You are on page 1of 9

Bài 1: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

I. TỔNG QUAN VỀ DNNN


1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước
DNNN là một tổ chức kinh tế thuộc sở hữu nhà nước, do Nhà nước đầu tư thành lập 100% vốn
hoặc chiếm giữ tỷ lệ cổ phần khống chế, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật về doanh nghiệp nhằm thực
hiện những mục tiêu, nhiệm vụ do Nhà nước giao.
Việt Nam là một nước chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, DNNN là một bộ phận quan trọng trong hệ thống doanh nghiệp, chiếm giữ những vị trí
kinh tế trọng yếu trong nền kinh tế quốc dân.
DNNN vừa là một loại hình doanh nghiệp hoạt động bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp
khác, vừa là một loại hình doanh nghiệp đặc thù do Nhà nước sở hữu vốn và trực tiếp quản lý nhằm thực
hiện những mục tiêu, nhiệm vụ do Nhà nước giao. Tính chất hai mặt này của DNNN quy định sự đặc thù
trong quản lý, quản trị DNNN và cũng là căn nguyên của mọi sự phức tạp và tranh luận về cơ chế quản lý
chúng trong quá trình phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
DNNN ở Việt Nam đến nay sau nhiều lần tổ chức lại và đổi mới cơ chế quản lý mặc dù đã giảm
mạnh về số lượng nhưng vẫn chiếm tỷ trọng khá cao trong cơ cấu GDP, chiếm giữ nhiều lĩnh vực kinh tế
quan trọng, có nhiều đặc quyền đặc lợi. DNNN cũng là nơi phát sinh nhiều vấn đề về quản lý, gây thất thoát
và lãng phí lớn về vốn và tài nguyên, gây bất bình trong nhân dân. Trong suốt quá trình đổi mới DNNN
luôn là trung tâm của các đợt đổi mới cơ chế quản lý, là tâm điểm chú ý của xã hội.
Về mặt pháp lý, để nhận diện DNNN ở Việt Nam có 3 tiêu chí cơ bản sau đây:
- DNNN trước hết phải là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động như một doanh nghiệp độc lập
theo Luật Doanh nghiệp dưới hai hình thức pháp lý phù hợp: Công ty TNHH nhà nước một thành viên;
Công ty cổ phần nhà nước.
- Nhà nước sở hữu vốn điều lệ từ 51% trở lên.
- Mục tiêu hoạt động: trên nguyên tắc tự chủ tài chính DNNN cũng theo đuổi mục tiêu bảo toàn vốn, đạt
lợi nhuận cao, thực hiện các mục tiêu phát triển do Nhà nước giao. Riêng đối với các doanh nghiệp chuyên thực
hiện các dịch vụ, nhiệm vụ mang tính công ích do Nhà nước giao, mục tiêu của doanh nghiệp là hoàn thành các
nhiệm vụ công ích trên nguyên tắc hạch toán và tự chủ tài chính.
Cần phân biệt DNNN với kinh tế nhà nước
+ Kinh tế nhà nước là một khái niệm kinh tế chính trị học để chỉ quan hệ và xác định vài trò của các
thành phần (khu vực) kinh tế trong nền kinh tế nói chung.
+ DNNN là khái niệm để chỉ các tổ chức kinh tế (doanh nghiệp) hạch toán kinh doanh, tự chủ tài
chính, tham gia vào các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh. DNNN chỉ là một bộ phận của kinh tế nhà nước.
Kinh tế nhà nước có nội hàm rộng hơn, phản ánh sức mạnh và quy mô kinh tế của Nhà nước khi
tham gia hoạt động, điều tiết nền kinh tế dưới nhiều hình thức, trong đó có hình thức thành lập các DNNN
để kinh doanh.
Kinh tế nhà nước có ít nhất bốn bộ phận cấu thành sau đây:
- DNNN: những tổ chức kinh tế hạch toán độc lập tham gia vào lĩnh vực kinh doanh.
- Dự trữ quốc gia: lực lượng kinh tế - tài chính được sử dụng với mục đích bình ổn thị trường và giữ
an ninh kinh tế ở các lĩnh vực cần thiết như lương thực, vật tư chiến lược, hàng tiêu dùng ứng phó với thiên
tai, ngoại tệ, vàng...
- Tài chính nhà nước1: lực lượng tài chính của Nhà nước tham gia hoạt động cấp vốn cho các doanh
nghiệp dưới hình thức các quỹ tài chính (ngân hàng đặc biệt) chuyên cấp vốn có hoàn trả để thực hiện các
mục tiêu đầu tư phát triển các ngành và lĩnh vực trọng điểm hoặc hỗ trợ phát triển các ngành, lĩnh vực ưu

1
Tài chính nhà nước ở đây là thuật ngữ chỉ bộ phận của kinh tế nhà nước tham gia vào hoạt động kinh tế dưới hình
thức cấp vốn cho các doanh nghiệp thông qua kênh tài chính – tín dụng quay vòng có hoàn trả. Khái niệm này khác với khái
niệm tài chính nhà nước theo nghĩa rộng trong tiếp cận tài chính công như một hệ thống các quan hệ tài chính của Nhà nước
với nền kinh tế.
1
tiên. Hiện nay, tài chính nhà nước ở nước ta hoạt động thông qua 2 định chế tài chính cơ bản là Ngân hàng
Phát triển và Ngân hàng Chính sách.
- Vốn và tài sản của Nhà nước có tham gia vào hoạt động kinh doanh: bao gồm vốn của Nhà nước
tham gia vào các công ty cổ phần dưới mức 50%, các tài sản của Nhà nước được sử dụng vào hoạt động
kinh tế, kinh doanh.
2. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay, DNNN có ba vai trò rõ rệt:
- Vai trò kinh tế
Vai trò kinh tế của DNNN thể hiện ở bốn nội dung sau:
+ Là bộ phận chủ lực của kinh tế nhà nước tham gia vào các lĩnh vực kinh doanh cần thiết, góp
phần để kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Để thực hiện vai trò này, các
DNNN được thành lập và phát triển với định hướng, quy mô đủ lớn ở những lĩnh vực kinh doanh cần thiết
cho việc thực hiện vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Đó là các lĩnh vực mũi nhọn như điện lực, viễn
thông, khai thác dầu khí, khoáng sản, sản xuất dầu khí, hóa chất, phân bón, vận tải hàng không, đường sắt...
