You are on page 1of 175

ÔN TẬP NGỮ VĂN 11

BÀI 1 – VÀO PHỦ CHÚA TRỊNH

Đề 1. Nêu hiểu biết cơ bản về tác giả Lê Hữu Trác và tác phẩm Thượng Kinh kí sự.

HƯỚNG DẤN LÀM BÀI

1. Tác giả
- Lê Hữu Trác (1724 – 1791) hiệu là Hải Thượng Lãn Ông ( ông giả lười trên biển
cả)
- Quê: làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương (nay
thuộc huyện Yên Mĩ, tỉnh Hưng Yên).
- Sinh ra trong gia đình có truyền thống khoa bảng
- Từng muốn học hành, tiến thân bằng con đường khoa cử. Nhưng nhận thấy xã hội
thối nát, ông đã từ bỏ con đường làm quan, theo đuổi chí hướng mới
- Ông là một danh y, không chỉ chữa bệnh mà còn soạn sách và mở trường dạy nghề
thuốc để truyền bá y học. 
- Nhân cách: Suốt đời, Hải Thượng Lãn Ông không vướng vào vòng danh lợi. Ông có
hai câu thơ tỏ chí của mình:
"Công danh trước mắt trôi như nước,
Nhân nghĩa trong lòng chẳng đổi phương."
2. Sự nghiệp sáng tác
- Nằm trong bộ sách “Hải Thượng y tông tâm lĩnh” 28 tập, chia làm 66 quyển viết về
y học của ông.
- Bộ sách được đánh giá là công trình y học xuất sắc nhất thời trung đại.
- Bộ sách không chỉ có giá trị y học mà còn mang giá trị văn chương, lịch sử, triết
học sâu sắc.
-  Tác phẩm “Thượng kinh kí sự” là tập kí bằng chữ Hán, hoàn thành năm 1783, xếp
cuối bộ “Hải Thượng y tông tâm lĩnh” như một quyển phụ lục.
- Thể loại: Kí sự là một thể loại ghi chép lại những câu chuyện có thật trong cuộc
sống.
- “Vào phủ chúa Trịnh” nằm ở phần đầu tác phẩm, kể về những điều mắt thấy tai
nghe trong một lần được chúa Trịnh mời vào kinh chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán.
Nội dung đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh”
3. Nội dung chính
1
Nội dung theo trình tự thời gian, từ đầu tác giả kể chuyện được vua cho đem cáng
đến đón vào cung chữa bệnh, sau đó là kể lại những điều tai nghe mắt thấy khi vào
cung, đi sâu vào nội cung và khám bệnh cho thế tử, cuối cùng nhận định và đề ra
phương pháp chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán và khéo léo tìm cách lui về quê nhà của
ông.

Đề 2: Anh (chị) hãy phân tích đoạn trích sau và nhận xét ngòi bút miêu tả của tác
giả
“Chúng tôi đi cửa sau vào phủ. Người truyền mệnh dẫn tôi qua mấy lần cửa nữa,
theo đường bên trái mà đi. Tôi ngẩng đầu lên: đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim
kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương. Những dãy hành
lang quanh co nối nhau liên tiếp. Người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc
quan qua lại như mắc cửi. Vệ sĩ canh giữ cửa cung, ai muốn ra vào phải có thẻ.

Tôi nghĩ bụng: Mình vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm
thành mình cũng đã từng biết. Chỉ có những việc trong phủ chúa là mình chỉ mới nghe
nói thôi. Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn
người thường! Bèn ngâm một bài thơ để ghi nhớ việc này:
Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm nhặt,
Ca trời Nam sang nhất là đây!
Lầu từng gác vẽ tung mây,
Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào.
Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới,
Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen.
Quê mùa, cung cấm chưa quen,
Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào!
Đi được vài trăm bước, qua mấy lần cửa mới đến cái điếm “Hậu mã quân túc trực”.
Điếm làm bên cái hồ, có những cái cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ. Trong điếm cột
và bao lơn lượn vòng, kiểu cách thật là xinh đẹp. Quan Chánh đường mỗi khi ở triều
ra thì nghỉ ở đấy. Thấy tôi, ông bảo quan truyền chỉ:
– Chiều qua, tôi đã tâu lên. Thánh thượng cho phép cụ vào để hầu mạch Đông cung
thế tử.
Ông cùng vào với quan truyền chỉ, bảo tôi đi theo cùng mấy người tiểu hoàng môn. Đi
bộ đến một cái cửa lớn, thị vệ, quân sĩ thấy tôi ăn mặc có vẻ lạ lùng, muốn giữ lại.
Quan truyền chỉ nói:
– Có thánh chỉ triệu.

2
Họ bèn để cho tôi đi. Qua dãy hành lang phía tây, đến một cái nhà lớn thật là cao và
rộng. Hai bên là hai cái kiệu để vua chúa đi. Đồ nghi trượng đều sơn son thếp vàng. Ở
giữa đặt một cái sập thếp vàng. Trên sập mắc một cái võng điều. Trước sập và hai
bên, bày bàn ghế, những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy. Tôi chỉ dám ngước mắt
nhìn rồi lại cúi đầu đi. Lại qua một cửa nữa, đến một cái lầu cao và rộng. Ở đây, cột
đều sơn son thếp vàng.”
(Trích “Vào phủ chúa Trịnh” – Lê Hữu Trác)

HƯỚNG DẤN LÀM BÀI


I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
+ Lê Hữu Trác được biết đến không chỉ là một danh y nổi tiếng mà còn là một nhà
văn, nhà thơ với những đóng góp đáng ghi nhận cho nền văn học nước nhà.
+ Thượng kinh kí sự là tập kí sự nổi tiếng trong cuộc đời Lê Hữu Trác.
+ “Vào phủ chúa Trịnh” ghi lại một lần được truyền tới phủ chúa chữa bệnh cho thế tử
đã trở thành một đoạn trích tiêu biểu trong cuốn Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác.
+ Đặc biệt, đoạn trích sau đã miêu tả đầy ấn tượng những điều tai nghe mắt thấy của
Lê Hữu Trác khi vào phủ chúa:
“Chúng tôi đi cửa sau vào phủ. . …Ở đây, cột đều sơn son thếp vàng.”
II. Thân bài
1. Đoạn dẫn nhập
- Tóm lược đoạn trích: Vào Trịnh phủ là đoạn trích kể lại sự việc tác giả được chúa
Trịnh Sâm triệu vào chữa bệnh cho Đông Cung Thế tử Trịnh Cán. Qua ngòi bút hiện
thực, hình ảnh cuộc sống sa hoa, phú quý bên trong phủ chúa được phơi bày chân thực
và sinh động như những thước phim tư liệu quý giá.
- Vị trí đoạn phân tích: Đoạn trích trên nằm ở phần đầu của tác phẩm đã khắc họa rất
rõ nét những điều trông thấy của vị danh y khi bước chân vào phủ chúa.
2. Phân tích đoạn trích
a. Quang cảnh bên ngoài
- Khung cảnh vườn phủ chúa: “Tôi ngẩng đầu lên, đâu đâu cũng là cây cối um tùm,
chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đung đưa thoang thoảng mùi hương”. Cảnh
vật ấy khiến cho ta có cảm giác, nơi đây là một khu vườn địa đàng nào đó trên tiên
giới trong các truyện cổ tích dân gian, chứ không phải cảnh ở hiện thực mà tác giả
nhìn thấy.
- Đường đi:
+ “Những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp”,

3
+ Điếm Hậu mã làm bên cái hồ, có những cái cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ. Trong
điếm cột và bao lơn lượn vòng, kiểu cách thật là xinh đẹp.
+ Cái nhà lớn thật là cao và rộng. Hai bên là hai cái kiệu để vua chúa đi. Đồ nghi
trượng đều sơn son thếp vàng. Ở giữa đặt một cái sập thếp vàng. Trên sập mắc một cái
võng điều. Trước sập và hai bên, bày bàn ghế, những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy.
→ Kiến trúc cầu kì, sa hoa.
- Người trong phủ đông đúc:
+ Người giữ cửa truyền báo rộn ràng,
+ Người có việc quan qua lại như mắc cửi.
+ Vệ sĩ canh giữ cửa cung, ai muốn ra vào phải có thẻ.
+ Quan chánh đường, quan truyền chỉ, …
→ Nhiều kẻ hầu người hạ, uy quyền tối thượng
b. Cung cách sinh hoạt, lễ nghi trong phủ chúa
- Mọi người ra vào phủ phải có quy định, phép tắc nghiêm ngặt: phải có thẻ, có lời
truyền dụ của chúa mới được vào.
- Lời lẽ giao tiếp phải cẩn trọng, tránh tùy tiện mà phạm húy: thánh thượng, thánh chỉ,
hầu mạch…
- Giao tiếp phải lễ phép, đúng vai vế.
→ Tạo cảm giác ngột ngạt, sợ hãi quyền uy của chúa.
c. Thái độ của tác giả:
- Tác giả không bộc lộ trực tiếp thái độ nhưng qua việc chọn chi tiết để kể và tả, đôi
lúc xen vào lời nhận xét khách quan, phần nào thấy được thái độ của ông:
+ Ông nhận xét cảnh xa hoa, lộng lẫy tấp nập ở phủ chúa “khác hẳn người thường”
đến mức không tưởng tượng nổi, “khác nào ngư phủ đào nguyên thưa nào”
+ Nghĩ mình đang ở trong mơ: “Tôi nghĩ bụng: mình vốn con quan... Bước chân đến
đây mới hay cái cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường” →. Điều
này chứng tó thái độ ngỡ ngàng đến bất ngờ của tác giả. Khung cảnh giàu sang đó là
ngoài sức tưởng tượng của ông.
- Đứng trước cảnh đẹp đệ nhất trời Nam ấy, tâm hồn người thầy thuốc tràn ngập một
cảm xúc với thiên nhiên, chứa đựng chút băn khoăn, trăn trở kín đáo: “Quê mùa cung
cẩm chưa quen”.
→ Vẽ nên bức tranh sinh động, đầy tính hiện thực về cuộc sống xa hoa, uy quyền của
chúa Trịnh qua đó bộc lộ thái độ coi thường danh lợi của tác giả.
3. Nhận xét ngòi bút miêu tả của tác giả
- Miêu tả tỉ mỉ, kĩ lưỡng theo trình tự quan sát của danh y Lê Hữu Trác:
+ hình ảnh: cây cối um tùm, chim chóc, phủ chúa với hành lang, các nhà cao rộng…
+ Màu sắc rực rỡ: sơn son thếp vàng, danh hoa đua thắm

4
+ Âm thanh: chim kêu ríu rít
+ Hương vị: hương thơm ngào ngạt…
→ các giác quan đều được thưởng thức, chiêm ngưỡng tràn chề cảm xúc, là
nguyên nhân nảy sinh hồn thơ lãng mạn của tác giả.
- Sử dụng kiểu câu ngắn, vừa thâu tóm được đặc điểm cảnh vật, con người, vừa tạo
nên sắc thái ngỡ ngàng, không thoải mái khi cảnh tượng quá sa hoa, lộng lẫy, hoàn
toàn trái ngược với cuộc sống khổ cực của nhân dân bên ngoài cửa phủ.
 Ngòi bút miêu tả chân thực, tôn trọng hiện thực và khơi gợi những cảm nhận
sâu sắc, thầm kín của một con người sống ngay thẳng và luôn trăn trở về vận nước như
Lê Hữu Trác.
III. Kết bài
- Khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật của đoạn trích.
- Khẳng định tài năng và nhân cách của Lê Hữu Trác.
- Rút ra bài học nhận thức, hành động cho bản thân.

Đề 3: Cảm nghĩ của anh (chị) về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích sau:
“Tôi theo ông, đi theo con đường cũ trở về điếm “Hậu mã”. ông nói:
– Thánh thượng đang ngự ở đấy, xung quanh có phi tần chầu chực, nên chưa thể
yết kiến. Ta hãy tạm ra ngoài.
Ông san mâm cơm cho tôi ăn. Mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ,
tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia. Ăn xong, thấy một viên quan hầu
cận chạy lại mời quan Chánh đường vào và bảo tôi đi theo. Đột nhiên, thấy ông ta mở
một chỗ trong màn gấm rồi bước vào. Ở trong tối om, không thấy có cửa ngõ gì cả. Đi
qua độ năm, sáu lần trướng gấm như vậy, đến một cái phòng rộng, ở giữa phòng có
một cái sập thếp vàng. Một người ngồi trên sập độ năm, sáu tuổi mặc áo lụa đỏ. Có
mấy người đứng hầu hai bên. Giữa phòng là một cây nến to cắm trên một cái giá bằng
đồng. Bên sập đặt một cái ghế rồng sơn son thếp vàng, trên ghế bày nệm gấm. Một cái
màn là che ngang sân. Ở trong có mấy người cung nhân đang đứng xúm xít. Đèn sáp
chiếu sáng, làm nổi màu mặt phấn và màu áo đỏ. Xung quanh lấp lánh, hương hoa
ngào ngạt. Xem chừng Thánh thượng thường thường vẫn ngồi trên ghế rồng này, nay
người rút lui vào màn để tôi xem mạch Đông cung cho thật kĩ.
Tôi nín thở đứng chờ ở xa. Quan Chánh đường truyền lệnh cho tôi lạy bốn lạy.
Thế tử cười:
– Ông này lạy khéo?
Quan Chánh đường lại truyền mệnh:
– Cụ già yếu, cho phép cụ ngồi hầu mạch.
Tôi khúm núm đến trước sập xem mạch. Xem xong, nghe trong màn có tiếng nói

5
nhỏ:
– Cho ông ta xem cả thân hình nữa!
Một viên quan nội thần đứng chầu đến bên sập xin phép thế tử. Thế tử đứng dậy,
cởi áo, đứng bên giường cho tôi xem. Tôi xem kĩ tất cả lưng, bụng và chân tay một
lượt. Quan Chánh đường lại truyền mệnh bảo tôi lạy tạ rồi đi ra. Tôi đứng dậy lạy bốn
lạy. Thấy quan Chánh đường bảo một tiểu hoàng môn đưa tôi ra “phòng trà” ngồi.
Một lát sau, ông đến hỏi:
– Cụ xem mạch như thế nào? Nên dùng thứ thuốc gì thì cụ cứ viết một tờ trình lên.
Rồi ông lại tiếp:
– Bệnh đã nửa năm nay. Trước kia gầy lắm, nay đã hơi có da, có thịt, bản chất yếu
bệnh đã lâu mà không bổ được, vì dùng dương dược thì nóng, mà dùng âm dược
thì trệ. Có khi phải dùng những vị phát tán mới xong!
Ông bảo quan Tả viện đem những thứ đơn thuốc đang dùng đến cho tôi xem.
Nguyên khi ông đề cử tôi và nói mấy câu này là cũng có ý muốn tôi biết chừng. Ông
cũng có biết thuốc, tuy kiến thức về thuốc chưa sâu, nhưng hễ bàn đến thuốc là cứ
muốn dùng thứ thuốc công phạt. Ông thường nói: “Có bệnh thì trước hết là phải đuổi
bệnh. Khi đã đuổi cái tà đi rồi hãy bổ, thì mới là cái phép đúng đắn nhất. Nhưng theo
ý tôi, đó là vì thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên
tạng phủ yếu đi. Vả lại, bệnh mắc đã lâu, tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân
thời xanh, tay chân gầy gò. Đó là vì nguyên khí đã hao mòn, thương tổn quá mức. Nếu
chỉ lo dùng thứ thuốc công phạt khắc bác mà không biết rằng nguyên khí càng hao
mòn dần thì chỉ làm cho người thêm yếu. Bệnh thế này không bổ thì không được.
Nhưng sợ mình không ở lâu nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng
buộc, không làm sao về núi được nữa. Chi bằng ta dùng thứ phương thuốc hoà hoãn,
nếu không trúng thì cũng không sai bao nhiêu. Nhưng rồi lại nghĩ: Cha ông mình đời
đời chịu ơn của nước, ta phải dốc hết cả lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của cha
ông mình mới được. Nghĩ đi nghĩ lại một hồi, tôi mới nói:
– Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế, sác. Thế là âm dương đều bị tổn hại, nay
phải dùng thuốc thật bổ để bồi dưỡng tì và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm
nguồn gốc cho cái hậu thiên. Chính khí ở trong mà thắng thì bệnh ở ngoài sẽ tự nó
tiêu dần, không trị bệnh mà bệnh sẽ mất.”

HƯỚNG DẤN LÀM BÀI


I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
+ Lê Hữu Trác được biết đến không chỉ là một danh y nổi tiếng mà còn là một nhà
văn, nhà thơ với những đóng góp đáng ghi nhận cho nền văn học nước nhà.

6
+ Thượng kinh kí sự là tập kí sự nổi tiếng trong cuộc đời Lê Hữu Trác.
+ “Vào phủ chúa Trịnh” ghi lại một lần được truyền tới phủ chúa chữa bệnh cho thế tử
đã trở thành một đoạn trích tiêu biểu trong cuốn Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác.
+ Đặc biệt, đoạn trích sau đã thể hiện hiện thực sâu sắc của tác phẩm:
“Tôi theo ông, đi theo con đường cũ trở về điếm “Hậu mã”…Chính khí ở trong mà
thắng thì bệnh ở ngoài sẽ tự nó tiêu dần, không trị bệnh mà bệnh sẽ mất.”
II. Thân bài
1. Đoạn dẫn nhập
- Tóm lược đoạn trích: Vào Trịnh phủ là đoạn trích kể lại sự việc tác giả được chúa
Trịnh Sâm triệu vào chữa bệnh cho Đông Cung Thế tử Trịnh Cán. Qua ngòi bút hiện
thực, hình ảnh cuộc sống sa hoa, phú quý bên trong phủ chúa được phơi bày chân thực
và sinh động như những thước phim tư liệu quý giá.
- Vị trí đoạn phân tích: Đoạn trích trên nằm ở phần cuối của tác phẩm đã thể hiện đậm
nét nhất giá trị hiện thực của tác phẩm.
2. Phân tích giá trị hiện thực của đoạn trích.
a. Hiện thực trong bối cảnh lịch sử của tác phẩm
- Câu chuyện lấy bối cảnh lịch sử thời điểm năm 1873, triều chính nhiễu
nhương, phân tranh cát cứ, nhân dân đói khổ, oán thán.
- Lê Hữu Trác được chúa Trịnh Sâm mời vào khám bệnh cho thái tử Trịnh Cán.
Mặc dù bản thân không muốn những ông vẫn phải vào theo lệnh chúa.
b. Cảnh sống sa hoa của vua chúa thời đó:
* Hiện thực phủ chúa được tác giả miêu tả không chỉ là sự sa hoa trong cách
bày trí, kiến trúc của phủ chúa mà còn trong cả những cách thức trong cung nữa. Mọi
thứ nơi đây hiện lên thật sự rất cụ thể.
- Trong phủ:
+ Những nhà: “Đại đường”, “Quyền bổng”, “Gác tía” với kiệu son võng điều, đồ nghi
trượng sơn son thếp vàng và những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy
+ Đồ dùng tiếp khách ăn uống toàn là mâm vàng, chén bạc
- Nội cung thế tử:
+ Phải qua năm sáu lần trướng gấm
+ Trong phòng thắp nến, có sập thếp vàng, ghế rồng sơn son thếp vàng, trên ghế bày
nệm gấm, màn là che ngang sân, “xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt”
 => Quang cảnh nơi phủ chúa vô cùng sa hoa, giàu sang và thâm nghiêm, đây là quang
cảnh thường thấy trong lịch sử bởi vua chúa là những người đứng đầu cai trị đất nước
* Phản ánh hiện thực cuộc sống sinh hoạt nơi phủ chúCuộc sống sinh hoạt nơi
phủ chúa với rất nhiều những nhiều lễ nghi, khuôn phép, đầy quyền uy, sa hoa nhưng
thiếu sinh khí cúng được tác giả phản ánh chân thực:

7
- Phủ chúa là nơi sa hoa, thâm nghiêm và cũng là nơi đầy uy quyền: Tiếng quát
tháo, truyền lệnh, quy tắc lễ nghi được thực hiện nghiêm ngặt:
+ Khi xem bệnh không được thấy mặt thế tử, chỉ làm theo mệnh lệnh do quan chánh
đường truyền tới, trước khi vào xem bệnh cho thế tử phải lạy bốn lạy, muốn xem thân
hình của thế tử phải có viên quan nội thần đến xin phép
+ Lắm kẻ hầu người hạ: ChúaTrịnh luôn có phi tần hầu chầu chực xung quanh, Thế tử
bị bệnh có đến 7, 8 thầy thuốc phục dịch và lúc nào cũng có mấy người đứng hầu hai
bên
- Phủ chúa là nơi thiếu sinh khí:
+ Sự thâm nghiêm kiểu mê cung làm tăng ám khí, lối sống cung cấm khiến con người:
Tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi, gân thòi xanh, chân tay gầy gò…”, “Thế tử ở
trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi”
+ Phản ánh sự thật vị chúa nhỏ Trịnh Cán sống trong sự sa hoa nhưng điều cơ bản
nhất lại thiếu, đó là sức sống.
=> Cuộc sống sinh hoạt nơi phủ chúa được tác giả khắc họa chân thực phù hợp với
cung cách sinh hoạt của vua chúa thời kì bấy giờ, đồng thời cho thấy được uy quyền
và sự lộng hành của chúa Trịnh lấn át cả cung vua, thể hiện sự lộng hành của chúa
Trịnh.
c. Hiện thực trong tâm trạng con người sống dưới thời đại đó.
- Bản thân Lê Hữu Trác là người danh tiếng lẫy lừng, được sủng ái, nhưng cũng luôn
cảm giác bất an khi bước vào phủ chúa:
+ “Tôi nín thở đứng chờ ở xa.”
+ “Tôi khúm núm đến trước sập xem mạch.”
- Mọi lễ nghi phép tắc phải tuân thủ ngặt nghèo, sai lệch sẽ nguy hại đến tính mạng.
- Người dân oán thán, bất bình nhưng không dám lên tiếng, không dám đấu tranh.
d. Nghệ thuật đặc sắc
- Tính chất kí trong bút pháp của Lê Hữu Trác thể hiện rõ ở cách ghi tỉ mỉ sự việc,
thời gian.
- Nhà văn kết hợp biện pháp kể khách quan với nghệ thuật gợi không khí nhằm làm
nổi bật hành động xảy ra tiếp theo. Ở đây “trong việc có người”, người gắn chặt với
cảnh, với môi trường hoạt động cụ thể.
- Câu văn của Lê Hữu Trác ngắn gọn, giàu thông tin, được viết ra một cách nhẹ
nhàng, tự nhiên, không một chi tiết thừa. Lời văn giản dị, chắc mà bay bổng, vừa
“truyền cảm” vừa truyền nhận thức. Người đọc có thể hình dung được rất rõ một cảnh
huống đặc biệt đang xảy ra.
- So sánh với bút pháp hiện thực trong đoạn trích “ Chuyện cũ trong phủ chúa” (Phạm
Đình Hổ); “Hoàng Lê nhất thống chí” (Ngô gia văn phái).

8
II. Kết bài
- Khẳng định lại giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm
- Khẳng định tài năng, nhân cách của Lê Hữu Trác
- Rút ra bài học về cách nhìn hiện thực, lịch sử, thái độ đấu tranh chống lại cái
xấu, cái ác của con người hiện tại.

BÀI 2 – TỰ TÌNH (Hồ Xuân Hương)

Đề 1. Nêu hiểu biết cơ bản về tác giả Hồ Xuân Hương và tác phẩm Tự tình (II).

HƯỚNG DẤN LÀM BÀI


1. Tác giả
- Hồ Xuân Hương (1772 – 1822) - Hồ Xuân Hương sống vào cuối thế kỉ XVIII – đầu
thế kỷ XIX , bà xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, cha làm nghề dạy học.
- Cuộc đời Hồ Xuân Hương lận đận, nhiều nỗi éo le ngang trái.
- Con người bà phóng túng, tài hoa, có cá tính mạnh mẽ, sắc sảo.
- Bà để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ, giàu giá trị trên cả mảng thơ chữ Nôm và chữ
Hán:
   + Tập “Lưu Hương kí” gồm 24 bài chữ Hán và 28 bài chữ Nôm, là tiếng nói tình
yêu đôi lứa với các cung bậc u buồn, thương nhớ, ước nguyện, gắn bó thủy chung
   + Khoảng 40 bài thơ Nôm truyền tụng.
- Phong cách sáng tác: Bà được đánh giá là hiện tượng rất độc đáo trong văn học
trung đại: nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ, trào phúng mà trữ tình, đậm đà chất văn
học dân gian từ đề tài, cảm hứng đến ngôn ngữ, hình tượng. “Thơ Hồ Xuân Hương là
tiếng nói tâm tình của người phụ nữ, thể hiện một bản lĩnh sống mạnh mẽ khác
thường.” (Lê Trí Viễn)
⇒ Hồ Xuân Hương được mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm, người có đóng góp lớn
trong nền văn học trung đại Việt Nam. “Hồ Xuân Hương là một trong những hiện
tượng văn học độc đáo nhất của Việt Nam trong toàn bộ nguồn thơ mà tôi được biết
trên nền thơ thế giới qua tất cả các thời đại.” (Thi sĩ Dimitrova người Bulgaria )

2. Tác phẩm
+ Bài thơ Tự tình (bài II) là một trong số ba bài thơ thuộc chùm thơ Tự tình đã cất lên
tiếng nói đồng cảm với số phận nhiều cay đắng đau khổ của người phụ nữ trong xã
hội phong kiến.
9
+ Bài thơ tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Hồ Xuân Hương.
3. Vị trí của nhà thơ
- “Thơ Hồ Xuân Hương là tiếng nói tâm tình của người phụ nữ, thể hiện một bản lĩnh
sông mạnh mẽ khác thường” – Lê Trí Viễn
- “Hồ Xuân Hương: Nhà thơ của phụ nữ”
- “Hồ Xuân Hương - bà chúa thơ Nôm”- Xuân Diệu
 

Đề 2. Cảm nhận số phận và vẻ đẹp người phụ nữ qua bài thơ Tự tình(II) của Hồ
Xuân Hương.

HƯỚNG DẤN LÀM BÀI


I. Mở bài
- Hồ Xuân Hương là một hiện tượng kì thú trong nền văn học trung đại Việt Nam –
người được Xuân Diệu suy tôn là “Bà chúa thơ Nôm”.
- Với phong cách sáng tác độc đáo, tài hoa, táo bạo, giọng thơ góc cạnh, gân guốc mà
vẫn trữ tình sâu sắc, bà đã đem luồng sinh khí mới cho văn học giai đoạn ấy. Ngòi bút
của nữ sĩ thường hướng về thân phận người phụ nữ. Bà luôn dũng cảm đề cao vẻ đẹp,
sự hi sinh và đức hạnh của người phụ nữ, đồng thời lên tiếng bênh vực cho họ và phê
phán lên án gay gắt chế độ xã hội cũ.
- Đặc biệt, thơ bà là tiếng lòng của một người phụ nữ bản lĩnh, giàu lòng trắc ẩn, luôn
ý thức được giá trị bản thân, luôn khao khát hạnh phúc tròn đầy.
- Trong số ấy, “Tự tình” II là bài thơ hay, bộc lộ số phận và vẻ đẹp tâm hồn của chính
tác giả và cũng là của người phụ nữ nói chung:
- Trích thơ.
II. Thân bài
1. Dẫn nhập
- “Tự tình” (II) là bài thơ nằm trong chùm thơ ba bài “Tự tình” của nhà thơ.
- Bài thơ được viết ra nhằm thể hiện tâm trạng của nhà thơ trước những kiếp nữ nhi bị
số phận đẩy vào chốn bi kịch.
- Viết về đề tài người phụ nữ, cụ thể hơn là viết về cuộc sống của chính mình, Bà
chúa thơ Nôm - Hồ Xuân Hương đã mang đến cho bạn đọc một góc nhìn chân thực
nhất về số phận người phụ nữ trong xã hội cũ và vẻ đẹp tâm hồn của họ qua bài thơ
thất ngôn bát cú thật cô đọng, hàm súc.
2. Phân tích bài thơ để làm nổi bật số phận và vẻ đẹp của người phụ nữ.
a. Số phận hẩm hiu, bẽ bàng của người phụ nữ lỡ duyên.
* Bài thơ mở ra bằng một hoàn cảnh tâm trạng khá đặc trưng:

10
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
- Câu thơ đầu tiên:
+ Thời gian: “đêm khuya” là khoảng thời gian tâm trạng, là thời khắc mà người phụ
nữ cô đơn sợ phải trải qua, sợ phải đối mặt nhất.
+ Dẫn chứng văn học: Thúy Kiều đối mặt với đêm dài vô tận trong sự ê chề nhục nhã
của kiếp gái lầu xanh: “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh – Giật mình mình lại thương mình
xót xa”
+ Không gian: trống trải, mênh mông, văng vẳng tiếng trống cầm canh. Không gian
gợi cảm giác ớn lạnh khi độc giả thấu hiểu tình cảnh lẻ loi, cô đơn của người phụ nữ.
Một mình giữa căn phòng vắng, bốn bề yên lặng. Chỉ nghe văn vẳng tiếng trống điểm
canh dồn dập, giục giã, hối thúc…
+ Nghệ thuật lấy động tả tĩnh: không gian tĩnh lặng mới có thể nghe thấy tiếng trống
canh dai giẳng, văng vẳng từ xa vọng lại, như chà xát vào lòng người phụ nữ cô đơn,
làm cồn lên bao nỗi niềm
+ Bình: Thân phận hẩm hiu của người phụ nữ hiện ra từ sự tĩnh lặng của đêm khuya.
Tiếng trống không gần (văng vẳng) mà vẫn nghe thấy cái nhịp vội vàng, gấp gáp, ấy là
vì tiếng trống gợi bước đi bào mòn tuổi thanh xuân, hủy hoại nhan sắc con người của
thời gian. Trong cái nhịp gấp gáp, liên hồi của tiếng trống canh ta như nghe thấy cả
bước đi dồn dập của thời gian và sự rối bời trong tâm trạng của nhân vật trữ tình.
- Câu thơ thứ hai bộc lộ tình cảnh ngang trái, hé lộ thân phận bất hạnh của nhân vật trữ
tình.
+ Phép đảo ngữ như cố tình khoét sâu thêm vào cái sự bẽ bàng của tâm trạng. “Trơ” là
tủi hổ, là chai lì, không còn cảm giác. Thêm vào đó, hai chữ “hồng nhan” (chỉ dung
nhan người thiếu nữ) lại đi với từ "cái" thật là rẻ rúng, mỉa mai. Cái “hồng nhan” trơ
với nước non đúng là không chỉ gợi sự dãi dầu mà đậm hơn có lẽ là ở sự cay đắng.
Câu thơ chỉ nói đến hồng nhan mà lại gợi ra cả sự bạc phận của chủ thể trữ tình. Nhịp
câu thơ 1/3/3 cũng như vậy, cứ chì chiết, càng khơi sâu vào sự bẽ bàng khôn tả.
+ Tuy nhiên câu thơ không hẳn chỉ có nỗi đau, mà nó còn thể hiện cả bản lĩnh của
nhân vật trữ tình. Bản lĩnh ấy thể hiện ở ngay trong chữ “trơ” như là một sự thách thức
vậy. Từ “trơ” kết hợp với “nước non” thể hiện sự bền gan, sự thách đố. Nó gợi cho ta
nghĩ đến một câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan trong bài Thăng Long thành hoài cổ
(“Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt”).
b. Thực tại ê chề, cay đắng
* Hai câu thực
- Nếu hai câu đề làm nhiệm vụ dẫn dắt người đọc vào hoàn cảnh tâm trạng thì hai câu
thực nói rõ hơn thực cảnh và thực tình của Hồ Xuân Hương:

11
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
       Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.” 
+ Hành động uống rượu: bộc lộ sự bế tắc, cô đơn. Nhân vật trữ tình tìm đến rượu để
gaiỉ khuây, giải sầu như người xưa vẫn làm: “ Rút dao chém nước nước càng chảy
mạnh – Nâng chén tiêu sầu, càng sầu thêm”
+ Nghịch cảnh trớ trêu “say lại tỉnh”: gợi lên cái vòng luẩn quẩn, tình duyên trở thành
một trò đùa của con tạo. Những tưởng men say sẽ khiến nhân vật trữ tình quên đi thực
tại ê chề, nhưng càng uống càng tỉnh, hiện thực càng rõ nét hơn, cảm xúc càng đằm
sâu hơn.
+ Nghệ thuật tiểu đối “say – tỉnh” khắc họa sự éo le, ngang trái trong tâm trạng con
người.
- HÌnh ảnh vầng trăng xuất hiện nhưng khuyết chưa tròn. Phải chăng, ngụ ý cho thân
phận cho hạnh phúc của chính tác giả. 
+ Vầng trăng, biểu tượng của vẻ đẹp, của sự dịu dàng, tròn trịa viên mãn ở người phụ
nữ (“Khuôn trăng đầy đặn, nét ngày nở nang” (Truyện Kiều – Nguyễn Du)
+ Nhưng vầng trăng xuất hiện trong câu thơ lại mang đặc điểm: “bóng xế” và “khuyết,
chưa tròn”: sự già nua, khuyết thiếu hoàn toàn khác với ý nghĩa biểu tượng của nó.
+ Ý nghĩa ẩn dụ: thân phận người phụ nữ với hai lần bi kịch: tuổi xuân đã trôi qua mà
nhân duyên không trọn vẹn.
c. Vẻ đẹp của một tâm hồn nhiều khao khát.
* Hai câu luận
- Hình tượng thiên nhiên độc đáo gợi nhiều suy ngẫm cho độc giả:
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.”
+ Những sinh vật bé nhỏ như đám rêu kia mà vẫn không chịu phận nhỏ bé, hèn mọn,
không chịu yếu mềm. Tất cả như đang muốn bứt thoát hẳn lên: rêu phải mọc "xiên
ngang mặt đất", đá đã rắn chắc lại phải rắn chắc hơn, lại phải nhọn hoắt để "đâm toạc
chân mây".
+ Nghệ thuật đảo ngữ càng làm nổi bật sự phẫn uất của đá, của rêu và cũng là sự phẫn
uất của tâm trạng con người.
+ Nghệ thuật đối giữa hai câu, tạo ý nghĩa trùng điệp về hình ảnh, sự nhất thể, đồng
loạt của những thứ vô tri đang đấu tranh để vượt lên số phận cuộc đời.
+ Kết hợp với việc sử dụng những động từ mạnh (xiên, đâm) với các bổ ngữ độc đáo
(ngang, toạc) thể hiện rất rõ sự bướng bỉnh và ngang ngạnh => Đá, rêu như đang oán
hờn, như đang phản kháng quyết liệt với tạo hoá.

12
=> Có thể nói, hai câu thơ ẩn chứa nỗi niềm trăn trở về kiếp phận mình, về một khát
khao mạnh mẽ, cháy bỏng muốn bứt tung mọi rào cản tù túng, ngột ngạt của xã hội để
tìm đến hạnh phúc cho chính mình.
d. Sự bết tắc, tuyệt vọng trước thế thái, nhân tình.
- Hai câu kết là tâm trạng chán chường, buồn tủi:
“Ngán nỗi xuân di xuân lại lại,
 Mảnh tình san sẻ tí con con.” 
+ "Ngán" là chán ngán, là ngán ngẩm. Xuân Hương ngán nỗi đời éo le, bạc bẽo bởi
xuân đi rồi xuân lại lại, tạo hoá đang chơi một vòng quay nhàm chán như chính
chuyện duyên tình của con người.
+ Từ xuân vừa chỉ mùa xuân, vừa được dùng với nghĩa chỉ tuổi xuân. Với thiên nhiên,
xuân đi rồi xuân lại nhưng với con người thì tuổi xuân đã qua không bao giờ trở lại. 
Hai từ "lại" trong cụm từ "xuân đi xuân lại lại" cũng mang hai nghĩa khác nhau. Từ
"lại" thứ nhất là thêm một lần nữa, trong khi đó, từ "lại" thứ hai nghĩa là trở lại. Mùa
xuân trở lại nhưng tuổi xuân lại qua đi, đó là cái gốc sâu xa của sự chán ngán.
+ Trong câu thơ cuối, nghệ thuật tăng tiến làm cho nghịch cảnh của nhân vật trữ tình
càng éo le hơn: mảnh tình - san sẻ - tí - con con. Mảnh tình - vốn đã ít, đã bé, đã không
trọn vẹn lại còn phải "san sẻ" thành ra gần như chẳng còn gì (tí con con) nên càng xót
xa, tội nghiệp => Câu thơ nói lên cả nỗi lòng của người phụ nữ trong xã hội xưa, khi
cảnh chồng chung vợ chạ đối với họ không phải là xa lạ.
3. Đánh giá chung
- Tác phẩm trình bày một cách nghệ thuật mối mâu thuẫn giữa khát vọng hạnh phúc
lứa đôi trọn vẹn của người phụ nữ trong cảnh lẽ mọn với hiện thực phũ phàng là sống
trong cô đơn, mòn mỏi mà họ phải chịu đựng, giữa mong ước chính đáng được sống
trong hạnh phúc vợ chồng với việc chấp nhận thân phận thiệt thòi do cuộc sống đem
lại.
- Bày tỏ sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với nỗi bất hạnh của người phụ nữ, phê
phán gay gắt chế độ đa thê trong xã hội phong kiến, đồng thời thể hiện rõ sự bất lực và
cam chịu của con người trước cuộc sống hiện tại.
- Bài thơ diễn tả một tình cảm đáng thương, một số phận đáng cảm thông, một khát
vọng đáng trân trọng, một tâm trạng đáng được chia sẻ của người phụ nữ trong xã hội
xưa. Những mơ ước hạnh phúc đó là hoàn toàn chính đáng nhưng không thể thực hiện
được trong điều kiện xã hội lúc bấy giờ Đó là bi kịch không thể giải toả. Tác phẩm đặt
ra một trăn trở : Yêu cầu giải phóng con người, giải phóng tình cảm chỉ có thể tìm
được lời giải đáp dựa trên cơ sở cũa những điều kiện lịch sử – xã hội mới mà thôi.

III. Kết luận

13
- Khẳng định giá trị nội dung: thể hiện sâu sắc số phận người phụ nữ và bộc lộ những
vẻ đẹp tâm hồn của họ.
- Khẳng định tài năng, vị thế của tác giả trong nền văn học Việt Nam
- Bộc lộ những suy tư, trăn trở của bản thân về kiệp người, những mong muốn, khát
vọng về một xã hội tốt đẹp hơn.

Bài tham khảo 


Đề : Cảm nhận bài thơ « Tự tình »(II) của Hồ Xuân Hương.
Hồ Xuân Hương là một hiện tượng kì thú trong nền văn học trung đại Việt Nam
– người được Xuân Diệu suy tôn là “Bà chúa thơ Nôm”. Với phong cách sáng tác độc
đáo, tài hoa, táo bạo, giọng thơ góc cạnh, gân guốc mà vẫn trữ tình sâu sắc, bà đã đem
luồng sinh khí mới cho văn học giai đoạn ấy. Ngòi bút của nữ sĩ thường hướng về thân
phận người phụ nữ. Bà luôn dũng cảm đề cao vẻ đẹp, sự hi sinh và đức hạnh của người
phụ nữ, đồng thời lên tiếng bên vực cho họ và phê phán lên án gay gắt chế độ xã hội
cũ. Đặc biệt, thơ bà là tiếng lòng của một người phụ nữ bản lĩnh, giàu lòng trắc ẩn,
luôn ý thức được giá trị bản thân, luôn khao khát hạnh phúc tròn đầy. Trong số ấy, “Tự
tình” II là bài thơ hay, chứa đựng nhiều cung bậc cảm xúc của chính tác giả và cũng là
của người phụ nữ nói chung.
Mở đầu bài thơ là lời tâm sự về tình cảnh éo le của người phụ nữ trong đêm
vắng:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
Đêm khuya, lẽ ra là khoảng thời gian nghỉ ngơi, con người chìm vào giấc ngủ say
nồng. Nhưng với những người nhiều tâm sự, thì đó lại là khoảng thời gian đáng sợ
nhất, bởi họ phải đối diện với chính mình, với những vấn đề khúc mắc trong cuộc sống
và dễ rơi vào trầm uất, bế tắc. (Liên hệ Thúy Kiều, Người Chinh phụ…). Ở bài thơ này
cũng vậy, Hồ Xuân Hương tỉnh dậy lúc canh khuya, hay thao thức suốt đêm khuya,
tâm trạng ngổn ngang phiền muộn. Âm thanh “văng vẳng” của tiếng trống từ một chòi
canh xa đưa lại như cố tình nhắc nhở nàng rằng thời gian đang trôi đi, lặng lẽ và vô
tình. Tiếng trống dồn như thúc giục lòng người, khiến tâm trạng nàng thêm rối bời:
thời gian thì cứ trôi kéo theo tuổi xuân của người phụ nữ.
“Hồng nhan” là sắc mặt hồng, chỉ người phụ nữ. “Trơ” nghĩa là lì ra, trơ ra, chai
đi, mất hết cảm giác. “Nước non”: chỉ cả thế giới tự nhiên và xã hội. Cả câu thơ : “Trơ
cái hồng nhan với nước non” nói lên một tâm trạng: con người đau buồn nhiều nỗi,
nay nét mặt thành ra trơ đi trước cảnh vật, trước cuộc đời, tựa như gỗ đá, mất hết cảm
giác. Nỗi đau buồn đã đến cực độ. Từ “cái” gắn liền với chữ “hồng nhan” làm cho
giọng thơ trĩu xuống, làm nổi bật cái thân phận, cái duyên phận, cái duyên số đã quá

14
hẩm hiu rồi. Ta có cảm giác tiếng trống dồn canh khuya, thời gian như cơn gió lướt
qua cuộc đời, lướt qua số phận và thân xác nhà thơ. Con người đang than thân trách
phận ấy đã có một thời son trẻ tự hào: “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”, có phẩm hạnh
với “tấm lòng son” trọn vẹn, có tài năng, thế mà nay đang trải qua những đêm dài cay
đắng. Tuy nhiên, đằng sau cái cay đắng, ngậm ngùi ấy, ta vẫn nhận thấy một Hồ Xuân
Hương gai góc và bản lĩnh. Điều đó thể hiện rất rõ nét qua cách sử dụng nghệ thuật
đảo ngữ: từ “trơ” được đặt lên đầu câu như một sự thách thức thời gian, thách thức số
phận, như một sự ấm ức không thỏa, không cam chịu của cái phận hồng nhan ấy. Tâm
sự của bà thật giống với nỗi lòng của một nữ thi sĩ cùng thời: “Đá vẫn trơ gan cùng tuế
nguyệt” (Bà Huyện Thanh Quan).
Vốn là một người phụ nữ không cam chịu và đầy bản lĩnh, bà cố vẫy vùng để thoát ra,
bươn ra cái nghịch cảnh trớ trêu ấy:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”.
Nghệ thuật đối rất thần tình: “Chén rượu” với “vầng trăng”, trên thì “hương
đưa”, dưới lại có “bóng xế”, đặc biệt 3 chữ “say lại tỉnh” với “khuyết chưa tròn” đăng
đối, hô ứng nhau làm nổi bật bi kịch về thân phận người đàn bà dang dở, cô đơn.
Muốn mượn chén rượu để khuây khỏa lòng mình, nhưng vừa nâng chén rượu lên môi
mùi hương phả vào mặt, đưa vào mũi. Tưởng uống rượu cho say để quên đi bao nỗi
buồn, nhưng càng uống càng tỉnh. “Say lại tỉnh” để rồi tỉnh lại say, cái vòng luẩn quẩn
ấy về duyên phận của nhiều phụ nữ, trong đó có Hồ Xuân Hương như một oan trái.
Buồn tủi cho thân phận, bao đêm dài thao thức đợi chờ, nhưng tuổi đời ngày
một “bóng xế”. Bao hi vọng đợi chờ. Đến bao giờ vầng trăng mới “tròn” ? Đến bao
giờ hạnh phúc đến trong tầm tay, được trọn vẹn, đầy đủ ? Sự chờ mong gắn liền với
nỗi niềm khao khát. Càng cô đơn càng chờ mong, càng chờ mong càng đau buồn, đó
là bi kịch của những người đàn bà quá lứa lỡ thì, tình duyên ngang trái, như Hồ Xuân
Hương.
Hai câu trong phần luận, tưởng như ý thơ bị lạc mất, không theo mạch cảm xúc của
nhân vật trữ tình. Bởi cảnh thật “lạ lùng”, lại được quan sát trong đêm tối. Thực chất,
đó là “tâm cảnh”, một cảnh thiên nhiên được tưởng tượng ra trong một tâm trạng chán
ngán, buồn tủi:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”.
Ý thơ cấu trúc tương phản làm nổi bật cái dữ dội, cái quyết liệt của sự phản kháng.
Từng đám rêu mềm yếu thế mà cũng “xiên ngang mặt đất” được ! Chỉ có lưa thưa “đá
mấy hòn” mà cũng có thể “đâm toạc chân mây” một cách kì lạ ! Hai câu thơ, trước hết
cho ta thấy một thiên nhiên tưởng chừng mềm yếu, vô tri mà tiềm ẩn một sức sống

15
đang bị nén xuống đã bắt đầu bật lên mạnh mẽ vô cùng. Thiên nhiên trong thơ Hồ
Xuân Hương không chỉ mang màu sắc, đường nét, hình khối mà còn có gương mặt, có
thái độ, có hành động, cũng “xiên ngang…”, cũng “đâm toạc”… mọi trở ngại, thế lực,
… để giành lấy sự sống, để vươn tới tự do. Phải chăng, đó chính là mơ ước, là khát
vọng được phá tung những rào cản bó buộc hạnh phúc của Hồ Xuân Hương để được
sống tự tin và yêu đời. Con người ấy đang trải qua nhiều bi kịch vẫn cố gắng gượng
với đời. Phản ứng mạnh mẽ, dữ dội nhưng thực tại vẫn chua xót. Đêm đã về khuya,
giữa cái thiên nhiên dào dạt, bốn bề mịt mùng bao la ấy, người đàn bà hẩm hiu càng
cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết. Chẳng thế mà trong bài “Tự tình I”, nữ sĩ đã buồn
tủi viết:
“Mõ thảm không khua mà cũng cốc,
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om ?”.
Cả nỗi đau trần thế như dồn tụ lại đáy lòng một người đàn bà cô đơn. Khao khát
được sống trong hạnh phúc, được làm vợ, làm mẹ như mọi người đàn bà khác. Nhưng
“hồng nhan bạc mệnh” rồi ! Đêm càng về khuya, người đàn bà không thể nào chợp
mắt được, trằn trọc buồn tủi thân phận đơn chiếc, thiếu thốn yêu thương, xuân đi rồi
xuân có trở về, mà tình yêu chỉ được “san sẻ tí con con”, phải cam chịu cảnh ngộ:
“Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con”.
Hết mùa xuân này đi qua, mùa xuân khác lại trở lại, “mỗi năm mỗi tuổi như đuổi xuân
đi”… Chữ “ngán” nói lên nỗi đau, nỗi buồn tủi của người đàn bà lỡ thì quá lứa, đang
trải qua sự mòn mỏi, đợi chờ. Tình duyên, tình yêu như bị tan vỡ, tan nát thành nhiều
“mảnh”, thế mà chua chát thay chỉ được “san sẻ tí con con”. Câu thơ là tiếng than thân
trách phận. Phải chăng đây là lần thứ hai Hồ Xuân Hương chịu cảnh làm lẽ ? Tình đã
vỡ ra thành “mảnh” lại còn bị “san sẻ”, đã “tí” lại “con con”. Mỗi chữ như rưng rưng
những giọt khóc. Câu thơ này, tâm trạng này được nữ sĩ nói rõ thêm trong bài “Lấy
chồng chung”:
“Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung,
Năm thì mười hoạ hay chăng chớ,
Một tháng đôi lần có cũng không !…”.
Tóm lại, “Tự tình” là lời tự than, tự thương xót, buồn tủi cho duyên số, duyên
phận hẩm hiu của mình. Càng thao thức cô đơn càng buồn tủi. Càng buồn tủi càng
khao khát sống, sống trong hạnh phúc trọn vẹn, đầy đủ. Thực tại nặng nề, cay đắng
như bủa vây, cái hồng nhan như “trơ” ra với nước non, với cuộc đời. Người đọc vô
cùng cảm thông với nỗi lòng khao khát sống, khao khát hạnh phúc của nữ sĩ và người

16
phụ nữ trong xã hội. Giá trị nhân bản là nội dung sâu sắc nhất của chùm thơ “Tự tình”
của Hồ Xuân Hương.

BÀI 3 – CÂU CÁ MÙA THU (Nguyễn Khuyến)

Đề 1. Nêu hiểu biết cơ bản về tác giả Nguyễn Khuyến và tác phẩm “Câu cá mùa
thu” (Thu điếu).

HƯỚNG DẤN LÀM BÀI


1. Tác giả
- Nguyễn Khuyến (1835-1909) lớn lên và sống chủ yếu ở quê nội - làng Và, xã Yên
Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
- Đỗ đạt cao, được gọi là cụ Tam nguyên Yên Đổ (Người làng Yên Đổ đỗ đầu ba kì
thi.)
- Thời đại: Nguyễn Khuyến ra làm quan giữa lúc nước mất nhà tan, cơ đồ nhà
Nguyễn như sụp đổ hoàn toàn nên giấc mơ trị quốc bình thiên hạ của ông không thực
hiện được. Sống giữa thời kỳ các phong trào đấu tranh yêu nước bị dập tắt, Nguyễn
Khuyến bất lực vì không làm được gì để thay đổi thời cuộc nên ông chỉ làm quan hơn
mười năm, còn phần lớn cuộc đời là dạy học và sống thanh bạch ở quê nhà.
- Con người: Nguyễn Khuyến là người tài năng, có cốt cách thanh cao, có tấm lòng
yêu nước thương dân, từng bày tỏ thái độ kiên quyết không hợp tác với chính quyền
thực dân Pháp.
- Sự nghiệp sáng tác: Sáng tác của Nguyễn Khuyến gồm cả chữ Hán và chữ Nôm với
số lượng lớn, hiện còn trên 800 bài gồm thơ, văn, câu đối nhưng chủ yếu là thơ.
+ Các tác phẩm gồm có Quế Sơn thi tập, Yên Đổ thi tập, Bách Liêu thi văn tập, Bạn
đến chơi nhà, Cẩm Ngữ, cùng nhiều bài ca, hát ả đào, văn tế, câu đối truyền miệng.
+ Quế sơn thi tập khoảng 200 bài thơ bằng chữ Hán và 100 bài thơ bằng chữ Nôm với
nhiều thể loại khác nhau. Có bài Nguyễn Khuyến viết bằng chữ Hán rồi dịch ra tiếng
Việt, ví dụ Bạn đến chơi nhà, hoặc ông viết bằng chữ Việt rồi dịch sang chữ Hán. Cả
hai loại đều khó để xác định vì chúng rất điêu luyện.
Tuy nhiên, đóng góp nổi bật của Nguyễn Khuyến cho nền văn học dân tộc là
mảng thơ Nôm, thơ viết về làng quê, thơ trào phúng nhuốm đậm tư tưởng Lão Trang
và triết lý Đông Phương.
- Phong cách sáng tác:

17
+ Nguyễn Khuyến là một người tài năng, yêu nước thương dân, bên cạnh đó ông cũng
là một nhà thơ nôm xuất sắc, nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Thơ của Nguyễn
Khuyến luôn giàu cảm xúc với thiên nhiên, với con người và với quê hương.
+ Ông ra làm quan giữa lúc nước mất nhà tan. Ông quyết định về quê ở ẩn. Ở thời bấy
giờ Nguyễn Khuyến không chỉ được coi là nhân cách tiêu biểu Việt Nam thời bấy giờ,
mà ông còn là một nhà thơ đau với nỗi đau của nhân dân, ông buồn cho cái sự nghèo
đói, ông đau đớn khi nhìn thấy cảnh nước mất nhà tan.
+ Nội dung thơ của ông nói lên tấm lòng yêu nước sâu đậm, thiết tha đồng thời thể
hiện rõ thái độ chống đối thực dân Pháp. Và bên cạnh đó, tình yêu với thiên nhiên, đất
nước, tình bạn, tình cảm gia đình cũng đều là chất liệu được ông đem vào thơ ca.
2. Tác phẩm
- Tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của ông có tác phẩm “Thu điếu” (Câu cá mùa thu)
nằm trong chùm ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến.
- Tác phẩm được ra đời khi ông về sống ẩn dật tại quê nhà.
- Bài thơ mang màu sắc mùa thu ở đồng bằng Bắc Bộ, qua những hình ảnh, câu từ thể
hiện tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước của tác giả.
- Thu điếu là một bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc, được viết bằng thể thơ thất ngôn bát
cú Đường luật, ngôn ngữ giàu tính biểu cảm.
3. Vị trí của nhà thơ
- Nguyễn Khuyến là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. – Xuân Diệu
- Cho đến khí vị thanh đạm…, đồng thời cũng chan chứa mối thông cảm của ông đối
với đời sống lao động của người nông dân. – Lê Trí Viễn
- Làng quê Việt Nam đã hiện lên trong thơ với những nét tươi sáng, thanh đạm, hồn
hậu. Mỗi màu sắc, đường nét, mỗi hình ảnh đều thể hiện tâm hồn của thi nhân. Một
nhà thơ yêu quê hương làng mạc đến say đắm và điều không kém phần quan trọng là
nhà thơ đủ bút lực và tài hoa để ghi lại quê hương làng cảnh Việt Nam dưới màu sắc
của mùa thu và vẻ đẹp của chính tâm hồn thi nhân. – Nguyễn Đức Quyền

Đề 2. Cảm nhận vẻ đẹp bức tranh mùa thu trong bài thơ “Câu cá mùa thu” (Thu
điếu) của Nguyễn Khuyến.

18
HƯỚNG DẤN LÀM BÀI
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả và tác phẩm:
+ Nguyễn Khuyến là nhà thơ Nôm nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam.
+ "Câu cá mùa thu" là bài thơ thu tiêu biểu trong chùm ba bài thơ thu được viết bằng
chữ Nôm của Nguyễn Khuyến.
- Khái quát bức tranh mùa thu trong bài thơ: hiện lên với vẻ đẹp cổ điển vốn có của
thi ca muôn đời với cái tĩnh lặng trong cảnh và tâm của người nghệ sĩ.
II. Thân bài
1. Dẫn nhập
- Hoàn cảnh sáng tác: Nhà thơ sáng tác bài thơ này khi về quê ở ẩn với những thú vui
tuổi già đó là đi câu cá. Cảnh tượng mùa thu diễn ra lặng lẽ êm đềm cộng hưởng với
đồng thời cho thấy tình yêu thiên nhiên, đất nước cùng tâm trạng đau xót của tác giả
trước thời thế.
2. Phân tích bức tranh mùa thu
a. Bức tranh mùa thu được khắc họa từ sự thay đổi điểm nhìn
- Bức tranh mùa thu được miêu tả theo điểm nhìn:
+ Từ gần đến cao xa: từ “thuyền câu bé tẻo teo” trong “ao thu” đến “tầng mây lơ
lửng”.
+ Từ cao xa trở lại gần: Từ “trời xanh ngắt” quay trở về với thuyền câu, ao thu.
+ Cảnh sắc được miêu tả từ hẹp đến rộng (trong lòng ao đến không gian bao la của
bầu trời)
=> Cách thay đổi điểm nhìn như vậy làm bức tranh mùa thu toàn diện: từ một khoảng
ao, cảnh sắc mùa thu mở ra sinh động theo nhiều hướng, tất cả đều toát lên cái hồn
thu, cảnh thu xiết bao thân thuộc của làng quê đồng bằng Bắc Bộ.
b. Bức tranh mùa thu trong bài là bức tranh mùa thu tiêu biểu nhất, đặc trưng
nhất cho “mùa thu của làng cảnh Việt Nam”
- Những nét đặc trưng nhất của mùa thu Bắc Bộ được phác họa trong bức tranh mùa
thu với hình ảnh, màu sắc và đường nét:
+ Hình ảnh quen thuộc của làng quê Bắc Bộ: chiếc ao nhỏ, chiếc thuyền câu, ngõ tre
ngõ trúc, chiếc lá vàng, bầu trời cao xanh…→ không gian gần gũi, mộc mạc, thanh
bình.
+ Màu sắc:
• Sắc nước “trong veo”: sự dịu nhẹ, thanh sơ của mùa thu
• Sóng biếc: sắc xanh dịu nhẹ và mát mẻ, phải chăng là sự phản chiếu màu trời thu
trong xanh.
• trời xanh ngắt: sắc xanh của mùa thu lại được tiếp tục sử dụng, nhưng không phải là
màu xanh dịu nhẹ, mát mẻ mà xanh thuần một màu trên diện rộng -> đặc trưng của
mùa thu.
Liên hệ với sắc xanh được nói đến trong một số bài thơ cùng chủ đề:
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt (Thu ẩm – Nguyễn Khuyến)
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao (Thu vịnh – Nguyễn Khuyến)

19
→ Cái thú vị nằm ở cái điệu xanh: xanh ao, xanh trúc, xanh trời, xanh bèo pha chung
với một chút vàng của lá thu rơi.Các sắc thái xanh khác nhau tăng dần về độ đậm:
xanh màu “trong veo” của ao, xanh biếc của sóng, “xanh ngắt” của trời khiến người
đọc cảm giác như sắc xanh xâm lấn và bao trùm dần bức tranh thiên nhiên làng quê
Bắc Bộ.

• Lá vàng trước gió: hình ảnh và màu sắc đặc trưng của mùa thu Việt Nam.
Liên hệ với sắc vàng được nói đến trong một số bài thơ cùng chủ đề:
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng rơi
(Tiếng thu - Lưu Trọng Lư)
Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Vớ áo mơ phai dệt lá vàng
(Đây mùa thu tới – Xuân Diệu)
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông.
(Tỳ bà – Bích Khê)

→ Màu sắc thanh nhã đặc trưng cho mùa thu không phải chỉ được cảm nhận riêng lẻ,
nhìn tổng thể, vẫn nhận thấy sự hòa hợp. tạo nên nét riêng của mùa thu dịu nhẹ, thanh
sơ, lắng đọng.
+ Đường nét, chuyển động:
• "hơi gợn tí" : chuyển động rất nhẹ -> Sự chăm chú quan sát của tác giả.
• “khẽ đưa vèo” : chuyển động rất nhẹ rất khẽ -> Sự cảm nhận sâu sắc và tinh tế.
• Tiếng cá “đớp động dưới chân bèo” -> “cái tĩnh tạo nên từ một cái động rất nhỏ”.
=> Nét đặc sắc rất riêng của mùa thu làng quê được gợi lên từ những hình ảnh bình
dị, đó chính là “cái hồn dân dã”, “đọc lên, như thấy trước mắt làng cảnh ao chuôm
nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, trong tiết thu; rất là đất nước mình, có thật, rất sống,
chứ không theo ước lệ như ở văn chương sách vở” (Xuân Diệu).
c. Bức tranh mùa thu được khắc họa đẹp nhưng tĩnh lặng và đượm buồn
- Không gian của bức tranh thu được mở rộng cả về chiều cao và chiều sâu nhưng
tĩnh vắng:
+ Hình ảnh làng quê được gợi lên với “ngõ trúc quanh co” : hình ảnh quen thuộc
+ Khách vắng teo: Gieo vần “eo” gợi sự thanh vắng, yên ả, tĩnh lặng, làng quê ngõ
xóm không có hoạt động nào của con người.
+ Chuyển động nhưng là chuyển động rất khẽ: sóng “hơi gợn tí”, mây “lơ lửng”, lá
“khẽ đưa” -> không đủ sức tạo nên âm thanh.
- Toàn bài thơ mang vẻ tĩnh lặng đến câu cuối mới xuất hiện tiếng động:
+ Tiếng cá “đớp động dưới chân bèo” → sự chăm chú quan sát của nhà thơ trong
không gian yên tĩnh của mùa thu, nghệ thuật “lấy động tả tĩnh”
=> Tiếng động rất khẽ, rất nhẹ trong không gian rộng lớn càng làm tăng vẻ tĩnh vắng,
“cái tĩnh tạo nên từ một cái động rất nhỏ”. Không gian của mùa thu làng cảnh Việt

20
Nam được mở rộng lên cao rồi lại hướng trực tiếp vào chiều sâu, không gian tĩnh lặng
và thanh vắng.
3 Đánh giá đặc sắc nghệ thuật miêu tả
- Bút pháp chấm phá lấy động tả tĩnh tài tình
- Ngôn ngữ giản dị, tinh tế, giàu sức gợi hình biểu cảm
- Cách sử dụng tử vận "eo" thần tình
- Sử dụng hình ảnh ước lệ tượng trưng
- Khai thác tối đa vỏ ngữ âm của ngôn ngữ
III. Kết bài
- Khẳng định lại vẻ đẹp bức tranh mùa thu trong bài thơ.
- Khẳng định vị trí của bài thơ trong thi đàn, tài năng và tâm sự của Nguyễn Khuyến
qua bài thơ.
- Bày tỏ thái độ, tình cảm của bản thân với bài thơ, sự ngưỡng mộ với tác gải.

