội và sự bền vững của chế độ ta.
Hai là, “văn hóa là mục tiêu của phát triển bền vững đất nước.”
Mục tiêu tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là xây dựng
một xã hội “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” Đây cũng chính là mục
tiêu của văn hóa, nếu hiểu theo nghĩa rộng nhất của văn hóa. Chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội đến năm 2020 xác định: Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con
người, do con người. Đồng thời nêu rõ yêu cầu “tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến
bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường”, ngày nay không thể phát
triển bằng mọi giá, nhất là chạy theo lợi nhuận tối đa, vì lợi ích hôm nay mà làm tổn hại
đến tương lai. C. Mác đã chỉ dẫn “Nếu canh tác được tiến hành một cách tự phát mà không
được hướng dẫn một cách có ý thức….thì sẽ để lại sau nó đất hoang” 3. Điều đó có nghĩa
là, muốn phát triển kinh tế một cách hiệu quả, bền vững, thì không thể thiếu văn hóa,
nên văn hóa chính là mục tiêu của sự phát triển, văn hóa còn có vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người và xây dựng xã hội mới.

3
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1997, t.32, tr.80
9
Bản chất của văn hóa là sáng tạo, đổi mới để vươn tới các giá trị phổ quát đó là
Chân - Thiện - mỹ, tạo nên tinh thần nhân văn cho con người, đem hạnh phúc đến cho
mỗi người. Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta là thực hiện sự nghiệp vì nhân dân - con người. Nói đến văn hóa là mục tiêu
của sự phát triển kinh tế - xã hội cũng có nghĩa là toàn bộ sự phát triển kinh tế - xã hội
phải hướng tới sự phát triển con người, phát triển xã hội, nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần cho nhân dân. Phải đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển, là
mục tiêu của sự phát triển.
Từ đổi mới đến nay, Đảng ta nhất quán tạo lập nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đó phải là nền kinh tế giải quyết hài hòa các mối quan hệ lợi
ích giữa cá nhân và xã hội, giữa kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội, đảm bảo bền
vững về môi trường sinh thoái, tạo cơ sở nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Để
đạt được điều đó phải cần đến văn hóa, sự tham gia của văn hóa vào trong tổ chức và
hoạt động của nền kinh tế vì mục tiêu phát triển xã hội, phát triển con người, đó chính
là vai trò của văn hóa trong kinh tế, kinh tế trong văn hóa.

Văn hóa với tư cách là đời sống tinh thần xã hội, một mục tiêu đặc biệt quan
trọng, vì nó là nhu cầu phong phú, vô cùng, vô tận, tinh tế của con người, nhu cầu tinh
thần còn là nhu cầu nhân văn và là cứu cánh của con người, văn hóa ấy vừa đáp ứng
nhu cầu của con người, xã hội tiến bộ, vừa thúc đẩy con người đạt được niềm tin, sự
khác vọng hạnh phúc.

Ba là, “văn hóa là động lực của sự phát triển bền vững đất nước.”

Thực tế cho thấy, không ít những quốc gia, dân tộc không giàu về tài nguyên thiên
nhiên, thậm chí còn nghèo nàn và hạn hẹp nhưng lại giàu về kinh tế, kinh tế phát triển, xã
hội tiến bộ chính là nhờ coi trọng yếu tố văn hóa, con người, thông qua việc nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài mở đường cho sự phát triển.

Đây là quan điểm xác định nhiệm vụ cốt lõi, trọng tâm của việc xây dựng nền
văn hóa đó là xây dựng, hoàn thiện nhân cách con người. Đó là chủ nghĩa yêu nước,
chủ nghĩa nhân văn; là bản sắc văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại; là độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; là trọng trách xây dựng nhân cách, đạo đức,
lối sống, tâm hồn, cốt cách con người Việt Nam.Đồng thời, quan điểm này có ý nghĩa
10
lý luận và thực tiễn sâu sắc, vì nếu không xác định rõ mục tiêu hướng mọi hoạt động
văn hóa vào hoàn thiện con người thì dẫn đến nguy cơ xa rời bản chất đích thực của
văn hóa, là tha hóa con người. Con người là chủ thể sáng tạo nên giá trị văn hóa, là
sản phẩm của môi trường văn hóa do mình tạo ra nên nhân cách con người có ý nghĩa
quyết định đối với việc tạo nên chất lượng văn hóa. Vì thế, xây dựng nhân cách con
người đứng vững trước những khó khăn, thách thức của kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế, dám xả thân vì sự nghiệp chung là động lực của sự phát triển bền vững đất
nước.

Như vậy, nguồn lực nội sinh của sự phát triển của một đất nước thấm sâu trong
văn hóa, con người. Sự phát triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới, cái tốt, cái
tiến bộ nhưng không thể tách rời, bỏ qua cội nguồn, phát triển phải vựa trên cội
nguồn, cội nguồn đó của mỗi dân tộc là văn hóa. kinh nghiệm qua hơn 30 năm sự
nghiệp đổi mới ở nước ta đã chứng minh rằng, ngay bản thân sự phát triển kinh tế
cũng không chỉ do các nhân tố thuần túy kinh tế tạo ra, mà động lực của sự đổi mới
kinh tế đó một phần quan trọng nằm trong văn hóa.

