You are on page 1of 203

MỤC LỤC

MỤC LỤC 0

BUỔI THẢO LUẬN THỨ 1 : NGHĨA VỤ 10


VẤN ĐỀ 1: THỰC HIỆN CÔNG VIỆC KHÔNG CÓ ỦY QUYỀN 10
1. Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền? 11
2. Vì sao thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ? 11
3. Cho biết điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về chế định “thực hiện công việc không có
ủy quyền". 11
4. Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền" theo BLDS 2015?
Phân tích từng điều kiện. 12
5. Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong công trình, nhà thầu C có thể yêu cầu chủ đầu tư A
thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của chế định “thực hiện công việc không có ủy
quyền” trong BLDS 2015 không? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. 14
VẤN ĐỀ 2: THỰC HIỆN NGHĨA VỤ (THANH TOÁN MỘT KHOẢN TIỀN) 15
a. Cơ sở pháp lý 15
Tóm tắt thông tư số 01/TTLT ngày 19/6/1997: 15
Tóm tắt Quyết định số 15/2018/DS-GĐT ngày 15/3/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà
Nội: 16
1. Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như thế nào? Qua trung gian là tài
sản gì? 16
2. Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản tiền cụ thể là bao nhiêu?
Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời. 19
3. Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển nhượng bất động sản như
trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT không? Vì sao? 19
4. Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị nhà đất được xác định là
1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì, theo Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản
tiền bà Hường phải thanh toán cho cụ Bảng cụ thể là bao nhiêu? Vì sao? 20
5. Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ chưa? Nêu một tiền lệ (nếu có)?
20
VẤN ĐỀ 3: CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ THEO THỎA THUẬN 22
1. Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao nghĩa vụ theo
thỏa thuận? 22
2. Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho bà Tú? 23
3. Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển sang cho bà Ngọc,
bà Loan và ông Thạnh? 24
4. Suy nghĩ của anh/chị về đánh giá trên của Tòa án? 24
5. Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm đối với người có quyền
không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời. 25
6. Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm đối với người
có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu rõ quan
điểm của các tác giả mà anh/chị biết. Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban
đầu không còn trách nhiệm đối với người có quyền khi người thay thế nghĩa vụ không thực hiện
nghĩa vụ được chuyển giao. 25
7. Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án theo hướng người có nghĩa vụ ban đầu không còn trách
nhiệm đối với người có quyền? 25
8. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa án. 26
9. Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo lãnh của người thứ ba
thì, khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh có chấm dứt không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi
trả lời. 27
Tóm tắt Bản án số 148/2007/DSST ngày 26/9/2007 27

BUỔI THẢO LUẬN THỨ HAI : (VẤN ĐỀ CHUNG CỦA HỢP ĐỒNG) 27
VẤN ĐỀ 1: CHẤP NHẬN ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG 28
1.Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án đối với 3 vấn đề trên. 28
VẤN ĐỀ 2: SỰ ƯNG THUẬN TRONG QUÁ TRÌNH GIAO KẾT HỢP ĐỒNG 30
1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về vai trò của im lặng trong giao kết hợp đồng? 30
2. Quy định về vai trò của im lặng trong giao kết hợp trong một hệ thống pháp luật nước ngoài. 30
VẤN ĐỀ 3: ĐỐI TƯỢNG CỦA HỢP ĐỒNG KHÔNG THỂ THỰC HIỆN ĐƯỢC 33
1.Những thay đổi và suy nghĩ của anh/chị về những thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về chủ
đề đang được nghiên cứu. 33
2.Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu hợp đồng do đối tượng không thể thực hiện được được
xác định như thế nào? Vì sao? 34
3.Trong vụ án trên, đoạn nào của Bản án cho thấy Tòa án theo hướng hợp đồng vô hiệu do đối tượng
không thể thực hiện được? 34
4.Trong vụ án trên, Toà án xác định hợp đồng vô hiệu do đối tượng không thể thực hiện được có
thuyết phục không? Vì sao? 35
VẤN ĐỀ 4: XÁC LẬP HỢP ĐỒNG CÓ GIẢ TẠO VÀ NHẰM TẨU TÁN TÀI SẢN 36
Đối với vụ việc thứ nhất 36
1. Thế nào là giả tạo trong xác lập giao dịch? 36
2. Đoạn nào của Quyết định cho thấy các bên có giả tạo trong giao kết hợp đồng? Các bên xác lập
giao dịch có giả tạo với mục đích gì? 37
3. Hướng giải quyết của Tòa án đối với hợp đồng giả tạo và hợp đồng bị che giấu 37
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý của Tòa án về hợp đồng giả tạo và hợp đồng bị che giấu. 37
Đối với vụ việc thứ hai 38
1. Vì sao Tòa án xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông Vượng là giả tạo nhằm
trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu? 38
2. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Tòa án (giả tạo để trốn tránh nghĩa vụ)? 38
3. Cho biết hệ quả của việc Tòa án xác định hợp đồng trên là giao dịch nhằm trốn tránh nghĩa vụ. 38

BUỔI THẢO LUẬN THỨ BA 39


VẤN ĐỀ 1: HỢP ĐỒNG VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ HÌNH THỨC 39
1. Đoạn nào trong Bản án số 16 cho thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập
trước ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực và chưa được công chứng, chứng thực? 40
VẤN ĐỀ 2: ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT, HỦY BỎ DO KHÔNG THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP
ĐỒNG  44
VẤN ĐỀ 3: ĐỨNG TÊN GIÙM MUA BẤT ĐỘNG SẢN 52

Buổi thảo luận thứ tư: Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ 58
Vấn đề 1: Đối tượng dùng để bảo đảm và tính chất phụ của biện pháp bảo đảm 58
*Tóm tắt 58
Vấn đề 2: Đăng ký giao dịch bảo đảm 65
*Tóm tắt: 65
1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về đăng ký giao dịch bảo đảm. 66
2. Hợp đồng thế chấp số 1013.2009/HĐTC ngày 07/9/2009 có thuộc trường hợp phải đăng ký không?
Vì sao? 68
Trang 1
3. Hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 đã được đăng ký phù hợp với quy định không? Đoạn nào của bản
án cho câu trả lời? 69
4. Theo Toà án, nếu không được đăng ký, hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 có vô hiệu không? Vì sao?
69
5. Hướng của Tòa án như trong câu hỏi trên có thuyết phục không? Vì sao? 70
6. Hợp đồng thế chấp trong Quyết định số 41 có hiệu lực đối kháng với người thứ ba không? Vì sao?
70
7. Theo quy định về đòi tài sản (Điều 166 và tiếp theo BLDS năm 2015), Ngân hàng có quyền yêu
cầu ông Tân (người thứ ba so với hợp đồng thế chấp) trả lại tài sản thế chấp (xe ô tô) không? Vì sao?
71
8. Việc Tòa án buộc ông Tân trả lại tài sản thế chấp (xe ô tô) cho Ngân hàng có thuyết phục không?
Vì sao? 71
Vấn đề 3: Đặt cọc 72
*Tóm tắt 72
* Đối với Quyết định số 49 K. Yến. 77
* Đối với Bản án số 26: 78
Vấn đề 4: Bảo lãnh 79
*Đối với Quyết định số 968:( Trâm) 88

BUỔI THẢO LUẬN THỨ NĂM : TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ, VI PHẠM HỢP ĐỒNG 91

Vấn đề 1: Bồi thường thiệt hại do không thực hiện đúng hợp đồng gây ra 1
Tình huống: Ông Lại (bác sĩ chuyên khoa phẫu thuật thẩm mỹ) và bà Nguyễn thỏa thuận phẫu thuật
ngực với 4 yêu cầu: Lấy túi ngực ra, Thâu nhỏ ngực lại, Bỏ túi nhỏ vào, Không được đụng đến núm
vú. Ba ngày sau phẫu thuật, bà Nguyễn phát hiện thấy núm vú bên phải sưng lên, đau nhức và đen
như than. Qua 10 ngày, vết mổ hở hết phần vừa cắt chỉ, nhìn thấy cả túi nước đặt bên trong và ông
Lại tiến hành mổ may lại. Được vài ngày thì vết mổ bên tay phải chữ T lại hở một lỗ bằng ngón tay,
nước dịch tuôn ướt đẫm cả người. Sau đó ông Lại mổ lấy túi nước ra và may lại lỗ hổng và thực tế bà
Nguyễn mất núm vú phải. 1
1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng theo pháp luật Việt Nam? Nêu rõ
những thay đổi trong BLDS 2015 so với BLDS 2005 về Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại trong hợp đồng. 1
2. Trong tình huống trên, có việc xâm phạm tới yếu tố nhân thân của bà Nguyễn không? Căn cứ phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà Nguyễn đã hội đủ chưa? Vì sao? 5
3. Theo quy định hiện hành, những thiệt hại vật chất nào do vi phạm hợp đồng gây ra được bồi
thường? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời 7

Vấn đề 2: Phạt vi phạm hợp đồng 10

*Tóm tắt Bản án số 121/2011/KDTM-PT ngày 26/12/2011 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh 10
1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về phạt vi phạm hợp đồng. 10
2. Điểm giống nhau giữa đặt cọc và phạt vi phạm hợp đồng. 12
3. Khoản tiền trả trước 30% được Tòa án xác định là tiền đặt cọc hay là nội dung của phạt vi phạm
hợp đồng? 12
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến khoản tiền trả trước 30%. 12
5. Cho biết điểm giống và khác nhau giữa thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng và thoả thuận về mức
bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng. 13
6. Theo Toà án cấp phúc thẩm, thoả thuận được nêu tại mục 4 phần Nhận định của Toà án trong
Quyết định số 10 là thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng hay thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại do
vi phạm hợp đồng? Vì sao? 14

Trang 2
7. Theo Toà giám đốc thẩm (Hội đồng thẩm phán), thỏa thuận được nêu tại mục 4 phần Nhận định
của Toà án trong Quyết định số 10 là thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng hay thỏa thuận về mức bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng? Vì sao? 15
Đồng thời, Tòa GĐT cũng nhận định rằng vẫn chưa xác định được đủ các yếu tố phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại: 15
8. Cho biết suy nghĩ của anh chị về hướng xác định nêu trên của Hội đồng thẩm phán? 15

Vấn đề 3: Sự kiện bất khả kháng 17


1. Những điều kiện để một sự kiện được coi là bất khả kháng? Và cho biết các bên có thể thỏa thuận
với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng không? Nêu rõ cơ sở khi trả lời. 17
2. Những hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện được do sự kiện bất khả
kháng trong BLDS và Luật thương mại sửa đổi. 18
3. Số hàng trên có bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng không? Phân tích các điều kiện hình thành sự
kiện bất khả kháng với tình huống trên. 19
Số hàng trên có bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng. 19
4. Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, anh Văn có phải bồi thường cho anh Bình về việc
hàng bị hư hỏng không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. 20
5. Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng và anh Văn thỏa thuận bồi thường cho anh Bình giá
trị hàng bị hư hỏng thì anh Văn có được yêu cầu Công ty bảo hiểm thanh toán khoản tiền này không?
Tìm câu trả lời nhìn từ góc độ văn bản và thực tiễn xét xử. 20

Vấn đề 4: Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản 23

*Tóm tắt Bản án số 133/2021/DS-PT ngày 8/7/2021 của Toà án nhân dân tỉnh Cà Mau. 23
Sự kiện bất khả kháng 23
Hoàn cảnh thay đổi khi thực hiện hợp đồng 23
1. Quy định về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản trong một hệ thống pháp luật nước
ngoài. 25
2. Trong vụ việc nêu trên, theo Toà án, việc chấm dứt hợp đồng là do sự kiện bất khả kháng hay do
hoàn cảnh thay đổi cơ bản? Vì sao? 26
3. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết nêu trên của Tòa án (đặc biệt là liên quan đến hoàn cảnh
thay đổi cơ bản). 27

BUỔI THẢO LUẬN THỨ SÁU : BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG (phần chung)
28

Vấn đề 1: Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 28
Bản án số 20/2018/DS-ST ngày 23/4/2018 của TAND Quận 2, TP.HCM 28
1. Cho biết các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (thiệt hại do
người gây ra) trong BLDS 2015? 28
2. Thay đổi về các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng giữa
BLDS 2005 và BLDS 2015? 30
3. Trong Bản án số 20 (về bồi thường thiệt hại do dùng facebook nêu trên), theo Tòa án, các căn
cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã hội đủ chưa? Vì sao? 31
4. Theo anh/chị, trong vụ việc trên, đã hội đủ các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng chưa? Vì sao? (anh/chị đánh giá từng điều kiện phát sinh trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã được đáp ứng chưa). 32
5. Trong Bản án số 99 (về covid 19), các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng đã hội đủ chưa? Vì sao? 33
6. Việc Tòa án xác định Nguyễn Quang Trọng có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong Bản án
số 99 có thuyết phục không? Vì sao? 34