Bài tham khảo


Thiên nhiên bố n mù a xuâ n, hạ , thu, đô ng từ bấy lâ u đã trở thà nh nguồ n cả m
hứ ng dà o dạ t cho cá c nhà thơ trung đạ i vớ i bú t phá p cổ điển và nhữ ng hình ả nh
ướ c lệ, tượ ng trưng. Trờ i và o thu vớ i mà u sắ c thê lương ả m đạ m, vớ i gió heo may
se sắ t lạ nh lù ng và nhữ ng chiếc lá và ng nhẹ rơi bỏ lạ i thâ n cây trơ trọ i, nã o nề.
Mù a thu có lẽ là m cho ngườ i ta bâ ng khuâ ng hoà i cả m nhiều nhấ t và là nguồ n cả m
hứ ng bấ t tậ n cho ngườ i nghệ sĩ. Quay ngượ c bá nh xe lịch sử ta sẽ bắ t gặ p nhữ ng
mù a thu tuyệt vờ i ngậ p trà n trong nhữ ng trang thơ củ a bao thế hệ. Nhưng đến
Nguyễn Khuyến mộ t trong nhữ ng đạ i diện lớ n nhấ t và cuố i cù ng củ a vă n họ c
trung đạ i ở giai đoạ n cuố i thế kỉ XIX. “Lầ n đầ u tiên nô ng thô n Việt Nam mớ i thự c
sự đi và o vă n họ c”, thiên nhiên trong hồ n thơ củ a cụ Tam Nguyên Yên Đổ mang
nhữ ng nét bình dị, giả n đơn ở chố n thô n quê. Đặ c biệt khi viết về đề tà i mù a thu,
tiêu biểu là bà i thơ “Câ u cá mù a thu” đã tá i hiện thà nh cô ng cả nh thu củ a là ng quê
Bắ c Bộ , đồ ng thờ i cũ ng thể hiện đượ c tình thu và tình cả m củ a thi sĩ ẩ n sau nhữ ng
vầ n thơ.

Trong vă n họ c Việt Nam, Nguyễn Khuyến là mộ t hiện tượ ng đặ c biệt. Ô ng vừ a là


nhà thơ trữ tình xuấ t sắ c, vừ a là nhà thơ trà o phú ng hà ng đầ u; vừ a là mộ t đạ i khoa
triều quan vừ a là mộ t thô n dâ n thự c thụ ; vừ a coi mọ i chuyện trên đờ i như khô ng
có gì đá ng bậ n tâ m lạ i vừ a mang trong lò ng mộ t mố i ưu hoà i nă m canh nhỏ lệ. Có
thể nó i, Nguyễn Khuyến là nhà thơ đầ u tiên và thà nh cô ng nhấ t về quê hương là ng
cả nh Việt Nam. Nguyễn Khuyến tên thậ t là Thắ ng, sinh ngà y 15-2-1835, quê là ng
Yên Đổ huyện Bình Lụ c, tỉnh Hà Nam. Ô ng từ ng đỗ đầ u kỳ thi hương ở Nam Định
nă m 1864 (Giả i nguyên). Nă m 1871 đỗ đầ u thi Hộ i (Hộ i nguyên) rồ i đỗ đầ u luô n
thi Đình (Đình nguyên) nên ngườ i ta gọ i là Tam nguyên Yên Đổ . Tuy đỗ đạ t cao

21
nhưng ô ng chỉ là m quan hơn 10 nă m. Cò n phầ n lớ n cuộ c đờ i mình là dạ y họ c và
số ng thanh bình ở quê nhà . Nguyễn Khuyến là ngườ i có tà i nă ng, có cố t cách thanh
cao, có tấ m lò ng yêu thương Nhâ n phẩ m phả i rõ ý kiến, kiên quyết khô ng hợ p tá c
vớ i chính quyền thự c dâ n phá p.

Sá ng tá c củ a Nguyễn Khuyến gồ m cả chữ Haá n và chữ Nô m vớ i số lượ ng lớ n.


Hiện cò n trên 800 bà i vầ n thơ, vă n câ u đố i nhưng chủ yếu là thơ. Thơ Nguyễn
Khuyến nó i lên tình yêu quê hương đấ t nướ c, gia đình, bạ n bè phả n á nh cuộ c số ng
củ a nhữ ng con ngườ i khổ cự c, thuầ n hậ u, chấ t phá c. Và châ m biếm đả kích thự c
dâ n xâ m lượ c và cá c tầ ng lớ p thố ng trị. Đồ ng thờ i đã bộ c lộ tấ m lò ng ưu á i đố i vớ i
dâ n, vớ i nướ c. Nguyễn Khuyến đã đó ng gó p. Nổ i bậ t cho nền vă n họ c dâ n tộ c là thơ
Nô m và viết về là ng quê và thơ trà o phú ng. Câ u cá mù a thu nằ m trong chù m thơ ba
bà i thu củ a Nguyễn Khuyến. Tá c giả xuâ n diệu đã từ ng khen ngợ i rằ ng “ Nguyễn
khuyến nổ i tiếng nhấ t trong vă n họ c Việt Nam là về thơ nô m. Mà trong thơ Nô m
củ a Nguyễn khuyến nứ c danh nhấ t là 3 bà i thơ về mù a thu đó là : Thu Điếu, Thu Ẩ m
và Thu Vịnh.

Mở đầ u bà i thơ, Nguyễn Khuyến gợ i ra khô ng gian, địa điểm rấ t đỗ i quen


thuộ c, yên bình củ a là ng quê Việt:

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”

“Ao thu” là hình ả nh quen thuộ c có ở bấ t cứ vù ng quê nà o, đặ c biệt là vù ng chiêm


trũ ng miền Bắc. Chỉ vớ i mộ t chi tiết nhỏ , khung cả nh tĩnh lặ ng, yên ả đã hiện lên
rõ nét trướ c mắ t ngườ i đọ c. Sử dụ ng tính từ lá y “lạnh lẽo” miêu tả “ao thu” cà ng
là m nổ i bậ t cá i yên ả , quạ nh hiu củ a khô ng gian. Bên cạ nh đó , thờ i gian cũ ng hiện
ra rõ rà ng. Cá i lạ nh lẽo ấ y chắ c chắ n khô ng cò n là và o chớ m thu là nh lạ nh, mà đã
và o cuố i thu, đầ u đô ng. Ao “trong veo”, vừ a thể hiện sự yên ả , vừ a lộ t tả cá i đượ m
buồ n củ a mù a thu miền Bắ c. Tá c giả đã sử dụ ng nghệ thuậ t nhâ n hó a “Ao thu lã nh
lẽo nướ c trong veo” là m cho ngườ i nghe, ngườ i đọ c cả m nhậ n rõ hơ về cá i khoả ng
mù a thu má t mẽ và bình lặ ng củ a khô ng gian. Chỉ vớ i mộ t câ u thơ, cả khô ng gian
lẫ n thờ i gian đã đượ c miêu tả hết sứ c rõ rà ng, và sinh độ ng cho thấ y sự tà i tình
củ a Nguyễn Khuyến.

Giữ a khô ng gian ấ y, Theo Xuâ n diệu cho biết vù ng đấ t đồ ng chiêm trũ ng Bình Lụ c,
Hà Nam có cơ man nà o là ao, nhiều ao cho nên ao nhỏ , ao nhỏ thì thuyền câ u cũ ng
theo đó mà “bé tẻo teo”.Mộ t con thuyền “bé tẻo teo” lạ i cà ng là m nổ i bậ t cá i lạ nh
lẽo củ a khô ng gian. Ao rộ ng, thuyền lạ i bé, hình ả nh con thuyền lạ i cà ng trở nên
22
nhỏ bé hơn, cô độ c và quạ nh quẽ. Cá ch gieo vầ n “eo” là m tă ng thêm gấ p bộ i nỗ i
buồ n củ a bà i thơ. Nguyễn Khuyến đã sử dụ ng độ c đá o, ngô n từ củ a tá c giả cá c là
cá c từ lá y vừ a tạ o hình, vừ a gợ i cả m, nhữ ng tính từ và cá c từ chỉ mứ c độ như lạ nh
lẽo, trong veo, bé tẻo teo, hơi gợ n tí, khẽ đưa vèo, lơ lử ng, xanh ngắ t, vắ ng teo,
quanh co việc lự a chọ n vầ n eo đã gợ i nên cả m nhậ n mỗ i lú c mộ t thu hẹp diện
tíchTừ “Eo” trong thơ củ a Nguyễn Khuyễn cũ ng giố ng như câ u thơ “Gà eo óc gái
sương năm trống/ Hòe phất phơ rũ bóng bốn phương” trong bà i “Tình cả nh lẽ loi
củ a ngườ i chinh phụ ” củ a Đặ ng Trầ n Cô n. Vầ n “eo” trong ngô n ngữ củ a ta thườ ng
là m cho khô ng gian, sự vậ t bị dồ n nén, co lạ i, kết tinh lạ i trong cá i khuô n khổ nhỏ
nhấ t củ a nó . Cá c từ ngữ : "lạ nh lẽo", "trong veo","bé tẻo teo" gợ i tả đườ ng nét,
dá ng hình, mà u sắ c củ a cả nh vậ t, sắ c nướ c mù a thu; â m vang lờ i thơ như tiếng
thu, hồ n thu vọ ng về..Hai câ u đề từ đã đủ giú p ngườ i đọ c cả m nhậ n đượ c hoà n
cả nh, tâ m thế củ a thi sĩ khi đặ t bú t viết ra nhữ ng vầ n thơ ấ y.

Nếu như hai câ u thơ đầ u, nhà thơ giớ i thiệu cả nh sắ c buổ i câ u cá mù a thu
thậ t tĩnh lặ ng, thì ở nhữ ng câ u thơ tiếp theo, cả nh sắ c mù a thu lầ n lượ t hiện lên
số ng độ ng hơn:

“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”

Câ u thơ bắ t đầ u xuấ t hiện sự chuyển độ ng củ a vạ n vậ t mù a thu, dù sự lay độ ng ấ y
chỉ nhẹ nhà ng, khe khẽ. Ngườ i thi sĩ vẽ lên nhữ ng hình ả nh “só ng biếc” chỉ “hơi
gợ n tí” cò n “lá và ng” cũ ng chỉ “khẽ đưa vèo”. Hai từ “hơi” và “khẽ” thể hiện sự
chuyển độ ng rấ t nhẹ nhà ng trong cả nh sắ c mù a thu. Cả nh vậ t chuyển độ ng chẳ ng
phả i à o ạ t củ a lá mù a thu như trong thơ Đỗ Phủ mà nó thậ t khẽ khà ng, nhẹ nhà ng
só ng chỉ hơi gợ n tí, lá chỉ khẽ đưa vèo. Cá c tính từ , trạ ng từ “biếc”, “tí”, “và ng”,
“khẽ” đượ c sử dụ ng thậ t tà i tình, kết hợ p vớ i nhau tạ o nên mà u sắ c, hình ả nh là m
cho cả nh thu trở nên số ng độ ng có hồ n. Chữ “vèo”khiến cho Tả n Đà khâ m phụ c,
tâ m đắ c vô cù ng. Ô ng thổ lộ mộ t đờ i thơ, ô ng mớ i có đượ c mộ t câ u thơ vừ a ý “Vèo
trô ng lá rụ ng đầy sâ n”.Hẳ n là thi nhâ n Nguyễn Khuyến phả i tinh tế lắ m mớ i nhậ n
ra sự khe khẽ đó củ a thiên nhiên. Hình ả nh “só ng biếc” gợ i cho ngườ i đọ c mộ t
mà u xanh biếc trên mặ t ao trong, mộ t mà u xanh rấ t đẹp mắ t và có sắ c thá i biểu
cả m. Bứ c tranh thu có thêm chiều cao củ a bầ u trờ i “xanh ngắ t” vớ i “nhữ ng tầ ng
mâ y lơ lử ng” trô i theo chiều giớ nhẹ. Trong chù m thơ thu, Nguyễn Khuyến nhậ n
diện sắ c trờ i thu là “xanh ngắ t”:

23
“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao” (Thu vịnh)
“Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” (Thu ẩm)
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” (Thu điếu)

Khô ng chỉ có só ng biếc mà “lá và ng” cũ ng đượ c đưa và o thơ Nguyễn Khuyến mộ t
cá ch tinh tế. Nó i đến mù a thu là nó i đến lá và ng, đó là hình ả nh mang tính ướ c lệ
củ a thi ca cổ mang tính ướ c lệ tượ ng trưng Nguyễn Khuyến cũ ng khô ng ra ngoà i
nhữ ng thô ng lệ đó . Nhữ ng hình ả nh lá và ng trong bà i thơ gắ n vớ i ao chuô m lạ i
mang dá ng dấ p riêng củ a Nguyễn Khuyến khi miêu tả về mù a thu. Mộ t chiếc lá
và ng rơi cà nh bở i là n gió rấ t nhẹ củ a mù a thu, xoay xoay rồ i liệng nhẹ xuố ng mặ t
nướ c. Đó là mộ t chi tiết rấ t thự c, rấ t số ng củ a cả nh mù a thu ở là ng quê Việt Nam
qua tà i nă ng quan sá t, qua tâ m hồ n nhạ y cả m củ a nhà thơ là m tă ng thêm chấ t
số ng cho cả nh vậ t mù a thu nơi đây.  Nguyễn Khuyến phả i là mộ t con ngườ i có
mộ t tâ m hồ n tinh tế, nhạ y cả m mớ i có thể cả m nhậ n đượ c sự chuyển độ ng mà
như tĩnh tạ i. Nghệ thuậ t lấ y độ ng tả tĩnh đã đượ c sử dụ ng thà nh cô ng đem lạ i hiệu
quả cao.Ngườ i ta thườ ng nó i mù a thu là mù a thay lá , mù a lá và ng và rụ ng xuố ng.
Bở i thế mà lá và ng đã từ ng bướ c và o rấ t nhiều trang thơ thu. Trong thơ về mù a
thu, Lưu Trọ ng Lư có viết:

“Con nai vàng ngơ ngác

Đạp trên lá vàng khô”

Cho thấ y sự đồ ng điệu củ a cá c thi sĩ khi viết về mù a thu. Hoặ c cũ ng có thể, nhữ ng
vầ n thơ củ a Nguyễn Khuyến có ả nh hưở ng nhấ t định khô ng chỉ đến ngườ i đọ c mà
cả nhữ ng thi sĩ thờ i đạ i mớ i.

Hai câ u luậ n mở rộ ng khô ng gian miêu tả . Bứ c tranh thu có thêm chiều cao
củ a bầ u trờ i "xanh ngắ t" vớ i nhữ ng tầ ng mâ y "lơ lử ng" trô i theo chiều gió nhẹ:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
Đến đâ y, khô ng gian đượ c mở rộ ng ra, vượ t ra bên ngoà i gó c sâ n, mả nh vườ n.
Trướ c tiên, Nguyễn Khuyến nâ ng tầ m mắ t lên phía trên, ngắ m nhìn bầ u trờ i “xanh
ngắt”. Phả i là bầ u trờ i cao, trong, tươi sá ng thì mớ i có mộ t mà u xanh đẹp đến thế.
Khá c vớ i mà u “xanh biếc” củ a ao trong, đến đây, mà u xanh trở nên ngú t ngà n và
rộ ng lớ n hơn rấ t nhiều. Trên bầ u trờ i ấ y là nhữ ng tầ ng mâ y đang “lơ lửng” trô i,
thong thả và yên bình. Sử dụ ng độ ng từ lá y, nhữ ng đá m mâ y như đang lườ i biếng,
dù ng dằ ng, nử a muố n trô i đi, nử a muố n ở lạ i. Phả i chă ng, chú ng cũ ng đang nuố i

24
tiếc vẻ đẹp củ a mù a thu mà chưa muố n rờ i? Trướ c đây Nguyễn Du đã từ ng viết về
mù a thu vớ i:
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng
Khô ng gian cà ng trở nên yên bình, vắ ng vẻ hơn vớ i hình ả nh ngõ trú c “quanh co”,
“vắng teo” khô ng mộ t bó ng ngườ i. Thô ng thườ ng câ u cá sẽ có mộ t nhó m ngườ i
cù ng chung sở thích tụ lạ i, vừ a câ u, vừ a đố i thơ, bà n luậ n cuộ c đờ i. Nhưng ở đâ y,
“khách vắng teo” lạ i cho thấ y sự cô quạ nh củ a mộ t tâ m hồ n, chỉ có thi sĩ vớ i khô ng
gian. Đẹp, nhưng vô cù ng cô đơn. Sau nà y Xuâ n Diệu trong bà i Đâ y mù a thu tớ i
cũ ng đã bắ t đượ c nhữ ng nét điển hình đó củ a sô ng nướ c ở vù ng quê, khi trờ i đã
bắ t đầ u bướ c và o nhữ ng ngà y giá lạ nh:
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò
Cành biếc run run chân ý nhi (Thu)
Nếu như sá u câ u thơ đầ u là sự miêu tả về cả nh vậ t, về mâ y trờ i non nướ c
mù a thu thì đến hai câ u kết ta mớ i thấ y sự xuấ t hiện củ a con ngườ i. Cá i ý vị nhấ t
củ a bài “Thu điếu” nằ m ở hai câ u cuố i:
“Tự a gố i buô ng cầ n lâ u chẳ ng đượ c
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Hình ả nh cụ Tam Nguyên Yên Đổ xuấ t hiện vớ i tư thế ngồ i bó gố i buô ng cầ n thả
câ u tạ o nên mộ t đườ ng nét bấ t độ ng trên bứ c tranh thu tĩnh lặ ng. Nhà thơ ngồ i
câ u cá mà tâ m thế như đặ t ở nơi nà o khô ng chú tâ m đến việc câ u để rồ i giậ t mình
trướ c tiếng cá “đớ p độ ng dướ i châ n bèo”. Mộ t lầ n nữ a nghệ thuậ t lấ y độ ng tả tĩnh
đượ c sử dụ ng thà nh cô ng. Tiếng cá đớ p tạ o nên chuyển độ ng nhỏ cũ ng khiến cho
nhà thơ giậ t mình tỉnh giấ c tự a chiêm bao nó gợ i lên sự tĩnh lặ ng, tĩnh mịch đến
vô cù ng. Cá ch hỏ i “cá đâ u” thậ t đặ c sắ c tạ o nên sự mơ hồ trong khô ng gian và sự
ngỡ ngà ng trong lò ng củ a ngườ i điếu ngư. Hình ả nh ấ y khiến cho ta liên tưở ng
đến cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm ung dung ngồ i uố ng rượ u dướ i gố c câ y:
“Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”

25
Thự c ra, câ u cá chỉ là cá i cớ để Nguyễn Khuyến miêu tả bứ c tranh thu, qua
đó nhà thơ bộ c lộ tâ m hồ n và tâ m trạ ng củ a mình. Hình ả nh ngườ i đi câ u cá có thể
khiến ta liên tưở ng tớ i con ngườ i thi sĩ, nho sĩ trướ c tình hình đấ t nướ c lú c bấ y
giờ . Theo kinh nghiệm củ a dâ n gian nướ c trong thì khô ng có cá nhưng tiếng cá
đớ p độ ng châ n bèo đã tiếp thêm độ ng lự c cho ngườ i điếu ngư khô ng nả n chí mà
tiếp tụ c cô ng việc củ a mình. Cũ ng giố ng như vậ y chính trị nướ c ta bấ y giờ rố i ren,
thự c dâ n Phá p xâ m lượ c, triều đình nhà Nguyễn chố ng cự yếu ớ t mà nhanh chó ng
thỏ a hiệp để hồ n nướ c rơi và o tay giặ c. Nhà thơ vì muố n bả o toà n khí tiết nên lự a
chọ n con đườ ng về ở ẩ n noi gương tiền nhâ n Nguyễn Trã i, Nguyễn Bỉnh Khiêm
hay cụ Đà o Tiềm Đà o Uyên Minh bên Trung Quố c mộ t đờ i quyết giữ để mình
thanh sạ ch. Tuy nhiên, â m thanh cá đớ p độ ng như đá nh thứ c nhà Nho, nhà chí sĩ
yêu nướ c như thứ c tỉnh thô i thú c ô ng đứ ng lên đấ u tranh bả o vệ nền độ c lậ p dâ n
tộ c. Nhưng â m thanh ấ y thậ t mơ hồ cũ ng như tră n trở trong lò ng nhà thơ liệu
rằ ng mình có thể gó p sứ c giú p đờ i hay là bấ t hợ p tá c vớ i giặ c lá nh mình ẩ n cư. Về
nộ i dung Nguyễn Khuyến đã xâ y dự ng mộ t vẻ đẹp bình dị, quen thuộ c củ a cả nh
thu điển hình cho cả nh sắ c mù a thu củ a thiên nhiên vù ng đồ ng bằ ng Bắc Bộ .
Nhữ ng hình ả nh nhỏ bé, gầ n gũ i vớ i cuộ c số ng ở là ng quê trong thơ Nguyễn
Khuyến trở nên thậ t số ng độ ng trong khung cả nh cao rộ ng, trong veo củ a bầ u
trờ i. Thiên nhiên đầ y sứ c số ng vớ i cuộ c số ng thanh bình, yên ả - Đó cũ ng là khá t
khao muô n đờ i củ a nhữ ng ngườ i trí giả yêu nướ c dương thờ i. Đồ ng thờ i, bà i thơ
cũ ng có thấ y tình yêu thiên nhiên, đấ t nướ c và tâ m trạ ng thờ i thế củ a Nguyễn
Khuyến: Ô ng bỏ lạ i phía sau lưng lố i số ng mưu cầ u danh lợ i để trở về quê "buô ng
cầ n bó gố i" ngồ i câ u cá giữ a thiên nhiên đấ t trờ i. Lố i số ng thanh nhà n, ẩ n dậ t ấ y
cũ ng là lố i số ng mà nhiều bậ c trí giả đương thờ i lự a chọ n để giữ mình thanh cao
giữ a dò ng đờ i xô bồ , đen tố i.
Về nghệ thuậ t bà i thơ thấ t ngô n bá t cú vớ i cá ch gieo vầ n độ c đá o vầ n "eo" đi
và o thơ củ a Nguyễn Khuyến rấ t tự nhiên, thoả i má i chứ khô ng hề bị gò bó , ép
buộ c hay khiên cưỡ ng để lạ i ấ n tượ ng khó quên cho ngườ i đọ c. Nghệ thuậ t tả
cả nh ngụ tình đặ c trưng củ a vă n họ c trung đạ i: chỉ bằ ng và i nét vẽ tinh tế, mù a thu
củ a thiên nhiên đấ t trờ i vù ng Bắ c Bộ đã hiện lên thậ t đẹp. Đó cũ ng là cá ch để
Nguyễn Khuyến thể hiện tình yêu củ a mình vớ i quê hương, đấ t nướ c.

Đấ t nướ c Việt Nam tươi đẹp vớ i mỗ i tên đấ t tên là ng đều gắ n liền vớ i mộ t chiến
cô ng oanh liệt chố ng giặ c ngoạ i xâ m. Đó cũ ng là nhữ ng cả nh vậ t nên thơ cho
nguồ n cả m hứ ng củ a các thi nhâ n. Đề tà i quê hương đấ t nướ c luô n là niềm say mê
củ a các thi nhâ n từ xưa đến nay. Có thể nó i hiếm có nhà thơ nà o lạ i khô ng có mộ t
26
sá ng tá c về thiên nhiên đấ t hướ c. Trong cả mộ t đề tà i rộ ng lớ n đó , vă n họ c Việt
Nam phả i kể đến hai gương mặ t nổ i bậ t. Đó là hai nhà thơ Nguyễn Trã i và Nguyễn
Khuyến. Tuy số ng ở hai giai đoạ n lịch sử khá c nhau nhưng hai nhà thơ Nguyễn
Trã i và Nguyễn Khuyến đều gặ p nhau ở mộ t điểm chung. Cả hai đều là nhữ ng ô ng
quan thanh liêm trong sạ ch đứ ng trướ c cuộ c đờ i đen bạ c, họ quay về bầ u bạ n vớ i
thiên nhiên, vui thú điền viên, lâ m tuyền. Có thể nó i phầ n lớ n cá c sá ng tá c củ a hai
nhà thơ đều tậ p trung và o mộ t đề tà i, đó là hình ả nh quê hương, đấ t nướ c. Nhữ ng
trang thơ viết về cả nh là ng quê củ a hai ngườ i thậ t sinh độ ng, vừ a gầ n gũ i bình dị
cũ ng vừ a thơ mộ ng, đẹp đẽ. Hình ả nh quê hương trong thơ vă n Nguyễn Trã i hiện
lên vớ i mộ t thả m cỏ trả i dà i suố t triền đê vớ i mà n mưa xuâ n giă ng dà y mọ i lố i;
vớ i con đườ ng đồ ng mềm mạ i vắ t qua đồ ng lú a vắ ng teo khô ng mộ t bó ng ngườ i
qua lạ i; vớ i mộ t con đò gố i đầ u trên bã i cá t ngủ triền miên.

Bó ng Nguyễn Khuyến cứ lồ ng lộ ng trong mọ i mù a thu buồ n Việt Nam ở cá i


thuở nhâ n dâ n chưa đượ c là m chủ đấ t nướ c củ a mình, chưa đượ c là m chủ vậ n
mệnh củ a chính mình. Ô ng ngồ i đó có u buồ n nhưng thậ t điềm tĩnh bở i ô ng hiểu
và tin ở đấ t nướ c nà y, nhâ n dâ n nà y. Ô ng là phầ n yên tĩnh củ a đấ t nướ c đang
trong cơn xá o độ ng, vậ t vã quyết liệt. Cõ i lò ng yên tĩnh đến thế, tâ m hồ n cao cả
sá ng trong đến thế Nguyễn Khuyến mớ i có thể chố i bỏ chứ c quan trô ng coi việc
Sử trong cung đình nhà Nguyễn để trở về vớ i Thu điếu, vớ i Khổ nhiệt, vớ i Hung
niên. . . , trở về vớ i cuộ c số ng gian nan vấ t vả củ a ngườ i dâ n thườ ng để giữ cho
mình vẫ n cò n là con ngườ i Việt Nam châ n chính, đượ c yêu đấ t nướ c củ a mình,
đượ c yêu nhâ n dâ n củ a mình và đượ c số ng giữ a tình yêu củ a nhâ n dâ n.

(St)

Đề 3. Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Khuyến thể hiện qua bài thơ “Câu cá mùa
thu” (Thu điếu)

HƯỚNG DẤN LÀM BÀI


I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả
+ Nguyễn Khuyến là một người tài năng, yêu nước thương dân, bên cạnh đó ông cũng
là một nhà thơ nôm xuất sắc, nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Thơ của Nguyễn
Khuyến luôn giàu cảm xúc với thiên nhiên, với con người và với quê hương.
+ Ông ra làm quan giữa lúc nước mất nhà tan. Ông quyết định về quê ở ẩn. Ở thời bấy
giờ Nguyễn Khuyến không chỉ được coi là nhân cách tiêu biểu Việt Nam thời bấy giờ,

27
mà ông còn là một nhà thơ đau với nỗi đau của nhân dân, ông buồn cho cái sự nghèo
đói, ông đau đớn khi nhìn thấy cảnh nước mất nhà tan.
+ Nội dung thơ của ông nói lên tấm lòng yêu nước sâu đậm, thiết tha đồng thời thể
hiện rõ thái độ chống đối thực dân Pháp. Và bên cạnh đó, tình yêu với thiên nhiên, đất
nước, tình bạn, tình cảm gia đình cũng đều là chất liệu được ông đem vào thơ ca.
- Giới thiệu tác phẩm
+ Chùm thơ thu ba bài Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm được coi là "nức danh nhất" trong
các sáng tác của ông.
+ Câu cá mùa thu (Thu điếu) là bài thơ hay nhất.
- Giới thiệu vấn đề cần bàn luận: bài thơ thể hiện vẻ đẹp của tình yêu thiên nhiên, yêu
quê hương đất nước và luôn nặng lòng vì nước của nhà thơ.
- Trích dẫn bài thơ: (…)
II.Thân bài
1. Dẫn nhập
- Hoàn cảnh sáng tác: sáng tác khi tác giả đã từ bỏ chón quan trường sau 10 năm làm
quan và lui về ở ẩn tại làng Yên Đổ - Bình Lục – Hà Nam.
- Bài thơ là thể hiện những rung động tinh tế của một tâm hồn nhạy cảm, yêu thiên
nhiên trước cảnh thu ở làng quê, đồng thời bộc lộ kín đáo những suy tư, trăn trở về
nhân tình thế thái, về vận nước suy thịnh của nhà thơ.
2. Phân tích vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Khuyến
a. Tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, có tình yêu tha thiết với thiên nhiên, với quê hương
xứ sở.
- Mặc dù trong lòng trĩu nặng tâm tư, nỗi niềm về thời thế, nhưng con người ấy vẫn
mở rộng tâm hồn và các giác quan để đón nhận, đắm chìm, say mê với vẻ đẹp mùa thu
của quê hương xứ sở. Chỉ ở một người rất yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước, có sự
tinh tế, nhạy cảm thì mới có thể vẽ nên bức bích họa về mùa thu bằng ngôn từ nghệ
thuật đẹp đến vậy; mới có thể nắm bắt và khắc họa được cái hồn cốt mùa thu, đặc
trưng cho dân tộc, cho mùa thu đồng bằng Bắc Bộ - quê hương của cụ Tam Nguyên
Yên Đổ. Thiên nhiên trong sự quan sát và cảm nhận tinh tế của thi nhân đã đã hiện ra
thật đẹp với đặc điểm: trong, xanh, tĩnh lặng, nên thơ, gần gũi, quen thuộc, đặc trưng
cho làng cảnh Việt Nam.
+ Mở đầu bài thơ, bằng tình yêu tha thiết đối với thiên nhiên, với vùng quê nghèo của
mình, nhân vật trữ tình đã dẫn ta đến không gian "ao thu", cùng "chiếc thuyền câu" -
những hình ảnh đặc trưng cho mùa thu ở đồng bằng chiêm trũng Bắc Bộ, cho làng
cảnh Việt Nam. Lấy chiếc ao thu, chiếc thuyền câu để khơi nguồn cảm hứng chứng tỏ
điệu tâm hồn của thi nhân: gắn bó, yêu thương quê hương, đất nước. Không còn hình

28
ảnh ước lệ nữa, mà mùa thu trong tình yêu của Nguyễn Khuyến hiện lên với những
hình ảnh chân thực, sinh động, mang hồn cốt của quê hương.
+ Thiên nhiên được cảm nhận thật tinh tế qua điểm nhìn linh hoạt và sự căng mở các
giác quan: thị giác say ngắm bức tranh thu với hình ảnh quen thuộc “ao thu, thuyền
câu, ngõ trúc, và tất nhiên không thể thiếu không gian mênh mông, cao vợi của bầu
trời thu. Và sắc thu cũng xanh đến nao lòng: xanh trời, xanh sóng điểm xuyết chiếc lá
thu vàng mỏng manh lạc giữa thinh không. Bức tranh cũng được tạo bởi những đường
nét mềm mại, thanh sơ của những “ngõ trúc quanh co” ; Thính giác đón nhận những
thanh âm thật nhẹ, thật êm từ làn sóng “gợn tí”, từ chiếc lá “đưa vèo”, đến âm thanh
của tiếng “cá đớp động”… Thủ pháp nghệ thuật lấy động tả tĩnh, trong tĩnh có động,
động đó mà vẫn nương một tâm hồn trầm lặng suy tư.
- Thơ viết về thiên nhiên còn phản ánh tình yêu quê hương, đất nước vì đó là thiên
nhiên của quê hương mình, tổ quốc mình: Là người gắn bó sâu sắc và thiết tha với quê
hương, Nguyễn Khuyến đã cảm nhận vẻ đẹp riêng của cảnh sắc quê hương, đồng thời
thể hiện vẻ đẹp ấy bằng nét bút vừa chân thực, vừa tinh tế. Bức tranh Câu cá mùa thu
mang được cái hồn dân tộc, vượt khỏi những công thức, ước lệ không chỉ bởi tài thơ
mà còn bởi tình yêu thiên nhiên đất nước của tác giả.
b. Tâm trạng thời thế của một tâm hồn thanh cao
- Người đi câu hờ hững với việc câu cá bởi đang nặng lòng trước thế sự. Tâm trạng u
hoài bộc lộ qua bức tranh thiên nhiên tĩnh lặng, vắng người, vắng tiếng. Nỗi u hoài từ
tâm cảnh lan tỏa ra ngoại cảnh phủ lên cảnh vật vẻ thanh sơ đến hiu hắt. Không gian
tĩnh lặng đem đến cảm nhận về nỗi cô quạnh, uẩn khúc trong tâm hồn thi nhân.Tìm
đến thú vui câu cá để nhàn thân nhưng tâm không nhàn, không câu cá mà “câu thanh,
câu vắng” bởi nặng lòng trước thời thế và vận mệnh đất nước.
- Hình ảnh cụ Tam Nguyên Yên Đổ xuất hiện với tư thế ngồi bó gối buông cần thả câu
tạo nên một đường nét bất động trên bức tranh thu tĩnh lặng. Nhà thơ ngồi câu cá mà
tâm thế như đặt ở nơi nào không chú tâm đến việc câu để rồi giật mình trước tiếng cá
“đớp động dưới chân bèo”. Một lần nữa nghệ thuật lấy động tả tĩnh được sử dụng
thành công. Tiếng cá đớp tạo nên chuyển động nhỏ cũng khiến cho nhà thơ giật mình
tỉnh giấc tựa chiêm bao nó gợi lên sự tĩnh lặng, tĩnh mịch đến vô cùng. Cách hỏi “cá
đâu” thật đặc sắc tạo nên sự mơ hồ trong không gian và sự ngỡ ngàng trong lòng của
người điếu ngư. Hình ảnh nhắc nhớ tiền nhân Lã Vọng ngồi câu cá đợi thời trong sử
sách Trung Quốc xưa.
- Đó là tâm thế xuất xử hành tàng của bậc nho gia có học vấn uyên thâm và nặng lòng
với đất nước. Cảm giác bất mãn với thời cuộc, bất lực với khả năng cứu nhân đội thế ,
con người ấy chọn lối sống ẩn dật, lánh đục về trong, giữ lấy cốt cách thanh cao trong
sạch “thanh bần, lạc đạo.

29
=> Qua tâm trạng thời thế của ông ta thấy một tấm lòng yêu nước thầm kín nhưng
không kém phần sâu sắc.
3. Đánh giá.
- Tình yêu thiên được thăng hoa bởi chính cảnh sắc tuyệt đẹp ở làng quê tác giả sinh
sống, và cũng bởi tâm hồn tinh tế nhạy cảm trước những chuyển biến khó nhận biết
của tự nhiên.
- Nỗi lòng tâm sự của nhà thơ nhất quán và đầy trăn trở trong cả chùm thơ. Đó đều là
nỗi buồn nhớ một đất nước xưa, nỗi đau đớn, bế tắc, lạc lõng của một con người giữa
thời buổi đảo điên. Ở bài “Thu vịnh”, nhà thơ bộc lộ tâm trạng thẫn thờ, buồn bã đến
mất hết cảm thức về thời gian, không gian: hoa cúc nở năm nay mà ngỡ hoa năm cũ,
nghe tiếng ngỗng kêu mà không biết ngỗng phương nào:
“Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào”
Nhà thơ buồn đến rơi lệ trong bài “Thu ẩm” “ Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe”.
III. Kết bài
- Khẳng định vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ Nguyễn Khuyến.
- Bày tỏ sự ngưỡng mộ và khẳng định những giá trị tinh thần Nguyễn Khuyến để lại.

Bài tham khảo.

Nhắc đến Nguyễn Khuyến là nhắc đến một nhân cách cao đẹp, con người vừa
có học vấn uyên thâm vừa yêu nước thương dân, bên cạnh đó ông cũng là một nhà thơ
Nôm xuất sắc, “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”. Thơ của Nguyễn Khuyến luôn giàu
cảm xúc với thiên nhiên, với con người và với quê hương. Nhưng từ sâu thẳm ý thơ,
độc giả luôn cảm nhận được nỗi đau thế thái nhân tình, ẩn chứa tấm lòng yêu nước sâu
đậm, thiết tha đồng thời thể hiện rõ thái độ chống đối thực dân Pháp. Trong sự nghiệp
văn chương của ông, chùm thơ thu ba bài “Thu vịnh”, “Thu điếu”, “Thu ẩm” được coi
là "nức danh nhất" . Trong đó “Thu điếu” (Câu cá mùa thu) là bài thơ hay nhất thể
hiện vẻ đẹp của tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước và luôn nặng lòng vì
nước của nhà thơ.
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

30
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Nguyễn Khuyến làm quan ở nội các Huế, rồi làm Đốc học Thanh Hóa, Án sát
Nghệ An, rồi Biện lý Bộ Hộ,... Thời gian ông ra làm quan, Pháp đánh chiếm sáu tỉnh
Nam Kỳ và tiến đánh ra miền Bắc. Sống giữa bối cảnh nước mất nhà tan, các phong
trào đấu tranh yêu nước bị dập tắt, nhiều kẻ làm tay sai cho thực dân, Nguyễn Khuyến
không thể làm được gì để thay đổi thời cuộc nên xin cáo quan về ở ẩn. Các sáng tác
của Nguyễn Khuyến hầu hết được làm sau lúc từ quan, hiện còn khoảng hơn 400 bài,
gồm thơ, văn, câu đối bằng chữ Hán và chữ Nôm; đáng kể hơn hết là “Quế Sơn thi
tập” khoảng 200 bài thơ bằng chữ Hán. Sáng tác của ông chủ yếu xoay quanh ba nội
dung: Bộc bạch tâm sự của mình; viết về con người, cảnh vật và cuộc sống ở quê
hương - một vùng đồng chiêm nghèo ở Bắc Bộ; chế giễu, đả kích những kẻ tham lam,
ích kỷ, cơ hội lúc bấy giờ...Cũng như hai bài thơ thu còn lại, “Thu điếu” là thể hiện
những rung động tinh tế của một tâm hồn nhạy cảm, yêu thiên nhiên trước cảnh thu ở
làng quê, đồng thời bộc lộ kín đáo những suy tư, trăn trở về nhân tình thế thái, về vận
nước suy thịnh của nhà thơ.

Mặc dù trong lòng trĩu nặng tâm tư, nỗi niềm về thời thế, nhưng con người ấy
vẫn mở rộng tâm hồn và các giác quan để đón nhận, đắm chìm, say mê với vẻ đẹp mùa
thu của quê hương xứ sở. Chỉ ở một người rất yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước,
có sự tinh tế, nhạy cảm thì mới có thể vẽ nên bức bích họa về mùa thu bằng ngôn từ
nghệ thuật đẹp đến vậy; mới có thể nắm bắt và khắc họa được cái hồn cốt mùa thu, đặc
trưng cho dân tộc, cho mùa thu đồng bằng Bắc Bộ - quê hương của cụ Tam Nguyên
Yên Đổ. Thiên nhiên trong sự quan sát và cảm nhận tinh tế của thi nhân đã đã hiện ra
thật đẹp với đặc điểm: trong, xanh, tĩnh lặng, nên thơ, gần gũi, quen thuộc, đặc trưng
cho làng cảnh Việt Nam.
Mở đầu bài thơ, bằng tình yêu tha thiết đối với thiên nhiên, với vùng quê nghèo
của mình:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Nhân vật trữ tình đã dẫn ta đến không gian "ao thu", cùng "chiếc thuyền câu" -
những hình ảnh đặc trưng cho mùa thu ở đồng bằng chiêm trũng Bắc Bộ, cho làng
cảnh Việt Nam. Lấy chiếc ao thu, chiếc thuyền câu để khơi nguồn cảm hứng chứng tỏ
điệu tâm hồn của thi nhân: gắn bó, yêu thương quê hương, đất nước. Không còn hình
ảnh ước lệ nữa, mà mùa thu trong tình yêu của Nguyễn Khuyến hiện lên với những
hình ảnh chân thực, sinh động, mang hồn cốt của quê hương.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
31
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
` Thiên nhiên được cảm nhận thật tinh tế qua điểm nhìn linh hoạt và sự căng mở
các giác quan: thị giác say ngắm bức tranh thu với hình ảnh quen thuộc “ao thu,
thuyền câu, ngõ trúc, và tất nhiên không thể thiếu không gian mênh mông, cao vợi của
bầu trời thu. Và sắc thu cũng xanh đến nao lòng: xanh trời, xanh sóng điểm xuyết
chiếc lá thu vàng mỏng manh lạc giữa thinh không. Bức tranh cũng được tạo bởi
những đường nét mềm mại, thanh sơ của những “ngõ trúc quanh co” ; Thính giác đón
nhận những thanh âm thật nhẹ, thật êm từ làn sóng “gợn tí”, từ chiếc lá “đưa vèo”, đến
âm thanh của tiếng “cá đớp động”… Thủ pháp nghệ thuật lấy động tả tĩnh, trong tĩnh
có động, động đó mà vẫn nương một tâm hồn trầm lặng suy tư.
Những đường nét, màu sắc... gợi lên trong tưởng tượng của người đọc khung
cảnh của một buổi sớm thu yên bình trên một làng quê miền Bắc với bầu trời thu cao
rộng, khoáng đạt, những ao chuôm trong vắt phản chiếu màu trời, màu lá, thôn xóm
với những con đường nhỏ quanh co hun hút xanh màu tre trúc, gió thu dịu mát khẽ làm
xao động mặt nước, thỉnh thoảng một vài chiếc lá rụng cắt ngang không gian... Trong
bức tranh thu này mọi cảnh vật hiện ra đều rất đỗi bình dị, dân dã. Khung cảnh ấy vẫn
thường hiển hiện vào mỗi độ thu về trên những làng quê và đi vào tâm thức của bao
người, nhưng lần đầu tiên được Nguyễn Khuyến vẽ ra với nguyên cái thần thái tự
nhiên của nó và khiến ta không khỏi ngỡ ngàng xúc động. Đó là một mùa thu trong
trẻo, thuần khiết, mát lành đã bao lần đến trên quê hương của mỗi chúng ta.
Thơ viết về thiên nhiên còn phản ánh tình yêu quê hương, đất nước vì đó là
thiên nhiên của quê hương mình, tổ quốc mình: Là người gắn bó sâu sắc và thiết tha
với quê hương, Nguyễn Khuyến đã cảm nhận vẻ đẹp riêng của cảnh sắc quê hương,
đồng thời thể hiện vẻ đẹp ấy bằng nét bút vừa chân thực, vừa tinh tế. Bức tranh Câu cá
mùa thu mang được cái hồn dân tộc, vượt khỏi những công thức, ước lệ không chỉ bởi
tài thơ mà còn bởi tình yêu thiên nhiên đất nước của tác giả.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Người đi câu hờ hững với việc câu cá bởi đang nặng lòng trước thế sự. Tâm
trạng u hoài bộc lộ qua bức tranh thiên nhiên tĩnh lặng, vắng người, vắng tiếng. Nỗi u
hoài từ tâm cảnh lan tỏa ra ngoại cảnh phủ lên cảnh vật vẻ thanh sơ đến hiu hắt. Không
gian tĩnh lặng đem đến cảm nhận về nỗi cô quạnh, uẩn khúc trong tâm hồn thi
nhân.Tìm đến thú vui câu cá để nhàn thân nhưng tâm không nhàn, không câu cá mà
“câu thanh, câu vắng” bởi nặng lòng trước thời thế và vận mệnh đất nước.

32
Hình ảnh cụ Tam Nguyên Yên Đổ xuất hiện với tư thế ngồi bó gối buông cần
thả câu tạo nên một đường nét bất động trên bức tranh thu tĩnh lặng. Nhà thơ ngồi câu
cá mà tâm thế như đặt ở nơi nào không chú tâm đến việc câu để rồi giật mình trước
tiếng cá “đớp động dưới chân bèo”. Một lần nữa nghệ thuật lấy động tả tĩnh được sử
dụng thành công. Tiếng cá đớp tạo nên chuyển động nhỏ cũng khiến cho nhà thơ giật
mình tỉnh giấc tựa chiêm bao nó gợi lên sự tĩnh lặng, tĩnh mịch đến vô cùng. Cách hỏi
“cá đâu” thật đặc sắc tạo nên sự mơ hồ trong không gian và sự ngỡ ngàng trong lòng
của người điếu ngư. Hình ảnh nhắc nhớ tiền nhân Lã Vọng ngồi câu cá đợi thời trong
sử sách Trung Quốc xưa.
Đó là tâm thế xuất xử hành tàng của bậc nho gia có học vấn uyên thâm và nặng
lòng với đất nước. Cảm giác bất mãn với thời cuộc, bất lực với khả năng cứu nhân đội
thế , con người ấy chọn lối sống ẩn dật, lánh đục về trong, giữ lấy cốt cách thanh cao
trong sạch “thanh bần, lạc đạo. Và chính qua tâm trạng thời thế của ông, ta thấy một
tấm lòng yêu nước thầm kín nhưng không kém phần sâu sắc.
Có thể nói rằng đó là những gạch nối đầu tiên giữa văn học trung đại và văn học
hiện đại. Có lẽ bản thân Nguyễn Khuyến cũng chưa ý thức được điều đó, nhưng chính 
những bài thơ xuất chúng của ông lại chứa đựng sự tiếp nối này.Chính sự hòa mình và
o cuộc sống hồn nhiên nơi thôn dã đã giúp cho nhà thơ giải tỏa được tâm trạng luôn da
y dứt đau khổ và mặc cảm của mình. Nguyễn Khuyến đã tìm thấy trong thiên nhiên,
trong cuộc sống lam lũ của người nông dân quê ông sự  thanh thản của tâm hồn,
niềm lạc quan yêu đời và những tình cảm xóm làng trong sáng. Và đằng sau những
bài thơ  có vẻ  như  hiền lành của ông luôn chứa giấu một nỗi niềm nóng bỏng về  vận
mệnh của đất nước về cuộc sống của dân lành. Tình yêu thiên được thăng hoa bởi
chính cảnh sắc tuyệt đẹp ở làng quê tác giả sinh sống, và cũng bởi tâm hồn tinh tế
nhạy cảm trước những chuyển biến khó nhận biết của tự nhiên.
Nỗi lòng tâm sự của nhà thơ nhất quán và đầy trăn trở trong cả chùm thơ. Đó
đều là nỗi buồn nhớ một đất nước xưa, nỗi đau đớn, bế tắc, lạc lõng của một con người
giữa thời buổi đảo điên. Ở bài “Thu vịnh”, nhà thơ bộc lộ tâm trạng thẫn thờ, buồn bã
đến mất hết cảm thức về thời gian, không gian: hoa cúc nở năm nay mà ngỡ hoa năm
cũ, nghe tiếng ngỗng kêu mà không biết ngỗng phương nào:
“Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào”
Nhà thơ buồn đến rơi lệ trong bài “Thu ẩm” “ Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe”.
Trên dòng chảy của thời gian khốc liệt, người đời sẽ không nhớ nhiều tới Tam
nguyên Yên Ðổ trên danh vị đại khoa và cũng là bậc đại quan nhưng sẽ mãi nhớ đến
Nguyễn Khuyến trong tư cách một thi nhân. Thơ Nguyễn Khuyến thật sự tiêu biểu cho
tâm hồn người Việt và phong vị, cốt cách Á Ðông. Có thể coi ông là đại biểu cuối

33
cùng của mẫu hình thi nhân nhà Nho chính thống, là "quả pháo đùng" tổng kết nền thi
ca cuối mùa trung đại.

BÀI 4 – THƯƠNG VỢ (Trần Tế Xương)

Đề 1. Nêu hiểu biết cơ bản về tác giả Trần Tế Xương và tác phẩm “Thương vợ”.

1. Tác giả Trần Tế Xương


- Trần Tế Xương (1870 - 1907) thường gọi là Tú Xương, quê ở làng Vị Xuyên,
huyện Mĩ Lộc, tỉnh Nam Định (nay thuộc phường Vị Hoàng, thành phố Nam Định).
- Tú Xương sinh vào giai đoạn giao thời, xã hội có nhiều thay đổi. Xã hội phong
kiến già nua chuyển mình trở thành xã hội thực dân phong kiến. Hàng ngày những
điều ngang tai trái mắt cứ đập vào mắt ông, gây phản ứng trong tâm trạng. Và thể hiện
thành hai nội dung lớn trong thơ ông: trữ tình và trào phúng.
- Tú Xương có cá tính sắc sảo, phóng túng, khó gò vào khuôn sáo trường quy, nên
dù có tài nhưng tám lần thi vẫn chỉ đỗ tú tài.
- Ông chỉ sống 37 năm và chỉ đỗ tú tài nhưng sự nghiệp thơ ca của ông đã trở thành
bất tử.
2. Sự nghiệp văn học của Trần Tế Xương
- Có thể nói, trong đỉnh cao văn chương giai đoạn cuối thế kỉ 19 không thể không nói
đến nhà thơ Trần Tế Xương, một hiện tượng hiếm gặp. Ở ông có rất nhiiều cái đặc
biệt.
-Thứ nhất, cuộc đời ngắn ngủi 37 năm của ông nằm trọn trong giai đoạn bi thương
nhất của đất nước: thực dân Pháp xâm lược và đẩy mạnh khai thác thuộc địa, các cuộc
khởi nghĩa yêu nước nổi lên ở khắp nơi nhưng đều thất bại nặng nề.
-Với trí thông minh hơn người và hoài bão theo đuổi công danh chốn quan trường, Tú
Xương đã kiên trì suốt 20 năm với 8 lần đi thi nhưng ông mới đậu tú tài, mà lại là tú
tài thiên thủ (tú tài lấy thêm) – một tấm bằng rất dở dang, bởi nếu chỉ đỗ tú tài ông sẽ
không được thi hội, không được bổ nhiệm làm quan. Bởi vậy mà cái vòng luẩn quuẩn
họa – thi cứ đeo bám và trói buộc, xiết chặt lấy ông cho đến tàn kiệt, héo hon.
-Thứ hai, cuộc sống vật chất của ông thiếu thốn vô cùng, tất cả sự trang trải chỉ trông
chờ vào sự tần tảo lam lũ buôn thúng bán bưng của người vợ.
-Cay cực phẫn uất trước sự nghiệt ngã của số phận trước hiện thực đen tối của xã hội,
Tú Xương đã bộc lộ trong những bài thơ vừa trữ tình vừa trào phúng châm biếm sâu
cay.
-Hiện thực trong thơ Tú Xương chỉ một màu xám xịt với những thói hư tật xấu của
tầng lớp thống trị, những đau khổ lầm than của những kiếp người nhỏ bé. Tuy nhiên,
34
thơ ông cũng có một mảng rất trữ tình, đằm thắm về chính người vợ đáng yêu, đáng
kính mà suốt đời ông mang ơn.
-Dù không đỗ đạt cao và làm quan nhưng thơ Tú Xương có tầm ảnh hưởng lớn bởi lối
viết vừa giản dị mà điêu luyện, thần tình mà rất chân tình, đôi khi tục mà không thô,
phá cách mà đầy dụng ý nghệ thuật . Sự ảnh hưởng ấy đã tạo nên cả một môn phái
với rất nhiều môn đệ, theo phong cách sáng tác của ông như những bút danh Tú Mỡ,
Tú Sụn, Cử Nạc, Tú Poanh, Đồ Phồn…
-Cũng hiếm có nhà thơ nào được nhiều nhà phê bình mệnh danh đến thế:
+ Nguyễn Công Hoan suy tôn Tú Xương là bậc thần thơ thánh chữ.
+ Xuân Diệu xếp hạng Tú Xương thứ 5 sau Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân
Hương và Đoàn Thị Điểm.
+ Tản Đà từng coi Tú Xương là thi sĩ tiền bối đáng phục nhất.
+ Nguyễn Tuân biểu dương Tú Xương là: một người thơ, một nhà thơ vốn nhiều
công đức trong cuộc trường kỳ xây dựng tiếng nói văn học của dân tộc Việt
Nam.
Và xin mượn câu thơ của Xuân Diệu để nói lên cái ngưỡng mộ tài năng văn
chương của một con người đặc biệt ấy: Ông nghè ông thám vô mây khói/ Đứng lại văn
chương một tú tài.

Đề 2. Phân tích bài thơ “Thương vợ” của Trần Tế Xương.

HƯỚNG DẤN LÀM BÀI


I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả:
+ Có thể nói, trong đỉnh cao văn chương giai đoạn cuối thế kỉ XIX không thể không
nói đến nhà thơ Trần Tế Xương, một hiện tượng hiếm gặp.
+ Ông là người có tài nhưng thi cử lận đận, cuộc sống nghèo túng, chật vật.
- Giới thiệu tác phẩm:
+ Các tác phẩm của ông tập trung phản ánh một hiện thực xám xịt với những thói hư
tật xấu của tầng lớp thống trị, những đau khổ lầm than của những kiếp người nhỏ bé.
Tuy nhiên, thơ ông cũng có một mảng rất trữ tình, đằm thắm về chính người vợ đáng
yêu, đáng kính mà suốt đời ông mang ơn.
+ “Thương vợ” là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Tú Xương,
thuộc mảng đề tài viết về người vợ của ông.
- Trích thơ (…)
II. Thân bài
35
1. Dẫn nhập
+ “Thương vợ” là một trong những bài thơ hay và cảm động nhất củ Tú Xương viết về
bà Tú.
+ “Thương vợ” được cấu tạo làm bốn phần theo kết cấu đề, thực, luận, kết với kết cấu
chặt chẽ, đây là một bài thơ Nôm thành công cả về ngôn ngữ và hình ảnh thơ. Ngôn
ngữ Nôm bình dân, hình ảnh thơ gần gũi với dân gian và đời sống. Câu đề và câu thực
là suy nghĩ của nhà thơ về sự vất vả nhọc nhằn kiếm sống của người vợ, qua đó thể
hiện sự cảm thông và trân trọng.
2. Phân tích bài thơ
a. Hình ảnh bà Tú thể hiện qua 6 câu thơ đầu:
* Hai câu đề:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.
- Hoàn cảnh buôn bán làm ăn của bà Tú:
+ Thời gian “quanh năm”: làm việc liên tục, không trừ ngày nào, hết năm này qua năm
khác dù mưa hay nắng.
+ Địa điểm “mom sông”: phần đất nhô ra phía lòng sông không ổn định -> gợi tả một
cuộc đời nhiều mưa nắng, một cuộc đời lắm cơ cực, gian nan, chênh vênh, nguy hiểm,
phải vật lộn để kiếm sống.
=> Công việc và hoàn cảnh làm ăn vất vả, ngược xuôi, không vững vàng, ổn định.
- Lí do:
+ “nuôi đủ”: chăm sóc hoàn toàn -> sự chịu thương chịu khó của bà Tú, phải vất vả
cực nhọc, làm lụng gánh vác, tất bật ngược xuôi chỉ để nuôi đủ "năm con với một
chồng".
+ “đủ năm con với một chồng”: một mình bà Tú phải nuôi cả gia đình, không thiếu
cũng không dư.
-> Cách dùng số đếm độc đáo “một chồng” bằng cả “năm con”, ông Tú nhận mình
cũng là đứa con đặc biệt. Kết hợp với cách ngắt nhịp 4/3 thể hiện nỗi cực nhọc của vợ.
=> Hoàn cảnh éo le trái ngang, gánh nặng gia đình đang đè nặng lên đôi vai người mẹ,
người vợ. Bản thân việc nuôi con là người bình thường, nhưng ngoài ra người phụ nữ
còn nuôi chồng.
=> Bà Tú là người phụ nữ tần tảo, đảm đang, chu đáo với chồng con.
* Hai câu thực
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
- Tú Xương đã mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà Tú nhưng sáng tạo
hơn nhiều (đảo từ lặn lội lên đầu hay thay thế con cò bằng thân cò):

36
+ “Lặn lội”: Sự lam lũ, cực nhọc, nỗi gian truân, lo lắng
+ Hình ảnh “thân cò”: gợi nỗi vất vả, đơn chiếc khi làm ăn -> gợi tả nỗi đau thân phận
và mang tính khái quát
+ “khi quãng vắng”: thời gian, không gian heo hút rợn ngợp, chứa đầy những nguy
hiểm lo âu
=> Sự vất vả gian truân của bà Tú càng được nhấn mạnh thông qua nghệ thuật ẩn dụ.
- Sự vật lộn với cuộc sống đầy gian nan của bà Tú: “Eo sèo mặt nước buổi đò đông”:
+ Eo sèo: từ láy tượng thanh ý chỉ sự kì kèo, kêu ca phàn nàn một cách khó chịu -> gợi
tả cảnh tranh bán, cãi vã nơi “mặt nước”.
+ Buổi đò đông: Sự chen lấn, xô đẩy trong hoàn cảnh đông đúc cũng chứa đầy những
sự nguy hiểm, lo âu
→Câu thơ gợi tả cảnh chen chúc, bươn trải trên sông nước của những người làm nghề
buôn bán nhỏ.
=> Thực cảnh mưu sinh của bà Tú: không gian, thời gian rợn ngợp, nguy hiểm, phải
lặn lội trong nắng mưa, phải giành giật, phải trả giá bằng mồ hôi, nước mắt, đồng thời
thể hiện lòng xót thương da diết của ông Tú.
* Hai câu luận
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công.
- “Một duyên hai nợ”: ý thức được việc lấy chồng là duyên nợ nên “âu đành phận”, Tú
Xương cũng tự ý thức được mình là “nợ” mà bà Tú phải gánh chịu, không một lời
phàn nàn, lặng lẽ chấp nhận sự vất vả vì chồng vì con.
- “nắng mưa”: chỉ sự vất vả
- “năm”, “mười”: số từ phiếm chỉ số nhiều
- "âu đành phận", “dám quản công”: dù cho phận mỏng duyên ôi, bà Tú vẫn chấp
nhận, cam chịu, không lời oán thán.
-> Sự vất vả và gian truân, đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của
bà Tú.
=> Hình ảnh bà Tú, người vợ hiền thảo với bao đức tính đáng quý: đảm đang, tần tảo,
chịu thương chịu khó, thầm lăng hi sinh cho hạnh phúc gia đình.
b. Tâm sự của ông Tú
* Hai câu kết
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không
- Bất mãn trước hiện thực, Tú Xương đã vì vợ mà lên tiếng chửi:
+ “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc”: tố cáo hiện thực, xã hội quá bất công với người phụ nữ,
quá bó buộc họ để những người phụ nữ phải chịu nhiều cay đắng vất vả.

37
-> Lời chửi mang ý nghĩa xã hội sâu sắc: thói đời bạc bẽo là nguyên nhân sâu xa khiến
bà Tú phải khổ; ông Tú thầm trách bản thân một cách thẳng thắn, nhận ra sự vô dụng
của bản thân.
- Tự ý thức:
+ “Có chồng hờ hững”: Tú Xương tự rủa mát mình và cũng là tự phán xét, tự lên án
bản thân mình → Tú Xương ý thức sự hờ hững của mình cũng là một biểu hiện của
thói đời.
- Nhận mình có khiếm khuyết, phải ăn bám vợ, để vợ phải nuôi con và chồng.
→ Từ tấm lòng thương vợ đến thái độ đối với xã hội, Tú Xương cũng chửi cả thói đời
đen bạc.
=> Hai câu thơ đã khái quát nỗi lòng thương vợ của ông Tú.
3. Đánh giá
- Nguyễn Tuân: “Tú Xương đi bằng cả hai chân hiện thực và trữ tình, mà cái chân hiện
thực ở người Tú Xương chỉ là một cẳng chân trái. Tú Xương lấy cái chân phải trữ tình
mà khiến cái chân trái tả thực. Chủ đạo cho đà thơ là ở chân phải và Tú Xương đã
băng được mình thơ tới chúng ta bằng nước bước lãng mạn trữ tình.”
- Chất trữ tình trong thơ Tú Xương đằm thắm, sâu sắc, bộc lộ những giằng xé nội tâm,
những trăn trở đầy chất nhân văn, nhân bản.
- Tú Xương cùng với Nguyễn Khuyến là hai đại diện cuối cùng cho nền văn học trung
đại Việt Nam cuối thế kỉ XIX, hai nhà thơ tiêu biểu và đặc sắc cho những vần thơ tự
trào. Thơ ông với những cách tân mới mẻ về ngôn ngữ viết theo xu hướng khẩu ngữ
hóa, sử dụng ngôn ngữ đời thường nhưng vẫn đảm bảo âm điệu trữ tình và có sức gợi
hình, gợi cảm.
- “Thương vợ” là một bài thơ hay có sự kết hợp tài tình giữa ngôn ngữ dân gian với
ngôn ngữ bác học một cách tinh xảo, phong phú khắc họa được chân dung bà Tú và bộ
lộ được tâm trạng, tình cảm của Tú xương dành cho vợ của mình. Cùng với đó là cách
ngắt nhịp truyền thống trong thơ Đường luật là 4/3 và 2/2/3 càng làm cho bài thơ trở
nên mềm mại, uyển chuyển.
III. Kết bài
- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
+ Nội dung: Xây dựng thành công hình ảnh bà Tú - một người vợ tảo tần, giàu đức hi
sinh, đã gánh vác gia đình với những gánh nặng cơm áo gạo tiền đè lên đôi vai gầy.
Qua đó cũng cảm nhận được tình thương yêu, quý trọng người vợ của Trần Tế Xương.
+ Nghệ thuật: Sử dụng tiếng Việt giản dị, tự nhiên, giàu sức biểu cảm; vận dụng sáng
tạo hình ảnh, cách nói văn học dân gian; kết hợp nhuần nhuyễn giữa trữ tình và trào
phúng.
- Liên hệ, mở rộng: Suy nghĩ của bản thân về người phụ nữ trong xã hội hôm nay.

