You are on page 1of 37

KHOA HÀ NỘI

VIỆN SƯ PHẠM KỸ THUẬT


-----------    ----------

GIÁO TRÌNH
TÂM LÍ HỌC NGHỀ NGHIỆP
(Dùng cho các trường Đại học đào tạo cử nhân Sư phạm kỹ thuật)

Hà Nội - 2013
LỜI NÓI ĐẦU
Cùng với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật, kiến thức tâm lý học ngày càng phát
triển và cần thiết cho mọi lĩnh vực sống và hoạt động của con người. Tâm lí học đã thâm nhập
vào thực tiễn của mọi lĩnh vực thuộc các nhóm ngành, nghề khác nhau. Cũng như các nước trên
thế giới, tâm lí học ngày nay không chỉ được giảng dạy ở các trường Sư phạm, các trường Y..
mà nó đã và đang được giảng dạy ở mọi lĩnh vực đào tạo, mọi trình độ đào tạo, mọi hình thức
đào tạo với dung lượng và thời gian khác nhau.
Với mục tiêu của Chương trình cử nhân song ngành Sư phạm Kỹ thuật là đào tạo giáo
viên kỹ thuật ở trình độ đai học. Sinh viên Sư phạm kỹ thuật vừa đáp ứng các mục tiêu của một
ngành kỹ thuật theo học, đồng thời được trang bị những kiến thức cơ bản về khoa học giáo dục
kỹ thuật và nghề nghiệp; Các kỹ năng sư phạm cần thiết trong đào tạo nghề nghiệp và tiến hành
nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực khoa học giáo dục và kỹ thuật theo học… Đây cũng là môn
học bắt buộc trong chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm đối với giáo viên dạy
nghề kỹ thuật chưa qua đào tạo NVSP. Xuất phát từ mục tiêu đào tạo trong nhà trường Sư phạm
kỹ thuật, từ yêu cầu thực tiễn đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng nghề và trung học chuyên
nghiệp cuốn “Giáo trình tâm lý học nghề nghiệp” được biên soạn phục vụ cho đào tạo đại học
Sư phạm kỹ thuật và đông đảo bạn đọc quan tâm.
“Giáo trình tâm lý học nghề nghiệp” được biên soạn theo Chương trình chi tiết học
phần “Tâm lý học nghề nghiệp” dành cho đào tạo trình độ cử nhân song ngành Sư phạm Kỹ
thuật được (Ban hành tại Quyết định số 562 /QĐ-ĐHBK-ĐTĐH ngày 25 /04 /2011 của Hiệu
trưởng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội). Toàn bộ giáo trình đã trình bày các vấn đề cơ bản,
hiện đại và cần thiết về Tâm lí học đại cương và Tâm lí học nghề nghiệp: Tâm lí học lao động,
Tâm lí học giám định lao động, Tâm lí học kĩ sư, Tâm lí học sư phạm nghề nghiệp… đan xen,
kết nối, tích hợp với nhau theo phương pháp tiếp cận hoạt động- nhân cách. Trong quá trình
biên soạn, tác giả đã tham khảo các tài liệu, các bài giảng, giáo trình có liên quan và chắt lọc
những thành tựu lí luận và thực tiễn trong và ngoài nước để nội dung mang tính cập nhật.
Trong quá trình biên soạn và thẩm định giáo trình này, tác giả đã chú ý tới các kinh
nghiệm thực tiễn của việc giảng dạy bộ môn ở các trường Sư phạm kỹ thuật, tham khảo các tài
liệu giảng dạy của Tổng cục dạy nghề, đặc biệt đã được Bộ môn Khoa học và Công nghệ giáo
dục, Viện Sư phạm kỹ thuật trường ĐHBK.HN trực tiếp đóng góp một phần quan trọng. Tác
giả xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới các chuyên gia, các thầy cô giáo, các bạn đồng nghiệp
và các bạn sinh viên về những đóng góp quí báu đó.
Mặc dù tác giả có nhiều tâm huyết trong lĩnh vực này, song khó có thể thỏa mãn hết
được mong đợi của bạn đọc. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc gần xa để cuốn
sách được hoàn thiện hơn khi tái bản.
Tác giả

1
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU........................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. .............................................................................................................................. 6
TÂM LÍ HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC ................................................................................... 6
1.1. ĐỐI TƯỢNG CỦA TÂM LÍ HỌC.............................................................................. 6
1.1.1. Tâm lí học là gì ? .................................................................................................. 6
1.1.2. Đối tượng của tâm lí học ...................................................................................... 7
1.1.3. Phân loại hiện tượng tâm lí ................................................................................... 7
1.1.4. Các quan điểm tâm lí học về bản chất tâm lí người .......................................... 10
1.2. ĐẶC ĐIẺM, CẤU TRÚC CỦA KHOA HỌC TÂM LÍ VÀ TÂM, LÍ HỌC NGHỀ
NGHIỆP ................................................................................................................................ 20
1.2.1. Đặc điểm cơ bản của khoa học tâm lí ................................................................. 20
1.2.2. Cấu trúc của khoa học tâm lí và tâm lí học nghề nghiệp trong hệ thống khoa học
tâm lí 21
1.3. VỊ TRÍ, Ý NGHĨA CỦA TÂM LÍ HỌC TRONG CUỘC SỐNG VÀ NHỮNG ĐIỀU
KIỆN KHÁCH QUAN LÀM NẢY SINH TÂM LÍ HỌC NGHỀ NGHIỆP ....................... 26
1.3.1. Vị trí của tâm lí học trong hệ thống khoa học .................................................... 26
1.3.2. Ý nghĩa của tâm lí học trong cuộc sống và hoạt động của con người ................ 28
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TÂM LÍ HỌC NGHỀ NGHIỆP ......................... 29
1.4.1. Nguyên tắc phương pháp luận của việc nghiên cứu tâm lí................................. 30
1.4.2. Phương pháp nghiên cứu tâm lí học nghề nghiệp .............................................. 31
CHƯƠNG 2 ................................................................................. Error! Bookmark not defined.
HOẠT ĐỘNG – GIAO TIẾP – NHÂN CÁCH ........................ Error! Bookmark not defined.
2.1. HOẠT ĐỘNG ............................................................ Error! Bookmark not defined.
2.1.1. Khái niệm hoạt động .......................................... Error! Bookmark not defined.
2.1.2. Đặc điểm của hoạt động ..................................... Error! Bookmark not defined.
2.1.3. Cấu trúc của hoạt động ....................................... Error! Bookmark not defined.
2.1.4. Phân loại hoạt động ............................................ Error! Bookmark not defined.
2.1.5. Vai trò của hoạt động đối với sự phát triển tâm lí, nhân cáchError! Bookmark
not defined.
2.2. GIAO TIẾP VÀ TÂM LÍ........................................... Error! Bookmark not defined.
2.2.1. Khái niệm ........................................................... Error! Bookmark not defined.
2.2.2. Chức năng của giao tiếp ..................................... Error! Bookmark not defined.
2.2.3. Các loại giao tiếp ................................................ Error! Bookmark not defined.

2
2.2.4. Vai trò của giao tiếp đối với sự phát triển cá nhân và xã hộiError! Bookmark
not defined.
2.2.5. Mối quan hệ giữa giao tiếp và hoạt động ........... Error! Bookmark not defined.
2.3. GIAO TIẾP SƯ PHẠM ............................................. Error! Bookmark not defined.
2.3.1. Khái niệm giao tiếp sư phạm trong tâm lí học. .. Error! Bookmark not defined.
2.4. NHÂN CÁCH VÀ SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH NGHỀ
NGHIỆP ................................................................................ Error! Bookmark not defined.
2.4.1. Khái niệm nhân cách và nhân cách nghề nghiệp Error! Bookmark not defined.
2.4.2. Sự hình thành nhân cách ..................................... Error! Bookmark not defined.
2.4.3. Quan niệm về sự phát triển tâm lí người theo lứa tuổiError! Bookmark not
defined.
CHƯƠNG 3 ................................................................................. Error! Bookmark not defined.
NHỮNG CƠ SỞ TÂM LÍ HỌC CỦA CÔNG TÁC GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP LỨA
TUỔI THANH NIÊN ................................................................. Error! Bookmark not defined.
---------------------------------------------------------------------------------------- ..................Error!
Bookmark not defined.
3.1. QUAN NIỆM VỀ LỨATUỔI THANH NIÊN HỌC NGHỀError! Bookmark not
defined.
3.1.1. Lứa tuổi thanh niên ............................................. Error! Bookmark not defined.
3.1.2. Các yếu tố tác động đến sự phát triển tâm lí lứa tuổi thanh niên học nghề .Error!
Bookmark not defined.
3.2. ĐẶC ĐIỂM NHẬN THỨC CỦA LỨA TUỔI THANH NIÊN HỌC NGHỀ ....Error!
Bookmark not defined.
3.2.1. Hoạt động nhận thức........................................... Error! Bookmark not defined.
3.2.2. Đặc điểm nhận thức của lứa tuổi thanh niên học nghềError! Bookmark not
defined.
3.3. ĐẶC ĐIỂM NHÂN CÁCH CỦA LỨA TUỔI THANH NIÊN HỌC NGHỀ ....Error!
Bookmark not defined.
3.3.1. Tự ý thức, tự đánh giá của tuổi thanh niên học nghềError! Bookmark not
defined.
3.3.2. Tình cảm của tuổi thanh niên học nghề .............. Error! Bookmark not defined.
3.3.3. Một số nét ý chí và tính cách của tuổi thanh niên học nghềError! Bookmark
not defined.
3.3.4. Thế giới quan, lý tưởng sống , niềm tin và tính tích cực xã hội của tuổi thanh niên
học nghềError! Bookmark not defined.

3
3.3.5. Kế hoạch đường đời và tự xác định nghề nghiệp của thanh niên học nghề Error!
Bookmark not defined.
3.4. CÁC HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN CỦA LỨA TUỔI THANH NIÊN HỌC NGHỀ
Error! Bookmark not defined.
3.4.1. Hoạt động học của thanh niên học nghề ............. Error! Bookmark not defined.
3.4.2. Các loại hình hoạt động cơ bản khác của thanh niên học nghềError! Bookmark
not defined.
CHƯƠNG 4. ................................................................................ Error! Bookmark not defined.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ TÂM LÍ HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT NGHỀ NGHIỆP VÀ PHÁT
TRIỂN NĂNG LỰC KĨ THUẬT, TƯ DUY KỸ THUẬT Ở LỨA TUỔI THANH NIÊN
HỌC NGHỀ ................................................................................ Error! Bookmark not defined.
4.1. CƠ SỞ TÂM LÍ HỌC VỀ SỰ HÌNH THÀNH KHÁI NIỆM VÀ SỰ LĨNH HỘI TRI
THỨC KỸ THUẬT NGHỀ NGHIỆP .................................. Error! Bookmark not defined.
4.1.1. Khái niệm và sự hình thành khái niệm ............... Error! Bookmark not defined.
4.1.2. Bản chất tâm lí quá trình hình thành khái niệm kỹ thuật - nghề nghiệp cho thanh
niên học nghề .................................................................... Error! Bookmark not defined.
4.1.3. Bản chất tâm lí học về sự hình thành kỹ năng, kỹ xảo và thói quen trong thực hành
sản xuất Error! Bookmark not defined.
4.2. TƯ DUY KỸ THUẬT VÀ NĂNG LỰ C KỸ THUẬT Ở THANH NIÊN HỌC NGHÈ
Error! Bookmark not defined.
4.2.1. Tư duy kỹ thuật................................................... Error! Bookmark not defined.
4.2.2. Năng lực kỹ thuật ............................................... Error! Bookmark not defined.
4.3. PHÁT TRIỂN TƯ DUY KỸ THUÂT VÀ NĂNG LỰC KỸ THUẬT Ở THANH
NIÊN HỌC NGHỀ ............................................................... Error! Bookmark not defined.
4.3.1. Một số biện pháp phát triển tư duy kỹ thuật và năng lực kỹ thuật ở thanh niên học
nghề Error! Bookmark not defined.
4.3.2. Phát triển tư duy kỹ thuật, năng lực kỹ thuật thông qua việc sử dụng bài toán kỹ
thuật cho thanh niên hoc nghề ........................................... Error! Bookmark not defined.
CHƯƠNG 5. ................................................................................ Error! Bookmark not defined.
NHỮNG VẤN ĐỀ TÂM LÍ HỌC CỦA VIỆC TỔ CHỨC LAO ĐÔNG NGHỀ NGHIỆP
KHOA HỌC VÀ SỰ THÍCH ỨNG CỦA KHOA HỌC KĨ THUẬT ĐỐI VỚI CON
NGƯỜI ........................................................................................ Error! Bookmark not defined.
5.1. NHỮNG VẤN ĐỀ TÂM LÍ HỌC CỦA VIỆC TỔ CHỨC LAO ĐỘNG NGHỀ
NGHIỆP KHOA HỌC .......................................................... Error! Bookmark not defined.
5.1. 2. Hoạt động lao động ................................................ Error! Bookmark not defined.

4
5.1.3. Hệ tâm lí vận động (hệ tâm vận) ........................ Error! Bookmark not defined.
5.1.4. Hiện tượng ý vận – Quá trình ý vận ................... Error! Bookmark not defined.
5.1.5. Nội dung tâm lí cơ bản về tổ chức lao động nghề nghiệp khoa học: .........Error!
Bookmark not defined.
5.2. SỰ THÍCH ỨNG CỦA KHOA HỌC KỸ THUẬT ĐỐI VỚI CON NGƯỜI....Error!
Bookmark not defined.
5.2.1. Trình bày thông tin trong hệ thống ..................... Error! Bookmark not defined.
5.2.2. CÁC SỰ CỐ, HƯ HỎNG TRONG LAO ĐỘNG VÀ NGĂN NGỪA CÁC HÀNH
ĐỘNG SAI LẦM TRONG QUÁ TRÌNH LAO ĐỘNG .. Error! Bookmark not defined.
CHƯƠNG 6. ................................................................................ Error! Bookmark not defined.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ TÂM LÍ HỌC NHÂN CÁCH NGƯỜI GIÁO VIÊN DẠY NGHỀ
...................................................................................................... Error! Bookmark not defined.
6.1. HOẠT ĐỘNG DẠY NGHỀ VÀ CÔNG TÁC HƯỚNG NGHIỆPError! Bookmark
not defined.
6.1.1. Hoạt động dạy ..................................................... Error! Bookmark not defined.
6.1.2. Hoạt động dạy nghề ............................................ Error! Bookmark not defined.
6.2. VẤN ĐỀ CHỌN NGHỀ VÀ CÔNG TÁC HƯỚNG NGHIỆPError! Bookmark not
defined.
6.2.1. Vấn đề chọn nghề ............................................... Error! Bookmark not defined.
6.2.2. Công tác hướng nghiệp trong quá trình phát triển nghề nghiệp ..................Error!
Bookmark not defined.
Chủ thể điều khiển...................................................................... Error! Bookmark not defined.
Phương tiện điều khiển .............................................................. Error! Bookmark not defined.
6.3. GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP VÀ NGƯỜI GIÁO VIÊN DẠY NGHỀ TRONG XÃ
HỘI HIỆN ĐẠI ..................................................................... Error! Bookmark not defined.
6.3.1. Giáo dục nghề nghiệp (GDNN) trong xã hội hiện đạiError! Bookmark not
defined.
6.3.2. Người giáo viên (GV) dạy nghề trong nền giáo dục hiện đạiError! Bookmark
not defined.
6.3.3. Đặc điểm lao động của người giáo viên dạy nghềError! Bookmark not
defined.
6.4. PHẨM CHẤT NHÂN CÁCH NGƯỜI GIÁO VIÊN DẠY NGHỀ VÀ NĂNG LỰC
SƯ PHẠM NGƯỜI GIÁO VIÊN DẠY NGHỀ ................... Error! Bookmark not defined.
6.4.1. Một số phẩm chất nhân cách của người giáo viên dạy nghềError! Bookmark
not defined.