Bốn là, “xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của
gia đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến
yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế 4. Môi trường văn hóa là một bộ
phận quan trọng của môi trường sống, gắn bó hữu cơ, mật thiết với môi trường tự
nhiên và môi trường xã hội do con người tạo nên. Môi trường văn hóa là kết quả của
phép ứng xử của con người với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và với chính
bản thân mình. Vì vậy, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh cũng đồng thời là cải
thiện và nâng cao chất lượng của môi trường sinh thái tự nhiên, môi trường xã hội
nhân văn, hình thành và nuôi dưỡng nhân cách con người. Với ý nghĩa đó, xây dựng
môi trường văn hóa không tách rời với việc xây dựng nhân cách cá nhân và xây dựng
lối sống, nếp sống văn hóa của cộng đồng
Ngày nay, nguồn lực con người, là tiềm năng sáng tạo của con người. Tiềm
năng sáng tạo này nằm trong văn hóa, trí tuệ, tâm hồn, đạo đức, nhân cách của mỗi cá
nhân và cộng đồng. Chỉ có nguồn lực này là vô hạn, có khả năng tái sinh và tự sinh,

11
không bao giờ cạn kiệt, các nguồn lực khác sẽ không được sự dụng có hiệu quả nếu
không có những con người đủ trí tuệ và năng lực khai khác chúng, thì các nguồn lực
đó dù có phong phú, đa dạng, thì cũng không thể tham gia và phát huy tác dụng vào
trong phát triển.

Năm là, “xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò
quan trọng”. Quan điểm này đã khẳng định vai trò của Đảng và nhà nước trong việc
lãnh đạo và quản lý công cuộc phát triển văn hóa của dân tộc, cho thấy mối quan hệ
của Đảng và nhà nước với nhân dân. Khảng định nguồn lực để xây dựng nền văn hóa
nước nhà chính là mọi người dân Việt Nam. Mối liên hệ nông dân, công nhân, trí thức
là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân và sự phát triển văn hóa dân tộc dưới sự
lãnh đạo của Đảng trong đó đội ngũ trí thức như là một nguồn tài nguyên vô giá trong
việc phát triển con người và phát triển văn hóa

Nhìn một cách tổng quát, 5 quan điểm trên đã phản ánh tư tưởng chỉ đạo vừa
cơ bản, lâu dài, vừa cụ thể, cấp bách của Đảng ta nhằm định hướng cho quá trình xây
dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam.Trong điều kiện của cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0 đã tác động và làm thay đổi quan niệm về phát triển kinh tế, phát triển
bền vững, phát triển không đơn thuần chỉ dựa vào điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên
nhiên, mặt dù yếu tố này phong phú, đa dạng nhưng đều có hạn và có thể bị khai thác
cạn kiệt, mà dần dần chuyển sang yếu tố quyết định cho sự phát triển chính là trí tuệ,
tri thức, thông tin, là sáng tạo và đổi mới không ngừng tạo ra những giá trị vật chất và
tinh thần ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng của cá nhân và xã hội, đó tức là văn
hóa, vai trò của văn hóa trong phát triển, chỉ có sự tham gia của văn hóa mới đưa đến
sự phát triển bền vững.
Sự ra đời của Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI của Đảng ta, một lần nữa
khẳng định và nhấn mạnh vai trò của văn hóa, con người Việt Nam là sức mạnh nội
sinh, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, để có được nguồn lực nội sinh
như vậy cần phải quan tâm đến sự nghiệp giáo dục - đào tạo, sớm chấn hưng nền giáo
dục Việt Nam, nền giáo dục đó “vừa phản ảnh sâu sắc chiết lý văn hóa, giáo dục Việt
Nam, vừa phản ánh xu thế phát triển của thời đại”. Qua đó tạo ra những con người

12
mới, đạo đức mới xã hội chủ nghĩa như Đảng ta nhấn mạnh: “Xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển.
Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt
Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; tạo môi trường và
điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất tâm
hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân” 5. Những tri thức, trí tuệ, tình cảm, đạo
đức kết tinh, thấm sâu vào trong mọi hoạt động của đời sống con người và xã hội càng
tăng cao bao nhiêu thì sự phát triển kinh tế - xã hội càng nhanh chóng và bền vững
bấy nhiêu.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Trong thời kỳ mới, phát triển bền vững đã trở thành yêu cầu tất yếu chung của nhiều
quốc gia dân tộc, đó là bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường, đây cũng chính là mục
tiêu mà Việt Nam đang hướng tới, để đạt được điều đó, cần phải nhận thức đúng đắn vai trò
và sự tham gia của văn hóa vào trong phát triển, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi mặt
của đời sống xã hội và vào từng con người, văn hóa phải trở thành nền tảng tinh thần của
xã hội, là mục tiêu, động lực của sự phát triển bền vững đất nước.