38
Bài làm tham khảo
Đề bài: cảm nhận bài thơ Thương vợ (Trần Tế Xương)

Ở chương trình ngữ văn THPT, các tác giả biên soạn sách đã chọn giới thiệu tác
phẩm Thương vợ của ông. Đây là tác phẩm rút từ mảng thơ văn viết về vợ độc đáo và
hiếm có trong nền văn học nước nhà. Bài thơ không chỉ cho người đọc thấy tài năng
văn chương trời phú của ông mà hơn hết, còn cảm được cái tình chân thật, đầy xót xa
của ông với bà Tú – người vợ chịu nhiều thiệt thòi của ông, và cảm thấy tâm sự đầy
uất nghẹn đau đời của một con người nhiều hoài bão mà bất lực trước thời cuộc.
Bài thơ được làm theo thể thất ngôn bát cú, với bố cục thông thường: đề thực
luận kết, hoặc chia làm hai phần với nội dung khá rõ ràng đó là: Hình ảnh bà tú trong 6
câu đầu và tâm sự đau đời của ông Tú ở hai câu thơ cuối. Trong 6 câu thơ đầu, Tú
Xương đã dành để khắc họa chân dung người vợ đáng nể phục của ông:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Nói về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa, nhiều người trẻ
không thể hình dung hết những vất vả, khổ cực mà họ phải chịu đựng. Cả một thể chế
xã hội, một hệ tư tưởng đầy định kiến quay lưng với họ. Không được thừa nhận quyền
bình đẳng, bị áp bức, bị đè nén từ trong gia đình đến ngoài xã hội, người phụ nữ trở
thành thân phận khổ đau nhất, cùng cực nhất thời ấy. Tuy nhiên, với hình tượng nhân
vật Bà Tú trong bài thơ thương vợ của Trần Tế Xương, cái khổ cực, vất vả của bà Tú
được nhìn nhận ở góc nhìn hoàn toàn mới, góc nhìn của một người chồng ghi nhận
công lao của vợ và cảm thông sâu sắc với nỗi cơ cực lầm than của người phụ nữ chân
yếu tay mền ấy. vậy nên, cái cảm giác mà bài thơ đem lại không phải chỉ là nỗi đồng
cảm xót xa với bà Tú mà còn là niềm yêu thương trìu mến lẫn cảm phục bà, như tình
cảm của chính ông Tú dành cho vợ vậy.
Hẳn phải là một người chồng yêu thương vợ lắm lắm Tú Xương mới diễn tả thật
đúng, thật tình cái nỗi gian truân của vợ chỉ bằng hai câu thơ thất ngôn:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Quanh năm là khoảng thời gian không đo đếm được cụ thể, không phải một
năm, hai năm hay suốt năm mà là quanh năm, suốt tháng, một thời gian liên tục và

39
tuần hoàn, như vòng quay của chiếc kim đồng hồ vậy, không ngơi không nghỉ, và
quẩn quanh, bế tắc. Chỉ một từ thôi cũng đủ gợi ra nỗi nhọc nhằn triền miên của bà.
Cái nghèo, cái túng nó đeo bán gia đình bà suốt năm này qua tháng khác. Phải kiên trì
và bền bỉ đến nhường nào bà mới bám trụ được với cái nghề buôn thóc bán gạo ấy.
Người ta nói phi thương bất phú, nhưng với bà, phú quý chả dám mơ tới, chỉ biết kiên
trì bền bỉ thức khuya dậy sớm, tất bật ngược xuôi, buôn thúng bán bưng, nơi “mom
sông”, bãi chợ để kiếm đồng ra đồng vào. Từng từ từng ngữ Tú Xương dùng đều toát
lên cái xót xa, thương cảm. “Mom sông”là một bãi đất ở bờ nhô ra lòng sông, hứng
nhận mọi vang động của dòng chảy, nay bồi mai lở, chênh vênh và bất ổn. chứ không
phải là bên sông hay ven sông như ta thường thấy. Công việc đã vất vả là thế, mà còn
nhiều nguy hiểm nữa thì ông Tú không thương không xót sao được.
Cái sự buôn bán của bà Tú không phải để mong tiền bạc rủng rinh mà đó là sự
bươn chải vì gánh nặng gia đình đè trĩu lên đôi vai bà: “ Nuôi đủ năm con với một
chồng”. Câu thơ ngắn gọn mà gợi nhiều cảm xúc cho người đọc. Ta xót xa khi mường
tượng đến trọng trách mà bà Tú đang mang, người phụ nữ nhỏ bé ấy phải lo cho cuộc
sống của cả một gia đình đông con, và một người chồng “vô tích sự”; ta cảm phục sự
tháo vát, chu đáo của bà khi vẫn lo “đủ” cho gia đình mình. Ta cũng cảm thấy cái tình
đầy xót thương và biết ơn của ông Tú khi nhìn nhận vai trò và sự chăm chút của bà Tú
với cái tổ ấm yêu thương. Ông khẳng định đầy tự hào rằng ông cùng các con đã được
bà Tú chăm sóc đầy đủ từ miếng cơm manh áo đến cả những thú vui xa xỉ của một
người chịu chơi như ông Tú. Câu thơ vừa bộc lộ lòng biết ơn sâu sắc đối vợi người vợ
tần tảo, giỏi giang vừa hé lộ một nỗi ngậm ngùi cay đắng về sự vô dụng của bản thân
ông trong vai trò người chồng, lẽ ra phải là trụ cột, phải là chỗ dựa cho ngần ấy miệng
ăn. Cách đếm tách bạch “ năm con với một chồng” cho thấy ông hiểu mình cũng chỉ
như một thứ con được chăm sóc đặc biệt, bằng cái công bà chăm cả năm đứa nhỏ của
mình. Chẳng những ông không giúp được gì cho vợ mà khiến nỗi nhọc nhằn của bà
nhân lên gấp đôi. Thật xót xa!
Hai câu thực góp phần khắc họa rõ nét hơn hình ảnh bà Tú trong công việc mưu
sinh hằng ngày:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo èo mặt nước buổi đò đông
Cách dùng từ và diễn đạt của nhà thơ thật không hổ danh là thần thơ thánh chữ. Hai từ
láy gợi hình “lặn lội và “eo sèo” được đảo trật tự đứng lên đầu câu thơ, nó tác động
trực tiếp vào tâm trí người đọc và tức thì hiện lên hình ảnh về một người phụ nữ nhỏ
bé, đơn độc, một thân một mình đi sớm về khuya, đầu sông cuối chợ, gánh gạo nuôi
chồng nuôi con. Có khác gì đâu hình ảnh con cò trong câu ca dao đầy xa xót: “ Cái cò
lặn lội bờ sông – Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”. Trong câu thơ của Tú

40
Xương, bà Tú không khóc mà nghe như đó là tiếng sụt sùi cay đắng xót xa của ông
Tú. Dường như tấm lòng ông luôn dõi theo bước chân tần tảo của người vợ thiệt thòi,
cả khi quãng vắng đến buổi đò đông. Quãng vắng thì “lặn lội thân cò”, lùi lũi một
mình,quạnh hiu đơn độc; được buổi đò đông thì những thanh âm ồn ã, tranh mua
giành bán, eo sèo cả mặt nước chỉ khiến lòng bà thêm rối bời một nỗi lo cơm áo gạo
tiền. Đâu đâu cũng chỉ thấy những bước chân bươn bả nhọc nhằn của thân phận con cò
bé mọn, hẩm hiu. Phải thực sự thấu hiểu, cảm thông và yêu thương vợ nhiều lắm, ông
Tú mới có được những vần thơ xúc động đến thế.
Không chỉ thấu hiểu công việc, thấu hiểu những khó khăn vất vả hằng ngày của
bà Tú mà nhà thơ còn thấu hiểu tính cách và nếp nghĩ của vợ:
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Thành ngữ “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa” được đặt sóng đôi trong hai
câu luận vừa tạo sự đăng đối vừa tạo ý nghĩa tăng tiến “một – hai – năm – mười” càng
như khắc sâu cái duyên, cái phận, cái vất vả lam lũ. Điều ràng buộc cuộc đời bà, cái
khởi nguồn của nỗi vất vả ấy chính là cái duyên trời se với ông Tú. “Con gái nhà dòng,
lấy chồng kẻ chợ”, cũng xứng lứa vừa đôi, trai tài gái đảm đó, môn đăng hộ đối đó
nhưng duyên thì chỉ có một mà cái nợ đeo bám thì gấp đôi. Bởi thế bà mới phải “năm
nắng mười mưa”, chấp nhận đành phận mình, không kêu ca oán thán, chấp nhận dấn
thân bon chen buôn bán để nuôi chồng nuôi con cho bằng chúng bằng bạn. Hai câu thơ
không phải là lời giãi bày của bà Tú, mà là ông Tú tự nhập thân vào, tự đặt mình vào
hoàn cảnh của bà Tú để thấu hiểu và cảm thông với bà. Biết làm sao khi duyên đã
định, đành lòng sao khi rũ bỏ cái nợ đời. Bà chỉ biết chấp nhận và cố gắng hết mình. .
Đó là đức hi sinh, là sự nhân hậu bao dung, hết lòng vì chồng con của bà Tú, đó cũng
chính là điều khiến ông Tú day dứt và hổ thẹn trong cuộc đời mình
Chính bởi những day dứt ấy mà tiếng thơ của Tú Xương dẫu có cười cũng như
“mảnh vỡ thủy tinh”, giòn tan và lấp lánh đấy nhưng găm những sắc nhọn vào lòng
người và ứa ra những nỗi niềm xa xót:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.
Tiếng chửi đời vang lên tự nhiên và hóm hỉnh như cách cách mà dân gian thường dùng
để “ chửi đổng”: “Cha mẹ thói đời...”. Không phải là người vợ chịu nhiều vất vả thiệt
thòi chửi mà người chồng tự chửi mình “ăn ở bạc”, để bà Tú rơi vào cảnh “có chồng
hờ hững cũng như không”.
z Ông giân bản thân mình, là thân nam nhi mà không lo nổi cho gia đình, để vợ gánh
vác hết trách nhiệm làm chồng. Câu thơ có chút vị đắng trong bài thơ “Lấy lẽ” của Hồ
Xuân Hương:

41
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn mướn không công.
Thân này ví biết đường này nhẽ
Thà trước thôi đành ở vậy xong.
Tuy nhiên, trong tiếng chửi của Tú Xương có chỉ đích danh “thói đời”là căn nguyên
sâu xa trong nỗi khổ của bà Tú. Nếu không có những quy định thi cử hà khắc, nhiêu
khê thì có thể ông đã đỗ đạt và làm quan để kịp báo đáp vợ; nếu không ở thời xã hội
nhiễu nhương, Tây Tàu lẫn lộn thì sao ông Tú ra nông nỗi này. Nói thế thì nói chứ
thực ra, ông Tú tự trách mình hnhiều hơn, tự thấy mình hổ thẹn với vợ con, tự thấy
mình vô tích sự, mình chỉ như một số không tròn chĩnh khép lại bài thơ. Hóm hỉnh, tếu
táo đó mà nghe sao chua xót vô cùng.
Với lối viết giản dị, mộc mạc, cách chọn lọc ngôn từ, hình ảnh đậm chất dân
gian, bài thơ Thương vợ đã khắc họa sống động, chân thực hình ảnh bà Tú, một hình
mẫu đại diện cho người phụ nữ Việt Nam tần tảo dịu hiền và giàu đức hi sinh vì chồng
vì con. Bài thơ cũng là một bản tự kiểm điểm, tự khiển trách hết sức chân thành và
nghiêm khắc của Tú Xương. Mỗi lời thơ như một tiếng thở dài đau xót của một con
người rất có ý thức trách nhiệm, nhưng bất lực trước thời cuộc. Đó là tấm lòng thương
yêu cảm phục và biết ơn rất chân thành của người chồng đối với người vợ vì mình mà
chịu nhiều đắng cay vất vả. Đồng thời, ẩn chứa một khát vọng được khẳng định mình,
ước mơ được sống trong một xã hội tốt đẹp hơn của Tú Xương. Đọc bài thơ, ta không
chỉ hiểu thêm về thân phận và phẩm chất người phụ nữ xưa mà còn ngưỡng mộ tâm
đức và tài năng văn chương lưu danh sử sách vượt thời gian của ông Tú như lời Xuân
Diệu tụng ca:
Ông nghè ông thám vô mây khói
Đứng lại văn chương một tú tài

Đề 3. Cảm nhận về nhân vật bà Tú trong bài thơ “Thương vợ” của Trần Tế Xương.

HƯỚNG DẤN LÀM BÀI

I. Mở bài
- Giới thiệu về đặc điểm hình tượng người phụ nữ trong văn học Việt Nam từ xưa đến
nay: đều có số phận khổ cực, chịu nhiều thua thiệt nhưng ở họ vẫn ngời lên phẩm chất
truyền thống tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
- Giới thiệu đến tác phẩm: “Thương vợ” là bài thơ tiêu biểu thuộc mảng đề tài viết về
vợ của Trần Tế Xương.
42
- Giới thiệu hình ảnh bà Tú: Bài thơ đã khắc họa hình ảnh thật chân thực và đầy xúc
động về bà Tú, người vợ vất vả, tần tảo, chịu thương chịu khó và giàu đức hi sinh của
ông.
- Trích dẫn 6 câu thơ đầu (…)
II. Thân bài.
1. Dẫn nhập
- Giới thiệu về bà Tú
+ Tên thật là Phạm Thị Mẫn, sinh ra trong gia đình có dòng dõi Nho giáo: “Con gái
nhà dòng - Lấy chồng kẻ chợ”
+ Người phụ nữ rời bỏ cuộc sống sung túc đi theo người học trò nghèo Trần Tế
Xương, sống cuộc đời cơ cực vất vả nuôi chồng, nuôi con.
+ Ở bà vừa có cái ung dung, khoan hòa, hiền thục của người phụ nữ sinh ra trong gia
đình nề nếp, vừa nhanh nhẹn tháo vát khéo lo toan của một người phải đứng đầu sóng
ngọn gió, chèo lái con thuyền mưu sinh 10 miệng ăn.
+ Bà luôn thương yêu và trân trọng người chồng tài hoa mà lận đận thi cử.
2. Phân tích vẻ đẹp bà Tú:
a. Hai câu đề khắc hoa hình ảnh Bà tú , một người phụ nữ đảm đang tháo vát.
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
- Câu thơ đầu bài thơ giới thiệu công việc của bà Tú, về thời gian, địa điểm, tính chất
của công việc. “Quanh năm” là khoảng thời gian không đo đếm được cụ thể, không
phải một năm, hai năm hay suốt năm mà là quanh năm, suốt tháng, một thời gian liên
tục và tuần hoàn, như vòng quay của chiếc kim đồng hồ vậy, không ngơi không nghỉ,
và quẩn quanh, bế tắc. Từ ngữ này đã gợi nỗi nhọc nhằn triền miên của bà Tú. Cái
nghèo, cái túng nó đeo bán gia đình bà suốt năm này qua tháng khác.
- Hơn nữa, buôn bán vốn là một công việc khó nhọc, nhiều áp lực và bấp bênh. Người
ta nói phi thương bất phú, nhưng với bà, phú quý chả dám mơ tới, chỉ biết kiên trì bền
bỉ thức khuya dậy sớm, tất bật ngược xuôi, buôn thúng bán bưng, nơi “mom sông”, bãi
chợ để kiếm đồng ra đồng vào. Từng từ từng ngữ Tú Xương dùng đều toát lên nỗi xót
xa, thương cảm trước nỗi vất vả của bà Tú.
- Nơi bà Tú buôn bán lại là “Mom sông”- một bãi đất ở bờ nhô ra lòng sông, hứng
nhận mọi vang động của dòng chảy, nay bồi mai lở, dù thuận lợi cho việc buôn bán
nhưng chênh vênh và bất ổn, Tiềm tàng những bất trắc, nguy hiểm.
- Câu thơ thứ hai cho biết trọng trách lớn lao của bà tú. Cái sự buôn bán ấy của bà
không phải để mong tiền bạc rủng rinh mà đó là sự bươn chải vì gánh nặng gia đình đè
trĩu lên đôi vai bà: “ Nuôi đủ năm con với một chồng”.

43
- “Nuôi đủ” tức là không thừa, không thiếu, thể hiện sự tháo vát, vén khéo của người
phụ nữ trụ cột gia đình. Câu thơ hé lộ niềm tự hào của ông Tú về người vợ đảm đang,
tháo vát, đã chăm lo từ từ miếng cơm manh áo đến cả những thú vui xa xỉ của một
người chịu chơi như ông
- Cách đếm tách bạch “ năm con với một chồng” cho thấy những gánh nặng của bà Tú
phải nuôi 6 miệng ăn nhưng cũng vừa bộc lộ nỗi ngậm ngùi, chua chát của ông Tú khi
hiểu mình cũng chỉ như một thứ con được chăm sóc đặc biệt, bằng cái công bà chăm
cả năm đứa nhỏ của mình. Chẳng những ông không giúp được gì cho vợ mà khiến nỗi
nhọc nhằn của bà nhân lên gấp đôi.
→ Hai câu thơ đầu bài thơ đã khắc họa thật cụ thể, ấn tượng về hình ảnh bà Tú, một
người phụ nữ đảm đang tháo vát, người vợ đáng trân trọng của ông Tú. Không chỉ thế,
người đọc còn cảm được cái tình ông Tú dành cho vợ, đó là sự thấu hiểu, cảm thông,
trân trọng đồng thời cũng bộc lộ chút ngậm ngùi cay đắng về sự vô dụng của bản thân
ông trong vai trò người chồng, lẽ ra phải là trụ cột, phải là chỗ dựa cho ngần ấy miệng
ăn.
b. Hai câu thực góp phần khắc họa rõ nét hơn hình ảnh bà Tú trong công việc mưu
sinh nhọc nhằn vất vả:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo èo mặt nước buổi đò đông
- Hình ảnh ẩn dụ thân cò quen thuộc trong ca dao, khiến ta liên tưởng đến hình ảnh bà
Tú nhỏ bé đơn độc, lẻ loi trong công việc mưu sinh hằng ngày
- Hai từ láy gợi hình “lặn lội và “eo sèo” được đảo trật tự đứng lên đầu câu thơ; Lặn
lội: từ láy tượng hình, gợi hình ảnh lam lũ, khó nhọc; Eo sèo: từ láy tượng thanh gợi
âm thanh kì kèo, đôi co, bồ, tranh mua, giành bán; nhằm nhấn mạnh những cơ cực,
khó khăn trong công việc của bà Tú.
- Nghệ thuật đối: quãng vắng ↔ đò đông, quãng vẵng gợi ra không gian heo hút, hiu
quạnh, rợn ngợp; đò đông: sự đông đúc, ngột ngạt đến nghẹt thở → Nghệ thuật đối, từ
ngữ chọn lọc giàu sức gợi hình, gợi cảm khắc sâu nỗi vất vả của bà Tú. Phải thực sự
thấu hiểu, cảm thông và yêu thương vợ nhiều lắm, ông Tú mới có được những vần thơ
xúc động đến thế.
c. Hình ảnh bà tú trong mối quan hệ với đời thì đến hai câu luận, tác giả đã tô đậm
hình ảnh bà Tú là một người phụ nữ cam chịu, giàu đức hi sinh
Một duyên, hai nợ âu đành phận
Năm nắng, mười mưa dám quản công
- Mỗi câu thơ chia làm hai vế với một bên là những thành ngữ “một duyên hai nợ,
năm nắng mười mưa” chưa số đếm tăng tiến một, hai, năm mười diễn tả những thua

44
thiệt, những gánh nặng, thử thách cứ chất chồng đên đôi vai bà Tú; một bên là thái độ
ứng xử của bà Tú trước những khó khăn thử thách ấy “âu đành phận”, dám quản công.
- Đó là thái độ cam chịu và chấp nhận mà không kêu than không oán thán của một
người giàu đức hi sinh và giàu tình thương yêuchồng con.
- Hai câu thơ không phải là lời giãi bày của bà Tú, mà là ông Tú tự nhập thân vào, tự
đặt mình vào hoàn cảnh của bà Tú để thấu hiểu và cảm thông với bà. Đó là đức hi
sinh, là sự nhân hậu bao dung, hết lòng vì chồng con của bà Tú, Ý thơ vừa Ngợi ca vẻ
đẹp phẩm chất của bà Tú, vừa bộc lộ nỗi lòng cảm thông, xót xa, day dứt của ông Tú
trước nỗi cơ cực của bà Tú.
3. Đánh giá, nhân xét
- Chỉ với 6 câu thơ ngắn ngủi, nhà thơ Tú Xương đã như tạc bức tượng bằng ngôn từ
dung dị mà thật đẹp về hình ảnh bà Tú, người vợ đáng trân trọng của mình. Ở bà hội
đủ những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ từ ngàn đời xưa , đó là sự tần tảo, tháo
vát, chịu thương chịu khó, yêu chồng thương con và giàu đức hi sinh, đức hạnh ấy vẫn
còn sáng mãi.
- Qua sáu câu thơ, người đọc cũng thấu hiểu tình cảm yêu thương trân trọng của ông
Tú dành cho vợ . Và ẩn sau những vần thơ đầy tình nghĩa ấy là nỗi lòng ấm ức bất
bình của một người đàn ông thấy mình vô dụng.
- Điều lạ là dù xuất thân Nho học, song Tú Xương không nhìn nhận theo những quan
điểm của nhà nho: Quan điểm "trọng nam khinh nữ", "xuất giá tòng phu" (lấy chồng
theo chồng), "phu xướng, phụ tuỳ" (chồng nói vợ theo) mà lại rất công bằng. Tú
Xương dám sòng phẳng với bản thân, với cuộc đời, dám nhìn nhận ra những khuyết
thiếu của mình để mà day dứt, đó là một nhân cách đẹp, là người chồng đáng quý của
bà Tú.
III. Kết bài
- Giữa thời thế xô bồ hỗn độn, hình ảnh bà Tú lại xuất hiện với những câu thơ chân
thành, mộc mạc của Tế Xương như một lời động viên, khích lệ và khuyên nhủ những
người phụ nữ hãy nhìn nhận lại bản thân mình, hãy cố gắng vươn lên trong mọi hoàn
cảnh. Đừng vì đồng tiên hay vì bất kỳ một điều gì khác mà làm mất đi danh dự và
phẩm giá cao quý của mình.
- Mặt khác, những người chồng, người đàn ông cũng hãy cảm thông, thương yêu và
quý trọng người phụ nữ của đời mình, hãy cùng nhau sẻ chia và gánh vác mọi chuyện
trong gia đình, cũng như trong cuộc sống. Tế Xương thương vợ, nhưng ông không bắt
tay làm cùng vợ được. Bởi đó là do thời thế lúc bấy giờ như vậy. Hơn nữa, nghề của
ông là viết văn, làm thơ nên ông cũng không có thời gian để làm cùng vợ. Chỉ tiếc
rằng, cái nghề của ông không mang lại nhiều tiền bạc, của cải để gánh vác gia đình, để

45
bà Tú bớt vất vả, để thân cò ấy không phải lặn lội hay eo sèo trong những buổi đò
đông.
- Bài thơ đã khép lại với hình ảnh chân thực về người vợ tảo tần, giàu đức hi
sinh. Bà là một tấm gương sáng cho những người phụ nữ hiện đại soi lại chính
mình.

BÀI 5 – VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC

Đề 1. Nêu hiểu biết cơ bản về tác giả Nguyễn Đình Chiểu và tác phẩm “Văn tế
nghĩa sĩ Cần Giuộc”

1.Tác giả
a. Cuộc đời
- Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888) tự là Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai.
- Quê quán: sinh tại quê mẹ - làng Tân Thới, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay
thuộc thành phố Hồ Chí Minh).
- Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho.
- Năm 1843 ông đỗ tú tài tại trường thi Gia Định.
- Năm 1846 ông ra Huế chuẩn bị thi tiếp tại quê cha nhưng nhận được tin mẹ mất phải
bỏ thi trở về Nam chịu tang (1849). Dọc đường về ông bị đau mắt nặng rồi bị mù.
Không khuất phục trước số phận, Nguyễn Đình Chiểu về Gia Định mở trường dạy học
và bốc thuốc chữa bệnh cho dân và tiếng thơ bắt đầu vang khắp lục tỉnh.
- Giặp Pháp đánh vào Gia Định (1859), ông đã đứng vững trên tuyến đầu của cuộc
kháng chiến chống ngoại xâm, cùng nhiều lãnh tụ bàn mưu tính kế đánh giặc và những
vần thơ cháy bỏng căm hờn, sục sôi ý chí chiến đấu.
b.Con người
- Nhìn từ góc độ văn hóa, Nguyễn Đình Chiểu là một con người  Việt Nam trọng đạo
lý, nặng tình người, đậm đà bản sắc dân tộc, yêu  ghét rõ ràng, khen chê dứt khoát. Vì
người, cụ sẵn sàng hy sinh xả thân  không màng danh lợi. Vì đời,cụ chấp nhận mọi thử
thách trước khó nghèo,  khổ cực, không hám lợi, không sợ uy vũ, không khuất phục
cường quyền.
Nguyễn Đình Chiểu có một ý chí, nghị lực phi thường. Ông đã vượt qua những biến
cố trong cuộc đời và ngời sáng những giá trị về nhân cách. Điểm nổi bật khác người
bình thường khi cụ là thầy thuốc, thầy giáo mù lòa nhưng đã vượt lên số mệnh.
- Trên lĩnh vực giáo dục, là một  nhà giáo, trọn đời thầy Đồ Chiểu chăm lo dạy dỗ môn
sinh, truyền thụ  cho thế hệ tương lai những điều cốt lõi của văn hóa Việt Nam về đạo
46
lý  truyền thống của dân tộc và nhân cách của một kẻ sĩ. Hào khí Đồng Nai,  một nét
đẹp văn hóa của con người Nam bộ được nuôi dưỡng và phát huy  chính là nhờ sự
nghiệp giáo dục của biết bao thế hệ người thầy đầy tâm  huyết mà được truyền thụ đến
ngày nay, trong đó nhà thơ - nhà giáo  Nguyễn Đình Chiểu là một trong những người
có công lớn.
- Trên lĩnh vực y học, là một thầy thuốc  giỏi, một lương y thông hiểu sâu sắc y lý
phương Đông và y lý Việt Nam  cả về y thuật và y đức mà y đức của cụ chính là đạo
cứu người lồng trong  nghĩa vụ cứu dân cứu nước.
- Trong văn học, GS.TS. Nguyễn Chí Bền nhận xét: “Có thể nói, lịch sử văn chương
nhân loại ít có trường hợp nào như Nguyễn Đình Chiểu, một ngôi sao có ánh sáng
khác thường - nhà thơ mù lòa mà tác phẩm mang tầm vóc lớn lao, kỳ vĩ; một tâm hồn
trong sáng, đau đáu vì vận nước”. 
- “Cụ là người thầy trong lòng người dân Nam Bộ, với biểu tượng về ý chí, nhân cách
và tình cảm nhân văn đối với quần chúng nhân dân. (…) Cụ hoàn toàn xứng đáng là
một biểu tượng văn hóa nhân văn của dân tộc và xa hơn”, (GS.TS. Bùi Quang Thanh )
2. Sự nghiệp thơ văn
a.Quan điểm nghệ thuật:
- Văn chương phải biểu hiện đạo lí và chiến đấu cho sự nghiệp chính nghĩa.
- Mỗi vần thơ phải ngụ ý khen chê công bằng.
- Văn chương phải là những sáng tạo nghệ thuật có tính thẩm mỹ.
- Ghét lối văn cử nghiệp gò bó.
b. Những tác phẩm chính
- Lục Vân Tiên (Truyện thơ)
- Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (1861)
- Chạy giặc (1859)
- Từ biệt cố nhân (1859)
- Ngư tiều vấn đáp y thuật (từ sau 1874)
c. Nội dung thơ văn
 Lí tưởng đạo đức, nhân nghĩa: Truyện Lục Vân Tiên được viết nhằm mục đích
truyền dạy những bài học về đạo lý làm người chân chính.
 Lòng yêu nước thương dân: Khi cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp nổ
ra, Nguyễn Đình Chiểu đã sáng tác những tác phẩm đáp ứng yêu cầu của cuộc chiến
đấu giữ nước buổi ấy.
d. Nghệ thuật thơ văn
- Vẻ đẹp thơ văn Nguyễn Đình Chiểu ẩn trong tầng sâu của cảm xúc, suy ngẫm.
- Bút pháp trữ tình xuất phát từ cõi tâm trong sáng, nhiệt thành và đầy tình yêu thương
con người.

47
- Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu đậm đà sắc thái Nam Bộ.
- Lời văn mộc mạc mà tả chỉnh, từ dùng chính xác mà gợi cảm.
e. Những đóng góp của tác giả cho nền văn học nước nhà:
-  Nguyễn Đình Chiểu chỉ sáng tác bằng chữ Nôm, hướng về đông đảo quần chúng.
-  Là nhà văn đầu tiên xây dựng thành công hình ảnh những người nông dân trong văn
học dân tộc.
- Kết hợp hài hòa giữa tư tưởng nho gia với đạo nghĩa nhân dân, với ý thức trách
nhiệm đối với vận mệnh của đất nước.

Đề 2. Cảm nhận hình tượng người nông dân nghĩa sĩ qua đoạn trích sau:
Hỡi ôi!
Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ.
Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh Tây,
thân tuy mất tiếng vang như mõ.
Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó.
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác,
tập cờ, mắt chưa từng ngó.
Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn mong mưa;
mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì,
muốn ra cắn cổ.
Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu; hai vầng nhật nguyệt chói loà,
đâu dung lũ treo dê bán chó.
Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm chốn ngược, chốn
xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Khá thương thay!
Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh; chẳng qua là dân ấp,
dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.
Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn; chín chục trận binh thư, đâu chờ bày bố.
Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi đeo bao tấu bầu ngòi; trong tay cầm một ngọn
tầm vông, chi nài sắm dao tu nón gõ.
Hoả mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng
bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Chi nhọc quan quản trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không;
nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
48
Kẻ đâm ngang, người chém dọc, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau,
trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ.
(Trích: Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc – Nguyễn Đình Chiểu)

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI


I. Mở bài
- Vài nét về Nguyễn Đình Chiểu và tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
+ Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ mù yêu nước có tấm lòng thương dân thương đời sâu
sắc.
+ Ông để lại nhiều tác phẩm văn học có giá trị bên cạnh truyện thơ “Lục Vân Tiên”
nổi tiếng thì “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là đỉnh cao trong sáng tác biểu hiện cao độ
nhất tư tưởng yêu nước thương dân của tác giả.
+ Với lòng khâm phục và cảm thương chân thành, nhà văn đã xây dựng tượng đài bất
hủ về người nông dân - những con người chân chất mộc mạc lại mang trong mình nét
đẹp của người hùng dân tộc tự nguyện đánh giặc và xả thân vì sự sống còn của đất
nước.
- Đoạn trích sau đã thể hiện thật cụ thể, sống động bức tượng đài về tập thể nông dân
nghĩa sĩ ấy:
“Hỡi ôi

trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ.”
II. Thân bài
1. Dẫn nhập
- Hoàn cảnh sáng tác:
 + Vào những năm 1861 - 1862, cả đất nước và đặc biệt là nhân dân miền Nam đang
sục sôi ý chí quyết tâm đứng lên chống giặc ngoại xâm - thực dân Pháp.
+ Tác phẩm được Nguyễn Đình Chiểu viết nhân sự kiện ngày 16 - tháng 2 - năm 1861,
tại đồn Cần Giuộc, do căm phẫn với sự ngang ngược, bạo tàn của thực dân Pháp nên
các nghĩa sĩ nông dân đã cùng nhau nổi dậy tập kích phá đồn. Tuy nhiên, do sự chênh
lệch quá lớn về lực lượng, vũ khí nên có đến gần 20 nghĩa sĩ hi sinh trong trận chiến
này. Nguyễn Đình Chiểu đã nhận lệnh của tuần phủ Gia Định viết bài văn tế để đọc
trong buổi truy điệu các nghĩa sĩ.
- Khái quát nội dung: Bài văn tế là khúc ca đầy bi tráng của thời kì đau thương mà hào
hùng của dân tộc; ca ngợi tinh thần dũng cảm, kiên cường, bất khuất, lòng yêu nước
của các nghĩa sĩ nông dân đã xả thân vì nghĩa lớn đồng thời khích lệ ý chí quyết tâm
đánh giặc, tinh thần yêu nước của nhân dân ta trong hoàn cảnh đó.
2. Cảm nhận hình tượng người nông dân nghĩa sĩ qua đoạn trích
49
a. Nguồn gốc xuất thân của những người nông dân nghĩa sĩ
- Từ nông dân nghèo khổ, những dân ấp, dân lân (những người bỏ quê đến khai khẩn
đất mới để kiếm sống)
+ “ cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó ”: hoàn cảnh sống cô đơn, thiếu người nương
tựa, âm thầm lặng lẽ lao động mà vẫn nghèo khó suốt đời
- Nghệ thuật tương phản: chưa quen >< chỉ biết, vốn quen >< chưa biết.
=> Nguyễn Đình Chiểu nhấn mạnh việc quen (đồng ruộng) và chưa quen (chiến trận,
quân sự) của những người nông dân Nam Bộ để tạo sự đối lập tầm vóc anh hùng trong
đoạn sau.
=> Những người nông dân nghĩa sĩ họ chỉ là những người nghèo khó và lương thiện,
chính hoàn cảnh đã buộc họ phải đứng lên trở thành những người chiến sĩ và cuối
cùng là “nghĩa sĩ”
b. Người nông dân nghĩa sĩ hiện lên với lòng yêu nước nồng nàn
- Khi Thực dân Pháp xâm lược người nông dân cảm thấy: Ban đầu lo sợ ⇒ trông chờ
tin quan ⇒ ghét ⇒ căm thù ⇒ đứng lên chống lại.
+ Vốn là những người nông dân nghèo khó không biết đến việc binh đao, họ lo sợ là
chuyện bình thường
+ Sự chờ đợi “quan”: như “trời hạn trông mưa”
+Thái độ đối với giặc: “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”, “muốn tới ăn gan”,
“muốn ra cắn cổ” ⇒ Thái độ căm ghét, căm thù đến tột độ được diễn tả bằng những
hình ảnh cường điệu mạnh mẽ mà chân thực
- Nhận thức về tổ quốc: Họ không dung tha những kẻ thù lừa dối, bịp bợm ⇒ họ chiến
đấu một cách tự nguyện: “nào đợi đòi ai bắt…”
=> Diễn biến tâm trạng người nông dân, sự chuyển hóa phi thường trong thái độ,
chính lòng yêu nước và niềm căm thù giặc, cộng với sự thờ ơ thiếu trách nhiệm của
“quan” đã khiến họ tự gisc,tự nguyện đứng lên chiến đấu
c. Người nông dân nghĩa sĩ cao đẹp bởi tinh thần chiến đấu hi sinh của người nông
dân
- Tinh thần chiến đấu tuyệt vời: Vốn không phải lính diễn binh, chỉ là đân ấp dân lân
mà “mến nghĩa làm quân chiêu mộ”
- Quân trang rất thô sơ: một manh áo vải, ngọn tầm vông, lưỡi dao phay, rơm con cúi
đã đi vào lịch sử ⇒ làm rõ nét hơn sự anh dũng của những người nông dân nghĩa sĩ
- Lập được những chiến công đáng tự hào: “ đốt xong nhà dạy đạo”, “ chém rớt đầu
quan hai nọ”
-“đạp rào”, “xô cửa”, “liều mình”, “đâm ngang”, “chém ngược”…: động từ mạnh chỉ
hành động mạnh mẽ với mật độ cao nhịp độ khẩn trương sôi nổi

50
- Sử dụng các động từ chéo “ đâm ngang, chém ngược” → làm tăng thêm sự quyết liệt
của trận đánh.
=> Tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân nghĩa sĩ đánh giặc cứu nước.
d. Nghệ thuật tiêu biểu
- Từ ngữ mộc mạc, giản dị, hình ảnh gần gũi thân thương.
- Cảm xúc chân thành, sâu sắc: sử dụng thán từ, những từ ngữ đặc tả giàu cảm xúc:
“Hỡi ôi”, côi cút, toan lo, …
- Nghệ thuật điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc được sử dụng với mật độ dày đặc vừa tạo
nhịp điệu, vừa khắc sâu đặc điểm hình tượng người nông dân thuần hậu, chất phác.
- Bút pháp hiện thực, khắc họa chân thực, toàn diện người nông dân.
3. Đánh giá, mở rộng
- Hình tượng người nông dân-nghĩa sĩ là một thành công lớn của nguyễn Đình
Chiểu. Những người nông dân ấy hiện lên rất gần gũi, thân thương mà lại lớn lao,
sừng sững. Nguyễn Đình Chiểu không viết về họ với những lời ngợi ca trân trọng, với
hình ảnh và ngôn từ trau chuốt mà ông khắc hoạ hình ảnh họ bằng những nét vẽ gần
gũi, giản dị, thậm chí có đôi chỗ quê mùa như chính người dân Nam bộ.
- Chỉ với những  nét khắc hoạ giản dị như thế, Nguyễn Đình Chiểu đã đem đến
cho người đọc sự nhận biết mới mẻ về sức mạnh của người nông dân. Khi hoà bình,
họ là những người hiền hoà như mảnh đất quê hương, miệt mài, hăng say trong lao
động, những khi quê hương  có bong kẻ thù, họ vụt lớn mạnh thành anh hùng áo vải
giết quân thù không chờ có hạt nhân, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc.
- Vẻ đẹp ấy ở người nông dân ít được phát hiện trong văn học cổ, chỉ có Nguyễn
Trãi là người đầu tiên có sự tiến bộ trong nhận thức: Làm lật thuyền mới biết sức dân
mạnh như nước hay: Đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân. Và Nguyễn Đình
Chiểu là người thứ hai, sau Nguyễn Trãi nhận ra ở người nông dân một vẻ đẹp, một
sức mạnh tiềm tàng và đã khắc hoạ lại trong tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.
III. Kết bài
- Khẳng định vẻ đẹp của người nghĩa sĩ nông dân trong đoạn trích nói riêng, trong cả
tác phẩm nói chung.
- Phát biểu cảm nghĩ về hình tượng ấy.
- Bộc lộ sự ngưỡng mộ tài năng và tấm lòng của Nguyễn Đình Chiểu thể hiện qua
đoạn trích, qua bài văn tế
- Liên hệ bản thân, rút ra bài học về tinh thần yêu nước, uống nước nhớ nguồn.

BÀI 6 – HAI ĐỨA TRẺ (Thạch Lam)

51
Đề 1. Nêu hiểu biết cơ bản về tác giả Thạch Lam và tác phẩm truyện ngắn “Hai
đứa trẻ”.

1.Tác giả
a. Cuộc đời - con người
- Thạch Lam (1910 - 1942) tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh (sau đổi thành
Nguyễn Tường Lân) sinh tại Hà Nội, trong một gia đình công chức gốc quan lại.
- Ông là em ruột của Nhất Linh và Hoàng Đạo, cả ba đều là thành viên của nhóm Tự
lực văn đoàn.
- Khi còn nhỏ, Thạch Lam sống ở quê là phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Sau
đó ông theo cha chuyển sang tỉnh Thái Bình.
- Ông học ở Hà Nội, sau khi thi đỗ tú tài phần thứ nhất thì ra làm báo viết văn.
- Trong đời sống hằng ngày, Thạch Lam là người đôn hậu và rất đỗi tinh tế.
b. Quan điểm sáng tác
- Quan điểm của Thạch Lam về văn chương là một quan điểm “nhập cuộc”.
- Thạch Lam từng bày tỏ: “Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến
cho người đọc dự thoát li hay sự quên. Trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh
cao và đắc lực mà chúng ta có để vừa tố cáo và thay đổi cái thế giới giả dối và tàn ác,
vừa làm cho lòng người trong sạch và phong phú hơn.” Coi trọng sự thành thực và lên
án cái giả dối thế nên những tác phẩm của Thạch Lam thường đi sâu khám phá bên
trong con người, dùng con người để thể hiện nên cốt truyện. Văn chương vốn dĩ bắt
nguồn đời sống tinh thần và vật chất xung quanh con người. Chính vì thế, Thạch Lam
cho rằng đối tượng của văn chương chính là cuộc đời qua sự quan sát, xét đoán, qua
rung động của nhà văn.
+ Xung quanh đời sống con người, có rất nhiều điều làm cho nhà văn phải tìm tòi và
khám phá. Mỗi nơi, mỗi sự vật hiện tượng đều ẩn chứa một vẻ đẹp tiềm tàng, ở những
nơi không ai ngờ tới. Và “Công việc của nhà văn là phát hiện cái đẹp ở chính chỗ mà
không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, cho người khác một bài
học trông nhìn và thưởng thức. (Một vài ý nghĩ). Đây quả là suy nghĩ của một nhà văn
mang tâm hồn nhạy cảm, luôn thiết tha với cái đẹp, cái phát hiện và tiếp cảm bao cái
đẹp cho bạn đọc cùng rung động
+ Thạch Lam đã từng quan niệm: “Cái thực tài của nhà văn nguồn gốc chính là ở tâm
hồn nhà văn, một nghệ sĩ phải có một tâm hồn phong phú, những tình cảm dồi dào.
Nếu không, nghệ sĩ đó chỉ là thợ văn khéo thôi.” “Sự thật tâm hồn Thạch Lam diễn
trong văn chương phức tạp nhiều hình, nhiều vẻ, nhưng bao giờ cũng đằm thắm, thân
52
mật, cũng nhân hậu, cũng nghẹn ngào một chút lệ thầm kín của tình thương” ("Thạch
Lam và văn chương” – Thế Lữ).
- Thạch Lam quả đã rất tin tưởng ở khả năng diệu kỳ của văn chương, sức tác động
mãnh liệt của văn chương vào tâm hồn con người, nó có thể đem đến cho con người
những khát vọng cao cả, những tình cảm tốt đẹp, làm cho đời sống con người trở nên
giàu có hơn.
c. Phong cách sáng tác
- Thạch Lam sáng tác không nhiều nhưng đủ để mọi người nhận thấy ông là một nhà
văn có phong cách riêng trong sáng, giản dị mà thâm trầm sâu sắc. Mỗi truyện của ông
giống như một bài thơ trữ tình, giọng điệu điềm đạm nhưng chứa đựng biết bao tình
cảm yêu mến chân thành và sự nhạy cảm của tác giả trước những biến thái của cảnh
vật và lòng người.
- Văn Thạch Lam trong sáng, giản dị mà thâm trầm, sâu sắc :
+ Ông có biệt tài khám phá và đi sâu phân tích tâm lí nội tâm nhân vật. Thạch Lam
thường viết “những truyện không có chuyện”, chủ yếu là khai thác thế giới nội tâm
của nhân vật với những cảm xúc mong manh, mơ hồ trong cuộc sống thường ngày. Vũ
Ngọc Phan cho rằng: “Ông có một ngòi bút lặng lẽ, điềm tĩnh vô cùng, ngòi bút
chuyên tả tỉ mỉ những cái rất nhỏ và rất đẹp, nhưng cảm tình, cảm giác cỏn con nảy nở
và biểu lộ ở đủ các hạng người mà ông tả một cách thật tinh vi…” Còn giáo sư Phong
Lê thì nhận xét rằng: “Thạch Lam có một bút pháp tinh tế, trầm tĩnh, khách quan –
nhưng không khách quan chủ nghĩa, luôn luôn ẩn thoáng một thái độ, một tâm sự kín
đáo mà có sức thông báo và lan truyền.”
+ Người ta gọi Thạch Lam là nhà văn của tầng lớp bình dân nghèo khổ, bất
hạnh.Nhưng những nhân vật trong các tác phẩm của ông dù ở bất cứ hoàn cảnh nào đi
chăng nữa nhưng trong tâm hồn của họ vẫn ánh lên cái chất lòng nhân ái của con
người Việt Nam. Đọc truyện ngắn Thạch Lam ta thấy được sự yêu thương và quý
trong con người với nhau hơn và cũng chính từ đó tác cảm thấy được sự thương cảm
trong mỗi một con người.
+ Nguyễn Tuân đã nhận xét: “Thạch Lam đã làm cho tiếng Việt gọn ghẽ đi, co duỗi
thêm, mềm mại và tươi tắn hơn. Thạch Lam có đem sinh sắc vào tiếng ta. Và theo tôi
nghĩ, đứng bên cái tiêu chuẩn thái độ tư tưởng nó là tiêu chuẩn chung cho các thể, các
ngành văn nghệ thì đây là cái chuẩn trong những tiêu chuẩn quan trọng nếu không là
duy nhất”. Thạch Lam đã mang tới những đóng góp không nhỏ trong quá trình hiện
đại hóa văn học trên phương diện ngôn ngữ và mang dấu ấn rất riêng của cây bút lãng
mạn, giàu xúc cảm và tài hoa.
- Một số tác phẩm:
 Truyện ngắn: Gió lạnh đầu mùa (1937), Nắng trong vườn (1938), Sợi tóc (1942)

53
 Tiểu thuyết: Ngày mới (1939)
 Tùy bút: Hà Nội băm sáu phố phường (1943)...
 “Con người và văn chương Thạch Lam dễ khiến người ta yêu, người ta mến”. (Trần
Đăng Suyền – Lê Quang Hưng).
d. Những nhận định về Thạch Lam
- “Ngay trong tác phẩm đầu tay (Gió đầu mùa), người ta đã thấy Thạch Lam đứng vào
một phái riêng...Ông có một ngòi bút lặng lẽ, điềm tĩnh vô cùng, ngòi bút chuyên tả tỷ
mỷ những cái rất nhỏ và rất đẹp... Phải là người giàu tình cảm lắm mới viết được như
vậy.” – Vũ Ngọc Phan
- “Lời văn Thạch Lam nhiều hình ảnh, nhiều tìm tòi, có một cách điệu thanh thản, bình
dị và sâu sắc. Văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của một tâm
hồn nhạy cảm và tầng trải về sự đời. Thạch Lam có những nhận xét tinh tế về cuộc
sống hàng ngày. Xúc cảm của Thạch lam thường bắt nguồn và nảy nở lên từ những
chân cảm đối với tầng lớp dân nghèo thành thị và thôn quê. Thạch Lam là nhà văn quý
mến cuộc sống, trang trọng trước cuộc sống của mọi người chung quanh. Ngày nay
đọc lại Thạch lam, vẫn thấy đầy đủ cáo dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt
cách và phẩm chất văn học.” – Nhà văn Nguyễn Tuân
- “Thạch Lam là một nhà văn có khuynh hướng xã hội...Đối với ông, nhân vật thường
là những người tầm thường trong xã hội: mẹ Lê trong xóm nghèo, cô hàng xén ở phố
huyện, cậu học trò đi ở trọ, hai cô gái giang hồ trơ trọi. Và ông thường để ý vạch vẽ
cuộc đời, tình cảm cùng ý nghĩ của họ, chớ không bận tâm lắm đến việc tuyên truyền
tư tưởng cách mạng xã hội như trong các tác phẩm của Nhất Linh hay Hoàng Đạo. Ta
thấy Thạch Lam, luôn hòa đồng trong cái xã hội nhỏ bé mà ông thương xót với tất cả
tâm hồn đa cảm của ông.” – Giáo sư Phạm Thế Ngũ
2. Tác phẩm
- Trích trong tập “Nắng trong vườn” (1938). 
- Tác phẩm được gợi cảm hứng từ những kỉ niệm tuổi thơ gắn bó với miền quê ngoại
thành Hà Nội - phố huyện Cẩm Giàng, Hải Dương, quê ngoại nhà văn.
- Hai đứa trẻ tiêu biểu cho phong cách truyện ngắn tài hoa, độc đáo của Thạch Lam.
Ở Hai đứa trẻ, chất hiện thực hòa quyện với lãng mạn, tự sự hòa quyện với trữ tình.

Đề 2. Cảm nhận bức tranh phố huyện và tâm trạng của An và Liên qua đoạn trích
sau:
Tiếng trống thu không trên cái chợ của huyện nhỏ; từng tiếng một vang xa để
gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn
than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rơ rệt trên nền trời.
Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran

54
ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo
ve. Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần
và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị. Liên không
hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn.
- Em thắp đèn lên chị Liên nhé?
Nghe tiếng An, Liên đứng dậy trả lời:
- Hẵng thong thả một lát nữa cũng được. Em ra ngồi đây với chị kẻo trong muỗi.
An bỏ bao diêm xuống bàn cùng chị ra ngoài chỏng ngồi; chiếc chõng nan lún
xuống và kêu cót két.
- Cái chõng này sắp gãy rồi chị nhỉ?
- Ừ để rồi chị bảo mẹ mua cái khác thay vào.
Hai chị em gượng nhẹ ngồi yên nhìn ra phố. Các nhà đã lên đèn cả rồi, đèn treo
trong nhà bác phở Mĩ, đèn Hoa Kì leo lét trong nhà ông Cửu, và đèn dây sáng xanh
trong hiệu khách...
Những nguồn ánh sáng đều chiếu ra ngoài phố khiến cát lấp lánh từng chỗ và
đường mấp mô thêm vì những hòn đá nhỏ một bên sáng một bên tối.
Chợ họp giữa phố văn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ
còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của
ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của
đất, của quê hương này. Một vài người bán hàng về muộn đang thu xếp hàng hóa, đ ṇ
gánh đã xỏ sẵn vào quang rồi, họ còn đứng nói chuyện với nhau ít câu nữa.
Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi.
Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các
người bán hàng để lại, Liên trông thấy động lòng thương nhưng chính chị cũng không
có tiền để mà cho chúng nó.”
(Trích: Hai đứa trẻ - Thạch lam)

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI

I. Mở bài
- Thạch Lam là hiện tượng đặc biệt trong văn học lãng mạn 1930-1945. Ông sở
trường về truyện ngắn. Văn phong của Thạch Lam trong trẻo, nhẹ nhàng, gợi cảm. Và
đằng sau những trang văn tinh tế đầy cảm xúc ấy là tấm lòng trắc ẩn đối với những
kiếp người nghèo khổ trong xã hội cũ.
- “Hai đứa trẻ” là một trong những truyện ngắn xuất sắc của Thạch Lam viết về kí ức
một thời tuổi thơ gắn với miền quê nghèo Cẩm Giàng – Hải Dương.

55
- Câu chuyện “nhẹ nhàng như cánh bướm non nhưng lại gieo vào lòng người rất nhiều
bận bịu” (Xuân Diệu)
- Đó là những bức vẽ hiện thực ảm đạm với cảnh ngày tàn, chợ tàn, những kiếp người
tàn tạ được khúc xạ qua lăng kính của một tâm hồn lãng mạn, giàu chất thơ
- Ngay từ đầu tác phẩm, Thạch Lam đã gây ấn tượng cho người đọc bởi bức tranh phố
huyện lúc chiều tàn: “Tiếng trống thu không trên cái chợ của huyện nhỏ…Liên trông
thấy động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó.”
II. Thân bài
1. Dẫn nhập
- Hoàn cảnh sáng tác: Câu chuyện được gợi ra từ kí ức tuổi thơ của Thạch Lam ở quê
ngoại là phố huyện Cẩm Giàng- Hải Dương. Khoảng thời gian có điều kiện tiếp xúc
với nơi thôn dã đã khảm vào tác phẩm của ông bức họa về khung cảnh những góc phố
tiêu điều, héo hắt cùng những cảnh đời tù túng, bế tắc.
- Đoạn trích nằm ở phần đầu của tác phẩm, tái hiện thật ấn tượng về một phố huyện
lúc chiều tàn đẹp mà buồn man mác.
2. Bức tranh thiên nhiên nơi phố huyện lúc chiều tàn:
- Hình ảnh, màu sắc:
+ Bầu trời: "Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn
than sắp tàn;
+ Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rơ rệt trên nền trời.
→ cảnh hoàng hôn rực rỡ, lóe sáng, nhưng lại là khoảnh khắc ngắn ngủi thể hiện sự
tàn lụi của ánh mặt trời, cảnh vật ngay lập tức sẽ bị bóng tối bao trùm.
- Âm thanh: Những âm thanh quen thuộc:
+ tiếng trống thu không "từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều" → thứ âm thanh
vẳng từ xa, chậm dãi, uể oải mệt lừ…
+ Tiếng ếch nhái "văng vẳng”, “kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào" →
cảm giác về sự tù đọng, ẩm thấp của không gian.
+ "muỗi đã bắt đầu vo ve" → ẩm thấp, tối tăm, tù túng, tĩnh lặng, buồn bã.
+ Tiếng cót két của chiếc chõng nan lún xuống → gợi về sự cũ kĩ, nghèo nàn.
- Đường nét tranh tối tranh sáng, không gian của bầu trời chợt bừng đỏ hoàng hôn và
sự hóa bóng của vạn vật khi đặt trong sự tương phản với bầu trời “Dãy tre làng đen lại,
cắt hình rõ rệt trên nền trời”.
 Bức tranh giàu chất hội họa, sinh động, khơi gợi nhiều cảm xúc cho người đọc về
một làng quê đẹp thanh bình nhưng nghèo khó và buồn bã…
3. Hình ảnh chợ tàn:
- Chợ vốn là nơi giao thương đông vui tấp nập, thể hiện bộ mặt kinh tế của làng
- Dấu hiệu của chợ tàn trong phố huyện:

56
+ Không gian: vắng vẻ, tĩnh lặng
+ Âm thanh: Không còn tiếng ồn ào đặc trưng của khu chợ phố huyện ““Chợ họp giữa
phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất.”, tiếng nói chuyện rời rạc, thưa
thớt của vài người đi chợ muộn “họ còn đứng nói chuyện với nhau ít câu nữa.”;
+ Hình ảnh: Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía; một vài
người bán hàng còn nán lại; những đứa trẻ nhặt rác. 
+ Mùi: “Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi (mùi riêng
của đất, của quê hương”.
=> Nghệ thuật miêu tả tỉ mỉ, đa chiều làm nổi bật hình ảnh về một cuộc sống khó
khăn, nghèo khổ, buồn bã quẩn quanh của những con người nơi phố huyện – một điển
hình cho làng quê thời trước 1945.
4.  Những kiếp người tàn tạ
-   Hình ảnh những đứa trẻ nhặt rác:
+ Trên nền cái chợ tàn, "Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt
đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hay bất cứ cái gì có thể dùng
được của các người bán hàng để lại.”
→ những kiếp sống đang dần lụi tàn: phải sống trên đống rác + chờ đợi, gieo hi vọng
từ những mảnh rác rưởi của chợ tàn.
- Hình ảnh chị em Liên:
+ Bị bó chân nơi cửa hàng tạp hóa nhỏ, mòi mòn chờ đợi từng khách mua.
+ Tâm trạng buồn bã khi chứng kiến cảnh phố huyện chiều tàn: “Liên ngồi yên lặng
bên mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi
chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị: Liên không hiểu sao, nhưng chị
thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn.”
=> Cuộc đời chúng thật tối tăm, bế tắc.
5. Tâm trạng Liên và An trong cảnh chiều tàn.
- Cảm giác yêu mến những gì thân thuộc của quê hương, dù đó là những thứ rất bình
dị: “mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến
chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này.”
- Cảm giác buồn bã trước sự nghèo nàn, tù túng của cuộc sống nơi thôn quê: “đôi mắt
chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây
thơ của chị: Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác trước cái giờ
khắc của ngày tàn.”
- Đồng cảm, sẻ chia với những thân phận nghèo khó: những đứa trẻ nhặt nhạnh những
thứ sót lại của chợ tàn. Chẳng có gì giá trị cả. “Liên trông thấy động lòng thương
nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó.”

57
=> Vẻ đẹp tâm hồn nhạy cảm, tinh tế và đầy nhân ái của những đứa trẻ cùng cảnh ngộ.
Đó cũng chính là vẻ đẹp tâm hồn nhân hậu, giàu tình thương của Thạch Lam.
6. Đánh giá, nhận xét
- Ngòi bút miêu tả vừa chân thực vừa lãng mạn được thể hiện qua một tâm hồn giàu
cảm xúc đã khiến cho đoạn trích nói riêng, tác phẩm nói chung mang đậm chất thơ –
Một đoạn thơ trữ tình đuowmj buồn!
- Chất thơ ấy thể hiện cái nhìn của Liên, ở giọng văn của Thạch Lam bàn bạc trong
khắp thiên chuyện. Và nói như Thạch Lam “văn chương làm cho lòng người thêm
thanh sạch và phong phú hơn” thì có lẽ “Hai đứa trẻ” của ông đã đáp ứng được những
đòi hỏi đó.
III. Kết bài
- Khẳng định vẻ đẹp bức tranh phố huyện và tâm trạng của An và Liên qua đoạn trích -
- Khẳng định tài năng văn chương và tấm lòng của nhà văn
- Cảm nhận những thông điệp ý nghĩa mà đoạn trích đem lại.

Đề 3. Cảm nhận bức tranh phố huyện về đêm qua đoạn trích sau:
Trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát.
Đường phố và các ngơ con dần dần chứa đầy bóng tối. Các nhà đã đóng im ỉm, trừ
một vài cửa hàng còn thức, nhưng cửa chỉ để hé ra một khe ánh sáng. Trẻ con tụ họp
nhau ở thềm hè, tiếng cười nói vui vẻ, khiến An thèm muốn nhập bọn với chúng để nô
đùa, nhưng sợ trái lời mẹ dặn phải coi hàng, nên hai chị em đành ngồi yên trên chỏng,
đưa mắt theo dõi những bóng người về muộn, từ từ đi trong đêm.
Vòm trời hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh, lẫn với vệt sáng của những con
đom đóm bay là trên mặt đất hay leo vào cành cây. An và Liên lặng ngước mắt lên
nhìn các vì sao để tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông. Vũ trụ thăm
thẳm bao la đối với tâm hồn hai đứa trẻ như đầy bí mật và xa lạ và làm mỏi trí nghĩ,
nên chỉ một lát hai chị em lại chúi nhìn về mặt đất, về quầng sáng thân mật chung
quanh ngọn đèn lay động trên chỏng hàng của chị Tí. Về phía huyện, một chấm lửa
khác nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đêm tối, mất đi, rồi lại hiện ra... An trỏ tay bảo chị:
- Kìa, hàng phở của bác Siêu đã đến kia rồi.
Tiếng đòn gánh kĩu kịt nghe rơ rệt, khói theo gió tạt lại chỗ hai chị em: bác Siêu
đã tới gần, đặt gánh phở xuống đường. Bác cúi xuống, nhóm lại lửa, thổi vào cái nứa
con. Bóng bác mênh mang ngả xuống đất một vùng và kéo dài đến tận hàng rào hai
bên ngơ. An là Liên ngửi thấy mùi phở thơm, nhưng ở cái huyện nhỏ này, quà bác Siêu
bán là một thứ quà xa xỉ, nhiều tiền, hai chị em không bao giờ mua được. Liên nhớ lại
khi ở Hà Nội chỉ được hưởng những thức quà ngon, lạ - bấy giờ mẹ Liên nhiều tiền -
được đi chơi bờ hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ. Ngoài ra, kỷ niệm nhớ lại

58
không rơ rệt, chỉ là một vùng sáng rực và lấp lánh. Hà Nội nhiều đèn quá! Từ khi nhà
Liên dọn về đây, từ khi có cái cửa hàng này, đêm nào Liên và em cũng phải ngồi trên
chiếc chỏng tre dưới gốc bàng với cái tối của quang cảnh phố chung quanh.
Đêm tối đối với Liên quen lắm, chị không sợ nó nữa. Tối hết cả, con đường
thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn nữa.
Giờ chỉ còn ngọn đèn con của chị Tí, và cái bếp lửa của bác Siêu chiếu sáng một vùng
đất cát; trong cửa hàng, ngọn đèn của Liên, ngọn đèn vặn nhỏ, thưa thớt từng hột
sáng lọt qua phên nứa. Tất cả phố xá trong huyện bây giờ thu nhỏ lại nơi hàng nước
của chị Tí. Thêm được một gia đình bác xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt trắng
để trước mặt, nhưng bác chưa hát vì chưa có khách nghe.
Chị Tí phe phẩy cành chuối khô đuổi ruồi bò trên mấy thức hàng, chậm rãi nói:
- Giờ muộn thế này mà họ chưa ra nhỉ?
Chị muốn nói mấy chú lính trong huyện, mấy người nhà của cụ thừa, cụ lục [9] là
những khách hàng quen của chị. Bác Siêu đáp vẩn vơ.
- Hôm nay trong ông giáo cũng có tổ tôm. Dễ họ không phải đi gọi đâu.
Vợ chồng bác xẩm góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bần bật trong yên lặng.
Thằng con bò ra đất, ngoài manh chiếu, nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên
đường. Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống
nghèo khổ hằng ngày của họ.
(Trích: Hai đứa trẻ - Thạch lam)

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI

I. Mở bài
- Thạch Lam là hiện tượng đặc biệt trong văn học lãng mạn 1930-1945. Ông sở
trường về truyện ngắn. Văn phong của Thạch Lam trong trẻo, nhẹ nhàng, gợi cảm. Và
đằng sau những trang văn tinh tế đầy cảm xúc ấy là tấm lòng trắc ẩn đối với những
kiếp người nghèo khổ trong xã hội cũ.
- “Hai đứa trẻ” là một trong những truyện ngắn xuất sắc của Thạch Lam viết về kí ức
một thời tuổi thơ gắn với miền quê nghèo Cẩm Giàng – Hải Dương.
- Đọc “Hai đứa trẻ” ta không chỉ thấy bức tranh thiên nhiên phố huyện nghèo mà còn
là bức tranh đời sống lúc chiều tối và đêm xuống, được quan sát, cảm nhận qua tâm
hồn ngây thơ nhạy cảm của hai đứa trẻ - hai chị em Liên và An.
- Đoạn trích sau thể hiện thật ấn tượng điều đó: “Trời đã bắt đầu đêm,… Chừng ấy
người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày
của họ.”
II. Thân bài

59
1. Dẫn nhập
- Hoàn cảnh sáng tác: Truyện “Hai đứa trẻ” in trong tập “Nắng trong vườn”, nhà xuất
bản "Đời tay”, Hà Nội, 1938. Truyện ngắn này tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật
Thạch Lam, khai thác những mẫu đời thường mà nơi sâu kín tâm hồn của mảnh đời
nào cũng chứa đầy bao nỗi xót xa, thương cảm.
- Đoạn trích nằm ở phần giữa của tác phẩm, tái hiện thật ấn tượng về một phố huyện
về đêm buồn xơ xác.
2. Bức tranh phố huyện về đêm
a. Bối cảnh
- Chuyện mở ra một thời điểm là phố huyện lúc chiều xuống. Tiếng là phố huyện
nhưng chỉ là một thị trấn nhỏ bé, nghèo nàn ở nước ta những năm đầu thế kỉ XX mà
Tú Xương có nói đến: “Phố phường tiếp giáp với bờ sông” ... Đó là một phố huyện
nghèo nàn, xơ xác, có đường tàu đi qua, một ga xép, một cái chợ nhỏ bé nằm giữa
thôn xóm và cánh đồng. Thời gian là một buổi chiều muộn và cảnh đầu hôm cho đến
lúc chuyến tàu chạy qua. Có hai đứa trẻ ngồi trong một ngôi hàng xén nhỏ nhoi ngắm
nhìn cảnh vật và cố thức đợi chuyến tàu đêm chạy qua.
b. Khung cảnh phố huyện hiện ra theo sự quan sát của An và Liên
* Phố huyện tĩnh lặng, thanh bình
- Trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát.
- Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối.
- Các nhà đã đóng im ỉm, trừ một vài cửa hàng còn thức, nhưng cửa chỉ để hé ra một
khe ánh sáng.
- Trẻ con tụ họp nhau ở thềm hè, tiếng cười nói vui vẻ,
- Những bóng người về muộn, từ từ đi trong đêm.
→ hình ảnh và từ ngữ đẹp nhẹ nhàng, uyển chuyển, hài hòa giữa không khí “thoảng
mát” và chút khe sáng hắt ra từ các cửa trong phố nhỏ cùng âm thanh trong trẻo của
tiếng nói tiếng cười trẻ nhỏ, và cả những bóng người lặng lẽ đi về trong đêm…”
Khung cảnh vẫn khiến lòng người nao nao bởi cái vắng vẻ và kém phần sôi nổi của
phố huyện.
* Bầu trời lung linh, huyền ảo
- Hình ảnh: hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh, lẫn với vệt sáng của những con
đom đóm bay là trên mặt đất hay leo vào cành cây.→ thăm thẳm, bao la đầy bí mật và
xa lạ
- Đối lập với phố huyện nhỏ bé nghèo nàn, nơi có những “quầng sáng”, một “chấm
lửa” nhỏ và vàng lơ lửng, yếu ớt, hắt hiu, và cả những kiếp người bé mọn.
* Sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối nơi phố huyện.