5
6.4.2. Năng lực sư phạm của người giáo viên dạy nghềError! Bookmark not defined.
6.4.3. Nhóm năng lực tổ chức hoạt động sư phạm ....... Error! Bookmark not defined.
6.4.4. Uy tín của người giáo viên dạy nghề .................. Error! Bookmark not defined.
6.5. Các con đường hình thành nhân cách của người giáo viên dạy nghề ................Error!
Bookmark not defined.
6.5.1. Tự học, tự bồi dưỡng trong quá trình hành nghề Error! Bookmark not defined.
6.5.2. Đào tạo tiếp (đào tạo nâng cao trình độ) ............ Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................. Error! Bookmark not defined.

6
CHƯƠNG 1.
TÂM LÍ HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC
----------------------------------------------------------------------------------
1.1. ĐỐI TƯỢNG CỦA TÂM LÍ HỌC
1.1.1. Tâm lí học là gì ?
Từ khi con người xuất hiện trên Trái đất bắt đầu có một loại hiện tượng hoàn toàn mới
mẻ, hiện tượng tâm lí người mà nền văn minh cổ đại gọi là linh hồn. Những hiện tượng này
khác với những hiện tượng cơ học, hóa học, vật lí học, sinh học. Ví dụ như sự đi lại của người,
về một mặt nào đó mà nói đó là sự di chuyển đơn thuần của một khối lượng nhất định. Sự đi lại
của người cũng là một hiện tượng cơ học. Nhưng khác với con tàu lăn bánh trên đường sắt, bình
thường khi đi người ta biết rằng người ta đang đi và tự điều chỉnh,điều khiển chuyển động theo
chương trình đã đề ra. Sự di chuyển đơn giản ấy trong con người có thể làm cho người vui hay
buồn, thoải mái hay khó chịu, hăng hái hay uể oải,…v.v. Con người biết đến chuyển động của
mình, biết rằng mình điều khiển, điều chỉnh sự chuyển động ấy - đó là những hiện tượng tâm
lí. Thế giới tâm lí con người vô cùng phong phú và phức tạp đòi hỏi một khoa học nghiên cứu.
Khoa học đó là tâm lí học. Nói một cách khái quát chung nhất: ‘‘Tâm lí bao gồm tất cả những
hiện tượng tinh thần xảy ra trong đầu óc con người, gắn liền và điều hành mọi hành động, hoạt
động của con người ’’1 . Các hiện tượng tâm lí đóng vai trò quan trọng đặc biệt trong đời sống
của con người, trong quan hệ giữa con người với con người trong xã hội loài người. ‘‘Tâm lí
học là khoa học về các hiện tượng tâm lí’’2 .Những tư tưởng tâm lí học đã có từ xa xưa gắn liền
với lịch sử loài người.
Tóm lại: Tâm lí học là khoa học nghiên cứu về các hiện tượng tâm lí trong đời sống tâm lí
con người bao gồm tất cả những hiện tượng tinh thần xảy ra trong đầu óc con người, gắn liền
và điều hành mọi hành động, hoạt động của con người, do thế giới khách quan tác động vào
não con người sinh ra. Tâm lí học quan tâm tới qui luật hình thành, phát triển và biểu hiện tâm
lí của con người trong cuộc sống thông qua những hoạt động giáo dục, xã hội.
Tâm lí học cũng như các khoa học tự nhiên và xã hội, xuất phát điểm đều có nguồn gốc
từ triết học. Năm 1879 tâm lí trở thành một khoa học độc lập vì đã hội tụ đủ các điều kiện của
một khoa học. Xác định được đối tượng nghiên cứu là các hiện tượng tâm lí, xây dựng được
một hệ thống các phạm trù và khái niệm như tâm lí, vô thức, ý thức, giao tiếp, nhân cách…,xây
dựng hệ thống các phương pháp nghiên cứu của khoa học tâm lí như quan sát, thực nghiệm,
trắc nghiệm..

1 Nguyễn Quang Uẩn, Tâm lí học đại cương, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001.
2 Nguyễn Quang Uẩn, Tâm lí học đại cương, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001.

7
Từ những tư tưởng đầu tiên sơ khai về hiện tượng tâm lí, tâm lí học đã hình thành và
phát triển không ngừng và ngày càng giữ một vị trí quan trọng trong nhóm các khoa học về con
người. Ngày nay tâm lí học đã trở thành một khoa học có bề dày lịch sử hình thành và phát
triển, trở thành ‘‘lực lượng xuất trực tiếp ’’ cho sự phát triển của khoa học và cuộc sống xã
hội.
1.1.2. Đối tượng của tâm lí học
Trong lịch sử xa xưa của nhân loại, trong tiếng Lating: ‘‘Psyche’’ là ‘‘linh hồn, tinh
thần’’ và ‘‘Logos’’ là ‘học thuyết, khoa học’’ vì thế Psychologie là khoa học về tâm hồn. Trong
tiếng Việt, thuật ngữ ‘‘tâm lí’’, ‘‘tâm hồn’’ đã có từ lâu, trong ‘‘Từ điển Phật học’’ của Đoàn
Trọng Côn : ‘‘Tâm’’ là lòng cảm động, là cái lí, ý thức, trí, cái linh của con người nói chung về
vũ trụ. ‘‘Lí’’ được hiểu là lí lẽ về ‘cái tâm’’. Từ điển tiếng Việt (1988) định nghĩa một cách
tổng quát ‘‘tâm lí’’ là ý nghĩ, tình cảm…làm thành đời sống nội tâm, thế giới bên trong của con
người. Theo nghĩa đời thường, chữ ‘‘tâm’’thường được dùng với các cụm từ : ‘‘tâm tư, tâm
tình, tâm giao, tâm can, tâm địa, nhân tâm, thiện tâm, ác tâm…’’ có nghĩa như chữ ‘‘lòng’’,
thiên về tình cảm, còn chữ ‘‘hồn’’, thường diễn đạt tư tưởng, tinh thần, ý thức, ý chí.. .vv,của
con người. Như vậy ‘‘tâm hồn’’, ‘‘tâm lí’’ luôn gắn liền với thể xác. Nói một cách khái quát
nhất tâm lí bao gồm tất cả những hiện tượng tinh thần xảy ra trong đầu óc con người, gắn liền
và điều hành mọi hành động, hoạt động của con người. Các hiện tượng tâm lí đóng vai trò đặc
biệt quan trọng trong đời sống con người, trong quan hệ giữa con người với con người và con
người với cả xã hội loài người. Như vậy đối tượng của tâm lí học là các hiện tượng tâm lí với
tư cách là một hiện tượng tinh thần do thế giới khách quan tác động vào não con người sinh ra,
gọi chung là các hoạt động tâm lí. Tâm lí học nghiên cứu sự hình thành, vận hành và phát triển
của hoạt động tâm lí .
1.1.3. Phân loại hiện tượng tâm lí
Thế giới tâm lí con người vô cùng phong phú, đa dạng và sinh động. Đời sống đó được
thể hiện trong nhiều hiện tượng tâm lí khác nhau. Để tiện nghiên cứu, người ta đã chia các hiện
tượng tâm lí này thành hiện tượng tâm lí cá nhân và hiện tượng tâm lí xã hội. Hiện tượng tâm
lí cá nhân điều hành hành động và hoạt động của cá nhân, hiện tượng tâm lí cá nhân chỉ phản
ánh hiện thực khách quan trong hoạt động của người đó mà thôi. Nhưng thường tham gia vào
hoạt động không phải chỉ có mỗi cá nhân con người mà lại có nhiều người, từ một nhóm nhỏ
cho đến những cộng đồng xã hội rộng lớn với nhiều kích thước khác nhau. Hiện tượng tâm lí
nảy sinh trong trường hợp đó sẽ điều hành những hành động, hoạt động tương đối giống nhau
ở những nhóm người xác đinh, của cả cộng đồng người ấy và cũng phản ánh hiện thực khách
quan bao hàm trong hoạt động này một cách tương đối giống nhau. Đó là những hiện tượng
tâm lí xã hội. Ở đâu có đời sống xã hội, có quan hệ giữa người và người ở đó xuất hiện các hiện

8
tượng tâm lí xã hội. Ví dụ như phong tục, tập quán, ‘‘mốt’’, tin đồn, dư luận xã hội, tâm trạng
xã hội, truyền thống của tập thể, phong trào quần chúng, các định hình xã hội ..v.v..
Dựa vào thời gian tồn tại và vị trí của các hiện tượng tâm lí trong con người, trong nhân
cách, theo tiêu chí ấy người ta chia các hiện tượng tâm lí thành ba loại chính :
Quá trình tâm lí là hiện tượng tâm lí diễn ra trong thời gian tương đối ngắn (vài giây
đến vài giờ), tùy thuộc vào thời gian của vật kích thích. Có mở đầu, phát triển và kết thúc.
Người ta phân biệt thành ba qua trình tâm lí :
*Quá trình nhận thức bao gồm quá trình cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng, trí nhớ,
ngôn ngữ.
* Quá trình cảm xúc biểu thị sự vui mừng, tức giận, dễ chịu, khó chịu, yêu thương, khinh
bỉ, ghê tởm, căm thù…
* Quá trình hành động: hành động ý chí và các hành động tự động hóa, kĩ năng, kĩ xảo,
thói quen
Trạng thái tâm là hiện tượng tâm lí diễn ra trong thời gian tương đối dài (vài mươi phút
đến hành tháng) thường ít biến động nhưng lại chi phối một cách căn bản các quá trình tâm lí
đi kèm với nó. Đối tượng của trạng thái tâm lí là đối tượng của các quá trình tâm lí mà nó đi
kèm.Trạng thái tâm lí là điều kiện về mặt thần kinh – tâm lí giúp quá trình tâm lí phản ánh tốt
đối tượng. Ví dụ như sự chú ý, tâm trạng, sự ghanh đua, sự dịu lắng, trạng thái nghi hoặc…
Thuộc tính tâm lí là những hiện tượng tâm lí hình thành lâu dài và kéo dài rất lâu có khi
suốt cuộc đời và tạo thành nét riêng của nhân cách, chi phối các quá trình và trạng thái tâm lí
của người ấy.Ví dụ như tính tình, thói quen, quan điểm, hứng thú, sở trường, sở đoản…v.v. Nó
đặc trưng cho nhân cách con người, tạo ra nét riêng trong nhân cách con người. Các nét thuộc
tính tâm lí điển hình của nhân cách như xu hướng,tính cách, khí chất, năng lực. Việc phân chia
các hiện tượng tâm lí thành ba loại nói trên chỉ có tính ước lệ, thuận tiện cho việc nghiên cứu
của khoa học tâm lí. Trong thực tế các hiện tượng này đan xen vào nhau, tác động qua lại với
nhau một cách biện chứng trong một thể thống nhất.. Khi nghiên cứu tâm lí chúng ta tạm thời
phải tách bạch (trong đầu óc mình) các hiện tượng tâm lí này với các hiện tượng tâm lí khác
nhưng cần phải nhớ đến tính thống nhất và tính toàn vẹn của chúng. Các hiện tượng tâm lí sở
dĩ có tính thống nhất và tính toàn vẹn là do tính thống nhất và tính toàn vẹn của hoạt động đại
não. Các hiện tượng tâm lí dù là quá trình hay trạng thái hoặc thuộc tính tâm lí đều là các hoạt
động cụ thể của con người. Trong hoạt động, (Vui chơi, học tập, lao động, giao lưu...) con người
nhận thức, rung cảm và bộc lộ các đặc điểm nhân cách, cũng nhờ hoạt động mà con người hình
thành, phát triển được tâm lí, ý thức và nhân cách.
Có thể biểu diễn mối quan hệ giữa các hiện tương tâm lí bằng sơ đồ sau (hình 1) :

9
Tâm lý

Các quá trình tâm lý Các trạng thái tâm lý Các thuộc tính tâm lý

Hình 1. Sơ đồ mối quan hệ giữa các hiện tượng tâm lí


Người ta cũng phân biệt hiện tượng tâm lí sống động với hiện tượng tâm lí tiềm tàng
(tích đọng) hiện tượng tâm lí sống động nảy sinh, diễn biến và phát triển trong hành vi, hành
động, hoạt động của cá nhân hoặc của cộng đồng người và điều hành hoạt động đang diễn biến
của họ. Nhưng khi nhờ lao động, tâm lí này đươc chuyển vào trong ‘‘chứa chất ’’ vào các sản
phẩm vật chất hay trong não người thì nó trở thành hiện tượng tâm lí tâm lí tiềm tàng, tích đọng
Người ta cũng phân biệt hiện tượng tâm lí có ý thức (được ý thức hay tự giác) với những
hiện tượng tâm lí chưa được ý thức. Nói hiện tượng tâm lí xảy ra trong đầu óc con người, trong
chủ quan của ta không có nghĩa là ta biết tất cả các hiện tượng đó. Chúng ta chỉ biết rõ rệt, ít
hay nhiều, toàn bộ hay cục bộ những hiện tượng tâm lí có ý thức mà thôi. Những hiện tượng
tâm lí thuộc loại khác gọi là hiện tương tâm lí chưa ý thức. Hiện tượng tâm lí chưa ý thức là ta
chưa biết đến, ta không có thái độ với nó, không có dự kiến về nó nhưng chúng vẫn tham gia
điều hành hoạt động của ta. Một số tác giả phương Tây còn chia những hiện tượng tâm lí chưa
ý thức thành hai mức tiềm thức là những hiện tượng tâm lí bình thường nằm sâu trong ý thức,
thỉnh thoảng trong những hoàn cảnh nhất định có thể được ý thức chiếu rọi tới. Vô thức là lĩnh
vực những hiện tượng tâm lí nằm ngoài ý thức, rất khó lọt vào lĩnh vực ý thức (một số bản năng
vô thức, một số hành động lỡ lời,lỡ chân tay, ngủ mơ, mộng du..)
Như vậy thế giới tâm lí con người vô cùng phức tạp và đa dạng. Các hiện tượng tâm lí
có nhiều mức độ, cấp độ khác nhau, có quan hệ đan xen vào nhau, chuyển hóa cho nhau. Khoa
học tâm lí nghiên cứu toàn bộ những hiện tượng tâm lí, ý thức nảy sinh, hình thành, biểu hiện
và biến đổi trong mỗi cá nhân, mỗi nhóm người và cả loài người. Khoa học tâm lí có nhiệm vụ
tìm ra bản chất của các hiện tượng tâm lí, những qui luật của chúng để ứng dụng vào đời sống.
Xã hội loài người càng văn minh, hàm lượng trí tuệ trong mỗi sản phẩm do con người làm ra
càng cao, gia tốc phát triển tâm lí của thế hệ trẻ ngày càng tăng mạnh. Việc nghiên cứu tâm lí
con người nói chung và của thanh niên học sinh, sinh viên nói chung ngày càng phát triển và
có chiều sâu. Ngày nay mỗi hoạt động chủ yếu trong xã hội đều có chuyên ngành khoa học tâm
lí gắn liền với nó giúp cho các ngành khoa học hoạt động hiệu quả hơn.