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
5

Nxb Chính trị quốc gia, H.2016, tr.148-149


13
Ở nước ta, để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cần phải nhận thức đúng vai trò của văn
hóa cũng như mục tiêu của sự phát triển, đó là vai trò của văn hóa trong kinh tế, kinh
tế trong văn hóa, chỉ có như vậy mới đảm bảo được mục tiêu phát triển bền vững, sớm
hiện thực hóa mục tiêu và con đường xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đã chọn.

Các quan điểm của Đảng đã phản ánh tư tưởng chỉ đạo vừa cơ bản, lâu dài, vừa
cụ thể, cấp bách nhằm mục đích định hướng cho quá trình xây dựng, phát triển văn
hóa, con người Việt Nam. Các quan điểm này đã cho thấy một bước phát triển mới
trong tư duy lý luận về văn hóa của Đảng. Nhận thức của Đảng về xây dựng và phát
triển văn hóa đã từng bước được bổ sung, phát triển và hoàn thiện, toàn diện và sâu
sắc hơn . Với những thành tựu có ý nghĩa lịch sử qua hơn 30 năm đổi mới đã chứng
minh rằng, văn hóa từ trong bản chất của mình có vai trò hết sức quan trọng đối sự
phát triển kinh tế - xã hội, phát triển bền vững đất nước, là nền tảng tinh thần của xã
hội, là mục tiêu, là động lực của sự phát triển gắn với tiến bộ công bằng xã hội hướng
tới phát triển văn hóa và phát triển toàn diện cá nhân con người.

CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG


2.1. Các chủ trương của Thành phố Thủ Đức

Thực hiện chủ đề năm 2022 các cấp các ngành Thành phố Thủ Đức chung sức,
chung long thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm:

(1) Tập trung quy hoạch hạ tầng số và thực hiện chuyển đổi số.

Nằm ở cửa ngõ phía Đông TP. Hồ Chí Minh, có vị trí quan trọng, được kỳ vọng sẽ
trở thành đô thị kiểu mẫu về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo và trở
thành khu vực hạt nhân dẫn dắt nền kinh tế của TP.HCM. Với mũi nhọn là ngành kinh
tế tri thức, trung tâm đổi mới sáng tạo, thúc đẩy sự phát triển của thành phố.

14
Và để hiện thực hóa mục tiêu, TP. Thủ Đức cần có cách tiếp cận hợp lý và phải
nêu bật được sự đột phá. Đồng thời phải định vị được vai trò của mình đối với
TP.HCM để được ưu tiên tối đa về cơ chế và nguồn lực. 

(2) Xây dựng Đề án hình thành và phát triển đô thị sáng tạo tương tác cao TPHCM
giai đoạn 2020 – 2035.

Mục tiêu phát triển đô thị, TP Thủ Đức sẽ hình thành và phát triển trên hệ
thống mạng lưới đô thị quốc gia và là đô thị loại 1 trực thuộc TPHCM.

Đề án hình thành và phát triển Đô thị sáng tạo, tương tác cao phía Đông TP
được chia thành 3 giai đoạn phát triển. Bao gồm:

- Giai đoạn 1 khởi tạo.


- Giai đoạn 2 là giai đoạn triển khai.
- Giai đoạn 3 là giai đoạn hoàn thiện.
(3) Chương trình cải cách hành chính và nâng cao chỉ số cải cách hành chính 2021
– 2030.

Ngày 15/7, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 76/NQ-CP Chương trình tổng
thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021-2030. Mục tiêu chung của
Chương trình nhằm tiếp tục xây dựng nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp,
hiện đại, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, có năng lực kiến tạo phát triển, liêm chính,
phục vụ nhân dân, trên cơ sở những quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về
đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong giai đoạn 2021-
2030.

(4) Đề án hỗ trợ doanh nghiệp, khởi nghiệp sáng tạo.

Quyết định số 844/QĐ-TTg, ngày 18/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc
phê duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến
năm 2025” được ban hành 18/05/2016 do Phó Thủ tướng đương thời là Vũ Đức
Đam ký với mục tiêu là tạo lập môi trường thuận lợi để thúc đẩy, hỗ trợ quá trình
hình thành và phát triển loại hình doanh nghiệp có khả năng tăng trưởng nhanh
dựa trên khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh mới.

15
(5) Triển khai kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử trên địa bàn giai
đoạn 2021 - 2025, kế hoạch tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại, Đề án
phát triển ngành logistics đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

Ngày 15/05/2020, Phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử
quốc gia giai đoạn 2021-2025 do Bộ Công Thương ban hành và Phó Thủ tướng
Chính phủ đương thời Trịnh Đình Dũng ký.
2.2. Đánh giá thực trạng xây dựng đời sống văn hóa giáo dục
2.1.1. Thành tựu, nguyên nhân:

Hệ thống cơ chế, chính sách trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo cơ bản được
hoàn thiện: Được thông qua bởi Chính phủ và Quốc hội, Luật Giáo dục đại học năm
2018 và năm 2019 đã giải quyết được những bất cập, đổi mới căn bản, toàn diện. Năm
2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân.
Đến nay, về cơ bản các chủ trương của Nghị quyết 29 đã được thể chế hóa và được cụ
thể trong các văn bản hướng dẫn thực hiện.

Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non; duy trì, nâng cao chất lượng phổ cập
giáo dục tiểu học và trung học cơ sở: Đầu năm 2017, chỉ tiêu về chuẩn phổ cập giáo
dục mầm non trên toàn quốc đối với trẻ 5 tuổi đã hoàn thành từ đầu năm 2017 với tỷ
lệ huy động trẻ mẫu giáo 5 tuổi đạt 99,98%. Bên cạnh đó, cả nước đã đạt chuẩn phổ
cập giáo dục tiểu học mức độ 2, trong đó có 18/63 tỉnh, thành phố đạt mức độ; cả
nước đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 1, trong đó có 19/63 tỉnh,
thành phố đạt mức độ 2, mức độ 3…

Ban hành và tích cực triển khai Chương trình giáo dục phổ thông mới: Lần đầu
tiên nước ta sử dụng chủ trương này và nhận kết quả đáng khích lệ. Là cuối năm 2019,
Bộ trưởng Bộ GD-ĐT đã phê duyệt bộ sách giáo khoa lớp 1 và cho phép sử dụng
trong năm học 2020 - 2021. Việc lựa chọn sách giáo khoa được các địa phương thực
hiện cơ bản nghiêm túc, công khai, minh bạch.

Công tác tổ chức thi, kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục ngày càng thực
chất, hiệu quả hơn: Đổi mới thi, kiểm tra và đánh giá chất lượng đối với giáo dục tiểu
học, trung học cơ sở và trung học phổ thông được triển khai theo hướng đánh giá năng

16
lực, kết hợp kết quả quá trình với kết quả cuối năm học. Các bậc học sau phổ thông đã
chuyển việc tổ chức đào tạo theo tín chỉ. Việc kiểm tra, đánh giá trình độ đào tạo thạc
sĩ và tiến sĩ được thực hiện chặt chẽ hơn; chất lượng các luận văn, luận án từng bước
theo tiêu chuẩn quốc tế. Công tác đổi mới thi tốt nghiệp trung học phổ thông, tuyển
sinh đại học, cao đẳng được triển khai theo hướng đánh giá năng lực, kết hợp kết quả
quá trình với kết quả cuối năm học, giảm áp lực và tốn kém cho xã hội.

Chất lượng giáo dục phổ thông cả đại trà và mũi nhọn đều được nâng lên,
được quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Theo báo cáo năm 2020 của Ngân hàng Thế giới
về Vốn nhân lực, thành phần kết quả giáo dục của Việt Nam đứng thứ 15, tương
đương với các nước như Hà Lan, New Zealand, Thụy Điển. Nhiều chỉ số về Giáo dục
của Việt Nam được đánh giá cao trong khu vực, như: tỷ lệ học sinh đi học và hoàn
thành Chương trình tiểu học sau 5 năm đạt 92,08%, đứng ở tốp đầu của khối ASEAN;
kết quả Chương trình Đánh giá kết quả học tập của học sinh tiểu học các nước Đông
Nam Á (SEA PLM) năm 2019 cho thấy chất lượng giáo dục tiểu học của Việt Nam
đứng vào tốp đầu của các nước ASEAN. Trong các đợt đánh giá PISA, Việt Nam có
kết quả vượt trội so với trung bình của các nước trong khối OECD trong khi mức đầu
tư cho giáo dục thấp hơn hẳn. Kết quả thi Olympic của học sinh Việt Nam những năm
vừa qua có bước tiến bộ vượt bậc với 49 huy chương Vàng trong giai đoạn 2016-2020
so với 27 huy chương Vàng trong giai đoạn 2011-2015; nhiều học sinh Việt Nam đạt
điểm số cao nhất ở các nội dung thi.

Tự chủ đại học được đẩy mạnh, chất lượng đào tạo đại học có nhiều chuyển
biến tích cực: Nếu như trước đây chỉ có hai đại học quốc gia được giao quyền tự chủ
cao, thì từ năm 2014 đã có 23 cơ sở giáo dục đại học được thí điểm thực hiện tự chủ
tương đối toàn diện theo Nghị quyết 77 của Chính phủ. Năm 2019, hệ thống giáo dục
đại học Việt Nam xếp thứ 68/196 quốc gia trên thế giới, tăng 12 bậc so với năm 2018.
Lần đầu tiên, Việt Nam có 4 cơ sở giáo dục đại học được vào top 1.000 trường đại học
tốt nhất thế giới; có 11 cơ sở giáo dục đại học Việt Nam nằm trong danh sách 500
trường đại học hàng đầu Châu Á. Trong đó, Trung tâm Công nghệ giáo dục (ĐH Quốc
gia TP.HCM) sẽ tập trung cho việc hợp tác giữa các trường đại học, các đơn vị nghiên
cứu, giúp thu hẹp khoảng cách giữa kiến thức học thuật và ứng dụng. Với 18 đại học