Trang 3
Vấn đề 2: Xác định tổn thất về tinh thần được bồi thường 34
Bản án số 08/2017/DS-ST ngày 30/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện IA Grai tỉnh Gia Lai. 34
Bản án số 26/2017/HSST ngày 29/5/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc. 35
Bản án số 31/2019/HS-PT ngày 10/6/2019 của Toà án nhân dân tỉnh Phú Yên. 35
1. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về tổn thất tinh thần được bồi thường? 36
2. Khả năng bồi thường tổn thất về tinh thần khi tài sản bị xâm phạm trong một hệ thống pháp
luật nước ngoài. 36
3. Theo pháp luật hiện hành, tổn thất về tinh thần khi tài sản bị xâm phạm có được bồi thường
không? Vì sao? 37
4. Đoạn nào của các bản án cho thấy Toà án đã áp dụng các quy định về tổn thất tinh thần của
BLDS 2015 trong các vụ việc trên? 38
5. Cho biết suy nghĩ của anh chị về việc Toà án không áp dụng BLDS 2005 mà áp dụng BLDS
2015 trong các vụ việc trên liên quan đến tổn thất tinh thần. 39
6. Trong Bản án số 31, đoạn nào cho thấy người bị hại vừa bị xâm phạm về sức khoẻ vừa bị xâm
phạm về danh dự, nhân phẩm? 40
7. Theo Toà án trong Bản án số 31, thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm và thiệt hại do danh dự,
nhân phẩm bị xâm phạm có được kết hợp với nhau không? 41
8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án trong Bản án số 31 về khả năng kết
hợp các loại thiệt hại khi nhiều yếu tố nhân thân của một chủ thể cùng bị xâm phạm. 41

Vấn đề 3: Thay đổi mức bồi thường đã được ấn định 42


Tình huống: 42
1. Những khác biệt cơ bản giữa thay đổi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế và giảm
mức bồi thường do thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế. 42
2. Nêu rõ từng điều kiện được quy định trong BLDS để thay đổi mức bồi thường không còn phù
hợp với thực tế. 43
3. Trong tình huống nêu trên, yêu cầu bồi thường thêm 70.000.000đ của phía bị thiệt hại có được
chấp nhận không? Vì sao? 44

Vấn đề 4: Xác định người có trách nhiệm bồi thường (cùng gây thiệt hại) 45
Bản án số 19/2007/DSST ngày 16/4/2007 của Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku-tỉnh Gia Lai; 45
Quyết định số 226/2012/DS-GĐT ngày 22/5/2012 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao. 45
1. Trong phần “trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” của BLDS, trách nhiệm dân sự
liên đới bồi thường thiệt hại phát sinh trong những trường hợp nào? 46
2. Trong Bản án số 19, bà Khánh bị thiệt hại trong hoàn cảnh nào? Có xác định chính xác được
người gây thiệt hại cho bà Khánh không? 46
3. Đoạn nào của Bản án số 19 cho thấy Tòa án đã theo hướng chị Tám, chị Hiền và anh Hải liên
đới bồi thường? 47
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết nêu trên của Tòa án về trách nhiệm liên đới. 47
5. Trong Quyết định số 226, ai là người trực tiếp gây thiệt hại cho bà Hộ? 47
6. Trong Quyết định số 226, ai là người phải liên đới bồi thường thiệt hại cho bà Hộ? 47
7. Hướng giải quyết trong Quyết định số 226 đã có tiền lệ chưa? Nếu có, nêu tóm tắt tiền lệ đó. 48
8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến trách nhiệm liên đới.
48
9. Bản án số 19, bà Khánh đã yêu cầu bồi thường bao nhiêu và yêu cầu ai bồi thường? 49
10. Bản án số 19, Tòa án đã quyết định anh Hải bồi thường bao nhiêu? 49
11. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến anh Hải. 49

Trang 4
BUỔI THẢO LUẬN THỨ BẢY : BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG (phần chung)
50

Vấn đề 1: Bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên gây ra. 50
1. Khi nào cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên gây ra? Nêu cơ sở pháp lý khi trả
lời. 50
*Đối với tình huống. 51
2. Tòa án có thể buộc cha mẹ của Hùng bồi thường cho anh Bình thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. 51
3. Tòa án có thể buộc cha mẹ Hùng bồi thường cho anh Hùng giá trị chiếc đồng hồ và chiếc xe đạp
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho biết hướng giải quyết trong thực tiễn xét xử đối với hoàn
cảnh tương tự. 52
4. Tòa án có thể buộc cha mẹ Hùng nộp ngân sách nhà nước khoản tiền 7 triệu đồng mà Hùng có
được do lấy trộm tài sản trong chợ không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho biết hướng giải quyết
trong thực tiễn xét xử đối với hoàn cảnh tương tự. 53
5. Tòa án có thể buộc Hùng và cha mẹ cùng bồi thường cho anh Bình không? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời và cho biết hướng giải quyết trong thực tiễn xét xử. 54
* Đối với Bản án số 19. 54
* Tóm tắt Bản án số 19/2012/DSST ngày 12/6/2012 của Tòa án nhân dân huyện Cưm’Gar tỉnh Đắk
Lắk. 54
6. Theo Tòa án, cha mẹ ly hôn có ảnh hưởng tới việc xác định người phải chịu trách nhiệm bồi
thường không? Cuối cùng, Tòa án đã buộc ai phải bồi thường thiệt hại. 55
7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án (từ góc độ văn bản cũng như so sánh
pháp luật). 55

Vấn đề 2: Bồi thường thiệt hại do người làm công gây ra. 56
*Tóm tắt: 56
* Bản án số 285/2009/HSPT ngày 23/12/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định. 56
* Bản án số 05/2019/DS-PT ngày 16/1/2019 của Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng. 56
1. Vì sao đã có quy định của Điều 584 mà BLDS 2015 còn có thêm quy định của Điều 600? 57
* Đối với Bản án số 285. 57
2. Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án đã áp dụng các quy định về bồi thường thiệt hại do người
làm công gây ra? 57
3. Trên cơ sở Điều 600, cho biết các điều kiện để áp dụng các quy định về bồi thường thiệt hại do
người làm công gây ra. 58
4. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án vận dụng Điều 622 BLDS 2005 (nay là Điều 600 BLDS 2015)
để buộc Công ty Hoàng Long bồi thường (đánh giá từng điều kiện nêu ở câu hỏi trên đối với vụ việc
được bình luận). 59
5. Nếu ông Hùng không làm việc cho Công ty Hoàng Long và xe là của ông Hùng thì ông Hùng có
phải bồi thường không? Vì sao? 59
6. Đoạn nào của bản án cho thấy, theo Tòa án, ông Hùng không phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường
cho người bị thiệt hại? 60
7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến trách nhiệm của ông Hùng
đối với người bị thiệt hại. 60
8. Cho biết suy nghĩ của anh/chị về khả năng người bị thiệt hại được yêu cầu trực tiếp ông Hùng bồi
thường. 61
* Đối với Bản án số 05. 62
9. Lỗi của người làm công trong Điều 622 BLDS 2005 (nay là Điều 600 BLDS 2015) cần được hiểu
như thế nào? Vì sao? 62

Trang 5
10. Theo Tòa án, ông B có lỗi theo Điều 622 BLDS 2005 (nay là Điều 600 BLDS 2015) không? Vì
sao? 63
11. Theo Tòa án, ông A có được yêu cầu ông B hoàn trả tiền đã bồi thường cho người bị hại không?
Đoạn nào của bản án cho câu trả lời. 64
12. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến trách nhiệm hoàn trả của
ông B (về căn cứ hoàn trả cũng như mức hoàn trả). 64

Vấn đề 3: Bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra. 66


*Tóm tắt: 66
* Bản án số 23/2017/DS-ST ngày 08/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau. 66
1. Quy định nào của BLDS sử dụng thuật ngữ “súc vật”? 66
2. BLDS có định nghĩa “súc vật” là gì không? 67
3. Trong thực tiễn xét xử, khái niệm súc vật được hiểu như thế nào? 67
4. Đoạn nào của bản án cho thấy thiệt hại là do chó gây ra? 68
5. Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án đã vận dụng các quy định về bồi thường thiệt hại do súc vật
gây ra? 68
6. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án áp dụng các quy định về bồi thường thiệt hại do súc vật gây
ra. 69
7. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về lỗi của người bị thiệt hại. 70
8. Suy nghĩ của anh chị về việc Toà án xác định bà Nga có lỗi trong việc lợn nhà bà Nga bị xâm hại?
71
9. Việc Toà án không buộc ông Nhã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bà Nga có thuyết phục không?
Vì sao? 72

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ 72

Vấn đề 1: Thông tin trong giao kết hợp đồng 72

*Tóm tắt Bản án số 18A/2016/DSST ngày 15/6/2016 của Tòa án nhân dân TP. Tuy Hoà tỉnh Phú
Yên: 72
1. Theo Toà án, bên bán có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho bên mua về lô đất chuyển nhượng
không? 73
2. Đối với hoàn cảnh như trong vụ án, BLDS 2015 có buộc bên bán phải cung cấp thông tin về lô đất
chuyển nhượng không? Vì sao? 73
3. Việc Toà án đã theo hướng giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn có thuyết phục không? Vì sao? 74
4. Đối với hoàn cảnh như trong vụ án, BLDS 2015 có cho phép xử lý theo hướng giao dịch chuyển
nhượng vô hiệu do nhầm lẫn không? Vì sao? 75

Vấn đề 2: Hợp đồng vô hiệu một phần và hậu quả hợp đồng vô hiệu 76

*Tóm tắt Quyết định số 22/2020/DS-GĐT ngày 23/04/2020 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân
dân tối cao: 76

* Tóm tắt Quyết định số 319/2011/DS-GĐT ngày 28/03/2011 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối
cao: 76
1. Khi nào hợp đồng vô hiệu một phần, vô hiệu toàn bộ? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời. 76
2. Đoạn nào cho thấy trong Quyết định số 22 đã có việc chuyển nhượng tài sản chung của hộ gia đình
mà không có sự đồng ý của tất cả các thành viên của hộ gia đình? 77
3. Đoạn nào trong Quyết định số 22 cho thấy Hội đồng thẩm phán theo hướng hợp đồng chuyển
nhượng trên chỉ vô hiệu một phần? 77
4. Suy nghĩ của anh/chị về việc Hội đồng thẩm phán theo hướng hợp đồng chuyển nhượng trên chỉ vô
hiệu một phần. 78
Trang 6
5. Thay đổi về hậu quả của hợp đồng vô hiệu giữa BLDS 2005 và BLDS 2015. 78
6. Trong Quyết định số 319, lỗi của các bên được Tòa giám đốc thẩm xác định như thế nào? 80
7. Quyết định số 319, Tòa dân sự cho biết ông Vinh sẽ được bồi thường như thế nào? 80
8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự. 80
9. Với các thông tin trong Quyết định số 319, ông Vinh sẽ được bồi thường khoản tiền cụ thể là bao
nhiêu? Vì sao? 81

Vấn đề 3: Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ có thời hạn 82

*Tóm tắt Quyết định số 05/2020/KDTM-GĐT ngày 26/02/2020 của HĐTP Tòa án nhân dân tối cao:
82
1. Thư bảo lãnh của Ngân hàng có thời hạn như thế nào? 82
2. Nghĩa vụ của Cty Cửu Long đối với Cty KNV có phát sinh trong thời hạn bảo lãnh của Ngân hàng
không? 83
3. Theo Toà án nhân dân tối cao, khi người có quyền (Cty KNV) khởi kiện Ngân hàng trả nợ thay sau
khi thời hạn bảo lãnh kết thúc thì Ngân hàng có còn trách nhiệm của người bảo lãnh không? Đoạn
nào của Quyết định có câu trả lời? 83
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao. 83

Vấn đề 4: Giảm mức bồi thường do hoàn cảnh kinh tế khó khăn 85
1. Từng điều kiện được quy định trong BLDS để giảm mức bồi thường do thiệt hại quá lớn so với khả
năng kinh tế. 85
2. Trong tình huống nêu trên, việc Tòa án áp dụng các quy định về giảm mức bồi thường do thiệt hại
quá lớn so với khả năng kinh tế của anh Nam để ấn định mức bồi thường có thuyết phục không? Vì
sao? 87

Vấn đề 5: Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra 89

*Tóm tắt Quyết định số 30/2010/DS-GĐT ngày 22/01/2010 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao
Trà: 89
1. Đoạn nào của Quyết định cho thấy Tòa án đã vận dụng chế định bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra? 89
2. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định đây là bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao
độ gây ra. 89
3. Tòa dân sự có cho biết ai là chủ sở hữu đường dây điện hạ thế gây thiệt hại không? 90
4. Theo anh/chị, ai là chủ sở hữu đường dây hạ thế gây thiệt hại? 90
5. Theo Tòa dân sự, chủ thể nào sẽ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình nạn nhân? 91
6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao liên quan đến
xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình nạn nhân. 91