10
1.1.4. Các quan điểm tâm lí học về bản chất tâm lí người
a. Tâm lí học duy tâm
Có nhiều quan niệm khác nhau về bản chất hiện tượng tâm lí người: Quan niệm duy tâm
cho rằng tâm lí con người là do thượng đế, do trời sinh ra và nhập vào thể xác con người. Tâm
lí con người không phụ thuộc vào thế giới khách quan cũng như điều kiện thực tại của đời sống.
Bằng phương pháp nội quan, mỗi con người tự quan sát, tự thể nghiệm tâm lí của bản thân rồi
suy diễn chủ quan sang tâm lí người khác (‘‘lòng vả cũng như lòng sung’’, ‘‘suy bụng ta ra
bụng người’’) những quan niệm như thế không thể giải thích được bản chất hiện tượng tâm lí
người, dẫn tới chỗ hiểu tâm lí người như cái gì thần bí, không thể nghiên cứu được.
Quan niệm duy tâm chủ quan. Theo quan niệm này cho rằng thế giới tâm lí đóng kín trong mỗi
cá thể như bản chất vốn có. Đó là hiện tượng khôn từ trong trứng khôn ra. Tâm lí, ý thức quyết
định hoàn toàn hoạt động của con người, không phụ thuộc hoàn toàn vào những điều kiện bên
ngoài. Ngay cả thế giới vật chất xung quanh con người cũng chỉ là ‘‘cảm giác’’ của ta chứ
chưa hẳn đã tồn tại thật. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan đã tuyệt đối hóa thuộc tính tinh thần,
xem tâm lí như một thế giới riêng biệt, tự nảy sinh, hình thành và phát triển không tùy thuộc
vào thế giới khách quan cũng như những điều kiện thực tại của đời sống. Các nhà duy tâm chủ
quan cho rằng chỉ có dùng phương pháp nội quan mới hiểu được tâm lí. Quan niệm này không
mang lại gì cho hoạt động thực tiễn, nó dẫn tới sự bất lực, hoài nghi về khả năng nghiên cứu
khách quan tâm lí, khả năng chủ động điều khiển và hình thành tâm lí cho mỗi con người.
Quan niệm duy tâm khách quan coi linh hồn là lực lượng siêu nhiên, bất diệt do một
đấng tối cao nào đó ban cho con người. Đó chính là hiện tượng ‘‘thông minh vốn sẵn tính trời’’.
Khổng Tử (551- 479TCN) cho rằng không thể thay đổi thứ hạng đẳng cấp trong xã hội, do trời
định số phận con người. Platon (428 – 347TCN) cho rằng ‘‘ý niệm’’ là vĩnh cửu, chúng không
chết đi, không liên quan, không phụ thuộc vào thời gian, không gian. Linh hồn có thể trú ngụ
tậm thời trong thể xác chúng ta, nó có thể nhập vào những thể xác khác.
Tâm lí học duy tâm chủ quan và khách quan đã coi hiện tượng tâm lí là tinh thần tồn tại trong
não bộ con người, có nguồn gốc là do hiện tượng tinh thần khác trong não sinh ra hoặc do lực
lượng siêu nhiên phi thực tế quyết định. Từ đó phủ nhận nguồn gốc khách quan bên ngoài của
tâm lí bên trong. Không thấy tính chủ thể, bản chất xã hội lịch sử. Phương pháp nội quan là
phương pháp duy nhất để nghiên cứu và tìm hiểu tâm lí con người.

b. Tâm lí học duy vật thô sơ


Tư tưởng tâm lí thời cổ đại cho rằng tâm lí, ý thức của con người cũng như vạn vật đều
được cấu tạo từ vật chất như : Nước, lửa, không khí, đất. Đại diện cho quan niệm này là
TaLet(TK VII - V TCN), Anaximen (TK V TCN), Hêraclit (TK VI - V TCN). Đêmôcrit (460

11
– 370 TCN) cho rằng tâm hồn do nguyên tử cấu tạo thành, trong đó ‘‘nguyên tử lửa’’ là nhân
tố tạo nên tâm lí. Thuyết ngũ hành coi Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ tạo nên vạn vật trong đó có
cả tâm hồn. Arixtốt(348 – 322 TCN) trong cuốn sách bàn về tâm hồn đã mô tả thế giới tâm hồn
của con người rất cụ thể, gần gũi với cuộc sống thực. Đó là những cảm giác đi kèm với cảm
xúc khi ta nhìn, nghe, sờ mó, đó là những ước mơ, đam mê, suy nghĩ, tưởng tượng của con
người. Ông cho rằng tâm hồn con người được phân chia theo các thứ bậc: Tâm hồn dinh dưỡng,
tâm hồn thụ cảm, tâm hồn suy nghĩ. Tuy nhiên Arixtốt chưa phân tích được những hiện tượng
tâm lí phức tạp, chưa tìm ra và giải thích khoa học về bản chất hiện tượng tâm lí người. Các
nhà triết học, tâm lí học phương tây đã phát triển chủ nghĩa duy vật cũ lên bước cao hơn. Nhà
triết học S.Pinôza(1632 - 1667) cho rằng tất cả vật chất đều có tư duy, Lameteri(1709 - 1751),
một trong các nhà sáng lập ra chủ nghĩa duy vật pháp thừa nhận chỉ có cơ thể mới có cảm giác,
con người chẳng qua là cái máy đồng hồ. Canbanic (1757 - 1808) cho rằng não tiết ra tư tưởng
giống như gan tiết ra mật. L. Phơbach(1804 - 1872), nhà duy vật lỗi lạc bậc nhất trước khi chủ
nghĩa Mác ra đời đã khẳng định: Tâm lí, tinh thần không thể tách rời khỏi não người, nó là sản
vật của thứ vật chất phát triển cao là bộ não.
Tâm lí học duy vật thô sơ đã thừa nhận vật chất có trước, tinh thần có sau, vật chất đẻ
ra tinh thần, đẻ ra tâm lí song hạn chế của họ là thô sơ – tầm thường hóa nguồn gốc của tâm lí
người. Không hiểu đúng và đầy đủ mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội, mối
quan hệ não bộ – thế giới khách quan và tâm lí, không thấy được vai trò của hoạt động đối với
sự nảy sinh và phát triển tâm lí. Quan niệm duy vật tầm thường đồng nhất cái vật lí, cái sinh lí
với cái tâm lí, phủ nhận vai trò của chủ thể, tính tích cực, năng động của tâm lí, ý thức, phủ
nhận bản chất xã hội và tính lịch sử của tâm lí con người.
c.Tâm lí học hành vi
Tâm lí học hành vi ra đời vào đầu thế kỉ XX ở Bắc Mĩ, với các giai đoạn phát triển khác nhau:
Hành vi cổ điển do nhà tâm lú học Mỹ J.O¸ts¬n(1878 - 1958) s¸ng lËp, J.O¸ts¬n cho rằng tâm
lí học không mô tả, giảng giải các trạng thái ý thức mà chỉ nghiên cứu hành vi của cơ thể ở con
người cũng như ở động vật. Hành vi ở người và ở vật được hiểu là tổng số các cử động bên
ngoài nảy sinh ở cơ thể nhằm đáp laị một kích thích nào đó.Toàn bộ hành vi, phản ứng của con
người và động vật được phản ánh bằng công thức:

S–R
(Stimulus- Reaction)
Kích thích- Phản ứng
Với công thức trên J.O¸ts¬n đã nêu lên một quan điểm tiến bộ trong tâm lí học: Coi
hành vi là do ngoại cảnh quyết định và hành vi người – đối tượng nghiên cứu của tâm lí học

12
có thể quan sát, nghiên cứu một cách khách quan thông qua hành vi cá nhân đồng thời có thể
điều khiển được hành vi, theo phương pháp “ thử- sai”. Nhưng chủ nghĩa hành vi đã quan niệm
quá máy móc, cơ học về hành vi, đánh đồng hành vi con người với hành vi của con vật, hành
vi chỉ còn là những phản ứng máy móc nhằm đáp lại kích thích, giúp cơ thể thích nghi với môi
trường xung quanh. Ngoại giới nào thì phản ứng đúng như vậy và ở những người khác nhau,
với cùng kích thích như nhau đều cho phản ứng giống nhau. Chủ nghĩa hành vi đồng nhất phản
ứng với nội dung tâm lí bên trong làm mất tính chủ thể, tính xã hội của tâm lí người, đồng nhất
tâm lí con người với tâm lí động vật.Con người chỉ phản ứng trong thế giới một cách cơ học,
máy móc. Đây chính là quan điểm tự nhiên, chủ nghĩa, phi lịch sử và thực dụng.
Về sau, các đại biểu chủ nghĩa hành vi mới Tonmen, hullơ, hành vi tạo tác, hành vi bảo
thủ B. F.Skinơ.. có đưa vào công thức S- R những “biến số trung gian” bao hàm một số yếu tố
như: nhu cầu, trạng thái chờ đón, kinh nghiệm sống của con người hoặc hành vi tạo tác
“operant’’ nhằm đáp lại những kích thích có lợi cho cơ thể nhưng tâm lí học hành vi bộc lộ
một số quan điểm không đúng về tâm lí người; quan niệm chưa chính xác về đối tượng của tâm
lí học khi cho rằng đối tượng tâm lí học là toàn bộ hành vi của con người, hành vi của con người
được coi là tổng số phản ứng máy móc của con người đối với kích thích của thế giới khách
quan, giúp cho cơ thể thích nghi với môi trường xung quanh. Về cơ bản chủ nghĩa hành vi mới
vẫn mang tính máy móc, thực dụng của hành vi cổ điển.
d . Phân tâm học(S.Feud)
Thuyết phân tâm do S.phrơt(1859- 1939), bác sĩ tâm thần nổi tiếng người Áo xây dựng
nên. Ông là người đặt nền móng cho Phân tâm học (S.Feud), có công trong việc đặt vấn đề
nghiên cứu những hiện tượng tâm lí ở ‘‘tầng sâu’’, thầm kín nhất của con người, phân tích và
lí giải nó trong đời sống hàng ngày, nhất là hành vi của những người bệnh. Luận điểm cơ bản
của S.phrơt là tách con người ra làm ba khối: cái ấy (cái vô thức), cái tôi và cái siêu tôi. Cái ấy
bao gồm các bản năng vô thức ăn uống, tự vệ, tình dục, bản năng sợ chết. Trong đó bản năng
tình dục giữ vai trò trung tâm, quyết định toàn bộ đời sống tâm lí và hành vi của con người, bản
năng sinh dục của con người là nguồn gốc thúc đẩy hành vi con người. Cái ấy tồn tại theo
nguyên tắc thoả mãn và đòi hỏi. Cái tôi - con người thường ngày, con người có ý thức, tồn tại
theo nguyên tắc hiện thực. Cái tôi có ý thức đó là cái tôi giả hiệu, cái tôi bề ngoài với nhân lõi
bên trong là ‘cái ấy’’. Cái siêu tôi là ‘cái tôi lý tưởng’’, cái siêu phàm không bao giờ vươn tới
được và tồn tại theo nguyên tắc kiểm duyệt và chèn ép. Như vậy, phân tâm học (S.Feud) đã đề
cao quá đáng bản năng vô thức dẫn đến phủ nhận ý thức, phủ nhận bản chất xã hội lịch sử của
tâm lí người, đồng nhất tâm lí con người với tâm lí loài vật. Ông cho rằng cấu trúc tâm lí của
con người gồm có: vô thức, tiền thức và ý thức. Nhân cách con người gồm có: cái nó, cái tôi
và cái siêu tôi. Theo S.phrơt, cái nó, cái tôi và cái siêu tôi trong con người luôn luôn mâu thuẫn