17
thành viên và viện nghiên cứu, nơi đây sẽ trở thành chiếc nôi đào tạo nhân lực chất
lượng cao cho Khu đô thị sáng tạo phía Đông (TP. Thủ Đức) cũng như cả nước, kết
nối chặt chẽ, hiệu quả các chức năng nghiên cứu khoa học, đào tạo nhân lực trình độ
cao, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, dịch vụ…

Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh, sinh
viên có nhiều chuyển biến tích cực: Trong Chương trình giáo dục phổ thông mới, nội
dung giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống tiếp tục được chú trọng, thực hiện
thông qua tất cả các môn học, hoạt động giáo dục.

Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, đẩy mạnh chuyển đổi số trong
ngành giáo dục: Toàn ngành Giáo dục đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin
trong các hoạt động quản lý, dạy và học. Lần đầu tiên, toàn ngành Giáo dục đã xây
dựng cơ sở dữ liệu ngành về giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông. Công nghệ
thông tin được sử dụng rộng rãi trong các trong các hoạt động dạy và học; dạy học qua
internet, trên truyền hình được thực hiện mạnh mẽ, nhất là trong thời gian thực hiện
giãn cách xã hội để phòng, chống dịch Covid-19.

Chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào
tạo: Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ hợp tác giáo dục với hơn 100 quốc gia và
vùng lãnh thổ. Được quy hoạch trở thành khu đô thị sáng tạo phía đông, TP. Thủ Đức
không chỉ là mảnh đất “màu mỡ” của tinh hoa giáo dục truyền thống, mà còn thu hút
các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư những mô hình giáo dục đẳng cấp quốc tế. Trong
đó phải kể đến sự xuất hiện của Đại học Fulbright và hệ thống trường liên cấp
Vinschool đang được đầu tư xây dựng. Đó là một trường đại học tư thục, độc lập với
100% vốn đầu tư nước ngoài, hoạt động không vì lợi nhuận, Đại học Fulbright là nơi
khởi xướng chương trình đào tạo đại học theo mô hình giáo dục khai phóng của Hoa
Kỳ. 

2.1.2. Hạn chế, nguyên nhân:

Sau 7 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 29 của Trung ương, ngành giáo dục
vẫn còn một số hạn chế, bất cập.

18
Công tác quản lý nhà nước, quản trị nhà trường còn bất cập: trách nhiệm còn
chồng chéo; việc kiện toàn Hội đồng trường các cơ sở giáo dục đại học còn chậm,
hoạt động chưa thực chất, chưa phát huy tốt vai trò của Hội đồng trường.

Tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ: vẫn chưa được giải quyết triệt để ở
một số địa phương; chất lượng đội ngũ giáo viên chưa đồng đều, còn một bộ phận
giáo viên chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới, cá biệt có những giáo viên vi phạm đạo
đức nhà giáo, gây bức xúc xã hội.

Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông ở một số địa
phương: chưa phù hợp, còn tình trạng thiếu trường, lớp ở một số khu đô thị, khu công
nghiệp; thiếu đất cho xây dựng trường học, đặc biệt là ở các thành phố lớn; quy hoạch
mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học và sư phạm còn chậm.

Hệ thống quản lý: bao gồm quản trị, kết nối, khai thác dữ liệu ngành phục vụ
công tác quản lý, điều hành, dạy học còn chưa đồng bộ; một số nơi hạ tầng công nghệ
thông tin, thiết bị kết nối còn thiếu, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa, vùng có điều
kiện kinh tế - xã hội khó khăn,chưa đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số.

Công tác truyền thông về giáo dục: còn hạn chế, chưa tạo được đồng thuận cao
trong xã hội khi bắt đầu triển khai nhiều chủ trương, chính sách mới của ngành.
Truyền thông nội bộ ngành chưa hiệu quả, còn những ý kiến trái chiều ngay trong đội
ngũ giáo viên khi triển khai chính sách mới.

Ngoài ra là các nhóm giải pháp về Phát triển, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên và cán bộ quản lý giáo dục; Tiếp tục rà soát, quy hoạch mạng lưới trường, lớp;
Đẩy nhanh chuyển đổi số trong giáo dục và Tăng cường công tác truyền thông.

2.2. Giải pháp

Tăng cường học tập và làm theo Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, coi đó là
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo. Gắn kết, phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong việc ban hành
các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về giáo dục và đào tạo phù hợp
với thực tiễn Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Nâng cao

19
nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, Nhân dân và toàn xã hội về vị trí, vai trò,
mục tiêu của giáo dục và đào tạo như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Vì lợi
ích mười năm thì phải trồng cây/ Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” 6. Người
nhấn mạnh giáo dục và đào tạo có vai trò vô cùng quan trọng trong việc nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, là động lực của sự phát triển. Do đó, đầu tư
phát triển giáo dục sẽ đem lại lợi ích bền vững cho dân tộc, góp phần đưa đất nước
sánh vai với các cường quốc năm châu trên thế giới.