60
- Bóng tối được miêu tả dày đặc và xâm lấn rất nhanh: “Tối hết cả, con đường thăm
thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn nữa”
- Ánh sáng được miêu tả bằng những kết hợp từ lạ “khe sáng”, “quầng sáng”, ‘hột
sáng” và vật phát sáng là chiếc đèn nhỏc ủa chị Tý, bếp lửa của bác phở Siêu.
→ Hình ảnh đối lập, tạo ra một cuộc đấu tranh giữa ánh sáng và bóng tối. Sự tồn tại
của ánh sáng nơi phố huyện nghèo chỉ đề chứng minh rằng đêm tối ở đó dày đặc lắm.
Và ánh sáng vẫn kiên cường bền bỉ tự khẳng định sự tồn tại của mình dù chỉ là những
vệt sáng, quầng sáng, hột sáng mà thôi.
* Những số phận con người mưu sinh trong đêm.
- Chị em Liên: bền bỉ, nhẫn nại ngồi trông cửa hàng và đợi mẹ.
- Mẹ con chị Tý: chăm chỉ, cần mẫn bán hàng nước dù khách chả có mấy ai.
- Gia đình bác Xẩm lê la trên manh chiếu, chiếc thau trắng vẫn trơ đó.
- Bác phở Siêu với gánh hàng xa xỉ mà luôn ế ẩm…
→ Tất cả góp phần vào cảnh đời đầy bóng tối nơi phố huyện nghèo nàn xơ xác, những
kiếp sống lầm than, tàn tạ và cơ cực. “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một
điều gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ".
c.Tâm trạng của hai đứa trẻ.
- Chúng cũng cố gắng mở lòng đốn nhận vẻ đẹp thiên nhiên đêm mùa hạ đẹp như
nhung, ngắm nhìn những chòm sao và mơ ước.
- Nhưng hiện thực luôn bủa vậy và kéo các em trở về thực tại buồn tẻ nơi phố huyện.
- Chúng vẫn không nguôi hi vọng, cũng như bao con người nơi phố huyện, họ vẫn lay
lắt sống để chờ đợi một điều gì tốt đẹp ở tương lai.
3. Đánh giá, nhận xét
- Thạch Lam yêu cái đẹp nhưng với ông, văn chương không phải lấy cái đẹp làm cứu
cánh, không phải ngợi ca cái đẹp mà xa rời hiện thực. Bởi vậy mà những yếu tố lãng
mạn luôn được tiết chế vừa đủ để người đọc cảm nhận dư vị cuộc sống, đó như một
thứ gia vị ngọt ngào làm cho cuộc sống bợt ngôtỵ ngạt, tối tăm.
- Giọng điệu trong truyện Thạch Lam rất riêng, đó là giọng điệu của tâm tình thủ thỉ.
Đó là liếng nói của một con người, như Nguyễn Tuân nhận xét là "tính tình nhẹ nhàng
tinh tế", "vừa sống vừa lắng nghe chung quanh..." với bao chuyện buồn vui đang xảy
ra.
- Thạch Lam rất tinh tế và sâu sắc trong phân tích thế giới nội tâm nhân vật, gợi xúc
động những hình thái mơ hồ, mong manh trong lòng người. 
III. Kết bài
- Đánh giá nghệ thuật kể chuyện, nghệ thuật xây dựng bức tranh phố hyện về đêm độc
đáo, đặc sắc.

61
- Nhận xét, đánh giá về thành công của đoạn trích đối với tác phẩm, đồng thời nhận
xét, đánh giá tài năng văn chương và vẻ đẹp tâm hồn Thạch Lam
- Rút ra liên hệ bản thân.

Đề 4 . Phân tích diễn biến tâm lí nhân vật Liên và An trong đoạn trích sau:
Trống cầm canh ở huyện đánh tung lên một tiếng ngắn, khô khan, không vang
động ra xa, rồi chìm ngay vào bóng tối. Người vắng mãi, trên hàng ghế chị Tí mới có
hai ba bác phu ngồi uống nước và hút thuốc lào. Nhưng một lát từ phố huyện đi ra,
hai ba người cầm đèn lồng lung lay các bóng dài: mấy người làm công ở hiệu khách
đi đón bà chủ ở tỉnh về. Bác Siêu nghển cổ nhìn ra phía ga, lên tiếng:
- Đèn ghi đã ra kia rồi.
Liên cũng trông thấy ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất, như ma trơi. Rồi tiếng còi
xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo gió xa xôi. Liên đánh thức em:
- Dậy đi, An. Tàu đến rồi.
An nhỏm dậy, lấy tay dụi mắt cho tỉnh hẳn. Hai chị em nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng
xe rít mạnh vào ghi. Một làn khói bừng sáng trắng lên đằng xa, tiếp đến tiếng hành
khách ồn ào khe khẽ. Mấy năm nay buôn bán kém nên người lên xuống ít, có khi hai
chị em đợi chờ chẳng thấy ai. Trước kia, ở sân ga, có mấy hàng cơm mở đón khách,
đèn sáng cho đến nửa đêm. Nhưng bây giờ họ đóng cửa cả rồi, cũng im lặng tối đen
như ngoài phố.
Hai chị em chờ không lâu. Tiếng còi đã rít lên, và tàu rầm rộ đi tới. Liên dắt em
đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường.
Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng
và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng. Rồi chiếc tàu đi vào đêm tối, để lại những đốm
than đỏ bay tung trên đường sắt. Hai chị em còn nhìn theo cái chấm đỏ của chiếc đèn
xanh trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre.
- Tàu hôm nay không đông nhỉ, chị nhỉ.
Liên cầm tay em không đáp. Chuyến tàu đêm nay không đông như mọi khi, thưa
vắng người và hình khư kém sáng hơn. Nhưng họ ở Hà Nội về! Liên lặng theo mơ
tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một
chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng
ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. Đêm tối vẫn bao bọc chung quanh, đêm
của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và yên lặng.
- Thôi đi ngủ đi chị.
Liên vỗ vai em ngồi xuống chỏng. An cũng ngồi xuống và ngả đầu vào vai Liên.
Tiếng vang động của xe hỏa đã nhỏ dần, và mất dần trong bóng tối, lắng tai cũng
không nghe thấy nữa. Sao trên trời vẫn lấp lánh. Cả phố huyện bây giờ mới thật là hết

62
náo động, chỉ còn đêm khuya, tiếng trống cầm canh và tiếng chó cắn. Từ phía ga,
bóng đêm lồng với bóng người đi về; chị Tí đương sửa soạn đồ đạc và bác Siêu đã
gánh hàng đi vào trong làng, còn vợ chồng bác xẩm ngủ gục trên manh chiếu tự bao
giờ.
Liên quay lại nhìn em thấy An cũng đã ngủ say, tay nắm chặt tà áo chị và đầu
vẫn dựa vào vai. Liên nhìn quanh đêm tối, gió đã thoáng lạnh và đom đóm không còn
nữa. Chị cúi xuống vực em vào trong hàng, mắt cũng đã ríu lại. Chị gài cửa cẩn thận
và vặn nhỏ đèn đặt trên cái quả thuốc sơn đen. Rồi Liên đến bên em nằm xuống. Chị
gối đầu lên tay nhắm mắt lại. Những cảm giác ban ngày lắng đi trong tâm hồn Liên và
hình ảnh của thế giới quanh mình mờ đi trong mắt chị. Liên thấy mình sống giữa bao
nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất
nhỏ. Nhưng Liên không nghĩ được lâu; mắt chị nặng dần, rồi sau Liên ngập vào giấc
ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối.
(Trích: Hai đứa trẻ - Thạch lam)

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI


I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả
+ Nhắc đến Thạch Lam là nhắc đến một cây bút có biệt tài viết truyện ngắn với phong
cách viết nhẹ nhàng, sâu lắng. Dù là thành viên nhóm Tự lực văn đoàn nhưng khác với
Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái Hưng... ngòi bút của Thạch Lam có khuynh hướng đi
gần với cuộc sống của những người dân bình thường nghèo khổ.
+ Ông đi sâu khai thác thế giới nội tâm nhân vật với những cảm xúc mong manh, mơ
hồ trong cuộc sống thường ngày.
+ Mỗi truyện của Thạch Lam như một bài thơ trữ tình, giọng điệu điềm đạm nhưng
chứa đựng biết bao tình cảm mến yêu chân thành và sự nhạy cảm của tác giả trước
những biến thái của cảnh vật và lòng người. Văn Thạch Lam trong sáng, giản dị mà
thâm trầm, sâu sắc.
- Giới thiệu tác phẩm
+ Hai đứa trẻ là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Thạch Lam.
- Giới thiệu đoạn trích: Đặc biệt, tài năng miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn thể hiện
rõ nét qua đoạn trích sau
- Trích dẫn: (…)
II. Thân bài
1. Dẫn nhập
- Tóm lược nội dung cơ bản tác phẩm

63
+ Câu chuyện được bắt đầu với những xao động trong tâm hồn hai đứa trẻ khi nghe
tiếng trống thu không gọi chiều về trên phố huyện.
+ Màn đêm buông xuống, bóng tối “ngập đầy dần đôi mắt Liên”. Đêm tối như ôm
trùm lên tất cả phố huyện và càng dày đặc mênh mông hơn khi nhà văn điểm vào đó
những “hột sáng”, “quầng sáng” leo lét, lờ mờ và một chấm lửa nhỏ lơ lửng trôi đi
trong đêm…
+ Nổi bật lên giữa thế giới đầy bóng tối và sự tàn tạ của cảnh vật: chiều tàn, chợ tàn,
chõng tàn… là cảnh sống lam lũ quẩn quanh của những đứa trẻ nhặt rác, mẹ con chị Tí
với gánh hàng nước ế ẩm, gia đình bác xẩm, bà cụ Thi điên và hai chị em Liên và An
với gian hàng tạp hoá còm cõi, lèo tèo, xơ xác.
+ Sống giữa phố huyện nghèo đầy bóng tối nhưng chị em Liên cũng như chừng ấy
người nơi phố huyện vẫn luôn “mong đợi một cái gì tươi sáng hơn cho sự sống nghèo
khổ hàng ngày của họ”. Đó chính là lí do khiến chị em Liên đêm đêm vẫn cố thức để
được nhìn chuyến tàu đi qua phố huyện.
- Nêu vị trí đoạn trích: đoạn trích nằm ở phần cuối của tác phẩm, diễn tả tâm trạng háo
hức đợi tàu của hai đứa trẻ tội nghiệp.
2. Phân tích diễn biến tâm lí nhân vật Liên và An trong cảnh đợi tàu
- Ý nghĩa hình ảnh đoàn tàu:
+ Là biểu tượng của những điều mới mẻ, khác lạ mà những con người phố huyện đang
khao khát vươn đến.
+ Là biểu tượng của quá khứ đẹp đẽ với hình ảnh Hà Nội huyên náo, Hà Nội sáng rực
vui vẻ trong tuổi thơ của Liên và An.
- Diễn biến tâm trạng của Liên và An
+ Chờ đợi, mong ngóng: Chị em Liên đón đợi chuyến tàu như đón đợi phút giây giao
thừa thiêng liêng mỗi khi Tết đến, xuân về. Cậu bé An buồn ngủ, mí mắt sắp sửa rơi
mà vẫn còn dặn chị: “ Tàu đến, chị gọi em thức dậy nhé!”. Còn Liên “ngồi yên không
động đậy ngắm sao trời lấp lánh và hoa bàng khẽ rơi, tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn”, có
những cảm giác mơ hồ, không hiểu.
+ Hồi hộp, háo hức, : Nhìn thấy ánh đèn ghi từ xa, nghe tiếng còi vọng lại, Liên đã
vội đánh thức em dậy: “ Dậy đi, An. Tàu đến rồi!” Lời gọi đầy hối thúc, giục dã vang
lên như tiếng reo vui hồ hởi. Rồi tiếng còi rít lên, tàu rầm rộ đi tới, cả phố huyện bừng
lên, sáng rực rỡ, sôi động, sang trọng, Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua.
Hai chị em háo hức muồn hòa mình vào thế giới đông vui náo nhiệt ấy.
+ Chăm chú quan sát chuyến tàu đi qua: âm thanh rầm rộ, tiếng xe rít mạnh vào
ghi, tiếng còi rú lên, ánh sáng rực rỡ hắt ra từ các toa xe lửa, những đốm than đỏ bay
tung…

64
+ Ngẩn ngơ, tiếc nuối khi thấy tàu vụt qua: hai chị em vẫn nhìn theo cái chấm nhỏ
của chiếc đèn xanh trên toa sau cùng rồi ra xa mãi, khuất sau rặng tre. An băn khoăn
nghĩ ngợi; “Tàu hôm nay không đông chị nhỉ?”. Còn Liên thì “lặng theo mơ tưởng”.
+ Nặng trĩu u buồn: “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như
chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”.
- Nghệ thuật:
+ Bút pháp miêu tả: miêu tả đoàn tàu khi qua lồng vào đó là sự đối lập giữa ánh sáng
và bóng tối; miêu tả tâm trạng nhân vật Liên với những nắm bắt tinh tế, nhanh nhạy
khi đoàn tàu đi qua phố huyện và mơ ước đổi đời của em cũng như biết bao người.
+ Hình ảnh giàu tính biểu tượng (đoàn tàu) chứa đựng nhiều thông điệp giàu ý nghĩa.
+ Giọng văn nhẹ nhàng, âu yếm, cảm thông; miêu tả hình ảnh đoàn tàu tranh tối tranh
sáng, giàu chất họa.
3. Đánh giá, nhận xét
- Tác giả cất lên tiếng nói bảo vệ tâm hồn những đứa trẻ: hãy cố gắng vươn tới cuộc
sống tốt đẹp hơn và giữ lấy sự hồn nhiên trong trẻo trong tâm hồn những đứa trẻ.
- Đánh giá tài năng bậc thầy của Thạch Lam trong khả năng nắm bắt và miêu tả tâm lí
nhân vật ở chiều sâu tâm hồn.
III. Kết bài
- Khẳng định thành công trong nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật của Thạnh
Lam qua đoạn trích.
- Rút ra những cảm nhận chân thành, sâu sắc từ nhân vật và từ tấm lòng yêu thương
con người của nhà văn Thạch Lam.

Bài tham khảo


Đề bài: Phân tích diễn biến tâm lí nhân vật Liên và An trong cảnh đợi tàu

Nguyễn Tuân nhận xét: “Sáng tác của Thạch Lam giàu chất thơ, và đọc ông, đời
sống bên trong có phong phú hơn, tế nhị hơn; chúng đem đến cho người đọc một cái gì
nhẹ nhõm, thơm tho và mát dịu”. Quả thực, truyện ngắn của Thạch Lam không có thắt
nút, không có mở nút nhưng dễ dàng đi vào tâm trí người đọc bởi một nỗi buồn sâu
lắng mà rất đẹp – vẻ đẹp của một cuộc sống bình thường được Thạch Lam khám phá
ra. Đọc “Hai đứa trẻ” ta như thấy giữa cái khung cảnh tăm tối ngột ngạt của phố huyện
nghèo là ánh sáng tâm hồn, ánh sáng niềm tin của con người vào sự đổi thay tốt đẹp
hơn ở ngày mai. Đặc biệt, ám ảnh và lay động lòng người nhất là tâm trạng khắc
khoải đợi tàu của hai đứa trẻ trong câu chuyện.

Liên và An chính là hình ảnh của chị em Thạch Lam những năm thiếu thời. Khi
vào tác phẩm nhân vật đã được điển hình hoá. Liên là một cô gái mới lớn. Vừa mới

65
lớn nên đam mê sự sống. Vừa mới lớn nên tâm hồn nhạy cảm. Nhận thức có thể chưa
chín nhưng cảm nhận thì đang ở độ sâu sắc nhất của hồn người. Hằng ngày Liên
chứng kiến cuộc sống quẩn quanh, tù túng của những con người ở phố huyện. Những
kiếp người tàn tạ đó là hiện tại cũng là tương lai của Liên. Nếu cuộc sống không thay
đổi tương lai Liên sẽ trở thành những con người kia. Nhận thức điều đó, Liên buồn
thương cho hiện tại, nhớ tiếc quá khứ, mơ tưởng đến tương lai.

       Bao mơ tưởng hai đứa trẻ gửi hết vào hình ảnh chuyến tàu qua phố huyện lúc đêm
khuya. Niềm vui, sự háo hức chờ đợi chuyến tàu đi qua phố huyện thể hiện rõ trong
cái quyết tâm thức đợi tàu của hai đứa nhỏ: “Dù buồn ngủ díu cả mắt nhưng đêm nào,
Liên và An cũng cố thức đợi chuyến tàu khuya từ Hà Nội về”. Chúng cố thức không
phải để mở hàng đón khách như bao người buôn bán khác trên sân ga, trái lại hai chị
em đóng cửa hàng, chờ tàu là vì cớ khác. Đó là vì hai chị em muốn được nhìn thấy
chuyến tàu – là sự hoạt động của cuối cùng của đêm khuya. Và cũng bởi vì con tàu
như đem một thế giới khác đi qua, một thế giới khác hẳn với vầng sáng ngọn đèn của
chị Tý và ánh lửa của Bác Siêu. Phố huyện chìm trong màn đêm tối tăm, lụi tàn, nghèo
nàn, mòn mỏi thì con tàu như đem một thế giới sáng rực, giàu sang, vui vẻ và huyên
náo

       Vì con tàu như đem một thế giới khác đi qua, chị em Liên lặng lẽ đón đợi tàu với
bao xúc cảm vừa bâng khuâng, mơ hồ, vừa hồi hộp, háo hức. Chị em Liên đón đợi
chuyến tàu như đón đợi phút giây giao thừa thiêng liêng mỗi khi Tết đến, xuân về. Cậu
bé An buồn ngủ, mí mắt sắp sửa rơi mà vẫn còn dặn chị: “ Tàu đến, chị gọi em thức
dậy nhé!”. Còn Liên “ngồi yên không động đậy ngắm sao trời lấp lánh và hoa bàng
khẽ rơi, tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn”, có những cảm giác mơ hồ, không hiểu. Dường
như cô bé đã hoàn toàn bứt mình ra khỏi cuộc sống mưu sinh cơ cực để đắm vào thế
giới đầy thơ mộng.

       Nhìn thấy ánh đèn ghi từ xa, nghe tiếng còi vọng lại, Liên đã vội đánh thức em
dậy: “ Dậy đi, An. Tàu đến rồi!” Lời gọi đầy hối thúc, giục dã vang lên như tiếng reo
vui hồ hởi. Rồi tiếng còi rít lên, tàu rầm rộ đi tới, cả phố huyện bừng lên, sáng rực rỡ,
sôi động, sang trọng, Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua. Hai chị em háo
hức muồn hòa mình vào thế giới đông vui náo nhiệt ấy. Nhưng dường như cuộc sống
buồn tẻ, tù đọng kìm hãm tâm hồn hai đứa trẻ, chúng chỉ biết đứng chôn chân, chăm
chú quan sát chuyến tàu đi qua. Chúng cũng kịp thưởng thức những luồng gió mới
mà đoàn tàu mang đến. đó là thứ âm thanh rầm rộ, tiếng xe rít mạnh vào ghi, tiếng còi
rú lên, hoàn toàn khác với những âm thanh đơn điệu của tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo

66
ve hay tiếng chõng nan sắp gãy kêu cót két…Đó là ánh sáng rực rỡ hắt ra từ các toa xe
lửa, những đốm than đỏ bay tung…

Càng háo hức bao nhiêu, hai đứa trẻ càng ngẩn ngơ khi thấy tàu vụt qua bấy
nhiêu. Chuyến tàu đi vào đêm tối, hai chị em vẫn nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc
đèn xanh trên toa sau cùng rồi ra xa mãi, khuất sau rặng tre. Con tàu từ Hà Nội về thực
sự đã hút hồn chị em Liên. Tàu qua, An băn khoăn nghĩ ngợi; “Tàu hôm nay không
đông chị nhỉ?”. Còn Liên thì “lặng theo mơ tưởng”. Dẫu chuyến tàu không vui như
mọi khi, thưa vắng người qua lại và hình như kém sáng hơn bình thường nhưng cô bé
vẫn hân hoan vui sướng bởi con tàu ở Hà Nội về. Con tàu đã đưa Liên trở về tuổi thơ
êm đềm, thời quá khứ ngọt ngào của tuổi thần tiên, niềm nuối tiếc trào dâng trong tâm
hồn chị.

Niềm vui, sự háo hức cũng qua nhanh như con tàu qua phố huyện, hai đứa trẻ
lại trở về với thực tại tối tăm. Đối diện với những cảnh đời khổ cực: mẹ con chị Tí, bác
Siêu, và vợ chồng Bác Xẩm đã ngủ gục trên manh chiếu rách…tâm hồn Liên lại nặng
trĩu u buồn. “Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn
con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”. Đó là cái ám ảnh của một kiếp đời
tăm tối bủa vây tâm hồn ngây thơ của những đứa trẻ. Thật tội nghiệp!

      Qua nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật chân thực mà tinh tế, cùng giọng văn nhẹ
nhàng, âu yếm, nhà văn đã thể hiện thái độ vừa cảm thương xót xa trước cuộc sống
lay lắt, bế tắc của những kiếp người nhỏ bé, nhất là những đứa trẻ, vừa nâng niu vừa
trân trọng khát vọng vươn ra ánh sáng, khát vọng đổi đời của những con người ấy.
Từ cuộc sống của con người nơi phố huyện, trang văn của Thạch Lam còn rung lên
tiếng nói tha thiết có sức lay tỉnh xâu xa trong tâm hồn người đọc: Hãy cứu lấy những
đứa trẻ! Hãy cho trẻ thơ được sống trong hi vọng giống như những chồi noi xanh biếc
căng nhựa sống trên cành mà không phải chỉ tồn tại rồi tài lụi đi trong miền đất chết.

Sống một cuộc đời không dài, có mặt trên văn đang cũng chỉ chừng bảy, tám
năm, số lượng tác phẩm để lại cho đời cũng không nhiều thế nhưng Thạch Lam là
một gương mặt không thể lẫn, không thể quên trong lịch sử văn chương dân tộc.
Thuần hậu, trong sáng, man mác chất trữ tình, đồng thời, một số tác phẩm của Thạch
Lam cũng đậm tính hiện thực. Dường như thời gian càng lùi xa, người ta càng trân
trọng Thạch Lam, càng quý những gì nhà văn này để lại cho đời. Bước vào thế giới
nghệ thuật của Thạch Lam ta như được ở trong một khu vườn râm mát có ánh nắng
dịu dàng và thoang thoảng hương hoàng lan. Tác phẩm Thạch Lam là nơi bảo lưu một
phần vẻ đẹp, một phần tâm hồn dân tộc – điều mà giữa thời buổi kinh tế toàn cầu,
67
kinh tế thị trường này chúng ta càng thiết tha níu giữ. Nó giúp ta lắng lại, tự thanh lọc
tâm hồn giữa dòng đời ồn ã, bon chen. Phải chăng đó là nguyên nhân sâu xa khiến tác
phẩm của nhà văn này vẫn sống, vẫn tiếp tục đồng hành với các thế hệ sau trên con
đường đi tới tương lai.

BÀI 7 – CHÍ PHÈO (Nam Cao)

Đề 1. Nêu những hiểu biết cơ bản về tác giả Nam Cao

HƯỚNG DẤN LÀM BÀI


1. Tác giả
a. Cuộc đời, con người
- Là cây bút xuất sắc của dòng văn học hiện thực (1940 - 1945), là người đi tiên
phong trong việc xây dựng nền văn học mới, Nam Cao được Nhà nước truy tặng Giải
thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt 1,1996).
- Nam Cao vẻ ngoài có phần vụng về, ít nói, lạnh lùng nhưng nội tâm thì luôn luôn sôi
sục, căng thẳng. Trong ông thường diễn ra xung đột gay gắt giữa “lòng nhân đạo và
thói ích kỷ, giữa tinh thần dũng cảm và thái độ hèn nhát, giữa tính chân thực với sự giả
dối, giữa khát vọng cao cả với mong muốn tầm thường
- Trước Cách mạng, Nam Cao mang nặng tâm sự u uất của một trí thức tài cao phận
thấp, nhưng không khinh bạc, “ngất ngưởng” như Nguyễn Tuân... Trong bất cứ hoàn
cảnh nào, ông cũng giữ trọn tấm lòng nhân hậu, hiền hòa. Không nỡ ăn bát cơm ngon
dành riêng cho mình, Nam Cao muốn chia đều cho cả nhà... Vì vậy, viết về người
nghèo, ngòi bút Nam Cao lúc nào cũng tràn đầy niềm xót thương, cảm thông...
- Ông luôn luôn trăn trở, suy tư về bản thân và cuộc sống. Vì thế, từ những chuyện nhỏ
nhặt, thường ngày, Nam Cao nêu được nhiều vấn đề xã hội lớn lao, nhiều bài học triết
lý sâu sắc. Với mình thì khiêm nhường, với người thì trân trọng. Đánh giá văn học thời
kì đầu kháng chiến chống Pháp, ông viết “Nguyễn Huy Tưởng dẫn đầu ... Tố Hữu,
Kim Lân thứ nhì; Nam Cao bét, bởi vì xét ra vẫn cũ...”
b. Sự nghiệp sáng tác
- Mười năm cầm bút, Nam Cao để lại cho đời một khối lượng sáng tác khá đồ sộ -
“Toàn tập Nam Cao” gồm 1400 trang được hoàn thiện năm 1999.
+ Trước 1945, tài năng Nam Cao kết tinh trong gần 60 truyện ngắn, một truyện vừa
(Chuyện người hàng xóm), và tiểu thuyết Sống mòn. Tác phẩm của ông chủ yếu xoay
quanh hai đề tài: người tri thức nghèo và nông dân bần cùng.
+ Sau Cách mạng, Nam Cao vẫn tiếp tục viết về nông dân, trí thức với “đôi mắt” mới.
68
- Quan điểm sáng tác:
+ Nghệ thuật phải vị nhân sinh: “Chao ôi! Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối,
không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật phải là tiếng đau khổ kia thoát ra từ kiếp
lầm than”. 
+ Tác phẩm văn học có giá trị phải thể hiện nội dung nhân đạo sâu sắc, “chứa đựng
được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng
thương, tình bác ái, sự công bằng… Nó làm cho người gần người hơn” (Đời thừa).
+ Nhà văn phải là nhà sáng tạo, biết tìm tòi, “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng
tạo những cái gì chưa có”... Đối lập với sáng tạo là sự cẩu thả - cẩu thả trong nghề văn
chẳng những “bất lương” mà còn “đê tiện”.
c. Phong cách sáng tác: ĐỘC ĐÁO.
- Nam Cao quan tâm tới đời sống tinh thần của con người và đặc biệt hứng thú với
việc khám phá “con người trong con người. Ông đặc biệt chú ý tới chiều sâu bên trong
của con người, coi đó là nguyên nhân của hành động.
- Ông có sở trường và biệt tài diễn tả, phân tích tâm lý. Nội tâm nhân vật thành trung
tâm chú ý, đối tượng trực tiếp của ngòi bút Nam Cao. Ông đặc biệt sắc sảo khi thể
hiện những quá trình tâm lý phức tạp. Để đi vào chiều sâu không cùng của nội tâm,
Nam Cao thường sử dụng những đoạn độc thoại nội tâm chân thật, sinh động.
- Kết cấu truyện độc đáo: thường đảo lộn trật tự thời gian, không gian, tạo nên kiểu kết
cấu tâm lý phóng khoáng, linh hoạt mà vẫn nhất quán, chặt chẽ.
- Về đề tài, ngòi bút Nam Cao cũng quan tâm đến “Những chuyện không muốn viết” -
chuyện nhỏ nhặt, thường ngày. Từ đó, ông đặt ra những vấn đề xã hội, con người,
cuộc sống và nghệ thuật chân chính.
- Ngôi kể: Kể chuyện bằng ngôi thứ nhất hay thứ ba, Nam Cao vẫn là nhà văn có
giọng điệu riêng: vừa triết lí, mỉa mai, chua chát; vừa dửng dưng, lạnh lùng mà tràn
đầy thương cảm, đằm thắm, thiết tha…
→ Hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc khi mới 37 tuổi, Nam Cao chưa biết ông
được tôn vinh là nhà văn lớn. Hơn nửa thế kỉ đã qua đi, tác phẩm của Nam Cao càng
khẳng định giá trị hiện thực sâu sắc, tư tưởng nhân đạo cao cả và vẻ đẹp nghệ thuật
điêu luyện, độc đáo. Nam Cao có đóng góp to lớn đối với sự phát triển của ngôn ngữ
văn xuôi. Đến Nam Cao, truyện ngắn nước nhà mới thực sự hoàn thiện một quá trình
hiện đại.

Bài tham khảo:


Đề: Giới thiệu về tác giả Nam Cao.

69
Nam Cao (1915 – 1951) là một trong số những nhà văn lớn nhất của nền văn
xuôi hiện đại Việt Nam. Sáng tác của ông đã vượt qua những thử thách khắc nghiệt
của thời gian, càng thử thách lại càng ngời sáng. Thời gian càng lùi xa, những tác
phẩm của ông càng bộc lộ ý nghĩa hiện thực sâu sắc, tư tưởng nhân đạo cao cả và vẻ
đẹp nghệ thuật điêu luyện, độc đáo.
            Nam Cao là nhà văn lớn nhất của trào lưu văn học hiện thực phê phán 1930 -
1945. Trong số các nhà văn hiện thực, ông là cây bút có ý thức sâu sắc nhất về quan
điểm nghệ thuật của mình. Ông phê phán khá toàn diện và triệt để tính chất thoát ly,
tiêu cực của văn chương lãng mạn đương thời, coi đó là thứ “ánh trăng lừa dối”, đồng
thời yêu cầu nghệ thuật chân chính phải trở về với đời sống, phải nhìn thẳng vào sự
thật, nói lên được nỗi thống khổ của hàng triệu nhân dân lao động lầm than (Giăng
sáng).
            Xuất hiện trên văn đàn khi trào lưu hiện thực chủ nghĩa đã đạt được nhiều
thành tựu xuất sắc, Nam Cao ý thức sâu sắc rằng: “Văn chương chỉ dung nạp được
những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo
những cái gì chưa có” (Đời thừa). Và Nam Cao đã thực sự tìm được cho mình một
hướng đi riêng trong việc tiếp cận và phản ánh hiện thực. Nếu như Nguyễn Công
Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố – những nhà văn hiện thực xuất sắc thời kỳ Mặt
trận dân chủ (1936 – 1939) đều tập trung phản ánh trực tiếp những mâu thuẫn, xung
đột xã hội thì sáng tác của Nam Cao – đại biểu ưu tú nhất của trào lưu hiện thực chặng
đường cuối cùng (1940 – 1945), trừ truyện ngắn Chí Phèo (mà theo tôi là dư âm còn
sót lại của thời kỳ 1936 – 1939) trực tiếp đề cập tới xung đột giai cấp, còn các tác
phẩm khác đều tập trung thể hiện xung đột trong thế giới nội tâm của nhân vật. Hoàn
cảnh lịch sử lúc bấy giờ không tạo điều kiện cho Nam Cao đi thẳng vào những vấn đề
cấp bách nhất của xã hội, không trực tiếp miêu tả những sự kiện có ý nghĩa xã hội lịch
sử rộng lớn. Nhiều tác phẩm của ông được dệt lên bằng toàn những “cái hàng ngày”
chủ yếu liên quan đến cuộc sống riêng tư của các nhân vật, những sự kiện vặt vãnh,
nhỏ nhoi, tủn mủn mà nhà văn gọi là “những chuyện không muốn viết”. Chưa bao giờ
cái vặt vãnh hàng ngày lại có một sức mạnh ghê gớm như trong sáng tác của Nam
Cao. Chỉ có tiếng con khóc, tiếng vợ gắt gỏng cũng đủ sức lôi tuột văn sĩ Điền đang
nhởn nhơ trên chín tầng mây với ánh trăng giống như “cái vú mịn tròn đầy” xuống mặt
đất với biết bao cực khổ lầm than (Giăng sáng). Miếng cơm, manh áo hàng ngày cùng
với những xích mích vặt vãnh, những ghen tuông vớ vẩn, những đố kị nhỏ nhen cũng
dư thừa sức mạnh khống chế, giam cầm chung thân mấy anh giáo khổ trường tư trong
cái ao tù ngột ngạt của những kiếp Sống mòn. Cả lý tưởng nhân đạo cao cả, cả hoài
bão nghệ thuật chân chính đều có nguy cơ chết mòn trước sự tấn công quyết liệt, dai
dẳng và tàn bạo của cái đói (Đời thừa).v.v… Từ những chuyện vụ vặt đời thường,

70
Nam Cao đã thực sự động chạm đến vấn đề có tính chất nhân bản, đã đặt ra những vấn
đề sâu sắc về cuộc sống, về thân phận của con người, về vấn đề cải tạo xã hội, về
tương lai của dân tộc và nhân loại. Bi kịch của đời thường, của những cái vặt vãnh
hàng ngày, qua ngòi bút đầy tài năng của Nam Cao đã trở thành những bi kịch vĩnh
cửu.
            Nam Cao là nhà văn của chủ nghĩa hiện thực tâm lý. Điều đó có quan hệ mật
thiết tới quan niệm về con người của ông. Nam Cao viết trong Sống mòn: “Sống tức là
cảm giác và tư tưởng. Sống cũng là hành động nữa, nhưng hành động chỉ là phần phụ:
có cảm giác, có tư tưởng mới sinh ra hành động”. Một quan niệm về con người như
thế đã chi phối thủ pháp chủ nghĩa hiện thực tâm lý của Nam Cao. Sự chú ý đặc biệt
tới thế giới bên trong của con người đã thường xuyên chế ước hứng thú nghệ thuật
ngày càng tăng của nhà văn đối với tính chất nhiều dự định của cá tính con người,
động cơ nội tại của hành vi nhân vật và quan hệ phức tạp của nó với hiện thực xung
quanh.
            Đối với Nam Cao, cái quan trong hơn cả trong nhiệm vụ phản ánh chân thật
cuộc sống là cái chân thật của tư tưởng, của nội tâm nhân vật. Xét tới cùng, cái quan
trọng nhất trong tác phẩm không phải là bản thân sự kiện, biến cố tự thân mà là con
người trước sự kiện, biến cố. Vì vậy, trong sáng tác của Nam Cao, hứng thú của những
chi tiết tâm lý thường thay thế cho hứng thú của chính bản thân các sự kiện, biến cố.
Như vậy, nguyên tắc các sự kiện, biến cố, tình tiết chỉ giữ vai trò “khiêu khích” các
nhân vật, để cho nhân vật bộc lộ những nét tâm lý, tính cách của mình. Cho nên,
trong Mua nhà, Nam Cao không tập trung miêu tả sự việc mua được cái nhà gỗ rẻ mà
tập trung xoáy sâu vào những suy nghĩ, dằn vặt, những ân hận, dày vò của nhân vật
người kể chuyện về tình trạng “hạnh phúc chỉ là một cái chăn quá hẹp. Người này co
thì người kia bị hở”. Đời thừa cũng không hướng vào việc miêu tả nỗi khổ áo cơm mà
tập trung thể hiện phản ứng tâm lý của con người trước gánh nặng áo cơm làm mai
một tài năng và xói mòn nhân cách. Cho nên, trước khi bán một con chó, lão Hạc phải
trải qua biết bao băn khoăn, day dứt, dằn vặt và khi buộc phải bán nó thì lão vô cùng
ân hận, tột cùng đau đớn, tuổi già mà khóc hu hu như con nít. Chí Phèo, con quỷ dữ
của làng Vũ Đại, ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, đập đầu rạch mặt, chửi bới, dọa
nạt trong lúc say, như là con vật sống trong vô thức, vậy mà sau lần gặp Thị Nở ở bờ
sông, cứ “vẩn vơ nghĩ mãi”. Còn Thị Nở, người đàn bà vô tâm có cái tật đột nhiên
muốn ngủ không sao chữa được, về nhà lên giường muốn ngủ hẳn hoi mà vẫn không
sao ngủ nổi, thị cứ “lăn ra lăn vào”.v.v… Nam Cao chẳng những miêu tả sinh động
những chi tiết, những biểu hiện tâm lý nhỏ nhặt nhất mà còn theo dõi, phân tích quá
trình tích tụ của chúng dẫn tới sự nảy sinh những phẩm chất mới trong tâm hồn con
người. Không chỉ dừng lại ở những khoảnh khắc, Nam Cao đã miêu tả thành công

71
những quá trình tâm lý của nhân vật. Ngòi bút của ông tỏ ra có biệt tài trong khi miêu
tả những trạng thái tâm lý phức tạp, những hiện tượng lưỡng tính dở say, dở tỉnh, dở
khóc, dở cười, mấp mé ranh giới giữa thiện với ác, giữa hiền với dữ, giữa con người
với con vật… Nam Cao đã khắc phục được tính phiến diện, đơn giản trong việc miêu
tả tâm lý nhân vật. Qua ngòi bút của ông, tâm lý con người được thể hiện một cách
phong phú đa dạng với nhiều sắc thái tinh vi.
            Trong sáng tác của Nam Cao, tâm hồn con người là sân khấu bi kịch và bi hài
kịch của những xung đột tư tưởng, ý tưởng. Thi pháp chủ nghĩa hiện thực tâm lý của
Nam Cao thích ứng với việc nghiên cứu, phân tích và khám phá bằng nghệ thuật tâm
lý của nhân vật hơn là việc phân tích và miêu tả những biến cố, xung độ đích thực của
chính bản thân đời sống xã hội. Đối với Nam Cao, sự phân tích tâm lý hầu như là điều
kiện cơ bản nhất của việc thể hiện con người theo phương pháp hiện thực có chiều sâu
của ông. Nam Cao đã lấy thế giới nội tâm nhân vật làm đối tượng chính của sự miêu
tả. Ông đã hướng ngòi bút của mình vào việc khám phácon người trong con
người miêu tả và phân tích mọi chiều sâu, mọi chuyển biến trong thế giới tâm hồn của
nhân vật. Chính vì vậy mà đối với ông, việc miêu tả ngoại hình chỉ có ý nghĩa khi nó
nhằm thể hiện và làm nổi rõ bộ mặt tinh thần của nhân vật. Những cảnh thiên nhiên
cũng chỉ có lý do tồn tại khi nó gắn liền với tâm trạng của con người. Giữa những bức
tranh phong cảnh thoáng nhìn tưởng chỉ thuần tuý những cảnh vật thiên nhiên, nhà văn
đã khéo léo treo lên những mảnh tâm hồn của nhân vật.
            Nam Cao mong muốn khai thác những vấn đề của cuộc sống không phải ở bề
rộng mà là ở bề sâu. Thoát khỏi cách nói chút ít về tất cả, ông đã tập trung bút lực vào
việc miêu tả nội tâm của nhân vật. Nhà hiện thực chủ nghĩa Nam Cao đãmở rộng việc
phản ánh hiện thực bằng cách khai thác sâu sắc thế giới tâm hồn của con người. Qua
ngòi bút ông, thế giới bên trong của con người, kể cả những “con người bé nhỏ”, thậm
chí cả những kẻ khốn khổ tủi nhục nhất như Chí Phèo và Thị Nở cũng là cả một vũ trụ
bao la! Đối với Nam Cao, việc phân tích tâm lý nhân vật không tách rời việc phân tích
cuộc sống xã hội nói chung. Thông qua việc miêu tả, phân tích tâm lý để thể hiện
những mâu thuẫn, xung đột xã hội, Nam Cao đã mở ra một khuynh hướng phân tích
mới cho phương pháp hiện thực chủ nghĩa trong văn học Việt Nam. Có thể nói, cảm
hứng phân tích phê phán thấm nhuần trong toàn bộ sáng tác của Nam Cao. Nó là một
đặc điểm nổi bật, trở thành “linh hồn”, “cốt tuỷ” chủ nghĩa hiện thực của Nam Cao.
            Cái gốc, nền tảng vững chắc của chủ nghĩa hiện thực của Nam Cao là chủ
nghĩa nhân đạo. Trong truyện ngắn Đời thừa, Nam Cao khẳng định: “Một tác phẩm
thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung
cho cả đời người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, vừa
phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần

72
người hơn”. Như vậy, trong quan niệm của Nam Cao, chủ nghĩa nhân đạo được đặt ra,
như một yêu cầu tất yếu đối với những tác phẩm “thật có giá trị”.
            Trong mỗi trang văn của Nam Cao đều bộc lộ tấm lòng của một con người đau
đời và thương đời da diết. Nam Cao yêu thương những con người bị cuộc đời đày đọa.
Xã hội cũ đã làm cho ông đau xót khi mà đa số những nhân vật của ông bị đẩy vào
cảnh khốn cùng, không đạt được gì trong cuộc đời, không có đủ điều kiện để phát huy
những khả năng tiềm tàng ưu việt của mình.
            Nam Cao là nhà văn của những người nông dân nghèo khổ và bất hạnh, nhà
văn của những người khốn khổ, tủi nhục nhất trong xã hội thực dân phong kiến. Trái
tim nhân đạo và cái nhìn sắc sảo của ông đã thấu hiểu những hoàn cảnh thiếu nhân
tính làm cho con người bị tha hóa. Viết về những con người dưới đáy của xã hội, Nam
Cao đã bộc lộ sự cảm thông lạ lùng của một trái tim nhân đạo lớn. Thế giới, cuộc đời
con người, mối quan hệ giữa những con người được nhìn nhận bằng những con mắt
của chính họ. Nhà văn, trong những đánh giá và nhận xét, đã xuất phát từ lợi ích và
yêu cầu của chính những con người cùng khổ nhất, không có quyền, bị xã hội áp bức,
chà đạp xuống tận bùn đen. Nam Cao đã bảo vệ, bênh vực, minh oan, “chiêu tuyết”
cho những con người thấp cổ bé họng, bị cuộc đời xua đuổi, hắt hủi, khinh bỉ một cách
bất công. Với trái tim đầy yêu thương của mình , Nam Cao vẫn tin rằng trong tâm hồn
của những người không còn được là người, những con người bề ngoài được miêu tả
như những con vật vẫn còn nhân tính, vẫn còn những khát khao nhân bản. Ông nhận ra
đằng sau những bộ mặt xấu xí đến “ma chê quỷ hờn” của Thị Nở (Chí Phèo) của mụ
Lợi (Lang Rận) của Nhi (Nửa đêm). v.v… vẫn là một con người, một tâm tính người
thật sự, cũng khao khát yêu thương. Và khi được ngọn lửa tình yêu sưởi ấm, những
tâm hồn tưởng chừng đã cằn cỗi, khô héo ấy cũng ánh lên những vẻ đẹp với những hồi
hộp, vui mừng sung sướng, cũng lườm, nguýt, âu yếm, cũng e lệ, làm duyên theo kiểu
cách riêng của họ. Thậm chí, trong đáy sâu tâm hồn đen tối của một kẻ cục súc, u mê
như Chí Phèo – một kẻ đã bị cuộc đời tàn phá, huỷ hoại từ nhân hình đến nhân tính –
nhà văn vẫn nhìn thấy những rung động thật sự của tình yêu của niềm khao khát muốn
trở lại làm người lương thiện. Có thể nói, cùng với việc lên án gay gắt những thành
kiến, định kiến tồi tệ, những sự nhục mạ danh dự và phẩm giá con người, chính việc
phát hiện ra cái phần con người còn sót lại trong một kẻ lưu manh trân trọng những
khao khát nhân bản và miêu tả những rung động trong sáng của những tâm hồn tưởng
chừng đã bị cuộc đời làm cho cằn cỗi, u mê đã làm cho Nam Cao trở thành một trong
số những nhà văn nhân đạo lớn nhất trong nền văn học hiện đại Việt Nam.
            Nam Cao là nhà văn của những người trí thức nghèo, của những kiếp “Sống
mòn” có hoài bão, có tâm huyết, tài năng, muốn vươn lên cao nhưng lại bị chuyện áo
cơm ghì sát đất. Nếu như mỗi tác phẩm viết về đề tài người nông dân của Nam Cao

73
đều là sự trả ơn, gửi gắm ân tình với người nghèo khổ thì mỗi trang viết về đề tài
người trí thức đều chứa đựng tâm sự, nỗi đau và niềm khát khao cháy bỏng của chính
nhà văn.
            Nam Cao giống với Xuân Diệu, Thạch Lam ở chỗ đã thức tỉnh sâu sắc về ý
thức cá nhân, về sự tồn tại có ý nghĩa về ý thức cá nhân trên đời. Họ hết sức nhạy cảm
với những kiếp sống nhỏ bé, cơ cực, sống mòn mỏi, lắt lay, quẩn quanh, bế tắc. Những
con người không hề biết sống làm vui, không bao giờ biết đến ánh sáng và hạnh phúc.
Đến trong ước mơ mà vẫn cứ quẩn quanh không biết mơ ước gì hơn một chuyến tàu
đêm vụt đi qua cái phố huyện nghèo (Thạch Lam – Hai đứa trẻ). Xuân Diệu cũng
không sao chịu nổi “nỗi đìu hiu của cái ao đời bằng phẳng” (Tỏa nhị kiều) và khao
khát: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối/ Còn hơn le lói suốt trăm năm” (Giục
giã). Nhưng có lẽ, không ai trong số họ lại đau đớn khôn nguôi, phẫn uất cao độ như
Nam Cao trước tình trạng con người không sao thoát khỏi tình trạng sống mòn. Trước
cách mạng, không có nhà văn nào có cách nhìn sâu sắc, có tầm triết lý, tổng hợp khái
quát cao về tình trạng chết mòn của con người như nhà văn lớn Nam Cao. Mỗi nhân
vật của ông là một kiểu đời thừa, một lối sống mòn, một cách chết mòn. Một cuộc
sống vô lý, vô ích, vô nghĩa, “chết mà chưa làm gì cả”, “chết trong lúc sống”, “chết mà
chưa sống”. Nam Cao không chấp nhận sự sống của con người chỉ là sự tồn tại sinh
học. Ông coi đó không phải là cuộc sống xứng đáng của con người: “Có thú vị gì cái
lối sống co quắp vào mình, cái lối sống quá ư loài vật, chẳng còn biết một việc gì
ngoài cái việc kiếm thức ăn đổ vào dạ dày?”. Cuộc sống xứng đáng với danh hiệu cao
quý của con người, theo quan niệm của Nam Cao, là phải có đời sống tinh thần cao
đẹp, sống với đầy đủ giá trị của sự sống. Xuất phát từ tư tưởng cao sâu đó, Nam Cao
đã đồng cảm sâu sắc và đau đớn vô hạn trước bi kịch của những con người muốn sống
có ý nghĩa bằng sự cống hiến của mình mà rốt cuộc phải sống như một kẻ vô ích, một
“người thừa”. “Còn gì đau đớn hơn cho một kẻ vẫn khao khát làm một cái gì mà nâng
cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo
mà đủ mệt?” (Đời thừa).
            Qua những nhân vật trí thức tâm huyết của mình, những Điền, những Hộ,
những Thứ…, Nam Cao thể hiện niềm khao khát, một lẽ sống lớn, khao khát một cuộc
sống sâu sắc mãnh liệt, có ích và có ý nghĩa. Hộ trong Đời thừa hằng tâm niệm: “Kẻ
mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thoả mãn lòng ích kỉ. Kẻ mạnh chính
là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai của mình” và mơ ước viết được “một tác phẩm thực
sự có giá trị (…) làm cho người gần người hơn”. Thứ trong Sống mòn đã từng “thích
làm một việc gì có ảnh hưởng đến xã hội ngay” và mong muốn đem “những sự đổi
thay lớn lao đến cho xứ sở mình”. Hơn một lần Thứ mơ ước: “Mình cũng là một vĩ
nhân, một anh hùng, vượt lên trên sự tầm thường để chỉ nghĩ đến một cái gì vĩ đại thôi.

74
Y nghĩ đến những phương kế để xoay ngược lại, đồng thời xếp đặt cho người với
người ổn thoả hơn”. Những con người mang hoài bão lớn ấy khi chạm trán với cuộc
đời đều nếm trải đắng cay, đau đớn, đều lâm vào tình trạng “sống mòn”. Nhưng dẫu bị
“áo cơm ghì sát đất”, tuy “sống mòn” nhưng họ chưa hoàn toàn cạn kiệt hết niềm tin,
niềm hi vọng, vẫn khao khát được sống, được cống hiến, được phát triển; vẫn khao
khát mỗi cá nhân được phát triển “đến tận độ” để góp vào “công việc tiến bộ chung”
của loài người. Cao cả và đẹp đẽ biết bao lý tưởng nhân văn của Nam Cao được gửi
gắm qua những dòng suy ngẫm của nhân vật Thứ về sự sống: “Thứ vẫn không thể nào
chịu được rằng sống chỉ là làm thế nào cho mình và vợ con mình có cơm ăn, áo mặc
thôi. Sống là để làm một cái gì cao đẹp hơn nhiều, cao quý hơn nhiều. Mỗi người sống
phải làm thế nào cho phát triển đến tận độ những khả năng của loài người chứa đựng ở
trong mình. Phải gom góp sức lực của mình vào công việc tiến bộ chung. Mỗi người
chết đi, phải để lại một chút gì cho nhân loại”. Như vậy, trong quan niệm của Nam
Cao, ý thức cá nhân, sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời đâu chỉ một chiều
là tranh thủ từng giây, từng phút để tận hưởng những khoảnh khắc đang có cho “chếnh
choáng mùi thơm”, cho “đã đầy ánh sáng”, cho “no nê thanh sắc của thời tươi” (Xuân
Diệu). Nam Cao đòi hỏi để cho mỗi cá nhân được phát triển đến tận độ với một ý thức
đầy trách nhiệm và trong mối quan hệ mật thiết với sự phát triển chung của xã hội loài
người. Tư tưởng nhân văn mới mẻ và sâu sắc đó chưa từng có trong nền văn học hiện
đại Việt Nam trước cách mạng. Đó là một tư tưởng lớn vượt ra ngoài cả thời đại Nam
Cao.
Có thể nói, tư tưởng nhân đạo thấm nhuần trong sáng tác của Nam Cao. Ông là nhà
văn đồng tình với khát vọng sống lương thiện và khát vọng được phát huy đến tận độ
tài năng của con người. Tư tưởng nhân đạo mới mẻ, phong phú và sâu sắc đó cho thấy
nhà văn không chỉ dừng lại ở chỗ tố cáo những thế lực tàn bạo chà đạp quyền sống của
con người mà còn đòi hỏi xã hội tạo những điều kiện để con người được sống một
cuộc sống thực sự có ý nghĩa.

Đề 2. Cảm nhận bi kịch tha hóa của nhân vật Chí Phèo qua đoạn trích sau:
Một anh đi thả ống lươn, một buổi sáng tinh sương đã thấy hắn trần truồng và
xám ngắt trong cái váy đụp để bên một lò gạch bỏ không, anh ta rước lấy và đem cho
một người đàn bà góa mù. Người đàn bà góa mù này bán hắn cho một bác phó cối
không con và khi bác phó cối này chết thì hắn bơ vơ, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho
nhà nọ. Năm hai mươi tuổi, hắn làm canh điền cho ông lý Kiến, bây giờ là cụ bá Kiến,
ăn tiên chỉ làng. Hình như, có mấy lần bà ba nhà ông lý, trẻ lắm mà lại hay ốm lửng,
bắt hắn bóp chân, hay xoa bụng, đấm lưng gì đấy. Người ta bảo ông lý ra đình thì
75
hách dịch, cả làng phải sợ, mà về nhà phải sợ cái bà ba còn trẻ này. Người bà ấy phốp
pháp, má bà ấy hây hây, mà ông lý thì hay đau lưng lắm; người có bệnh đau lưng thì
hay sợ vợ mà chúa đời là khoẻ ghen. Có người bảo ông lý ghen anh canh điền khoẻ
mạnh mà sợ bà ba không dám nói. Có người thì bảo anh canh điền ấy được bà ba
quyền thu quyền bổ trong nhà tin cẩn nên lấy trộm tiền trộm thóc nhiều. Mỗi người
nói một cách. Chẳng biết đâu mà lần. Chỉ biết một hôm Chí bị giải huyện rồi nghe đâu
phải đi tù. Không biết tù mấy năm, nhưng hắn đi biệt tăm bảy, tám năm, rồi một hôm,
hắn lại lù lù ở đâu lần về. Hắn về lần này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn
là ai. Trông đặc như thằng săng đá! Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái
mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần áo
nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với
một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!

Hắn về hôm trước, hôm sau đã thấy ngồi ở chợ uống rượu với thịt chó suốt từ
trưa đến xế chiều. Rồi say khướt, hắn xách một cái vỏ chai đến cổng nhà bá Kiến, gọi
tận tên tục ra mà chửi. Cụ bá không có nhà. Thấy điệu bộ hung hăng của hắn, bà cả
đùn bà hai, bà hai thúc bà ba, bà ba gọi bà tư, nhưng kết cục chẳng bà nào dám ra nói
với hắn một vài lời phải chăng. Mắc cái phải cái thằng liều lĩnh quá, nó lại say rượu,
tay nó lại lăm lăm cầm một cái vỏ chai, mà nhà lúc ấy toàn đàn bà cả... Thôi thì cứ
đóng cái cổng cho thật chặt, rồi mặc thây cha nó, nó chửi thì tai liền miệng đấy, chửi
thì lại nghe! Thành thử chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu!... Thật là ầm ỹ!
Hàng xóm phải một bữa điếc tai, nhưng có lẽ trong bụng thì họ hả: xưa nay họ mới
chỉ được nghe bà cả, bà hai, bà ba, bà tư nhà cụ bá chửi người ta, bây giờ họ mới thấy
người ta chửi lại cả nhà cụ bá. Mà chửi mới sướng miệng làm sao! Mới ngoa ngắt làm
sao. Họ bảo nhau: Phen này cha con thằng bá Kiến đố còn dám vác mặt đi đâu nữa!
Mồ mả tổ tiên đến lộn lên mất. Cũng có người hiền lành hơn bảo: “Phúc đời nhà nó,
chắc ông lý không có nhà...”.

(Trích: Chí Phèo – Nam Cao)

HƯỚNG DẤN LÀM BÀI


I. Mở bài
- Nam Cao là một nhà văn hiện thực lớn có tư tưởng nhân đạo vừa sâu sắc, mới mẻ,
vừa độc đáo.
- Ông là nhà văn hiện thực xuất sắc tràn đầy tinh thần nhân đạo,
- Bên cạnh mảng đề tài viết về người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội
cũ , những trang văn viết về người nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa thời trước
Cách mạng tháng Tám cũng gây ám ảnh khôn nguôi cho độc giả nhiều thế hệ.
76
- “Chí Phèo” là một kiệt tác trong văn xuôi Việt Nam hiện đại được viết vào năm
1941.
- Truyện kể về cuộc đời Chí Phèo, một con người ở tậng lớp đáy cùng xã hội với
những bi kịch đầy đớn đau. Trong đó phải kể đến bi kịch bị tha hóa của Chí.
- Giới thiệu đoạn trích: (…)
II. Thân bài
1. Dẫn nhập
- Giới thiệu bối cảnh sáng tác của tác phẩm, giới thiệu nhân vật Chí Phèo:
+ Tác phẩm được lấy bối cảnh làng Vũ Đại, một ngôi làng thuần nông, nghèo khó đời
sống nhân dân bần hàn, cơ cực bởi chế độ áp bức bóc lột đến cùng cực của giai cấp
thống trị phong kiến.
+ Trong xã hội hình thành sự phân tầng giai cấp rõ rệt, trong đó, có tầng lớp đáy cùng
là những người nông dân vô sản, bị áp bức tàn tệ, bị tước đoạt cả quyền sống. Họ rơi
vào những bi kịch dầy đau đớn, dai dẳng.
+ Chí Phèo là nhân vật điển hình cho người nông dân chịu nhiều bi kịch. Trong đó bi
kịch tha hóa khởi đầu cho chuỗi bi kịch đẩy Chí tới cái chết thương tâm, đầy ám ảnh.
- Giải thích cách hiểu từ “bi kịch tha hóa”: bi kịch là trạng thái đau khổ về tinh thần
khi con người đứng trước những mâu thuẫn không thể hóa giải, khi mong muốn khát
vọng và thực tiễn hoàn toàn trái ngược… Còn “tha hóa” là đánh mất giá trị, bản chất
thông thường vốn có, biến thành một tính cách hoàn toàn trái ngược.
- Nêu vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần đầu tác phẩm, lí giải nguyên nhân dẫn
đến sự tha hóa của Chí.
2. Phân tích quá trình tha hóa của Chí Phèo qua đoạn trích
a.Trước khi đi tù, Chí là một con người lương thiện:
- Xuất thân bất hạnh:
+ Một anh đi thả ống lươn, một buổi sáng tinh sương đã thấy hắn trần truồng và xám
ngắt trong cái váy đụp để bên một lò gạch bỏ không, anh ta rước lấy và đem cho một
người đàn bà góa mù. → xuất thân mồ côi như nhân vật cổ tích → đáng thương.
+ Chí lớn lên trong sự cưu mang của dân làng, những con người có số phận cũng
thiếu may mắn. “Người đàn bà góa mù này bán hắn cho một bác phó cối không con và
khi bác phó cối này chết thì hắn bơ vơ, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà
nọ.”→cuộc sống chật vật,
- Trưởng thành: Chí Phèo là một chàng trai lương thiện
+ Có nghề canh điền: dù làm thuê cho nhà Bá Kiến nhưng cũng là việc đàng hoàng tử
tế, sống bằng chính sức lao động của bản thân.
+ Có ước mơ đẹp “Hình như đã có thời hắn ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng
cày thuê cuốc mướn vợ dệt vải…”

77
+ Có lòng tự trọng: bị bà ba sai khiến, “bắt hắn bóp chân, hay xoa bụng, đấm lưng gì
đấy”nhưng Chí chỉ thấy nhục hơn là thích.
 bản tính quen thuộc của người dân quê lao động, hiền lành, chất phác, an phận thủ
thường.
- Bị áp bức, bị tước đoạt quyền tự do: “Chí bị giải huyện rồi nghe đâu phải đi tù.
Không biết tù mấy năm, nhưng hắn đi biệt tăm bảy, tám năm” → nạn nhân của chế độ
cường quyền lộng quyền lộng thế.
b. Sau bảy tám năm đi tù về
- Biến đổi về nhân hình: “Hắn về lần này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn
là ai. Trông đặc như thằng săng đá! Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái
mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần áo
nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với
một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!”
+ Cách miêu tả tỉ mỉ từng chi tiết chân dung Chí Phèo khiến người đọc hình dung khá
cụ thể về sự tha hóa nhân hình của Chí, đó không còn là một người nông dân thuần
hậu, chất phác, mà đã trở thành kẻ côn đồ, có số má, đáng sợ.
+ Tác giả sử dụng hàng loạt câu cảm thán, từ ngữ cảm thán “gớm chết”→ bộc lộ thái
độ kinh ngạc, hãi hùng trước sự tha hóa đến tột cùng của Chí → càng khắc sâu sự dã
man, tà bạo của chế độ nhà tù thực dân, phong kiến thời đó.
- Biến đổi về nhân tính: không còn “lành như đất” mà biến thành con quỷ dữ của làng
Vũ Đại.
+ Tiếng chửi: bất cứ lúc nào và bất kì ai “ đến cổng nhà bá Kiến, gọi tận tên tục ra mà
chửi.”
+ Cử chỉ, hành động:“uống rượu với thịt chó suốt từ trưa đến xế chiều. Rồi say khướt,
hắn xách một cái vỏ chai đến chửi Bá Kiến”, điệu bộ hung hăng, côn đồ.
 Chí không phải là trường hợp cá biệt àm là điển hình,trước Chí có nhiều người bị
Bá Kiến hãm hại. Đó là bi kịch chung của những con người thấp cổ bé họng trong xã
hội phong kiến trước Cách mạng.
c. Nguyên nhân rơi vào bi kịch tha hóa
- Sự tàn bạo của chế độ áp bức bóc lột mà cụ thể là Bá Kiến, tiên chỉ làng Vũ Đại,
người nắm mọi quyền sinh quyền sát trong làng, tác yêu tác quái dân làng. Bọn thống
trị này vừa tham lam, độc ác vừa xảo quyệt mưu mô, càng khiến đời sống nhân dân rơi
vào cảnh lao đao, không biết kêu ai.
- Một phần bi kịch do chính Chí Phèo, con người chịu nhiều thiệt thòi, chưa có ý thức
đấu tranh chống lại hoàn cảnh nên dễ bị hoàn cảnh làm cho tha hóa.
3. Đánh giá nhận xét

78
- Khai thác mảng chủ đề bi kịch tha hóa trở thành sở trường, thành đặc trưng độc đáo
trong ngòi bút sáng tác của Nam Cao.
- Nhìn nhận bi kịch tha hóa một cách chân thực và sâu sắc cũng thể hiện sự trăn trở
của nhà văn đi tìm lối thoát cho những bế tắc trong tinh thần con người trước khó khăn
thử thách, thể hiện tấm lòng nhân đạo của Nam Cao.
III. Kết bài
- Khẳng định giá trị của đoạn trích trong việc thể hiện bi kịch tha hóa của Chí Phèo
- Khẳng định và ngợi ca tài năng, nhân cách của Ngam Cao qua đoạn trích nói riêng,
qua tác phẩm nói chung
- Liên hệ với xã hội mới, những bi kịch mới và rút ra thông điệp từ phần phân tích.