Vấn đề 6: Bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra 93

* Tóm tắt Bản án số 02/2015/HSST ngày 15/4/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên: 93
1. Những khác biệt cơ bản về thiệt hại được bồi thường khi một cá nhân chết theo Luật trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước và BLDS. 93
2. Hoàn cảnh như trong vụ việc trên có được Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước điều chỉnh
không? Vì sao? 94
3. Nếu hoàn cảnh như trong vụ án trên xảy ra sau khi BLDS 2015 có hiệu lực, hướng giải quyết có
khác hướng giải quyết trong vụ án không? Vì sao? 95

BÀI TẬP THÁNG THỨ NHẤT 95

Vấn đề 1: Được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật 96


Trang 7
*Tóm tắt Bản án số 19/2017/DS-ST ngày 03/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện Long Hồ tỉnh Vĩnh
Long. 96
1. Thế nào là được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật? 96
2. Vì sao được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật là căn cứ phát sinh nghĩa vụ? 97
3. Trong điều kiện nào người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật có trách nhiệm hoàn
trả? 97
4. Trong vụ việc được bình luận, đây có là trường hợp được lợi về tài sản không có căn cứ pháp
luật không? Vì sao? 99
5. Nếu Ngân hàng không rút yêu cầu tính lãi chậm trả thì phải xử lý như thế nào? Cụ thể, anh T
có phải chịu lãi không? Nếu chịu lãi thì chịu lãi từ thời điểm nào, đến thời điểm nào và mức lãi là
bao nhiêu? 99

Vấn đề 2: Giao kết hợp đồng có điều kiện phát sinh 100
Tóm tắt Quyết định số 09/2022/DS-GĐT ngày 30/3/2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao. 100
1. BLDS có cho biết thế nào là hợp đồng giao kết có điều kiện phát sinh không? 101
2. Trong trường hợp bên chuyển nhượng tài sản chưa có quyền sở hữu tại thời điểm giao kết
nhưng đang làm thủ tục hợp thức hóa quyền sở hữu, có quy định nào của BLDS coi đây là hợp
đồng giao kết có điều kiện không? 101
3. Trong Quyết định số 09, Tòa án nhân dân tối cao có coi hợp đồng trên là hợp đồng giao kết có
điều kiện không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời? 101
4. Ngoài Quyết định số 09, còn có bản án/quyết định nào khác đề cập đến vấn đề này không? Nêu
một bản án/quyết định mà anh/chị biết. 102
5. Theo Hội đồng thẩm phán, cho đến khi bà Lan được Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
hợp đồng chuyển nhượng có tranh chấp đã tồn tại chưa? Có vô hiệu không? Vì sao? 102
6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết nêu trên của Hội đồng thẩm phán. 103
7. Suy nghĩ của anh/chị về việc vận dụng các quy định liên quan đến giao kết hợp đồng có điều
kiện phát sinh. 103
Vấn đề 3: Hợp đồng chính/phụ vô hiệu 105
1. Thế nào là hợp đồng chính và hợp đồng phụ? Cho ví dụ minh họa đối với mỗi loại hợp đồng.
105
2. Trong vụ việc trên, ai là người (chủ thể) có nghĩa vụ trả tiền cho Ngân hàng? 105
3. Bà Quế tham gia quan hệ trên với tư cách gì? Vì sao? 106
4. Việc Tòa án tuyên bố hợp đồng thế chấp trên vô hiệu có thuyết phục không? Vì sao? 106
5. Theo Tòa án, bà Quế có còn trách nhiệm gì đối với Ngân hàng không? 107
6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án trong vụ việc trên liên quan đến trách
nhiệm của bà Quế. 107

Vấn đề 4: Phân biệt thời hiệu khởi kiện tranh chấp về tài sản và về hợp đồng 109
Tóm tắt Quyết định số 14/2017/QĐ-PT ngày 14/7/2017 của Toà án nhân tỉnh Hưng Yên 109
1. Những điểm khác biệt giữa thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng và thời hiệu khởi kiện
tranh chấp về quyền sở hữu tài sản. 109
2. Theo anh/chị, tranh chấp về số tiền 45 triệu đồng là tranh chấp hợp đồng hay tranh chấp về
quyền sở hữu tài sản? Vì sao? 110
3. Theo anh/chị, tranh chấp về số tiền 25 triệu đồng là tranh chấp hợp đồng hay tranh chấp về
quyền sở hữu tài sản? Vì sao? 110
4. Đường lối giải quyết của Tòa án về 2 khoản tiền trên có thuyết phục không? Vì sao? 111
5. Đường lối giải quyết cho hoàn cảnh như trên có thay đổi không khi áp dụng BLDS 2015? Vì
sao? 111

Trang 8
BUỔI THẢO LUẬN THỨ 1 : NGHĨA VỤ

VẤN ĐỀ 1: THỰC HIỆN CÔNG VIỆC KHÔNG CÓ ỦY QUYỀN


a. cơ sở pháp lý :
b. thực tiễn xét xử
● Bản án số 16/2013/ DS-ST ngày 18-3-2013 của TAND quận Thủ Đức, thành phố
HCM
Nguyên đơn : ông Quốc Hùng
Bị đơn : Trí Hùng, Trí Tuấn, Trí Thông
Tranh chấp về việc thực công việc không có ủy quyền: đài lại tiền thuế thu thập cá nhân
thuộc nghĩa vụ phải nộp của bị đơn. Khi chuyển nhượng thửa đất số 22, tờ bản đất số 57,
tại khu nhà đất số 8 đường 16, các ông Trí Hùng,Trí Thông và ông Trí Tuấn có nghĩa vụ
đóng thuế theo thue nhập cá nhân với số tiền là 65.330.400đ, tổng cộng là 195.991.200đ.
Tuy nhiên tại văn bản thỏa thuận cam kết ngày 24-12-2010 : ông Quốc Hùng cam kết
chịu tiền thuế thu nhập cá nhân phát sinh do chuyển nhượng thửa đất số 22, tờ bản đồ số
thu nhập cá nhân phát sinh do chuyển nhượng thửa đất. Tuy ghi nhận 1 bên là ông Trí
Hùng, nhưng ông Quốc Hùng chịu thuế thu nhập cho cả diện tích thửa đất số 22. Ông Trí
Hùng là người đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với tư cách là đại diện
thừa kế.
Quyết định của tòa : Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc bị đơn ông
Trí Thông, Trí Tuấn trả cho ông số tiền thuế thu nhập đã đóng 65.330.400, không chấp
nhận yêu cầu tiền lãi đối với ông Quốc Hùng đã đóng.
● Quyết định số 10/2016/DS - GĐT ngày 7-3-2016 của TAND cấp cao tại Hà Nội
Nguyên đơn : bà Thái
Bị đơn : bà Bích, bà Hoa và ông Thơ
Người có quyền và nghĩa vụ liên quan : bà Mến, ông Tuyền, chị Trang,anh Trung, ông
Thông và ông Thành
Tranh chấp về hợp đồng vay tài sản, chuyển giao nghĩa vụ về tài sản và thực hiện nghĩa
vụ không có ủy quyền. Ngày 12/08/2010, bà Thái trả nợ ngân hàng thay cho bà Hoa
600tr và yêu cầu bà Hoa và ông Thơ tả tiền gốc và lãi suất tính từ ngày 12/8/2010. bà đứn
tên vay số tiền hộ vợ chồng bà Phượng. Việc bà Thái trả nợ ngân hàng thay vợ chồng bà
Hoa là thực hiện công việc không có ủy quyền. Tuy nhiên, không có văn bản nào thể hiện
vợ chồng bà Hoa là người đứng ra vay tiền cho bà Phượng.
Quyết định của Tòa :Không chấp nhận kháng cáo của viện trưởng VKSNDTC. bà Thái
trả tiền nợ ngân hàng cho bà Hoa là thực hiện công việc không có ủy quyền theo khoản 2
Điều 596 BLDS 2005. Buộc bà Hoa phải trả tiền theo lãi suất cơ bản của ngân hàng NN.
c. quan điểm của tác giả
d. văn bản nước ngoài
Theo PL Pháp : Nếu thực hiện công việc không có ủy quyền không làm cho người thự
hiện công việc thiệt thòi khi tự nguyện hành động vì lợi ích của người khác thì nó không
thể trở thành căn cứ để người này thu lợi
Trang 9
e. có chính kiến quan điểm 676
1. Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền?
Căn cứ Pháp lý: Điều 574 BLDS 2015 quy định về “thực hiện công việc không có ủy
quyền” cho biết: “thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người không có
nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó vì lợi ích của
người có công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản
đối.

- Dựa vào Khoản 3 Điều 275 BLDS 2015 thì việc “thực hiện công việc không có ủy
quyền” là một căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ.

2. Vì sao thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ?
- Cơ sở pháp lý: điều 274, khoản 3 điều 275 của BLDS 2015

- Giải thích:

Điều 274. Nghĩa vụ

“Nghĩa vụ là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có
nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có rtzgiá, thực
hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc
nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền).”

Thực chất, mục đích việc thực hiện công việc không có ủy quyền là vì lợi ích của người
có công việc được thực hiện. Người thực hiện không có ủy quyền tự nguyện làm nghĩa vụ
đó thay cho người có công việc và nhận thấy nếu không thực hiện công việc sẽ gây thiệt
hại cho người có công việc. Vì vậy thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát
sinh nghĩa vụ.

3. Cho biết điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về chế định “thực hiện
công việc không có ủy quyền".
So sánh giữa hai Bộ luật về chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền" ta thấy có
hai điểm mới sau đây:

Thứ nhất, tại Điều 574 của BLDS 2015 đã bỏ đi từ “hoàn toàn” vì lợi ích so với điều 594
BLDS 2005 bởi vì khi thực hiện công việc không có ủy quyền không chỉ mang lợi ích lại
cho cá nhân có công việc, cho người tự nguyện thực hiện công việc mà cho cả người thứ
ba hoặc cho cộng đồng. Chẳng hạn, khi con cái trả nợ thay mẹ thì cũng vì lợi ích của

Trang 10
mình, sẽ không bị làm phiền, bên chủ nợ lấy lại được tiền cho vay, không phải dùng các
hình thức đe dọa bằng vũ lực để đòi tiền.

Thứ hai, quy định rõ đối tượng thực hiện công việc có ủy quyền có thể là cá nhân hoặc
pháp nhân. Tại khoản 4 Điều 575 BLDS 2015 về “Nghĩa vụ thực hiện công việc không
có ủy quyền” và khoản 4 điều 578 BLDS 2015 về “Chấm dứt thực hiện công việc không
có ủy quyền” có ghi 575“…nếu là cá nhân hoặc chấm dứt tồn tại, nếu là pháp nhân…”.
Sự góp mặt của “pháp nhân” đã mở rộng phạm vi đối tượng áp dụng, giúp Tòa án và các
nhà thi hành án giải quyết các vụ án trở nên dễ dàng hơn. Điêm mới này đã khắc phục
hạn chế của Bộ luật dân sự 2005 khi thực tế gặp trường hợp là pháp nhân không biết sẽ
xử lý như thế nào.

4. Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền"
theo BLDS 2015? Phân tích từng điều kiện.
Trên cơ sở định nghĩa “Thực hiện công việc không có ủy quyền" điều 574 BLDS 2015
chúng ta có thể suy ra các điều kiện để áp dụng chế định này như sau:

· Đối với người có nghĩa vụ:

(1) “Không biết hoặc biết mà không phản đối” việc có người thực hiện nghĩa
vụ thay mình.

Nghĩa là người có công việc biết mà không phản kháng, điều kiện này trái với
với khoản 1 Điều 578 Bộ luật này về “Chấm dứt thực hiện công việc không có
ủy quyền”, người có nghiã vụ phản đối thì nghĩa vụ thực hiện công việc đó
chấm dứt .Nếu người có công việc phản đối thực hiện công việc không có ủy
quyền mà vẫn tiếp tục thực hiện sẽ bị coi là làm trái pháp luật và phải bồi
thường thiệt hại quy định khoản 7 điều 8 BLDS 2015.

(2) Không yêu cầu người thực hiện không có ủy quyền

Tức quan hệ giữa người có công việc và người thực hiện công việc không có
ủy quyền “không tồn tại một hợp đồng, không có ủy quyền” 1. Trong trường
hợp luật không quy định nhưng giữa hai bên đã có sự thỏa thuận trước đó, hoặc
có biểu hiện đồng ý chí với nhau thì được xem là đã xác lập một giao dịch, dẫn
đến trường hợp này vi phạm pháp luật.
1
Đỗ Văn Đại (2017), tlđd (1), tr.74 "Luật nghĩa vụ Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án" – PGS.TS Đỗ
Văn Đại

Trang 11
· Đối với người thực hiện công việc không có ủy quyền:

(1) Người này không có nghĩa vụ.

Điều kiện này xét trong quan hệ giữa người thực hiện không có ủy quyền với
người có công việc thực hiện chứ không xét đến quan hệ tồn tại giữa người
thực hiện không có ủy quyền với người thứ ba hay theo luật định ( nếu có).