13
với nhau và cái bản năng, vô thức luôn luôn bị chèn ép, dồn nén gây cho con người trạng thái
căng thẳng, bất mãn, ấm ức, mặc cảm, tội lỗi, làm cho nhân cách biến dạng, sinh ra bệnh hoạn.
Sai lầm của các nhà phân tâm là tuyệt đối hóa bản năng, xem nhẹ ý thức, không thấy rằng nhờ
ý thức con người có thể làm chủ hành vi của mình, làm chủ xã hội, làm chủ tự nhiên. Học thuyết
S.phrơt là cơ sở ban đầu của chủ nghĩa hiện sinh, thể hiện quan điểm sinh vật hóa tâm lí con
người.
e. Quan điểm tâm lí học duy vật biện chứng
Quan niệm khoa học về bản chất hiện tượng tâm lí người - đó là quan niệm duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử. Quan niệm khoa học về tâm lí cho rằng tâm lí của con người là chức
năng của bộ não, là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ não người thông qua chủ thể
mỗi con người. Tâm lí người có bản chất xã hội và mang tính lịch sử.
Bản chất thường được định nghĩa là thực chất cơ bản bên trong. Vậy tâm lí hay hiện
tượng tâm lí người thực chất cơ bản bên trong là cái gì ? Quan niệm về bản chất của hiện tượng
tâm lí tùy thuộc vào thế giới quan và phương pháp luận của các nhà nghiên cứu tâm lí học. Đây
là trận địa đấu tranh quyết liệt giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa phép biện
chứng và phép siêu hình. Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định bản chất tâm lí người là
sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người thông qua bản thân mỗi người, tâm lí người
có bản chất xã hội- lịch sử
*Tâm lí người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người
Thế giới nội tâm của con người bao gồm những hiện tượng đơn giản như tri giác, đến
những thuộc tính, phẩm chất phức tạp của nhân cách con người.Tất cả những hiện tượng, thuộc
tính, phẩm chất tâm lí tồn tại trong não dưới hình ảnh này hay hình ảnh khác với các mức độ
phức tạp khác nhau. Nhìn một cảnh vật trước mắt ta giữ lại hình ảnh của vật đó, nghe một bài
ca tưởng tượng ra quê hương yêu dấu, thấy một cảnh lạ ta chú ý ngắm nhìn…Hơn nữa con
người còn biết nghe tiếng nói của ‘‘lòng mình’’ nữa. Con người không phải chỉ thấy những gì
có ngoài thiên nhiên, xã hội mà còn biết nhìn những diễn biến trong đầu, trong tim mình, con
người có khả năng phân tích chính mình. Con người có lúc vui, lúc buồn, khi ưa, khi ghét sự
vật này hay sự vật kia hoặc tự mình hờn tủi hay khi thấy tự hào về bản thân. Một âm thanh, một
cảnh vật hay một con người tác động vào tai, vào mắt ta có khi chỉ một lần cũng để lại trong
đầu ta những hình ảnh tương ứng. Ở đâu ra hình ảnh đó ? Trước tiên phải nói rằng điều kiện
đầu tiên là phải có các hiện tượng, sự vật khách quan của thế giới bên ngoài, nhất là các kinh
nghiệm của loài người, của xã hội đương thời. Thứ hai tồn tại ấy phải tác động tới giác quan và
não bộ bình thường của con người.Thứ ba bộ não người phải tiếp nhận được tác động ấy. Cuối
cùng ta ta có hình ảnh tâm lí phản ánh một cách chủ quan của từng người trong từng tời điểm
về tồn tại khách quan tác động vào não (qua các giác quan) hoặc tiếp thu tri thức, kĩ năng thành

14
vốn sống của bản thân, những tri thức, kĩ năng.. nói chung lại cũng tồn tại dưới dạng các hình
ảnh tâm lí trong não bộ.
Thực tại khách quan là những gì tồn tại ngoài ý thức của ta. Thực tại khách quan gồm
các hiện tượng vật chất và tinh thần, nó tồn tại và phát triển theo qui luật tự nhiên. Thực tại
khách quan tác động vào giác quan vào não của ta tạo ra tâm lý, ý thức. Các vật thể tác động
qua các giác quan tạo ra trong óc những hình ảnh của chúng đó là cảm giác, tri giác là những
hình ảnh của thực tại khách quan. Lênin nói, mỗi hiện tượng tâm lí, ‘‘cảm giác của chúng ta, ý
thức của chúng ta chỉ là hình ảnh của thế giới bên ngoài’’. Như vậy tâm lí là hình ảnh của sự
vật hiện tượng khách quan. Nó là ‘‘bản sao’’, ‘‘bản chép’’ của sự vật hiện tượng. Nghĩa là sự
vật, hiện tượng tác động vào giác quan, và não để lại trong não ‘dấu vết’’nào đó. Tâm lí là hiện
tượng tinh thần do sự vật, hiện tượng tác động vào não gây nên. Tâm lí có quan hệ chặt chẽ với
vật chất. ‘‘Tâm lí, cảm giác, tư duy ý thức là sản phẩm cao nhất của vật chất được tổ chức theo
một cách nhất định là não’’. Tại sao não làm được việc này ? Đơn vị hoạt động của não bộ là
phản xạ. Bản chất phản xạ chứa đựng phản ánh. Hoạt động của phản xạ có bốn khâu: Khâu dẫn
vào, khâu trung tâm, khâu dẫn ra và khâu liên hệ ngược. Các khâu này liên kết rất chặt chẽ với
nhau. Các hình ảnh tâm lí chủ yếu nảy sinh và khu trú ở khâu trung tâm của phản xạ, chủ yếu
là phản xạ có điều kiện. Chỉ có hệ thần kinh và bộ não người mới có khả năng nhận tác động
của hiện thực khách quan, tạo ra trên não hình ảnh tinh thần (tâm lí ) chứa đựng trong vết vật
chất, đó là các quá trình trình sinh lí, sinh hóa trong hệ thần kinh và não bộ. C. Mác nói: tinh
thần, tư tưởng, tâm lí .. chẳng qua là vật chất được chuyển vào trong đầu óc, biến đổi trong đó
mà có.
Thế giới khách quan tồn tại bằng các thuộc tính không gian, thời gian và luôn vận động.
Phản ánh là thuộc tính chung của mọi sự vật hiện tượng đang vận động. Nói một cách chung
nhất, phản ánh là quá trình tác động qua lại giữa hệ thống này và hệ thống khác, kết quả để lại
dấu vết (hình ảnh) tác động ở cả hệ thống tác động và hệ thống chịu sự tác động. Phản ánh tâm
lí diễn ra từ đơn giản đến phức tạp và có sự chuyển hóa lẫn nhau, từ phản ánh cơ, vật lý, hóa
học, sinh vật và phản ánh xã hội trong đó có phản ánh tâm lí mà ý thức là hình thức phản ánh
tâm lí cao nhất. Không phải tự nhiên có các hiện tượng tâm lí hay tâm lí do trời ban cho, do
thượng đế sinh ra, cũng không phải do não tiết ra như gan tiết ra mật, tâm lí người là sự phản
ánh hiện thực khách quan vào não con người thông qua ‘‘lăng kính chủ quan.’’ Tâm lí là kết
quả của sự phát triển từ vô cơ đến hữu cơ, từ chưa có sự sống đến chỗ có sự sống, từ chỗ sự
sống chưa có tâm lí đến chỗ có mầm mống của tâm lí. Tâm lí là kết quả của sự phát triển lâu
dài của vật chất. Từ khi có hệ thần kinh mấu (hạch ) bắt đầu có mầm mống tâm lí, hệ thần kinh
dần dần tiến hóa thành một tổ chức ngày càng cao, có tổ chức ngày càng chặt chẽ và cuối cùng
thành não và vỏ não. Võ não người có nhiệm vụ nhận các tác động của ngoại giới, tạo ra những

15
hình ảnh tâm lí trong vỏ não. Vỏ não là cơ sở vật chất, là nơi tồn tại của cảm giác, tri giác, tưởng
tượng, trí nhớ tư duy và các hiện tượng tâm lí khác, là nơi chuẩn bị cho cử chỉ, hành vi, hành
động và hoạt động. Không có não và vỏ não hay não và vỏ não không bình thường thì không
có tâm lí. Hình ảnh tâm lí gắn liền với hoạt động của não nhưng tâm lí không phải là não và
càng không phải là chất gì do não tiết ra giống như gan tiết ra mật, theo quan điểm duy vật máy
móc (Môlêsốt, nhà sinh lí học người Hà Lan, 1822- 1893)
Phản ánh tâm lí tạo ra hình ảnh tâm lí, hình ảnh tâm lí là kết quả quá trình phản ánh thế
giới khách quan vào não. Song hình ảnh tâm lí khác về chất so với các hình ảnh cơ, vật lí, sinh
vật ở hình ảnh tâm lí mang tính sinh động, sáng tạo, không giống như hiện tượng vật lí. Để
cuốn sách trước gương, với điều kiện ánh sáng bình thường, trong gương có hình ảnh cuốn
sách.Thoạt xem tựa hồ đây như không có gì khác biệt nhưng thật ra có sự khác biệt rất xa, khác
nhau về bản chất. Trong gương không thể biết rằng trong gương có ảnh cuốn sách. Những hình
ảnh ấy trong đầu con người không đơn giản như ảnh trong gương được tạo nên theo các qui
luật quang học. Chúng có thể gợi lại hoặc tạo dựng cả một loạt ấn tượng, suy tư, cảm nghĩ, thái
độ. Hơn thế nữa khi cất cuốn sách đi ảnh trong gương cũng biến theo còn trong đầu con người
chưa biết đến bao giờ mới mất hình ảnh cuốn sách đó. Cuốn sách tạo ra trong óc người tương
tự với ảnh nó trong gương nhưng hai ảnh của cùng một vật trong não người và trong gương rất
khác nhau trên bìa sách có gì - trong gương có hình ảnh đó, tùy theo ánh sáng mà chỗ này tỏ,
chỗ kia mờ. Con người chưa chắc đã thấy hêt những gì diễn ra trước mắt nó, nhìn kĩ nét này,
bỏ qua điểm kia, không hoàn toàn phụ thuộc vào điều kiện ánh sáng. Rõ ràng ở đây có hai hiện
tượng vật lí và hiện tượng tâm lí. Tương tự như vậy ta thấy các hiện tượng cơ học, hóa học,
sinh vật có bản chất khác hẳn với hiện tượng tâm lí. Như vậy một khi có con người và có sự vật
tác động vào con người, ngoài các hiện tượng thiên nhiên còn có hiện tượng tâm lí nữa.
Muốn có phản ánh tâm lí cần có hai điều kiện cần và đủ : Hiện thực khách quan là nguồn
gốc, nội dung của phản ánh tâm lí. Não và giác quan là cơ sở vật chất để sinh ra tâm lí con
người. Ngoại giới tác động vào não tạo ra hoạt động thần kinh và hoạt động tâm lí về ngoại
giới. Tâm lí người chẳng qua là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não. Nếu thiếu một trong
hai điều kiện trên thì sẽ không có bất cứ hình thức tâm lí nào được nảy sinh. Tuy nhiên nếu có
não và hiện thực khách quan nhưng không có sự tác động qua lại gữa chúng thì cũng không
sinh ra tâm lí vì tâm lí là sản phẩm của sự tác động giữa não và hiện thực khách quan. Luận
điểm này khẳng định có hai yếu tố quyết định sự hình thành tâm lí người là não và hiện thực
khách quan. Tất cả các quá trình tâm lí từ đơn giản đến phức tạp đều xuất hiện trên cơ sở hoạt
động của não. Không có não thì không có hiện tượng tâm lí người. Hiện tượng tâm lí người có
nguồn gốc là thế giới khách quan. Nội dung của hiện tượng tâm lí người do hiện thực khách
quan quyết định.Tâm lí là chức năng của não, thông qua hình ảnh tâm lí, não điều khiển hoạt

16
động của người. Tâm lí là phản ánh tồn tại khách quan. Tâm lí là tổng hòa các hình ảnh chủ
quan (hình ảnh tâm lí) về tồn tại khách quan. Đó chính là thế giới nội tâm của con người. Tác
động đến tâm lí tức là tác động vào hệ thần kinh, khi làm việc và tiếp xúc với học sinh ta phải
chú ý thích đáng đến các qui luật hoạt động thần kinh và các qui luật hình thành những hình
ảnh tâm lí trong vỏ não. Tâm lí có nguồn gốc là thế giới khách quan vì thế trong công tác giáo
dục cần chú ý đến việc xây dựng và hoàn thiện môi trường sống và hoạt động của các em.
* Tâm lí người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người thông qua lăng kính chủ
quan của bản thân mỗi người(Tâm lí mang tính chỉ thể)
Phản ánh tâm lí không phải là sự phản chiếu thụ động của chiếc gương soi đối với sự
vật, hiện tượng của thế giới khách quan. Phản ánh tâm lí là sự phản ánh các tác động bên ngoài
của con người được khúc xạ qua những đặc điểm bên trong của người đó. Hình ảnh tâm lí bao
giờ cũng có ‘‘dấu ấn’’ riêng của người phản ánh. Nói một cách khác tâm lí là phản ánh thực tại
khách quan thông qua bản thân của người phản ánh (thông qua kinh nghiệm, tri thức, nhu cầu,
khát vọng, chí hướng) vì thế hình ảnh tâm lí mang tính chủ thể, mang đậm màu sắc cá nhân hay
nhóm người mang hình ảnh tâm lí đó. Hình ảnh tâm lí là hình ảnh chủ quan về hiện thực khách
quan.
Tính chủ thể của hình ảnh tâm lí thể hiện ở chỗ mỗi chủ thể trong khi tạo ra hình ảnh
tâm lí về thế giới đã đưa vốn hiểu biết, vốn kinh nghiệm, đưa cái riêng của mình về (nhu cầu,
xu hướng, tính khí, năng lực).. vào trong hình ảnh đó, làm cho nó mang đậm màu sắc chủ quan.
Lăng kính chủ quan chính là kinh nghiệm riờng, vốn sống, là trình độ phát triển tâm lí ở mỗi cá
nhân. Hiện thực khách quan khi tác động vào não phải thông qua lăng kính chủ quan này mà
mỗi cá nhân lại có lăng kính chủ quan không giống nhau do vậy, dấu ấn để lại trong hình ảnh
tâm lí của mỗi cá nhân về hiện thực khách quan là khác nhau. Sự khác nhau ấy chính là tính
chủ thể. Tính chủ thể biểu hiện rất đa dạng trong đời sống tâm lí:
+ Cùng nhận sự tác động của thế giới về cùng một hiện thực khách quan nhưng ở những
chủ thể khác nhau xuất hiện những hình ảnh, tâm lí với những mức độ, sắc thái khác nhau.
Hai người cùng xem một sự vật, họ đều giữ lại hình ảnh, sự vật trong não. Hai hình ảnh
của cùng một sự vật ở trong hai bộ não có những nét khác nhau. Trước một sự kiện lịch sử
người này có thể buồn bực, người kia phấn khởi. Giai cấp khác nhau, nghề nghiệp khác nhau,
hoàn cảnh sống khác nhau tạo ra cái khác nhau trong tâm lí.
+ Cùng một hiện thực khách quan tác động đến một chủ thể duy nhất nhưng vào những
thời điểm khác nhau, ở những hoàn cảnh khác nhau, với trạng thái cơ thể, tinh thần khác nhau
có thể cho ta thấy mức độ biểu hiện và các sắc thái tâm lí khác nhau ở chủ thể ấy. Một người
đối với chính một sự vật trong hai thời điểm khác nhau cũng có thể tạo ra hai hình ảnh của cùng
một sự vật với những nét riêng trong từng hình ảnh. Lập trường, tư tưởng, đạo đức, tư cách,