Về chủ trương và chính sách, Thành phố Thủ Đức tập trung thực hiện đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, tích cực chuẩn bị các điều kiện để triển khai
thực hiện chương trình, sách giáo khoa theo lộ trình. Cùng với đầu tư cơ sở vật chất
nhà trường, ngành tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, chất lượng giáo
dục theo định hướng hội nhập khu vực và quốc tế; tăng cường giáo dục đạo đức, lối
sống, kỹ năng sống, giáo dục thể chất cho học sinh, sinh viên, bảo đảm an toàn trường
học.

Cùng với đó, nâng cao chất lượng dạy học ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh ở
các cấp học và trình độ đào tạo; ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy, học và quản
lý giáo dục; đẩy mạnh giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các cơ sở giáo
dục và đào tạo; chú trọng hội nhập quốc tế; tăng cường cơ sở vật chất bảo đảm chất
lượng các hoạt động giáo dục và đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao.

Thành phố Thủ Đức tập trung vào đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao, TP. Thủ Đức trong tương lai sẽ gồm 6 khu vực trọng điểm: Trung tâm Tài
chính quốc tế Thủ Thiêm; Khu Thể thao và sức khỏe Rạch Chiếc; Trung tâm Công
nghệ cao Sài Gòn; Trung tâm Công nghệ giáo dục (ĐH Quốc gia TP.HCM); Khu
Công nghệ sinh thái Tam Đa và Khu Đô thị tương lai Trường Thọ. 

Trong đó, Trung tâm Công nghệ giáo dục (ĐH Quốc gia TP.HCM) sẽ chú
trong việc hợp tác giữa các trường Đại học, các đơn vị nghiên cứu, tập trung đào tạo
và phát triển nguồn lực lao động chất lượng cao trí tuệ cao. Đồng thời nghiển cứu các
kiến thức học thuật và ứng dụng của chúng vào đòi sống thực tiễn.

6
Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG-ST, H.2011, tập 11, tr.528.
20
ĐH Quốc gia TP.HCM với 8 trường Đại học thành viên cùng các viện nghiên
cứu sẽ trở thành chiếc nôi đào tạo nhân lực chất lượng cao cho Khu đô thị sáng tạo
phía Đông (TP. Thủ Đức) cũng như cả nước, kết nối chặt chẽ, hiệu quả các chức năng
nghiên cứu khoa học, đào tạo nhân lực trình độ cao, ứng dụng khoa học công nghệ
vào sản xuất, dịch vụ…

Thành phố Thủ Đức không những phát triển mạnh về giáo dục truyền thống mà
còn thu hút các doanh nghiệp, các nhà đầu tư nước ngoài về nơi đây mở công ty, thu
hút lực lượng lao động chất lượng cao, họ còn đầu tư vào các mô hình giáo dục theo
chuẩn quốc tế. Điển hình là sự xuất hiện của Đại học Fulbright với hệ thống giáo dục
theo chuẩn Hoa Kì và hệ thống giáo dục trường liên cấp Vinschool đang được đầu tư
và xây dựng.

ĐH Quốc gia TP.HCM và hệ thống giáo dục Vinschool, những trường Đại học
khác và Trung tâm Công nghệ cao sẽ tạo thành một vùng kinh tế nghiên cứu, trí tuệ,
chất lượng cao. Thu hút các doanh nghiệp, các nguồn vốn, các nhà đầu tư nước ngoài
đến đây đầu tư và phát triển thành khu vực trọng điểm cho Thành phố Thủ Đức nói
riêng và cả Thành phố Hồ Chí Minh nói chung.

Về văn hóa học đường trong bối cảnh mới giáo dục và đào tạo, ngành Giáo dục
đã hướng tới xây dựng văn hoá học đường thông qua cuộc vận động “Nói không với
tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” (2006-2007) và phong trào thi
đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” (2008). Và những năm gần
đây, ngành Giáo dục đang triển khai thực hiện Bộ quy tắc ứng xử văn hoá trong
trường học.

Những hoạt động ấy đã có tác động tích cực đến việc xây dựng môi trường sư
phạm lành mạnh, xanh, sạch, đẹp; giáo dục ý thức, kỹ năng sống cho học sinh, thúc
đẩy nâng cao chất lượng dạy và học.