Ở những lĩnh vực này DNNN chiếm tỷ trọng tuyệt đối hoặc áp đảo nhằm khẳng định vai trò của kinh tế nhà
nước trong các ngành chủ lực của nền kinh tế quốc dân.
+ Chiếm giữ những vị trí kinh tế trọng yếu của nền kinh tế quốc dân liên quan đến an ninh kinh tế,
chính trị, quân sự. Để thực hiện vai trò này, các DNNN phải đầu tư, phát triển và khẳng định hiệu quả ở
những ngành và lĩnh vực trọng yếu về mặt kinh tế, an ninh, quốc phòng đối với quốc gia. Đó là các nhà
máy có vị trí chiến lược như điện hạt nhân, chế biến dầu khí, sản xuất vũ khí, quản lý về khai thác cảng
biển, sân bay, đường sắt, quản lý và khai thác hệ thống phân phối điện, mạng truyền thông, vận tải hàng
không, sản xuất vũ khí, chất nổ... Ở những lĩnh vực này, DNNN thường được Nhà nước giao cho quyền
kinh doanh độc quyền và phải chịu trách nhiệm phát triển ngành, phát huy hiệu quả kinh doanh.
+ Là lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế. Thực hiện vai trò
này, các DNNN ở những ngành liên quan đến các cân đối vĩ mô quan trọng của từng thời kỳ phải có quy
mô và tiềm lực đủ lớn, khi cần thiết làm công cụ thực hiện mục tiêu điều tiết các cân đối vĩ mô của nền kinh
tế. Các điều tiết vĩ mô quan trọng của Nhà nước cần có sự góp sức của các DNNN bao gồm: điều tiết tổng
cung - tổng cầu, điều tiết về giá, điều tiết lãi suất, điều tiết cân đối tiền - hàng, điều tiết cung - cầu các mặt
hàng chủ lực trong những thời điểm nhạy cảm hoặc tình huống thiên tai... Khi thực hiện vai trò là lực lượng
vật chất để Nhà nước điều tiết vĩ mô, các DNNN được Nhà nước hỗ trợ về các điều kiện vật chất, tài chính
và cơ chế, nhưng các doanh nghiệp phải triệt để và nỗ lực phối hợp với Nhà nước để đạt mục tiêu về điều
tiết vĩ mô.
+ DNNN là công cụ điều chỉnh dài hạn trong phát triển kinh tế. Thực hiện vai trò này, các DNNN
được đầu tư, phát triển ở các ngành, các lĩnh vực mới có triển vọng chiến lược nhưng khu vực tư nhân chưa
có đủ khả năng phát triển hoặc do hiệu quả ban đầu quá thấp. Đến khi phát triển tốt, hiệu quả cao, đủ sức
hấp dẫn các thành phần khác đầu tư, DNNN lại chuyển giao cho khu vực tư nhân để đầu tư vào những lĩnh
vực mới khác...
- Vai trò xã hội
+ Đảm nhận sản xuất, cung ứng dịch vụ ở một số lĩnh vực liên quan đến cung cấp hàng hóa
công cộng, các hoạt động kinh tế gắn với an ninh - quốc phòng, gắn với chiến lược phát triển vùng của
quốc gia.
+ Tham gia thực hiện một số chính sách xã hội mà Nhà nước cần có doanh nghiệp thực hiện như
cung cấp nhu yếu phẩm cho đồng bào dân tộc, cung cấp vốn cho các chương trình chính sách xã hội, phát
triển nông thôn...

- Vai trò chính trị: thể hiện ở chỗ toàn bộ hệ thống DNNN phải là lực lượng quan trọng góp phần
củng cố và phát triển hệ thống chính trị, giúp Nhà nước thực hiện những mục tiêu chiến lược và bảo vệ chủ
quyền quốc gia.
3. Đặc điểm của doanh nghiệp nhà nước
Thứ nhất, tính chất sở hữu của các DNNN không rõ ràng về chủ thể. DNNN có chủ sở hữu là Nhà
nước hoặc toàn dân (sở hữu công), nhưng Nhà nước hoặc toàn dân là những chủ thể không rõ ràng về
2
người đại diện pháp lý, càng không rõ ràng khi đảm nhận tư cách chủ sở hữu các doanh nghiệp hạch toán
kinh doanh. Chính vì tính chất không rõ ràng về chủ sở hữu nhà nước nên cơ chế quản lý công ty đối với
DNNN luôn có khiếm khuyết, không có mô hình tối ưu và phù hợp mang tính cạnh tranh. Đặc điểm không
rõ ràng về sở hữu là nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ, yếu kém về hiệu quả và năng lực
của các DNNN.
Thứ hai, cơ chế quản lý đối với DNNN mang tính hành chính, quan liêu, không ổn định. Đặc điểm
này là hệ quả trực tiếp từ đặc điểm về chủ sở hữu đã nêu ở trên. Do Nhà nước là chủ thể sở hữu không rõ
ràng, lại chuyên về thực hiện các chức năng quyền lực nhà nước đối với toàn xã hội theo nguyên tắc hành
chính công quyền nên khi thực hiện quản lý các DNNN, tính chất hành chính, quan liêu vẫn không thể khắc
phục được. Đặc điểm này góp phần làm năng lực cạnh tranh của DNNN thường yếu kém hơn doanh nghiệp
tư nhân cùng điều kiện.
Thứ ba, sự chồng chéo, cồng kềnh trong quản lý của Nhà nước đối với các DNNN. Do Nhà nước là
chủ thể bao gồm rất nhiều cơ quan khác nhau nên khi thực hiện quản lý các DNNN, thường phân công cho
các cơ quan (chủ yếu thuộc ngành hành pháp) thực hiện quản lý theo chức năng của mình. Điều này làm
cho các quan hệ quản lý đối với DNNN trở nên chồng chéo, cồng kềnh vừa có nguy cơ gây rối loạn quản
lý, vừa làm kìm chế quyền tự chủ, sự năng động, sáng tạo của các doanh nghiệp.