17
tâm trạng, tình cảm của người nào đều có dấu ấn trong sự phản ánh hiện thực khách quan của
người ấy. Ta thường nói mỗi người phản ánh thực tại khách quan thông qua lăng kính chủ quan
của mình: ‘‘Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ’’(Nguyễn Du)
+ Chính chủ thể mang hình ảnh tâm lí là người cảm nhận, cảm nghiệm và thể hiện nó
rõ nhất. Mỗi hiện tượng tâm lí bao giờ cũng xảy ra trong một con người cụ thể nào đấy. Trước
mắt ta có rất nhiều sự vật hiện tượng nhưng ta chỉ phản ánh sự vật hiện tượng nào đó và chỉ có
người tạo ra hình ảnh mới biết hình ảnh đó một cách rõ ràng, cụ thể và sinh động. Nhưng nói
như vậy tâm lí không phải là cái gì thần bí nằm trong con người mà người khác không thể biết
được, không phải là cái gì bí hiểm nằm trong ‘‘hộp đen’’ người khác không thể biết được như
phái tâm lí học hành vi ở Mĩ khẳng định. Thực tại khách quan là nguồn gốc của tâm lí hoạt
động tâm lí dựa vào cơ sở vật chất là não, hoạt động tâm lí có biểu hiện ra bên ngoài. Chính
thông qua hoạt động của não bộ và thực tại khách quan cũng như biểu hiện ra bên ngoài của
tâm lí mà tìm hiểu tâm lí của người này hay của người kia. Người giáo viên có thể và phải
nghiên cứu, nhận xét biểu hiện tâm lí học sinh để tiến hành công tác dạy học và giáo dục.
+ Thông qua các mức độ và sắc thái tâm lí khác nhau mà mỗi chủ thể tỏ thái độ, hành
vi khác nhau đối với hiện thực. Con người có thái độ riêng đối với hiện thực khách quan, có
hình ảnh tâm lí của bản thân không phải để mà biết mà còn để định hướng cho hành động, hành
vi và hoạt động tâm lí, tinh thần, tư tưởng – một sức mạnh tinh thần vô cùng to lớn. Hình ảnh
tâm lí phản ánh thực tại khách quan bao giờ cũng có màu sắc riêng của từng người. Vì vậy mỗi
người đều có một thái độ riêng của mình đối với thực tại khách quan. Chính vì thế công tác tư
tưởng phải giữ vai trò quyết định và phải đứng hàng đầu. Do đâu mà tâm lí người này khác tâm
lí người kia về thế giới khách quan? Điều đó do nhiều yếu tố chi phối, trước hết là mỗi con
người có đặc điểm riêng về sinh học: cơ thể, giác quan, hệ thần kinh, não bộ. Mỗi người có
hoàn cảnh sống khác nhau, điều kiện giáo dục không như nhau và đặc biệt mỗi người thể hiện
mức độ, tính tích cực hoạt động, giao lưu, nhu cầu, tri thức, kinh nghiệm khác nhau trong cuộc
sống vì thế tâm lí người này khác tâm lí người kia.
Như vậy mỗi người tiếp thu ‘cái chung’’ vốn có trong thực tại khách quan, dựa trên cơ sở ‘cái
chung’’ ấy tạo ra ‘‘cái riêng’’ của từng người. Đồng chí Lê Duẩn đã viết ‘‘Đã là một người thì
phải có cái riêng của con người, không thể có con người siêu hình. Không thể phá vỡ đơn vị
con người’’1 Cái chung và cái riêng trong tâm lí người ta hoà với nhau, liên kết với nhau rất
chặt chẽ, ‘‘cái chung’’ chỉ đạo ‘‘cái riêng’’, ‘‘cái riêng’’ nằm trong cái chung’’ở trong một
con người cụ thể. Chính vì có ‘cái riêng’’ ấy mà khi giảng dạy và giáo dục phải tạo mọi điều
kiện để học sinh trước hết phản ánh đầy đủ những nét cần thiết (cái chung của sự vật hiện tương)
làm cơ sở vững chắc cho những màu sắc riêng biệt của hình ảnh về sự vật hiện tượng. Tránh
thiên hướng quá thiên về ‘‘cái chung’’ hay chỉ tạo ra ‘‘cái chung’’. Đồng thời cũng không thể

18
xây dựng hay quá ngả về ‘‘cái riêng’’cần thiết. Giảng dạy và giáo dục cần phải nghiên cứu tìm
hiểu cái riêng con người bên cạnh cái chung của xã hội, địa phương, dân tộc, lứa tuổi của con
người ấy, nhất thiết phải chú ý đến nét tâm lí riêng, có cách đối xử riêng biệt cho phù hợp với
cá nhân, phát huy bản sắc riêng của mỗi con người. Giảng dạy và giáo dục là gây cho học sinh
những hoạt động tâm lí toàn diện, phong phú để học sinh tiếp thu‘‘cái chung’’ và sáng tạo ‘‘cái
riêng’’của mình.
*Tâm lí người có bản chất xã hội- lịch sử
Tâm lí người là sự phản ánh hiện thực khách quan, là chức năng của não, tâm lí của con
người là ‘‘lăng kính chủ quan’’ của các kinh nghiệm xã hội – lịch sử trong vốn sống của mỗi
người nói cách khác là kinh nghiệm xã hội- lịch sử biến thành cái riêng của mỗi người. Tâm lí
người tạo nên sự khác biệt về chất giữa tâm lí người và vật: Tâm lí người có bản chất xã hội
tính lịch sử. Bản chất xã hội - lịch sử của tâm lí người thể hiện như sau :
* Tâm lí người có nguồn gốc là thế giới khách quan, thế giới khách quan qui định tâm
lí người nhưng phần xã hội trong thế giới là phần quyết định nhất, thực tế phần tự nhiên cũng
được xã hội hoá vì thế giới tự nhiên được coi là đối tượng của hoạt động, lao động. Để tồn tại
và phát triển con người phải nhận thức và cải tạo tự nhiên, khi xuất hiện “phạm trù người” thì
tự nhiên đã không còn là tự nhiên thuần khiết nữa. Nó đã bị người hoá, mang đậm tính người.
Phần xã hội của thế giới quyết định tâm lí người thể hiện qua các mối quan hệ kinh tế xã hội,
các quan hệ đạo đức, pháp quyền các quan hệ hôn nhân, gia đình, các quan hệ người với người,
quan hệ xã hội... Những mối quan hệ này quyết định bản chất tâm lí người. Trên thực tế, con
người thoát ly khỏi các quan hệ xã hội đều làm cho tâm lí người mất bản tính người. Trình độ
phát triển của xã hội qui định, ảnh hưởng đời sống tâm lí người. “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”,
“Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”..
* Tâm lí của con người là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp của con người với tư
cách là chủ thể xã hội. Nghĩa là: Con người bằng chính hoạt động của mình, con người gia nhập
các mối quan hệ xã hội, con người tạo ra tâm lí của chính mình đồng thời tạo nên xã hội loài
người. Con người muốn tạo ra tâm lí của cá nhân mình thì phải hoạt động, giao tiếp với người
khác với xã hội, là chủ thể xã hội tích cực, sáng tạo của các hoạt động nhận thức và cải tạo thế
giới. Với tư cách thực thể xã hội đó là ngôn ngữ lao động, có nền văn hoá xã hội, tự nhiên, ý
thức, lý tưởng, nhân cách là phần quyết định tâm lí. C.Mác: Mắt chim đại bàng nhìn thấy xa
hơn ta nhưng ta nhìn thấy xa hơn nhiều mắt đại bàng vì ta có tri thức xã hội.
* Tâm lí của cá nhân là kết quả của mỗi cá nhân, là kết quả của quá trình lĩnh hội, tiếp
thu kinh nghiệm, nền văn hoá xã hội thông qua hoạt động và giao tiếp, trong đó giáo dục giữ
vai trò chủ đạo. Cơ chế hình thành tâm lí chính là nền văn hoá xã hội của con người biến thành
cái riêng của cá nhân bằng hoạt động giao tiếp (kết quả của quá trình lĩnh hội, tiếp thu vốn kinh

19
nghiệm xã hội qua hoạt động giao tiếp). Hoạt động của con người và mối quan hệ giao tiếp của
con người trong xã hội có tính quyết định. Con đường chủ yếu hình thành tâm lí của con người
bằng rèn luyện, hoạt động, giao tiếp, tiếp thu văn hoá xã hội.
Từ khi có loài người, lúc đầu là hái lượm, săn bắn, rồi tiến lên trồng trọt, chăn nuôi…vv,
sản xuất ra của cải vật chất, hàng hóa để tồn tại. Theo đó con người tự tạo lập ra nền văn minh
của chính loài người – đó là tổ hợp toàn bộ kinh nghiệm hoạt động sống của từng người và cả
cộng đồng nảy sinh và phát triển trong hàng chục vạn năm qua. Các kinh nghiệm ấy được ghi
lại trong công cụ lao động, trong cách thức sản xuất, kiến trúc, trang phục, thức ăn và cách ăn
đặc biệt phải nhấn mạnh một dạng tồn tại khác của các kinh nghiệm là tri thức(khoa học), là
thơ ca, tạo hình(văn học, nghệ thuật), là các mối quan hệ giữa người với người, người và
nhóm(cộng đồng) ..Để tồn tại và phát triển thế hệ trước truyền đạt các kinh nghiệm lịch sử của
xã hội cho thế hệ sau. Trên cơ sở đó thế hệ trẻ tiếp nối cha anh sáng tạo ra các kinh nghiệm
mới. Ngay cả mỗi cá nhân đều dùng vốn ngôn ngữ chung của cả dân tộc hay cộng đồng mà cá
nhân đó là thành viên để bộc lộ một nhu cầu, thái độ của bản thân hay điều khiển người khác
và dần dần có ngôn ngữ riêng của mình, sau cùng là dùng ngôn ngữ thầm trong đầu để điều
khiển bản thân. Con người tiếp thu các hình thái chung của loài người (hoạt động, giao lưu,
điều khiển..) và ngôn ngữ của cộng đồng, dần dần ngôn ngữ của mỗi người và phương thức
(hình thái) tồn tại và phát triển của mỗi người có màu săc riêng. Như vậy tâm lí chính là kinh
nghiệm xã hội, lịch sử chuyển thành kinh nghiệm của cá nhân.Cứ như vậy thế hệ tiếp nối thế
hệ đã tạo ra nền văn minh văn, hóa xã hội. Ví dụ như văn minh cổ đại Hi Lạp – La Mã, Trung
Quốc, Ấn Độ. Ở nước ta có văn hóa Đông Sơn,văn hóa Hòa Bình…và ngày nay là các cuộc
cách mạng khoa học kĩ thuật : Cơ giới hóa, điện khí hóa, hóa học hóa, điện tử, tin học.
* Tâm lí của con người hình thành và phát triển, biến đổi cùng sự phát triển lịch sử cá
nhân lịch sử dân tộc, cộng đồng. Tâm lí của mỗi con người bị chế ước bởi lịch sử cá nhân, cộng
đồng. Tâm lí cá nhân là sản phẩm của chính bản thân họ nên trong mỗi giai đoạn lịch sử của
bản thân cá nhân có những phương thức, mức độ phản ánh hiện thực khách quan khác nhau.
Tâm lí cũng tương ứng với các mức độ, phương thức đó đồng thời hiện thực khách quan của
phản ánh tâm lí cũng luôn vận động, phát triển theo lịch sử của sự vận động, phát triển của xã
hội, tâm lí con người cũng biến đổi theo. Trong công tác giáo dục cần chú ý hình thành tri thức,
kinh nghiệm xã hội - nguồn gốc đích thực của tâm lí con người, là sức mạnh tinh thần của mỗi
con người. Cần rèn luyện ý thức học tập, hoạt động trải nghiệm để lĩnh hội vốn tri thức, kinh
nghiệm, hình thành ‘‘vốn sống’’, giá trị văn minh nhân loại biến thành công cụ tâm lí của bản
thân. Tâm lí con người mang nội dung xã hội, là sự tổng hòa các quan hệ xã hội nơi con người
sống và hoạt động vì thế muốn giải thích đặc điểm tâm lí nào đó của học sinh cần dựa vào môi
trường sống của các em mà trước hết là môi trường văn hóa gia đình. Tâm lí người là sản phẩm

20
của hoạt động và giao tiếp vì thế phải tổ chức các hoạt động đa dạng và giao tiếp lành mạnh để
hình thành những nét tâm lí tốt đẹp.
Tâm lí người mang tính lịch sử, khi nhìn nhận và đánh giá học sinh phải dự vào hoàn cảnh sống
điều kiện giáo dục, văn hóa gia đình và ở mỗi giai đoạn lứa tuổi khác nhau để thấy được sự phát
triển trong tâm lí học sinh, tránh ‘áp đặt’’ khi nhìn nhận và đánh giá.
1.2. ĐẶC ĐIẺM, CẤU TRÚC CỦA KHOA HỌC TÂM LÍ VÀ TÂM, LÍ HỌC NGHỀ
NGHIỆP
1.2.1. Đặc điểm cơ bản của khoa học tâm lí
a. Tâm lí học nghiên cứu các hiện tượng tượng tâm lí rất gần gũi, cụ thể, gắn bó với con
người vừa rất phức tạp, trừu tượng
Từ lúc sinh ra, lớn lên, trưởng thành cho đến khi vĩnh biệt cõi đời, đời sống tâm lí của
con người luôn gắn bó, gần gũi với con người, từ những hiện tượng cảm giác đầu tiên : nghe,
nhìn, tri giác về thế giới, cảm xúc, trí nhớ, tư duy cho đến tình cảm, ý chí, ý thức, nhân cách
…vv đều rất hiện thực, gần gũi, vừa tiềm tàng vừa sống động, linh hoạt muôn màu, muôn vẻ ở
mỗi con người. Các hiện tượng tâm lí vừa cụ thể vừa trừu tượng , đan xen, hòa quện vào nhau
khó có thể tách bạch một cách rạch ròi, khó có thể cân, đong, đo, đếm như những hiện tượng
vật chất khác. Xét đến cùng tâm lí dù có trừu tượng đến đâu cũng bộc lộ qua cử chỉ, hành vi,
cách nói năng muôn hình, muôn vẻ.
b. Tâm lí học là nơi hội tụ nhiều khoa học nghiên cứu đời sống tâm lí con người
Tâm lí học là khoa học trung gian nằm giữa khoa học xã hội,triết học, khoa học tự nhiên
và khoa học kỹ thuật, công nghệ. Đối tượng khoa học tâm lí là những hiện tượng tinh thần
nhưng nó không tồn tại một cách lơ lửng, trừu tượng, phi vật chất, phi hiện thực mà nó gắn chặt
với cơ sở sinh lí thần kinh, các quá trình sinh lí, sinh hóa trên bộ não và thể hiện qua hệ thống
hành vi, hoạt động của con người. Mặt khác tâm lí con người có nội dung, có bản chất xã hội,
bị chế ước bởi các điều kiện kinh tế - xã hội và mang tính lịch sử vì thế tâm lí học là nơi hội tụ,
nơi giao thoa giữa hệ thống các khoa học về con người. Nói một cách hình ảnh và khiêm tốn
thì tâm lí học là bông hoa tươi đẹp nảy nở trên hai mảnh đất ‘‘tự nhiên’’ và ‘xã hội’’. Vì vậy
trong thành tựu của tâm lí học cũng như trong các phương pháp nghiên cứu của mình tâm lí học
đã kế thừa và tiếp thu có chọn lọc nhiều thành tựu và phương pháp của các khoa học có liên
quan. Trong cuộc sống cũng như công tác giáo dục khi nghiên cứu, hình thành và muốn giải
thích một hiện tượng tâm lí nào thì phải sử dụng các kiến thức khoa học tự nhiên, khoa học xã
hội và các kiến thức liên ngành : triết học, sinh học, giáo dục học, xã hội học…vv.
c. Tâm lí học là môn khoa học cơ bản trong hệ thống các khoa học về con người, là môn
nghiệp vụ trong hệ thống các khoa học tham gia vào việc đào tạo con người, hình thành
nhân cách con người nói chung và nhân cách nghề nghiệp nói riêng.