(2) Người này phải thực hiện một cách tự nguyện không bị ép buộc hay do
được yêu cầu.

Người thực hiện công việc không có ủy quyền phải tự nguyện thực hiện và
việc tự nguyện đó phải phù hợp với khả năng thực hiện nghĩa vụ chứ trở nên
quá sức gây bất lợi cho cả người có công việc và người thực hiện không có ủy
quyền. Nếu so với chủ thể phải thực hiện nghĩa vụ do hành vi pháp lý đơn
phương xuất phát từ ý chí của một bên, thì ai cũng có thể là người thực hiện
công việc vì không đặt ra yêu cầu về năng lực thực hiện. Ngược lại, khoản 1
điều 575 BLDS 2015 quy định “người thực hiện không có ủy quyền có nghĩa
vụ thực hiện công việc phù hợp với khả năng, điều kiện của mình” đòi hỏi về
khả năng thực hiện nghĩa vụ. Bên cạnh đó, việc nhận thanh toán chi phí để
thực hiện nghĩa vụ từ người có công việc sẽ không được thực hiện nếu thực
hiện công việc không có ủy quyền, thực hiện không có chủ ý, không tự nguyện
và không mang lại lợi ích cho người có công việc.

· Về công việc, “vì lợi ích của người có công việc”.

BLDS 2015 đã bỏ đi từ “hoàn toàn”, không hạn chế phạm vi nhận lợi ích có thể là bên
thứ ba hoặc là cộng đồng, chỉ cần đảm bảo thực hiện công việc đó vì lợi ích của người có
công việc được thực hiện và người đó phải tự nguyện thì người thực hiện công việc
không có ủy quyền sẽ nhận được thanh toán chi phí từ người có công việc, kể cả “công
việc không đạt được kết quả theo ý muốn của mình” (khoản 1 Điều 576 BLDS 2015).

5. Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong công trình, nhà thầu C có thể
yêu cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của
chế định “thực hiện công việc không có ủy quyền” trong BLDS 2015 không?
Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Tình huống: Chủ đầu tư A lập Ban quản lý dự án B để tiến hành xây dựng một
công trình công cộng. Khi triển khai, B đã ký hợp đồng với nhà thầu C mà không

Trang 12
nêu rõ trong hợp đồng B đại diện A và cũng không có ủy quyền của A trong khi
đó, theo quy định, B không được tự ký hợp đồng với C vì đây là công việc của chủ
đầu tư A (thực tế Ban quản lý dự án B không có nhiều tài sản để thanh toán cho
C).

- Theo khoản 1 điều 575 BLDS 2015 quy định về “nghĩa vụ thực hiện công việc
không có ủy quyền” thì “người thực hiện công việc không có ủy quyền có nghĩa
vụ thực hiện công việc phù hợp với khả năng điều kiện của mình”, trong trường
hợp này B không có nhiều tài sản để thanh toán cho C mà tự ý ký hợp đồng là vi
phạm vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến A và C.

- Khoản 1 điều 577 BLDS 2015 quy định về “nghĩa vụ bồi thường thiệt hại” cho
biết “khi người thực hiện công việc không có ủy quyền cố ý gây thiệt hại trong khi
thực hiện công việc thì phải bồi thường thiệt hại cho người có công việc được thực
hiện.” Ở trường hợp này, B không có nhiều tài sản để thanh toán cho C mà lại tự ý
ký hợp đồng có nghĩa B biết rõ sẽ gây thiệt hại cho C nên có thể nói đây là lỗi cố
ý. Về phía A, A không biết việc B tự ý ký (đoạn không có ủy quyền của A trong
khi đó, theo quy định, B không được tự ký hợp đồng với C vì đây là công việc của
chủ đầu tư A)

- Do vậy, B phải bồi thường thiệt hại cho A nếu A trả số tiền còn thiếu cho C, C
không thể đòi A thực hiện nghĩa vụ vì người ký hợp đồng với C là B và bản thân
C phải tự tìm hiểu kỹ trước khi ký hợp đồng chứ không phải sau khi xây dựng
xong công trình mới quay lại truy cứu.

Trang 13
VẤN ĐỀ 2: THỰC HIỆN NGHĨA VỤ (THANH TOÁN MỘT KHOẢN TIỀN)

a. Cơ sở pháp lý
b. Thực tiễn xét xử
-
c. quan điểm của tác giả
d. theo pháp luật nước ngoài

Tóm tắt thông tư số 01/TTLT ngày 19/6/1997:

Đây là thông tư liên tịch hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản. Thông tư gồm
có bốn mục chính. Trong đó mục 1 và mục 2 hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài
sản về một số trường hợp, mục 3 nêu lên vấn đề bảo vệ quyền lợi cho bên được thi hành
án, mục 4 hướng dẫn về hiệu lực của thông tư:

Mục 1: hướng dẫn việc xét xử và thi hành án trong “trường hợp đối tượng của nghĩa vụ
về tài sản là các khoảng tiền vàng.” Tại đây, thông tư có quy định những trường hợp xét
xử và hướng giải quyết bao gồm:

1. Đối với nghĩa vụ là các khoản tiền bồi thường, tiền hoàn trả, tiền công, tiền lương,
tiền chia tài sản, tiền đền bù công sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay không có lãi, tiền truy
thu thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính

2. Đối với các khoản tiền tịch thu, tiền phạt, tiền án phí

3. Đối với các khoản tiền vay, gửi ở tài sản Ngân hàng, tín dụng

4. Đối với các khoản vay có lãi (kể cả loại có kỳ hạn và loại không có kỳ hạn) ở ngoài tổ
chức Ngân hàng, tín dụng

5. Trong trường hợp đối tượng hợp đồng vay tài sản là vàng.

Mục 2: hướng dẫn việc xét xử và thi hành án trong “trường hợp đối tượng của nghĩa vụ
về tài sản là hiện vật.” Theo đó, mục 2 đưa ra 2 trường hợp và hướng giải quyết:

1. Khi đối tượng của nghĩa vụ về tài sản là hiện vật, thì khi người có nghĩa vụ có thể
thực hiện được nghĩa vụ giao vật hay không, người có quyền có chấp nhận tiếp nhận
hiện vật hay không.

2. Trường hợp người có nghĩa vụ chậm thực hiện nghĩa vụ giao vật, không thực hiện
nghĩa vụ giao vật.
Trang 14
Mục 3: là các biện pháp để bảo vệ quyền lợi cho bên được thi hành án.

Mục 4: hướng dẫn về hiệu lực của thông tư.

Tóm tắt Quyết định số 15/2018/DS-GĐT ngày 15/3/2018 của Tòa án nhân dân cấp
cao tại Hà Nội:

Nguyên đơn : Cụ Ngô Quang Bảng

Bị đơn : Bà Mai Hương (tên gọi khác là Mai Thị Hương).

Về vụ việc “Tranh chấp nghĩa vụ trả lời trong hợp đồng chuyển nhượng nhà và
quyền sử dụng đất”. Theo nội dung của bản án thì, ngày 26/11/1991 cụ Bảng chuyển
nhượng nhà đất cho vợ chồng bà Mai Hương. Tuy nhiên bà Hương chỉ thanh toán 4 triệu
và còn 1 triệu chưa thanh toán tương đương với 1/5 giá trị căn nhà. Ngày 28/6/1996 bà
Hương đã chuyển bộ toàn nhà đất trên cho vợ chồng bà Phạm Thị Sáu. Tòa án nhân dân
cấp cao quyết định: hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 38/2015/DS-PT và Bản án dân sự
sơ thẩm số 03/2015/DS-ST và giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thị xã Quảng Yên,
tỉnh Quảng Ninh để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.

1. Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như thế
nào? Qua trung gian là tài sản gì?
Theo Thông tư 01/TTLT ngày 19/6/1997 cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải
thanh toán :

1- Đối với nghĩa vụ là các khoản tiền bồi thường, tiền hoàn trả, tiền công, tiền lương, tiền
chia tài sản, tiền đền bù công sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay không có lãi, tiền truy thu
thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính thì giải quyết như sau:

a) Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ dân sự xảy ra trước ngày 1-7-1996 và
trong thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ
thẩm mà giá gạo tăng từ 20% trở lên, thì Toà án quy đổi các khoản tiền đó ra gạo theo giá
gạo loại trung bình ở địa phương (từ đây trở đi gọi tắt là "giá gạo") tại thời điểm gây thiệt
hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, rồi tính số lượng gạo đó thành tiền theo giá gạo tại thời điểm
xét xử sơ thẩm để buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán và chịu án phí theo số
tiền đó.

b) Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ xảy ra sau ngày 1-7-1996 hoặc tuy xảy
ra trước ngày 1-7-1996, nhưng trong khoảng thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc
Trang 15
phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo không tăng hay tuy có tăng
nhưng ở mức dưới 20%, thì Toà án chỉ xác định các khoản tiền đó để buộc bên có nghĩa
vụ phải thanh toán bằng tiền. Trong trường hợp người có nghĩa vụ có lỗi thì ngoài khoản
tiền nói trên còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân
hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm xét xử sơ thẩm
theo quy định tại khoản 2 Điều 313 Bộ luật dân sự, trừ trường hợp có thoả thuận khác
hoặc pháp luật có quy định khác.

2- Đối với các khoản tiền tịch thu, tiền phạt, tiền án phí thì khi xét xử tòa án chỉ quyết
định mức tiền cụ thể mà không áp dụng cách tính đã hướng dẫn tại khoản 1 nói trên.

3- Đối với các khoản tiền vay, gửi ở tài sản Ngân hàng, tín dụng, do giá trị của các khoản
tiền đó đã được bảo đảm thông qua các mức lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định,
cho nên khi xét xử, trong mọi trường hợp tòa án đều không phải quy đổi các khoản tiền
đó ra gạo, mà quyết định buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán số tiền thực tế
đã vay, gửi cùng với khoản tiền lãi, kể từ ngày khi giao dịch cho đến khi thi hành án
xong, theo mức lãi suất tương ứng do Ngân hàng Nhà nước quy định.

4- Đối với các khoản vay có lãi (kể cả loại có kỳ hạn và loại không có kỳ hạn) ở ngoài tổ
chức Ngân hàng, tín dụng, do giá trị của các khoản tiền đó cũng đã được bảo đảm thông
qua việc chịu lãi của bên vay tài sản, cho nên trong mọi trường hợp tòa án đều không
phải quy đổi số tiền đó ra gạo, mà chỉ buộc người vay phải trả số tiền nợ gốc chưa trả
cùng với số tiền lãi chưa trả.

Trong việc tính tiền lãi cần phân biệt các trường hợp như sau:

- Đối với các hợp đồng vay tài sản giao kết trước ngày 1-7-1996 thì chỉ tính số tiền lãi
chưa trả theo quy định của Bộ luật dân sự; đối với khoản tiền lãi đã trả thì không phải
giải quyết lại.

- Đối với các hợp đồng vay tài sản giao kết từ ngày 1-7-1996 trở đi thì việc tính lãi phải
tuân theo các quy định của Bộ luật dân sự, số tiền lãi đã trả cũng phải được giải quyết lại,
nếu mức lãi suất mà các bên thỏa thuận cao hơn mức lãi suất được quy định tại khoản 1
Điều 473 Bộ luật dân sự.

Theo quy định của Bộ luật dân sự thì lãi suất được tính như sau:

Trang 16
a) Về nguyên tắc, tiền lãi chỉ được tính trên số nợ gốc, trừ trường hợp có thoả thuận khác
hoặc pháp luật có quy định khác.

Ngoài nguyên tắc tiền lãi chỉ được tính trên số nợ gốc, các bên có thể thoả thuận về việc
nhận lãi vào nợ gốc để tính lãi của thời hạn vay tiếp theo. Tuy nhiên, để tránh tình trạng
bên cho vay có thể lợi dụng thỏa thuận này để thu lợi trái pháp luật, thì toà án chỉ chấp
nhận việc nhập lãi vào nợ gốc một lần đối với loại vay có kỳ hạn giữa các bên ở ngoài tổ
chức Ngân hàng, tín dụng tại thời điểm đến hạn trả nợ mà người vay không thực hiện
được nghĩa vụ trả nợ của mình. Các trường hợp khác đều phải tính theo lãi suất nợ quá
hạn theo quy định tại khoản 2 Điều 313 Bộ luật dân sự.

b) Nếu mức lãi suất do các bên thỏa thuận vượt quá 50% của lãi suất cao nhất do Ngân
hàng Nhà nước quy định đối với loại vay tương ứng tại thời điểm vay, thì tòa án áp dụng
khoản 1 Điều 473 Bộ luật dân sự buộc bên vay phải trả lãi bằng 150% mức lãi suất cao
nhất do Ngân hàng Nhà nước quy định đối với loại vay tương ứng.

c) Nếu mức lãi suất không vượt quá 50% mức lãi suất cao nhất của loại vay tương ứng do
Ngân hàng Nhà nước quy định tại thời điểm vay, thì toà án buộc bên vay phải trả lãi theo
đúng mức lãi suất mà hai bên đã thoả thuận tại thời điểm này.

d) Trong trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi trong việc vay nhưng không xác
định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất, thì áp dụng lãi suất tiết kiệm có kỳ hạn do
Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm xét xử sơ thẩm
theo quy định tại khoản 2 Điều 473 Bộ luật dân sự.