Đề 3. Phân tích sự hồi sinh của nhân vật Chí Phèo qua đoạn trích sau:
Khi Chí Phèo mở mắt thì trời đã sáng lâu. Mặt trời chắc đã cao, và nắng bên
ngoài chắc là rực rỡ. Cứ nghe chim ríu rít bên ngoài là đủ biết. Nhưng trong cái lều
ẩm thấp vẫn chỉ hơi tờ mờ. Ở đây người ta thấy chiều lúc xế trưa và gặp đêm thì bên
ngoài trời vẫn sáng. Chưa bao giờ Chí Phèo nhận thấy thế bởi chưa bao giờ hết say.
Nhưng bây giờ thì hắn tỉnh. Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy, hắn thấy miệng đắng,
lòng mơ hồ buồn. Người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc, hay là đói rượu, hắn
hơi rùng mình. Ruột gan lại nôn nao lên một tý. Hắn sợ rượu cũng như những người
ốm sợ cơm. Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cườu nói của những người
đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá.
Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy...
Chao ôi là buồn!
- Vải hôm nay bán mấy?
- Kém ba xu dì ạ.
- Thế thì còn ăn thua gì!
- Thật thế đấy. Nhưng chẳng lẽ rằng lại chơi.
Chí Phèo đoán một người đàn bà hỏi một người đàn bà khác đi bán vải ở Nam Ðịnh
về. Hắn nôn nao buồn, là vì mẩu chuyện ấy nhắc cho hắn một cái gì rất xa xôi. Hình
như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê,
vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba
sào ruộng làm.
Tỉnh dậy hắn thấy già mà vẫn còn cô độc. Buồn thay cho đời! Có lý nào như thế
được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu... Dẫu sao, đó không phải
tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn. Hắn đã tới cái dốc bên kia của đời. Ở những
người như hắn, chịu đựng biết bao nhiêu là chất độc, đầy đọa cực nhọc mà chưa bao
giờ ốm, một trận ốm có thể gọi là dấu hiệu báo rằng cơ thể đã hư hỏng nhiều. Nó là
79
một cơn mưa gió cuối thu cho biết trời gió rét, nay mùa đông đã đến. Chí Phèo hình
như đã trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn
đáng sợ hơn đói rét và ốm đau.
Cũng may Thị Nở vào. Nếu thị không vào, cứ để hắn vẩn vơ mãi, thì đến khóc
được mất. Thị vào cắp một cái rổ, trong có một nồi gì đậy vung. Đó là một nồi cháo
hành còn nóng nguyên. Là vì lúc còn đêm, thị trằn trọc một lát, thị bỗng nhiên nghĩ
rằng: cái thằng liều lĩnh ấy kể ra thì đáng thương, còn gì đáng thương bằng đau ốm
mà nằm còng queo một mình. Giá thử đêm qua không có thị thì hắn chết. Thị kiêu
ngạo vì đã cứu sống một người. Thị thấy như yêu hắn: đó là một cái lòng yêu của một
người làm ơn. Nhưng cũng có cả lòng yêu của một người chịu ơn. Một người như thị
Nở càng không thể quên được. Cho nên thị nghĩ: mình bỏ hắn lúc này thì cũng bạc.
Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau! Ăn nằm với nhau như “vợ chồng”. Tiếng “vợ
chồng”, thấy ngường ngượng mà thinh thích. Đó vẫn là điều mong muốn âm thầm của
con người khốn nạn ấy chăng. Hay sự khoái lạc của xác thịt đã làm nổi dậy những
tính tình mà thị chưa bao giờ biết?
(Trích: Chí Phèo – Nam Cao)

HƯỚNG DẤN LÀM BÀI


I. Mở bài
- Nam Cao, một cây bút viết truyện ngắn xuất sắc của nền văn học giai đoạn 1930-
1945.
- Quan điểm sáng tác: Văn chương phải chứa đựng một cái gì đó lớn lao, mạnh mẽ,
vừa đau đớn lại vừa phấn khởi, Nó ca tụng tình thương, lòng bác ái, sự công bình…Nó
làm cho con người gần người hơn”.
- Phong cách sáng tác: thể hiện quá trình đấu tranh dai dẳng và cực khổ để giữ lấy
phần Người đẹp đẽ của những con người tưởng chừng như không còn một chút hi
vọng nào.
- Truyện ngắn ‘Chí Phèo” là kiệt tác thuộc đề tài viết về người nông dân của ông.
- Cuộc đời của Chí – nhân vật chính trong truyện là một chuỗi các bi kịch dai dẳng và
đau đớn, nhưng cũng có những giây phút hồi sinh hiếm hoi và đáng quý biết nhường
nào:
Trích dẫn đoạn “….”
II. Thân bài
1. Dẫn nhập
- Tóm lược về nhân vật Chí Phèo
+ Chí Phèo chỉ là một đứa trẻ mồ côi bị bỏ rơi ở cái lò gạch cũ được dân làng
nuôi nấng.

80
+ Lớn lên Chí làm canh điền cho nhà Bá Kiến nhưng chỉ vì ghen tuông vô cớ
hắn đã đẩy vào tù tới bảy, tám năm.
+ Đi tù về, Chí trở thành một kẻ côn đồ liều lĩnh. Chí triền miên trong cơn say
và trượt dài trên con đường tha hóa khi trở thành tay sai cho nhà Bá Kiến, thành con
quỷ dữ của làng Vũ Đại.
+ Mọi người xa lánh Chí và không chấp nhận Chí vào xã hội loài người. Chí trở
nên đơn độc cho đến gặp Thị Nở - một người phụ nữ xấu xí, dở hơi lại ế chồng.
+ Quãng thời gian ở bên người phụ nữ “xấu ma chê quỷ hờn” ấy lại là những
phút giây đẹp đẽ nhất trong cuộc đời của Chí.
- Nêu vị trí đoạn trích: Đoạn trích đã ghi lại thật cụ thể, chân thục và xúc động
diễn biến tâm trạng của Chí Phèo trong sự thức tỉnh nhân tính đáng quý ấy.
- Giải thích “Hồi sinh”: là sự sống lại của Chí, một con người tưởng chừng đã
chết về nhân cách người.
2. Phân tích sự hồi sinh của Chí
- Chí bắt đầu mở rộng các giác quan để đón nhận cuộc sống với đầy đủ ánh sáng, âm
thanh sau một đêm ốm thập tử nhất sinh. Chí nhận ra ‘trời sáng đã lâu’ và ‘nắng ngoài
kia chắc là rực rỡ”. → Cảm giác có vẻ vẫn mơ hồ nhưng đó là sự tiến bộ vươt bậc của
Chí.
- Nhưng hôm nay hắn tỉnh. Hắn thấy “bâng khuâng” vì dường như mình vừa được
sống lại trong hình hài con người. Hắn lắng nghe tiếng nói của cơ thể với những cảm
giác rất thực “thấy miệng đắng’ , “chân tay bủn rủn” và “lòng mơ hồ buồn”. → buồn
cho chính cái quãng đời lê thê hoài phí tuổi trẻ, phá hoại sức khỏe không thương tiếc
của mình. Khi nhận ra giá trị của cuộc sống thì Chí đã ở “cái dốc bên kia của cuộc
đời”.
- Chí háo hức lắng nghe những thanh âm trong trẻo của cuộc sống: “Tiếng chim hót
ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ
mái chèo đuổi cá.” → Chí tỉnh táo và sáng suốt lạ thường.
- Hắn nhớ về một qua xứ xa xôi, mơ hồ: “Hình như có một thời hắn đã ao ước có một
gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ con lợn nuôi
để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm.” → sợ cô đơn, sợ tuổi già thì
đó là một sự thức tỉnh đến triệt để.
- Nghê thuật: sử dụng lời kể nửa trực tiếp, bộc lộ sự cảm thông, thấu hiểu nhân vật,
khiến lời kể sinh động
3. Đánh giá, nhận xét
- Sự hồi sinh là tất yếu đối với Chí, nó phù hợp với bản chất con người Chí.
- Thể hiện cái nhìn đầy nhân ái, bao dung của Nam Cao dành cho những con người ở
tầng lớp đáy cùng bị tha hóa. Nhà văn luôn tin tưởng rằng, con người dù bị đày đọa, bị

81
đàn áp và bị tha hóa đến đâu đi nữa thì trong họ vẫn luôn âm ỉ cháy một khát vọng trở
về với lương thiện. Chỉ cần sự bao dung, sự cảm thông và tình yêu thương, khát vọng
ấy sẽ bùng lên, chữa lành các vết sẹo của quá khứ tội lỗi, buồn đau.
- So sánh: Nhân vật Tràng thấy yêu thương cuộc sống sau khi gắn kết với người vợ
nhặt trong tác phẩm của Kim Lân, cũng như Mị thức tỉnh sau khi nhìn thấy dòng nước
mắt tuyệt vọng của A Phủ trong truyện ngắn của Tô Hoài, Chí Phèo chỉ cần tình
thương của thị Nở, một người phụ nữ xấu xí, dở hơi, hắn cũng sẵn sàng tháo bỏ bộ mặt
côn đồ, quỷ dữ để trở về kiếp người, dù khuôn mặt vẫn chằng chịt những vết rạch
ngang dọc.
- Nghệ thuật: Qua cách trần thuật bằng giọng điệu sắc lạnh, tỉnh táo, người đọc vẫn
cảm nhận được một tình yêu thương đến đau đớn, gằng xé của nhà văn trước những bế
tắc trong con đường trở lại hoàn lương của nhân vật Chí Phèo.
III. Kết bài
- Khẳng định giá trị của sự thức tỉnh trong Chí Phèo.
- Khẳng định thành công về nghệ thuật của đoạn trích, góp phần làm nên thành công
chung của tác phẩm.
- Liên hệ, rút ra bài học cho bản thân.
Bài làm tham khảo
Trong cuộc đời sáng tác văn chương của mình, nhà văn Nam Cao, một cây bút
viết truyện ngắn xuất sắc của nền văn học giai đoạn 1930-1945 đã từng phát biểu: Văn
chương phải chứa đựng một cái gì đó lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn
khởi, Nó ca tụng tình thương, lòng bác ái, sự công bình…Nó làm cho con người gần
người hơn”. Với quan niệm tiến bộ ấy, Nam Cao đã luôn thể hiện trong các trang
truyện của mình quá trình đấu tranh dai dẳng và cực khổ để giữ lấy phần Người đẹp đẽ
của những con người tưởng chừng như không còn một chút hi vọng nào. Trong só
nhiều tác phẩm đề cập đến vấn đề này, nổi bật và thành công nhất là kiệt tác truyện
ngắn ‘Chí Phèo”. Cuộc đời của Chí – nhân vật chính trong truyện là một chuỗi các bi
kịch dai dẳng và đau đớn, nhưng cũng có những giây phút hồi sinh hiếm hoi và đáng
quý biết nhường nào: “….”
Chí Phèo chỉ là một đứa trẻ mồ côi bị bỏ rơi ở cái lò gạch cũ được dân làng nuôi
nấng. Lớn lên Chí làm canh điền cho nhà Bá Kiến nhưng chỉ vì ghen tuông vô cớ hắn
đã đẩy vào tù tới bảy, tám năm. Chế độ nhà tù đã biến Chí Phèo, từ một chàng trai
hiền lành, lương thiện trở thành một kẻ côn đồ liều lĩnh. Chí triền miên trong cơn say
và trượt dài trên con đường tha hóa khi trở thành tay sai cho nhà Bá Kiến, thành con
quỷ dữ của làng Vũ Đại. Mọi người xa lãnh Chí và không chấp nhận Chí vào xã hội
loài người. Chí trở nên đơn độc cho đến gặp Thị Nở - một người phụ nữ xấu xí, dở hơi
lại ế chồng. Quãng thời gian ở bên người phụ nữ “xấu ma chê quỷ hờn” ấy lại là

82
những phút giây đẹp đẽ nhất trong cuộc đời của Chí. Đoạn trích đã ghi lại thật cụ thể,
chân thục và xúc động diễn biến tâm trạng của Chí Phèo trong sự thức tỉnh nhân tính
đáng quý ấy.
Sự “Hồi sinh của Chí” tức là sự sống lại của Chí, một con người tưởng chừng
đã chết về nhân cách người. Chí hồi sinh nhân tính sau đêm gặp thị Nở. Đó không chỉ
là sự thức tỉnh về sinh lí, mà còn là sự thức tỉnh về mọi mặt trong ý thức làm người
của Chí. Chính hơi ấm tình người, sự mộc mạc chân thành của Thị đã thức tỉnh Chí,
bởi chỉ có Thị nhận ra “hắn lành như đất”, chỉ có thị dám gần gũi hắn, cho hắn biết hắn
vẫn là người. Và điều đặc biệt trước tiên là thị đã đánh thức Chí, sau bao nhiêu năm
triền miên trong cơn say, lần đầu tiên Chí Phèo tỉnh táo.
Chí bắt đầu mở rộng các giác quan để đón nhận cuộc sống với đầy đủ ánh sáng,
âm thanh sau một đêm ốm thập tử nhất sinh. Chí nhận ra ‘trời sáng đã lâu’ và ‘nắng
ngoài kia chắc là rực rỡ”. Cảm giác có vẻ vẫn mơ hồ nhưng đó là sự tiến bộ vươt bậc
của Chí. Bởi trước đó, Chí chẳng hề biết, chẳng cần quan tâm tới thời gian sáng hay
tối. Trong cái túp lều úp xúp ấy “người ta thấy chiều lúc xế trưa và thấy đêm khi bên
ngoài vẫn còn sáng”. Cuộc sống với Chí đã từng chỉ là một chuỗi ngày tối tăm, vô
định.
Nhưng hôm nay hắn tỉnh. Hắn thấy “bâng khuâng” vì dường như mình vừa
được sống lại trong hình hài con người. Thực sự đó là một sự kiện trọng đại trong đời
Chí. Hắn lắng nghe tiếng nói của cơ thể với những cảm giác rất thực “thấy miệng
đắng’ , “chân tay bủn rủn” và “lòng mơ hồ buồn”. Đó là dư âm của trận ốm đêm trước
nhưng cũng là tiếng chuông cảnh tỉnh cho sự xuống dốc về sức khỏe của hắn. Có lẽ
Chí buồn về điều đó. Hơn nữa, cũng buồn cho chính cái quãng đời lê thê hoài phí tuổi
trẻ, phá hoại sức khỏe không thương tiếc của mình. Khi nhận ra giá trị của cuộc sống
thì Chí đã ở “cái dốc bên kia của cuộc đời”. Không buồn tiếc sao được?
Chí háo hức lắng nghe những thanh âm trong trẻo của cuộc sống: “Tiếng chim
hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài
gõ mái chèo đuổi cá.” Mọi thứ đều hiện ra rõ mồn một trong nhận thức của Chí, bởi
hơn lúc nào hết, Chí tỉnh táo và sáng suốt lạ thường. Và cùng với sự tỉnh thức của các
giác quan là sự tỉnh thức của cảm xúc. Nam Cao đã nhiều lần nhắc đến nỗi buồn của
Chí: “Chao ôi là buồn!”, “Hắn lại nao nao buồn”, “Buồn thay cho đời!”…Những câu
cảm thán vừa chứa đựng tâm sự của Chí, một nỗi buồn đầy chất nhân văn, nỗi buồn
gột rửa tâm hồn tội lỗi của con quỷ dữ làng Vũ Đại, vừa thể hiện nỗi đồng cảm xót xa
và thương mến của nhà văn trước cảnh đời bất hạnh ấy.
Và theo lẽ thường, khi tỉnh thức , con người thường nhìn thấu suốt những sự
việc diễn ra trong cuộc đời mình. Chí cũng vậy, những âm thanh bình dị, quen thuộc
của cuộc sống đã nhắc hắn nhớ về một qua xứ xa xôi, mơ hồ: “Hình như có một thời

83
hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng
lại bỏ con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm.” Nhớ lại
cũng chỉ thêm buồn vì ao ước giản dị bình thường thế mà Chí cũng không với tới
được. Và hiện tại lại càng không. Chí đang phải đối diện với tuổi già và cô độc và ốm
đau. Những dấu hiệu đi xuống của sức khỏe nhắc chí hiểu rằng hắn không thể sống
liều lĩnh nữa và khởi đầu cho một mơ ước cũng là điều thật khó khăn. Chí đủ sáng suốt
để hiểu ra tình cảnh của mình. Chí cũng đủ chí khôn để thấy tương lai mờ mịt của
mình dù vẫn còn mơ hồ: “Chí Phèo hình như đã trông trước thấy tuổi già của hắn, đói
rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau.” Một con quy dữ
tác oai tác quái dân làng với những hành động giật cướp và dọa nạt nay đã biết sợ cô
đơn, sợ tuổi già thì đó là một sự thức tỉnh đến triệt để. Tuy nhiên, Nam Ca rất sính
dùng các tình thái từ thể hiện sự phỏng đoán không chắc chắn “chắc là”, “hình như”
…khi nói về những suy nghĩ và cảm xúc của Chí. Phải chăng, nhà văn muốn nói rằng,
sự tỉnh thức ấy vẫn còn chập chờn trong men say hay đó là sự rụt rè, e ngại và mất tự
tin của Chí khi muốn mon men bước trở lại xã hội loài người. Hay Nam Cao muốn dự
báo rằng, sự tỉnh thức của Chí rồi cũng sẽ lại rơi vào ngõ cụt, bởi xã hội tàn bạo ấy
làm gì có chỗ cho con người thiện lương của CHí?
Không biết nữa, ta chỉ biết rằng, sự hồi sinh là tất yếu đối với Chí, nó phù hợp
với bản chất con người Chí. Và hơn hết, đó là cái nhìn đầy nhân ái, bao dung của Nam
Cao dành cho những con người ở tầng lớp đáy cùng bị tha hóa. Nhà văn luôn tin tưởng
rằng, con người dù bị đày đọa, bị đàn áp và bị tha hóa đến đâu đi nữa thì trong họ vẫn
luôn âm ỉ cháy một khát vọng trở về với lương thiện. Chỉ cần sự bao dung, sự cảm
thông và tình yêu thương, khát vọng ấy sẽ bùng lên, chữa lành các vết sẹo của quá khứ
tội lỗi, buồn đau. Cũng như anh cu Tràng thấy yêu thương cuộc sống sau khi gắn kết
với người vợ nhặt trong tác phẩm của Kim Lân, cũng như Mị thức tỉnh sau khi nhìn
thấy dòng nước mắt tuyệt vọng của A Phủ trong truyện ngắn của Tô Hoài, Chí Phèo
chỉ cần tình thương của thị Nở, một người phụ nữ xấu xí, dở hơi, hắn cũng sẵn sàng
tháo bỏ bộ mặt côn đồ, quỷ dữ để trở về kiếp người, dù khuôn mặt vẫn chằng chịt
những vết rạch ngang dọc. Qua cách trần thuật bằng giọng điệu sắc lạnh, tỉnh táo,
người đọc vẫn cảm nhận được một tình yêu thương đến đau đớn, gằng xé của nhà văn
trước những bế tắc trong con đường trở lại hoàn lương của nhân vật Chí Phèo.
Có thể nói, qua đoạn trích, bằng nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật
chân thực, tinh tế cùng giọng điệu trần thuật vừa sắc lạnh vừa giàu cảm xúc, tác giả đã
diễn tả đầy xúc động quá trình hồi sinh của Chí. Ngòi bút nhân đạo của Nam Cao đã
khơi dậy sự đồng cảm xót thương và trân trọng những kiếp người khổ hạnh trong tâm
hồn độc giả. Dù Chí Phèo đã chết trong đau đớn vật vã nhưng ta sẽ chẳng thể quên

84
một Chí Phèo đã từng tha thiết muốn sống cuộc đời lương thiện. Ta càng yêu hơn,
trân trọng hơn những phút giây hạnh phúc bình yên trong cuộc đời mình.

Đề 3. Phân tích sự hồi sinh của nhân vật Chí Phèo qua đoạn trích sau:
Thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt mình hình như ươn
ướt. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho. Xưa nay, nào hắn
có thấy ai tự nhiên cho cái gì. Hắn vẫn phải doạ nạt hay giật cướp. Hắn phải làm cho
người ta sợ. Hắn nhìn bát cháo bốc khói mà bâng khuâng. Thị Nở thì chỉ nhìn trộm
hắn, rồi lại toe toét cười. Trông thị thế mà có duyên. Tình yêu làm cho có duyên. Hắn
thấy vừa vui lại vừa buồn. Và một cái gì nữa, giống như là ăn năn. Cũng có thể như
thế lắm. Người ta hay ăn năn hối hận về tội ác khi không đủ sức để ác nữa. Thị Nở
giục hắn ăn nóng. Hắn cầm lấy bát cháo đưa lên mồm. Trời ơi cháo mới thơm làm
sao! Chỉ khói xông vào mũi cũng đủ làm người nhẹ nhõm. Hắn húp một húp và nhận
ra rằng: những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo rất ngon.
Nhưng sao lại mãi đến bây giờ hắn mới nếm vị mùi cháo?
Hắn tự hỏi rồi lại tự trả lời: vì có ai nấu cho ăn đâu? Mà còn ai nấu cho mà ăn
nữa! Ðời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi một tay “đàn bà”. Hắn nhớ đến “bà ta”,
cái con quỷ cái hay bắt hắn bóp chân mà lại kêu bóp lên trên, trên nữa, nó chỉ nghĩ
đến sao cho thỏa nó chứ có yêu hắn đâu. Hồi ấy hắn hai mươi. Hai mươi tuổi, người
ta không là đá, nhưng cũng không toàn là xác thịt. Người ta không thích cái gì người
ta khinh. Vả lại bị một con đàn bà gọi đến nhà mà bóp chân! Hắn thấy nhục hơn là
thích, huống hồi lại sợ. Quả thật, từ khi biết rằng con vợ chủ sai hắn làm một việc
không chính đáng, hắn vừa làm vừa run. Không làm thì không được: mọi việc trong
nhà, quyền đàn bà. Chứ hắn, hắn có lòng nào đâu! Ðến nỗi người đàn bà phát cáu. Bà
thấy xa xôi không được, phải làm đến nơi. Bà bảo hắn rằng: “Mày thực thà quá! Con
trai gì hai mươi tuổi mà đã như ông già”. Hắn vẫn giả vờ không hiểu. Bà lẳng lơ bảo:
“Chả nhẽ tao gọi mày vào chỉ để bóp chân thế này thôi ư?...” và thấy hắn dùng dằng,
bà mắng xơi xơi vào mặt. Hắn chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì. Không, hắn chưa được
một người đàn bà nào yêu cả. Vì thế mà bát cháo hành của thị Nở làm hắn suy nghĩ
nhiều. Hắn có thể tìm bạn được, sao lại chỉ gây kẻ thù?
Bát cháo húp xong rồi, thị Nở đỡ lấy bát cháo và múc thêm bát nữa. Hắn thấy
mình vã bao nhiêu mồ hôi. Mồ hôi chảy ra trên đầu, trên mặt, những giọt to như giọt
nước. Hắn đưa tay áo quệt ngang một cái, quệt mũi cười rồi lại ăn. Hắn càng ăn, mồ
hôi lại càng nhiều. Thị Nở nhìn hắn, lắc đầu thương hại. Hắn thấy lòng thành trẻ con.
Hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ. Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là thằng
Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người? Ðó là cái bản tính của hắn,
85
ngày thường bị lấp đi. Hay trận ốm thay đổi hẳn về sinh lý, cũng thay đổi cả tâm lý
nữa? Những người yếu đuối vẫn hay hiền lành. Muốn ác, phải là kẻ mạnh. Hắn đâu
còn mạnh nữa. Và có lúc hắn ngẫm mình mà lo. Xưa nay hắn chỉ sống bằng giật cướp
và dọa nạt. Nếu không còn sức mà giật cướp, dọa nạt nữa thì sao? Ðã đành, hắn chỉ
mạnh vì liều. Nhưng hắn mơ hồ thấy rằng sẽ có một lúc mà người ta không thể liều
lĩnh được nữa. Bấy giờ mới nguy! Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa
với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn
thì sao người khác lại không thể được. Họ sẽ nhận lại hắn vào cái xã hội bằng phẳng,
thân thiện của những người lương thiện... Hắn băn khoăn nhìn thị Nở, như thăm dò.
Thị vẫn im lặng, cười tin cẩn, hắn thấy tự nhiên nhẹ người. Hắn bảo thị:
- Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?
Thị không đáp, nhưng cái mũi đỏ của thị như càng bạnh ra. Hắn thấy thế cũng
không có gì là xấu. Bằng một cái giọng nói và một vẻ mặt rất phong tình theo ý hắn,
hắn bảo thị:
- Hay mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui.
Thị lườm hắn. Một người thật xấu khi yêu cũng lườm. Hắn thích chí khanh khách
cười. Lúc tỉnh táo, hắn cười nghe thật hiền. Thị Nở lấy làm bằng lòng lắm. Bấy giờ
mấy bát cháo ý chừng đã ngấm. Hắn thấy lòng rất vui.
(Trích: Chí Phèo – Nam Cao)

HƯỚNG DẤN LÀM BÀI


I. Mở bài
- Đề tài người nông dân có thể coi là mảnh đất màu mỡ mà các nhà văn hiện thực 1930
-1945 đã gieo hạt nghệ thuật và gặt hái được những mùa bội thu. Nam Cao là người
đến sau khi mà mảnh đất ấy đã được khai vỡ, nhưng bằng tất cả tâm huyết, tình cảm
của mình đối với những con người nghèo khổ - những kẻ dưới đáy của xã hội, Nam
Cao đã tìm được cho mình một chỗ đứng riêng.
- “Chí Phèo” là một kiệt tác đánh dấu nét độc đáo riêng biệt ấy trong ngòi bút của nhà
văn. Đọc tác phẩm của ông, ta không chỉ thấy nỗi thống khổ đến cùng cực của người
nông dân mà hơn hết, ta thấy lấp lánh một niềm tin mãnh liệt vào thiện lương của họ.
- Đoạn trích sau đã thể hiện thật cảm động sự hồi sinh của Chí khi đón nhận bát cháo
hành từ thị Nở: “…”
II. Thân bài
1. Dẫn nhập
- Tóm lược đoạn trích:

86
+ Chí Phèo sau khi uống rượu nhà Tự Lãng không về túp lều của mình mà ra thẳng bờ
sông. Ở đó bắt gặp Thị Nở - người đàn bà ngớ ngẩn, xấu ma chê quỷ hờn, đi kín nước
nhưng ngủ quên ở bờ sông.
+ Khung cảnh hữu tình: trăng lấp lánh trên mặt sông, gió thổi mát rượi và những tàu
chuối "giãy đành đạch như hứng tình", cùng với hơi men của rượu đã đưa đến mối tình
Chí Phèo - Thị Nở.
+ Sau đêm trăng gió với Thị, Chí bị cảm, Thị Nở thương tình, sau một đêm trằn trọc
suy nghĩ, Thị chạy đi tìm gạo và nấu cháo hành mang sang cho Chí.
- Vị trí đoạn trích: nằm ở cuối tác phẩm.
2. Phân tích sự hồi sinh của Chí Phèo
a. Ý nghĩa hình ảnh bát cháo hành
- Bát cháo hành đạm bạc của Thị Nở đã thức tỉnh Chí, cứu vớt Chí, làm hồi sinh tâm
hồn, nhân tính trong Chí.
- Nó thể hiện tình cảm, tư tưởng nhân văn sâu sắc của nhà văn Nam Cao. Ông luôn
luôn băn khoăn, trăn trở về vấn đề nhân tính của con người.
- Thể hiện niềm tin mãnh liệt vào con người, vào phần lương thiện thiêng liêng, quý
báu trong mỗi con người ở tác giả.
b. Sự hồi sinh của Chí Phèo
- Nhìn thấy bát cháo hành: "Thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy
mắt hình như ươn ướt.
+ Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho.
+ Lần đầu tiên sau khi ra tù Chí được một con người nhìn nhận mình như một con
người, đối xử với mình theo cách con người dành cho nhau.
- Chí thực sự đã tỉnh rượu, đã tỉnh ngộ và ý thức được về cuộc sống sau những tháng
năm say triền miên, vô tận, say để không biết có sự hiện hữu của mình trên cõi đời.
"Hắn thấy vừa vui, vừa buồn. Và một cái gì nữa giống như là ăn năn".
+ Chí cảm nhận được tất cả vị thơm ngon của nồi cháo hành: "Trời ơi cháo mới thơm
sao!
+ Nhận ra mình, nhận thức về những việc mình đã làm. Hơi cháo làm Chí nhẹ người,
chí khỏi ốm để ăn năn, sám hối.
+ - Xót xa tủi phận: hiểu tình cảnh thê thảm, bi đát của mình cho nên hắn vừa vui lại
vừa buồn. Vui vì tình yêu, hạnh phúc muộn mằn, dù muộn nhưng đã đến; buồn vì thân
phận, vì cuộc sống hiện tại của bản thân.
- Hồi tưởng quá khứ: Chí nghĩ đến những tháng ngày nhục nhã bị bà ba nhà Bá Kiến -
"con quỷ cái" cứ hay gọi hắn đấm lưng, bóp chân "mà lại cứ bắt bóp lên trên, trên
nữa". Hắn thấy nhục chứ sung sướng gì. "Hai mươi tuổi người ta không là đá, nhưng
cũng không hoàn toàn là xác thịt. Người ta không thích những cái người ta khinh ...".

87
Rõ ràng đến đây, Chí hiện lên là một chân dung con người đầy đủ, vẹn toàn có cả quá
khứ, hiện tại, có những suy nghĩ sâu xa, những tâm trạng phong phú, ý thức đầy đủ về
bản thân.
- Bát cháo húp xong, hắn khao khát được làm hòa với mọi người: Thị Nở đỡ lấy bát và
múc thêm bát nữa. Hắn thấy đẫm bao nhiêu mồ hôi, những giọt mồ hôi to như giọt
nước. Chí biết mình đã đến cái dốc bên kia của cuộc đời và chí thấy "thèm lương
thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!
- Nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật chân thực, sâu sắc, lối kể chuyện đân
xen lời kể trực tiếp và nửa trực tiếp tạo nên sự tự nhiên, cuốn hút, đồng cảm; sử dụng
hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng giàu sức gợi.
3. Đánh giá, nhận xét
- Đoạn trích thể hiện tài năng viết truyện ngắn của Nam Cao, bộc lộ phong cách viết
đặc trưng
- Thể hiện tấm lòng nhân ái, yêu thương và luôn tin tưởng vào con người của nhà văn.
- So sánh với sự thay đổi tâm lí trong một số nhân vật: Giôn-xi trong “Chiếc lá cuối
cùng” (Ô-Hen-ri)tâm hồn hồi sinh sau khi nhìn thấy chiếc lá vẫn kiên cường bám trụ
sau cơn bão.
III. Kết bài
- Khẳng định thành công của đoạn trích trong việc miêu tả sự hồi sinh của Chí Phèo
khi đón nhận bát cháo hành từ thị Nở.
- Khẳng định tài năng và nhân cách của Nam Cao.
- Liên hệ, rút ra bài học cho bản thân.

Bài làm tham khảo

Đề tài người nông dân có thể coi là mảnh đất màu mỡ mà các nhà văn hiện thực
1930 -1945 đã gieo hạt nghệ thuật và gặt hái được những mùa bội thu. Nam Cao là
người đến sau khi mà mảnh đất ấy đã được khai vỡ, nhưng bằng tất cả tâm huyết, tình
cảm của mình đối với những con người nghèo khổ - những kẻ dưới đáy của xã hội,
Nam Cao đã tìm được cho mình một chỗ đứng riêng. “Chí Phèo” là một kiệt tác đánh
dấu nét độc đáo riêng biệt ấy trong ngòi bút của nhà văn. Đọc tác phẩm của ông, ta
không chỉ thấy nỗi thống khổ đến cùng cực của người nông dân mà hơn hết, ta thấy
lấp lánh một niềm tin mãnh liệt vào thiện lương của họ. Đoạn trích sau đã thể hiện thật
cảm động sự hồi sinh của Chí khi đón nhận bát cháo hành từ thị Nở: “…”

Bát cháo hành xuất hiện ở gần cuối thiên truyện. Chí Phèo sau khi uống rượu
nhà Tự Lãng không về túp lều của mình mà ra thẳng bờ sông. Ở đó bắt gặp Thị Nở -

88
người đàn bà ngớ ngẩn, xấu ma chê quỷ hờn, đi kín nước nhưng ngủ quên ở bờ sông.
Khung cảnh hữu tình: trăng lấp lánh trên mặt sông, gió thổi mát rượi và những tàu
chuối "giãy đành đạch như hứng tình", cùng với hơi men của rượu đã đưa đến mối tình
Chí Phèo - Thị Nở. Sau đêm trăng gió với Thị, Chí bị cảm, Thị Nở thương tình, sau
một đêm trằn trọc suy nghĩ, Thị chạy đi tìm gạo và nấu cháo hành mang sang cho Chí.
Bát cháo hành đạm bạc của Thị Nở đã thức tỉnh Chí, cứu vớt Chí, làm hồi sinh
tâm hồn, nhân tính trong Chí. Điều đó không phải ai cũng làm được. Nó thể hiện tình
cảm, tư tưởng nhân văn sâu sắc của nhà văn Nam Cao. Ông luôn luôn băn khoăn, trăn
trở về vấn đề nhân tính của con người. Ông luôn mang trong mình niềm tin mãnh liệt
vào con người, vào phần lương thiện thiêng liêng, quý báu trong mỗi con người. Thiên
lương ấy không bao giờ bị mất đi, không một thế lực nào giết được. Nó như một thứ
lửa luôn âm ỉ cháy trong trái tim của con người, kể cả những con người ở giữa vũng
bùn lầy của sự tha hóa như Chí Phèo.

Những dòng Nam Cao miêu tả Chí Phèo ăn cháo hành có thể nói là những dòng
văn sâu sắc, xúc động nhất tác phẩm. Nhìn thấy bát cháo hành "Thằng này rất ngạc
nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt. Bởi vì lần này là lần thứ
nhất hắn được một người đàn bà cho. Xưa nay, nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái
gì...". Chí đi từ ngạc nhiên đến xúc động nghẹn ngào. Đây là lần thứ nhất trong đời
hắn khóc sau những năm tháng bị đọa đày và cũng là lần thứ nhất trong đời hắn nhận
được một thứ người ta cho, cho vô tư, không tính toán. Hắn không phải dọa nạt hay
cướp giật mà vẫn có được. Quan trọng, đây là lần đầu tiên trong đời Chí được một
người đàn bà quan tâm, săn sóc, dành tình cảm cho; cũng là lần đầu tiên sau khi ra tù
Chí được một con người nhìn nhận mình như một con người, đối xử với mình theo
cách con người dành cho nhau. Và hắn thấy thị có duyên bởi trong mắt kẻ si tình
người yêu của mình bao giờ chẳng đẹp, chẳng duyên. Để rồi sau đó, Chí Phèo tỉnh,
tỉnh để suy tư, chiêm nghiệm.

Chí thực sự đã tỉnh rượu, đã tỉnh ngộ và ý thức được về cuộc sống sau những
tháng năm say triền miên, vô tận, say để không biết có sự hiện hữu của mình trên cõi
đời. "Hắn thấy vừa vui, vừa buồn. Và một cái gì nữa giống như là ăn năn". Chí cảm
nhận được tất cả vị thơm ngon của nồi cháo hành: "Trời ơi cháo mới thơm sao! Chỉ
khói xông lên mũi cũng đủ làm người nhẹ nhõm. Hắn húp một húp và nhận ra rằng:
Những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo hành rất ngon...". Hơi
cháo hành, bàn tay chăm sóc và tình cảm của thị Nở đã làm cho Chí tỉnh, tỉnh để mà
nhận ra mình, nhận thức về những việc mình đã làm. Hơi cháo làm Chí nhẹ người, chí
khỏi ốm để ăn năn, sám hối. Hơn lúc nào, Chí cảm thấu tình cảnh thê thảm, bi đát của

89
mình cho nên hắn vừa vui lại vừa buồn. Vui vì tình yêu, hạnh phúc muộn mằn, dù
muộn nhưng đã đến; buồn vì thân phận, vì cuộc sống hiện tại của bản thân.

Cháo hành rất ngon nhưng "tại sao mãi đến tận bây giờ hắn mới nếm vị mùi
cháo?". Hắn hỏi rồi hắn tự trả lời: "có ai nấu cho mà ăn đâu? Mà còn ai nấu cho mà ăn
nữa! Đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi một bàn tay "đàn bà". Thê thảm quá! Bi
kịch quá! Xót xa muôn phần! Một chút gì như cay đắng nghẹn lòng nữa! Chí nghĩ đến
những tháng ngày nhục nhã bị bà ba nhà Bá Kiến - "con quỷ cái" cứ hay gọi hắn đấm
lưng, bóp chân "mà lại cứ bắt bóp lên trên, trên nữa". Hắn thấy nhục chứ sung sướng
gì. "Hai mươi tuổi người ta không là đá, nhưng cũng không hoàn toàn là xác thịt.
Người ta không thích những cái người ta khinh ...". Rõ ràng đến đây, Chí hiện lên là
một chân dung con người đầy đủ, vẹn toàn có cả quá khứ, hiện tại, có những suy nghĩ
sâu xa, những tâm trạng phong phú, ý thức đầy đủ về bản thân. Người nông dân lương
thiện trong Chí đang trở về sau những năm tháng dài bị đi đày xa tắp. Nhưng có ai
nhận thấy đâu, họa chăng chỉ có thị Nở vì thị thấy chí rất hiền, "ai dám bảo đó là cái
thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người?"

Nam Cao vốn là một nhà văn có cái nhìn đời thấu suốt, tinh sắc. Ông không
dừng lại ở sự thức tỉnh của Chí Phèo nhờ bát cháo hành mà ông còn đưa người đọc đi
xa hơn đến chân trời ước mơ, hy vọng của Chí. Với ước mơ quá khứ sống dậy, ước
mơ trong hiện tại bùng cháy thiêu đốt tâm can, Chí đã thực sự hồi sinh, là một con
người hoàn toàn theo đúng nghĩa của hai chữ CON NGƯỜI viết hoa (chữ của
M.Gorki).

Bát cháo húp xong, Thị Nở đỡ lấy bát và múc thêm bát nữa. Hắn thấy đẫm bao
nhiêu mồ hôi, những giọt mồ hôi to như giọt nước. Chí biết mình đã đến cái dốc bên
kia của cuộc đời và chí thấy "thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết
bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn sao người khác
không thể... Họ sẽ nhận lại hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người
lương thiện". Hạnh phúc chớm nở như hoa hàm tiếu và hy vọng được nhen lên rồi
bùng cháy mãnh liệt như ngọn lửa được tiếp ôxi. Chí khao khát cuộc đời lương thiện,
muốn làm hòa với mọi người. Thị Nở sẽ là cầu nối, là hy vọng, mở ra cánh cửa của thế
giới lương thiện vẫn đóng im ỉm cho Chí. Bát cháo hành của tình yêu, tình người đã
làm tươi lại, thanh lọc tâm hồn Chí. Cái ước mơ của Chí rất giản dị mà thiêng liêng,
cao cả xiết bao. Nó mang tư tưởng nhân văn sâu sắc, mới mẻ của nhà văn Nam Cao.
Bởi đã là con người, dù dị dạng, dù tha hóa nhưng họ vẫn có quyền được sống lương

90
thiện, vẫn không thôi ước mơ, không hết sự khát thèm cuộc đời bình dị trong hạnh
phúc và tình yêu.

Như vậy, với tài năng miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật chân thực, tinh tế, tài
năng sử dụng chi tiết nghệ thuật độc đáo, cùng lối kể chuyện giàu cảm xúc, Nam Cao
đã làm nổi bật khát khao được sống lương thiện của những con người nhỏ bé, bất
hạnh. Đồng thời, tố cáo xã hội tàn nhẫn đẩy người nông dân đến bước đường cùng,
Gấp trang sách lại độc giả vẫn còn day dứt tiếc thương một Chí Phèo đã mon men tới
bờ của sự thiện lương mà không tìm được nơi bấu víu… Càng day dứt xót xa, ta càng
thấy mình cần biết yêu thương trân trọng cuộc sống hơn. Hãy biết sẻ chia và đùm bọc
lẫn nhau bởi chỉ có tình thương chân thành mới có sức mạnh cảm hóa, mới khiến xã
hội trở nên tốt đẹp hơn.

Đề 4. Phân tích bi kịch bị chối bỏ (cự tuyệt quyền làm người) của nhân vật Chí
Phèo qua đoạn trích sau:
Thị lon ton chạy sang nhà nhân ngãi. Thị thấy hắn đang uống rượu, và vừa uống
vừa lầm bầm chửi thị về nhà lâu. Hắn không quen đợi; bởi phải đợi, hắn lại lôi rượu
mà uống cho đỡ buồn. Uống vào thì phải chửi, quen mồm rồi! Nhưng thị làm gì mà
hắn chửi? Mà hắn có quyền gì chửi thị? Ồ, thị điên lên mất! Thị dẫm chân xuống đất,
rồi lại nhảy cẫng lên như thượng đồng. Hắn thú vị quá, lắc lư cái đầu cười. Lại còn
cười! Nó nhạo thị, trời ơi! Thị điên lên mất, trời ơi là trời! Thị chống hai tay vào
háng, vênh vênh cái mặt, và tớn cái môi vĩ đại lên, trút vào mặt hắn tất cả những lời
bà cô. Hắn nghĩ ngợi một tí rồi hình như hiểu. Hắn bỗng nhiên ngẩn người. Thoáng
một cái, hắn lại như hít hít thấy cái hơi cháo hành. Hắn cứ ngồi ngẩn mặt không nói
gì. Thị trút giận xong rồi. Cái mũi đỏ dị xuống rồi lại bạnh ra. Thị hả hê lắm lắm. Thị
ngoay ngoáy cái mông đít ra về. Hắn sửng sốt đứng lên gọi lại. Ai mà thèm lại! Còn
muốn lôi thôi cái gì? Hắn đuổi theo thị, nắm lấy tay thị. Thị gạt ra, lại giúi thêm cho
một cái. Hắn lăn khèo xuống sân. Ðã lăn ra thì hắn phải kêu: bao giờ chả thế. Hắn
nhặt một hòn gạch toan đập đầu. Nhưng hình như hắn chưa thật say. Vì hắn nghĩ đập
đầu ở đây chỉ thiệt; đập đầu ở đây để mà ăn vạ ai? Hắn phải tự đến cái nhà con đĩ Nở
kia. Ðến để đâm chết cả nhà nó, đâm chết cái con khọm già nhà nó. Nếu không đâm
được, lúc ấy hãy đập đầu kêu làng. Muốn đập đầu, phải uống thật say. Không có
rượu, lấy gì làm cho máu nó chảy? Phải uống thêm chai nữa. Và hắn uống. Nhưng tức
quá, càng uống càng tỉnh ra. Tỉnh ra, chao ơi, buồn! Hơi rượu không sặc sụa. Hắn cứ
thoang thoảng thấy hơi cháo hành. Hắn ôm mặt khóc rưng rức. Rồi lại uống. Hắn ra
đi với một con dao ở thắt lưng. Hắn lảm nhảm: “Tao phải đâm chết nó!”. Nhưng hắn
lại cứ thẳng đường mà đi. Cái gì đã làm hắn quên rẽ vào nhà thị Nở? Những thằng
91
điên và những thằng say rượu không bao giờ làm những cái mà lúc ra đi chúng định
làm.
Trời nắng lắm, nên đường vắng. Hắn cứ đi, cứ chửi, cứ dọa giết “nó”, và cứ đi.
Bây giờ đến ngõ nhà cụ Bá. Hắn xông xông đi vào. Cả nhà đi làm đồng vắng, chỉ có
mình cụ Bá đang nằm nghỉ trưa. Nghe tiếng hắn, cụ thấy sao bực mình quá! Chính
thật thì cụ cũng đang bực mình. Bởi vì cụ thấy đầu hơi nhức. Cụ đang muốn có một
bàn tay man mát xoa cái đầu. Cũng có lẽ, cụ chỉ muốn bà Tư đừng đi lâu quá thế. Đi
lâu thế, không biết rằng đi đâu? Sao bà ấy còn trẻ quá! Gần bốn mươi rồi mà trông
còn phây phây. Còn phây phây quá đi nữa! Cụ năm nay đã ngoài sáu mươi. Già yếu
quá, nghĩ mà chua xót. Già thế thì bà ấy chỉ cũng già đi cho xong. Bà ấy lại cứ trẻ, cứ
phây phây, cứ đẹp như mới ngoài hai mươi tuổi, mà sao đa tình. Nhìn thì thích nhưng
tưng tức lạ. Khác gì nhai miếng thịt bò lựt sựt khi rụng gần hết răng. Mắt bà, miệng
bà có duyên, nhưng trông đĩ lắm. Hơi một tí là cười toe toét, tít cả mắt lại, cái má thì
hây hây. Mà thấy ghét những thằng trai trẻ, giá làm con bà không đáng, mà thấy đâu
cũng đùa. Chúng đùa nhạt như nước ốc, chỉ được cái thô tục, mà gặp ai đâu cũng
cười! Chẳng nghĩ đến địa vị cả, người đâu mà vô tâm! Tức lạ! Cụ chỉ muốn cho tất cả
những thằng trai trẻ đi tù... Những lúc như thế, thì một người dẫu khôn ngoan cũng
không bình tĩnh được. Nhất là khi trông thấy một thằng chỉ đến vòi tiền uống rượu như
Chí Phèo. Tuy vậy, cụ cũng móc sẵn năm hào. Thà móc sẵn để tống nó đi cho chóng.
Nhưng móc rồi, cụ cũng phải quát một câu cho nhẹ người:
- Chí Phèo đấy hở ? Lè bè vừa thôi chứ, tôi không phải là cái kho.
Rồi ném bẹt năm hào xuống đất, cụ bảo hắn:
- Cầm lấy mà cút đi cho rảnh. Rồi làm mà ăn chứ cứ báo người ta mãi à?
Hắn trợn mắt chỉ tay vào mặt cụ:
- Tao không đến đây xin năm hào.
Thấy hắn toan làm dữ cụ đành dịu giọng:
- Thôi, cầm lấy vậy, tôi không còn hơn.
Hắn vênh cái mặt lên, rất kiêu ngạo:
- Tao đã bảo là tao không đòi tiền.
- Giỏi! Hôm nay mới thấy anh không đòi tiền. Thế anh cần gì?
Hắn dõng dạc:
- Tao muốn làm người lương thiện!
Bá Kiến cười ha hả:
- Ồ tưởng gì! Tôi chỉ cần anh lương thiện cho thiên hạ nhờ.
Hắn lắc đầu:
- Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh
chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không? Chỉ có một

92
cách... biết không! Chỉ có một cách là... cái này biết không?
Hắn rút dao ra xông vào. Bá Kiến ngồi nhỏm dậy, Chí Phèo đã văng dao tới rồi.
Bá Kiến chỉ kịp kêu một tiếng. Chí Phèo vừa chém túi bụi vừa kêu làng thật to. Hắn
kêu làng, không bao giờ người ta vội đến. Bởi thế khi người ta đến thì hắn cũng đang
giẫy đành đạch ở giữa bao nhiêu là máu tươi. Mắt hắn trợn ngược. Mồm hắn ngáp
ngáp, muốn nói, nhưng không ra tiếng. Ở cổ hắn, thỉnh thoảng máu vẫn còn ứ ra.
(Trích: Chí Phèo – Nam Cao)

HƯỚNG DẤN LÀM BÀI


I. Mở bài
- Đề tài người nông dân có thể coi là mảnh đất màu mỡ mà các nhà văn hiện thực 1930
-1945 đã gieo hạt nghệ thuật và gặt hái được những mùa bội thu. Nam Cao là người
đến sau khi mà mảnh đất ấy đã được khai vỡ, nhưng bằng tất cả tâm huyết, tình cảm
của mình đối với những con người nghèo khổ - những kẻ dưới đáy của xã hội, Nam
Cao đã tìm được cho mình một chỗ đứng riêng.
- “Chí Phèo” là một kiệt tác đánh dấu nét độc đáo riêng biệt ấy trong ngòi bút của nhà
văn. Đọc tác phẩm của ông, ta không chỉ thấy nỗi thống khổ đến cùng cực của người
nông dân mà hơn hết, ta thấy lấp lánh một niềm tin mãnh liệt vào thiện lương của họ.
- Đoạn trích sau đã thể hiện sâu sắc bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo:
(…)
II. Thân bài
1. Dẫn nhập
- Tóm lược về nhân vật Chí Phèo
- Giải thích khái niệm:
+ Bi kịch: Sự mâu thuẫn, đối lập giữa hiện thực đời sống với khát vọng con người
+ Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người: Sự mâu thuẫn giữa khát vọng quay trở lại làm
một con người, khát khao được đối xử như một con người nhưng không được của Chí
Phèo.
- Nêu vị trí đoạn trích: nằm ở phần cuối tác phẩm
2. Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người thể hiện qua đoạn trích
a. Từ khao khát được làm người đến tuyệt vọng
- Trước khi bị thị Nở khước từ:
+ Chí đang rất hạnh phúc: hắn rất vui, và cảm động
+ Chí thèm được làm hòa với mọi người và hi vọng thị Nở sẽ mở đường cho hắn
- Nhưng chính thị lại là người đẩy Chí ngụp sâu dưới vũng đắm cuộc đời.
+ Thị Nở xỉa xói Chí, buông những lời cay độc với Chí (thực chất đó chính là những
định kiến xã hội khó bỏ)
93
+ Thị Nở không chấp nhận mở đường cho Chí trở về làm một con người bình thường.
b. Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo:
- Lúc đầu: Hắn thú vị quá, lắc lư cái đầu cười. → vì chưa hiểu ra cơ sự, Chí vẫn còn
lâng lâng trong cảm giác hạnh phúc.
- Khi đã hiểu: Hắn bỗng nhiên ngẩn người. Thoáng một cái, hắn lại như hít hít thấy cái
hơi cháo hành. Hắn cứ ngồi ngẩn mặt không nói gì. → ngạc nhiên, ngỡ ngàng trước
thái độ bất ngờ, khó hiểu của thị.
+ Nỗ lực níu kéo hạnh phúc: “Hắn đuổi theo thị, nắm lấy tay thị”→cảm nhận bi kịch
đang hiện hữu→Sự tỉnh táo của một con người tha thiết muôn slàm lại cuộc đời.
+ Lời nói: “đến cái nhà con đĩ Nở kia. Ðến để đâm chết cả nhà nó, đâm chết cái con
khọm già nhà nó”→ trái ngược với hành động
+ Cảm xúc: đau đớn, tuyệt vọng, bế tắc.” tức quá, càng uống càng tỉnh ra. Tỉnh ra,
chao ơi, buồn!”
+ Hành động: Toan la làng, đập đầu, rạch mặt ăn vạ nhưng lại tìm đến rượu. ôm mặt
khóc rưng rức, dắt dao ở lưng→tìm giết bà cô, thị Nở → giết Bá Kiến →tự sát.
- Nghệ thuật: miêu tả tâm lí nhân vật; xây dựng lời thoại đặc trưng tính cách nhân vật;
tình tiết gay cấn, khóc liệt, phản ánh mâu thuẫn gay gắt cần phải được giải quyết.
c. Ý nghĩa cái chết của Chí Phèo
- Đó là cái chết mang tính tất yếu lịch sử, phản ánh chiều hướng đấu tranhc ủa tầng lớp
bị áp bức trong xã hội, báo hiệu một cuộc nổi dậy không xa.
- Cái chết của Chí Phèo là cái chết của con người trong bi kịch đau đớn trên ngưỡng
cửa trở về cuộc sống làm người
- Cái chết của Chí Phèo thể hiện tư tưởng sống đúng đắn của con người, không chấp
nhận sống cuộc đời của mọt con người bị tha hóa, biến chất.
- Thể hiện niềm tin của tác giả vào sự chiến thắng của cái thiện, cái tốt trên con đường
hoàn thiện nhân cách của con người.
⇒Chí Phèo là tiêu biểu cho số phận người nông dân trong xã hội cũ bị chèn ép, đẩy
vào bước đường cùng
III. Kết bài
- Khái quát lại những nét đặc sắc nghệ thuật góp phần thể hiện thành công bi kịch bị
cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo.
- Nhận xét, đánh giá về tài năng, phẩm chất của tác giả bộc lộ qua đoạn trích nói riêng,
tác phẩm nói chung.
- Nêu cảm nhận, đánh giá của em về bi kịch.
Bài làm tham khảo
Khi đọc Chí Phèo của Nam Cao, giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã, nhận thấy một
điều thật sâu sắc: Chí Phèo là hiện thân đầy đủ những gì gọi là khôn khổ, tủi nhục nhất

94
của người dân cày ở một nước thuộc địa, bị cào xé, bị huỷ hoại từ nhân tính đến nhân
hình. Chị Dậu bán con, bán chó, bán sữa nhưng chị vẫn còn được là con người. Chí
Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn của mình để trở thành con “quỷ dữ”. Trong
muôn vàn nỗi khôn khổ tủi nhục mà Chí đã nếm trải, nỗi đau khổ lớn nhất có lẽ chính
là cái bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người thật xót xa, nhức buỗt của Chí cứ mãi hoài
cắn xé trên từng câu chữ của Nam Cao.
“Bi kịch là tình cảnh éo le đầy đau thương, bế tắc chưa có lối thoát mà con
người . phải chịu đựng”. Hiểu theo nghĩa ấy, số phận Chí Phèo là một chuỗi dài bi
kịch mà bi kịch sau bao giờ cũng đau đớn hơn bi kịch trước. Đọc những dòng đầu tiên
của tác phẩm, độc giả đã thật sự bị ám ảnh bởi tiếng chửi rất lạ của một nhân vật chưa
được nêu tên: “Hắn vừa đi vừa chửi… Bắt đầu hắn chửi trời… Rồi hắn chửi đời…
Hắn chửi tất cả làng Vũ Đại… Hắn chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn… Hẳn
chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo”. Đấy là tiếng chửi của
một tên say rượu, một tiếng chửi vô thức. Nhưng nhiều khi trong vô thức, con người
lại thể hiện chính mình nhiều hơn khi tỉnh. Nhờ biện pháp nghệ thuật tăng cấp, nhờ
những câu văn ngắn, nhịp văn gấp tưởng chừng như các câu văn bị xé rách, bị cắt vụn
mà người đọc có cảm giác được chứng kiến tận mắt sự quằn quại, của Chí trong cơn
đau bi cự tuyệt quyền làm người. Chí chửi trời (đấng tối cao của muôn loài). Chí chửi
làng (cái cộng đồng gần gũi, thiêng liêng của con người)… Nhưng không ai lên tiếng
cả. Người ta không lên tiếng vì người ta không công nhận Chí là người. Cả làng Vũ
Đại không ai hiểu Chí. Chí một mình đôì diện với sa mạc cô đơn. Giá có một người để
chửi nhau, có lẽ Chí còn đỡ khổ. Bởi vì người ta sống, dù để chửi nhau cũng không thể
chửi một mình. Chí chỉ còn biết chửi người đẻ ra y. Chửi người đẻ ra mình thì cũng là
chửi chính bản thân. Tiếng chửi của Chí thể hiện sự vật vã, dẫu là vô thức, để tìm ra
căn nguyên của khổ đau. Nhimg khôn khổ thay, Chí càng chửi càng bế tắc. Giá như
ngày ấy ở làng Vũ Đại có một người lên tiếng, cũng như sau đó, Thị Nở “không chỉ
biết cho mà còn biết giữ”… Giá như… giá như… chỉ cần một lần giá như xảy ra, chỉ
cần một trong hàng nghìn người ở làng Vũ Đại coi Chí là người thì tấn bi kịch của đời
Chí sẽ có cơ hội không xảy ra. Nhưng chuyện gì xảy ra thì nó đã xảy ra… Nam Cao
ngược dòng thời gian trở lại với quá khứ để dẫn dắt người đọc, giúp họ thấủ hiểu quá
trình bị cự tuyệt quyền làm người từ thấp đến cao của Chí, đồng thời, ông cũng chỉ rõ
căn nguyên dẫn Chí đến tình trạng ấy.
Chí là một. “đứa con hoang”, “một anh đi thả ống lươn, một buổi sáng tinh
sương đã thây hắn trần truồng và xám ngắt trong cái váy đụp để bên một lò gạch bỏ
không, anh ta rước lấy và mang cho một người đàn bà goá bụa”. Năm từ “một” tồn tại
trong một câu văn dài, dường như đã báo trước cuộc đời cô độc triền miên của Chí.
Ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời, Chí đã bị người mẹ, người đời cự tuyệt quyền

95
làm người. Chí trở thành kẻ không cha, không mẹ. Suốt quãng đời niên thiếu, Chí
Phèo không có tuổi thơ. Hắn phải sông kiếp bơ vơ “đi ở cho hết nhà này sang nhà nọ”.
Đến tuổi trưởng thành, hắn làm canh điền cho nhà Bá Kiến, một tên địa chủ cường hào
lọc lõi khét tiếng độc ác, gian hùng. Cũng may cho đời Chí, có lẽ vì lớn lên cùng với
những người lao động, Chí trở thành người nông dân lương thiện khoẻ mạnh về thể
xác, lành mạnh về tâm hồn. Anh canh điền giàu lòng tự trọng ây “biết không thích
những cái gì mà người ta khinh”, từng khát khao “có một gia đình nho nhỏ, chồng
cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải”. Vậy mà, nghiệt ngã thay, cuộc đời đã không dành
cho Chí những cái rất đỗi dung dị, bình thường ấy.
Chỉ vì cơn ghen tuông vu vơ, Bá Kiến đã đẩy Chí Phèo vào tù. Mỉa mai thay,
nhà tù, cái công cụ cải tạo con người của chế độ thực dân đã tiếp tay cho bọn phong
kiến, cường hào địa chủ giết chết phần người trong Chí Phèo, biến hắn từ một người
nông dân lương thiện thành tên lưu manh, bị loại bỏ ra ngoài xã hội con người. Đây là
lần thứ hai Chí bị cự tuyệt quyền làm người.
Trở về làng Vũ Đại, Chí Phèo xuất hiện trong một bộ dạng thật kì quái: “cái đầu
thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt đen mà lại rất câng câng, hai con mắt
gườm gườm trông gớm chết”. Đó là mặt của “một con vật lạ”. Lại nữa, “hắn mặc quần
nái đen với cái áo tây vàng, cái ngực phanh ra đầy những nét chạm trổ rồng phượng
với một ông tướng cầm chuỳ trông gớm chết”. Đó là hình hài của một kẻ côn đồ, hung
hãn, chỉ biết gây gổ, đâm chém, về làng hôm trước, hôm sau, Chí đã điên cuồng lao
vào trả thù Bá Kiến bằng cách ăn vạ, chửi đểu. Nhưng, cụ Bá khôn róc đời đã ma
mãnh cướp luôn của Chí cái quyền được trả thù kẻ có thù với mình. Chí Phèo lại từng
bước trở thành tay sai cho kẻ thù, trở thành công cụ của Bá Kiến. Hắn chỉ còn biết
rạch mặt, ăn vạ để đòi tiền, để đâm chém những ai không cùng phe cánh với cụ Bá. Từ
đó, hắn chìm trong cơn say. Hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say và đánh nhau
trong cơn say, “Hắn đã phá tan bao nhiêu gia đình, đập vỡ bao nhiêu hạnh phúc, làm
chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện”. Những năng lực vốn có của con
người: năng lực cảm xúc, ý thức, hầu như bị tiêu huỷ, chỉ còn lại một năng lực đầm
chém, phá phách trong những con say không bao giờ dứt. Cứ như thế đời hắn trượt
dài. Nhìn vào mặt hắn người ta không biết hắn bao nhiêu tuổi. Đời hắn đã xem như đời
bỏ đi, nhân hình bị huỷ hoại, nhân tính bị xói mòn. Cả làng Vũ Đại “đều sợ và tránh
mặt hắn mỗi lần hắn đi qua”. Ngay bản thân hắn cũng đã quên sự có mặt của hắn ở
trên đời. Có thể nói, trước khi gặp Thị Nở, Chí đã bị cự tuyệt quyền làm người đến cao
độ.
Người ta sẽ đỡ khổ nếu không biết mình sống trong cái khổ. Người ta sẽ đỡ đau
đớn khi bị tước quyền làm người mà không hề hay biết. Trước khi gặp Thi Nở, Chí
Phèo chưa nhận thức được tấn bi kịch của đời mình. Chí đâu biết chính xã hội thực

96
dân phong kiến chẳng những đã sinh ra Chí mà còn nuôi dưỡng tính côn đồ hung hãn
của Chí bằng cách tước đoạt dần quyền làm người của Chí. Đúng lúc Chí dấn thân đến
chỗ tột cùng của sự tha hoá, đúng lúc người ta tưởng Chí sẽ triền miên trong cuộc đời
một con quỷ dữ thì Nam Cao đã phát hiện trong chiều sâu tâm linh của nhân vật một
đốm lửa nhỏ nhoi bừng sáng. Chí ao ước được trở lại làm người lương thiện. Vai trò,
vị trí của Thị Nở trong tác phẩm là rất quan trọng. Con người “dở hơi, xấu ma chê quỷ
hờn” lại là nguồn sáng duy nhất còn lại ở làng Vũ Đại có thể chiếu sáng cõi đời tăm
tối của Chí. Cơ thể đàn bà của Thị không khơi gợi bản năng thú vật ở y. Tình thương
của Thị Nở đã gợi dậy cái tính người mà lâu nay Chí đã đánh mất. Sau cuộc tình ngắn
ngủi với Thị Nở, Chí đã nghe được âm thanh của cuộc sống mà lâu nay hắn không để
ý. Sau bao nhiêu năm, bây giờ hắn mới nghe thấy tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá,
tiếng cười nói của người đi chợ, tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những âm
thanh ấy gợi nhớ trong Chí những ước mơ rất người đã có từ thuở xa xưa. Lần đầu tiên
Chí cảm thấy buồn, rồi hắn “sợ tuổi già, đói rét, ốm đau và cô độc, cô độc còn sợ hơn
đói rét và ốm đau. Bát cháo hành của Thị Nở đã đánh thức trong Chí những tình cảm
lành mạnh. Ăn cháo mà hắn thấy mắt ươn ướt. Vậy đó, chỉ cần một sự thương yêu –
dù chỉ là tình thương yêu của kẻ dở hơi, của một người con gái quá lứa lỡ thì, có dòng
giống mả hủi, cũng đủ làm sống lại bản tính người đã chết. Sức cảm hoá của tình
thương quả là vô biên. Nam Cao đã thực sự hoá thân vào nhân vật để cảm thông, để
chia sẻ những giây phút hạnh phúc rất người của Chí. Thế là sau hơn hai mươi năm b'ị
cự tuyệt quyền làm người, Chí Phèo đã tự tìm cho mình con đường trở lại làm người.
Tình yêu của Thị Nở đã mở đường cho Chí trở lại làm người. Tình yêu của Thị Nở đã
xây cho Chí một chiếc cầu nôi để làm hoà với thế giới người.
Nhưng bi kịch và đau đớn thay, rốt cuộc thì ngay Thị Nở cũng không thể thuộc
về Chí. Một chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không đến được với Chí. Thị Nở
là chiếc cầu vồng sau cơn mưa. Chí đau đớn nhận ra rằng chẳng có chiếc cầu nào đưa
Chí trở về với cuộc sống con người. Xã hội đã cướp đi quyền được sống, được làm
người của Chí và vĩnh viễn không trả lại. Những vết dọc ngang trên mặt, kết quả của
bao nhiêu cơn say, bao nhiêu lần đâm chém, rạch mặt ăn vạ…đã bẻ gãy chiếc cầu nối
Chí với cuộc đời. Chí đau xót nhận thấy: “Không được nữa rồi chỉ còn cách này”.
Lưỡi dao của Chí đã vung lên để tiêu diệt Bá Kiến và sau đó là kết liễu đời mình. Vậy
là cuối cùng Chí cũng trả được mối thù. Nhưng cái giá phải trả của Chí là quá đắt. Cái
chết thê thảm như một con vật của Chí là bi kịch lớn nhất của nhân vật này và cũng là
lời tố cáo mạnh mẽ xã hội vô nhân, là lời kêu cứu khẩn thiết về quyền con người.
Từ số phận nhân vật Chí Phèo, Nam cao muốn khái quát một hiện tượng phổ biến ở
nông thôn ta trước Cách mạng: một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào
con đường lưu manh hoá. Đồng thời, qua đó, Nam Cao còn tỏ rõ sự đồng tinh với khát

97
vọng lương thiện và lên án xã hội vô nhân đã vùi dập nhân tính làm tha hoá con người.
Hơn nữa, nhà ván đã tìm thấy dưới đáy tâm hồn tưởng như cằn cỗi của người lao động
của người lao động vẫn lấp lánh ánh sáng nhân phẩm. Từ đấy, vút lên một tiếng kêu
khẩn thiết hãy cứu lấy con người. Điều ấy làm cho Nam Cao trở thành một trong
những nhà nhân đạo lớn nhất, sâu sắc nhất của văn học hiện thực phê phán. Và “Chí
Phèo” trở thành kiệt tác của nền văn học thế kỉ này.
Chí Phèo đã chết trên ngưởng cửa trở về với “xã hội bằng phẳng của những con
người lương thiện”. Đó cũng là lúc người đọc thấm thìa đến tận củng bị kịch bị cự
tuyệt quyền làm người thật quá phũ phàng, xa xót của Chí. Nỗi đau ấy cứ âm ỉ mãi khi
mà cùng với thời gian, khi quyền con người còn bị xúc phạm thì bi kịch của đời Chí
Phèo còn được nhắc mãi. Nỗi đau của Chí Phèo đã trở thành nỗi đau của toàn nhân
loại. Ngòi bút của Nam Cao cứ sắc nhọn mãi cho đến tận bây giờ.
(St)

BÀI 8. CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ – Nguyễn Tuân

Đề 1. Nêu những hiểu biết cơ bản về tác giả Nguyễn Tuân và tác phẩm Chữ
người tử tù.