21
Không chỉ trong công việc đào tạo giáo viên mà trong rất nhiều lĩnh vực của đời sống
xã hội như văn học, nghệ thuật, pháp lí, quân sự, y học, thương nghiệp ngoại giao, du lịch,
quảng cáo đều sử dụng các tri thức của khoa học tâm lí. Trong công tác quản lí lãnh đạo xã hội,
trong giáo dục ở gia đình, giáo dục nghề nghiệp ở nhà trường, trong tự giáo dục, tự rèn luyện
của mỗi cá nhân tâm lí học có vai trò đặc biệt quan trọng.
1.2.2. Cấu trúc của khoa học tâm lí và tâm lí học nghề nghiệp trong hệ thống khoa học
tâm lí
a. Cấu trúc của khoa học tâm lí
Tâm lí học có ‘tiền sử’’ từ rất xa xưa ra đời muộn mằn hơn so với các khoa học khác.
Năm 1879, tâm lí học mới trở thành khoa học độc lập, tách ra khỏi triết học gắn liền với tên
tuổi nhà tâm lí học V. Vuntơ (1832- 1920) - người đã sáng lập ra phòng thí nghiệm tâm lí học
đầu tiên trên thế giới tại thành phố Laixic, Đức, chuyển từ phương pháp mô tả các hiện tượng
tâm lí sang nghiên cứu tâm lí bằng thực nghiệm. Nhưng với tính chất là khoa học độc lập, nhờ
ý nghĩa quan trọng và tính thiết thực của những ứng dụng khoa học nên chỉ hơn 100 năm đã có
lịch sử riêng và phát triển đặc biệt mạnh mẽ, phát triển theo ‘gia tốc’’ với tính chất nảy sinh,
hình thành từ hoạt động thực tiễn và phục vụ thực tiễn, hơn nữa hoạt động nào cũng cần con
người thực hiện và điều khiển mà có nhiều ngành tâm lí học khác nhau: tâm lí học đại cương,
tâm lí học lứa tuổi, tâm lí học lao động, tâm lí học y học, tâm lí học quản lí…Khi xã hội càng
phát triển, sự chuyên môn hóa ngày càng cao, phạm vi hoạt động ngày càng mở rộng. Phạm vi
nghiên cứu của tâm lí học rất rộng, một mặt tâm lí học ngày càng khái quát những vấn đề lí
luận sâu sắc, mặt khác ngày càng đi sâu vào thực tiễn cùng với các khoa học khác góp phần vào
công cuộc phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, phát huy cao độ nhân tố con người. Đội
ngũ các nhà tâm lí học ngày càng vững mạnh, kho tàng tri thức lí luận và phương pháp nghiên
cứu cũng như khả năng ứng dụng tâm lí ngày càng phong phú, thực sự đóng góp vào kho tàng
tri thức nhân loại của dân tộc, của mỗi con người. Các tri thức tâm lí học giờ đây đang được
vận dụng ở nhiều lĩnh vực đời sống như giáo dục, sản xuất, kinh doanh, quân sự, ngoại giao, y
tế...v.v. Có thể nói tâm lí học là một hệ thống gồm nhiều tổ chức nghiên cứu. Nhìn một cách
khái quát tâm lí học bao gồm tâm lí học đại cương và tâm lí học chuyên ngành
* Tâm lí học đại cương có vị trí đặc biệt trong các ngành tâm lí học. Là một phân ngành
trong tâm lí học, đề cập đến những phạm trù và khái niệm cơ bản nhất, những qui luật chung
nhất, những nguyên tắc lí luận, phương pháp luận, phương pháp cụ thể của tâm lí học.Tâm lí
học đại cương chỉ ra đối tượng, cơ sở tự nhiên, cơ sở xã hội và vai trò của khoa học này. Tâm
lí học đại cương là cái gốc của khoa học tâm lí. Tâm lí đại cương là phân ngành khái quát hóa,
trừu tượng hóa các ngành tâm lí học.

22
* Tâm lí học chuyên ngành: Khoa học tâm lí hiện nay có khoảng 50 ngành và phân
ngành ứng dụng. Theo thống kê năm 1985, người ta dựa vào ba cơ sở để phân loại các ngành
tâm lý học :
Tâm lí học hoạt động cụ thể của con người, tâm lí học phát triển, tâm lí học về các mối
quan hệ của con người trong xã hội. (Theo sự phân loại của K.K.Pla-tô-nốp, một nhà tâm lí học
Xô – Viết nổi tiếng. Hình 2.)

23
Tâm lý học đại cương và nhân cách
- Lịch sử TLH - Tâm - sinh lý học
- Cơ sở triết học, cơ sở tự nhiên, cơ sở
- TLH lịch sử xã hội của Tâm lý học - Tâm lý học động vật
- TLH ngôn ngữ - Phương pháp luận và các phương - Tâm lý học so sánh
- TLH sai biệt pháp cụ thể của Tâm lý học - Tâm lý học vũ trụ

TLH xã hội: TLH lứa tuổi: TLHSư phạm: TLH đặc biệt: TLH lao động: TLH kinh tế: TLH sáng tạo:
* Dân tộc *Tuổi mầm non * Dạy học * Trẻ mù * Giám định * TLH quân sự * Văn học
* tôn giáo * Tuổi nhi đồng * Giáo dục * Trẻ điếc lao động *TLHhàngkhông * Nghệ thuật
* Gia đình * Tuổithiếu niên * Chẩn đoán * Trẻ chậm * Tổ chức lao * TLH thương
* Giới tính * Tuổi thanh niên * Hướng nghiệp - khôn động nghiệp
* Giao tiếp * Tuổi trung niên Dạy nghề * Kĩ sư * TLH kinh doanh
* Nghề nghiệp * Tuổi già * Giáo viên * TLH du lịch
* TLH pháp lí

Hình 2. Sơ đồ hệ thống các ngành của khoa học tâm lí


Ghi chú : TLH: Ngành tâm lí học; *: phân ngành tâm lí học

24
Những chuyên ngành tâm lí học kể trên ra đời là do sự phân công lao động ngày càng
chuyên sâu, do đó sẽ còn xuất hiện những ngành tâm lí học mới nữa theo nhu cầu phát triển kinh
tế xã hội. Trong bảng liệt kê nói trên cũng chưa bao hàm hết các chuyên ngành tâm lí đã có. Gần
đây còn có tâm lí học ngôn ngữ, tâm lí học tuyên truyền…v.v.
b. Tâm lí học nghề nghiệp trong hệ thống khoa học tâm lí
Tâm lí học nghề nghiệp (Occupational Psychology) là phân ngành của tâm lí học lao động
nghiên cứu bản chất và qui luật tâm lí của hoạt động nghề nghiệp.
Thế giới nghề nghiệp luôn vận động và phát triển đa dạng. Người ta có thể phân loại nghề
theo những tiêu chuẩn khác nhau. Nếu dựa vào nội dung của đối tượng mà nghề tác độngvào,
người ta thấy có nghề người – tự nhiên, người – xã hội, người – người, người - kĩ thuật, người dấu
hiệu, người – nghệ thuật, người – tâm linh. Nếu căn cứ vào tính chất của thao – động tác, cử động
lao động khi hành nghề, người ta chia ra nghề lao động trí óc, lao động chân tay. Nếu căn cứ vào
trình độ mà người lao động đã được đào tạo, người ta chia ra các nghề công nhân, cán bộ kĩ thuật,
kĩ sư và bác học. Nếu căn cứ vào tính chất kĩ thuật của lao động mà chủ thể dùng khi thao tác
người ta chia ra các nghề không chuyên, nửa chuyên môn và chuyên môn hóa. Nếu căn cứ theo
các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, người ta thấy có các nghề lãnh đạo của quan chức,
làm công ăn lương của công chức trong các lĩnh vực nghề nông nghiệp, giao thông, thương nghiệp,
giáo dục, y tế, quan sự, công an, lâm nghiệp, ngư nghiệp...vv.
Nội dung tâm – sinh lí của nghề đã được mô hình hóa bằng bản đồ họa nghề (E.Professional
Map) nhằm mục đích hướng nghiệp. Nội dung của bản đồ họa nghề sẽ tiến hành mô tả rõ đối
tượng, đặc điểm – tâm sinh lí của nghề, những chống chỉ định, các bước – các công việc phải thực
hiện của nghề, tiêu chuẩn học – hành nghề, hình thức- nội dung – địa điểm – thời gian đào tạo, đặc
trưng trong hiện tại – tương lai của lao động, triển vọng phát triển của nghề, mức độ đãi ngộ vật
chất – tinh thần đối với chủ thể nghề...vv.
Quan niệm về nghề nghiệp theo nghĩa rộng nhất bao gồm toàn bộ các loại hình và trình độ
đào tạo lao động kĩ thuật đã qua đào tạo. Người tốt nghiệp ở bất cứ trình độ đào tạo nào cũng đều
phải tham gia vào cuộc sống lao động nghề nghiệp, tức là có một “nghề” nào đó ở một trình độ
nhất định để đảm bảo cho cuộc sống bản thân và gia đình, đồng thời góp phần vào việc xây dựng
quê hương, đất nước.
Nghề là sự tác động của chủ thể vào đối tượng theo qui trình kỹ thuật – công nghệ với sự
tiêu hao năng lượng thần kinh – cơ bắp xác định, nhằm biến đổi nó thành ra sản phẩm làm thỏa

25
mãn nhu cầu của mình cũng như của xã hội, thông qua đó, nó cũng làm biến đổi chính những thuộc
tính của nhân cách nghề. Trong giáo trình này quan niệm nghề nghiệp được đề cập theo nghĩa hẹp
như đã được qui định trong luật giáo dục năm 2005 và luật Dạy nghề năm 2006: Dạy nghề có các
trình độ đào tạo là sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề.
* Đối tượng của tâm lí học nghề nghiệp là các hiện tượng tâm lí và qui luật tâm lí nghề.
Các đặc điểm và qui luật của hoạt động nghề nghiệp lại luôn được hiện thực hóa trong hoạt động
và giao tiếp nghề, vì vậy hoạt động nghề và giao tiếp nghề cũng trở thành đối tượng của tâm lí học
nghề nghiệp. Khi phân tích những đặc trưng cơ bản của nghề, người ta phải chú ý tìm hiểu đối
tượng cũng như đặc điểm tâm – sinh lí, các bước lao động – các công việc chính trong khi hành
nghề, tiêu chuẩn học – hành nghề, triển vọng, hình thức – nội dung, địa điểm đào tạo và hành nghề.
Do vậy tâm lí học nghề nghiệp nghiên cứu các hiện tượng và qui luật tâm lí của hoạt động lao
động nghề nghiệp nhằm hình thành và phát triển nhân cách con người nói chung và thanh niên học
nghề nói riêng dưới tác động của hoạt động dạy nghề và hoạt động giáo dục nghề nghiệp. Nghiên
cứu đặc điểm nhân cách của người giáo viên dạy nghề. Việc nghiên cứu những vấn đề của tâm lí
học nghề nghiệp là rất quan trọng, có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và cần thiết đối với sinh viên sư
phạm kĩ thuật
*Ý nghĩa của tâm lí học nghề nghiệp. Việc nghiên cứu những vấn đề của tâm lí học nghề
nghiệp có ý nghĩa lí luận và thực tiễn rất quan trọng. Giúp xác định bản chất và qui luật tâm lí của
hoạt động giáo dục nghề nghiệp. Nhờ thành tựu nghiên cứu của tâm lí học nghề nghiệp mà tâm lí
học giáo dục nghề nghiệp, tâm lí học lao động sẽ ngày càng thu được những cứ liệu mới làm phát
triển hệ thống lí luận của tâm lí học nói chung và tâm lí học kĩ thuật nói riêng. Những thành tựu
nghiên cứu của tâm lí học nghề nghiệp sẽ được coi là tiền đề lí luận của mọi tác động giáo dục –
đào tạo nghề nghiệp trong thực tiễn của người giáo viên. Người giáo viên giữ vị trí trung tâm trong
trường dạy nghề, họ đóng vai trò chủ đạo, quyết định trong việc tổ chức, điều khiển và lãnh đạo
các tác động giáo dục nhằm làm phát triển nhân cách nghề cho học sinh. Do vậy mọi tác động giáo
dục nghề nghiệp của giáo viên trong trường dạy nghề và mọi tác động trong thực tiễn giáo dục
nghề nghiệp đều phải mang đậm nét tính lí luận của tri thức tâm lí học giáo dục nghề nghiệp đem
lại hiệu quả thiết thực theo mục tiêu của nền giáo dục kĩ thuật – nghề nghiệp.
* Tâm lí học nghề nghiệp có nhiệm vụ nghiên cứu lí luận, phát triển khoa học và phục vụ
thực tiễn. Nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể của tâm lí học nghề nghiệp :