Thứ tư, dù thiết lập mô hình quản trị nào thì quản trị các DNNN cũng kém năng động do chế độ
quyền hạn – trách nhiệm không rõ ràng, sòng phẳng, không có sự giám sát thiết thực và hiệu quả, do vậy
trách nhiệm giải trình của lãnh đạo doanh nghiệp không rõ ràng. Đặc điểm này bắt nguồn từ ba đặc điểm đã
nêu ở trên về quản lý của Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu và cơ quan quản lý nhà nước.
Thứ năm, các DNNN thường chậm đổi mới công nghệ, thiết bị máy móc, sử dụng tài nguyên,
nhân lực kém hiệu quả, kết quả là hoạt động sản xuất kinh doanh kém hiệu quả hơn các doanh nghiệp
khác cùng điều kiện. Đặc điểm này là hệ quả trực tiếp từ các đặc điểm đã nêu.
4. Phân loại doanh nghiệp nhà nước
- Phân theo tỷ trọng sở hữu của Nhà nước: Có hai loại:
+ DNNN 100% vốn nhà nước. Các doanh nghiệp loại này được đăng ký dưới hình thức pháp lý
công ty TNHH nhà nước một thành viên. Loại này áp dụng cho các doanh nghiệp quy mô lớn, quan trọng,
hoặc các doanh nghiệp đặc biệt mà Nhà nước có chủ trương nắm giữ sở hữu 100% lâu dài.
+ DNNN có vốn nhà nước từ 51% đến dưới 100%. Loại này được đăng ký dưới hình thức công ty
cổ phần, trong đó vốn sở hữu của Nhà nước từ 51% trở lên, phần còn lại do các thể nhân và pháp nhân tư
nhân sở hữu. Loại doanh nghiệp này áp dụng cho các doanh nghiệp mà Nhà nước chủ trương cổ phần hóa
(thường ở các ngành cạnh tranh), nhưng Nhà nước vẫn phải giữ cổ phần chi phối hoặc các doanh nghiệp
chưa bán được đủ tỷ lệ cổ phần để chuyển sang khu vực tư nhân.
- Phân theo quy mô
Việc phân loại theo quy mô rất quan trọng để áp dụng các mô hình tổ chức, mô hình quản trị, tiêu
chuẩn và chế độ cán bộ lãnh đạo... Tiêu chí để phân hạng doanh nghiệp theo quy mô bao gồm: quy mô vốn,
doanh thu, lao động, trình độ công nghệ (áp dụng có phân biệt giữa các ngành). Có 4 loại quy mô sau:
+ DNNN hạng đặc biệt: đây là các doanh nghiệp có quy mô rất lớn, bao gồm các tập đoàn kinh tế,
các tổng công ty lớn, do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập và quản lý.
+ DNNN hạng A (hạng I): bao gồm các doanh nghiệp có quy mô vốn, doanh thu, lao động vào loại
lớn, do cấp bộ hoặc UBND tỉnh quyết định thành lập và quản lý.
+ DNNN hạng B (hạng II): bao gồm các doanh nghiệp có quy mô vừa về vốn, doanh thu, lao động.
+ DNNN hạng C (hạng III): bao gồm các doanh nghiệp có quy mô nhỏ về vốn, doanh thu, lao động.
- Phân theo mô hình tổ chức và quản trị
+ Tập đoàn kinh tế nhà nước: bao gồm các DNNN quy mô lớn, tổ chức toàn ngành, theo mô hình
công ty mẹ - con. Mô hình quản trị đối với các tập đoàn có hội đồng thành viên và tổng giám đốc điều hành.
+ Tổng công ty: bao gồm các Tổng công ty 91 do Thủ tướng quyết định thành lập và các Tổng công ty
90 do cấp bộ, UBND tỉnh quyết định thành lập. Mô hình quản trị các tổng công ty có hội đồng quản trị và tổng
giám đốc điều hành.
+ Công ty độc lập: bao gồm các DNNN quy mô vừa và lớn hoạt động độc lập. Mô hình quản trị các
doanh nghiệp này hoặc có hội đồng quản trị (nếu quy mô lớn hoặc là công ty hỗn hợp nhà nước sở hữu

3
dưới 100% vốn), hoặc có chủ tịch công ty (nếu quy mô vừa). Các doanh nghiệp này do bộ và UBND tỉnh
thành lập và quản lý.
+ Công ty thành viên của một DNNN khác: bao gồm các doanh nghiệp trực thuộc (công ty con) của
DNNN khác (công ty mẹ). Các doanh nghiệp này do công ty mẹ quyết định thành lập và quản lý.
- Phân theo tính chất độc quyền của doanh nghiệp
+ DNNN độc quyền: bao gồm các doanh nghiệp mà Nhà nước giao nhiệm vụ độc quyền kinh
doanh một ngành nào đó. Những doanh nghiệp này phải có đủ sức mạnh, quy mô đảm nhận cung ứng hàng
hóa, dịch vụ trong phạm vi toàn ngành cho nền kinh tế.
+ DNNN cạnh tranh: bao gồm các doanh nghiệp ở các ngành cạnh tranh với các doanh nghiệp khác.
Loại này lại gồm 2 loại nhỏ: cạnh tranh trong khuôn khổ độc quyền nhà nước (chỉ có các DNNN cạnh tranh
với nhau) và cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp khu vực khác.
II. QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1. Phân định quản lý nhà nước và quản trị kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà nước
Thứ nhất, phân định rõ về bộ máy tổ chức quản lý: các cơ quan quản lý nhà nước phải tách bạch về
bộ máy, nhân sự, tiền lương đối với các DNNN.
Thứ hai, phân định rõ ràng về quyền hạn và trách nhiệm: bằng thể chế, phải quy định rõ ràng, minh
bạch về quyền hạn, trách nhiệm của lãnh đạo các DNNN từ hội đồng thành viên, hội đồng quản trị đến tổng
giám đốc điều hành.
Thứ ba, thực hiện quản lý nhà nước đối với DNNN, Nhà nước phải bảo đảm nguyên tắc bình đẳng;
không phân biệt đối xử giữa DNNN với các loại hình doanh nghiệp khác.
2. Nội dung quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước
2.1. Thực hiện các chức năng quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nói chung
DNNN là một loại hình doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Vì vậy chúng phải chịu
sự quản lý của Nhà nước theo thể chế quản lý chung đối với các doanh nghiệp nói chung.