HƯỚNG DẤN LÀM BÀI


1. Tác giả
a. Cuộc đời
- Tác giả: Nguyễn Tuân (1910 – 1987), quê ở Hà Nội. Là nhà văn lớn, một nghệ sĩ
suốt đời đi tìm cái đời đi tìm cái đẹp và có công đưa thể loại tùy bút, bút ký đạt trình
độ cao.
- Ông trưởng thành trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn.
- Nguyễn Tuân học đến cuối bậc Thành chung Nam Định (tương đương với cấp Trung
học cơ sở hiện nay, tiền thân của trường THPT Chuyên Lê Hồng Phong, Nam Định
ngày nay) thì bị đuổi vì tham gia một cuộc bãi khóa phản đối mấy giáo viên Pháp nói
xấu người Việt (1929).
- Sau đó ít lâu ông lại bị tù vì đi qua biên giới tới Thái Lan không có giấy phép.
- Sau khi ra tù, ông bắt đầu sự nghiệp viết lách của mình.
- Nguyễn Tuân cầm bút từ khoảng đầu những năm 1935, nhưng nổi tiếng từ năm 1938
với các tác phẩm tùy bút, bút ký có phong cách độc đáo như Vang bóng một thời, Một
chuyến đi...
- Năm 1941, Nguyễn Tuân lại bị bắt giam một lần nữa và gặp gỡ, tiếp xúc với những
người hoạt động chính trị.
98
- Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân nhiệt tình tham gia
cách mạng và kháng chiến, trở thành một cây bút tiêu biểu của nền văn học mới.
- Từ 1948 đến 1957, ông giữ chức Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam.
b. Quan điểm sáng tác
- “Tôi quan niệm đã viết văn phải cố viết cho hay và viết đúng cái tạng riêng của
mình. Văn chương cần sự độc đáo hơn trong bất kỳ lĩnh vực nào khác”
- Ở đâu có lao động thì ở đó có sáng tạo ra ngôn ngữ. Nhà văn không chỉ học tập ngôn
ngữ của nhân dân mà còn là người phát triển ra ngôn ngữ sáng tạo, không nên ăn bám
vào người khác. Giàu ngôn ngữ thì văn sẽ hay…Cũng cùng 1 vốn ngôn ngữ ấy nhưng
sử dụng có sáng tạo thì văn sẽ có bề thế và kích thước. Có vốn mà không biết sử dụng
chỉ như nhà giàu giữ của. Dùng chữ như đánh cờ tướng, chữ nào để chỗ nào phải đúng
vị trí của nó. Văn phải linh hoạt. Văn không linh hoạt gọi là văn cứng đơ thấp khớp.
- Nghề văn là một cái gì đối lập với tính vụ lợi kiểu con buôn, và ở đâu có đồng tiền
phàm tục thì ở đấy không thể có cái đẹp.
- “Nghề văn là nghề của chữ … Nó là cái nghề dùng chữ nghĩa mà “sinh sự”.
- Nguyễn Tuân phát biểu: “ Tôi quan niệm đã viết văn thì phải cố viết cho hay và phải
viết đúng cái tạng của mình. Văn chương cần có sự độc đáo hơn trong bất kì lĩnh vực
nào” Mỗi nhà văn phải tìm và viết theo sở trường của mình, viết đúng với khát khao,
những tài năng mà mình có sẵn và đặc biệt hơn văn học phải là sự sáng tạo, sự khao
khát tìm tòi những cái mới, đó là cái thành công mà văn học thể hiện.
c. Phong cách sáng tác: “Nguyễn Tuân có phong cách nghệ thuật rất độc đáo và sâu
sắc. Phong cách ấy, trước hết có thể thâu tóm trong mấy chữ phóng túng, tài hoa và
uyên bác". (Sách Ngữ văn 12)
*) Trước Cách mạng Tháng Tám: có thể nói phong cách nghệ thuật của Nguyễn
Tuân trong giai đoạn này cô đúc trong một chữ "ngông": Ngông là thái độ khinh đời
làm khác đời dựa trên cái tài hoa sự uyên bác và nhân cách hơn đời của mình.
- Nguyễn Tuân là một người tài hoa uyên bác: Sự tài hoa uyên bác của ông thể hiện ở
các điểm sau:
+ Tiếp cận mọi sự vật ở mặt văn hóa thẫm mĩ để khám phá và... khen chê.
+ Vận dụng trí thức của nhiều ngành văn hóa nghệ thuật để quan sát hiện thực sáng tạo
hình tượng.
+ Nhìn người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ tạo nên những nhân vật tài hoa để...đem
đối lập với những con người bình thường phàm tục.
+ Tô đậm cái phi thường gây cảm giác mãnh liệt dữ dội.
- Nguyễn Tuân là một con người có nhân cách đạo đức hơn đời: chỗ dựa ở thái độ
"ngông" của ông không chỉ ở sự tài hoa uyên bác mà còn ở đạo đức hơn đời của ông.
Cái gốc của nhân cách đạo đức trong ông là lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, niềm tha

99
thiết với cái đẹp của văn nghệ của phong tục tập quán của thiên nhiên và những thú
chơi tao nhã.
*) Sau Cách mạng Tháng Tám: phong cách của Nguyễn Tuân có những chuyển
biến quan trọng. Thái độ ngông nghênh khinh bạc không còn nữa. Giọng văn chủ yếu
là tin yêu đôn hậu.
- Nếu trước Cách mạng Tháng Tám, Nguyễn Tuân luôn bi quan đối với hiện tại và
tương lai, ông chỉ tin vào cái đẹp của quá khứ, người tài hoa cái đẹp luôn lạc lõng, cô
độc giữa cuộc đời phàm tục thì sau Cách mạng tháng Tám ông vẫn ngợi ca những con
người tài hoa ấy, vẫn hướng đến những cái gì phi thường mãnh liệt, vẫn vận dụng tri
thức của nhiều ngành văn hóa nghệ thuật để quan sát và mô tả, vẫn tô đậm phong cách
và cá tính độc đáo của mình. Điều khác là tinh thần dân tộc và lòng yêu nước được
phát huy mạnh mẽ trong tác phẩm của ông. Cái đẹp của người tài hoa có thể tìm thấy
trong nhân dân trên mọi lĩnh vực
- Tuy nhiên trên những trang văn phong cách riêng của ông vẫn rất rõ nét: Thiên nhiên
vẫn còn là những công trình thiên tạo tuyệt vời: anh bộ đội, ông lái đò thậm chí chị
hàng cốm người bán phở... cũng là những con người tài hoa nghệ sĩ trong nghề nghiệp
của mình.
2. Tác phẩm
- “Vang bóng một thời” có 11 truyện ngắn, là kết tinh tài năng của Nguyễn Tuân trước
Cách mạng tháng Tám. Nhân vật là những người tài hoa, bất đắc chí nhưng luôn giữ
thiên lương. Họ lấy cái ngông – tài hoa để đối lập, phủ định xã hội phàm tục đương
thời.
- Truyện ngắn “Chữ người tử tù”
+ sáng tác năm 1938,  lúc đầu có tên là Dòng chữ cuối cùng in năm 1939 trên tạp chí
Tao đàn sau được tuyển in trong tập Vang bóng một thời kết tinh tài năng tâm huyết
của nhà văn, là văn phẩm đạt đến sự toàn thiện toàn mĩ.
+ Giá trị nội dung: Truyện ngắn đã thể hiện quan niệm về cái đẹp, khẳng định sự bất
tử của cái đẹp và bộc lộ thầm kín tấm lòng yêu nước của tác giả, qua đó hiểu
hơn nhiều bài học nhân sinh sâu sắc.
3. Nhận định về Nguyễn Tuân
- Cách mạng là sự đổi đời đối với Nguyễn Tuân, vì ông thấy cái có thật bây giờ đẹp và
cái đẹp bây giờ có thật trong cuộc đời. – Nguyễn Đình Thi
- Đây là một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, cái thật. – Nguyễn Đình Thi
- Nguyễn Tuân xứng đáng được mệnh danh là “chuyên viên cao cấp tiếng việt” là
người thợ kim hoàn của chữ. – Tố Hữu
- Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân đọc mới thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không
phải là thứ văn để người nông nổi thưởng thức. – Vũ Ngọc Phan

100
- Tinh thần tự nguyện dấn thân, bám trụ ở thành trì cái đẹp là biểu hiện sinh động của
một nhân cách văn hóa lớn. Nhà văn Nguyễn Tuân đặc Việt Nam từ quan niệm cho tới
thực tế sáng tác. – Vũ Ngọc Phan
- “Trong cái vội vàng, cái cẩu thả của những tác phẩm xuất bản gần đây, những sản
phẩm đã hạ thấp văn chương xuống mực giá trị của một sự đua đòi, người ta lấy làm
sung sướng khi thấy một nhà văn kính trọng và yêu mến cái đẹp, coi công việc sáng
tạo là công việc quý báu và thiêng liêng”. – Thạch Lam

Đề 2. Nhận xét về nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, có ý
kiến cho rằng: Huấn Cao là một nghệ sĩ tài hoa và là một người anh hùng có khí
phách hiên ngang, bất khuất.
Ý kiến khác lại khẳng định: Huấn Cao là người có thiên lương trong sáng.
Từ việc cảm nhận hình tượng nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù của
Nguyễn Tuân, anh (chị) hãy bình luận những ý kiến trên?

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI


I. Mở bài
– Nguyễn Tuân là “người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp”, cũng là cây bút rất mực tài
hoa, uyên bác.
- Ông  có những sáng tác xoay quanh những nhân vật lí tưởng về tài năng xuất chúng,
về cái đẹp tinh thần như “chiếc ấm đất”, “chén trà sương”… và một lần nữa, chúng ta
lại bắt gặp chân dung tài hoa trong thiên hạ, đó là Huấn Cao trong tác phẩm “Chữ
người tử tù”.
– Chữ người tử tù in trong tập Vang bóng một thời (1940) là truyện ngắn xuất sắc kết
tinh tài năng của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám.Tác phẩm xây dựng thành
công hình tượng nhân vật Huấn Cao, từ đó gửi gắm quan niệm tiến bộ của nhà văn về
cái đẹp.
- Nhận xét về nhân vật này, có hai ý kiến được đưa ra:
+ “Huấn Cao là một nghệ sĩ tài hoa và là một người anh hùng có khí phách hiên
ngang, bất khuất.”
+ “Huấn Cao là người có thiên lương trong sáng.”
II. Thân bài
1. Dẫn nhập
- Khái quát về tác phẩm “Chữ người tử tù”, về nhân vật Huấn Cao
+ “Chữ người tử tù” là một trong mười một truyện ngắn của tập Vang bóng một thời
(1940); “một văn phẩm gần đạt đến sự hoàn thiện, hoàn mỹ” (Vũ Ngọc Phan). Tác

101
phẩm ngợi ca những giá trị truyền thống của cha ông thông qua nhân cách tài hoa của
những tâm hồn nghệ sỹ.
+ Huấn Cao lấy nguyên mẫu từ các giai thoại của một danh sĩ, một nhà thơ, một người
anh hùng khởi nghĩa thời Nguyễn là Cao Bá Quát. Đó cũng là hình bóng của chính
Nguyễn Tuân – một người có ý thức dùng cái Tài của mình để phủ nhận xã hội đương
thời. Trong hoàn cảnh nước mất nhà tan, ca ngợi người anh hùng dù chí lớn không
thành nhưng tư thế hiên ngang bất khuất đã chứng tỏ niềm cảm phục của nhà văn với
những người đang xả thân vì Tổ quốc.
- Giải thích ý kiến:
+ Nghệ sĩ tài hoa: là người nghệ sĩ có tài năng xuất chúng. Anh hùng có khí phách
hiên ngang: là người có bản lĩnh, chí khí, không sợ cường quyền, dám đứng lên
chống lại bạo ngược để bảo vệ lẽ phải, cái thiện.
+ Con người có thiên lương trong sáng: là người có tấm lòng tốt đẹp, lương thiện.
– Đây là hai nhận xét khái quát về các khía cạnh khác nhau tạo nên vẻ đẹp lí tưởng ở
nhân vật Huấn Cao: tài hoa, khí phách, thiên lương.
2. Cảm nhận hình tượng nhân vật Huấn Cao.
a) Phân tích, chứng minh nhận định “Huấn Cao là một nghệ sĩ tài hoa và là một người
anh hùng có khí phách hiên ngang, bất khuất.”
* Huấn Cao là người nghệ sĩ tài hoa.
– Huấn Cao là nghệ sĩ trong nghệ thuật thư pháp. Ông nổi tiếng khắp vùng tỉnh Sơn về
tài viết chữ “rất nhanh và rất đẹp”, nét chữ Huấn Cao mang vẻ đẹp con người
ông “nét chữ vuông, tươi tắn, nó nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con
người”. ( Lời bình luận, lời khen, sự ngưỡng mộ của viên quản ngục và thầy thơ lại
“Huấn Cao? Hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh
và đẹp đó phải không?”)
– Chữ Huấn Cao trở thành niềm đam mê, khao khát của quản ngục. Viên quản ngục
bất chấp sự nguy hiểm đến tính mạng, kiên trì, công phu, dũng cảm xin bằng được chữ
Huấn Cao “chữ Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm, có được chữ ông Huấn mà treo trong
nhà là có một vật báu trên đời”.
– Những nét chữ “vuông vắn tươi tắn” mà Huấn Cao cho quản ngục trong nhà lao có
thể đẩy lùi bóng tối, chiến thắng sự tàn bạo, xấu xa.
* Huấn Cao là người anh hùng có khí phách hiên ngang.
– Dám đứng lên chống lại triều đình: Ở ngoài đời Huấn Cao mang bản lĩnh của một
kẻ “chọc trời khuấy nước”: là người đứng đầu bọn phản nghịch, dám hiên ngang
chống lại triều đình.
- Hành động Dỗ gông, coi thường bọn lính khi chúng thị uy: “lạnh lùng chúc mũi gông
xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”

102
– Trong những ngày ở nhà lao, Huấn Cao vẫn giữ được phong thái hiên ngang, chính
trực: lạnh lùng, ngạo mạn với bọn lính áp giải; thản nhiên ung dung nhận rượu thịt;
khinh miệt, xua đuổi trước sự quan tâm của cai
ngục.
- Khi đối mặt với viên quản ngục, tỏ ra ngạo nghễ, coi thường, khinh bạc: “ Nhà ngươi
hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng bao giờ đặt chân vào
đây.
– Đêm cuối cùng trước ngày ra pháp trường, mặc dù “cổ đeo gông, chân vướng
xiềng” Huấn Cao vẫn đường hoàng, lẫm liệt đậm tô nét chữ trên phiến lụa trắng.
b) Phân tích, chứng minh nhận định “Huấn Cao là người có thiên lương trong sáng”
– Sinh thời, Huấn Cao không bao giờ ép mình cho chữ vì vàng ngọc hay quyền thế.
Ông chỉ tặng chữ cho những người bạn tri âm tri kỉ, biết quí trọng cái tài, yêu cái đẹp.
– Khi hiểu ra tấm lòng biệt nhỡn liên tài của quản ngục, Huấn Cao xúc động “thiếu
chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ” và trao tặng những con chữ cuối
cùng của đời mình cho quản ngục.
– Dành tặng quản ngục những lời khuyên chí tình như đối với một bậc tri âm “nên
thay đổi chốn ở đi…” những lời chỉ giáo ấy đã cảm hóa mãnh liệt quản ngục, khẳng
định sự chiến thắng của thiên lương trong sáng trước cái xấu xa, tàn bạo.
* Nghệ thuật xây dựng nhân vật.
– Xây dựng tình huống truyện giàu kịch tính, thủ pháp nghệ thuật đối lập tương phản;
ngôn ngữ vừa cổ điển vừa hiện đại, bút pháp giàu chất tạo hình.
– Khả năng phân tích sâu sắc diễn biến nội tâm nhân vật; đặt nhân vật trong mối quan
hệ đối sánh với các nhân vật khác.
3. Bình luận hai ý kiến.
– Hai ý kiến nhận xét về nhân vật Huấn Cao đều chính xác. Mỗi ý kiến đề cập đến một
khía cạnh của nhân vật, tuy khác nhau nhưng lại có mối quan hệ mật thiết, qua lại và
bổ sung cho nhau để cùng khẳng định vẻ đẹp lý tưởng của hình tượng Huấn Cao: tài
hoa nghệ sĩ, khí phách hiên ngang, nhân cách trong sáng.
– Qua hình tượng nghệ thuật này, Nguyễn Tuân đã thể hiện quan niệm thẩm mĩ của
mình: cái tài đi liền với cái tâm, cái đẹp gắn liền với cái thiện. Nét đặc trưng trong
phong cách nghệ thuật của nhà văn cũng được khẳng định.
III. Kết bài
- Khẳng định tính đúng đắn, và giá trị của hai ý kiến.
- Khẳng định vẻ đẹp toàn diện, lí tưởng của Huấn Cao, đặc trưng cho quan điểm thẩm
mĩ của Nguyễn Tuân trước Cách mạng.
- Khẳng định tài năng và vị trí của Nguyễn Tuân.
- Liên hệ, rút ra bài học nhận thức, hành đông

103
Đề 3. Phân tích cảnh cho chữ trong truyện ngắn "Chữ người tử tù" của Nguyễn
Tuân:

 Ðêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh, một
cảnh tượng xưa nay chưa từng có, đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt,
tường đầy mạng nhện tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột phân gián.

    Trong một không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc
tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên
vẹn lần hồ. Khói bốc tỏa cay mắt, họ dụi mắt lia lịa.
    Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa
trắng tinh căng phẳng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại
vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái
thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực. Thay bút con, đề xong lạc khoản, ông
Huấn Cao thở dài, buồn bã đỡ viên quan ngục đứng thẳng người dậy và đĩnh đạc bảo:
    - Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là
nơi để treo một bức lụa trắng trẻo với những nét chữ vuông vắn tươi tắn nó nói lên
những cái hoài bão tung hoành của một đời con người. Thoi mực, thầy mua ở đâu tốt
và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?...Tôi bảo thực đấy:
thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy
nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến
nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi.

    Lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm phòng giam, tàn lửa tắt nghe
xèo xèo. Ba người nhìn bức châm, rồi lại nhìn nhau. Ngục quan cảm động, vái người
tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn
ngào: " Kẻ mê muội này xin bái lĩnh ".

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI


I. Mở bài
- Nguyễn Tuân là nhà văn yêu cái đẹp và luôn hướng tới nó. Văn ông không thiếu
những con người, những hoàn cảnh đẹp đến hoàn bích mà cảnh cho chữ trong Chữ
người tử tù là ví dụ điển hình.
- Trong tác phẩm Chữ người tử tù thì cảnh cho chữ chính là trung tâm của mọi giá trị
nghệ thuật, nó vừa khắc họa chân dung người tử tù hiên ngang, thi vị lại vừa thể hiện
được tư tưởng nhân văn sâu sắc.
- Cảnh cho chữ là một áng văn "xưa nay chưa từng có"
104
- Trích dẫn đoạn: “Ðêm hôm ấy,…" Kẻ mê muội này xin bái lĩnh ".
II. Thân bài
1. Dẫn nhập
- Tóm tắt hoàn cảnh trước khi cho chữ
+ Người tù Huấn Cao: vốn là người có tâm hồn phóng khoáng, thích tự do và chán
ghét những kẻ nhũng nhiễu nhân dân. Ông còn là người nghệ sĩ tài năng yêu thích cái
đẹp và luôn giữ gìn thiên lương trong sáng. Huấn Cao cũng có nguyên tắc riêng của
mình, ông viết chữ nổi tiếng nhưng chỉ cho những người ông quý, không bao giờ cúi
đầu trước uy quyền và đồng tiền.
+ Quản ngục: một người có thiên lương, biết quý trọng người hiền và yêu cái đẹp
nhưng lại làm nghề quản ngục. Khao khát được chữ của Huấn Cao treo trong nhà là
khao khát lớn đời ông.
+ Cảnh cho chữ diễn ra trong ngục tối.
+ Trong bối cảnh giữa một người tù và một tên quản ngục, ban đầu Huấn Cao không
nhận ra tấm lòng của viên quản ngục nhưng sau đó người tử tù không thể từ chối
mong muốn chính đáng của một người biệt nhỡn liên tài.
2. Diễn biến cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù
- Thời gian: Tình huống cho chữ diễn ra hết sức tự nhiên trong thời gian giữa đêm
nhưng lại là thời gian cuối cùng của một con người tài hoa.
- Không gian: Cảnh cho chữ thiêng liêng lại được diễn ra trong cảnh u ám của ngục
tối. Bối cảnh được khắc họa trên nền đất ẩm thấp, mùi hôi của dán, chuột…
- Người cho chữ là người tử tù nhưng oai phong, đang trong tư thế ban ân huệ cuối
cùng của mình cho người khác. Kẻ xin chữ lại cúi đầu mang ơn:
+ Người cho chữ: Huấn Cao – người nghệ sĩ tài hoa, say mê “dậm tô nét chữ” không
phải là người được tự do mà là một kẻ tử tù đang trong cảnh “cổ đeo gông, chân
vướng xiềng” và chỉ sáng tinh mơ ngày mai đã bị giải và kinh chịu án tử hình. Tử tù
trở thành nghệ sĩ – anh hùng mang vẻ đẹp uy nghi, lẫm liệt.
+ Người nhận chữ: viên quản ngục trong tư thế “khúm núm cất những đồng tiền kẽm
đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng”; thầy thơ lại “gầy gò, thì run run bưng chậu
mực”
⟹  Trật tự, kỉ cương trong nhà tù bị đảo ngược hoàn toàn: tù nhân trở thành người ban
phát cái đẹp, răn dạy ngục quan, ngục quan thì khúm núm, vái lạy tù nhân. Như vậy,
giữa chốn ngục tù tàn bạo, không phải những kẻ đại diện cho quyền lực thống trị làm
chủ mà là người tử tù làm chủ. Nhân cách Huấn Cao được tỏa sáng trong đêm đen của
xã hội ngục tù.
3. Đó là cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”

105
- Thông thường người ta chỉ sáng tác nghệ thuật ở nơi có không gian rộng rãi, trang
nghiêm hay ít nhất là nơi sạch sẽ, đằng này cảnh cho chữ lại diễn ra nơi cái ác ngự trị.
- Người nghệ sĩ làm ra tác phẩm nghệ thuật phải thật sự thoải mái về tâm lí, thể xác
trong khi Huấn Cao phải đeo gông, xiềng xích và nhận án tử vào ngày hôm sau.
- Người quản ngục là người có quyền bắt buộc kẻ tử tù nhưng ngược lại kẻ tử tù lại ở
vị thế cao hơn có quyền cho hay không cho chữ.
4. Ý nghĩa của cảnh cho chữ
- Ca ngợi tấm lòng thiên lương của hai nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục
- Ca ngợi sự chiến thắng của cái đẹp dù ở nơi u ám nhất.
- Khẳng định vẻ đẹp tâm hồn trong con người của Huấn Cao từ đó thể hiện quan niệm
thẩm mĩ của Nguyễn Tuân.
5. Thành công nghệ thuật
– Sử dụng thành công thủ pháp đối lập tương phản.
– Ngôn từ vừa sắc sảo góc cạnh, vừa trang trọng, cổ kính, sống động như có hồn, có
nhịp điệu riêng giàu giá trị tạo hình, giàu sức truyền cảm…
⟹ Tạo tình huống thử thách cho nhân vật tỏa sáng tài năng và thiên lương trong sáng.
III. Kết bài
- Khẳng định sự độc đáo của cảnh cho chữ, vai trò của nó trong sự thành công của tác
phẩm.
- Khẳng định tài năng văn chương, quan điểm sáng tác của Nguyễn Tuân thể hiện qua
cảnh cho chữ.
- Rút ra thông điệp từ đoạn trích.

Bài làm tham khảo

Đề: Phân tích cảnh cho chữ trong truyện ngắn "Chữ người tử tù" của Nguyễn
Tuân.

Nguyễn Tuân - nhà văn cả đời đi tìm cái đẹp với phong cách nghệ thuật tài hoa,
uyên bác ông đã làm lay động trái tim người đọc bằng những sáng tác của mình. Nhà
văn luôn đặt con người dưới góc nhìn nghệ sĩ, nhìn sự vật hiện tượng dưới góc độ văn
hoá, thẩm mỹ. Chữ người tử tù nằm trong tập truyện Vang bóng một thời, đây là một
sáng tác được đánh giá hay nhất, tuyệt vời nhất và có giá trị nhân văn sâu sắc nhất của
cả tập truyện. Tác phẩm là câu chuyện kể về những ngày cuối đời của người anh hùng
Huấn Cao, trong cảnh ngục tù tăm tối cái đẹp vẫn hiện hữu và toả sáng hơn bao giờ
hết. Có thể nói tác phẩm thành công là nhờ tài năng sáng tạo tình huống truyện độc
đáo của Nguyễn Tuân, làm tăng tính kịch, khiến cảm xúc truyện đẩy lên cao trào, lôi
cuốn hấp dẫn độc giả. Đặc biêt, cảnh cho chữ “có một không hai” đầy bất ngờ, gây
106
sửng sốt cho người đọc được tác giả tái hiện qua đoạn trích sau: “Ðêm hôm ấy,…" Kẻ
mê muội này xin bái lĩnh ".
Thuở xưa, chơi chữ đã trở thành lối văn hoá tao nhã, thanh cao của người Việt.
Những câu đối, bài thơ với nét chữ bay bổng được treo trong nhà như một thú vui giúp
cho tâm hồn con người thư thái, bình yên. Thưởng thức cái đẹp thanh cao hay là
những thầy nho cho chữ trước nay đều ở trong những khung cảnh thơ mộng, nhẹ
nhàng có thế cái đẹp mới được thoả sức bộc lộ hết những khía cạnh tươi mới của
mình. Người ngắm nhâm nhi một tách trà nóng cùng nhau trò truyện ngâm thơ, đối
chữ. Ấy vậy mà trong Chữ người tử tù Nguyễn Tuân đã tạo ra một cảnh tượng hết sức
lạ lùng, vượt ra khỏi những chuẩn mực xưa cũ, tác giả gọi đó là “một cảnh tượng xưa
nay chưa từng có”. Chính chi tiết truyện mới mẻ này đã làm nên sức lôi cuốn, hấp dẫn
cho người đọc.
Vào một đêm khuya vắng lặng tại trại giam tỉnh Sơn chỉ còn tiếng gõ mõ vọng
canh, đây là một khoảng thời gian buồn tẻ nhất trong một ngày dài, tất cả vạn vật
dường như đã chìm sâu vào im lặng nhường chỗ cho bóng tối thống trị, chỉ còn tiếng
gõ mõ đều đều trong canh dài, không một bóng người lai vãng. Khung cảnh nhà giam
hiện lên tù túng, chật hẹp, mệt mỏi với từng tiếng thở dài oán thán “buồng tối chật hẹp,
ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Tác giả miêu tả
thật sinh động, chân thực hoàn cảnh éo le của người anh hùng Huấn Cao, một người
nghệ sĩ tài hoa, văn võ toàn tài giờ đây phải giam mình trong nhà tù tăm tối, đấy là
nơi chôn vùi cuộc đời chẳng phải nơi mà con người có thể sinh sống. Thế nhưng chính
tại nơi tầm thường, hạ đẳng ấy lại xảy ra một sự việc thật trọng đại, làm rung động trái
tim của những con người tài hoa chân chính.
Một không gian tối tăm quanh năm không thấy ánh mặt trời, dù là ngày hay đêm
đều nhuốm màu bóng tối thì giờ đây có ba người “đang chăm chú trên một tấm bạch
còn nguyên vẹn lần hồ”. Buồng giam ngập tràn “khói toả như đám cháy nhà”, “ánh
sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu”. Dường như họ đang chăm chú với niềm hạnh
phúc dâng trào để tạo nên một tác phẩm nghệ thuật hoàn mỹ. Sự đối lập giữa tư thế và
vị thế của người cho chữ - Huấn Cao và người nhận chữ - viên quản ngục đã được
Nguyễn Tuân khắc hoạ thật sinh động, “một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng,
đang đậm tô nét chữ trên tấm vải lụa trắng tinh, viên quản ngục “khúm núm”, thầy thơ
lại “run run bưng chậu mực”. Có lẽ đứng trước cái đẹp trái tim con người bỗng rung
động, như có thứ gì đó bóp nghẹt lại, không ai nói với nhau lời nào nhưng đủ để cảm
nhận niềm hạnh phúc đang tuôn trào trong lồng ngực.
Đây quả thực là một cuộc gặp gỡ xưa nay chưa từng có giữa Huấn Cao người có
tài viết chữ nhanh, đẹp và viên quản ngục, thầy thơ lại những người thích chơi chữ. Họ
đã gặp nhau trong hoàn cảnh thật đặc biệt: một bên là kẻ phản nghịch phải lĩnh án tử
hình (Huấn Cao) và một bên là những người thực thi pháp luật. Trên bình diện xã hội,
107
họ ở hai phía đối lập nhau nhưng xét trên bình diện nghệ thuật họ lại là tri âm, tri kỉ
của nhau. Vì thế mà thật là chua xót vì đây là lần đầu tiên nhưng cũng là lần cuối cùng
ba con người ấy gặp nhau. Hơn thế nữa, họ gặp nhau với con người thật, ước muốn
thật của mình. Trong đoạn văn, nhà văn đã sử dụng sự tương phản giữa ánh sáng và
bóng tối làm câu chuyện cũng vận động theo sự vận động của ánh sáng và bóng tối.
Cái hỗn độn, xô bồ của nhà giam với cái thanh khiết của nền lụa trắng và những nét
chữ đẹp đẽ. Nhà văn đã làm nổi bật hình ảnh của Huấn Cao, tô đậm sự vươn lên thắng
thế của ánh sáng so với bóng tối, cái đẹp so với cái xấu và cái thiện so với cái ác. Vào
lúc ấy, từ một quan hệ đối nghịch kì lạ: ngọn lửa của chính nghĩa bùng cháy ở chốn
ngục tù tối tăm, cái đẹp được sáng tạo giữa chốn hôi hám, nhơ bẩn… ở đây, Nguyễn
Tuân đã nêu bật chủ đề của tác phẩm: Cái đẹp chiến thắng cái xấu xa, thiên lương
chiến thắng tội ác. Đó là sự tôn vinh cái đẹp, cái thiện đầy ấn tượng.
   Sau khi cho chữ xong, Huấn Cao đã khuyên quản ngục từ bỏ chốn ngục tù nhơ
bẩn: “đổi chỗ ở” để có thể tiếp tục sở nguyện cao ý. Muốn chơi chữ phải giữ được
thiên lương. Trong môi trường của cái ác, cái đẹp khó có thể bền vững. Cái đẹp có thể
nảy sinh từ chốn tối tăm, nhơ bẩn, từ môi trường của cái ác (cho chữ trong tù) nhưng
không thể chung sống với cái ác. Nguyễn Tuân nhắc đến thú chơi chữ là môn nghệ
thuật đòi hỏi sự cảm nhận không chỉ bằng thị giác mà còn cảm nhận bằng tâm hồn.
Người ta thưởng thức chữ không mấy ai thấy, cảm nhận mùi thơm của mực. Hãy biết
tìm trong mực, trong chữ hương vị của thiên lương. Cái gốc của chữ chính là cái thiện
và chơi chữ chính là thể hiện cách sống có văn hóa.
   Trước lời khuyên của người tử tù, viên quản nguc xúc động “vái người tù một
vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng nghẹn ngào: Kẻ mê muội
này xin bái lĩnh”. Bằng sức mạnh của một nhân cách cao cả và tài năng xuất chúng,
người tử tù đã hướng quản ngục đến một cuộc sống của cái thiện. Và trên con đường
đến với cái chết Huấn Cao gieo mầm cuộc sống cho những người lầm đường. Trong
khung cảnh đen tối của tù ngục, hình tượng Huấn Cao bỗng trở lên cao lớn lạ thường,
vượt lên trên những cái dung tục thấp hèn của thế giới xung quanh. Đồng thời thể hiện
một niềm tin vững chắc của con người: trong bất kì hoàn cảnh nào con người vẫn luôn
khao khát hướng tới chân-thiện-mĩ.
Từ một viên quản ngục “quyền cao chức trọng” giờ đây phải cúi đầu trước vẻ
đẹp tài hoa, trước người tử tù có tấm lòng thiên lương. Có tiếng “thở dài, buồn bã” của
Huấn Cao khi những nét chữ cuối cùng đã viết xong, ông nói giọng đĩnh đạc: “Ở đây
lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi.” Tấm lòng nhân hậu của Huấn Cao
đã thức tỉnh, cứu rỗi tâm hồn của những người lương thiện nhưng lạc vào con đường
tha hoá, rối ren. Viên quản ngục cảm động, vái người tử tù một vái “Kẻ mê muội này
xin bái lĩnh” những giọt nước mắt lăn dài trên má như lời kính trọng sâu sắc dành cho
vị anh hùng Huấn Cao.

108
Qua cảnh cho chữ đầy xúc động, Nguyễn Tuân đã ngầm khẳng định vị thế của
cái đẹp thiên lương, nó không đơn độc mà mang một sức mạnh vô hình “nhân đạo
hoá” cái ác, cái xấu xa đi vào con đường chân chính, tươi đẹp. Đoạn văn thể hiện rõ
nét phong cách nghệ thuật tài hoa của Nguyễn Tuân, ông luôn đặt con người trong vẻ
đẹp tài hoa nghệ sĩ. Ông có kiến thức phong phú về nhiều lĩnh vực, sức tưởng tượng
vô cùng độc đáo. Nguyễn Tuân vẽ nên một bức tranh với hai mảng màu sáng tối đối
chọi gay gắt, một bên là khung cảnh tăm tối ngục tù, một bên là ánh sáng chói loá của
nét đẹp hoàn mỹ. Cảnh lạ lùng, hiếm có, khiến ta sửng sốt bội phần thế nhưng nhờ chi
tiết truyện này hình ảnh cái đẹp hiện lên thật diệu kỳ, thể hiện tấm lòng trân trọng,
nâng niu của tác giả trước nét thanh cao của nghệ thuật tuyệt mỹ.
Cảnh cho chữ không chỉ là một bức họa ấn tượng mà còn là một cảnh tượng xưa
nay chưa từng có. Bởi nó diễn ra trong một không gian khác thường. Thông thường,
cảnh cho chữ sẽ chỉ diễn ra nơi cái đẹp ngự trị, nơi tôn nghiêm nhưng ở đây là nơi
dung thân của điều ác. Đây là nơi tận cùng của xã hội, giam giữ những tên tù tội và bị
tước quyền làm người. Và, thường khi sáng tác nghệ thuật, người nghệ sĩ sẽ phải ở
trong tư thế tự do, thoải mái. Nhưng ở đây, Huấn Cao lại ngược lại. Ông ở trong tư thế
bị xiềng xích với cái án tử hình treo lửng lơ trên đầu. Đặc biệt hơn, người xin chữ
không phải là dân đen, người thấp cổ bé họng. Mà là một người có chức quyền cao
vọng trọng. Là một người có vị thế hơn, có quyền uy hiếp hơn tên tử tù kia. Thế
nhưng, viên quản ngục khi xin chữ lại tỏ ra sợ sệt, khúm núm trước một tên tử tử dưới
quyền mình. “Tên tù viết xong một chữ, tên quản ngục lại khúm núm cất những đồng
tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò thì run run
bưng chậu mực. Thay bút con, đề xong lạc khoản, ông Huấn Cao thở dài, buồn bã đỡ
viên quản ngục đứng thẳng dậy và đĩnh đạc…”
Sáng tạo một cảnh tượng đầy ý nghĩ đó, tác giả nhằm truyền tải nhiều thông
điệp. Thông qua việc ca ngợi tấm lòng thiện lương, yêu cái đẹp của hai nhân vật viên
quản ngục và Huấn Cao, cảnh cho chữ đã tôn vinh sự chiến thắng vẻ vang của cái đẹp
dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Qua hình ảnh ánh sáng từ bó đuốc, đã soi sáng cả một
vùng tối tăm của chốn lao tù. Đó cũng chính là vẻ đẹp của cảnh cho chữ đã toát ra và
xóa nhòa đi mọi sự xấu xa, hôi thối. Đồng thời tác giả gửi gắm quan niệm về cái đẹp
của nhà văn. Cái đẹp phải toàn thiện toàn mĩ, và bản thân cái đẹp có sức mạnh cảm
hóa con người, kéo con người về gần người hơn. Qua nhân vật Huấn Cao, độc giả cảm
nhận được rằng nhà văn Nguyễn Tuân rất yêu và trân quý cái đẹp. Và những ai biết
yêu và quý trọng cái đẹp đều có bản tình lương thiện, là người tử tế. Có thể có nhiều
người do hoàn cảnh xô đầy mà phải sống trong cảnh bùn dơ, nhưng tận sâu trong tâm
hồn họ vẫn tốt bụng và thanh cao. Và hơn hết, cái đẹp có thể giúp con người gột rửa
và làm sạch tâm hồn.

109
Có ý kiến cho rằng: Nguyễn Tuân là nhà văn duy mĩ, tức là điều khiến ông quan tâm
chỉ là cái đẹp, là nghệ thuật. Nhưng qua truyện ngắn “ Chữ người tử tù” mà đặc biệt là
cảnh cho chữ ta càng thấy rằng nhận xét trên là hời hợt, thiếu chính xác. Đúng là trong
truyện ngắn này, Nguyễn Tuân ca ngợi cái đẹp nhưng cái đẹp bao giờ cũng gắn với cái
thiện, thiên lương con người. Quan điểm này đã bác bỏ định kiến về nghệ thuật trước
cách mạng, Nguyễn Tuân là một nhà văn có tư tưởng duy mĩ, theo quan điểm nghệ
thuật vị nghệ thuật. Bên cạnh đó, truyện còn ca ngợi viên quản ngục và thầy thơ lại là
những con người tuy sống trong môi trường độc ác, xấu xa nhưng vẫn là những “thanh
âm trong trẻo” biết hướng tới cái thiện. Qua đó còn thể hiện tấm lòng yêu nước, căm
ghét bọn thống trị đương thời và thái độ trân trọng đối với những người có “thiên
lương” trên cơ sở đạo lí truyền thống của nhà văn.
Bằng nhịp điệu chậm rãi, câu văn giàu hình ảnh gợi liên tưởng đến một đoạn
phim quay chậm. Từng hình ảnh, từng động tác dần hiện lên dưới ngòi bút đậm chất
điện ảnh của Nguyễn Tuân: một buồng tối chật hẹp…hình ảnh con người “ba cái đầu
đang chăm chú trên một tấm lụa trắng tinh”, hình ảnh người tù cổ đeo gông, chân
vướng xiềng đang viết chữ. Trình tự miêu tả cũng thể hiện tư tưởng một cách rõ nét: từ
bóng tối đến ánh sáng, từ hôi hám, nhơ bẩn đến cái đẹp. Ngôn ngữ, hình ảnh cổ kính
cũng tạo không khí cho tác phẩm. Ngôn ngữ sử dụng nhiều từ hán việt để miêu tả đối
tượng là thú chơi chữ. Tác giả đã “phục chế” cái cổ xưa bằng kĩ thuật hiện đại như bút
pháp tả thực, phân tích tâm lí nhân vật. Bởi thế có thể nói: cảnh cho chữ đã kết tinh tài
năng , sáng tạo và tư tưởng độc đáo của Nguyễn Tuân, góp phần làm nên thành công
của tác phẩm. Qua đoạn trích, tác giả không chỉ gửi gắm tấm lòng biệt nhỡn liên tài
của mình mà còn bộc lộ nỗi trăn trở về số phận của cái đẹp trong đời sống xã hội và
thể hiện niềm tin: Dù cuộc đời có đen tối vẫn còn có những tấm lòng tỏa sáng.

BÀI SỐ 9: HẠNH PHÚC CỦA MỘT TANG GIA

Đề 1. Nêu những hiểu biết cơ bản về tác giả Vũ Trọng Phụng, tác phẩm “Số đỏ”.

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI

1. Tác giả
    - Vũ Trong Phụng quê ở Hà Nội, là một trong những nhà văn hiện thực phê phán
xuất sắc của văn học Việt Nam trước CMT8. Ông xuất thân trong một gia đình “nghèo
gia truyền” ( cách nói của nhà văn Ngô Tất Tố). Cuộc sống của ông chật vật, bấp bênh
bằng nghề viết văn , làm báo .

110
    - Sống ở đất Hà Thành, Vũ Trong Phụng tận mắt chứng kiến sinh họat của những
tầng lớp thượng lưu chạy theo văn minh âu hóa  ông tỏ thái độ căm ghét và bất mãn
với xã hội đương thời.
   - Vũ Trong Phụng là một cây bút có sức sáng tạo dồi dào.Tác phẩm của ông đa dạng
về thể loại , đặc biệt ông thành công ở thể loại phóng sự  được mệnh danh là “Vua
phóng sự đất Bắc”.
2. Tiểu thuyết “Số đỏ”:
a. Hoàn cảnh sáng tác : Tác phẩm được ra đời vào năm 1936, năm đầu của Mặt trận
dân chủ Đông Dương, không khí đấu tranh dân chủ sôi nổi.Chế độ kiểm duyệt sách
báo khắt khe của chính quyền thực dân tạm thời được bãi bỏ.Bối cảnh ấy đã tạo điều
kiện cho các nhà văn công khai, mạnh mẽ vạch trần thực chất thối nát , giả dối, bịp
bợm của các phong trào Âu hóa, Thể thao, Vui vẻ trẻ trung…được bọn thống trị
khuyến khích và lợi dụng đã từng lên cơn sốt vào những năm 30 của thế kỷ XX.
b.Cốt truyện :
    Xuân là một đứa trẻ mồ côi lang thang kiếm sống bằng nhiều nghề :trèo me, hái sấu,
nhặt banh , quảng cáo, bán thuốc lậu. Nhờ số đỏ, tình cờ Xuân lọt vào mắt xanh của bà
Phó Đoan- một mụ me Tây dâm đãng.Từ đó Xuân từng bước nhập cuộc vào thế giới
thượng lưu của cái gia đình đại tư sản thối nát của cụ cố Hồng với một đám con cháu
như :Vợ chồng ông Văn Minh, Vợ chồng cô Hòang Hôn, Cô Tuyết, cậu Tú Tân …và
các nhân vật của thế giới Âu hóa như : Tuyt PN, Sư tăng Phú …Thế rồi, Xuân đã dần
trở thành danh y và anh hùng cưu quốc, làm cho cả xã hội phải kính nể.
c.Giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm:
   - Về nội dung :
    + Tác phẩm là một bức tranh hiện thực về XH nửa Thực dân, nửa phong kiến đang
chạy theo lối sống Văn minh Âu hóa.
    + Từ đó, nhà văn đả kích sâu cay cái xã hội tư sản thành thị đang chạy theo lối sống
nhố nhăng , đồi bại đương thời.
   - Về nghệ thuật : Tác phẩm thể hiện nghệ thuật trào phúng hết sức đặc sắc của Vũ
Trong Phụng : mỗi chương là một màn hài kịch ; mỗi nhân vật là một chân dung biếm
họa xuất sắc ( Xuân , bà phó Đoan, Cụ Cố Hồng, Sư tăng Phú, Phán mọc sừng…)
3. Đọan trích “Hạnh phúc của một tang gia”:
  - Vị trí và nội dung : Đọan trích thuộc phần đầu của chương 15 trong tác phẩm.Nội
dung đọan trích kể lại cảnh  cụ Tổ ( cha, ông ) trong gia đình cố Hồng qua đời và sự
vui mừng , hạnh phúc của cả đám con cháu trước cái chết của cụ.
 - Ý nghĩa nhan đề đọan trích:
   + “Tang gia” mà lại “hạnh phúc”.Thật là oái oăm, ngược đời.Bởi lẽ, “hạnh phúc”
là niềm vui của con người khi đạt đến một ước nguyện nào đó trong cuộc sống;

111
còn “tang gia” là lúc mọi người buồn đau, khôn xiết khi người thân của mình ra đi vào
cõi vĩnh hằng .Như vậy, một đằng là biểu tượng cho sự viên mãn, hạnh phúc; một
đằng là biểu tương cho sinh ly, tử biệt không thể bù đắp   lại song hành , gắn kết
với nhau, tạo nên sự bi hài, đáng cười, đáng suy gẫm.
=> Nhan đề đọan trích dự báo một màn bi hài kịch sắp diễn ra với nhiều cảnh nghịch
lý, nhiều pha cười ra nước mắt.Từ đó, hai trục của mâu thuẫn giữa hạnh phúc và tang
gia được triển khai suốt chương truyện thể hiện tư tưởng chủ đề của đọan trích.     

Đề 2. Phân tích đặc điểm  nghệ thuật và cách xây dựng nhân vật trong đoạn trích
“Hạnh phúc của một tang gia” Trích tiểu thuyết “Số Đỏ” của Vũ Trọng Phụng?

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI

1/ Đặc điểm nghệ thuật “Số đỏ” đã thể hiện một trình độ tiểu thuyết già dặn, bút pháp
châm biếm đặc biệt sắc sảo.
       Trước hết, nhà văn đã sử dụng vũ khí tiếng cười truyền thống trong văn học dân
tộc và làm sắc bén thêm bằng nghệ thuật cường điệu độc đáo của mình: cuộc đời Xuân
tóc đỏ được kết nối bằng một chuỗi vận đỏ, rất gần với truyện Trạng Lợn trong văn
học dân gian.Khó ai có thể tin nhờ thuộc lòng bài quảng cáo thuốc lậu mà Xuân được
coi là một nhà thơ và được một thi sĩ lãng mạn bái phục.Hoặc là chuyện chưa hề có
ông vua nào định gây chiến tranh chỉ vì cầu thủ nước mình thua cầu thủ nước láng
giềng…Nhưng khi đọc tác phẩm, không mấy ai đặt câu hỏi thắc mắc, mà vẫn bị lôi
cuốn một cách hào hứng.Bởi lẽ, mỗi chi tiết cường điệu gây cười đến vô lý ấy đều có
hạt nhân khách quan thực sự , đấy là bản chất của những kẻ thượng lưu và xã hội
thượng lưu trước CMT8.
      Bên cạnh đó, nhà văn còn xây dựng được nhiều tình tiết , chi tiết đối lập nhau gay
gắt, nhưng lại cùng tồn tại trong một đối tượng và sử dụng rộng rãi kiểu nói ngược của
dân gian, vạch trần bản chất xấu xa của nhân vật, tạo nên một tiếng cười sảng
khoái.Chẳng hạn : Văn Minh chồng được mệnh danh là “nhà cách mạng” trong phong
trào “Âu hóa” ,“ Thể thao”, nhưng lại không biết đến thể dục, thể thao; vị sư Tăng
Phú hết lòng “mộ đạo” nhưng lại ăn nói lỗ mãng, coi việc đi hát cô đầu là việc “di
dưỡng tinh thần”.
     “Số đỏ” có bút pháp hết sức biến hóa,linh họat .Tác giả dẫn người đọc đi hết bất
ngờ này  đến bất ngờ khác; mỗi chương lại chứa đựng một yếu tố nghệ thuật  hài hước,
trào lộng.Ai có thể ngờ rằng quãng đời quảng cáo thuốc lậu và giới thiệu mốt quần áo
lại thành cái cớ để Xuân làm người khác khiếp vía bởi cái kiến thức về y học và tài
hùng biện của mình? Hoặc từ trận đấu khẩu giữa lang Tì và lang Phế, đến đám ma cụ

112
cố Tổ…đều có những màn hài kịch xuất hiện thật bất ngờ, có giá trị phê phán sắc
sảo…
 
2/ Cách xây dựng nhân vật, thành công nổi trội của Vũ Trong Phụng là đã xây dựng
được một loạt chân dung biếm họa xuất sắc:
      Trước hết, là nhân vật Xuân tóc đỏ.Hắn vốn là một thằng ma cà bông đã từng
thổi kèn loa thuốc lậu, cầm cờ chạy hiệu rạp hát…bỗng chốc nhờ cái dâm đãng của bà
Phó Đoan mà được gia nhập thế giới thượng lưu .Nhờ sự láu lỉnh, quen biến báo ,
Xuân đã đi từ vinh quang này đến chiến thắng khác một cách dễ dàng.Một thằng vô
học, vô lại, một thằng ma cà bông mà được phong tặng bao danh hiệu cao quý : nào là
‘sinh viên trường thuốc”, “nhà thơ”, “nhà triết gia”, “giáo sư quần vợt”, “nhà cải
cách”, thậm chí “anh hùng cứu quốc”…Bản chất xấu xa và quá khứ đê tiện của Xuân
không bị lộ tẩy bởi vì nó ngoi lên từ một xã hội rất cần đến những kẻ có tính cách như
nó.
     Vây quanh Xuân tóc đỏ là một loạt nhân vật biếm họa khác .Mỗi người một vẻ : Bà
phó Đoan, mụ me Tây dâm đãng dơ dáng thủ tiết với hai đời chồng, cuối cùng được
tặng bằng khen “tiết hạnh khả phong”.Cô Gái mới lãng mạn Hoàng Hôn hư hỏng một
cách có lý luận với hai mối tình ( một người là chồng và một người là tình lang). Ông
chủ hiệu may âu hóa Văn Minh gầy còm , luôn hô hào thể thao thể dục mà không hề
tập thể dục bao giờ…Rồi đó còn là những Typn , ông cố Hồng,ông Phán mọc
sừng thuê tiền Xuân để tố giác mình là người chồng bị mọc sừng …
   Như vậy có thể nói , tác giả “ Số đỏ”đã bao quát hầu như tòan bộ xã hội thành
thị  thời trước và trong ống kính được quan sát  của mình.Đấy là một xã hội nhốn
nháo, nhố nhăng, trong đó mỗi nhân vật là một vai hề không hơn không kém.
 Với nghệ thuật viết văn già dặn, bút pháp châm biếm đặc biệt sắc sảo, xây dựng một
loạt chân dung biếm họa đa dạng, “Số đỏ” là một trong những tác phẩm hiện thực
trào phúng xuất sắc của văn xuôi Việt Nam hiện đại.

Đề 3. Phân tích tính kịch trong ‘Hạnh phúc của một tang gia” (Trích “Số đỏ” của Vũ
Trọng Phụng)
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI

DÀN Ý
I/ Mở bài :
 - Vũ Trọng Phụng là một nhà văn hiện thức trào phúng vào bậc nhất của văn xuôi
hiện đại Việt Nam trước CMT8. Ông được mệnh danh là “Vua phóng sự đất Bắc”.

113
 - Một trong những tác phẩm văn học tiêu biểu của Vũ Trọng Phụng đã phê phán kịch
liệt cái xã hội tư sản thành thị trước CMT8 là tiểu thuyết “Số đỏ”.
 - Với lối văn châm biếm sắc sảo , các chương trong “Số đỏ” đều là những màn kịch
đầy thú vị, đặc biệt là chương XV – “Hạnh phúc của một tang gia”.
II/ Thân bài :
  1/ Trước hết , ý nghĩa trào phúng phê phán được thể hiện ngay ở tiêu đề của đọan
trích :“Tang gia” mà lại “hạnh phúc”.Thật là oái oăm, ngược đời.Bởi lẽ, “hạnh phúc”
là niềm vui của con người khi đạt đến một ước nguyện nào đó trong cuộc sống;
còn “tang gia” là lúc mọi người buồn đau, khôn xiết khi người thân của mình ra đi vào
cõi vĩnh hằng .Như vậy, một đằng là biểu tượng cho sự viên mãn, hạnh phúc; một
đằng là biểu tương cho sinh ly, tử biệt không thể bù đắp   lại song hành , gắn kết với
nhau, tạo nên sự bi hài, đáng cười, đáng suy gẫm.
=> Nhan đề đọan trích dự báo một màn bi hài kịch sắp diễn ra với nhiều cảnh nghịch
lý, nhiều pha cười ra nước mắt.Từ đó, hai trục của mâu thuẫn giữa hạnh phúc và tang
gia được triển khai suốt chương truyện thể hiện tư tưởng chủ đề của đọan trích. 
2/ Tiếp theo, sự trào phúng mang ý nghĩa phê phán còn thể hiện ở thái độ của đám con
cháu trong gia đình trước cái chết của cụ Tổ :
  - Cụ Tổ chết , tuyệt nhiên trong gia đình không ai thương tiếc người quá cố.Mỗi
thành viên đều thấy đây là một dịp may đặc biệt để thỏa mãn ý muốn, thực hiện ý đồ
riêng của mình:
     + Cố Hồng , một kẻ háo danh kỳ quặc ( chỉ năm mươi tuổi nhưng lại thích gọi là cụ
cố” , thì muốn phô bày “sự hiếu thaỏ” của một kẻ làm con bất hiếubằng cách : cha
chết, nhưng ông ta chỉ nằm bên bàn đèn hút thuốc phiện và “mơ màng đến lúc được
mặc đồ xô gai…chống gậy lụ khụ vừa đi vừa ho khạc , khóc mếu” để thiên hạ chỉ trỏ
mà khen tặng “Úi kìa , con giai nhớn đã già đến kia kìa!” ; mở miệng ra chỉ nói mỗi
một câu “Biết rồi, khổ lắm nói mãi”( tới 1782 lần) . bức ký họa của một kẻ bất hiếu,
háo danh .
     + Ông Văn Minh thì “phân vân”, “đăm đăm chiêu chiêu”, “vò đầu rứt tóc” nhưng
không phải vì cái chết của ông nội , mà ông ta nghĩ đến làm thế nào để cái chúc thư
của ông nội “sớm đi vào thời kỳ thực hành .Đặc biệt Văn Minh còn suy tính cách xử
trí với Xuân tóc đỏ ra sao khi hắn cùng lúc lại có ‘hai cái tội nhỏ” và “một cái ơn to”
với gia đình ông và  ông ta còn thầm cảm ơn Xuân tóc đỏ đã gây ra cái chết của một
cụ già đáng chết.  bản chất giả dối và bất nhân của một kẻ mang danh Âu hóa.
     + Ngoài ra , bà Văn Minh thì háo hức để được lăng xê mốt tang của cửa hiệu
mình; cậu tú Tân cứ mãi sốt ruột để được trổ tài chụp ảnh…. những kẻ vô tâm ,
đáng lên án.

114
     + Nhất là Phán mọc sừng thì sung sướng vì không ngờ cái “sừng” trên đầu mình
lại có giá trị đến thế và mừng thầm vì được cha vợ nói nhỏ vào tai “rằng sẽ chia cho
con gái và rể thêm một số tiền là vài nghìn đồng”.
 
 .Điều đáng cười là một gã đàn ông bị vợ “cắm sừng” mà không thể làm gì, không biết
nhục, không thấy xấu hổ, trái lại còn tự hào về “giá trị của đôi sừng hươu vô hình trên
đầu”… Chân dung biếm họa của một kẻ trục lợi, vô lương tâm, không biết liêm sỉ.
    => Như vậy, cụ Tổ chết, tuyệt nhiên không ai đau buồn.Đám tang không một giọt
nước mắt.Tình người trong một gia đình thượng lưu đại từ sản đã hòan tòan thiếu vắng
.Nhà văn vừa mỉa mai, vừa châm biếm vùa lên án sự suy đồi về đạo đức và tình người
của con người trong xã hội thượng lưu PK.
    3/ Sự suy đồi về đạo đức của đám con cháu trong gia đình cố Hồng còn lan
sang cả những người ngoài tang quyến :
   - Hai viên cảnh sát Min Đơ và Min Toa đang lúc thất nghiệp thì được thuê giữ trật
tự cho đám tang , đã “sung sướng cực điểm”.Thật đáng cười (cảnh sát mà lại thích thú
khi được thuê giữ trật tự cho đám ma).
   - Những ông bạn thân của cố Hồng , là những vị “tai to mặt lớn”, đến viếng tang
mà trên ngực áo đeo đầy huân chương ‘Bắc đẩu bội tinh, Long bội tinh, Cao mên bội
tinh, Vạn tượng bội tinh…” ; và trên mép và và cằm họ xuất hiện đủ mọi kiểu râu :
“hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung , hoặc lún phún hay rầm rậm, loăn
quăn…”,  đám tang mà như lễ báo công để trưng bày huân chương và như là một hội
thi râu.--> Lố bịch, kệch cỡm.
   - Bạn của các bà, các cô , tòan “giai thanh gái lịch”, vẻ ngoài ai nấy ra vẻ buồn rầu,
nhưng họ lại tranh thủ để “chim nhau, cười tình với nhau, chê bai nhau, hẹn hò
nhau…” Giả tạo , thiếu văn hóa.
  4/ Tính phê phán còn thể hiện ở cảnh tổ chức đám tang và cảnh đưa tang :
    - Cách tổ chức đám tang lộn xộn, ô hợp phô trương  theo lối “ta , Tàu, Tây…” ; có
vài ba trăm câu đối, vài ba trăm người đi đưa; đám đi đấn đâu thì huyên náo lên tới
đó … đua đòi , chạy theo lối sống văn minh rởm.
    - Cách phục trang : các bà , các cô thi nhau mặc đồ xô gai tân thời …( Cô Tuyết
mặc ý phục ngây thơ bằng ren , hở nách …”  đám ma mà như một sàn diễn thời
trang.
    - Cảnh đưa tang và cảnh hạ huyệt : nhốn nháo, giả tạo ( cố Hồng cũng ho, khóc ,
mếu, khạc…; Tú Tân và các bạb thi nhau chụp ảnh như ở hội chợ; Phán mọc sừng thì
oặt người, khóc Hứt! Hứt ! những vẫn không quên làm ăn bí mật với Xuân…)
=> Tất cả đều phơi bày rõ nét sự suy đồi về đạo đức của một bọn người thượng lưu
nhưng thực hất là cặn bã của xã hội.