5- Trong trường hợp đối tượng hợp đồng vay tài sản là vàng, thì lãi suất chỉ được chấp
nhận khi Ngân hàng Nhà nước có quy định và cách tính lãi suất không phân biệt như các
trường hợp đã nêu tại khoản 4 trên đây, mà chỉ tính bằng mức lãi suất do Ngân hàng Nhà
nước quy định.

Qua trung gian là :Theo Khoản 1 Mục I của thông tư thì Tòa án quy đổi các khoản tiền
đó ra gạo theo giá gạo loại trung bình ở địa phương (gọi tắt là "giá gạo") tại thời điểm
gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, rồi tính số lượng gạo đó thành tiền theo giá gạo tại
thời điểm xét xử sơ thẩm để buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán và chịu án
phí theo số tiền đó. Theo các Khoản 2,3,4,5 thì khi xét xử tòa án chỉ quyết định mức tiền
cụ thể hoặc giá trị của các khoản tiền đó đã được bảo đảm thông qua các mức lãi suất do

Trang 17
Ngân hàng Nhà nước quy định hoặc được bảo đảm thông qua việc chịu lãi của bên vay
tài sản ,... mà không áp dụng cách tính đã hướng dẫn tại khoản 1 nói trên.

2. Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản
tiền cụ thể là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản tiền cụ thể là :

Ngày 15/11/1973, ông Quới cho bà Cô thuê nhà và nhận tiền thế chân của bà Cô 50.000đ.
Sự việc xảy ra trước ngày 1-7-1996 nên căn cứ theo điểm a khoản 1 mục I của thông tư
01/TTLT ngày 16/09/1997 của TANDTC, VKSNDTC, Bộ tư pháp, Bộ tài chính. Giá gạo
trung bình vào năm 1973 là 137đ/kg và giá gạo trung bình hiện nay theo Sở tài chính Tp.
HCM là 18.000đ/kg, giá gạo trong thời gian này đã tăng quá 20%.

Theo giá gạo năm 1973 là 50.000đ =365kg x 137đ/kg —> 365 kg gạo

Số tiền mà ông Quới phải trả lại cho bà Cô khoản tiền tương đương với 365kg gạo theo
giá gạo hiện nay là 365kg x 18.000đ/kg = 6.570.000đ

Cơ sở pháp lý : Theo Điểm a Khoản 1 Mục I của thông tư 01/TTLT ngày 16/09/1997
của TANDTC, VKSNDTC, Bộ tư pháp, Bộ tài chính hướng dẫn việc xét xử và thi hành
án về tài sản.

3. Thông tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT không? Vì
sao?
Thông tư 01/TTLT ngày 16/09/1997 của TANDTC, VKSNDTC, Bộ tư pháp, Bộ tài
chính không điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển nhượng bất động
sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT

Vì đối tượng tài sản do thông tư này điều chỉnh là tiền, vàng (các khoản tiền bồi
thường, tiền hoàn trả, tiền công, tiền lương, tiền chia tài sản, tiền đền bù công sức, tiền
cấp dưỡng, tiền vay không có lãi, tiền truy thu thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính,...)
và hiện vật. Thông tư này không điều chỉnh đối tượng là quyền sở hữu bất động sản
trong hợp đồng chuyển nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT.

4. Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị nhà đất
được xác định là 1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì, theo Tòa
án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hường phải thanh toán cho cụ
Bảng cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?
Trả lời:
Trang 18
Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị nhà đất
được xác định là 1.697.760.000 như Tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì, theo Tòa án nhân dân
cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hường phải thanh toán cho cụ Bảng là 339.552.000đ.

Vì trong trường hợp này cụ Bảng đã chuyển nhượng toàn bộ nhà, đất cho bà
Hường với giá là 5.000.000đ, tuy nhiên bà Hường chỉ mới thanh toán 4.000.000đ tương
đương với 4/5 tổng giá trị nhà đất và còn 1/5 giá trị nhà đất chưa thanh toán. Theo Tòa án
nhân dân cấp cao tại Hà Nội bà Hường phải thanh toán số tiền là 339.552.000đ tương
đương với 1/5 giá trị nhà đất (đất theo định giá tài sản của Tòa cấp sơ thẩm).

5. Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ chưa? Nêu
một tiền lệ (nếu có)?
Trả lời:

Với hướng như trên, Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã có tiền lệ. Đó là quyết
định Giám đốc thẩm số 09/HĐTP-DS ngày 24/02/2005 về “Vụ tranh chấp nhà đất và đời
nợ”.

Tóm tắt bản án:

Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Lai

Bị đơn: Ông Phạm Thanh Xuân

Diễn biến vụ việc: Năm 1994, bà Lai cho ông Xuân vay 11.500.000đ (giấy ghi nợ không
ghi rõ ngày tháng năm nhưng hai bên đều thống nhất thời gian cho vay là năm 1994).
Ngày 12/02/1996, bà Lai cho ông Xuân vay tiếp 128.954.000đ. Ngày 08/8/1996, hai bên
thống nhất số tiền nợ (lẫn lãi) là 188.600.000đ, đồng thời thỏa thuận chuyển nhượng căn
nhà số 19 Chu Văn An cho bà Lai với giá 188.600.000đ. Do đó vợ chồng ông Xuân
không thanh toán nợ và không giao nhà mà vẫn quản lý ngôi nhà nên bà Lai vẫn tính lãi
của số tiền 188.600.000đ. Đến ngày 05/8/1997, vợ chồng ông Xuân và vợ chồng bà Lai
tiếp tục chốt nợ gốc và lãi là 250.000.000đ, hai bên lập hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất với giá 250.000.000đ. Sau khi lập hợp đồng, bà Lai vẫn tính lãi số tiền
250.000.000đ trong thời gian 2 tháng thành 6.000.000đ để cộng dồn vào số tiền
44.000.000đ bà Lai đã cho ông Xuân vay vào ngày 06/11/1997 thành 50.000.000đ.

Nhận định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:

Vụ tranh chấp phải giải quyết cả hai quan hệ vay nợ và quan hệ mua bán nhà đất.
Trang 19
Xác minh thu nhập các chứng cứ xác minh rằng liệu thủ tục làm giấy tờ mua bán
chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy trình pháp luật quy định hay không.

Trường hợp xác định được việc mua bán, chuyển nhượng nhà đất là hợp pháp và
bên mua chưa trả đủ tiền thanh toán thì phần còn thiếu sẽ được tính thông qua giá trị của
tài sản chuyển nhượng tại thị trường địa phương tại thời điểm xét xử. Đây chính là nội
dung của tiền lệ cho hướng giải quyết của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong
quyết định số 15/2018/DS-GĐT.

Trang 20
VẤN ĐỀ 3: CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ THEO THỎA THUẬN

1. Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển
giao nghĩa vụ theo thỏa thuận?
Giống nhau:

- Đều phải thông báo cho bên có nghĩa vụ/ bên có quyền nếu chuyển giao quyền/chuyển
giao nghĩa vụ.

- Không được chuyển giao trong trường hợp hai bên đã thỏa thuận không chuyển giao
hoặc pháp luật có quy định về việc không được chuyển giao, như nghĩa vụ gắn liền với
nhân thân, quyền yêu cầu cấp dưỡng, bồi thường do xâm phạm tới tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm, uy tín.

- Hậu quả pháp lý là làm chấm dứt tư cách chủ thể của người chuyển giao quyền/nghĩa
vụ, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ ở người được chuyển giao

- Xuất phát từ sự thỏa thuận giữa các bên

- Chỉ áp dụng đối với các quan hệ nghĩa vụ còn hiệu lực

Khác nhau

Chuyển giao quyền yêu cầu Chuyển giao nghĩa vụ

Bên có quyền có quyền chuyển Bên có nghĩa vụ có thể chuyển


Chủ thể giao quyền cho sang bên thứ ba nghĩa vụ cho bên thứ ba (người
(người thế quyền) thế nghĩa vụ)

Quyền Người chuyển giao quyền yêu cầu Người đã chuyển giao nghĩa vụ
hạn không phải chịu trách nhiệm về phải chịu trách nhiệm về khả năng
khả năng thực hiện nghĩa vụ của thực hiện nghĩa vụ của mình đối
bên có nghĩa vụ nên việc chuyển với bên có quyền nên để bảo vệ
giao quyền không cần có sự đồng lợi ích của bên có quyền, việc
ý của bên có nghĩa vụ (khoản 2, chuyển giao nghĩa vụ phải được
Điều 365 BLDS) sự đồng ý của bên có quyền.

Trang 21
(Khoản 1 Điều 370 BLDS)

- Đối với chuyển quyền yêu cầu - Đối với chuyển giao nghĩa vụ có
có các biện pháp bảo đảm thực biện pháp bảo đảm thì biện pháp
hiện nghĩa vụ thì việc chuyển giao bảo đảm sẽ đương nhiên chấm
quyền yêu cầu bao gồm cả các dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận
biện pháp bảo đảm đó (Điều 368 khác (Điều 371 BLDS)
BLDS) - Không quy định về nghĩa vụ của
- Người chuyển giao quyền có người chuyển giao nghĩa vụ đối
Phạm vi
nghĩa vụ đối với người thế quyền: với người thế nghĩa vụ.
người chuyển giao quyền yêu cầu
vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông
tin và chuyển giao giấy tờ có liên
quan cho người thế quyền mà gây
thiệt hại thì phải bồi thường thiệt
hại (Điều 366 BLDS)

Người chuyển giao quyền yêu cầu Không có quy định bắt buộc về
phải thông báo bằng văn bản cho mặt hình thức.
Hình thức bên có nghĩa vụ biết về việc
chuyển quyền, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác.

2. Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho bà
Tú?
Đoạn án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho bà Tú là: “Theo các biên
nhận tiền do phía bà Tú cung cấp thì chính bà Phượng là người trực tiếp nhận tiền
của bà Tú vào năm 2003 với tổng số tiền 555.000.000đ và theo biên nhận ngày
27/4/2004 thể hiện bà Phượng nhận của bà Lê Thị Nhan số tiền 615.000.000đ…
Ngoài ra, theo lời khai của bà Phượng thì vào tháng 4 năm 2004, do phía bà Loan,

Trang 22
ông Thạnh và bà Ngọc không có tiền trả cho bà Tú để trả vốn vay Ngân hàng nên
bà đã cùng với bà Tú vay nóng bên ngoài để có tiền trả cho Ngân hàng. Xác định
bà Phượng là người xác lập quan hệ vay tiền với bà Tú.”

3. Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được
chuyển sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?
Đoạn 4, trang 3 cho biết rằng:

“Xét trên hợp đồng vay tiền của bà Phường và bà Tú, phía bà Phượng đã vi phạm nghĩa
vụ thanh toán nợ vay, không trả vốn, lãi cho bà Tú, lẽ ra phía bà Phượng phải có trách
nhiệm thực hiện. Tuy nhiên, phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao nghĩa
vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể hiện qua việc bà Tú đã lập hợp đồng
cho bà Ngọc vay số tiền 465.000.000 đ và hợp đồng cho bà Loan, ông Thạnh vay số tiền
150.000.000 đ vào ngày 12/5/2005. Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay
với bà Ngọc, bà Loan, ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng với bà Tú chấm
dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan, ông Thạnh đối với Bà Tú thoe hợp
đồng vay tiền đã ký. Việc bà Tú yêu cầu bà Phượng có trách nhiệm thanh toán nợ cho bà
là không có căn cứ chấp nhận”.

4. Suy nghĩ của anh/chị về đánh giá trên của Tòa án?
Theo em, đánh giá trên của Tòa là hợp lý. Theo Điều 370, Khoản BLDS 2015 đã nêu
rằng:

“1. Bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ cho người thế nghĩa vụ nếu được bên có
quyền đồng ý, trừ trường hợp nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của bên có nghĩa vụ hoặc
pháp luật có quy định không được chuyển giao nghĩa vụ.

2. Khi được chuyển giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ.”

Thế nên, việc Tòa xác nhận nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng được chuyển giao lại cho bà
Ngọc, bà Loan, ông Thạnh là hoàn toàn có căn cứ. Và căn cứ đó là qua hợp đồng cho vay
của bà Tú với bà Ngọc số tiền 465.000.000đ và hợp đồng cho vay giữa bà Tú với bà
Loan, ông Thạnh số tiền vay 150.000.000đ vào ngày 12/05/2005. Hai bản hợp đồng cho
vay này chính là điều thể hiện bà Tú chấp nhận chuyển giao nghĩa vụ của bà Phượng cho
bà Ngọc, bà Loan, ông Thạnh. Chuyện bà Tú yêu cầu bà Phượng trả nợ là vô lý và bà
Phượng không chịu trách nhiệm liên đới nào nữa cả. Việc chịu trách nhiệm trả nợ cho bà
Tú sẽ được thay vào cho Bà Loan, bà Ngọc và ông Thạnh.
Trang 23
5. Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách nhiệm đối
với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ
được chuyển giao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu không còn trách nhiệm đối với người
có quyền khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao.