- Ban hành khung khổ pháp lý để doanh nghiệp hoạt động. Theo đó, Nhà nước ban hành khung khổ
pháp lý chung tạo môi trường pháp lý cho doanh nghiệp hoạt động. Hệ thống luật tạo môi trường pháp lý
cho doanh nghiệp bao gồm bốn loại: Thứ nhất, luật pháp điều chỉnh quá trình thành lập, hoạt động, giải thể
- phá sản doanh nghiệp bao gồm Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Phá sản. Thứ hai, các luật chung
quy định về quyền kinh doanh và môi trường kinh doanh nói chung như: Luật Dân sự, Luật Thương mại,
Luật Phá sản, Luật Đất đai, Luật Lao động... Thứ ba, các luật riêng điều chỉnh quá trình thành lập, hoạt
động của các doanh nghiệp ở các ngành và lĩnh vực đặc thù như kinh doanh ngân hàng, tài chính, dầu khí,
khai thác tài nguyên, xuất khẩu lao động. Thứ tư, các luật điều chỉnh quan hệ tài chính với Nhà nước bao
gồm các luật thuế liên quan đến doanh nghiệp là đối tượng nộp thuế.
- Ban hành và thực hiện các chính sách đối với doanh nghiệp. Theo đó, Nhà nước tùy theo mục tiêu
và định hướng chiến lược của mình ban hành các chính sách liên quan đến doanh nghiệp. Hệ thống chính
sách này bao gồm các chính sách ưu đãi, các chính sách hạn chế và chính sách hỗ trợ theo tiêu chí ngành,
lĩnh vực mà Nhà nước thấy cần thiết phải áp dụng chính sách. Các chính sách này phải bảo đảm nguyên tắc
bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa DNNN và doanh nghiệp khu vực tư nhân.
- Tổ chức bộ máy thực hiện các thủ tục hành chính liên quan đến doanh nghiệp. Ở nội dung này,
quan trọng nhất là giải quyết thủ tục đăng ký kinh doanh. Theo tinh thần của Luật Doanh nghiệp 2005, thủ
tục đăng ký kinh doanh phải chuyển đổi từ cơ chế xin - cho trước đây sang cơ chế đăng ký hiện nay. Ngoài
ra, yêu cầu các cơ quan nhà nước phải chuyển sang cơ chế một cửa. Về thời hạn, rút ngắn thời gian làm thủ
tục xuống còn 7 ngày.
- Tổ chức các hoạt động đào tạo phục vụ cho doanh nghiệp, có hai mảng: đào tạo về nghiệp vụ và
kỹ năng cho bộ máy của Nhà nước về quản lý các doanh nghiệp, bảo đảm thực hiện đúng luật pháp và các
định hướng phát triển của đất nước và tổ chức các hoạt động đào tạo hỗ trợ các doanh nghiệp về kiến thức
luật pháp, phát triển các kỹ năng kinh doanh cho người quản lý doanh nghiệp, phát triển tay nghề cho công
nhân lành nghề...
- Kiểm tra, thanh tra hoạt động của doanh nghiệp. Việc kiểm tra, thanh tra hoạt động của doanh
nghiệp phải được tiến hành thường xuyên nhưng không được chồng chéo, gây cản trở hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp. Mục đích của kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp là kiểm tra sự tuân thủ pháp luật, tuân
thủ hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn, kiểm tra các vụ việc đột xuất. Việc kiểm tra, thanh tra thường được

4
tiến hành theo các chuyên ngành chức năng của quản lý nhà nước như tài chính, lao động, tiền lương,
an toàn, an ninh trật tự...
2.2. Thực hiện chức năng chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước
Về mặt nguyên tắc, Nhà nước có thể thực hiện quyền sở hữu của mình thông qua hội đồng quản trị/
hội đồng thành viên hoặc chủ tịch công ty như Luật Doanh nghiệp 2005 quy định. Ở Việt Nam hiện nay,
các định chế nêu trên hoạt động chưa hiệu quả. Các định chế này trên thực tế thể hiện như là thủ trưởng trực
tiếp hơn là người đại diện chủ sở hữu tại DNNN. Hội đồng quản trị và thành viên hưởng lương hoặc phụ
cấp trực tiếp từ DNNN theo kết quả kinh doanh và chế độ phân phối thu nhập của doanh nghiệp, do vậy họ
có xu hướng theo đuổi mục tiêu lợi ích nhóm của DNNN, xa rời các lợi ích chung của xã hội mà Nhà nước
đại diện. Do vậy, ở Việt Nam, việc thực hiện chức năng chủ sở hữu đối với các DNNN đòi hỏi phải bổ sung
nhiều nhiệm vụ của cơ quan quản lý nhà nước trong việc điều hành, giám sát hoạt động của DNNN.
Thực hiện chức năng này, Nhà nước tiến hành các công việc sau đây:
- Hoạch định và thực hiện chiến lược phát triển các DNNN trong hệ thống doanh nghiệp của quốc
gia. Đây là công việc rất quan trọng quyết định định hướng phát triển hệ thống DNNN và có tác dụng định
hướng dài hạn cho các DNNN phát triển. Để thực hiện công việc này, Nhà nước phải xác định rõ mục tiêu
phát triển dài hạn của các DNNN về ngành nghề, phạm vi, quy mô, tốc độ. Đồng thời, cân đối đủ các nguồn
lực cần thiết, xác định rõ lộ trình thực hiện các mục tiêu.
- Thực hiện các thủ tục thành lập, quản lý và bổ nhiệm cán bộ đối với các doanh nghiệp. Với tư
cách là chủ sở hữu, Nhà nước phải tiến hành các thủ tục cần thiết về thành lập mới doanh nghiệp nhà nước
và bổ nhiệm các chức danh lãnh đạo quản lý doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động, Nhà nước thực hiện
các nghiệp vụ quản lý cán bộ lãnh đạo DNNN thuộc diện Nhà nước bổ nhiệm hoặc tuyển dụng, tiến hành
các thủ tục về bổ nhiệm lại, bổ nhiệm mới, miễn nhiệm, kỷ luật đối với các cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp
thuộc diện quản lý của cơ quan chủ quản.
Khi DNNN không còn cơ sở để tiếp tục hoạt động, Nhà nước tiến hành thủ tục giải thể doanh
nghiệp hoặc cho tiến hành thủ tục phá sản theo luật định.
- Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Nhà nước thực hiện nội dung này thông qua các nghiệp
vụ xác định vốn hoặc đánh giá lại vốn nhà nước tai doanh nghiệp, giao vốn, quyết định đầu tư tăng vốn,
giảm vốn, điều chuyển vốn tại các DNNN. Cần lưu ý là Nhà nước chỉ nên quản lý vốn chứ không quản lý
tài sản tại doanh nghiệp. Quyền sử dụng vốn, quản lý tài sản trong kinh doanh thuộc về bộ máy quản trị
doanh nghiệp.
- Xác lập các mô hình quản lý công ty (Cooporate Governance) phù hợp và hiệu quả. Mô hình quản
lý công ty thích hợp sẽ quyết định hiệu quả quản lý đối với doanh nghiệp. Trên thế giới đã có nhiều mô
hình quản lý khác nhau với những ưu nhược điểm khác nhau. Một số quốc gia chỉ áp dụng một mô hình
quản lý công ty đối với các DNNN và đã rất thành công trong thực tế như Singapore, Đức.
Các mô hình quản lý công ty áp dụng ở Việt Nam hiện nay bao gồm:
+ Mô hình tập đoàn: thông qua tập đoàn để quản lý bản thân tập đoàn và các công ty con của
tập đoàn. Mô hình tập đoàn kinh tế là mô hình thí điểm và đến nay vẫn chưa được hoàn thiện cả về thể
chế lẫn phương thức quản lý.
+ Mô hình tổng công ty: áp dụng cho các doanh nghiệp lớn có cấu trúc mẹ - con kinh doanh đơn
ngành hoặc đa ngành. Mô hình này lại có 2 loại nhỏ: Tổng công ty lớn do Thủ tướng Chính phủ quyết định
và quản lý (áp dụng theo Quyết định 91/Ttg) và Tổng công ty do cấp ngành hoặc địa phương quyết định và
quản lý (áp dụng theo Quyết định 90/Ttg).
+ Mô hình công ty kinh doanh và đầu tư vốn nhà nước. Theo mô hình này, thông qua một công
ty chuyên quản lý vốn (Holding) để quản lý các DNNN khác. Hiện nay mô hình này mới áp dụng ở
Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính (Tổng công ty SCIC).
+ Mô hình công ty chuyên ngành trực thuộc bộ hoặc địa phương. Mô hình này áp dụng cho các
công ty chuyên ngành kinh doanh mặt hàng đặc biệt (xổ số, giải trí) và các dịch vụ công ích như cấp thoát
nước, cây xanh, môi trường, khai thác thủy lợi, quốc phòng...
- Thực hiện các đợt sắp xếp lại (từ cấu trúc) các DNNN. Việc sắp xếp, tổ chức lại các DNNN
thường được làm theo đợt, theo nhu cầu đổi mới của cơ chế quản lý và thực trạng hoạt động của các DNNN
và nền kinh tế nói chung. Theo đó, Nhà nước chủ động đề ra kế hoạch và thực hiện kế hoạch tổ chức, sắp
xếp lại (tái cấu trúc) các DNNN để định hướng phát triển các DNNN theo mục tiêu của Nhà nước.
5
- Giám sát các DNNN là nhiệm vụ rất quan trọng của chủ sở hữu nhà nước để đảm bảo sự giám sát
chặt chẽ các hoạt động của DNNN. Sự giám sát này có thể tiến hành lồng ghép với nghiệp vụ kiểm tra,
thanh tra chung đã nêu ở phần trên. Tuy nhiên, giám sát DNNN còn có những tính chất và nội dung riêng.
Trước hết, phải giám sát sự thực hiện các mục tiêu chiến lược của Nhà nước liên quan đến doanh nghiệp.
Thứ hai, giám sát tài chính DNNN phải theo nguyên tắc định kỳ (ít nhất hàng năm) để các cơ quan quản lý
nhà nước và công chúng hiểu rõ tình hình phát triển và hiệu quả của doanh nghiệp, kịp thời phát hiện các
lệch chuẩn về quản lý và vi phạm pháp luật. Thứ ba, giám sát cán bộ do Nhà nước bổ nhiệm làm lãnh đạo
doanh nghiệp phục vụ cho các nghiệp vụ quản lý cán bộ.
III. GIẢI PHÁP VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
3.1. Quá trình đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà nước
3.1.1. Các giai đoạn đổi mới
Đổi mới các DNNN ở Việt Nam bao gồm hai quá trình lồng ghép và đan xen nhau. Quá trình thứ
nhất là đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường
hạch toán kinh doanh. Quá trình thứ hai là tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp từ một hệ thống trên
12.000 doanh nghiệp trước đây đến nay chỉ còn trên 2.000 và sẽ còn tiếp tục giảm mạnh về số lượng và lĩnh
vực độc quyền.
Trong hơn 30 năm qua, đã có ba giai đoạn đổi mới quản lý DNNN như sau:
- Giai đoạn 1981-1990
Đổi mới quản lý DNNN theo cơ chế mới bắt đầu từ năm 1981 với các Quyết định 25/CP và 26/CP trao
một phần tự chủ về kế hoạch và tài chính cho các DNNN theo cơ chế kế hoạch 3 phần A, B và C, trong đó kế
hoạch A là làm theo kế hoạch Nhà nước giao, kế hoạch C là kế hoạch tự chủ theo nhu cầu thị trường, kế hoạch
B kết hợp giữa kế hoạch nhà nước và nguồn lực thị trường. Đây chính là bước thí điểm để khẳng định sự đúng
đắn của cơ chế mới áp dụng cho các DNNN, làm căn cứ để Đại hội VI khẳng định đường lối đổi mới từ năm
1986.
Thực hiện Nghị quyết của Đại hội VI (Đại hội khẳng định đường lối đổi mới), với Quyết định
217/HĐBT (1987) đã khẳng định cơ chế tự chủ kế hoạch và tài chính, chuyển hẳn các DNNN sang hạch
toán kinh doanh, đồng thời giảm mạnh các chỉ tiêu kế hoạch từ trên 20 chỉ tiêu xuống chỉ còn 1 chỉ tiêu nộp
ngân sách. Việc thành lập DNNN cũng được nới lỏng, cho phép cả cấp chính quyền địa phương tỉnh, huyện
ra quyết định thành lập doanh nghiệp với điều kiện rất cởi mở. Kết quả là các DNNN có năng lực sản xuất
được "bung ra" chiếm lĩnh thị trường, đẩy mạnh sản xuất - kinh doanh, số lượng DNNN tăng lên nhanh
chóng và đạt con số đỉnh cao vào năm 1990 trên 12.300 doanh nghiệp, trong đó hơn 60% là doanh nghiệp
địa phương quy mô nhỏ. Tuy nhiên, đến đầu năm 1991, khi đất nước thực sự phải chuyển sang cơ chế thị
trường, không còn nguồn bao cấp từ các nước XHCN nữa, hàng loạt DNNN tỏ ra yếu kém và tan rã.