115
  5/ Nhân vật Xuân tóc đỏ xuất hiện giữa lúc đám tang đang di chuyển, làm cho cảnh
đưa đám thêm lố lăng.Hắn bộc lộ cáci tinh quái , láu lỉnh bên cạnh tính đểu cáng và
dâm đãng vốn có .Hắn biết tự quảng cáo mình đúng lúc , đáp ứng đúng ý thích của
những người mà hắn cần lấy lòng như bà Văn Minh, như cô tuyết
III/ Kết bài :
- Khảng định tính kịch làm nên thành công, tạo tiếngc ười cho ngưuowif đọc
- Khẳng định tài năng, phẩm chất của tác giả
- Liên hệ với xã hội ngày nay, rút ra bài học nhận thức hành động.

ĐỀ LUYỆN TỔNG HỢP

ĐỀ SỐ 1

TRƯỜNG THPT ĐỀ THI CUỐI KỲ 1 THÁNG ... NĂM HỌC 2022-2023


(Đề kiểm tra có 01 trang) MÔN NGỮ VĂN - KHỐI 11
Thời gian làm bài 90 phút, không kể thời gian phát đề

Họ và tên thí sinh:………………………………………..Lớp:….


Số báo danh: ……………………………………………..
I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)
Đọc văn bản sau:
Xuân từ trong ấy mới ban ra,
Xuân chẳng riêng ai, khắp mọi nhà.
Đì đẹt ngoài sân tràng pháo chuột,
Om thòm trên vách bức tranh gà.
Chí cha chí chát khua giày dép,
Đen thủi đen thui cũng lượt là.
Dám hỏi những ai lòng cố quốc,
Rằng: xuân, xuân mãi thế ru mà?
(Xuân nhật ngẫy hứng – Trần Tế Xương)
Trả lời các câu hỏi:
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản?
Câu 2. Chỉ ra hai hình ảnh đặc trưng của tết cổ truyền ở Việt Nam xưa được nhắc đến
trong bài thơ.
Câu 3. Nêu tác dụng của 01 biện pháp tu từ được sử dụng trong hai câu thơ đầu.
Câu 4. Nhận xét về thái độ, cảm xúc của tác giả thể hiện trong bài thơ.
116
II. LÀM VĂN (7.0 điểm)
Câu 1 (2.0 điểm)
Hãy viết một đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý
nghĩa ngày Tết cổ truyền của dân tộc ta.
Câu 2 (5.0 điểm)
Phân tích diễn biến tâm trạng của hai chị em Liên trong đoạn trích sau:
[…] Hai chị em chờ không lâu. Tiếng còi đã rít lên, và tàu rầm rộ đi tới. Liên dắt
em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống
đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những
người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng. Rồi chiếc tàu đi vào đêm tối, để lại
những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt. Hai chị em còn nhìn theo cái chấm nhỏ
của chiếc đèn xanh trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre.
- Tàu hôm nay không đông nhỉ, chị nhỉ.
Liên cầm tay em không đáp. Chuyến tàu đêm nay không đông như mọi khi, thưa
vắng người và hình khư kém sáng hơn. Nhưng họ ở Hà Nội về! Liên lặng theo mơ
tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một
chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng
ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. Đêm tối vẫn bao bọc chung quanh, đêm
của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và yên lặng.
- Thôi đi ngủ đi chị.
Liên vỗ vai em, ngồi xuống chỏng. An cũng ngồi xuống và ngả đầu vào vai Liên.
Tiếng vang động của xe hỏa đã nhỏ rồi, và mất dần trong bóng tối, lắng tai cũng
không nghe thấy nữa. Sao trên trời vẫn lấp lánh. Cả phố huyện bây giờ mới thật là hết
náo động, chỉ còn đêm khuya, tiếng trống cầm canh và tiếng chó cắn. Từ phía ga,
bóng đèn lồng với bóng người đi về; chị Tí đương sửa soạn đồ đạc và bác Siêu đã
gánh hàng đi vào trong làng, còn vợ chồng bác xẩm ngủ gục trên manh chiếu tự bao
giờ.
(Trích Hai đứa trẻ - Thạch Lam, Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam,
2019, tr. 100 -101)
---------------------Hết--------------------
TRƯỜNG THPT HƯỚNG DẪN CHẤM ĐỀ THI CUỐI KỲ 1 THÁNG
(Hướng dẫn chấm có trang) …. NĂM HỌC 2022-2023
MÔN NGỮ VĂN - KHỐI 11
Thời gian làm bài 90 phút, không kể thời gian phát đề

Phần Câu Nội dung Điểm


I ĐỌC HIỂU 3,0
117
1 Phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn trích: biểu cảm. 0,75
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh nêu đúng phương thức biểu đạt: 0,75 điểm.
- Học sinh nêu thừa phương thức biểu đạt: 0,5 điểm.
2 Hai hình ảnh đặc trưng của tết cổ truyền ở Việt Nam xưa được 0,75
nhắc đến trong bài thơ: tràng pháo chuột, bức tranh gà.
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh nêu đúng 2 hình ảnh: 0,75 điểm.
- Học sinh nêu đúng 1 hình ảnh: 0,5 điểm.
3 Tác dụng của 01 biện pháp tu từ được sử dụng trong hai câu 1,0
thơ đầu:
- Biện pháp tu từ điệp từ: “xuân” (0,5đ)
- Tác dụng: (0,5đ)
+ Nhằm nhấn mạnh, gây ấn tượng về sự mới bắt đầu của mùa
xuân, không khí lan tỏa rông khắp mọi nơi.
+ Tạo tính nhạc, nhịp điệu rộn ràng cho bài thơ.
Hướng dẫn chấm:
- Ý 1, học sinh chỉ gọi tên biện pháp tu từ, không nêu được từ
điệp lại: 0,25 điểm.
- Ý 2: Học sinh trình bày được 1 ý: 0,25 điểm.
4 Nhận xét về thái độ, cảm xúc của tác giả thê rhiện trong bài 0,5
thơ:
- Tác giả mỉa mai, chế giễu những kẻ vui tết mà quên nỗi nhục
mất nước.
- Tác giả còn bộc lộ nỗi niềm băn khoăn, trăn trở trước mùa
xuân lô lệ, nỗi nhục mất nước.
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh nêu được 2 ý: 0,5 điểm.
- Học sinh nêu được 1 ý: 0,25 điểm.
Lưu ý: Học sinh trả lời các ý trong Đáp án bằng các từ
ngữ/cách diễn đạt tương đương vẫn cho điểm tối đa.
II LÀM VĂN 7,0
1 Viết một đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày suy nghĩ của 2,0
bản thân về ý nghĩa ngày Tết cổ truyền của dân tộc ta.
a. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn 0,25
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy

118
nạp, tổng - phân - hợp, móc xích hoặc song hành
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận 0,25
Ý nghĩa ngày Tết cổ truyền của dân tộc ta.
c. Triển khai vấn đề nghị luận 1,0
Học sinh có thể lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển
khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách nhưng phải làm rõ sự
cần thiết phải có tính tự chủ trong cuộc sống. Có thể theo
hướng sau:
- Tết cổ truyền là nét đẹp trong bản sắc văn hóa của người
Việt.
- Ngày tết của sự đoàn tụ gia đình, là dịp thể hiện lòng biết ơn,
sự quan tâm sẻ chia với người thân, bạn bè, hàng xóm…
- Tết cũng là dịp đúc kết mọi hoạt động liên quan đến một năm
qua, chào đón một năm mới với hy vọng tốt lành cho cá nhân
và cho cả cộng đồng.
Hướng dẫn chấm:
+ Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: lí lẽ xác đáng; dẫn chứng
tiêu biểu, phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn giữ lí lẽ và dẫn
chứng (1,0 điểm).
+ Lập luận chưa thật chặt chẽ, thuyết phục: lí lẽ xác đáng
nhưng không có dẫn chứng hoặc dẫn chứng không tiêu biểu
(0,75 điểm).
+ Lập luận không chặt chẽ, thiếu thuyết phục: lí lẽ không xác
đáng, không liên quan mật thiết đến vấn đề nghị luận, không
có dẫn chứng hoặc dẫn chứng không phù hợp (0,25 điểm).
Lưu ý: Học sinh có thể bày tỏ suy nghĩ, quan điểm riêng
nhưng phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật.
d. Chính tả, ngữ pháp 0,25
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt
Hướng dẫn chấm: Không cho điểm nếu bài làm có quá nhiều
lỗi chính tả, ngữ pháp.
e. Sáng tạo 0,25
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn
đạt mới mẻ.
Hướng dẫn chấm: Học sinh huy động được kiến thức và trải
nghiệm của bản thân để bàn luận về hiện tượng đời sống;có
cách nhìn riêng, mới mẻ về vấn đề nghị luận; có sáng tạo

119
trong diễn đạt, lập luận, làm cho lời văn có giọng điệu, hình
ảnh, đoạn văn giàu sức thuyết phục.
2 Phân tích diễn biến tâm trạng của hai chị em Liên trong đoạn 5,0
trích.
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận 0,25
Mở bài nêu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết
bài khái quát được vấn đề
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: 0,5
Diễn biến tâm trạng của hai chị em Liên trong đoạn trích.
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh xác định đúng vấn đề cần nghị luận: 0,5 điểm.
- Học sinh xác định chưa đầy đủ vấn đề nghị luận: 0,25 điểm.
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm
Học sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận
dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và
dẫn chứng; đảm bảo các yêu cầu sau:
* Giới thiệu tác giả (0,25 điểm), tác phẩm, đoạn trích và nhân 0,5
vật (0,25 điểm)
* Phân tích 2,5
- Khái quát vài nét về hoàn cảnh sống và vẻ đẹp tâm hồn nhân
vật dẫn tới cảnh chờ tàu.
- Khi tàu đến: Hai chị em vui sướng, đứng dậy để được chiêm
ngưỡng đoàn tàu vụt qua “các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh
cả xuống đường”, “ những toa hạng trên sang trọng lố nhố
những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”.
- Khi tàu đi qua:
+ Hai chị em đứng im lặng, ngẩn ngơ, tiếc nuối: “nhìn theo cái
chấm nhỏ của chiếc đèn xanh trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi
khuất sau rặng tre”.
+ Liên lặng theo mơ tưởng về Hà Nội: “xa xăm, sáng rực, vui
vẻ và huyên náo”.
+ Đối với Liên, con tàu thật mới lạ, hấp dẫn, đem đến một thế
giới khác đi qua: “khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí
và ánh lửa của bác Siêu”.
+ Liên cảm nhận nỗi buồn, sự tĩnh lặng lại bao trùm cả phố
huyện nghèo. Cuộc sống quẩn quanh, bế tắc.
- Nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm trạng của nhân vật:

120
Nghệ thuật miêu tả tinh tế những biến đổi tâm trạng nhân vật;
ngôn ngữ, hình ảnh trong sáng, giàu sức tạo hình, biểu cảm;
giọng điệu thủ thỉ, thấm đượm chất thơ, chất trữ tình sâu lắng;
Đoạn trích tiêu biểu cho phong cách văn chương Thạch Lam…
Hướng dẫn chấm:
- Phân tích đầy đủ, sâu sắc: 2,0 điểm - 2,5 điểm
- Phân tích chưa đầy đủ hoặc chưa sâu : 1,0 điểm - 1,75 điểm.
- Phân tích chung chung, sơ sài: 0,25 điểm - 0,75 điểm.
* Đánh giá: 0,5
- Liên và An là những đứa trẻ có tâm hồn tinh tế, nhạy cảm,
giàu cảm xúc, luôn trân trọng niềm vui trong cuộc sống và
luôn khao khát, ước mơ về tương lai tươi sáng…
- Tác giả bày tỏ tình cảm xót thương những kiếp người sống
cơ cực, quẩn quanh, tăm tối ở phố huyện nghèo trước Cách
mạng; trân trọng ước mơ đổi đời tuy còn mơ hồ của con người
nơi đây.
Hướng dẫn chấm:
-Trình bày được 2 ý: 0,5 điểm.
-Trình bày được 1 ý: 0,25 điểm.
d. Chính tả, ngữ pháp 0,5
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt
Lưu ý: Không cho điểm nếu bài làm mắc quá nhiều lỗi chính tả,
ngữ pháp.
e. Sáng tạo 0,25
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn
đạt mới mẻ.
Hướng dẫn chấm: Học sinh biết vận dụng lí luận văn học
trong quá trình phân tích, đánh giá; biết so sánh với các tác
phẩm khác để làm nổi bật nét đặc sắc của truyện ngắn Thạch
Lam; biết liên hệ vấn đề nghị luận với thực tiễn đời sống; văn
viết giàu hình ảnh, cảm xúc.
- Đáp ứng được 2 yêu cầu trở lên: 0,5 điểm.
- Đáp ứng được 1 yêu cầu: 0,25 điểm.
Tổng điểm 10,0
..........................Hết............................

ĐỀ SỐ 2
121
SỞ GD & ĐT NINH BÌNH ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ I
TRƯỜNG THPT …………. Năm học 2021 - 2022
Môn: Ngữ văn, Lớp 11
Thời gian làm bài: 90 phút, Không kể thời gian
phát đề)

Họ và tên học sinh:…………....………………………... Mã số học sinh:………………

PHẦN I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)


Đọc đoạn trích:
[…] Chao ôi! Trăng đẹp lắm! Trăng dịu dàng trong trẻo và bình tĩnh. Nhưng
trong những căn lều nát mà trăng làm cho cái bề ngoài trông cũng đẹp, biết bao người
quằn quại, nức nở, nhăn nhó với những đau thương của kiếp mình! Biết bao tiếng
nghiến răng và chửi rủa! Biết bao cực khổ và lầm than?... Không, không, Ðiền không
thể nào mơ mộng được. Cái sự thật tàn nhẫn luôn luôn bày ra đấy. Sự thực giết chết
những ước mơ lãng mạn gieo trong đầu óc Ðiền cái thứ văn chương của bọn nhàn rỗi
quá. Ðiền muốn tránh sự thực, nhưng trốn tránh làm sao được? Vợ Ðiền khổ, con
Ðiền khổ, cha mẹ Ðiền khổ. Chính Ðiền cũng khổ. Bao nhiêu người nữa, cùng một
cảnh, khổ như Ðiền! Cái khổ làm héo một phần lớn những tính tình tươi đẹp của
người ta. Tiếng đau khổ vang dội lên mạnh mẽ. Chao ôi! Chao ôi! Nghệ thuật không
cần là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là
tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than, vang dội lên mạnh mẽ trong lòng
Ðiền. Điền chẳng cần đi đâu cả. Điền chẳng cần trốn tránh, Điền cứ đứng trong lao
khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời…
[…] Sáng hôm sau, Điền ngồi viết, giữa tiếng con khóc, tiếng vợ gắt gỏng, tiếng
léo xéo đòi nợ ngoài đầu xóm. Và cả tiếng chửi bới của một người láng giềng ban đêm
mất gà.
(Trích Giăng sáng, Tuyển tập Nam Cao, Tập một, NXB Văn học, 2003,
tr.317-318)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Xác định phương các phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn trích?
Câu 2. Trong đoạn trích, trăng được miêu tả qua những chi tiết nào?
Câu 3. Nhân vật Điền đã nhận thức như thế nào về nghệ thuật, về văn chương ?
Câu 4. Anh/Chị hãy nhận xét về nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật của Nam Cao
trong đoạn trích?
PHẦN II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)

122
Anh/Chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày suy nghĩ của bản thân
về vai trò của tính tự chủ trong cuộc sống.
Câu 2 (5,0 điểm)
Phân tích diễn biến tâm trạng của hai chị em Liên trong đoạn trích sau:
[…] Hai chị em chờ không lâu. Tiếng còi đã rít lên, và tàu rầm rộ đi tới. Liên dắt
em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống
đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những
người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng. Rồi chiếc tàu đi vào đêm tối, để lại
những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt. Hai chị em còn nhìn theo cái chấm nhỏ
của chiếc đèn xanh trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre.
- Tàu hôm nay không đông nhỉ, chị nhỉ.
Liên cầm tay em không đáp. Chuyến tàu đêm nay không đông như mọi khi, thưa
vắng người và hình khư kém sáng hơn. Nhưng họ ở Hà Nội về! Liên lặng theo mơ
tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một
chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng
ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. Đêm tối vẫn bao bọc chung quanh, đêm
của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và yên lặng.
- Thôi đi ngủ đi chị.
Liên vỗ vai em, ngồi xuống chỏng. An cũng ngồi xuống và ngả đầu vào vai Liên.
Tiếng vang động của xe hỏa đã nhỏ rồi, và mất dần trong bóng tối, lắng tai cũng
không nghe thấy nữa. Sao trên trời vẫn lấp lánh. Cả phố huyện bây giờ mới thật là hết
náo động, chỉ còn đêm khuya, tiếng trống cầm canh và tiếng chó cắn. Từ phía ga,
bóng đèn lồng với bóng người đi về; chị Tí đương sửa soạn đồ đạc và bác Siêu đã
gánh hàng đi vào trong làng, còn vợ chồng bác xẩm ngủ gục trên manh chiếu tự bao
giờ.[….]
(Trích Hai đứa trẻ - Thạch Lam, Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam,
2019, tr. 100 -101)
------------------ HẾT ------------------

SỞ GD & ĐT ………… ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ I


TRƯỜNG THPT …………. Năm học 2022 – 2023
ĐÁP ÁN VÀ HƯỚNG DẪN CHẤM
Môn: Ngữ văn, Lớp 11
(Đáp án và hướng dẫn chấm gồm 05 trang)

123
Phầ Câu Nội dung Điểm
n
I ĐỌC HIỂU 3,0
1 Các phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn trích: tự 0,75
sự, miêu tả, biểu cảm.
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh nêu đúng phương thức biểu đạt: 0,75 điểm.
- Học sinh nêu đúng 2 phương thức biểu đạt: 0,5 điểm.
- Học sinh nêu đúng 1 phươg thức biểu đạt: 0,25 điểm.
2 Trong đoạn trích, trăng được miêu tả qua những chi tiết: 0,75
Trăng đẹp lắm! Trăng dịu dàng và trong trẻo và bình tĩnh.
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh nêu được 4 chi tiết trở lên: 0,75 điểm.
- Học sinh nêu được 3 chi tiết: 0,5 điểm.
- Học sinh nêu được 1-2 chi tiết: 0,25 điểm.
3 Nhận thức của nhân vật nhà văn Điền khi nói về nghệ thuật, về văn 1,0
chương trong đoạn trích:
- Ðiền tự ý thức được không thể nào mơ mộng được nữa: bởi
vì, biết bao tiếng đau khổ đã “giết chết những ước mơ lãng
mạn gieo trong đầu óc Ðiền cái thứ văn chương của bọn nhàn
rỗi”…
- Điền còn tự nhận thức về việc sáng tác nghệ thuật, văn
chương: không nên chạy theo cái đẹp, cái thơ mộng, quay lưng
lại với hiện thực để viết ra những điều giả dối, phù phiếm mà
phải đồng cảm và phản ánh “tiếng đau khổ kia, thoát ra từ
những kiếp lầm than”…
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh nêu được nhận thức của nhân vật hoặc có cách diễn
đạt tương đương:1,0 điểm.
- Học sinh nêu được 1 hoặc 2 nét tâm trạng: 0,5 điểm.
4 Nhận xét về nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật của Nam 0,5
Cao trong đoạn trích: miêu tả tinh tế các sắc thái tâm trạng;
ngôn ngữ tạo hình, gợi cảm; giọng điệu sâu lắng, triết lí; …
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh nêu được 2 ý trở lên: 0,5 điểm.
- Học sinh nêu được 1 ý: 0,25 điểm.

124
Lưu ý: Học sinh trả lời các ý trong Đáp án bằng các từ
ngữ/cách diễn đạt tương đương vẫn cho điểm tối đa.
II LÀM VĂN 7,0
1 Viết một đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày suy nghĩ 2,0
của bản thân về vai trò của tính tự chủ trong cuộc sống.
a. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn 0,25
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy
nạp, tổng - phân - hợp, móc xích hoặc song hành
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận 0,25
Vai trò của tính tự chủ trong cuộc sống.
c. Triển khai vấn đề nghị luận 0,75
Học sinh có thể lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển
khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách nhưng phải làm rõ sự
cần thiết phải có tính tự chủ trong cuộc sống. Có thể theo
hướng sau:
- Tự chủ là làm chủ bản thân trong suy nghĩ, tình cảm, hành vi
trong mọi hoàn cảnh, điều kiện của cuộc sống.
- Tính tự chủ giúp con người làm chủ được chính mình, có ý
thức cao và tự giác trong mọi việc, tự tin vào khả năng, năng
lực của cá nhân, vượt qua mọi khó khăn, thử thách để hoàn
thành các nhiệm vụ, công việc được giao; tạo ra động lực thúc
đẩy hoàn thiện bản thân; Có tính tự chủ con người sống đúng
đắn, cư xử có đạo đức, có văn hóa. Tính tự chủ giúp mỗi người
đóng góp tài năng, công sức để xã hội ngày càng tốt đẹp hơn;

Hướng dẫn chấm:
+ Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: lí lẽ xác đáng; dẫn chứng
tiêu biểu, phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn giữ lí lẽ và dẫn
chứng (0,75 điểm).
+ Lập luận chưa thật chặt chẽ, thuyết phục: lí lẽ xác đáng
nhưng không có dẫn chứng hoặc dẫn chứng không tiêu biểu
(0,5 điểm).
+ Lập luận không chặt chẽ, thiếu thuyết phục: lí lẽ không xác
đáng, không liên quan mật thiết đến vấn đề nghị luận, không
có dẫn chứng hoặc dẫn chứng không phù hợp (0,25 điểm).
Lưu ý: Học sinh có thể bày tỏ suy nghĩ, quan điểm riêng
nhưng phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật.

125
d. Chính tả, ngữ pháp 0,25
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt
Hướng dẫn chấm: Không cho điểm nếu bài làm có quá nhiều
lỗi chính tả, ngữ pháp.
e. Sáng tạo 0,5
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn
đạt mới mẻ.
Hướng dẫn chấm: Học sinh huy động được kiến thức và trải
nghiệm của bản thân để bàn luận về hiện tượng đời sống;có
cách nhìn riêng, mới mẻ về vấn đề nghị luận; có sáng tạo
trong diễn đạt, lập luận, làm cho lời văn có giọng điệu, hình
ảnh, đoạn văn giàu sức thuyết phục.
- Đáp ứng được 2 yêu cầu trở lên 0,5 điểm.
- Đáp ứng được 1 yêu cầu 0,25 điểm.
2 Phân tích diễn biến tâm trạng của hai chị em Liên trong đoạn 5,0
trích.
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận 0,25
Mở bài nêu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết
bài khái quát được vấn đề
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị 0,5
Diễn biến tâm trạng của hai chị em Liên trong đoạn trích.
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh xác định đúng vấn đề cần nghị luận: 0,5 điểm.
- Học sinh xác định chưa đầy đủ vấn đề nghị luận: 0,25 điểm.
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm
Học sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận
dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và
dẫn chứng; đảm bảo các yêu cầu sau:
* Giới thiệu tác giả (0,25 điểm), tác phẩm, đoạn trích và nhân 0,5
vật (0,25 điểm)
* Phân tích 2,5
- Khái quát vài nét về hoàn cảnh sống và vẻ đẹp tâm hồn nhân
vật dẫn tới cảnh chờ tàu.
- Khi tàu đến: Hai chị em vui sướng, đứng dậy để được chiêm
ngưỡng đoàn tàu vụt qua “các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh
cả xuống đường”, “ những toa hạng trên sang trọng lố nhố
những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”.

126
- Khi tàu đi qua:
+ Hai chị em đứng im lặng, ngẩn ngơ, tiếc nuối: “nhìn theo cái
chấm nhỏ của chiếc đèn xanh trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi
khuất sau rặng tre”.
+ Liên lặng theo mơ tưởng về Hà Nội: “xa xăm, sáng rực, vui
vẻ và huyên náo”.
+ Đối với Liên, con tàu thật mới lạ, hấp dẫn, đem đến một thế
giới khác đi qua: “khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí
và ánh lửa của bác Siêu”.
+ Liên cảm nhận nỗi buồn, sự tĩnh lặng lại bao trùm cả phố
huyện nghèo. Cuộc sống quẩn quanh, bế tắc.
- Nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm trạng của nhân vật:
Nghệ thuật miêu tả tinh tế những biến đổi tâm trạng nhân vật;
ngôn ngữ, hình ảnh trong sáng, giàu sức tạo hình, biểu cảm;
giọng điệu thủ thỉ, thấm đượm chất thơ, chất trữ tình sâu lắng;
Đoạn trích tiêu biểu cho phong cách văn chương Thạch Lam…
Hướng dẫn chấm:
- Phân tích đầy đủ, sâu sắc: 2,0 điểm - 2,5 điểm
- Phân tích chưa đầy đủ hoặc chưa sâu : 1,0 điểm - 1,75 điểm.
- Phân tích chung chung, sơ sài: 0,25 điểm - 0,75 điểm.
* Đánh giá: 0,5
- Liên và An là những đứa trẻ có tâm hồn tinh tế, nhạy cảm,
giàu cảm xúc, luôn trân trọng niềm vui trong cuộc sống và
luôn khao khát, ước mơ về tương lai tươi sáng…
- Từ truyện Hai đứa trẻ nói chung, đoạn trích nói riêng, nhà
văn Thạch Lam bày tỏ tình cảm xót thương những kiếp người
sống cơ cực, quẩn quanh, tăm tối ở phố huyện nghèo trước
Cách mạng; Nhà văn đặc biệt trân trọng ước mơ đổi đời tuy
còn mơ hồ của con người nơi đây.
Hướng dẫn chấm:
-Trình bày được 2 ý: 0,5 điểm.
-Trình bày được 1 ý: 0,25 điểm.
d. Chính tả, ngữ pháp 0,5
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt
Lưu ý: Không cho điểm nếu bài làm mắc quá nhiều lỗi chính tả,
ngữ pháp.
e. Sáng tạo 0,25

127
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn
đạt mới mẻ.
Hướng dẫn chấm: Học sinh biết vận dụng lí luận văn học
trong quá trình phân tích, đánh giá; biết so sánh với các tác
phẩm khác để làm nổi bật nét đặc sắc của truyện ngắn Thạch
Lam; biết liên hệ vấn đề nghị luận với thực tiễn đời sống; văn
viết giàu hình ảnh, cảm xúc.
- Đáp ứng được 2 yêu cầu trở lên: 0,5 điểm.
- Đáp ứng được 1 yêu cầu: 0,25 điểm.
Tổng điểm 10,0
..........................Hết............................

ĐỀ SỐ 3
SỞ GD & ĐT NINH BÌNH ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ I
TRƯỜNG THPT …………. Năm học 2022 - 2023
Môn: Ngữ văn, Lớp 11
Thời gian làm bài: 90 phút, Không kể thời gian
phát đề)

Họ và tên học sinh:…………....………………………... Mã số học sinh:………………

PHẦN I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)


Đọc đoạn trích:
[…] Từ tháng 4/2021, chủng virus Delta chính thức xuất hiện tại Việt Nam, đánh
dấu đợt bùng dịch lần thứ 4 trên cả nước. Cho đến nay, đợt bùng dịch này vẫn chưa
có dấu hiệu kết thúc mà đã lan ra 59/63 tỉnh thành, với số bệnh nhân tăng lên hàng
nghìn ca mỗi ngày. Một lần nữa, chính phủ và người dân Việt Nam phải đối mặt với
tình hình dịch bệnh căng thẳng và vô cùng phức tạp.
[…] Càng trong thử thách, dân tộc Việt Nam lại càng bừng lên tinh thần lạc
quan, tươi sáng; càng trong hoạn nạn, người Việt lại càng phát huy tình nghĩa đồng
bào “lá lành đùm lá rách”, cùng nhau chia sẻ khó khăn giữa mùa dịch. Đó có thể là
những điều ấm áp nhỏ bé luôn hiện hữu trong cuộc sống hàng ngày, là những nghĩa
cử ấm áp, cao đẹp của người dân từ mọi miền trên Tổ quốc hướng về những vùng tâm
dịch với tinh thần nhường cơm sẻ áo.
Đó là những chuyến xe yêu thương chở theo hàng trăm tấn rau củ, thực phẩm đi
vào vùng có dịch, là những bếp cơm thiện nguyện đêm ngày đỏ lửa cung cấp hàng
trăm nghìn suất cơm miễn phí cho người dân. Là câu chuyện của bác chủ tịch gần 70
128
tuổi vẫn giấu vợ con đi làm tài xế tình nguyện tại Bắc Giang với tinh thần còn đủ sức
khỏe thì còn chiến đấu. Là người hàng xóm tưởng lạ mà quen, lẳng lặng bấm chuông
rồi để lại trước cửa túi thực phẩm đủ cho 2 ngày sinh hoạt, dẫu trước đó có khi còn
chẳng nhớ mặt biết tên nhau. […]
Những câu chuyện ấm áp nhỏ bé đó giống như một liều thuốc tinh thần, mang
đến niềm tin và sự tích cực, lạc quan cho mỗi con người Việt Nam giữa cuộc chiến
chống dịch COVID-19 dai dẳng và đầy khó khăn, thử thách.
(Linh Khánh, doanhnghiepvn.vn/nhip-cau-nhan-ai/nhung-cau-chuyen-am-ap-tinh-
nguoi-giua-dai-dich)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Xác định phong cách chức năng ngôn ngữ của đoạn văn bản trên.
Câu 2. Theo đoạn trích, dân tộc ta đang phải đối mặt với thử thách nào?
Câu 3. Nêu hiệu quả sử dụng của 01 phép liên kết trong đoạn sau: Là câu chuyện của bác
chủ tịch gần 70 tuổi vẫn giấu vợ con đi làm tài xế tình nguyện tại Bắc Giang với tinh
thần còn đủ sức khỏe thì còn chiến đấu. Là người hàng xóm tưởng lạ mà quen, lẳng
lặng bấm chuông rồi để lại trước cửa túi thực phẩm đủ cho 2 ngày sinh hoạt, dẫu
trước đó có khi còn chẳng nhớ mặt biết tên nhau.
Câu 4. Thông điệp nào trong đoạn trích có ý nghĩa nhất với anh/chị?
PHẦN II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Anh/Chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày suy nghĩ của bản thân
về sức mạnh của tình người trong khó khăn thử thách.
Câu 2 (5,0 điểm)
Phân tích sự hồi sinh của Chí qua đoạn trích sau:
[…] “Khi Chí Phèo mở mắt thì trời sáng đã lâu. Mặt trời chắc đã lên cao và
nắng bê ngoài chắc là rực rỡ. Cứ nghe chim ríu rít bên ngoài đủ biết. Nhưng trong cái
lều ẩm thấp vẫn mới chỉ hơi lờ mờ. Ở đây người ta thấy chiều lúc xế trưa và thấy đêm
khi bên ngoài vẫn sáng. Chưa bao giờ Chí Phèo nhận thấy thế bởi chưa bao giờ hết
say.
Nhưng bây giờ thì hắn tỉnh. Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất
dài. Cũng như những người say tỉnh dậy, hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn.
Người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc. Hay là đói rượu? Nghĩ đến rượu, hắn
hơi rùng mình. Ruột gan hắn lại nôn nao lên một tí. Hắn sợ rượu cũng như những
người ốm thường sợ cơm. Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của
những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy
hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy… Chao ôi là buồn!”.

129
“Tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc. Buồn thay cho đời! Có lí nào
như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu… Dẫu sao, đó không
phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn. Hắn đã tới cái dốc bên kia của đời. Ở
những người như hắn, chịu đựng biết bao nhiêu là chất độc, đày đọa cực nhọc, mà
chưa bao giờ ốm, một trận ốm có thể gọi là dấu hiệu báo rằng cơ thể đã hư hỏng
nhiều. Nó là một cơn mưa gió cuối thu cho biết trời gió rét, nay mùa đông đã đến. Chí
Phèo hình như đã trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái
này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”.[….]
(Trích Chí Phèo – Nam Cao, Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019)
------------------ HẾT ------------------

SỞ GD & ĐT NINH BÌNH ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ I


TRƯỜNG THPT …………. Năm học 2022 – 2023
ĐÁP ÁN VÀ HƯỚNG DẪN CHẤM
Môn: Ngữ văn, Lớp 11
(Đáp án và hướng dẫn chấm gồm 05 trang)

Phầ Câu Nội dung Điểm


n
I ĐỌC HIỂU 3,0
1 Phong cách chức năng ngôn ngữ của đoạn văn bản trên: Báo 0,75
chí
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh nêu đúng phong cách chức năng ngôn ngữ : 0,75
điểm.
- Học sinh nêu thừa phong cách chức năng ngôn ngữ : 0,5
điểm.
2 Theo đoạn trích, dân tộc ta đang trải qua thử thách: đại dịch 0,75
côvid 19 hoành hành khắp đất nước, tình hình dịch bệnh căng
thẳng và vô cùng phức tạp.
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh trình bày như đáp án hoặc có diễn đạt tương tự:

130
0,75 điểm.
- Học sinh chép toàn bộ đoạn 1: 0,5 điểm.
- Học sinh nêu không rõ ràng khó khăn gì: 0,25 điểm.
3 - 01 phép liên kết trong đoạn là: Phép lặp từ/cấu trúc “Là…” 1,0
- Tác dụng:
+ Tạo liên kết chặt chẽ giữa các câu với nhau theo quan hệ bổ sung.
+ Nhấn mạnh những biểu hiện phong phú của những việc làm tốt
đẹp trong đại dịch.
+ Qua đó thể hiện thái độ trân trọng, yêu mến của tác giả trước
những tấm lòng nhân ái của người dân trong đại dịch.
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh nêu được chỉ ra được phép liên kết và yếu tố liên
kết:0,5đ điểm.
- Học sinh nêu được từ hai tác dụng như đáp án: 0,5 điểm.
- Học sinh nêu được 1ý trong phần tác dụng: 0,25 điểm
4 Học sinh nêu 1 thông điệp ý nghĩa nhất với bản thân. 0,5
Gợi ý
- Hãy luôn lạc quan, tin tưởng vào những điều tốt đẹp trong
cuộc sống.
- Hãy luôn biết yêu thương, quan tâm và sẻ chia để đẩy lùi khó
khăn thử thách.
....
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh nêu được thông điêp: 0,5 điểm.
- Học sinh nêu thông điệp không rõ ràng: 0,25 điểm.
Lưu ý: Học sinh trả lời các ý trong Đáp án bằng các từ
ngữ/cách diễn đạt tương đương vẫn cho điểm tối đa.
II LÀM VĂN 7,0
1 Viết một đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày suy nghĩ của 2,0
bản thân về vai trò của tính tự chủ trong cuộc sống.
a. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn 0,25
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy
nạp, tổng - phân - hợp, móc xích hoặc song hành
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận 0,25
Vai trò của tính tự chủ trong cuộc sống.
c. Triển khai vấn đề nghị luận 1,0
Học sinh có thể lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển

131
khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách nhưng phải làm rõ sự
cần thiết phải có tính tự chủ trong cuộc sống. Có thể theo
hướng sau:
- Tình người là tình cảm yêu thương, quan tâm, sẻ chia giữa
con người với nhau trong xã hội.
- Tình người gắn kết yêu thương; củng cố niềm tin; tạo nên sức
mạnh đoàn kết vượt mọi khó khăn thử thách; khiến cuộc sống
có ý nghĩa; xây dựng xã hội tốt đẹp…
- HS đưa dẫn chứng tiêu biểu, cập nhật về sức mạnh của tình
người trong xã hội hiện nay.
Hướng dẫn chấm:
+ Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: lí lẽ xác đáng; dẫn chứng
tiêu biểu, phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn giữ lí lẽ và dẫn
chứng (1,0 điểm).
+ Lập luận chưa thật chặt chẽ, thuyết phục: lí lẽ xác đáng
nhưng không có dẫn chứng hoặc dẫn chứng không tiêu biểu
(0,75 điểm).
+ Lập luận không chặt chẽ, thiếu thuyết phục: lí lẽ không xác
đáng, không liên quan mật thiết đến vấn đề nghị luận, không
có dẫn chứng hoặc dẫn chứng không phù hợp (0,5 điểm).
Lưu ý: Học sinh có thể bày tỏ suy nghĩ, quan điểm riêng
nhưng phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật.
d. Chính tả, ngữ pháp 0,25
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt
Hướng dẫn chấm: Không cho điểm nếu bài làm có quá nhiều
lỗi chính tả, ngữ pháp.
e. Sáng tạo 0,25
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn
đạt mới mẻ.
Hướng dẫn chấm: Học sinh huy động được kiến thức và trải
nghiệm của bản thân để bàn luận về hiện tượng đời sống;có
cách nhìn riêng, mới mẻ về vấn đề nghị luận; có sáng tạo
trong diễn đạt, lập luận, làm cho lời văn có giọng điệu, hình
ảnh, đoạn văn giàu sức thuyết phục.
- Đáp ứng được 2 yêu cầu trở lên 0,5 điểm.
- Đáp ứng được 1 yêu cầu 0,25 điểm.
2 Phân tích sự hồi sinh của Chí qua đoạn trích sau: 5,0

132
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận 0,25
Mở bài nêu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết
bài khái quát được vấn đề
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị 0,5
Diễn biến tâm trạng của hai chị em Liên trong đoạn trích.
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh xác định đúng vấn đề cần nghị luận: 0,5 điểm.
- Học sinh xác định chưa đầy đủ vấn đề nghị luận: 0,25 điểm.
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm
Học sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận
dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và
dẫn chứng; đảm bảo các yêu cầu sau:
* Giới thiệu tác giả (0,25 điểm), tác phẩm, đoạn trích và nhân 0,5
vật (0,25 điểm)
* Phân tích 2,5
- Khái quát vài nét về hoàn cảnh sống và vẻ đẹp tâm hồn nhân
vật dẫn tới cảnh chờ tàu.
- Khi tàu đến: Hai chị em vui sướng, đứng dậy để được chiêm
ngưỡng đoàn tàu vụt qua “các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh
cả xuống đường”, “ những toa hạng trên sang trọng lố nhố
những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”.
- Khi tàu đi qua:
+ Hai chị em đứng im lặng, ngẩn ngơ, tiếc nuối: “nhìn theo cái
chấm nhỏ của chiếc đèn xanh trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi
khuất sau rặng tre”.
+ Liên lặng theo mơ tưởng về Hà Nội: “xa xăm, sáng rực, vui
vẻ và huyên náo”.
+ Đối với Liên, con tàu thật mới lạ, hấp dẫn, đem đến một thế
giới khác đi qua: “khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí
và ánh lửa của bác Siêu”.
+ Liên cảm nhận nỗi buồn, sự tĩnh lặng lại bao trùm cả phố
huyện nghèo. Cuộc sống quẩn quanh, bế tắc.
- Nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm trạng của nhân vật:
Nghệ thuật miêu tả tinh tế những biến đổi tâm trạng nhân vật;
ngôn ngữ, hình ảnh trong sáng, giàu sức tạo hình, biểu cảm;
giọng điệu thủ thỉ, thấm đượm chất thơ, chất trữ tình sâu lắng;
Đoạn trích tiêu biểu cho phong cách văn chương Thạch Lam…

133
Hướng dẫn chấm:
- Phân tích đầy đủ, sâu sắc: 2,0 điểm - 2,5 điểm
- Phân tích chưa đầy đủ hoặc chưa sâu : 1,0 điểm - 1,75 điểm.
- Phân tích chung chung, sơ sài: 0,25 điểm - 0,75 điểm.
* Đánh giá: 0,5
- Liên và An là những đứa trẻ có tâm hồn tinh tế, nhạy cảm,
giàu cảm xúc, luôn trân trọng niềm vui trong cuộc sống và
luôn khao khát, ước mơ về tương lai tươi sáng…
- Từ truyện Hai đứa trẻ nói chung, đoạn trích nói riêng, nhà
văn Thạch Lam bày tỏ tình cảm xót thương những kiếp người
sống cơ cực, quẩn quanh, tăm tối ở phố huyện nghèo trước
Cách mạng; Nhà văn đặc biệt trân trọng ước mơ đổi đời tuy
còn mơ hồ của con người nơi đây.
Hướng dẫn chấm:
-Trình bày được 2 ý: 0,5 điểm.
-Trình bày được 1 ý: 0,25 điểm.
d. Chính tả, ngữ pháp 0,5
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt
Lưu ý: Không cho điểm nếu bài làm mắc quá nhiều lỗi chính tả,
ngữ pháp.
e. Sáng tạo 0,25
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn
đạt mới mẻ.
Hướng dẫn chấm: Học sinh biết vận dụng lí luận văn học
trong quá trình phân tích, đánh giá; biết so sánh với các tác
phẩm khác để làm nổi bật nét đặc sắc của truyện ngắn Thạch
Lam; biết liên hệ vấn đề nghị luận với thực tiễn đời sống; văn
viết giàu hình ảnh, cảm xúc.
- Đáp ứng được 2 yêu cầu trở lên: 0,5 điểm.
- Đáp ứng được 1 yêu cầu: 0,25 điểm.
Tổng điểm 10,0
..........................Hết............................
 ĐỀ SỐ 4

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ I NĂM HỌC 2020 - 2021
ĐỀ MINH HỌA Môn: Ngữ văn, Lớp: 11
134
Thời gian làm bài: 90 phút, không tính thời gian phát đề

Họ và tên học sinh:…………………………………... Mã số học sinh:………………….


I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
Ngoài khung cửa sổ, trời xanh ngắt ánh sáng; lá cây rung động dưới làn gió nhẹ. Một
thân cây vút cao lên trước mặt. Cùng một lúc, chàng lẩm bẩm: “cây hoàng lan”, mùi hương
thơm thoang thoảng đưa vào. Thanh nhắm mắt ngửi hương thơm và nhớ đến cái cây ấy
chàng hay chơi dưới gốc nhặt hoa. Đã từ lâu lắm, ngày mới có căn nhà này, ngày cha mẹ
chàng hãy còn. Rồi đến ngày một bà một cháu quấn quýt nhau. Thanh ra tỉnh làm rồi đi về
hàng năm, các ngày nghỉ. Bây giờ cây đã lớn.
Thanh thấy tâm hồn nhẹ nhõm tươi mát như vừa tắm ở suối. Chàng tắm trong cái
không khí tươi mát này.Những ngày bận rộn ở tỉnh giờ xa quá. Khu vườn với các cây quen đã
nhận biết chàng rồi.
Nghe thấy bà đi vào. Thanh nằm yên giả vờ ngủ. Bà lại gần săn sóc, buông màn, nhìn
cháu và xua đuổi muỗi. Gió quạt đưa nhẹ trên mái tóc chàng. Thanh vẫn nằm yên nhắm mắt
nhưng biết bà ở bên mình.Chàng không dám động đậy, yên lặng chờ cho bà lại đi ra. Bà
xuống bếp làm cơm hẳn. Tiếng dép nhỏ dần.
(Trích Dưới bóng hoàng lan -Thạch Lam, NXB Văn hóa Thông tin, 2007, tr. 165-166)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Xác định các phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn trích.
Câu 2.Trong đoạn trích,cây hoàng lanđược miêu tả qua những chi tiết nào?
Câu 3. Nêu tâm trạng của nhân vật Thanh khi trở về dưới bóng hoàng lan trong đoạn trích.
Câu 4.Anh/Chị hãy nhận xét về nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật của Thạch Lam trong đoạn
trích.
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Anh/Chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày suy nghĩ của bản thân về
vai trò của sự trải nghiệm trong cuộc sống.
Câu 2 (5,0 điểm)
Phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao trong đoạn trích sau:
Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ vọng canh, một cảnh
tượng xưa nay chưa từng có, đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy
mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián.

135
Trong không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm
dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ.
Khói bốc tỏa cay mắt, làm họ dụi mắt lia lịa.
Một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa
trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm
núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại
gầy gò, run run bưng chậu mực. Thay bút con, đề xong lạc khoản, ông Huấn Cao thở dài,
buồn bã đỡ viên quản ngục đứng dậy và đĩnh đạc bảo:
- Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi.Chỗ này không phải là nơi
để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông tươi tắn nó nói nên những cái hoài bão
tung hoành của một đời con người. Thoi mực thầy mua ở đâu mà tốt và thơm quá. Thầy có
thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?...Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên về quê mà ở,
thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ
thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc cái đời lương thiện đi.
Lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm phòng giam, tàn lửa tắt nghe
xèo xèo.
Ba người nhìn bức châm, rồi lại nhìn nhau.
Ngục quan cảm động, vái người tử tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước
mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.
(Trích Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân,Ngữ văn 11,
Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2019, tr. 113-114)
......................Hết.......................

136
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ I NĂM HỌC 2020 - 2021
ĐỀ MINH HỌA ĐÁP ÁN VÀ HƯỚNG DẪN CHẤM
Môn: Ngữ văn, lớp 11
(Đáp án và hướng dẫn chấm gồm …. trang)

Phần Câu Nội dung Điểm


I ĐỌC HIỂU 3,0
1 Các phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn trích: tự sự, 0,75
miêu tả, biểu cảm.
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh nêu được 3 phương thức biểu đạt: 0,75 điểm.
- Học sinh nêu được 2 phương thức biểu đạt: 0,5 điểm.
- Học sinh nêu được 1 phương thức biểu đạt: 0,25 điểm.
2 Những nhữngchi tiết miêu tả cây hoàng lan trong đoạn trích: lá 0,75
cây rung động; thân cây vút cao; mùi hương thơm thoang thoảng;
cây đã lớn.
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh nêu được 3 chi tiết trở lên: 0,75 điểm.
- Học sinh nêu được 2 chi tiết: 0,5 điểm.
- Học sinh nêu được 1 chi tiết: 0,25 điểm.
3 Tâm trạng của nhân vật Thanh trong đoạn trích: cảm thấy nhẹ 1,0
nhàng, thư thái, bình yên khi tắm mình trong không khí tươi mát
của hương hoàng lan và đón nhận sự săn sóc của bà.
Hướng dẫn chấm:
-Học sinh nêu được các nét tâm trạng của nhân vật (nhẹ nhàng,
thư thái, bình yên) hoặc có cách diễn đạt tương đương:1,0 điểm.
- Học sinh nêu được 1 hoặc 2 nét tâm trạng: 0,5 điểm.
4 Nhận xét về nghệ thuật miêu tả tâm trạngnhân vật của Thạch Lam 0,5
trong đoạn trích: miêu tả tinh tế các sắc thái tâm trạng; ngôn ngữ
trong sáng, gợi cảm; giọng điệu nhẹ nhàng, giàu chất trữ tình.
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh nêu được 2 ý trở lên: 0,5 điểm.
- Học sinh nêu được 1 ý: 0,25 điểm.
Lưu ý:Học sinh trả lời các ý trongĐáp án bằng các từ ngữ/cách
diễn đạt tương đương vẫn cho điểm tối đa.
II LÀM VĂN 7,0
1 Viết một đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày suy nghĩ của bản 2,0

137
thân về vai trò của sự trải nghiệm trong cuộc sống.
a. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn 0,25
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp,
tổng - phân - hợp, móc xích hoặc song hành
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận 0,25
Vai trò của sự trải nghiệm trong cuộc sống.
c. Triển khai vấn đề nghị luận 0,75
Học sinh có thể lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển
khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách nhưng phải làm rõ vai trò
của sự trải nghiệm trong cuộc sống. Có thể theo hướng sau:
Sự trải nghiệm đem lại hiểu biết, kinh nghiệm thực tế, giúp con
người trưởng thành, vững vàng;cuộc sống trở nên phong phú, sâu
sắc hơn; …
Hướng dẫn chấm:
+ Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: lí lẽ xác đáng; dẫn chứng tiêu
biểu, phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn giữ lí lẽ và dẫn chứng (0,75
điểm).
+ Lập luận chưa thật chặt chẽ, thuyết phục: lí lẽ xác đáng nhưng
không có dẫn chứng hoặc dẫn chứng không tiêu biểu (0,5 điểm).
+ Lập luận không chặt chẽ, thiếu thuyết phục: lí lẽ không xác đáng,
không liên quan mật thiết đến vấn đề nghị luận, không có dẫn chứng
hoặc dẫn chứng không phù hợp (0,25 điểm).
Lưu ý:Học sinh có thể bày tỏ suy nghĩ, quan điểm riêng nhưng
phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật.
d. Chính tả, ngữ pháp 0,25
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt
Hướng dẫn chấm: Không cho điểm nếu bài làm có quá nhiều
lỗi chính tả, ngữ pháp.
e. Sáng tạo 0,5
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt mới
mẻ.
Hướng dẫn chấm: Học sinh huy động được kiến thức và trải
nghiệm của bản thân để bàn luận về hiện tượng đời sống;có cách
nhìn riêng, mới mẻ về vấn đề nghị luận; có sáng tạo trong diễn đạt,
lập luận, làm cho lời văn có giọng điệu, hình ảnh, đoạn văn giàu sức
thuyết phục.
- Đáp ứng được 2 yêu cầu trở lên 0,5 điểm.

138
- Đáp ứng được 1 yêu cầu 0,25 điểm.
2 Phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao trong đoạn trích. 5,0
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận 0,25
Mở bài nêu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết bài
khái quát được vấn đề
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị 0,5
Vai trò của sự trải nghiệm trong cuộc sống.
Hướng dẫn chấm:
-Học sinh xác định đúng vấn đề cần nghị luận: 0,5 điểm.
- Học sinh xác định chưa đầy đủ vấn đề nghị luận: 0,25 điểm.
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm
Học sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận dụng
tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng;
đảm bảo các yêu cầu sau:
* Giới thiệu tác giả (0,25 điểm), tác phẩm, đoạn trích và nhân 0,5
vật (0,25 điểm)
* Phân tích 2,5
- Hoàn cảnh:
+ Tử tù Huấn Cao có tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp. Quản ngục
biệt đãi Huấn Cao để bày tỏ sự ngưỡng mộ, trân trọng.
+ Huấn Cao đáp lại bằng thái độ khinh bạc. Đêm trước khi bị giải
về kinh chịu án chém, Huấn Cao hiểu ra tấm lòng biệt nhỡn liên
tài của viên quản ngục và đồng ý cho chữ ngay trong buồng giam
chật hẹp, ẩm ướt...
- Tư thế, hành động, ngôn ngữ:
+ Tư thế, hành động: người tử tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng,
đangdậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinhtoát lên phong thái ung
dung, uy nghi, đĩnh đạccủa người nghệ sĩ tài hoa, có khí phách
hiên ngang.
+ Ngôn ngữ: khuyên viên quản ngụcthay chốn ở,thoát khỏi nghề
cai ngục, giữ thiên lương cho lành vững; lời khuyênbộc lộ thiên
lương trong sáng, nhân cách cao đẹp của nhân vật.
- Nghệ thuật khắc họa nhân vật: đặt nhân vật vào tình huống độc
đáo; sử dụng ngôn ngữ giàu tính tạo hình, bút pháp lãng mạn để
tô đậm vẻ đẹp của nhân vật.
Hướng dẫn chấm:
- Phân tích đầy đủ, sâu sắc: 2,0 điểm - 2,5 điểm

139
-Phân tích chưa đầy đủ hoặc chưa sâu : 1,0 điểm - 1,75 điểm.
-Phân tích chung chung, sơ sài: 0,25 điểm - 0,75 điểm.
* Đánh giá: 0,5
- Nhân vật Huấn Cao được khắc họa với vẻ đẹp lí tưởng, hiện ra
trong hình ảnh của người sáng tạo và ban phát cái đẹp.
- Nhân vật Huấn Cao thể hiện quan niệm thẩm mĩ tiến bộ, lòng
yêu nước thầm kín và ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân.
Hướng dẫn chấm:
-Trình bày được 2 ý: 0,5 điểm.
-Trình bày được 1 ý: 0,25 điểm.
d. Chính tả, ngữ pháp 0,25
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt
Lưu ý: Không cho điểm nếu bài làm mắc quá nhiều lỗi chính
tả, ngữ pháp.
e. Sáng tạo 0,5
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt
mới mẻ.
Hướng dẫn chấm: Học sinh biết vận dụng lí luận văn học trong
quá trình phân tích, đánh giá; biết so sánh với các tác phẩm khác
để làm nổi bật nét đặc sắc của truyện ngắn Nguyễn Tuân; biết
liên hệ vấn đề nghị luận với thực tiễn đời sống; văn viết giàu hình
ảnh, cảm xúc.
- Đáp ứng được 2 yêu cầu trở lên: 0,5 điểm.
- Đáp ứng được 1 yêu cầu: 0,25 điểm.
Tổng điểm 10,0
..........................Hết............................

140
ĐỀ SỐ 5

MA TRẬN ĐỀ KIỂM TRA HỌC KỲ I – MÔN NGỮ VĂN 11

Mức độ Nhận biết Thông Vận dụng cấp Vận dụng cấp Cộng
hiểu độ thấp độ cao
Chủ đề
Chủ đề 1: Đọc
hiểu văn bản.
Từ nội dung
Nhận biêt
Hiểu được văn bản trình
được nội
ý nghĩa nội bày suy nghĩ về
dung của
dung. tình thương của
văn bản.
con người.

Số câu: (phần (10% = 1.0 (15% = 1.5 (5% = 0.5 30%= 3.0
I:4) điểm) điểm) điểm) điểm
Tỉ lệ: 30%
Làm văn:Viết Xác định Biết cách Biết giải thích, Liên hệ, rút ra
bài văn nghị đúng kiểu làm dạng phân tích, bàn bài học trong
luận. bài, đảm bài NLXH bạc, mở rộng thực tiễn
bảo bố cục. vấn đề nghị
a. NLXH,về luận
TTĐL
Số câu: 1 (10% = 1.0 (10% = 1.0 (5% = 0.5 (5% = 0.5 điểm) 30% =
điểm) điểm) điểm) 3.0 điểm
Tỉ lệ: 30%
b. NLVH - Xác định - Nắm - Cảm nhận - Thể hiện nắng
đúng yêu được được những nét lực cảm thụ, lí
Nghị luận văn cầu của đề, những yêu cơ bản về nội giải các vấn đề
học - một phần cầu của bài dung và nghệ trong trích đoạn
trong đoạn trích đảm bảo bố nghị luận thuật đoạn trích. văn học, đưa ra
(Hạnh phúc một cục. văn học, những ý kiến
tang gia – Số hiểu khái - Kết hợp một đánh giá của bản
đỏ: VTP) quát nội cách tổng hợp thân
dung đoạn những kiến thức
trích. về Tiếng
Việt( các biện
pháp tu từ, từ
loại…),
Số câu: 1 (10% = 1.0 15% 10% (5% = 0.5 điểm) 40% (4.0
141
Tỉ lệ: 40% điểm) điểm)
( 1.5 điểm) (1.0 điểm)
Tổng cộng 30% 40% 20% 10% 100% =
(4.0 điểm) (2.0điểm) 10 điểm
(3.0điểm) (1.0 điểm)

142
TRƯỜNG THPT ……. ĐỀ THI HỌC KÌ I NĂM HỌC 2022 – 2023
MÔN NGỮ VĂN ; KHỐI 11
(Đề kiểm tra có 01 trang) (Thời gian làm bài 90 phút, không kể thời gian giao đề)

Họ và tên thí sinh: ………………………………………………..Lớp….


Số báo danh: ………………………………………………………………

I. Phần một (3.0điểm)


Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi nêu ở dưới
“Thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt. Bởi vì
lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho. Xưa nay, nào hắn có thấy ai tự
nhiên cho hắn cái gì. Hắn vẫn phải doạ nạt hay là giật cướp. Hắn phải làm cho người ta sợ.
Hắn nhìn bát cháo bốc khói mà bâng khuâng. Thị Nở thì chỉ nhìn trộm hắn rồi lại toe toét
cười. Trông thị thế mà có duyên. Tình yêu làm cho có duyên. Hắn thấy vừa vui, vừa buồn. Và
một cái gì nữa giống như là ăn năn. Cũng có thể như thế lắm. Người ta hay hối hận về tội ác
khi không đủ sức mà ác nữa. Thị Nở giục hắn ăn nóng. Hắn cần lấy bát cháo đưa lên mồm.
Trời ơi, cháo mới thơm làm sao! Chỉ khói xông vào mũi cũng đủ làm người nhẹ nhõm. Hắn
húp một húp và nhận ra rằng: những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng
cháo hành ăn rất ngon.
Nhưng tại sao mãi đến tận bây giờ hắn mới nếm mùi vị cháo?”
1. Đoạn văn trên được trích từ tác phẩm nào? Của tác giả nào? (0.5điểm)
2. Truyện ngắn này được sáng tác năm nào? Viết về đề tài gì? Em hãy lấy thêm ít nhất một
tác phẩm khác cũng viết về đề tài này?(0.5điểm)
3. Anh (chị ) hãy cho biết truyện ngắn này có những nhan đề nào? Ý nghĩa của những  nhan
đề đó?(1.0điểm)
4. Nêu ý nghĩa của bát cháo hành đối với nhân vật “ hắn” trong đoạn trích?(1.0điểm)
II. Phần hai: (7.0điểm)
Câu I. (3.0 điểm) Hãy viết một bài văn ngắn thể hiện suy nghĩ của mình về “tính ích kỉ và
lòng vị tha” của thanh niên học sinh hiện nay?

Câu II. (4.0 điểm) Cảm nhận của em về cảnh đưa tang trong đoạn trích Hạnh phúc của
một tang gia

(Số Đỏ -Vũ Trọng Phụng)


Lưu ý: Thí sinh không được sử dụng tài liệu. Giám thị không giải thích gì thêm.
143
ĐÁP ÁN ĐỀ THI

Đáp án Điểm
Câu I 1. Đoạn văn trên được trích từ tác phẩm nào? Của tác giả nào?(0.5điểm) 3.00
(3.0điểm 2. Truyện ngắn này được sáng tác năm nào? Viết về đề tài gì? Em hãy lấy
) thêm ít nhất một tác phẩm khác cũng viết về đề tài này?(0.5điểm)
3. Anh (chị ) hãy cho biết truyện ngắn này có những nhan đề nào? Ý nghĩa
của những nhan đề đó?(1.0điểm)
4. Nêu ý nghĩa của bát cháo hành đối với nhân vật “ hắn” trong đoạn trích?
(1.0đ)

- Tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao 0.50
- Chí Phèo được Nam Cao viết năm 1941. 0.50

1 - Đề tài: Người nông dân nghèo trước Cách mạng.