Theo Khoản 2 Điều 370 BLDS 2015 “Khi được chuyển giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa
vụ trở thành bên có nghĩa vụ”. Do đó, người thế nghĩa vụ có trách nhiệm nghĩa vụ với
người có quyền.

6. Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách
nhiệm đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện
nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu rõ quan điểm của các tác giả mà anh/chị
biết. Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu không
còn trách nhiệm đối với người có quyền khi người thay thế nghĩa vụ không
thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao.
Tác giả Đỗ Văn Đại cho rằng: “Khi có chuyển giao theo nghĩa vụ theo thỏa thuận, người
có nghĩa vụ ban đầu không còn trách nhiệm với người có quyền nên người có quyền
không thể yêu cầu người có nghĩa vụ ban đầu thực hiện nghĩa vụ khi người thế nghĩa vụ
không thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao. Nếu có nghĩa vụ chuyển giao theo pháp luật
mà khi chuyển giao người có nghĩa vụ ban đầu chết hay chấm dứt (như do sáp nhập hay
hợp nhất) thì hiển nhiên người có quyền cũng sẽ không thể yêu cầu người có nghĩa vụ
ban đầu thực hiện nghĩa vụ.”2

7. Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án theo hướng người có nghĩa vụ ban đầu
không còn trách nhiệm đối với người có quyền?
Đoạn của bản án cho thấy Tòa án theo hướng người có nghĩa vụ ban đầu không có trách
nhiệm đối với người có quyền là: “ Phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao
nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể hiện qua việc bà Tú đã lập hợp
đồng cho bà Ngọc vay số tiền 456.000.000 đ và hợp đồng cho bà Loan, ông Thạnh vay số
tiền 150.000.000 đ vào ngày 12/5/2005. Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng
vay với bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng với bà Tú
đã chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh đối với bà Tú
theo hợp đồng vay tiền đã ký. Việc bà Tú yêu cầu bà Phượng có trách nhiệm thanh toán
nợ cho bà là không có căn cứ chấp nhận”.

2
"Luật nghĩa vụ Việt Nam-Bản án và Bình luận bản án" – PGS.TS Đỗ Văn Đại
Trang 24
“Việc bà Tú giữ giấy chứng minh Hải quan của bà Phượng theo thỏa thuận. Phía bà
Phượng không có nghĩa vụ trả nợ cho bà Tú, buộc bà Tú hoàn trả lại cho bà Phượng giấy
chứng minh Hải quan”.

8. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.
Theo tôi, hướng giải quyết của Tòa án là hợp lý. Có hai vấn đề lớn đặt ra là: thứ nhất,
chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận có được chấp nhận hay không? Thứ hai, sau khi
nghĩa vụ được chuyển giao có làm phát sinh trách nhiệm cho người có nghĩa vụ ban đầu
hay không?

● Dựa vào bản án số 148/2007/DS-ST ngày 26/9/2007 về tranh chấp hợp đồng vay,
quan điểm của Tòa án thừa nhận hành vi chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận
được chấp nhận. Theo đó, người có nghĩa vụ là bà Phượng đã thực hiện việc
chuyển giao nghĩa vụ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh và được sự chấp nhận
của bên có quyền là bà Tú. Cụ thể, “ Phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng
chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể hiện qua việc
bà Tú đã lập hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền 456.000.000 đ và hợp đồng cho bà
Loan, ông Thạnh vay số tiền 150.000.000 đ vào ngày 12/5/2005”. Như vậy, theo
khoản 2 điều 370 BLDS 2015, “Khi được chuyển giao nghĩa vụ thì người thế
nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ”, từ đó có thể cho rằng, bà Ngọc, bà Loan và
ông Thạnh trở thành người có nghĩa vụ đối với bà Tú.

● Tòa án cho rằng, sau khi nghĩa vụ được chuyển giao theo thỏa thuận thì người có
nghĩa vụ ban đầu chấm dứt nghĩa vụ, điều đó được thể hiện qua đoạn sau: “Việc
bà Tú yêu cầu bà Phượng có trách nhiệm thanh toán nợ cho bà là không có căn cứ
chấp nhận” và “Việc bà Tú giữ giấy chứng minh Hải quan của bà Phượng theo
thỏa thuận. Phía bà Phượng không có nghĩa vụ trả nợ cho bà Tú, buộc bà Tú hoàn
trả lại cho bà Phượng giấy chứng minh Hải quan”.

9. Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo
lãnh của người thứ ba thì, khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh
có chấm dứt không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Theo Điều 292 BLDS 2015, bảo lãnh là một trong những biện pháp bảo đảm. Theo Điều
371 BLDS 2015: “Trường hợp nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm được chuyển giao thì biện
pháp bảo đảm đó chấm dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.” Như vậy, trong trường
hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo lãnh của người thứ ba thì khi
Trang 25
nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh sẽ chấm dứt, trừ trường hợp các bên có
thỏa thuận khác như: tiếp tục biện pháp bảo lãnh, thỏa thuận biện pháp bảo lãnh mới...

Tóm tắt Bản án số 148/2007/DSST ngày 26/9/2007

Bà Tú cho bà Phượng vay 615 triệu. Bà Phượng đã cho 2 người chị của mình là bà Ngọc
vay lại 465 triệu và bà Loan cùng chồng là ông Thạnh vay lại 150 triệu. Bà Tú lập hợp
đồng vay với bà Ngọc và vợ chồng bà Loan, ông Thạnh và đã giữ của bà Ngọc 1 sổ hộ
khẩu, 1 chứng minh nhân dân; của ông Thạnh 1 chứng minh nhân dân, 1 giấy mua bán
xe; của bà Phượng 1 giấy chứng minh Hải quan. Bà Tú yêu cầu bà Phượng có trách
nhiệm liên đới cùng bà Ngọc trả vốn vay, tiền lãi từ tháng 5/2005; còn khoản vay của ông
Thạnh, bà Loan thì không yêu cầu thanh toán vì hai người đã thỏa thuận trả cho bà Tú.
Bà Phượng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Tú vì bà không phải là người vay
tiền. Bà Ngọc thừa nhận có vay bà Tú 465 triệu và đồng ý thanh toán nợ cho bà Tú nhưng
hẹn đến khi được bồi thường diện tích đất trước đây bà đã thế chấp với bà Tú. Tòa tuyên
án bà Ngọc có trách nhiệm trả nợ cho bà Tú. Còn bà Phượng không có nghĩa vụ trả nợ
cho bà Tú nên buộc bà Tú trả lại giấy chứng minh Hải Quan cho bà Phượng.

BUỔI THẢO LUẬN THỨ HAI : (VẤN ĐỀ CHUNG CỦA HỢP ĐỒNG)

Trang 26
VẤN ĐỀ 1: CHẤP NHẬN ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
Tình huống: Tháng 1 năm 2018, A (pháp nhân), B (cá nhân) và C (cá nhân) gửi
cho D một đề nghị giao kết hợp đồng (là điều khoản về phương thức giải quyết
tranh chấp, bằng văn bản và có chữ ký của cả 3 chủ thể). Tháng 1 năm 2020 và
tháng 2 năm 2020, D đã gửi cho A và B chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng của
mình nhưng D không chứng minh được đã gửi chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
cho C (C không thừa nhận đã nhận được chấp nhận đề nghị giao kết của D). Sau đó,
các bên có tranh chấp về sự tồn tại của Hợp đồng (thỏa thuận về giải quyết tranh
chấp)
1.Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án đối với 3 vấn đề trên.
(1) bên đề nghị chưa nhận được chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng theo quy
định của Điều 400 BLDS 2015.
Theo Điều 400 Khoản 1 BLDS 2015 thời điểm giao kết hợp đồng: “Hợp đồng được
giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận giao kết”. Tháng 1 năm
2020 và tháng 2 năm 2020, D đã gửi cho A và B chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng của mình nhưng D không chứng minh được đã gửi chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng cho C. “Sự tồn tại của đề nghị giao kết hợp đồng chưa đủ để hình thành
hợp đồng. Hợp đồng chỉ được coi là giao kết khi có lời chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng”3. Do đó không có căn cứ để khẳng định D và C đã thực hiện giao kết hợp
đồng với nhau. Vì vậy, giữa D và C chưa thực hiện giao kết hợp đồng.
(2) chấp nhận chưa được thực hiện trong thời hạn hợp lý theo quy định của
Điều 394 BLDS 2015.
Đối với đề nghị bằng văn bản, nếu đề nghị quy định thời hạn cụ thể cho việc
chấp nhận thì chấp nhận có hiệu lực khi được gửi tới bên đề nghị trong thời
hạn đó. Còn đối với trường hợp không quy định thời hạn chấp nhận đề nghị
thì chấp nhận đề nghị được xem có hiệu lức nếu được gửi tới bên đề nghị
trong một thời hạn hợp lý, tùy từng trường hợp cụ thể. 4
Theo Điều 394 BLDS: “Khi bên đề nghị không nêu rõ thời hạn trả lời thì
việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực nếu được thực hiện trong một thời hạn
hợp lý”. Tuy nhiên. “BLDS 2015 không hướng dẫn cụ thể về “thời hạn hợp

3
“Đề nghị và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng”, https://www.viac.vn/thu-tuc-
trong-tai/006-%7C-de-nghi-va-chap-nhan-de-nghi-giao-ket-hop-dong-a140.html,
truy cập ngày 19/09/2022. 
4
“Chuyên đề Bồi dưỡng kỹ năng giải quyết tranh chấp hợp đồng trong hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp”, https://htpldn.moj.gov.vn/noidung.doc, truy
cập ngày 19/09/2022.
lý”. Về lý thuyết, Thời hạn hợp lý được xác định phụ thuộc dựa vào tốc độ
của phương tiện thông tin mà các bên sử dụng”.5
Trong tình huống trên, hợp đồng này không thỏa thuận về thời hạn trả lời. Nếu
trong thời gian từ tháng 1 năm 2018 đến tháng 1 năm 2020 và tháng 2 năm 2020, D
đã gửi cho A và B chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng của mình nghĩa là D đã trả
lời chấp nhận đề nghị giao kết của A, B sau 2 năm và A, B vẫn đồng ý và hợp đồng
có thể tiến hành thì thời gian đó được xem là thời hạn hợp lý. Như vậy, theo em
hướng giải quyết của Tòa là không hợp lý. Tuy nhiên, nếu trong trường hợp cả A, B
và C không chấp nhận đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng và hợp đồng không thể
thực hiện thì hướng giải quyết của tòa là hợp lý vì chấp nhận chưa được thực hiện
trong thời hạn hợp lý theo quy định của Điều 394 BLDS 2015.
(3) chấp nhận trên của D là đề nghị giao kết mới.
Theo Khoản 1 Điều 394 BLDS 2015, khi có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời
chấp nhận chỉ có hiệu lực khi thực hiện trong thời hạn đó; khi bên đề nghị không
nêu rõ thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận lời đề nghị giao kết hợp đồng chỉ có
hiệu lực nếu được thực hiện trong một thời hạn hợp lý. Nếu bên đề nghị giao kết
hợp đồng nhận được trả lời đề nghị giao kết hợp đồng khi đã hết thời hạn trả lời đề
nghị giao kết hợp đồng thì chấp nhận này được coi là lời đề nghị giao kết hợp đồng
mới của bên chậm trả lời đề nghị giao kết hợp đồng. Do đó, lời chấp nhận giao kết
hợp đồng chỉ được xem là đề nghị mới khi giữa 2 bên có sự ấn định thời hạn trả lời.
Trong tình huống này, hợp đồng giữa các bên không có sự ấn định thời hạn trả lời,
vì vậy không thể xem chấp nhận trên của D là lời đề nghị giao kết mới.