- Giai đoạn 1991-2005
Đây là giai đoạn đổi mới triệt để toàn bộ hệ thống DNNN nói chung. Đầu tiên, bằng Nghị định
388/HĐBT (1991) các DNNN phải đăng ký lại, chuyển đổi tên gọi thành các công ty, tổng công ty theo cơ
chế thị trường. Qua đăng ký lại, Nhà nước thực hiện xóa tên, giải thể, sáp nhập hàng loạt doanh nghiệp nhỏ,
yếu kém, chồng chéo chức năng, đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có năng lực xây dựng
thương hiệu kinh doanh phù hợp với cơ chế thị trường. Kết quả là đã giảm số lượng DNNN từ 12.300
xuống còn 6.050. Tuy số lượng giảm mạnh nhưng các DNNN vẫn tăng lên về quy mô, tỷ trọng, đảm nhận
tốt vai trò của mình trong nền kinh tế.
Đến năm 1995, với việc ban hành Luật DNNN đánh dấu bước đổi mới quan trọng về quản lý
DNNN. Theo tinh thần Luật DNNN, tiếp tục khuyến khích các doanh nghiệp quy mô lớn và có hiệu quả
phát triển, hình thành các tổng công ty, tập đoàn kinh tế toàn ngành. Đồng thời rà soát theo Luật DNNN để
giải thể, sáp nhập những doanh nghiệp yếu kém. Trong giai đoạn này, đáng chú ý là Chính phủ đã có hàng
loạt biện pháp về sắp xếp lại các DNNN kết hợp với các biện pháp triển khai cơ chế quản lý mới theo
khung khổ của Luật DNNN 1995. Kết quả là các DNNN tiếp tục giảm mạnh về số lượng (đến năm 2005
chỉ còn 4011 doanh nghiệp), nhưng hệ thống DNNN vẫn có sự tăng trưởng khá về tổng thể, phát huy được
vai trò của mình về tỷ trọng, thu nộp ngân sách, đảm nhận những ngành trọng yếu... Tuy nhiên, các DNNN
vẫn còn quá nhiều về số lượng, phát triển ở quá nhiều ngành, lĩnh vực, không cần thiết, nhiều doanh nghiệp
tỏ ra không hiệu quả, mô hình quản lý vẫn tỏ ra lúng túng...

6
- Giai đoạn từ 2006 đến nay
Với việc ban hành và thực hiện Luật Doanh nghiệp 2005 đã chính thức bãi bỏ Luật DNNN 1995,
các DNNN từ năm 2006 phải chuyển sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp chung. Trong giai đoạn này,
về mặt cơ chế quản lý, yêu cầu phải tách hẳn quản lý nhà nước với quản trị kinh doanh của doanh nghiệp,
tiếp tục khẳng định quyền tự chủ của doanh nghiệp, đặc biệt là các tập đoàn, tổng công ty, nhưng cũng tăng
cường và đổi mới quản lý và giám sát của Nhà nước. Về tổ chức, sắp xếp lại, tiếp tục thực hiện các đề án
sắp xếp lại, tái cấu trúc, thực hiện cổ phần hóa quy mô lớn, thí điểm mô hình công ty kinh doanh và đầu tư
vốn nhà nước (SCIC)... Đây cũng là giai đoạn mà mô hình quản trị các tập đoàn, tổng công ty tỏ rõ các
điểm yếu, nhiều doanh nghiệp lớn như Vinashin, Vinalines... không những không khẳng định được vai trò
liên kết ngành, hiệu quả cao mà còn làm lãng phí, thất thoát hàng chục nghìn tỷ đồng vốn đầu tư của Nhà
nước.
Đến nay, về cơ chế và mô hình quản lý, Nhà nước tiếp tục nghiên cứu để khẳng định, áp dụng cơ
chế và các mô hình phù hợp. Về tổ chức, sắp xếp lại, đang thực hiện đề án tái cấu trúc lại các DNNN, theo
đó sẽ thu hẹp mạnh đầu mối các doanh nghiệp lớn và toàn bộ hệ thống các DNNN, giảm mạnh lĩnh vực độc
quyền nhà nước, đẩy mạnh cổ phần hóa để áp dụng cơ chế quản trị công ty hiện đại cho các doanh nghiệp
sau cổ phần hóa...
3.1.2. Đánh giá chung về quá trình đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà nước
Những thành công đã đạt được
- Trong gần 30 năm qua, bằng sự nỗ lực, sáng tạo của Đảng, Nhà nước và các doanh nghiệp, đã
chuyển đổi thành công cơ chế quản lý doanh nghiệp từ tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường.
Với cơ chế mới, mặc dù còn đang tiếp tục hoàn thiện, đã phát huy được sức mạnh, năng lực của các DNNN
giữ được vai trò của mình trong nền kinh tế, DNNN đã cùng với các bộ phận khác của kinh tế nhà nước để
giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, đảm nhận những ngành kinh doanh trọng yếu, giữ mức tăng
trưởng khá, nhiều doanh nghiệp đã khẳng định năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
- Trong quá trình đổi mới, đã tìm tòi, thử nghiệm và bước đầu khẳng định một số mô hình quản lý
công ty đối với DNNN, trong đó có những mô hình khá thành công trong việc phát huy nguồn lực công
trong phát triển kinh tế, làm đầu mối liên kết với khu vực tư nhân cùng phát triển.
- Chủ trương, chính sách của Nhà nước đối với DNNN có nhiều thay đổi nhưng luôn định hướng
đến mục tiêu phát huy tiềm năng, thế mạnh, hiệu quả của khu vực DNNN trong hệ thống kinh tế nhà
nước. Trong quá trình đó, Nhà nước đã thành công trong việc đổi mới cơ chế, kết hợp với các đợt mạnh
dạn sắp xếp, tổ chức lại để giảm mạnh về số lượng DNNN nhưng vẫn không làm suy yếu năng lực sản
xuất và gây ra những biến động xã hội lớn.