Tuy nhiên, môi trường văn hoá, xã hội bị ảnh hưởng tiêu cực bởi các tệ nạn xã
hội, tham nhũng, tiêu cực,… sự xuống cấp nghiêm trọng về đạo đức, lối sống. Dư luận
xã hội có nhiều quan ngại về sự xuống cấp của môi trường văn hóa trong trường học.
Có nhiều nguyên nhân của tình trạng kể trên, nhưng một trong những nguyên nhân

21
quan trọng là ở cả cấp độ chính sách lẫn  tổ chức thực hiện, chưa có sự quan tâm thỏa
đáng đến việc xây dựng văn hoá học đường. Và để giải quyết vấn đề ấy, Thành phố
Hồ Chí Minh nói chung và Thành phố Thủ Đức nói riêng phải giải quyết được ba nội
dung cơ bản sau:

Một là, đánh giá, phân tích đúng thực trạng văn hoá học đường, mặt được, mặt
chưa được, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra. Trong đó, quan tâm tới việc phân
tích những biểu hiện, nguyên nhân của bệnh thành tích trong nhà trường, vấn đề thiếu
trung thực trong dạy học, thi, đánh giá chất lượng giáo dục để xây dựng văn hoá nhà
trường theo định hướng “Học thật, thi thật và nhân tài thật”.

Hai là, khuyến nghị chính sách xây dựng văn hoá học đường nhìn từ các mối
quan hệ bên trong và bên ngoài nhà trường cũng như trên môi trường mạng.

Ba là, đề xuất giải pháp cụ thể đối với cơ quan quản lý nhà nước, các địa
phương, các cơ sở giáo dục để có được sự đồng thuận trong nhận thức, sự thống nhất
trong hành động; từ đó tạo sự chuyển động mạnh mẽ về văn hoá học đường trong mỗi
nhà trường, mỗi thầy giáo, cô giáo và học sinh, sinh viên.

Văn hóa học đường luôn là vấn đề tiêu điểm và cần được giải quyết suốt bấy
lâu nay. Đó là nền tảng cơ sở để tạo nên một môi trường học tập trong sáng, lành
mạnh; là tiền đề để trí tuệ phát triển; lả cái nôi để tạo ra những con người tài năng,
nhưng nhân tài cho tổ quốc. Chính vì vậy, phải giải quyết triệt để và bền vững thì mới
có thể tạo ra một nền kinh tế vững mạnh và một xã hội công bằng văn minh.

22
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Văn hóa giáo dục luôn là vấn đề quan trọng cần phải được ưu tiên giải quyết
bất kể ở đâu và bất kể thời đại nào. Ở nước Việt Nam nói chung và ở Thành phố Hồ
Chí Minh, Thành phố Thủ Đức nói riêng luôn cần phát triển nền giáo dục, giải quyết
các hạn chế và phát huy những điều tốt, tuyên dương các thành tựu đã đạt được. Trong
nền kinh tế thị trường 4.0 hiện nay, Thành phố Thủ Đức yêu cầu phải không ngừng
thay đổi và thích nghi với thời đại, đầu tư phát triển nền giáo dục truyền thống và cả
nền giáo dục theo chuẩn quốc tế. Nơi đây là trung tâm của các trường Đại học và cả
Khu công nghệ cao, thu hút một lượng lớn các doạnh nghiệp, các nhà đầu tư nước
ngoài. Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trí tuệ
cao; lanh đạo thành phố và các cơ quan đặt mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ, phát triển nhân
tài để phục vụ cho đất nước.

23
Thủ Đức đã đạt được rất nhiều thành tựu đáng kể về kinh tế và giáo dục trong
những năm vừa qua. Bên cạnh đó cũng có những mặt hạn chế cần phải khắc phục.
Tăng cường quản lý các trường học, các cơ sở giáo dục, điều phối nhân sự giáo dục,
phân phối một cách hợp lý; quy hoạch các cơ sở giáo dục trên địa bàn 1 các phù hợp.
Ngoài ra vấn đề văn hóa học đường luôn là tiêu điểm và cần đặt sự chú ý cao, cần xây
dựng một môi trường giáo dục tốt để đào tạo và phát triển thế hệ trẻ mai sau. Phát huy
tinh thần “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” và
“Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” vì một môi trường giáo dục tốt và
một thế hệ trẻ xuất sắc, đầy tiềm năng gánh vác trọng trách của nước nhà.

PHẦN KẾT LUẬN

Văn hóa giáo dục nên là mũi nhọn phát triển hàng đầu, là nhiệm vụ cấp thiết
phải thực hiện trong công cuộc xây dựng và phát triển khu vực, và thành phố Thủ Đức
cũng không ngoại lệ. Giáo dục giúp nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài hình thành đội ngũ có tri thức, có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ
năng động sáng tạo, có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã
hội. Vì là một động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa
đất nước, ngay trong kỷ nguyên công nghệ 4.0, thành phố Thủ Đức càng phải đẩy
mạnh phát triển văn hóa giáo dục, tận dụng triệt để mọi tài nguyên sẵn có, dưới sự
lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, trở thành một phần quan trọng đóng góp và công cuộc
đổi mới đất nước. Thành phố Thủ Đức được định hướng là mũi nhọn là ngành kinh tế
tri thức đem đến khu vực này cơ hội “thay da đổi thịt” về kinh tế xã hội, mà quan
trọng là cơ hội tiếp cận nền tảng giáo dục đẳng cấp quốc tế. Đề tài của nhóm nghiên
cứu dựa trên những chỉ đạo của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh và các cơ sở lý luận của
chủ nghĩa Mác Lenin, đã phân tích và làm rõ thực trạng về văn hóa giáo dục ở thành