2 - Tác phẩm cùng đề tài: Tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố…
- Ban đầu truyện có tên là Cái lò gạch cũ-> Cái lò gạch cũ trở thành biểu 1.00
tượng về sự xuất hiện tất yếu của hiện tượng Chí Phèo.
3 - Năm 1941: nhà xuất bản Đời mới đổi lại thành Đôi lứa xứng đôi-> nhấn
mạnh mối tình thị Nở – Chí Phèo, chạy theo thị hiếu công chúng lúc bầy
giờ.
- Năm 1946: Tác giả tự sửa lại là Chí Phèo, in trong tập Luống càykhái
quát được tư tưởng nghệ thuật của nhà văn.
4 - Là liều thuốc giải độc giúp Chí thoát khỏi trận ốm, khơi dậy bản chất 1.00
người trong Chí.
- Hiện thân của tình yêu thương, tình người chân thành, giản dị. Hương vị
của bát cháo hành là hương vị của tình yêu, tình đời, tình người.
Câu II a. Yêu cầu về kĩ năng:
(3.0điểm Biết cách làm bài văn nghị luận xã hội. Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát;
) không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
b. Yêu cầu về kiến thức:
Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách, nhưng lí lẽ và dẫn chứng phải
hợp lí; Cần làm rõ các ý chính sau:
144
* Thế nào là tính ích kỉ? 0.75
- Ích kỉ là chỉ biết vì lợi ích cho riêng mình. Còn ích kỉ hại nhân là chỉ biết
vì lợi ích riêng mình mà làm hại người khác.
* Biểu hiện của tính ích kỉ 1.00
- Kẻ có tính ích kỉ thường so đo, tính toán để trong bất cứ việc gì cũng có 0.50
lợi cho mình. Phương châm sống của họ là: Ăn cỗ đi trước, lội nước đi
sau. 0.50
- Tính ích kỉ thể hiện dưới nhiểu hình thức và ở nhiều mức độ khác nhau
như: lười biếng, tham ăn, dối trá, gian xảo, tham nhũng…Trong học tập,
tính ích kỉ bộc lộ qua thái độ thiếu quan tâm tới bạn bè, tới công việc của
lớp, của trường. (Dẫn chứng).
* Tác hại của tính ích kỉ: 0.75
- Gây ra sự chia rẽ mất đoàn kết, làm suy giảm sức mạnh của tập thể, của 0.50
cộng đồng. (Dẫn chứng)
- Những người có chức có quyền mà ích kỉ thì chỉ làm hại dân, hại nước. 0.25
(Dẫn chứng).
* Khái quát nâng cao vấn đề. 0.50
- Tính ích kỉ là thói xấu cần phê phán mà học sinh không nên mắc phải. 0.25
- Lòng vị tha là đức tính quí báu cần có của mỗi con người. Nó không đòi 0.25
hỏi gì nhiều ngoài một trái tim nhân hậu biết chia sẻ vui buồn, biết yêu
thương đồng bào, đồng loại.
Nếu ai cũng có lòng vị tha và sống đúng theo phương châm mà Bác Hồ đã
dạy.: Mình vì mọi người, mọi người vì mình xã hội sẽ ngày càng tốt đẹp
hơn.
Câu II. Cảm nhận của em về cảnh đưa tang trong đoạn trích Hạnh phúc của một 4.00
(4.0 điểm). tang gia (Số Đỏ -Vũ Trọng Phụng)

a. Về kĩ năng:
Biết cách làm bài nghị luận văn học. Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát;
không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu.
b. Về kiến thức:

145
Thí sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng phải hợp lí.
Cần nêu được các ý chính sau:
1
- Giới thiệu vài nét về tác giả, hoàn cảnh sáng tác, nội dung tác phẩm. 0.50
2
- Bên ngoài trạng trọng , “gương mẫu” nhưng thật chất chẵng khác gì đám 1.25
rước nhố nhăng:
+ Đám ma to tát, đi đến đâu làm huyên náo đến đấy.Đám ma nhưng chẳng 0.25
khác nào đám rước .
0.25
+ Có sự phối hợp cà Ta-Tàu-Tây : “Kèn Ta, kèn Tây, kèn Tàu lần lượt thi
nhau mà rộn lên”
0.25
+ Mọi người thi nhau chụp ảnh như hội chợ
0.25
+ Ai cũng tỏ ra bộ mặt nghiêm chỉnh nhưng kì thực họ đang thì thầm với
nhau về chuyện gia đình, riêng tư.
0.25
3 + Là dịp để chim nhau, cười tình với nhau , bình phẩm nhau, chê bai
4 nhau , ghen tuông , hẹn hò nhau ,bằng vẻ mặt buồn rầu của những người
đi đưa ma “con bé nhà ai kháu thế …chồng gầy thế thì mọc sừng mất !
vân vân….”
- Cậu Tú Tân yêu cầu mọi người tạo dáng để chụp ảnh , con cháu tự 1.00
nguyện trở thành những diễn viên đại tài
5
+ Cụ Cố Hồng ho khạc , khóc mếu và ngất đi 0.50
+ Đặc biệt “màn kịch siêu hạng” của Phán mọc sừng cứ oặt người khóc 0.50
ngất với những âm thanh lạ Hứt !..Hứt !...Hứt !...
- Nghệ thuật : 0.75
+ Tạo tình huống bất ngờ thú vị 0.25
+ Phát hiện những chi tiết đối lập gay gắt cùng tồn tại trong một con 0.25
người, sự vật, sự việc
+ Miêu tả biến hóa , linh hoạt 0.25

- Khẳng định lại vấn đề: giá trị nội dung và nghệ thuật 0.50
Lưu ý: HS có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cơ bản vẫn dựa trên
những ý chính đã nêu ở trên. Đối với những bài đưa ra quan điểm khác so với đáp án
vẫn có thể đạt điểm tối đa nhưng bài viết cần mạch lạc, không mắc lỗi về câu từ, đặc
biệt là lí lẽ lập luận và dẫn chứng phải thuyết phục.
146
ĐỀ SỐ 6
MA TRẬN ĐỀ THI
NỘI DUNG Nhận Vận dụng
Thông hiểu Vận dụng Cộng
biết cao

Ngữ liệu: - Nhận - Hiểu được - Trình bày


biết các nội dung quan điểm
Văn bản văn phương của một số của mình về
học thức câu văn một số câu
- Tiêu chí lựa biểu đạt trong văn thơ trong
chọn ngữ trong bản. văn bản.
liệu: một văn văn
Đọc bản.
bản hoàn
hiểu chỉnh

Số câu 1 2 1 0 4
Tổng Số điểm 0,5 1.5 1.0 0 3,0
Tỉ lệ 5% 15% 10% 0 30%
Làm Câu 1:Nghị Viết đoạn
văn luận Xã hội văn.
-Trình bày
suy nghĩ về
vấn đề xã hội
đặt ra trong
văn bản đọc
hiểu ở phần
I
Câu 2: Nghị Viết bài
luận về một văn.
tác phẩm
văn học đã
học ở học kì
I
Số câu 1 1 2
Tổng Số điểm 2 5 7,0
Tỉ lệ 20% 50% 70%

147
Tổng Số câu 1 2 2 1 6
cộng
Số điểm 0,5 1,5 3 5 10,0
Tỉ lệ 5% 15% 30% 50% 100%

TRƯỜNG THPT ……. ĐỀ THI HỌC KÌ I NĂM HỌC 2022 – 2023


MÔN NGỮ VĂN ; KHỐI 11
(Đề kiểm tra có 01 trang) (Thời gian làm bài 90 phút, không kể thời gian giao đề)

Họ và tên thí sinh: ………………………………………………..Lớp….


Số báo danh: ………………………………………………………………

I. ĐỌC HIỂU ( 3.0 điểm)


Đọc bài thơ sau và trả lời các câu hỏi nêu ở dưới.

QUÁN HÀNG PHÙ THỦY


Một phù thủy
Mở quán hàng nho nhỏ
“Mời vào đây
Ai muốn mua gì cũng có!”

Tôi là khách đầu tiên


Từ bên trong
Phù thủy ló ra nhìn:
“Anh muốn gì?”

“Tôi muốn mua tình yêu,


Mua hạnh phúc, sự bình yên, tình bạn…”
“ Hàng chúng tôi chỉ bán cây non
Còn quả chín, anh phải trồng. Không bán!”
( K. BadjadjoPradip – Thái Bá Tân dịch)
Câu 1. Bài thơ trên có sự kết hợp những phương thức biểu đạt nào? (0,5 điểm)
Câu 2. Câu nói: “Mời vào đây - Ai muốn mua gì cũng có!” cho thấy điều gì ở phù thủy?
(0,75 điểm)
Câu 3. Mong muốn của vị khách “Tôi muốn mua tình yêu, - Mua hạnh phúc, sự bình yên,
tình bạn...” cho thấy vị khách là người như thế nào? (0,75 điểm)
Câu 4. Em có đồng tình với quan điểm của phù thủy ở hai câu thơ cuối bài thơ không? (1,0
điểm)
148
II. PHẦN LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1: (2,0 điểm)
Từ nội dung của bài thơ Quán hàng phù thủy ở phần Đọc hiểu, em hãy viết 01đoạn văn
(khoảng 150 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về vấn đề: Làm thế nào để có hạnh phúc?
Câu 2: (5.0 điểm)
Phân tích một vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người
tử tù của Nguyễn Tuân

……………Hết………….

HƯỚNG DẪN CHẤM

Phần Câu Nội dung Điểm


ĐỌC HIỂU 3,0
1 - Biểu cảm và tự sự. 0,50
2 - Phù thủy là người có quyền năng vô hạn, có thể đáp ứng tất cả các 0,75
nhu cầu, mong muốn của “khách hàng”.
3 - Vị khách là người đang khao khát có được những điều tốt đẹp 0,75
nhất trên đời này như tình yêu, hạnh phúc, sự bình yên, tình bạn…
Song, cũng có thể hiểu vị khách – trong tình huống này – là một
người khá khôn ngoan và hóm hỉnh, đang muốn “thử” xem phù
thủy có khả năng đáp ứng tất cả các nhu cầu, mong muốn của
I
“khách hàng” hay không.
4 - Tình yêu, hạnh phúc, sự bình yên, tình bạn… như những thứ “quả 1,0
chín” mà quán hàng phù thủy lại chỉ bán “cây non”. Muốn có được
những thứ “quả chín” ấy thì “khách hàng” phải có thời gian, công
sức để “trồng” những cái “cây non” tình yêu, hạnh phúc, sự bình
yên, tình bạn, ngay cả phù thủy – người có quyền năng vô hạn cũng
không thể tạo ra những giá trị ấy.
- HS có thể bày tỏ sự đồng tình hoặc phản đối với quan điểm đó
của phù thủy. Câu trả lời cần hợp lí, có sức thuyết phục.
II LÀM VĂN
1 Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về 2,0

149
vấn đề: Làm thế nào để có hạnh phúc?
a. Đảm bảo cấu trúc một đoạn văn 0,25
Có đủ các phần mở đoạn, thân đoạn, kết đoạn. Mở đoạn nêu được
vấn đề, thân đoạn triển khai được vấn đề, kết đoạn kết luận được
vấn đề
b. Xác định vấn đề nghị luận: Làm thế nào để có hạnh phúc? 0,25
c. Triển khai hợp lí nội dung đoạn văn: vận dụng tốt các thao tác 1,0
lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. Có thể viết đoạn
văn theo định hướng sau:
- Vậy hạnh phúc là gì? Hạnh phúc là biểu thị thái độ sung sướng về
một điều gì đó trong cuộc sống làm ta thấy thỏa mãn.
- Quan niệm về hạnh phúc: Hạnh phúc đôi khi không phải tìm kiếm
đâu xa xôi, nó vẫn ở ngay trước mắt chúng ta đấy thôi.
- Hạnh phúc mang đến cuộc sống của ta những gái trị: Sống có mục
đích, lạc quan hơn và niềm vui sẽ đi cùng bạn để hình thành đạo
quân bất khả chiến bại chống lại nghịch cảnh.
- Chúng ta phải làm gì để có hạnh phúc: Hãy chia sẻ niềm vui của
mình cho người khác. Bởi thế hãy tập trân trọng những gì ta đang
có - hạnh phúc giản dị nhưng nếu mất đi sẽ mãi chẳng thể lấy lại
được.
c. Sáng tạo: Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, 0,25
mới mẻ về vấn đề nghị luận.
d. Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, 0,25
đặt câu
2 Phân tích một vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao trong 5,0
tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
a. Yêu cầu về kĩ năng:
- Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận (Có đủ phần mở bài, thân bài,
kết bài). 0,50
- Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; vận dụng tốt các
thao tác lập luận; cảm nhận sâu sắc; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và
150
dẫn chứng.
- Không mắc lỗi chính tả, ngữ pháp. Hành văn trong sáng.
b. Yêu cầu về kiến thức: Bài viết phải đảm bảo các ý sau
* Giới thiệu chung: 0,50
- Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm, vấn đề cần nghị luận.
* Phân tích một vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao 3.0
trong tác phẩm Chữ người tử tù
Nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù của nhà văn
Nguyễn Tuân được khắc họa với ba vẻ đẹp tiêu biểu:
- Tài hoa nghệ sĩ;
- Khí phách hiên ngang;
- Thiên lương trong sáng.
Học sinh có thể lựa chọn một trong ba vẻ đẹp trên để phân tích.
Ví dụ: Khí phách hiên ngang của Huấn Cao được tô đậm thông
qua khá nhiều chi tiết:
+ Huấn Cao là người đứng đầu của bọn phản nghịch chống lại triều
đình.
+ Huấn Cao là một tên tù có tiếng là nguy hiểm, có tài bẻ khóa
vượt ngục.
+ Huấn Cao là một tên tù nổi tiếng là nguy hiểm lại mang trọng tội
=> Huấn Cao là người có khí phách hiên ngang, chọc trời khuấy
nước của một người anh hùng
*Đánh giá : 0,50
- Khẳng định vẻ đẹp được lựa chọn để phân tích không tách rời các
vẻ đẹp khác trong hình tượng nghệ thuật.
- Để khắc họa thành công vẻ đẹp đó, tác giả đã dày công xây dựng
nhân vật Huấn Cao, đặt nhân vật trong tình huống truyện độc đáo,
sử dụng thành công thủ pháp đối lập, tương phản và lựa chọn thứ
ngôn ngữ góc cạnh, giàu hình ảnh, có tính tạo hình, vừa cổ kính
vừa hiện đại.
c. Sáng tạo: Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, 0,25
151
mới mẻ về vấn đề nghị luận. Hành văn trong sáng.
d. Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, 0,25
đặt câu.
Tổng điểm 10.0

ĐỀ SỐ 7

TRƯỜNG THPT ……. ĐỀ THI HỌC KÌ I NĂM HỌC 2022 – 2023


MÔN NGỮ VĂN ; KHỐI 11
(Đề kiểm tra có 01 trang) (Thời gian làm bài 120 phút, không kể thời gian giao đề)

Họ và tên thí sinh: ………………………………………………..Lớp….


Số báo danh: ………………………………………………………………
Câu 1. (2,0 điểm)
Đọc đoạn thơ sau và trả lời các câu hỏi bên dưới.
Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh
Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!

Đâu những lưng cong xuống luống cày


Mà bùn hi vọng nức hương ngây
Và đâu hết những bàn tay ấy
Vãi giống tung trời những sớm mai.

Đâu những chiều sương phủ bãi đồng


Lúa mềm xao xác ở ven sông
Vẳng lên trong tiếng xe lùa nước
Một giọng hò đưa hố não nùng.
(Trích “Nhớ đồng”, Tố Hữu)
a) Xác định phong cách ngôn ngữ chủ yếu của đoạn thơ. (0,25 điểm)
b) Đoạn thơ trên diễn tả tâm trạng gì của nhà thơ ? Những hình ảnh góp phần
diễn tả rõ nét tâm trạng ấy. (0,75 điểm)
c) Anh/chị hiểu như thế nào về hình ảnh “bàn tay vãi giống” trong đoạn thơ trên.
(0,5 điểm)
d) Nêu tên và phân tích một phép tu từ có trong đoạn thơ. (0,5 điểm)
Câu 2. (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau:
152
[…] Trên các cột đèn tín hiệu ở Bờ hồ Hoàn Kiếm, người ta đã lắp đặt thiết bị
mà khi người đi bộ bấm vào nút thì xe cộ sẽ dừng lại để mình đi qua. Thế nhưng, thiết
bị ấy hình như chỉ có người nước ngoài sử dụng, còn người mình thì cứ thế mà băng
qua đường. Phóng viên đứng quan sát một lúc lâu và tưởng chừng như đã có thể đưa
ra nhận xét cuối cùng về thử nghiệm kia, thì một nhóm 9X đã dùng nút bấm đó. Nhà
báo vui mừng nhận xét: “Tương lai, 9X sẽ có ý thức giao thông tốt…”
(Bài tập Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2007, trang 81)
Trình bày suy nghĩ của anh / chị sau khi đọc mẩu chuyện trên. (Bài viết không
quá một trang giấy thi)
Câu 3. (5,0 điểm)
Phân tích hình ảnh chuyến tàu đêm chạy qua phố huyện trong truyện ngắn “Hai
đứa trẻ” (Thạch Lam).
----------HẾT----------
Họ và tên học sinh: …………………………………… Số báo danh: ……………
Chữ kí của 1 giám thi: …………………………………………………………….

TRƯỜNG THPT HƯỚNG DẪN CHẤM KIỂM TRA HỌC KỲ I


NĂM HỌC 2022 – 2023
Hướng dẫn chấm gồm có … MÔN: Ngữ văn; lớp 11
trang
Câu 1. (2 điểm)
a) Phong cách ngôn ngữ chủ yếu của đoạn thơ: Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật. (0,25
điểm)
b) Đoạn thơ diễn tả một cách chân thực và rõ nét tâm trạng của nhà thơ: (0,25 điểm)
+ Tình cảm gắn bó máu thịt của nhà thơ đối với cuộc sống quê hương;
+ Nỗi nhớ nhung, thương nhớ quê hương tha thiết; tác giả đang trong dòng hồi ức
miên man không dứt …
- Những hình ảnh góp phần diễn tả tâm trạng của tác giả: những trưa hiu quạnh, ruộng
đồng quê, lưng cong, bùn hi vọng, những bàn tay, những chiều sương phủ bãi đồng,
lúa mềm, tiếng xe lùa nước, giọng hò, … (0,5 điểm)
c) Ý nghĩa của hình ảnh “bàn tay vãi giống”: từ nghĩa đen là bàn tay vãi giống trên
đồng ruộng (0,25 điểm) dẫn đến nghĩa bóng là bàn tay gieo sự sống mới cho đời (0,25
điểm).
d) Nêu tên và phân tích tác dụng của một biện pháp tu từ:
*Phép điệp ngữ (điệp từ / lặp từ / lặp từ ngữ / …): đâu những … đâu những … (0,25
điểm)
*Tác dụng: (0,25 điểm)
153
+ Diễn tả tình cảm gắn bó sâu nặng của tác giả đối với quê hương; những hình ảnh của
quê hương giờ chỉ còn nhìn thấy trong tưởng tượng bằng trái tim chất chứa thương
nhớ;
+ Câu hỏi đầy trăn trở cứ lặp đi lặp lại phản ánh nỗi nhớ thương, khắc khoải và hoài
vọng đau đáu khôn nguôi …
Câu 2. (3,0 điểm)
1. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận: (0,25 điểm)
Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai
được vấn đề, kết bài kết luận được vấn đề.
2. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: (0,5 điểm)
Đây là dạng đề mở nên thí sinh có thể lựa chọn các vấn đề khác nhau để bàn luận
nhưng cần gắn với văn bản đã cho.
Gợi ý một số vấn đề: Ý thức về tham gia giao thông của người Việt Nam hiện nay
(trong đó có thế hệ 9X); Một tương lai mới mở ra với thế hệ 9X biết kỉ luật, chấp hành
tốt các quy định; …
3. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; vận dụng tốt các thao tác lập
luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; rút ra bài học nhận thức và hành
động:
- Giải thích: Từ mẩu chuyện, giải thích vấn đề đã nêu ra ở mở bài. (0,25 điểm)
- Bàn luận: (1,25 điểm)
+ Thí sinh trình bày nhận định, đánh giá ý nghĩa, tác dụng của vấn đề đề bằng cách lập
luận và phân tích dẫn chứng để làm rõ vấn đề. (ví dụ: Tình trạng giao thông ở Việt
Nam hiện nay và ý thức của người tham gia giao thông; Vì sao lại có những tình trạng
như vậy; Biểu hiện; Ý thức của 9X; Thế hệ 9X ngày nay biết kỉ luật tốt; Tương lai đất
nước phụ thuộc vào các thế hệ mai sau;…)
+ Bày tỏ thái độ, suy nghĩ của bản thân.
- Bài học nhận thức và hành động: Rút ra bài học phù hợp cho bản thân. (0,25 điểm)
4. Sáng tạo: (0,25 điểm)
Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận.
5. Chính tả, dùng từ, đặt câu: (0,25 điểm)
Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu.
Câu 3. (5,0 điểm)
a. Yêu cầu về kĩ năng:
Học sinh biết cách làm bài văn nghị luận văn học, kết cấu hợp lí, phân tích được ý
nghĩa của hình tượng chuyến tàu đêm như một biểu tượng của vẻ đẹp tâm hồn và tình
cảm yêu thương vô hạn của Thạch Lam với những người nghèo; diễn đạt trôi chảy;
cách dùng từ, đặt câu mạch lạc; văn viết đúng chính tả.

154
b. Yêu cầu về kiến thức:
Trên cơ sở những hiểu biết về nhà văn Thạch Lam và truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, học
sinh có thể trình bày theo nhiều cách, nhưng cần làm rõ được các ý cơ bản sau:
- Nêu được vấn đề cần nghị luận.
- Chuyến tàu đi qua phố huyện mang đến ánh sáng, làm huyên náo trong chốc lát rồi
lại chìm vào bóng tối.
- Tâm trạng chị em Liên: hân hoan hạnh phúc khi tàu đến, bâng khuâng lúc tàu đi qua.
- Con tàu mang theo ước mơ về một thế giới khác sáng sủa hơn và đánh thức trong
Liên những hồi ức về Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực và huyên náo.
- Chuyến tàu đêm là biểu tượng về một thế giới thật đáng sống với sự giàu sang và rực
rỡ. Nó đối lập với cuộc sống mòn mỏi, nghèo nàn, tối tăm và quẩn quanh của người
dân phố huyện.
- Tác giả sử dụng bút pháp tương phản, đối lập; giọng điệu thủ thỉ thấm đượm chất
thơ, chất trữ tình sâu lắng.
- Đánh giá chung về ý nghĩa hình ảnh đã phân tích: “Hình tượng chuyến tàu đêm như
một biểu tượng của vẻ đẹp tâm hồn và tình cảm yêu thương vô hạn của Thạch Lam với
những người nghèo”
Cách cho điểm:
Điểm 5: Bài làm đáp ứng tốt những yêu cầu trên, có sáng tạo, phát hiện mới mẻ đáng
trân trọng, có thể có một số sai sót không đáng kể.
Điểm 4: Bài làm đáp ứng tương đối tốt những yêu cầu trên, mắc ít lỗi diễn đạt, chính
tả.
Điểm 3: Bài làm đáp ứng được ½ các yêu cầu trên, mắc ít lỗi diễn đạt, chính tả.
Điểm 2: Bài làm còn sơ sài, mắc nhiều lỗi chính tả và diễn đạt.
Điểm 1: Bài làm còn sơ sài, mắc rất nhiều lỗi chính tả và diễn đạt.
Điểm 0: Bài làm hoàn toàn lạc đề.

…………… HẾT ……………

155
ĐỀ SỐ 8

TRƯỜNG THPT ……. ĐỀ THI HỌC KÌ I NĂM HỌC 2022 – 2023


MÔN NGỮ VĂN ; KHỐI 11
(Đề kiểm tra có 01 trang) (Thời gian làm bài 90 phút, không kể thời gian giao đề)

Họ và tên thí sinh: ………………………………………………..Lớp….


Số báo danh: ………………………………………………………………
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
(1)“Trong bối cảnh toàn cầu hóa, học sinh, sinh viên Việt Nam luôn đề cao lòng
tự hào, tự tôn dân tộc, tự tin hội nhập với văn hóa văn minh của thế giới; luôn có ý
thức vươn tới những giá trị tốt đẹp chân, thiện, mỹ. Học sinh, sinh viên ngày càng
năng động, thực tế hơn, có tinh thần tự chủ, bộc lộ cá tính ngày càng đậm nét.
(2)Tuy nhiên, một số giá trị tốt đẹp về phẩm chất, đạo đức, ứng xử văn hóa
của một bộ phận học sinh, sinh viên bị xuống cấp, có biểu hiện suy thoái, lệch lạc. Cụ
thể là:
(3)Đối với cha mẹ, thầy cô giáo, người lớn tuổi: Một số học sinh sinh viên có
biểu hiện bất hiếu với cha mẹ, vô lễ với thầy cô giáo, thiếu trung thực, thiếu trách
nhiệm với gia đình, cộng đồng, thờ ơ, vô cảm trước nỗi đau của người khác, thấy đúng
không dám bảo vệ, thấy sai trái, tiêu cực không dám đấu tranh. Trong khuôn viên nhà
trường học sinh sinh viên tỏ ra ngoan ngoãn, lễ phép nhưng ngoài trường học, trên
mạng xã hội thì có thái độ vô lễ, xúc phạm thầy cô giáo…”
(Dẫn theo “Đề án Xây dựng văn hóa ứng xử trong trường học giai đoạn 2018 –
2025”, Báo Giáo dục & Thời đại ngày 17/12/2019)

Câu 1. Chỉ ra phép liên kết chủ yếu được sử dụng trong đoạn (1) của đoạn trích trên.
Câu 2. Theo đoạn trích, học sinh, sinh viên ngày nay có những ưu điểm nào?
Câu 3. Đặt nhan đề cho đoạn trích trên.
PHẦN II. LÀM VĂN (7.0 điểm)
Câu 1 (2.0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích phần Đọc hiểu, em hãy viết một đoạn văn (khoảng 200
chữ) bàn về giải pháp nâng cao văn hóa ứng xử trong trường học hiện nay.
Câu 2 (5.0 điểm): 
Cảm nhận về vẻ đẹp thiên lương của nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm “Chữ
Người tử tù” của Nguyễn Tuân. Từ đó hãy nêu nhận xét về quan điểm thẩm mĩ của
nhà văn qua nhân vật này.

----------------------------Hết-------------------------
156
HƯỚNG DẪN CHẤM
Câu Nội dung trả lời Điể
m
Phần 1.Phép liên kết chủ yếu: Phép lặp “học sinh, sinh viên”. 1,0
I. Đọc (Học sinh không chỉ ra được dấu hiệu trừ 0,5 điểm)
– hiểu 2.Theo đoạn trích, học sinh, sinh viên ngày nay có những ưu điểm
là: 1,0
- luôn đề cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc, tự tin hội nhập với văn hóa
văn minh của thế giới;
- luôn có ý thức vươn tới những giá trị tốt đẹp chân, thiện, mỹ.
- ngày càng năng động, thực tế hơn, có tinh thần tự chủ, bộc lộ cá
tính ngày càng đậm nét.
3.Học sinh đặt nhan đề ngắn gọn, đảm bảo khái quát được chủ đề
đoạn văn bản. 1,0
Gợi ý: Văn hóa ứng xử trong trường học/ Văn hóa ứng xử của học,
sinh sinh viên hiện nay/ Thực trạng văn hóa ứng xử trong trường
học/…
Phần 1/ Yêu cầu chung: Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kĩ năng về
II. dạng văn nghị luận xã hội để trình bày suy nghĩ.
Làm + Viết đúng một đoạn văn.
văn + Đảm bảo dung lượng quy định (khoảng 200 chữ).
+ Bài viết phải có bố cục đầy đủ, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả,
dùng từ, đặt câu.
2/ Yêu cầu cụ thể . Thí sinh trình bày ý kiến của bản thân. Sau đây
là một vài gợi ý:
- Đúng cấu trúc đoạn văn, trình bày sáng rõ (0,25)
1 - Nêu vấn đề giải pháp nâng cao văn hóa ứng xử trong trường học
hiện nay.. (0,25)
- Giải thích “văn hóa ứng xử” (0,25)
- Giải pháp nâng cao văn hóa ứng xử trong trường học (1,0) 2,0
+ Tuyên truyền phổ biến văn hóa ứng xử trong các giờ học, giờ
ngoại khóa…
+ Có hình thức xử lí kịp thời, nghiêm khắc với những hành vi thiếu
văn hóa…
+ Bản thân cần có hành động thiết thực góp phần nâng cao văn hóa
ứng xử trong trường học.
- Nêu thông điệp sống có trách nhiệm tới mọi người. (0,25)

157
A. Yêu cầu về kĩ năng
Biết viết bài nghị luận phân tích đặc điểm nhân vật. Bài viết có luận
điểm khoa học, cô đọng, có lí lẽ, dẫn chứng phù hợp, toàn diện; bố
cục rõ ràng, kết cấu hợp lí; biết dùng từ, đặt câu, hành văn mạch
lạc, lời văn giàu cảm xúc...
B. Yêu cầu về kiến thức
Trên cơ sở những kiến thức đã học, học sinh cần phát hiện, phân
tích các chi tiết nội dung, nghệ thuật đã sử dụng để làm nổi bật vấn
đề cần bàn luận: Vẻ đẹp thiên lương của nhân vật Huấn Cao. Có tư
duy khái quát và rút ra nhận xét về quan điểm thẩm mĩ của nhà văn
một cách chính xác và sắc sảo.
- Bài viết có thể làm theo nhiều cách, nhưng cần đảm bảo những nội
dung cơ bản sau:
- Giới thiệu vấn đề cảm nhận 0,25
3
- Khái quát vẻ đẹp của Huấn Cao ở ba khía cạnh: Tài hoa nghệ sĩ, 0,25
khí phách hiên ngang và thiên lương trong sáng.
Vẻ đẹp thiên lương của Huấn Cao:
- Giải thích vẻ đẹp “thiên lương” (0,25đ)
- Huấn Cao yêu cái đẹp, có tấm lòng bao dung, quý trọng người có
nhân cách tốt đẹp. (0,5đ) 3,0
- Huấn Cao coi thường danh lợi, vàng ngọc…(0,5đ)
- Thiên lương của Huấn Cao có sức mạnh cảm hóa con người (cảnh
cho chữ, lời khuyên dành cho viên quản ngục…) (1,5đ)
- Nghệ thuật khắc họa nhân vật: chi tiết tương phản, xây dựng hình
tượng nhân vật lí tưởng hóa…(0,25đ)
- Nhận xét về quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân qua nhân vật:
+ Cái đẹp lí tưởng phải hội đủ ba yếu tố : Tài hoa, khí phách, thiên 1,0
lương.
+ Cái đẹp có thể nảy nở ngay trong hoàn cảnh tăm tối nhất, và bất tử.
+ Cái đẹp có sức mạnh cảm hóa con người.
- Khẳng định thành công của Nguyên Tuân trong việc khắc họa vẻ 0,5
đẹp thiên lương của nhân vật và truyền tải những bài học ý nghĩa
cho độc giả.
Chú ý: Khuyến khích học sinh có kiến giải sáng tạo, hấp dẫn, thuyết phục. Giáo viên
chấm cho điểm lẻ đến 0,25.

158
---------------------------Hết------------------------

ĐỀ SỐ 9

TRƯỜNG THPT ……. ĐỀ THI HỌC KÌ I NĂM HỌC 2022 – 2023


MÔN NGỮ VĂN ; KHỐI 11
(Đề kiểm tra có 01 trang) (Thời gian làm bài 90 phút, không kể thời gian giao đề)

Họ và tên thí sinh: ………………………………………………..Lớp….


Số báo danh: ………………………………………………………………

Phần I: Đọc hiểu (3,0 điểm)


Đọc văn bản:
     Bạn nói những gì, làm điều gì, cảm thấy như thế nào - tất cả đều có nguồn gốc từ
trong tâm trí bạn và bắt đầu chỉ bằng một ý nghĩa.
     Suy nghĩ của chúng ta cũng giống như những hạt giống, mỗi suy nghĩ sẽ đơm hoa
kết trái để tạo ra một hương vị riêng biệt. Suy nghĩ có thể là sự sáng tạo hay phá hủy,
yêu thương hay thù hận, nâng đỡ hay vùi dập. Khi chúng ta hiểu và học cách kiểm
soát những ý nghĩa của bản thân thì chúng ta sẽ trải nghiệm được sự bình an, niềm
hạnh phúc và sự vững vàng trong tâm hồn. Suy nghĩ tích cực dạy chúng ta cách hành
động thay vì phản ứng “hướng dẫn” cuộc đời ta thay vì để cho hành vi của người
khác, những trải nghiệm quá khứ, hay hoàn cảnh hiện tại điều khiển tinh thần của ta.
     Theo tính toán, mỗi người trung bình có khoảng 30.000 - 50.000 ý nghĩ mỗi ngày.
Một tâm trí đang trong tình trạng stress sẽ tạo ra nhiều ý nghĩ hơn, có thể lên đến
80.000 ý nghĩ. Hẳn bạn đã từng rơi vào trạng thái căng thẳng thần kinh vì gặp phải
một sự kiện đột ngột xảy ra trong đời, lúc đó có đến hàng ngàn ý nghĩ chạy dồn dập
trong đầu bạn.
     Tâm trí chúng ta có một khả năng rất lớn, làm việc không ngừng nghỉ ngơi cả khi
ngủ. Như đã nói suy nghĩ chính là hạt giống cho những hành động và cả xúc. Vì vậy,
bằng cách tạo nên những suy nghĩ tích cực và lành mạnh, chúng ta đã kích hoạt tiềm
năng tích cực của chính mình.
(Frederic, Labarthe, Anthony Strano - Tư duy tích cực, NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí
Minh, 2014, trang 20, 21)
Thực hiện những yêu cầu sau:
Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên (0.5 điểm)
Câu 2: Theo tác giả, ý nghĩ phụ thuộc như thế nào vào trạng thái tinh thần của con
người? (0.5 điểm)

159
Câu 3: Theo anh/chị, vì sao tác giả cho rằng: “Khi chúng ta hiểu và học cách kiểm
soát những ý nghĩ của bản thân thì chúng ta sẽ trải nghiệm được sự bình an, niềm hạnh
phúc và sự vững vàng trong tâm hồn”? (1.0 điểm)
Câu 4: Anh/chị có cho rằng: “Suy nghĩ chính là hạt giống cho những hành động và
cảm xúc” không? Vì sao? (1.0 điểm)
Phần II: Làm văn (7.0 điểm)
Câu 1: (1.0 điểm)
    Anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 100 chữ) nêu những suy nghĩ của mình về
vai trò của suy nghĩ tích cực trong cuộc sống.
Câu 2: (6 điểm)
    Phân tích quá trình thức tỉnh của Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam
Cao.
..............................Hết........................
HƯỚNG DẪN LÀM BÀI

I. ĐỌC Câu 1:
HIỂU * Phương pháp: Đọc, căn cứ vào các phương thức biểu đạt đã học: tự
sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh, nghị luận, hành chính – công vụ
* Cách giải:
- Phương thức biểu đạt chính: nghị luận
Câu 2:
* Phương pháp: Đọc, tìm ý, phân tích
* Cách giải:
  Ý nghĩ phụ thuộc rất nhiều vào trạng thái tinh thần của con người:
- Khi bình thường, mỗi người có khoảng 30.000 - 50.000 ý nghĩ trong
ngày;
- Khi stress, mỗi người có đến hàng ngàn, hàng chục ngàn ý nghĩ, khiến
bản thân rơi vào trạng thái căng thẳng thần kinh.
Câu 3:
* Phương pháp: Đọc, phân tích
* Gợi ý:
- Vì: Khi hiểu và kiểm soát những ý nghĩ, chúng ta sẽ làm chủ được lời
nói, hành động, cảm xúc; không vi phạm các chuẩn mực đạo đức, pháp
luật. Từ đó, chúng ta có được sự bình an, niềm hạnh phúc và sự vững
vàng trong tâm hồn.
Câu 4:
* Phương pháp: Phân tích, bình luận

160
* Gợi ý: Học sinh có thể trả lời nhiều cách khác nhau, miễn sao phù
hợp với yêu cầu của đề và các chuẩn mực đạo đức, pháp luật. Sau đây
là các gợi ý:
- Đồng ý. Vì, suy nghĩ của con người biểu hiện cụ thể qua lời nói, hành
động và cảm xúc.
- Không đồng ý. Vì, trong đời sống con người, có lúc lời nói, việc làm,
cảm xúc bề ngoài không giống với ý nghĩ bên trong.
- Vừa đồng ý vừa không đồng ý: Thông thường, trong đời sống con
người, nghĩ sao nói vậy, song cũng có nhiều lúc, không ít người, nghĩ
một đằng làm một nẻo.
II.LÀM Câu 1:
VĂN * Phương pháp:
* Gợi ý:
+ Suy nghĩ tích cực là tư duy theo chiều hướng lạc quan, tin tưởng, thấy
được phương hướng, kết quả giải quyết mọi vấn đề trong cuộc sống.
+ Suy nghĩ tích cực có tác dụng và ý nghĩa quan trọng đối với đời sống
tinh thần, định hướng hành động đúng đắn cho mỗi người.
+ Thiếu suy nghĩ tích cực, con người dễ rơi vào trạng thái bi quan, bế
tắc.
+ Để có suy nghĩ tích cực, mỗi người cần rèn luyện thói quen tư duy,
nâng cao kiến thức, tích cực trải nghiệm, luôn giữ tinh thần lạc quan…
+ Hãy học cách suy nghĩ tích cực để tạo dựng cuộc sống tốt đẹp cho
bản thân.
Câu 2:
* Phương pháp:
- Phân tích (Phân tích đề để xác định thể loại, yêu cầu, phạm vi dẫn
chứng).
- Sử dụng các thao tác lập luận (phân tích, tổng hợp, bàn luận,…) để
tạo lập một văn bản nghị luận văn học.
* Cách giải:
Yêu cầu hình thức:
- Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kĩ năng làm nghị luận văn học để
tạo lập văn bản.
- Bài viết phải có bố cục đầy đủ, rõ ràng; văn viết có cảm xúc; diễn đạt
trôi chảy, bảo đảm tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ
pháp.

161
Yêu cầu nội dung:
 MB:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Dẫn dắt vấn đề
TB:
a) Hoàn cảnh, xuất thân của Chí Phèo trước khi bị tha hóa
 - Hoàn cảnh xuất thân: không cha, không mẹ, không nhà, không cửa,
một tấc đất cắm dúi cũng không có
- Tuy vậy, Chí vẫn giữ những phẩm chất tốt đẹp:
    + Là một con người lương thiện: đi ở hết nhà này đến nhà khác, cày
thuê cuốc mướn để kiếm sống ⇒ làm ăn chân chính
    + Từng mơ ước giản dị về cuộc sống gia đình: có một ngôi nhà nho
nhỏ, chồng cày thuê cuốc mướn… ⇒ Chí Phèo là một người lương
thiện.
    + Có lòng tự trọng: Bà ba Bá Kiến gọi lên đấm lưng, bóp chân, Chí
cảm thấy nhục ⇒ Là người có ý thức về nhân phẩm.
b) Qúa trình tha hóa
- Sau 7, 8 năm đi tù về, Chí Phèo bị tha hóa cả nhân hình lẫn nhân tính
    + Tha hóa về nhân hình
    + Tha hóa về nhân tính
=> Chí Phèo trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại
c) Qúa trình thức tỉnh của Chí Phèo:
* Sự thức tỉnh sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở
- Sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở, lần đầu tiên Chí Phèo thực sự “tỉnh”
    + Bâng Khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài
    + Tỉnh để cảm thấy miệng đắng và “lòng mơ hồ buồn”
    + Cảm thấy “sợ rượu” ⇒ dấu hiệu của sự thức tỉnh rõ ràng nhất
    + Cảm nhận những thanh âm của cuộc sống: âm thanh của tiếng
chim hót, tiếng người cười nói…
    + Hắn đủ tình để nhận thức hoàn cảnh của mình, để thấy mình cô độc
⇒ Cuộc gặp với Thị đã làm Chí Phèo thực sự tỉnh táo sau những cơn
say triền miên
- Niềm hi vọng của thời trẻ quay trở lại: mong muốn một gia đình nho
nhỏ, chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải; nuôi lợn, khá giả thì mua
dăm ba sào ruộng
- Tình yêu với Thị Nở khiến hắn đủ hi vọng và mong ước có một gia
đình: “Hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui”
162
⇒ Gặp Thị Nở, Chí Phèo đã trải qua những cảm xúc chưa hề có trong
đời, đã thực sự “tỉnh” để yêu, để hi vọng, để mong ước
* Từ bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người đến sự thức tỉnh nhận rõ
kẻ thù
- Tình yêu bị ngăn cấm bởi bà cô thị Nở, nởi vậy, khi Thị Nở từ chối,
Chí Phèo thất vọng và đau đớn: Hắn tìm đến rượu rồi “ôm mặt khóc
rưng rức”
⇒ Mong muốn trở về làm người lương thiện không còn nữa, Chí đau
đớn, tuyệt vọng
- Hắn quyết định đến nhà thị Nở “để đâm chết cả nhà nó, đâm chết cái
con khọm già nhà nó”.
- Nhưng “hắn không rẽ vào nhà thị Nở mà thẳng đường đến nhà Bá
Kiến và nói thẳng với Bá Kiến: Chí Phèo xác định đúng kẻ thù của
mình
- Câu hỏi: “Ai cho tao lương thiện”: thể hiện sự thức tỉnh rõ ràng nhất
nhưng cũng là đau đớn nhất, Chí Phèo nhận ra rằng mình mong muốn
trở về thành người lương thiện nhưng không thể nào được nữa
⇒ Hành động tự kết liễu thể hiện sự thức tỉnh rõ ràng nhất và cũng đau
đớn nhất
* Nghệ thuật xây dựng nhân vật Chí Phèo:
- Xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình
- Nghệ thuật phân tích diễn biến tâm lý nhân vật.
KB: Nêu cảm nhận chung.

ĐỀ SỐ 9
TRƯỜNG THPT KIM SƠN ĐỀ THI CUỐI KỲ 1 NĂM HỌC 2022-2023
B MÔN NGỮ VĂN - KHỐI 11
Thời gian làm bài 90 phút, không kể thời gian phát đề
(Đề kiểm tra có 01 trang)

Họ và tên thí sinh:………………………………………..Lớp:….


Số báo danh: ……………………………………………..
I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)

Đọc văn bản sau:

163
Xuân từ trong ấy mới ban ra,
Xuân chẳng riêng ai, khắp mọi nhà.
Đì đẹt ngoài sân tràng pháo chuột,
Om thòm trên vách bức tranh gà.
Chí cha chí chát khua giày dép,
Đen thủi đen thui cũng lượt là.
Dám hỏi những ai lòng cố quốc,
Rằng: xuân, xuân mãi thế ru mà?

(Xuân nhật ngẫy hứng – Trần Tế Xương)


Trả lời các câu hỏi:
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản?
Câu 2. Chỉ ra hai hình ảnh đặc trưng của tết cổ truyền ở Việt Nam xưa được nhắc đến
trong bài thơ.
Câu 3. Nêu tác dụng của 01 biện pháp tu từ được sử dụng trong hai câu thơ đầu.
Câu 4. Nhận xét về thái độ, cảm xúc của tác giả thể hiện trong bài thơ.
II. LÀM VĂN (7.0 điểm)
Câu 1 (2.0 điểm)

Hãy viết một đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý
nghĩa ngày Tết cổ truyền của dân tộc ta.

Câu 2 (5.0 điểm)

Phân tích diễn biến tâm trạng của hai chị em Liên trong đoạn trích sau:

[…] Hai chị em chờ không lâu. Tiếng còi đã rít lên, và tàu rầm rộ đi tới. Liên dắt
em đứng dậy để nhìn đoàn xe vụt qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống
đường. Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những
người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng. Rồi chiếc tàu đi vào đêm tối, để lại
những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt. Hai chị em còn nhìn theo cái chấm nhỏ
của chiếc đèn xanh trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre.
- Tàu hôm nay không đông nhỉ, chị nhỉ.
Liên cầm tay em không đáp. Chuyến tàu đêm nay không đông như mọi khi, thưa
vắng người và hình khư kém sáng hơn. Nhưng họ ở Hà Nội về! Liên lặng theo mơ
tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một
chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng
ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. Đêm tối vẫn bao bọc chung quanh, đêm
của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh mang và yên lặng.
- Thôi đi ngủ đi chị.
164
Liên vỗ vai em, ngồi xuống chỏng. An cũng ngồi xuống và ngả đầu vào vai Liên.
Tiếng vang động của xe hỏa đã nhỏ rồi, và mất dần trong bóng tối, lắng tai cũng
không nghe thấy nữa. Sao trên trời vẫn lấp lánh. Cả phố huyện bây giờ mới thật là hết
náo động, chỉ còn đêm khuya, tiếng trống cầm canh và tiếng chó cắn. Từ phía ga,
bóng đèn lồng với bóng người đi về; chị Tí đương sửa soạn đồ đạc và bác Siêu đã
gánh hàng đi vào trong làng, còn vợ chồng bác xẩm ngủ gục trên manh chiếu tự bao
giờ.
(Trích Hai đứa trẻ - Thạch Lam, Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam,
2019, tr. 100 -101)
---------------------Hết--------------------

TRƯỜNG THPT HƯỚNG DẪN CHẤM ĐỀ THI CUỐI KỲ 1 NĂM


HỌC 2022-2023
(Hướng dẫn chấm có… MÔN NGỮ VĂN - KHỐI 11
trang) Thời gian làm bài 90 phút, không kể thời gian phát đề

Phần Câu Nội dung Điểm


I ĐỌC HIỂU 3,0
1 Phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn trích: biểu cảm. 0,75
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh nêu đúng phương thức biểu đạt: 0,75 điểm.
- Học sinh nêu thừa phương thức biểu đạt: 0,5 điểm.
2 Hai hình ảnh đặc trưng của tết cổ truyền ở Việt Nam xưa được 0,75
nhắc đến trong bài thơ: tràng pháo chuột, bức tranh gà.
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh nêu đúng 2 hình ảnh: 0,75 điểm.
- Học sinh nêu đúng 1 hình ảnh: 0,5 điểm.
3 Tác dụng của 01 biện pháp tu từ được sử dụng trong hai câu 1,0
thơ đầu:
- Biện pháp tu từ điệp từ: “xuân” (0,5đ)
- Tác dụng: (0,5đ)
+ Nhằm nhấn mạnh, gây ấn tượng về sự mới bắt đầu của mùa
xuân, không khí lan tỏa rông khắp mọi nơi.
+ Tạo tính nhạc, nhịp điệu rộn ràng cho bài thơ.
Hướng dẫn chấm:

165
- Ý 1, học sinh chỉ gọi tên biện pháp tu từ, không nêu được từ
điệp lại: 0,25 điểm.
- Ý 2: Học sinh trình bày được 1 ý: 0,25 điểm.
4 Nhận xét về thái độ, cảm xúc của tác giả thê rhiện trong bài 0,5
thơ:
- Tác giả mỉa mai, chế giễu những kẻ vui tết mà quên nỗi nhục
mất nước.
- Tác giả còn bộc lộ nỗi niềm băn khoăn, trăn trở trước mùa
xuân lô lệ, nỗi nhục mất nước.
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh nêu được 2 ý: 0,5 điểm.
- Học sinh nêu được 1 ý: 0,25 điểm.
Lưu ý: Học sinh trả lời các ý trong Đáp án bằng các từ
ngữ/cách diễn đạt tương đương vẫn cho điểm tối đa.
II LÀM VĂN 7,0
1 Viết một đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày suy nghĩ của 2,0
bản thân về ý nghĩa ngày Tết cổ truyền của dân tộc ta.
a. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn 0,25
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy
nạp, tổng - phân - hợp, móc xích hoặc song hành
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận 0,25
Ý nghĩa ngày Tết cổ truyền của dân tộc ta.
c. Triển khai vấn đề nghị luận 1,0
Học sinh có thể lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển
khai vấn đề nghị luận theo nhiều cách nhưng phải làm rõ sự
cần thiết phải có tính tự chủ trong cuộc sống. Có thể theo
hướng sau:
- Tết cổ truyền là nét đẹp trong bản sắc văn hóa của người
Việt.
- Ngày tết của sự đoàn tụ gia đình, là dịp thể hiện lòng biết ơn,
sự quan tâm sẻ chia với người thân, bạn bè, hàng xóm…
- Tết cũng là dịp đúc kết mọi hoạt động liên quan đến một năm
qua, chào đón một năm mới với hy vọng tốt lành cho cá nhân
và cho cả cộng đồng.
Hướng dẫn chấm:
+ Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: lí lẽ xác đáng; dẫn chứng
tiêu biểu, phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn giữ lí lẽ và dẫn

166
chứng (1,0 điểm).
+ Lập luận chưa thật chặt chẽ, thuyết phục: lí lẽ xác đáng
nhưng không có dẫn chứng hoặc dẫn chứng không tiêu biểu
(0,75 điểm).
+ Lập luận không chặt chẽ, thiếu thuyết phục: lí lẽ không xác
đáng, không liên quan mật thiết đến vấn đề nghị luận, không
có dẫn chứng hoặc dẫn chứng không phù hợp (0,25 điểm).
Lưu ý: Học sinh có thể bày tỏ suy nghĩ, quan điểm riêng
nhưng phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật.
d. Chính tả, ngữ pháp 0,25
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt
Hướng dẫn chấm: Không cho điểm nếu bài làm có quá nhiều
lỗi chính tả, ngữ pháp.
e. Sáng tạo 0,25
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn
đạt mới mẻ.
Hướng dẫn chấm: Học sinh huy động được kiến thức và trải
nghiệm của bản thân để bàn luận về hiện tượng đời sống;có
cách nhìn riêng, mới mẻ về vấn đề nghị luận; có sáng tạo
trong diễn đạt, lập luận, làm cho lời văn có giọng điệu, hình
ảnh, đoạn văn giàu sức thuyết phục.
2 Phân tích diễn biến tâm trạng của hai chị em Liên trong đoạn 5,0
trích.
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận 0,25
Mở bài nêu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết
bài khái quát được vấn đề
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: 0,5
Diễn biến tâm trạng của hai chị em Liên trong đoạn trích.
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh xác định đúng vấn đề cần nghị luận: 0,5 điểm.
- Học sinh xác định chưa đầy đủ vấn đề nghị luận: 0,25 điểm.
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm
Học sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận
dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và
dẫn chứng; đảm bảo các yêu cầu sau:
* Giới thiệu tác giả (0,25 điểm), tác phẩm, đoạn trích và nhân 0,5
vật (0,25 điểm)

167
* Phân tích 2,5
- Khái quát vài nét về hoàn cảnh sống và vẻ đẹp tâm hồn nhân
vật dẫn tới cảnh chờ tàu.
- Khi tàu đến: Hai chị em vui sướng, đứng dậy để được chiêm
ngưỡng đoàn tàu vụt qua “các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh
cả xuống đường”, “ những toa hạng trên sang trọng lố nhố
những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”.
- Khi tàu đi qua:
+ Hai chị em đứng im lặng, ngẩn ngơ, tiếc nuối: “nhìn theo cái
chấm nhỏ của chiếc đèn xanh trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi
khuất sau rặng tre”.
+ Liên lặng theo mơ tưởng về Hà Nội: “xa xăm, sáng rực, vui
vẻ và huyên náo”.
+ Đối với Liên, con tàu thật mới lạ, hấp dẫn, đem đến một thế
giới khác đi qua: “khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí
và ánh lửa của bác Siêu”.
+ Liên cảm nhận nỗi buồn, sự tĩnh lặng lại bao trùm cả phố
huyện nghèo. Cuộc sống quẩn quanh, bế tắc.
- Nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm trạng của nhân vật:
Nghệ thuật miêu tả tinh tế những biến đổi tâm trạng nhân vật;
ngôn ngữ, hình ảnh trong sáng, giàu sức tạo hình, biểu cảm;
giọng điệu thủ thỉ, thấm đượm chất thơ, chất trữ tình sâu lắng;
Đoạn trích tiêu biểu cho phong cách văn chương Thạch Lam…
Hướng dẫn chấm:
- Phân tích đầy đủ, sâu sắc: 2,0 điểm - 2,5 điểm
- Phân tích chưa đầy đủ hoặc chưa sâu : 1,0 điểm - 1,75 điểm.
- Phân tích chung chung, sơ sài: 0,25 điểm - 0,75 điểm.
* Đánh giá: 0,5
- Liên và An là những đứa trẻ có tâm hồn tinh tế, nhạy cảm,
giàu cảm xúc, luôn trân trọng niềm vui trong cuộc sống và
luôn khao khát, ước mơ về tương lai tươi sáng…
- Tác giả bày tỏ tình cảm xót thương những kiếp người sống
cơ cực, quẩn quanh, tăm tối ở phố huyện nghèo trước Cách
mạng; trân trọng ước mơ đổi đời tuy còn mơ hồ của con người
nơi đây.
Hướng dẫn chấm:
-Trình bày được 2 ý: 0,5 điểm.

168
-Trình bày được 1 ý: 0,25 điểm.
d. Chính tả, ngữ pháp 0,5
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt
Lưu ý: Không cho điểm nếu bài làm mắc quá nhiều lỗi chính tả,
ngữ pháp.
e. Sáng tạo 0,25
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn
đạt mới mẻ.
Hướng dẫn chấm: Học sinh biết vận dụng lí luận văn học
trong quá trình phân tích, đánh giá; biết so sánh với các tác
phẩm khác để làm nổi bật nét đặc sắc của truyện ngắn Thạch
Lam; biết liên hệ vấn đề nghị luận với thực tiễn đời sống; văn
viết giàu hình ảnh, cảm xúc.
- Đáp ứng được 2 yêu cầu trở lên: 0,5 điểm.
- Đáp ứng được 1 yêu cầu: 0,25 điểm.
Tổng điểm 10,0
..........................Hết............................

ĐỀ SỐ 10

TRƯỜNG THPT ĐỀ THI GIỮA KÌ I


(Đề kiểm tra có 01 trang) NĂM HỌC: 2022-2023
MÔN NGỮ VĂN 11
Thời gian làm bài 90 phút, không kể thời gian phát đề

Họ và tên thí sinh:………………………………………..


Số báo danh: ……………………………………………..

I. PHẦN ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)


Đọc đoạn văn bản sau:
Gần nhà mình có một xe bánh mì, dù bán không ngon mấy, nhưng cô bán bánh
mì rất thân thiện, chiều khách, nói chuyện rất đáng yêu và luôn nở nụ cười, chẳng bao
giờ bực dọc khi đông khách quá bán không xuể. Xe bánh mì ăn nên làm ra cũng là nhờ
nụ cười của cô ấy. Mình thích thế, nên mình nghĩ nhiều người cũng như mình”.

169
Nụ cười có thể hóa giải mọi thù hận. Khi ai đó ghét bạn, ghét cay đắng, thì chỉ
cần đi lướt qua họ, cười mỉm tỏ sự thân thiện, hoặc cười tươi như hoa hỏi thăm họ
xem, họ cảm thấy nhẹ nhõm và không còn ác cảm với bạn nữa.
(…)
Nụ cười cũng là “chiến lược” của các nhà kinh doanh. Bạn biết các quán
fastfood chứ? Nhân viên ở đó cực kì dễ chịu và hay cười, chính vì vậy mà quán luôn
đông khách. Các nhân viên siêu thị cũng được khuyến khích nên cười với khách hàng
để việc kinh doanh trở nên thuận lợi…
Mỗi chúng ta, khi được sinh ra, đều được ban tặng “khả năng để cười”. Vậy tại sao
bạn lại tiếc một nụ cười để “ban tặng” hạnh phúc cho người khác?
Trích nguồn: Như Ý (Songdep.net)
Thực hiện các yêu cầu:
1. Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn văn bản.
2. Theo tác giả bài viết, nụ cười có tác dụng gì?
3. Tác dụng của việc đưa dẫn chứng về cô bán bánh mì trong lập luận của tác giả là gì?
4. Anh/chị có cho rằng nụ cười sẽ đem đến hạnh phúc cho người khác không? Tại sao?
II. PHẦN LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1( 2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 150
chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về giá trị của nụ cười.
Câu 2 (5,0 điểm)
Cảm nhận vẻ đẹp bức tranh mùa thu trong bài thơ sau:

CÂU CÁ MÙA THU


Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, buông cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
(Nguyễn Khuyến – Ngữ văn 11, Tập 1)

--------------------Hết----------------------

TRƯỜNG THPT HƯỚNG DẪN CHẤM ĐỀ THI GIỮA KÌ I

170
(Hướng dẫn chấm có ..trang) NĂM HỌC: 2022-2023
MÔN NGỮ VĂN 11
(Thời gian làm bài: 90 phút)
Phần Câu Nội dung Điểm
I ĐỌC HIỂU 3,0
1 Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận 0,5
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh trả lời như đáp án: 0,5 điểm.
- Học sinh không trả lời: 0 điểm
2 Theo tác giả bài viết: 0,5
- Nụ cười có thể hóa giải mọi thù hận.
- Nụ cười cũng là “chiến lược” của các nhà kinh doanh
Hướng dẫn chấm:
- Trả lời như đáp án hoặc có cách diễn đạt tương đương: 0,5
điểm.
- Học sinh chỉ ra thiếu 1 ý trừ 0,25 điểm
3 3. Tác dụng của việc đưa dẫn chứng về cô bán bánh mì trong lập
luận của tác giả:
- Làm sáng tỏ luận điểm, khiến lập luận chặt chẽ, thuyết phục.
- Giúp người đọc người nghe tin vào tác dụng to lớn của nụ cười,
nó không chỉ đem lại thành công cho bản thân mà còn đem đến
1,0
hạnh phúc cho người khác.
Hướng dẫn chấm:
- Trả lời được 2 ý như đáp án hoặc có cách diễn đạt tương tự:
1,0 điểm.
- Trả lời được 1 ý đầu được 0,25 điểm.
Trả lời 1 ý sau được 0,75 điểm.
- Học sinh không trả lời: 0 điểm
4 - Học sinh nêu quan điểm: Đồng ý/ Không đồng ý/ Đồng ý một
phần (0,25 điểm)
- Học sinh lí giải phù hợp, đúng chuẩn mực đạo đức, thuyết phục 1,0
người đọc.
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh lí giải phù hợp, đúng chuẩn mực đạo đức, thuyết phục
người đọc: 0,75 điểm.
171
- Học sinh lí giải chưa rõ ràng: 0,25- 0,5 điểm.
- Học sinh không trả lời: 0 điểm.
II LÀM VĂN 7,0
1 Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một 2,0
đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về giá
trị của nụ cười
a. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn 0,25
Học sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp,
tổng - phân - hợp, móc xích hoặc song hành.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận: giá trị của nụ cười trong 0,25
cuộc sống.
c. Triển khai vấn đề nghị luận
Học sinh có thể lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai
vấn đề nghị luận theo nhiều cách nhưng phải làm rõ về giá trị của
nụ cười trong cuộc sống. Có thể theo hướng sau:
- Nụ cười là biểu hiện cảm xúc tích cực của con người, thể hiện
sự thân thiện, gần gũi, niềm vui, sự đồng cảm…
- Nụ cười có giá trị trong cuộc sống:
+ Xua đi muộn phiền trong lòng người, giải tỏa những căng
thẳng, mệt mỏi
+ Kéo con người lại gần nhau hơn, yêu quý nhau hơn…
+ Tạo không khí thân thiện, tạo thiện cảm và góp phần xây dựng
xã hội hạnh phúc. 1,0
+ Nếu thiếu nụ cười, cuộc sống sẽ căng thẳng, con người xa
cách,…
- Lấy dẫn chứng phù hợp, tiêu biểu và hấp dẫn làm rõ giá trị của
nụ cười trong cuộc sống.
Hướng dẫn chấm:
- Lập luận chặt chẽ, thuyết phục: lí lẽ xác đáng; dẫn chứng tiêu
biểu, phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn giữ lí lẽ và dẫn chứng (0,75
điểm).
- Lập luận chưa thật chặt chẽ, thuyết phục: lí lẽ xác đáng nhưng
không có dẫn chứng hoặc dẫn chứng không tiêu biểu (0,5 điểm).
- Lập luận không chặt chẽ, thiếu thuyết phục: lí lẽ không xác
đáng, không liên quan mật thiết đến vấn đề nghị luận, không có
dẫn chứng hoặc dẫn chứng không phù hợp (0,25 điểm).
172
Học sinh có thể bày tỏ suy nghĩ, quan điểm riêng nhưng phải
phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật.
d. Chính tả, ngữ pháp 0,25
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.
Hướng dẫn chấm:
- Không cho điểm nếu bài làm có quá nhiều lỗi chính tả, ngữ
pháp.
e. Sáng tạo 0,25
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt
mới mẻ.
2 Cảm nhận vẻ đẹp bức tranh mùa thu trong bài thơ Câu cá 5,0
mùa thu (Nguyễn Khuyến)
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận 0,25
Mở bài nêu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết
bài khái quát được vấn đề.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận 0,25
Cảm nhận vẻ đẹp bức tranh mùa thu trong bài thơ Câu cá mùa
thu
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh xác định đúng vấn đề cần nghị luận: 0,5 điểm.
- Học sinh xác định chưa đầy đủ vấn đề nghị luận: 0,25 điểm.
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm
Thí sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận dụng
tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn
chứng; đảm bảo các yêu cầu sau:
* Giới thiệu tác giả (0,25 điểm), tác phẩm, nêu vấn đề cần nghị 0,5
luận(0,25 điểm)

- Phân tích bức tranh mùa thu (2,0 điểm)


* Bức tranh mùa thu được khắc họa từ những điểm nhìn khác
nhau (0,5đ)
- Điểm nhìn thay đổi từ gần đến cao xa: từ “thuyền câu bé tẻo
teo” trong “ao thu” đến “tầng mây lơ lửng”
- Điểm nhìn tiếp tục từ cao xa trở lại gần: Từ “trời xanh ngắt”

173
quay trở về với thuyền câu, ao thu 3,0
⇒ Cách thay đổi điểm nhìn như vậy làm bức tranh mùa thu toàn
diện: từ một khoảng ao, cảnh sắc mùa thu mở ra sinh động theo
nhiều hướng
* Bức tranh mùa thu đẹp, đặc trưng cho “mùa thu của làng
cảnh Việt Nam”(1,75đ)
- Những nét đặc trưng nhất của mùa thu Bắc Bộ được phác họa
trong bức tranh mùa thu với đầy đủ màu sắc và đường nét:
- Màu sắc: “sóng biếc”, “lá vàng trước gió”, “hình ảnh trời xanh
ngắt”⇒ đặc trưng của mùa thu.
-  Đường nét, chuyển động: “hơi gợn tí”, “khẽ đưa vèo”, tiếng cá
“đớp động dưới chân bèo” ⇒ chuyển động rất nhẹ rất khẽ thể
hiện sự cảm nhận sâu sắc và tinh tế
+ Hình ảnh bình dị, dân dã: ao làng, lá vàng, ngõ trúc, thuyền
câu...
* Bức tranh mùa thu tĩnh lặng, đượm buồn (0,75)
-  Không gian tĩnh vắng: khách vắng teo
- Chuyển động rất khẽ: sóng “hơi gợn tí”, mây “lơ lửng”, lá “khẽ
đưa” ⇒ không đủ sức tạo nên âm thanh
- Tiếng động “cá đớp động dưới chân bèo” → “lấy động tả tĩnh”
⇒ Tiếng động rất khẽ, rất nhẹ trong không gian rộng lớn càng
làm tăng vẻ tĩnh vắng, “cái tĩnh tạo nên từ một cái động rất nhỏ”
Hướng dẫn chấm:
- Học sinh phân tích đầy đủ, sâu sắc: 3,0 điểm.
- Học sinh phân tích chưa đầy đủ hoặc chưa sâu sắc: 2,0 điểm -
2,75 điểm.
- Học sinh phân tích chung chung, chưa rõ đặc điểm bức tranh
mùa thu : 1,5-2,0 điểm.
- Học sinh phân tích sơ lược, không rõ các luận điểm,sơ sài,
không rút ra kết luận 0,5- 1,25 điểm
*Đánh giá chung:
- Nghệ thuật: Bút pháp tả cảnh ngụ tình, lấy động tả tĩnh làm nổi
bật bức tranh mùa thu đặc trưng ở làng quê Bắc bộ (0,25đ) 0.5
- Thể hiện tâm hồn tinh tế, nhạy cảm và tình yêu thiên nhiên của
tác giả
d. Chính tả, ngữ pháp
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt. 0,25
174
Hướng dẫn chấm:
- Không cho điểm nếu bài làm mắc quá nhiều lỗi chính tả, ngữ
pháp.
e. Sáng tạo 0,25
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt
mới mẻ.
Tổng điểm 10,0
--------------Hết--------------

175

You might also like