 Trương Nhật Quang (2020), Pháp luật về hợp đồng, NXB Dân Trí, tr159. 
5

Trang 28
VẤN ĐỀ 2: SỰ ƯNG THUẬN TRONG QUÁ TRÌNH GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
Tóm tắt án lệ số 04/2016/AL ngày 06/4/2016:
Việc chuyển nhượng nhà, đất diễn ra từ năm 1996, sau khi mua nhà, đất, ông Tiến,
bà Tý đã trả đủ tiền, nhận nhà đất, tôn nền đất, sửa lại nhà và cho các cháu đến ở.
Sau khi bán nhà, đất cho vợ chồng bà Tý, ông Ngự, bà Phấn đã phân chia vàng cho
các người con. Ngày 26/4/1996, ông Ngự còn viết “giấy cam kết” có nội dung
mượn lại phần nhà đất đã sang nhượng để ở khi xây dựng lại nhà trên phần đất còn
lại. Như vậy, có cơ sở xác định bà Phấn biết có việc chuyển nhượng nhà, đất giữa
ông Ngự với ông Tiến và bà Tý; bà Phấn đã đồng ý, cùng thực hiện.
Tình huống: Năm 2001, bà Chu và ông Bùi chuyển nhượng quyền sử dụng đất của
hộ (gồm 7 nhân khẩu) cho ông Văn. Năm 2004, ông Văn đã xây dựng chuồng trại
trên đất chuyển nhượng, các bên làm thủ tục chuyển nhượng để ông Văn được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và gia đình bà Chu, ông Bùi không ai có ý kiến
gì. Tuy nhiên, nay các con bà Chu và ông Bùi yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch
chuyển nhượng vô hiệu vì chưa có sự đồng ý của họ.
1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về vai trò của im lặng trong
giao kết hợp đồng?
Theo khoản 2, Điều 404, BLDS 2005 về Thời điểm giao kết hợp đồng dân sự: “Hợp
đồng dân sự cũng xem như được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được
đề nghị vẫn im lặng, nếu có thoả thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết.”
Như vậy, BLDS 2005 xem im lặng trong giao kết hợp đồng là một sự chấp nhận
giao kết
Theo Khoản 2, Điều 393 BLDS 2015 về Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng: “Sự
im lặng của bên được đề nghị không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói quen đã được xác lập các bên.”
Vậy theo BLDS 2015, im lặng không được xem là sự chấp nhận giao kết hợp đồng,
trừ khi có trường hợp thỏa thuận hoặc theo thói quen đã được các bên xác lập.
2. Quy định về vai trò của im lặng trong giao kết hợp trong một hệ thống pháp
luật nước ngoài.
Vấn đề giao kết hợp đồng bằng hình thức im lặng trong pháp luật nước ngoài:
Sự im lặng không đủ để khẳng định sự chấp nhận hợp đồng được thừa nhận
trong pháp luật thực định của Pháp, Đức, Anh, Áo, Bỉ, Hy Lạp, Italia, Đan
Mạch, Tây Ban Nha. Ở Anh, một nghiên cứu đã khẳng định rằng “quy định

Trang 29
thực sự phải là: Im lặng không thể được nhìn nhận như đương nhiên chấp
nhận.6
Tuy nhiên, vẫn có một số trường hợp ngoại lệ:
+ Sự im lặng cũng được coi là chấp nhận hợp đồng nếu như các bên đã tồn
tại mối quan hệ làm ăn trước đó thông qua việc kí kết lặp đi, lặp lại hợp đồng
có cùng bản chất. Ở đây, sự tồn tại một hợp đồng đang có hiệu lực giữa các
bên không đủ để suy luận im lặng là chấp nhận hợp đồng nhưng khi các bên
lặp đi, lặp lại việc kí kết hợp đồng có cùng bản chất trước đó thì sự im lặng
cho phép suy luận ngược lại. 7
+ “Nếu đề nghị giao kết hợp đồng được đưa ra hoàn toàn vì lợi ích của bên được đề
nghị thì sự im lặng cũng được suy luận là chấp nhận.” 8
3. Việc Tòa án áp dụng Án lệ số 04/2016/AL để công nhận hợp đồng chuyển
nhượng trong tình huống trên có thuyết phục không? Vì sao?
Án lệ 04 Tình huống

(1) Nhà đất là tài sản chung của vợ Quyền sử dụng đất của hộ (gồm 7
chồng nhân khẩu).

(2) Có đủ căn cứ xác định bên chuyển


nhượng đã nhận đủ số tiền theo thỏa
thuận, người không ký tên trong hợp
đồng biết và cùng sử dụng tiền
chuyển nhượng nhà đất.

(3) Bên nhận chuyển nhượng nhà đất đã Năm 2004, ông Văn đã xây dựng
nhận và quản lý, sử dụng nhà đất đó chuồng trại trên đất chuyển nhượng;
công khai  các bên làm thủ tục chuyển nhượng
để ông Văn được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất.

(4) Người không ký tên trong hợp đồng Gia đình bà Chu, ông Bùi không ai có
biết mà không có ý kiến phản đối gì
6
Đỗ Văn Đại, Luật Hợp đồng Việt Nam - Bản án và Bình luận bản án, Nxb.CTQG,
tr.197
7
Đỗ Văn Đại, Luật Hợp đồng Việt Nam - Bản án và Bình luận bản án, Nxb.CTQG,
tr.198-199
8
Đỗ Văn Đại, Luật Hợp đồng Việt Nam - Bản án và Bình luận bản án, Nxb.CTQG,
tr.199
Trang 30
thì phải xác định là người đó đồng ý ý kiến gì.
với việc chuyển nhượng nhà đất.

Theo bảng so sánh phía trên thì tình huống vẫn chưa khớp với Án lệ 04 tại điều kiện
(1) và (2). Nhưng tôi nhận định rằng:
Mặc dù Án lệ 04 quy định đó là tài sản chung của vợ chồng (sở hữu chung hợp
nhất) nhưng để tạo sự linh hoạt trong thực tiễn xét xử thì đối với những tài sản sở
hữu chung theo phần mà có tình huống pháp lý tương tự thì cũng cần áp dụng Án lệ
04 để giải quyết.
Tình huống vẫn chưa đưa ra căn cứ xác định bà Chu, ông Bùi đã nhận đủ số tiền
theo thỏa thuận, các con của hai người biết và cùng sử dụng tiền chuyển nhượng
quyền sử dụng đất.
Như vậy, xét thấy tình huống chưa đáp ứng điều kiện (2) nên việc Tòa án áp dụng
Án lệ 04 để giải quyết tình huống trên là chưa thuyết phục. Tuy nhiên Tòa án vẫn
thể hiện sự linh hoạt đối với điều kiện (1).

Trang 31
VẤN ĐỀ 3: ĐỐI TƯỢNG CỦA HỢP ĐỒNG KHÔNG THỂ THỰC HIỆN
ĐƯỢC
Tóm tắt Bản án số 609/2020/DS-PT ngày 12/11/2020
Ông P, ông B, ông L, bà H, ông N1 có tranh chấp về thửa đất số 20,21,22. Cùng lúc,
bà H đã thế chấp thửa 21 và 22 cho Ngân hàng HD Bank, ngân hàng HD Bank trình
bày rằng H nợ HD Bank tổng cộng 530.557.482 đồng. Trước khi bà N1 bán đất cho
N1Tòa Án đã thông báo cho bà H biết đất có tranh chấp mà bà vẫn cố ý bán cho N1,
N1 không biết đất có tranh chấp nên đã mua nó.
1.Những thay đổi và suy nghĩ của anh/chị về những thay đổi giữa BLDS 2015
và BLDS 2005 về chủ đề đang được nghiên cứu.
Điều 408 BLDS 2015 qui định về “Hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể
thực hiện được”:
1)Trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực
hiện được thì hợp đồng này bị vô hiệu.
2) Trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc
hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được nhưng không thông báo cho
bên kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại
cho bên kia, trừ trường hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có
đối tượng không thể thực hiện được.
3) Quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này cũng được áp dụng đối với
trường hợp hợp đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực hiện
được nhưng phần còn lại của hợp đồng vẫn có hiệu lực.
Điều 411 BLDS 2005 qui định về “Hợp đồng dân sự vô hiệu do có đối tượng không
thể thực hiện được”:
1) Trong trường hợp ngay từ khi ký kết, hợp đồng có đối tượng không thể
thực hiện được vì lý do khách quan thì hợp đồng này bị vô hiệu.
2) Trong trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về
việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được, nhưng không thông
báo cho bên kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường
thiệt hại cho bên kia, trừ trường hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp
đồng có đối tượng không thể thực hiện được.
3) Quy định tại khoản 2 Điều này cũng được áp dụng đối với trường hợp hợp
đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được, nhưng
phần còn lại của hợp đồng vẫn có giá trị pháp lý.
Những thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về “Hợp đồng vô hiệu do có đối
tượng không thể thực hiện được” là:
Trang 32
Về nguyên nhân BLDS 2005 đề cập ở Khoản 1 Điều 411 về đối tượng không thể
thực hiện được do nguyên nhân khách quan, tuy nhiên trong thực tiên có những hoạt
động đối tương không thể thực hiên được do nguyên nhân chủ quan. Vì thế Điều
408 BLDS 2015 không nói tới nguyên nhân nên ta có thể nó bao gồm cả nguyên
nhân chủ quan và khách quan. Đây là một sự thay đổi hợp lý, vì nó có thể được áp
dụng rộng rãi hơn trong thực tiễn.
Trong BLDS 2005 có quy định ở khoản 1 Điều 411 “ngay từ khi ký kết, hợp đồng
có đối tượng không thể thực hiện được vì lý do khách quan thì hợp đồng này bị vô
hiệu.”, còn ở BLDS 2015 qui định “ngay từ khi giao kết, hợp đồng có đối tượng
không thể thực hiện được thì hợp đồng này bị vô hiệu.”. BLDS 2015 dùng từ “ký
kết”, có nghĩa là chỉ nói đến hợp đồng bằng văn bản, làm giới hạn các loại hợp đồng
bằng lời nói. Vì thế BLDS 2015 đã thay bằng từ “giao kết”.
2.Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu hợp đồng do đối tượng không thể
thực hiện được được xác định như thế nào? Vì sao?
Điều 407 khoản 1 BLDS 2015 quy định được áp dụng Điều 132 BLDS 2015.
Điều 132 BLDS 2015 có quy định về 2 loại thời hiệu: thời hiệu 2 năm ở khoản 1 và
thời hiệu vô thời hạn ở khoản 3. Trong cả hai loại thời hiệu được đề cập trên đều
không bao gồm Điều 408 “Hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện
được”, nói cách khác Điều 408 chưa được quy định về thời hiệu tuyên bố vô hiệu
hợp đồng.
Ở góc độ lý luận, nếu áp dụng thời hiệu 2 năm thì nếu hết 2 năm sẽ không thể tuyên
bố hợp đồng vô hiệu và sau khi hết 2 năm sẽ công nhận nó như vậy là không hợp lý
vì với tính chất đặc thù của “đối tượng không thể thực hiện được”, thì ở góc độ lý
luận, ta nên theo hướng không áp dụng thời hiệu (vô thời hạn). Trong thực tiễn xét
xử trong 1 vụ tranh chấp, Tòa Án thành phố Hồ Chí Minh cũng đã theo phương án
không giới hạn về thời gian cho loại hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể
thực hiện được.
3.Trong vụ án trên, đoạn nào của Bản án cho thấy Tòa án theo hướng hợp
đồng vô hiệu do đối tượng không thể thực hiện được?
Bản án cho thấy Tòa án theo hướng hợp đồng vô hiệu do đối tượng không thể thực
hiện được được thể hiện qua đoạn: "[2] Vào tháng 4/2018, Tòa án đã có thông báo
cho bà Nguyễn Thị Thu H biết thửa đất số 20 có tranh chấp (Thông báo số 185/TB-
TLVA ngày 04/4/2018), nhưng đến ngày 07/8/2018 bà Nguyễn Thị Thu H vẫn ký
hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 20 đang có tranh chấp cho ông Nguyễn Văn
N1. Do đó, tuy ông Nguyễn Ngọc N1 trình bày khi nhận chuyển nhượng quyền sử
dụng thửa đất số 20 thì ông không biết đất đang có tranh chấp, nhưng bên chuyển

Trang 33
nhượng là bà Nguyễn Thị Thu H biết rõ đất đang có tranh chấp, nên không có căn
cứ để xác định việc chuyển nhượng đất là ngay tình. Mặt khác, tại Biên bản xem
xét, thẩm định tại chỗ ngày 12/6/2018 (bút lục 368, 369) thể hiện trên phần đất thửa
số 20 đang tồn tại 01 nhà mồ và 04 ngôi mộ của người thứ ba, nhưng việc chuyển
nhượng đất lại không có ý kiến của chủ sở hữu hợp pháp các vật kiến trúc trên đất,
nên quyền sử dụng đất không thể chuyển giao cho người nhận chuyển nhượng bình
thường và đầy đủ quyền sử dụng của mình. Do đó, hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được theo Điều 408 Bộ
luật dân sự. Vì vậy, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn
N1".
4.Trong vụ án trên, Toà án xác định hợp đồng vô hiệu do đối tượng không thể
thực hiện được có thuyết phục không? Vì sao?
Trong vụ án trên, Toà án xác định hợp đồng vô hiệu do đối tượng không thể thực
hiện được là thuyết phục. Vì:
Vào tháng 4/2018, Tòa án đã có thông báo cho bà Nguyễn Thị Thu H biết thửa đất
số 20 có tranh chấp, nhưng đến ngày 07/8/2018 bà Nguyễn Thị Thu H vẫn ký hợp
đồng chuyển nhượng thửa đất số 20 đang có tranh chấp cho ông Nguyễn Văn N1.
Do đó, tuy ông Nguyễn Ngọc N1 trình bày khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng
thửa đất số 20 thì ông không biết đất đang có tranh chấp, nhưng bên chuyển nhượng
là bà Nguyễn Thị Thu H biết rõ đất đang có tranh chấp, nên không có căn cứ để xác
định việc chuyển nhượng đất là ngay tình
Mặt khác, thửa số 20 đang tồn tại 1 nhà mồ và 4 ngôi mộ của người thứ ba, nhưng
việc chuyển nhượng đất lại không có ý kiến của chủ sở hữu hợp pháp các vật kiến
trúc trên đất, nên quyền sử dụng đất không thể chuyển giao cho người nhận chuyển
nhượng bình thường và đầy đủ quyền sử dụng của mình, từ đó xác định hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện
được theo Điều 408 BLDS 2015. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất và tài sản trên đất (trong phạm vi hẹp nghiên cứu là mồ mả gắn liền với đất) thì
ngoài giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bên chuyển nhượng phải có giấy tờ
chứng minh cam kết đối với mồ mả chẳng hạn như sau này sẽ tự nguyện di dời,
chừa phần đất liên quan đến mồ mả ra ...
Từ đó, quyết định của Toà án về Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối
với thửa số 20 giữa Nguyễn Thị Thu H ký kết với bên nhận chuyển nhượng là ông
Nguyễn Ngọc N1 là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu do có đối
tượng không thể thực hiện được là hoàn toàn hợp lý.