24
phố Thủ Đức hiện nay, đánh giá lại các thành tựu và hạn chế trong cốt lõi và từ đó đưa
ra các giải pháp hiệu quả giải quyết các vấn đề trọng tâm, đưa ra các kiến nghị phân
bổ tài nguyên hợp lý, các nhiệm vụ cấp bách cần phải thực hiện để phát triển văn hóa
giáo dục trở thành mũi nhọn, làm tốt công tác tuyên truyền tầm quan trọng của giáo
dục đến người dân của thành phố. Đề tài nghiên cứu đã phân tích luận giải làm rõ
những vấn đề cơ bản xây dựng văn hóa giáo dục trên địa bản thành phố Thủ Đức hiện
nay cả về mục tiêu, nội dung, phương thức, các vấn đề có tính nguyên tắc và tiêu chí
đánh giá. Trong những năm vừa qua, Đảng và nhà nước đã thực hiện tốt việc quán
triệt và giám sát thực hiện các chỉ đạo được đề ra dành cho thành phố Thủ Đức, từ đó
văn hóa giáo dục ở thành phố đã cho thấy những cải thiện đáng kể, được tuyên truyền
hiệu quả, từng bước trở thành nơi hội tụ tinh hoa giáo dục hiện đại ở Việt Nam, ngày
càng đào tạo ra được nguồn nhân lực chất lượng cao cung cấp cho các lĩnh vực đòi hỏi
chuyên môn mạnh, giải quyết vấn đề thiếu hụt nguồn lực có tay nghề, không chỉ đào
tạo và giáo dục về chuyên môn, mà còn là nâng cao phẩm chất đạo đức, tạo cho người
dân một tác phong làm việc chuyên nghiệp, sẵn sàng thâm nhập vào thị trường làm
việc quốc tế, dễ dàng thích nghi với các loại môi trường khác nhau. Bên cạnh những
thành tựu to lớn ấy, vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế cần phải được giải quyết, nếu
muốn ngày càng phát triển hơn trong tương lai, thành phố Thủ Đức nhất thiết phải thu
hẹp phạm vi, thay đổi và tuyên truyền văn hóa giáo dục vào gốc rễ, tiếp tục lấy giáo
dục là cốt lõi, là nhiệm vụ hàng đầu cần phải thực hiện. Bởi khi nhận thức được tầm
quan trọng và tính cấp thiết của văn hóa giáo dục, thành phố Thủ Đức mới thực sự có
thể tận dụng triệt để tiềm lực vốn có để phát triển toàn diện trên mọi lĩnh vực trong xã
hội, góp công vào công cuộc phát triển đất nước, từ đó sánh vai với cường quốc năm
châu.

25
TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Bộ Giáo Dục và Đào Tạo (2021), Giáo trình lịch sử Đảng Cộng Sản Việt
Nam (Dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Hiếu Nguyễn (21/11/2021), Chuyên gia, nhà giáo dục bàn giải pháp tạo
đột phá về văn hóa học đường. Truy cập từ:
https://giaoducthoidai.vn/chuyen-gia-nha-giao-duc-ban-giai-phap-tao-dot-
pha-ve-van-hoa-hoc-duong-post517424.html
3. Minh Tuấn (28/10/2020), TP. Thủ Đức - nơi hội tụ tinh hoa giáo dục hiện
đại. Truy cập từ: https://vietnamnet.vn/tp-thu-duc-noi-hoi-tu-tinh-hoa-giao-
duc-hien-dai-684371.html
4. Nguyễn Trần (30/08/2021), Những thành tựu nổi bật của giáo dục Việt
Nam. Truy cập từ: https://hcmcpv.org.vn/tin-tuc/nhung-thanh-tuu-noi-bat-
cua-giao-duc-viet-nam-1491883501
5. Thanh Nhàn (29/11/2021), Xây Dựng Tầm Nhìn, Sứ Mệnh Và Các Giá Trị
Cốt Lõi Của Giáo Dục Thành Phố Thủ Đức. Truy cập

26
từ:https://ttvhtpthuduc.vn/ban-tin/xay-dung-tam-nhin-su-menh-va-cac-gia-
tri-cot-loi-cua-giao-duc-thanh-pho-thu-duc/
6. Vietnamnet (27/01/2021), Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ nêu 9 thành tựu và 5
hạn chế của ngành giáo dục. Truy cập từ: https://vietnamnet.vn/bo-truong-
phung-xuan-nha-neu-9-thanh-tuu-va-5-han-che-cua-nganh-giao-duc-
708724.html
7. Vietnamnet (28/10/2020), TP.Thủ Đức – nơi hội tụ tinh hoa giáo dục hiện
đại. Truy cập từ: https://vietnamnet.vn/tp-thu-duc-noi-hoi-tu-tinh-hoa-giao-
duc-hien-dai-684371.html

27

You might also like