- Trong những năm gần đây, đã mạnh dạn áp dụng Luật Doanh nghiệp chung và chuyển đổi các
DNNN hoạt động theo Luật Doanh nghiệp 2005. Bước thực hiện Luật Doanh nghiệp chung kết hợp với
Luật Đầu tư chung đã góp phần đáng kể tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng, thúc đẩy các thành phần
kinh tế và toàn bộ nền kinh tế phát triển.
- Đã mạnh dạn cổ phần hóa, xã hội hóa hàng loạt DNNN với quy mô lớn, mạnh dạn áp dụng các
hình thức quản trị công ty cổ phần vào các DNNN sau cổ phần hóa mang lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần
thúc đẩy sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán.
- Bước đầu xác lập cơ chế quản lý cán bộ và thử nghiệm những mô hình tuyển dụng, bổ nhiệm và
quản lý cán bộ quản lý, lãnh đạo các DNNN; đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các DNNN đã có sự
trưởng thành nhất định về năng lực quản lý, đảm nhận được vị trí, vai trò của mình.
Những khuyết điểm, tồn tại
- Về quan điểm, nhận thức: vẫn chưa có sự thống nhất về quan điểm, nhận thức về vị trí, vai trò,
phạm vi, phương thức quản lý đối với các DNNN, nhất là đối với các DNNN đặc thù ở các lĩnh vực quân
sự, công ích, kinh doanh một số ngành đặc biệt. Còn có sự lầm lẫn về vai trò, vị trí giữa DNNN với kinh
tế nhà nước nói chung. Chưa có sự phân định rõ ràng về hình thức tổ chức, cơ chế quản lý của các tổ
chức sự nghiệp có thu khi thực hiện chuyển đổi sang doanh nghiệp...
- Đến nay, vẫn duy trì một khu vực DNNN quá lớn về tỷ trọng, số lượng, phạm vi, do vậy, vẫn lúng
túng và không áp dụng được mô hình và cơ chế quản lý phù hợp, thống nhất. Điều này dẫn đến sự tùy tiện,
lạm dụng sự phát triển các doanh nghiệp phục vụ cho lợi ích cá nhân hoặc thái độ thờ ơ, vô trách nhiệm.

7
- Chưa phân định thật rành mạch quản lý của Nhà nước với quản trị kinh doanh đã phân quyền cho
doanh nghiệp. Việc thực hiện vai trò chủ sở hữu đối với DNNN còn lúng túng về mô hình và phương pháp
dẫn đến sự buông lỏng giám sát của Nhà nước.
- Khi áp dụng những mô hình quản lý công ty kiểu mới học tập từ kinh nghiệm nước ngoài còn làm
hời hợt, không có sự thống nhất và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước với nhau. Hậu quả
là nhiều mô hình bị lợi dụng theo hướng phục vụ lợi ích nhóm hoặc lúng túng, thiếu hiệu quả.
- Trong thực hiện cổ phần hóa và xã hội hóa, vừa thiếu sự thống nhất trong chỉ đạo, vừa lúng túng
về phương pháp, lộ trình. Kết quả là mục tiêu về cổ phần hóa đạt thấp, nhiều doanh nghiệp chỉ cổ phần hóa
hình thức làm mất tác dụng thực sự của biện pháp này, hoặc bị lợi dụng trục lợi cá nhân...
- Cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm, quản lý cán bộ ở các DNNN, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo thuộc diện
Nhà nước bổ nhiệm còn lúng túng cả về mô hình, phương pháp và lộ trình thực hiện. Hậu quả là đến nay
khu vực này vẫn chưa có một cơ chế minh bạch trong bổ nhiệm và quản lý cán bộ, không thu phục được
người tài ở cả cấp lãnh đạo lẫn cấp quản lý, chuyên gia, công nhân lành nghề. Công tác quản lý và giám sát
cán bộ còn buông lỏng, không gắn kết chặt chẽ với kết quả kinh doanh, kết quả phát triển doanh nghiệp, hệ
quả là tình trạng lạm dụng chức vụ, tham nhũng có nguy cơ phát triển ở các DNNN.
3.2. Giải pháp đổi mới quản lý đối với doanh nghiệp nhà nước
3.2.1. Tổ chức, sắp xếp lại (tái cấu trúc) các doanh nghiệp nhà nước
Tổ chức, sắp xếp lại các DNNN luôn là giải pháp trọng tâm và đã làm nhiều lần, nhưng lần này, với
tinh thần Nghị quyết Trung ương 3, khóa XI, giải pháp này được đặc biệt chú trọng với tên gọi mới là tái
cấu trúc/ tái cơ cấu với tinh thần, nội dung mới.
Thứ nhất, tái cấu trúc lần này phải kết hợp giữa tái cấu trúc toàn bộ hệ thống DNNN trên 5 phương
diện (ngành nghề, tài chính, quản lý công ty, quản lý nhà nước, khung khổ pháp lý) với tái cấu trúc theo
thực thể DNNN ở từng tập đoàn, tổng công ty, công ty, gắn với mô hình mới về tăng trưởng và phát triển
kinh tế.
Thứ hai, về mục tiêu, tái cấu trúc lần này đề cao mục tiêu nâng cao năng lực hoạt động, hiệu quả sản
xuất, kinh doanh, sức cạnh tranh của từng DNNN nói riêng và toàn bộ hệ thống DNNN nói chung sao cho
tương xứng với nguồn lực của khu vực này. Ngoài ra, mục tiêu lành mạnh hóa năng lực tài chính, thiết lập
cơ chế giám sát tài chính hiệu quả, bảo đảm cho các DNNN phát triển và hoàn thành nghĩa vụ tài chính đối
với Nhà nước.
Thứ ba, tái cấu trúc DNNN phải gắn với bảo đảm một môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa
DNNN với các loại hình doanh nghiệp khác.
Thứ tư, tiếp tục xây dựng các DNNN quy mô lớn dạng tập đoàn, với số lượng không nhiều nhưng
phải thực sự mạnh, cùng với các tập đoàn kinh tế thuộc các thành phần khác giữ vai trò đầu tàu, dẫn dắt,
điều tiết kinh tế ở phạm vi quốc gia.