26
+ Chỉ ra các chỉ số momg đợi, các chuẩn phát triển triển về kỹ năng, kỹ xảo, năng lực kỹ
thuật, tư duy kỹ thuật và tay nghề kỹ thuật của thanh niên học nghề và dự đoán sự phát triển đó
trong quá trình giảng dạy. Các nhân tố chi phối như hoạt động dạy nghề, giáo dục lao động, tư vấn
nghề nghiệp.Nghiên cứu để phát hiện cơ chế, các qui luật của việc hình thành, phát triển nhân cách
tuổi thanh niên học nghề dưới tác động của giáo dục nghề nghiệp và dạy nghề.
+ Nghiên cứu tâm lí tập thể thanh niên học nghề và ảnh hưởng của nó đến hoạt động xã
hội, hoạt động lao động kỹ thuật, hoạt động nghiên cứu khoa học, hoạt động học nghề của họ.
+ Cơ sở tâm lí của các hoạt động dạy tri thức khoa học kĩ thuật, phát triển trí tuệ, hình thành
năng lực kĩ thuật, tư duy sáng tạo, kĩ năng, kĩ xảo và tay nghề cho thanh niên học nghề.
+ Cơ sở tâm lí của giáo dục lao động và tổ chức các hoạt động khoa học, hợp lí cũng như
sự thích ứng của con người với hệ thống, phân tích một số nguyên nhân tai nạn lao động trong sản
xuất.
+ Tìm ra đặc điểm lao động sư phạm của người giáo viên dạy nghề cũng như cấu trúc nhân
cách của họ; Những cơ sở tâm lí của nghiệp vụ sư phạm và sự sáng tạo sư phạm đảm bảo cho hoạt
động sư phạm diễn ra có hiệu quả. Phân tích tâm lí mối quan hệ qua lại và giao tiếp giữa người
giáo viên dạy nghề và thanh niên học nghề. Phân tích quá trình thích ứng của thanh niên với việc
học nghề và điều kiện hoạt động nghề nghiệp sau khi ra trường
Từ những nhiệm vụ nghiên cứu nói trên tìm ra các giải pháp hữu hiệu nhất cho việc hình
thành và phát triển tâm lí nhân cách tuổi thanh niên học nghề cũng như thực hiện tốt công tác dạy
học và giáo dục lứa tuổi này. Nhiệm vụ quan trọng nhất của tâm lí học nghề nghiệp là phân tích
tâm lí của hoạt động học nghề. Bởi vì, toàn bộ nhân cách của người chuyên gia tương lai được
hình thành và biểu hiện trong hoạt động lao động của từng nghề. Do đó việc nghiên cứu những
đặc điểm, nội dung, cách tổ chức lao động khoa hoc, nhịp điệu và mức độ căng thẳng của hoạt
động lao động…vv , là những vấn đề quan trọng của tâm lí học nghề nghiệp. Để thực hiện những
nhiệm vụ trên tâm lí học nghề nghiệp có quan hệ chặt chẽ và sử dụng thành quả của các ngành
tâm lí học khác như tâm lí học phát triển, tâm lí học sư phạm (tâm lí học dạy học, tâm lí học giáo
dục), tâm lí học lao động, tâm lí học hướng nghiệp, tâm lí học giám định lao động, tâm lí học kỹ
sư…vv.
1.3. VỊ TRÍ, Ý NGHĨA CỦA TÂM LÍ HỌC TRONG CUỘC SỐNG VÀ NHỮNG ĐIỀU
KIỆN KHÁCH QUAN LÀM NẢY SINH TÂM LÍ HỌC NGHỀ NGHIỆP
1.3.1. Vị trí của tâm lí học trong hệ thống khoa học

27
a. Vị trí của tâm lí học trong hệ thống khoa học
Thời cổ đại, mọi khoa học đều nằm trong triết học. Trong quá trình phát triển, khoa học
phân hóa thành các ngành khác nhau, song chúng có mối quan hệ thống nhất với nhau.
Ph.Ăngghen đã nói ‘Mỗi khoa học phân tích một dạng riêng của vận động hay một dãy những
dạng vận động liên quan và chuyển tiếp từ dạng nọ sang dạng kia’’4
Triết học duy vật biện chứng là khoa học cơ sở, nền tảng – kim chỉ nam cho mọi khoa học. Khoa
học tự nhiên nghiên cứu sự vận động của tự nhiên như hóa học, vật lí học, sinh vật học.. Khoa
học xã hội nghiên cứu sự vận động của xã hội, các hình thái xã hội, các góc độ khác nhau như văn
học, lịch sử, dân tộc học..vv. Tâm lí học là khoa học trung gian nằm giữa khoa học xã hội và khoa
học tự nhiên vì tâm lí học nghiên cứu các hoạt động tâm lí của con người. Các hiện tượng tâm lí
con người có cơ sở vật chất là đặc điểm sinh học (cơ thể, não, giác quan, hệ thần kinh) và đồng
thời tâm lí người lại có bản chất xã hội, phản ánh cuộc sống xã hội lịch sử vì thế tâm lí học vừa có
tính chất của khoa học tự nhiên và vừa có tính chất của khoa học xã hội. Với vị trí đó tâm lí học
có quan hệ mật thiết và sử dụng thành quả của ác khoa học trong nghiên cứu đời sống tâm con
người.
Tâm lí học và triết học. Tâm lí học là một ngành khoa học được tách ra từ triết học, tâm lí
học đã lấy triết học làm nền tảng phương pháp luận của việc nghiên cứu tâm lí. Các luận điểm cơ
bản của triết học duy vật biện chứng chỉ đạo phương hướng phát triển tâm lí học và giải quyết các
vấn đề cơ bản của tâm lí học: bản chất tâm lí, động lực của sự phát triển tâm lí, xu hướng phát triển
tâm lí..vv, giúp cho tâm lí học đạt được những thành tựu to lớn phục vụ đắc lực đời sống xã hội.
Đồng thời tâm lí học cũng đóng góp để minh chứng và cụ thể hóa các tư tưởng triết học. V.I.Lênin
đã chỉ ra rằng, muốn xây dựng và phát triển phép biện chứng và lý luận nhận thức cần phải dựa
vào tâm lí học, dựa vào lịch sử phát triển trí tuệ của trẻ, lịch sử phát triển tâm lí động vật.
Tâm lí học và sinh lí học thần kinh cấp cao. C.Mác đã cho rằng tâm lí, ý thức chẳng qua là
hiện thực khách quan chuyển vào trong não, cải tổ trong não. Não chính là cơ sở vật chất của hiện
tượng tâm lí người. Vì vậy các tri thức của sinh vật học, đặc biệt là sinh lý học thần kinh giúp cho
tâm lí học nghiên cứu, giải thích được các hiện tượng tâm lí khác nhau của con người từ chú ý, tri
giác, trí nhớ đến các hiện tượng tâm lí cấp cao như tình cảm, năng lực, tạo ra sự vững chắc của
khoa học tâm lí. Khi nghiên cứu sinh lí học thần kinh con người cần phải nhìn thấy mối quan hệ
của nó với tâm lí người, nếu không con người chỉ là một loại động vật thuần túy và sẽ rơi vào
thuyết sinh vật hóa con người.

28
Tâm lí học và giáo dục học
Đối tượng của giáo dục học là quá trình dạy học và giáo dục con người ở các lứa tuổi khác
nhau. Đời sống tâm lí con người rất phong phú, phức tạp vừa mang cái chung của cả cộng đồng,
vừa mang cái riêng của một lứa tuổi, cái chủ thể của một con người cụ thể. Muốn thành công trong
dạy học và giáo dục học thì phải hiểu tâm lí con người để có hướng tác động cho phù hợp. Tâm lí
học là cơ sở cho giáo dục học, cung cấp những tri thức về tâm lí người, vạch ra đặc điểm tâm lí,
qui luật hình thành, phát triển tâm lí con người với tư cách vừa là chủ thể vừa là khách thể của
giáo dục. Ngược lại những nghiên cứu lí luận và thực tiễn của giáo dục học là các minh chứng
cho sự đúng đắn, khoa học của các kiến thức tâm lí, làm phong phú thêm cho khoa học tâm lí, tạo
ra điều kiện cho sự ứng dụng của tri thức tâm lí vào cuộc sống và phục vụ cuộc sống xã hội.
Tâm lí học còn có mối quan hệ mật thiết với các bộ môn khác của khoa hoc tự nhiên và
khoa học xã hội như dân tộc học, điều khiển học, lịch sử, toán học…vv. Do vị trí của khoa học
tâm lí trong hệ thống các khoa học nên khi học tập, nghiên cứu tâm lí cần chú ý đến tính chất xã
hội của hiện tượng tâm lí và cần chú ý đến cơ sở khoa học tự nhiện của hiện tượng tâm lí người.
1.3.2. Ý nghĩa của tâm lí học trong cuộc sống và hoạt động của con người
a. Ý nghĩa của tâm lí học trong cuộc sống và hoạt động của con người
Ý nghĩa của tâm lí học được xác định bởi vai trò của tâm lí với cuộc sống. Ở đâu có con
người là ở đó phải nói tới tâm lí. Về phương diện nào đó có thể nói rằng con người là một thực thể
tâm lí, Mỗi con người có thế giới nội tâm riêng. Cùng với việc khẳng định tính nhân loại chung
cho mọi người, cần phải khẳng định cái riêng biệt của từng người. Không bao giờ được quên vai
trò chung của loài người, của dân tộc, của giai cấp và không bao giờ coi nhẹ vai trò cá nhân, của
‘‘cái tôi’’ trong mỗi con người, quan hệ biện chứng giữa tiến bộ loài người và sự phát triển cá
nhân.
Tâm lí con người có chức năng định hướng, điều khiển, điều chỉnh nên tâm lí học có vai
trò to lớn đối với tất cả các lĩnh vực hoạt động con người: lao động sản xuất, giáo dục, y tế, thể
thao, an ninh quốc phòng, ..vv. Mục đích cao nhất của hoạt động lao động là tạo ra năng suất lao
động cao. Do vậy phải chú ý nhiều mặt từ việc chế tạo công cụ lao động, đảm bảo an toàn lao
động, tổ chức lao động hợp lý, xây dựng bầu không khí lao động tập thể, động viên, khen thưởng
trong lao động… tất cả các mặt đó của lao động đều cần đến các tri thức tâm lí học lao động, tâm
lí học kỹ sư, tâm lí học xã hội.

29
Đối với công tác giáo dục, tâm lí học có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng. Những tri thức
tâm lí học là cơ sở khoa học cho việc định hướng đúng trong dạy học, giáo dục người học: hiểu
tâm lí người học từ đó sử dụng các iện pháp, các phương tiện giáo dụcj có hiệu quả.
Ngoài ra, hầu khắp các lĩnh vực khác nhau của xã hội: Tư pháp, thanh tra, y tế, thương
mại, du lịch .. đều cần đến sự có mặt của khoa học tâm lí. Sự ra đời của các khoa khọc liên ngành
như tâm lí học y học, tâm lí học tư pháp, tâm lí học du lich... vv, là minh chứng cụ thể cho vai trò
to lớn của tâm lí học với các khoa học khác và cuộc sống xã hội con người. Điều đáng chú ý là ở
các nước có nền công nghiệp rất phát triển như Mĩ, Đức, Nhật khoa học tâm lí rất phát triển với
đội ngũ cán bộ tâm lí học đông đảo nhất. Ngày nay nhiều nước coi tâm lí là kết cấu hạ tầng của xã
hội và kéo theo là giáo dục - con đường chủ yếu để hình thành, phát triển tâm lí người - được coi
là kết cấu hạ tầng của xã hội, tựa như giao thông, bưu điện là kết cấu hạ tầng của kinh tế. Nói về
điều kiện để nước ta cất cánh trong thời kì đổi mới đã từng được đề cập đến điều kiện về tâm lí,
điều kiện về chính sách…v.v.

b.Ý nghĩa của tâm lí học nghề nghiệp trong cuộc sống và hoạt động của con người
Tâm lí học nghề nghiệp có ý nghĩa lớn lao cả về lí luận và thực tiễn :
Góp phần vạch ra những qui luật hình thành và phát triển tâm lí của thanh niên học nghề
trong điều kiện đào tạo ở nhà nhà trường đại học, cao đẳng, trung cấp kỹ thuật chuyên nghiệp và
các cơ sở dạy nghề. Chuẩn bị tâm lí cho họ bước vào hoạt động nghề nghiệp, phát triển nhân cách
người lao động kỹ thuật có tay nghề cao. Giúp quá trình hình thành nhân cách thanh niên học nghề
phù hợp với nội dung học vấn ở trình độ đào tạo nghề nghiệp tương ứng.
Hình thành ở thanh niên học nghề xu hướng tự giáo dục, chỉ ra các phương pháp, biện pháp tự rèn
luyện, định hướng và viễn cảnh của sự phát triển nhân cách và khả năng tự hoàn thiện. Biết tổ chức
và kế hoạch hóa quá trình học tập, lao động của thanh niên học nghề khoa học, hiệu quả.
Giúp người giáo viên hiểu rõ các đặc điểm nghề nghiệp của mình mà tiến hành các hoạt
động nghề nghiệp có hiệu quả,cho phép người giáo viên cải tiến phương pháp giảng dạy bộ môn,
tìm hiểu và sử dụng phương pháp mới có hiệu quả, phù hợp trong dạy học và sử dụng hiệu quả các
phương tiện kỹ thuật trong dạy học, giúp người giáo viên tổ chức hợp lí hoạt động lao động và
hoàn thiện bản thân. Muốn tiến hành hoạt động nghề nghiệp có hiệu quả thì bản thân người giáo
viên phải phát triển và hoàn thiện nhân cách của mình.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TÂM LÍ HỌC NGHỀ NGHIỆP

30
1.4.1. Nguyên tắc phương pháp luận của việc nghiên cứu tâm lí
a. Nguyên tắc đảm bảo tính khách quan.Các qui luật khách quan không phụ thuộc vào ý thức
con người và ý chí con người. Phương pháp khách quan là phương pháp dẫn đến nhận thức được
chân lý khách quan. Tâm lí học có nhiệm vụ phát hiện ra các qui luật tâm lí không phụ thuộc vào
cái chủ quan của người nghiên cứu và nếu làm được như vậy, tâm lí học sẽ hướng dẫn con người
làm việc đúng hơn, hiệu quả hơn và giúp con người nghỉ ngơi, suy nghĩ và hoạt động một cách
khoa học. Người nghiên cứu phải xác định rõ khách thể, đối tượng nghiên cứu, tìm những phương
pháp kỹ thuật nghiên cứu có thể định tính và định lượng được.
b. Nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứng
Nguyên tắc này khẳng định tâm lí có nguồn gốc là thế giới khách quan tác động vào bộ
não con người thông qua “lăng kính chủ quan” của con người.Tâm lí người mang bản chất xã hội
lich sử. Tâm lí định hướng, điều khiển, điều chỉnh hoạt động, hành vi của con người tác động trở
lại thế giới, trong đó yếu tố xã hội là quan trọng nhất. Vì vậy, khi nghiên cứu tâm lí con người cần
thấm nhuần nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứng. Khi nghiên cứu tâm lí học sinh phải
tổ chức các hoạt động để nghiên cứu, đánh giá. Nghiên cứu và giải thích các hiện tượng tâm lí
trong mối quan hệ với môi trường sống và hoạt động cụ thể của các em và các đặc điểm sinh học.
Có thái độ phê phán với các quyết định luận sinh học, quyết định luận xã hội, quyết định luận duy
tâm khi nhìn nhận tâm lí con người.
c. Nguyên tắc thống nhất tâm lí, ý thức,nhân cách với hoạt động
Hoạt động là phương thức hình thành, phát triển và thể hiện tâm lí, ý thức, nhân cách; đồng
thời tâm lí, ý thức và nhân cách cũng tác động trở lại hoạt động. Do đó, hoạt động và tâm lí, ý
thức, nhân cách thống nhất với nhau. Nguyên tắc này cũng khẳng định, tâm lí luôn luôn vận động
và phát triển, vì vậy cần phải nghiên cứu tâm lí trong sự vận động của nó, qua sự diễn biến và sản
phẩm của hoạt động. Nghĩa là khi nghiên cứu một hiện tượng tâm lí riêng lẻ nào cũng phải thấy rõ
nó trong một nhân cách cụ thể, vận hành, biểu hiện trong quá trình hoạt động và giao lưu cụ thể
của chủ thể.
d.Nghiên cứu tâm lí của một con người cụ thể
Phải nghiên cứu tâm lí của một con người cụ thể, một nhóm người cụ thể chứ không nghiên
cứu một cách chung chung, nghiên cứu tâm lí ở một con người trừu tượng, một cộng đồng trừu
tượng.

31
e. Nghiên cứu tâm lí trong các mối liên hệ giữa chúng với nhau và trong mối liên hệ giữa chúng
với các hiện tượng khác
Các hiện tượng tâm lí không tồn tại một cách biệt lập mà chúng có quan hệ chặt chẽ với
nhau, bổ sung cho nhau, chuyển hoá lẫn nhau đồng thời chúng còn chi phối và chịu sự chi phối
của các hiện tượng tự nhiên, xã hội khác khác. Vì vậy khi nghiên cứu tâm lí không được xem xét
một cách riêng lẻ mà phải đặt chúng trong mối liên hệ và quan hệ giữa các hiện tượng tâm lí trong
nhân cách và giữa các hiện tượng tâm lí với các hiện tượng khác nhằm chỉ ra ảnh hưởng lẫn nhau,
các quan hệ phụ thuộc nhân quả, những qui luật tác động qua lại giữa chúng.
f. Nghiên cứu tâm lí trong sự vận động và phát triển. Tâm lí con người có sự nảy sinh, vận động
và phát triển. Sự phát triển tâm lí là quá trình liên tục tạo ra những nét tâm lí mới, đặc trưng cho
các giai đoạn phát triển tâm lí nhất định. Khi nghiên cứu tâm lí, phải thấy được sự biến đổi của
tâm lí chứ không cố định, bất biến và chỉ ra những nét tâm lí mới đặc trưng cho mỗi một giai đoạn
phát triển tâm lí.(thời điểm nghiên cứu, mối quan hệ giữa các thời kì phát triển, thời gian, không
gian cụ thể của sự phát triển)
1.4.2. Phương pháp nghiên cứu tâm lí học nghề nghiệp
Các nhà nghiên cứu thường dùng các phương pháp truyền thống của tâm lí học như tets, quan
sát, đàm thoại, nghiên cứu sản phẩm của hoạt động, phỏng vấn và thực nghiệm tự nhiên và các
phương pháp hiện đại như phân tích lí luận, phân tích hoạt động - giao tiếp của nhân cách và thực
nghiệm hình thành. Mặt khác để đảm bảo được độ tin cậy cho các kết luận, nhà nghiên cứu còn
phải có kĩ năng sử dụng tri thức toán thống kê- xác xuất vào xác định hàm số tương quan giữa các
thông số - chỉ số biểu hiện của đối tượng khi tiếp cận.
a. Phương pháp quan sát
Quan sát là theo dõi, thu thập hành động và hoạt động của đối tượng trong điều kiện tự nhiên để
phán đoán, nhận xét về yếu tố tâm lí đã chi phối chúng, từ đó rút ra các quy luật, cơ chế của chúng.
Phương pháp quan sát cho phép chúng ta thu thập được các tài liệu cụ thể, khách quan trong các
điều kiện tự nhiên của con người song phương pháp này cũng tốn nhiều công sức, mất nhiều thời
gian…Để phương pháp quan sát đạt hiệu quả cao cần chú ý các yêu cầu sau:
- Xác định mục đích, nội dung, kế hoạch quan sát.
- Chuẩn bị chu đáo về mọi mặt.
- Tiến hành quan sát cẩn thận và có hệ thống.
- Ghi chép tài liệu quan sát một cách khách quan, trung thực…

32
b. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
Là phương pháp dùng một số câu hỏi nhất loạt đặt ra cho một số lớn đối tượng nghiên cứu
nhằm thu thập ý kiến chủ quan của họ về một vấn đề nào đó. Có thể trả lời viết (thường là như
vậy) nhưng cũng có thể trả lời miệng và có người ghi lại.Có thể điều tra thăm dò chung hoặc điều
tra chuyên đề để đi sâu vào một số khía cạnh. Câu hỏi dùng để điều tra có thể là câu hỏi đóng tức
là có nhiều đáp án sẵn để đối tượng chọn hoặc có thể là câu hỏi mở để họ tự trả lời. Dùng phương
pháp này có thể trong một thời gian ngắn thu thập được một số ý kiến của rất nhiều người nhưng
là ý kiến chủ quan. Để có tài liệu tương đối chính xác cần soạn kỹ bảng hướng dẫn điều tra viên
vì nếu những người này phổ biến một cách tuỳ tiện thì kết quả sẽ sai rất khác nhau và mất hết giá
trị khoa học.
c. Phương pháp thực nghiệm
Thực nghiệm là quá trình tác động vào đối tượng một cách chủ động trong những điều kiện
đã được khống chế để gây ra ở đối tượng những biểu hiện về quan hệ nhân quả, tính quy luật, cơ
cấu, cơ chế của chúng có thể lặp đi lặp lại nhiều lần và đo đạc, định lượng, định tính một cách
khách quan các hiện tượng cần nghiên cứu Có 2 loại thực nghiệm cơ bản: Thực nghiệm tự nhiên,
Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm:
Thực nghiệm tự nhiên được tiến hành trong điều kiện bình thương của cuộc sống hoạt động.
Trong quá trình quan sát nhà nghiên cứu chỉ thay đổi những yếu tố riêng rẽ của hoàn cảnh còn
trong thực nghiệm tự nhiên nhà nghiên cứu có thể chủ động gây ra những biểu hiện và diễn biến
tâm lí bằng cách khống chế một số nhân tố không cần thiết cho việc nghiên cứu, làm nổi bật những
yếu tố cần thiết có khả năng giúp cho việc khai thác, tìm hiểu các nội dung cần thực nghiệm.
Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm: Phương pháp thực nghiệm trong phòng thí nghiệm
được tiến hành dưới điều kiện khống chế một cách nghiêm khắc các ảnh hưởng bên ngoài, người
làm thí nghiệm tự tạo ra những điều kiện để làm nảy sinh hay phát triển một nội dung tâm lí cần
nghiên cứu do đó có thể tiến hành nghiên cứu tương đối chủ động hơn so với quan sát và thực
nghiệm tự nhiên. Tuy nhiên, phương pháp thực nghiệm cũng khó khống chế hoàn toàn ảnh hưởng
của các yếu tố chủ quan của người bị thực nghiệm vì thế phải tiến hành thực nghiệm một số lần và
phối hợp đồng bộ với nhiều phương pháp khác.
d. Phương pháp trắc nghiệm(test)
Test là một phép thử để đo lường tâm lí mà trước đó đã được chuẩn hoá trên một số lượng người
đủ tiêu biểu.Test trọn bộ thường gồm 4 phần:

33
- Văn bản Test.
- Hướng dẫn quy trình tiến hành.
- Hướng dẫn đánh giá.
- Bảng chuẩn hoá.
Sử dụng phương pháp Test có một số ưu điểm cơ bản: Test có khả năng làm cho hiện tượng
tâm lí cần đo trực tiếp bộ lộ qua hành động giải bài tập test. Có khả năng lượng hoá, chuẩn hoá chỉ
tiêu tâm lí cần đó.
Tuy nhiên, sử dụng Test cũng có những khó khăn, hạn chế: Khó soạn thảo một bộ test đảm
bảo tính chuẩn hoá. Test chủ yếu cho ta biết kết quả, ít bộ lộ suy nghĩ của nghiệm thể để đi đến
kết quả.
e. Phương pháp đàm thoại (phỏng vấn)
Là cách đặt những câu hỏi cho đối tượng và dựa vào trả lời của họ để trao đổi, hỏi thêm
nhằm thu thập những thông tin về vấn đề cần nghiên cứu. Có thể đàm thoại trực tiếp hoặc gián tiếp
tuỳ theo sự liên quan của đối tượng với điều ta cần biết. Có thể hỏi thẳng hay hỏi đường vòng.
Muốn đàm thoại thu được kết quả tốt: Xác định rõ mục đích, yêu cầu của vấn đề cần tìm hiểu. Xác
định trước thông tin về đối tượng đàm thoại với một số đặc điểm của họ. Có kế hoạch trước để lái
hướng câu chuyện. Rất linh hoạt trong việc lái hướng này để câu chuyện vừa giữ được lôgic của
nó, vừa đáp ứng yêu cầu của người nghiên cứu.
f. Phương pháp phân tích sản phẩm của hoạt động
Đây là phương pháp quan trọng nhất trong tâm lí học nghề nghiệp. Đó là phương pháp dựa
vào các kết quả sản phẩm (vật chất, tinh thần) của hoạt động do con người làm ra để nghiên cứu
các chức năng tâm lý của người đó. Bởi vì, trong sản phẩm do con người làm ra có chứa “dấu vết”
tâm lý, ý thức, nhân cách của con người. Sử dụng phương pháp này cần chú ý: các kết quả hoạt
động phải được xem xét trong mối liên hệ với những điều kiện cụ thể khi tiến hành hoạt động. Để
sử dụng tốt phương pháp này cần:
- Tìm cách dựng lại càng đầy đủ càng tốt quá trình hoạt động đưa đến sản phẩm mà ta nghiên cứu.
- Tìm cách phục hiện lại hoàn cảnh trong đó sản phẩm được làm ra.
- Tìm hiểu các mặt tâm lí khác của nghiệm thể ngoài mặt đã thể hiện trong sản phẩm (đàm thoại,
phỏng vấn, test, quan sát…).
g. Phương pháp nghiên cứu tiểu sử cá nhân

34
Trên đây, chúng tôi vừa trình bày những phương pháp nghiên cứu tâm lí học thường dùng,
tuy nhiên muốn nghiên cứu một vấn đề tâm lí học một cách khoa học, khách quan, chính xác cần
phải: Sử dụng các phương pháp thích hợp với vấn đề nghiên cứu (tuỳ theo ưu điểm, hạn chế của
mỗi phương pháp). Sử dụng nhiều phương pháp để bổ cứu cho nhau.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Tâm lí học là gì? Phân tích đối tượng của tâm lí học.
2. Trình bày bản chất xã hội của hiện tượng tâm lí người. Cho ví dụ minh họa
3. Từ việc phân tích bản chất hiện tượng tâm lí hãy rút ra những kết luận cần thiết trong công
tác dạy học và giáo dục?
4. Chia trang giấy thành hai phần: Bên phải ghi những hiện tượng mà theo bạn những những
hiện tượng tâm lí; Bên trái là những hiện tượng không phải là những hiện tượng tâm lí. Cố
gắng ghi được 10 tên ở phần bên phải.
5. Nêu sự khác biệt cơ bản giữa quan niệm tâm lí học duy vật biện chứng và phân tâm học,
tâm lí học hành vi về bản chất tâm lí người.
6. Nêu vai trò, ý nghĩa của hiểu biết về tâm lí học nghề nghiệp trong công tác giáo dục và đào
tạo. Lấy ví dụ minh họa
7. * Thảo luận. Bản chất hiện tượng tâm lí người.
- Tâm lí, ý thức hình thành và phát triển trong hoạt động
BÀI TẬP THỰC HÀNH
Bài tập 1. Hãy làm thí nghiệm nhỏ như sau: Vẩy một giọt mực vào tờ giấy trắng, rồi gấp đôi tờ
giấy lại để có hai hình loang lổ đối xứng nhau qua đường gấp. Bạn hãy nhìn xem chúng giống cái
gì ? Sau đó đưa cho người khác xem và hỏi họ xem nó giống cái gì ? Thường thì ý kiến của họ
không giống ý kiến của bạn! Tại sao vậy? Có thể rút ra kết luận gì từ thí nghiệm này?
Bài tập 2. Tìm các câu ca dao, tục ngữ nói về quá trình tâm lí, trạng thái tâm lí, thuộc tính tâm lí
con người.
Bài tập 3. Có thể rút ra kết luận gì qua câu chuyện dưới đây: Có một bà rất sợ bệnh nhồi máu cơ
tim . Bà cho rằng mình bị mắc chứng bệnh này nên nằm nhà cả ngày và cho mời bác sĩ chuyên
khoa tim mạch nổi tiếng đến khám bệnh,. Các bác sĩ đều kết luận bà không có bệnh. Một bác sĩ có
uy tín đã nói đùa rằng: “Bà không sợ chi hết! Nếu có chết sớm thì cũng chết cùng một lúc với tôi!”
(Ông này rất khỏe). Chẳng may ba ngày sau ông ta bị chết đột ngột. Nghe tin ấy bà kia cũng chết
luôn.

35
Bài tập 4. Kẻ trên một tờ giấy trắng 2 đoạn thẳng A và B. Đoạn thẳng A dài 10 cm, đoạn B dài 4
cm. Dù có xoay tờ giấy theo hướng nào, bạn cũng như mọi người đều thấy rằng đoạn A dài hơn
đoạn B. Từ đó có thể rút ra một đặc điểm quan trọng nào của phản ánh tâm lí mà thiếu nó thì tâm
lí học sẽ không phải là một khoa học?
Bài tập 5. Hãy xác định xem những phương pháp nào phù hợp hay không phù hợp với những yêu
cầu nghiên cứu một cách duy vật biện chứng? Tại sao?
a. Nghiệm thể ( người được nghiên cứu ) được đưa vào một phòng cách li đặc biệt. Có các
dụng cụ ghi lại những biến đổi về hô hấp, huyết áp, mạch đập xuất hiện khi nghiệm thể bị
kích thích tâm lí mạnh. Các kết quả thực nghiệm đối chiếu với các tài liệu khác nhau về
nghiệm thể, thu được từ các thí nghiệm khác, từ tiền sử, từ các tài liệu quan sát về nghiệm
thể đó trong một hoạt đọng nhất định của nó.
b. Xác định một số đặc điểm cá thể của nhân cách nghiệm thể, các năng lực, vị thế xã hội xu
hướng, hứng thú, tính cách, căn cứ theo phiếu trả lời của nghiệm thể.

36

You might also like