Thứ năm, về giải pháp, áp dụng mạnh những giải pháp chính sau đây:
- Dựa trên các tiêu chí như tầm quan trọng, ngành nghề, lĩnh vực hoạt động, hiệu quả hoạt động,
phân định rõ ba loại DNNN: loại Nhà nước giữ 100% vốn sở hữu, loại từ 75-99%, loại từ 51-74%. Các
doanh nghiệp không thuộc diện giữ tư cách pháp lý DNNN phải chuyển đổi sang khu vực tư nhân.
- Tập trung phát triển các DNNN trong những ngành, lĩnh vực quan trọng, có ý nghĩa then chốt
trong nền kinh tế quốc dân.
- Kiên quyết thu hẹp, giải thể, phá sản các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, không cần thiết,
không còn cơ sở tồn tại.
- Xác lập mô hình quản lý công ty và quản trị doanh nghiệp theo hướng chủ yếu chuyển sang hoạt
động theo mô hình công ty cổ phần, hạn chế mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn, cạnh tranh bình đẳng
trên thị trường. Các doanh nghiệp hoạt động công ích phải bãi bỏ cơ chế bao cấp về tài chính, chuyển sang
cơ chế đặt hàng, đấu thầu, giao kế hoạch theo nguyên tắc thị trường.
- Thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động thông qua tăng cường và nâng cao chất lượng
giám sát tài chính các DNNN, đặc biệt là đối với các tập đoàn, tổng công ty trong những lĩnh vực độc
quyền.
- Đẩy mạnh cổ phần hóa và xã hội hóa các DNNN ở các lĩnh vực mà Nhà nước không cần nắm giữ
100% vốn sở hữu, các lĩnh vực cần chuyển giao cho khu vực tư nhân.

8
3.2.2. Xác lập cơ chế quản lý của Nhà nước rõ ràng, minh bạch, hiệu quả, thực hiện tốt chức
năng quản lý nhà nước và chủ sở hữu của Nhà nước, tăng quyền tự chủ cho doanh nghiệp
- Phân định rành mạch hơn hoạt động quản lý nhà nước với hoạt động quản trị kinh doanh thuộc
quyền tự chủ của doanh nghiệp. Chế độ chủ quản phải được xác lập rõ ràng, không chồng chéo, không lẫn
lộn về chức năng ở các cơ quan quản lý nhà nước.
- Làm rõ các nội dung, ban hành thể chế, thực hiện triệt để chế độ đại diện chủ sở hữu của Nhà
nước tại các DNNN thông qua cơ chế giao vốn, điều chuyển vốn, giao mục tiêu và nhiệm vụ phát triển
chiến lược, mục tiêu và nguyên tắc tài chính, giám sát tài chính, hoạt động và cán bộ.
- Nâng cao chất lượng công tác xác định và giám sát mục tiêu phát triển chiến lược cho các DNNN.
- Thử nghiệm và khẳng định các mô hình, cơ chế tìm nguồn, bổ nhiệm, đánh giá các cán bộ lãnh
đạo chủ chốt ở các DNNN.
3.2.3. Ban hành các chính sách thích hợp đối với các doanh nghiệp nhà nước
- Hoàn thiện và tuân thủ triệt để chính sách về bảo toàn và phát triển vốn. Phải làm rõ trách
nhiệm, quyền hạn và lợi ích của người đứng đầu, tập thể lãnh đạo và toàn bộ doanh nghiệp đối với mục
tiêu bảo toàn và phát triển vốn. Các tiêu chí đánh giá về mức độ bảo toàn và phát triển vốn cũng phải
được soạn thảo và áp dụng.
- Chính sách sử dụng các nguồn lực do Nhà nước giao, đặc biệt là nguồn lực đất đai, tài nguyên,
quyền kinh doanh, tránh tình trạng lợi dụng việc được giao sử dụng quyền lực để kinh doanh kiểm lời phục
vụ lợi ích nhóm.
- Chính sách đối với các DNNN kinh doanh độc quyền, đặc biệt là các doanh nghiệp độc quyền tư
nhân.
- Chính sách ưu đãi khi thực hiện những nhiệm vụ đầu tư cũng phát triển các ngành trọng điểm
hoặc thực hiện các mục tiêu chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng.
- Chính sách hỗ trợ đào tạo các ngành nghề phát triển trọng điểm quốc gia như: điện hạt nhân, công
nghệ cao, công nghiệp quốc phòng...
3.2.4. Nâng cao chất lượng kiểm tra giám sát doanh nghiệp nhà nước
- Tăng cường và nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, thanh tra các DNNN theo chức năng,
nhiệm vụ về kiểm tra, thanh tra quy định trong Luật Doanh nghiệp và các luật liên quan, bảo đảm bình đẳng
về thanh tra, kiểm tra của Nhà nước đối với các loại hình doanh nghiệp.
- Hoàn thiện chế độ giám sát tài chính ở cả ba loại doanh nghiệp, do trung ương, các bộ và các địa
phương quản lý. Bảo đảm chế độ giám sát tài chính sát thực, công khai, minh bạch, gắn với trách nhiệm giải
trình của các DNNN.
- Kết hợp giám sát tài chính với giám sát hoạt động, giám sát cán bộ, gắn với các hoạt động
giám sát đầu tư công và sử dụng các quyền lực công của Nhà nước.
- Cải tiến quy trình, nâng cao chất lượng cán bộ làm công tác thanh tra, giám sát DNNN.
Đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các DNNN là hoạt động mang tính thường
xuyên, liên tục, phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp trong hệ thống quản lý của Nhà nước. Sự
thành công của lĩnh vực này sẽ có ý nghĩa to lớn trong việc khẳng định sự đúng đắn và góp phần thúc đẩy
sự nghiệp đổi mới thành công, sự phát triển của nền kinh tế.
CÂU HỎI :
1. Mục tiêu và các giải pháp chiến lược phát triển doanh nghiệp và DNNN ở Việt Nam hiện nay.
2. Vai trò, đặc điểm, yếu tố quyết định của DNNN trong nền kinh tế thị trường.
3. Nội dung quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp và DNNN ở Việt Nam hiện nay.

You might also like