Trang 34
VẤN ĐỀ 4: XÁC LẬP HỢP ĐỒNG CÓ GIẢ TẠO VÀ NHẰM TẨU TÁN TÀI
SẢN
Tóm tắt Bản án số 06/2017/DS-ST ngày 17/01/2017:
Bà Thủy cho bà Trang vay 100.000.000 đồng với hình thức trả góp 1.000.000 đồng
1 ngày trong vòng 6 tháng. Hai bà đã xác lập giao dịch giả tạo nhằm che giấu việc
vay mượn bằng việc lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo hình thức
đặt cọc 100.000.000 đồng ngày 23/11/2013. Đến hạn trả nợ thì bà Trang chưa trả đủ
số tiền gốc đã mượn. Do đó bà Thủy mới khởi kiện bà Trang yêu cầu Tòa tuyên bố
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu và bị đơn phải trả lại tiền đã
mượn không yêu cầu lãi suất.
Tóm tắt Quyết định số 259/2014/DS-GĐT ngày 16/06/2014
Năm 2009, bà Thu cho bà Anh vay tiền 3 lần với tổng số tiền 3,7 tỷ đồng thỏa thuận
lãi suất 3%/tháng. Ngày 11/02/2010, bà Anh trả cho bà Thu 600 triệu đồng tiền gốc.
Vợ chồng bà Anh, ông Học thừa nhận đang nợ bà Thu 3,1 tỷ đồng và cam kết
chuyển nhượng nhà đất đang tranh chấp để trả nợ cho bà Thu nhưng lại không thực
hiện. Ngày 26/8/2010, vợ chồng bà Anh có chuyển nhượng nhà, đất cho ông Vượng
và bà Nga (anh trai và chị dâu bà Anh) với giá 680 triệu đồng, thoả thuận này vô
hiệu vì giá nhà đất chuyển nhượng không phù hợp với giá thực tế vì giá thực tế nhà
đất là gần 5,6 tỷ đồng. Tòa án cấp sơ thẩm xác định giao dịch chuyển nhượng nhà
đất giữa vợ chồng bà Anh và vợ chồng ông Vượng là giao dịch giả tạo nhằm trốn
tránh nghĩa vụ của vợ chồng bà Anh với vợ chồng bà Thu, buộc vợ chồng bà Anh
trả nợ cả gốc lẫn lãi cho bà Thu, đồng thời tuyên giao dịch giữa vợ chồng bà Anh và
vợ chồng ông Vượng vô hiệu, phong tỏa nhà đất vợ chồng bà Anh để thực hiện
nghĩa vụ với bà Thu.
Đối với vụ việc thứ nhất
1. Thế nào là giả tạo trong xác lập giao dịch?
Theo điều 124 BLDS 2015, hợp đồng giả tạo được hiểu là hợp đồng thể hiện ý chí
ra bên ngoài khác ý chí, nội tâm bên trong. Hợp đồng giả tạo có hai dạng:
+ Giả tạo dưới dạng giả cách: Tạo ra bên ngoài che giấu hợp đồng có thực bên
trong. VD: A bán nhà cho B với giá 500 triệu nhưng lập hợp đồng tặng cho (pháp
luật quy định bán nhà chịu thuế) → Bề ngoài cho dưới dạng bán.
+ Giả tạo dưới dạng tưởng tượng: Hình thức hợp đồng nhưng không tồn tại dưới
dạng hợp đồng nhằm trốn tránh nghĩa vụ đối với bên thứ ba. VD: A cho B vay tiền
với điều kiện ký hợp đồng bán nhà, hợp đồng cho vay giả tạo nhưng che giấu dưới
dạng hợp đồng cho vay không thế chấp mà là bán nhà → Gây khó khăn trong việc
phân biệt.
Trang 35
2. Đoạn nào của Quyết định cho thấy các bên có giả tạo trong giao kết hợp
đồng? Các bên xác lập giao dịch có giả tạo với mục đích gì?
Đoạn của quyết định cho thấy các bên có giả tạo trong giao kết hợp đồng: “Trường
hợp này phải xác định giao dịch chuyển nhượng nhà đất giữa vợ chồng bà Anh với
vợ chồng ông Vượng là giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ
của vợ chồng bà Anh đối với bà Thu, trên cơ sở đó buộc vợ chồng bà Anh trả nợ cả
gốc và lãi cho bà Thu, đồng thời tuyên giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ
chồng ông Vượng là vô hiệu và phong tỏa nhà đất của vợ chồng bà Anh để đảm bảo
thực hiện nghĩa vụ của vợ chồng bà Anh đối với bà Thu”.
Các bên xác lập giao dịch có giả tạo với mục đích: trốn tránh việc thực hiện nghĩa
vụ của vợ chồng bà Anh đối với bà Thu.
3. Hướng giải quyết của Tòa án đối với hợp đồng giả tạo và hợp đồng bị che
giấu
Trích phần xét thấy: “Đối chiếu với quy định trên trường hợp giữa nguyên đơn với
bà Trang thì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập ngày
23/11/2013 giữa nguyên đơn và bà Trang là vô hiệu do giả tạo và giao dịch vay tài
sản số tiền 100.000.000 đồng có hiệu lực…” Tòa án giải quyết dựa trên quy định
Điều 124 BLDS 2015, tuyên bố hợp đồng giả tạo là chuyển nhượng quyền sử dụng
đất vô hiệu do giả tạo và hợp đồng bị che giấu là giao dịch vay tài sản số tiền
100.000.000 đồng có hiệu lực.
Tòa còn tuyên bố xử lý hậu quả khi hợp đồng giả tạo vô hiệu theo điều 131 BLDS
2015 là các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, không phải bồi thường vì
cả hai có lỗi ngang nhau khi cố ý xác lập giao dịch giả tạo.
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý của Tòa án về hợp đồng giả tạo và hợp
đồng bị che giấu.
Theo nhóm tôi, hướng giải quyết của Tòa án là hợp lý. Vì:
Đối với hợp đồng giả tạo, dựa trên điều 124 BLDS 2015 thì giao dịch được xác lập
nhằm che giấu giao dịch khác thì giao dịch đó vô hiệu. Tòa án đã xác thực hợp đồng
giữa hai bên là xác lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất để che giấu
giao dịch vay mượn là giả tạo do đó tòa tuyên án vô hiệu là chính xác.
Đối với giao dịch vay mượn, trong quá trình tố tụng nguyên đơn xác nhận đã giao
số tiền cho vay và bị đơn là bà Trang thừa nhận đã nhận số tiền 100.000.000 đồng.
Toà án xác nhận việc khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ khi bị đơn khai là đã
trả đủ nhưng không có căn cứ nào để chứng minh điều đó. Vì vậy để bảo vệ quyền
lợi giữa các bên Tòa tuyên bố các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận và
cả hai đều có lỗi ngang nhau do cố ý xác lập giao dịch giả tạo nên không bồi thường

Trang 36
thiệt hại. Cách giải quyết trên hoàn toàn hợp lý với quy định xử lý hậu quả do xác
lập giao dịch giả tạo của điều 131 BLDS 2015.
Đối với vụ việc thứ hai
1. Vì sao Tòa án xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông
Vượng là giả tạo nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu?
Trong quá trình giải quyết vụ án thì vợ chồng bà Anh thừa nhận còn nợ bà Thu 3,1
tỷ đồng, đồng thời vợ chồng bà Anh cam kết chuyển nhượng nhà đất (đang có tranh
chấp) để trả nợ cho bà Thu, nhưng vợ chồng bà Anh không thực hiện cam kết với bà
Thu mà làm thủ tục chuyển nhượng nhà đất trên cho anh là vợ chồng ông Vượng.
Thỏa thuận chuyển nhượng giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông Vượng không
phù hợp với thực tế vì giá thực tế nhà đất là gần 5,6 tỷ đồng, nhưng hai bên thỏa
thuận chuyển nhượng chỉ với giá 680 triệu đồng và thực tế các bên cũng chưa hoàn
tất thủ tục chuyển nhượng. Giao dịch chuyển nhượng nhà đất giữa vợ chồng bà Anh
với vợ chồng ông Vượng là giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa
vụ của vợ chồng bà Anh đối với bà Thu.
2. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Tòa án (giả tạo để trốn
tránh nghĩa vụ)?
Theo tôi, hướng giải quyết trên của Tòa án là hoàn toàn hợp lý. Vì theo khoản 1
điều 124 BLDS 2015: “Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm
che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao
dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu
theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan”. Nên khi Tòa xác định
chuyển nhượng nhà đất trên giả tạo là có căn cứ. Bởi hiện nay giá thực tế nhà đất là
5,6 tỉ đồng, song cả hai bên lại thỏa thuận chuyển nhượng với giá chỉ 680 triệu
đồng, trong trường hợp này ông Vượng buộc phải biết giao dịch trên là không hợp
lý, đây là hành vi có ý định là tẩu tán tài sản nhằm trốn tránh việc nghĩa vụ của vợ
chồng ông Anh với bà Thu.
3. Cho biết hệ quả của việc Tòa án xác định hợp đồng trên là giao dịch nhằm
trốn tránh nghĩa vụ.
Về việc Tòa án xác định hợp đồng trên là giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ
với người thứ ba (tức giao dịch chuyển nhượng nhà đất giữa vợ chồng bà Anh cho
vợ chồng ông Vượng với giá 680 triệu đồng) thì giao dịch dân sự này vô hiệu (theo
Điều 124, khoản 2, BLDS 2015). Việc Tòa tuyên giao dịch vô hiệu này đã đảm bảo
quyền lợi của bà Thu (người cho vay), yêu cầu vợ chồng bà Anh trả nợ cả gốc lẫn
lãi cho bà Thu, song song đó còn phong tỏa nhà đất vợ chồng bà Anh để thực hiện
nghĩa vụ với bà Thu.

Trang 37
BUỔI THẢO LUẬN THỨ BA

VẤN ĐỀ 1: HỢP ĐỒNG VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ HÌNH THỨC


Tóm tắt Bản án số 16/2019/DS-PT ngày 19/3/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ngãi:
Nguyên đơn: ông Võ Sĩ M và bà Phùng Thị N.
Bị đơn: ông Đoàn C và bà Trần Thị L.
Ngày 20/08/2009, bị đơn thỏa thuận lập giấy viết tay chuyển nhượng 1 lô đất B
(diện tích 5m x 20m) trong 3 lô đất tái định cư (tới 2016, cả 3 lô mới được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất) được cấp gồm 1 lô A và 2 lô B cho nguyên đơn.
Ông M và bà N đã giao 90.000.000 đồng cho phía bị đơn. Tới năm 2011, anh L1-
con trai của bị đơn biết 3 lô đất tái định cư được cấp không có lô B như thỏa thuận
nên hai bên đã thỏa thuận bằng lời nói thành chuyển nhượng lô A ( thửa 877)  với
giá 120.000.000 đồng, phía nguyên đơn đã đưa tiếp 20.000.000 đồng và số còn lại
sẽ đưa sau khi hoàn tất thủ tục. Nay bị đơn không thừa nhận thỏa thuận thay đổi trên
nên nguyên đơn đã kiện bị đơn.
Quyết định của Tòa án: Công nhận hiệu lực giao dịch vì cả hai bên đã thực hiện 2/3
nghĩa vụ mặc dù hai bên không tuân thủ hình thức. Nguyên đơn có quyền sử dụng
đất, liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận và có nghĩa vụ
tiếp tục thanh toán cho bị đơn.
Tóm tắt Quyết định số 93/2018/DS-GĐT ngày 29/11/2018 của Toà án nhân dân
cấp cao tại Đà Nẵng:
Nguyên đơn: Ông Võ Sĩ Mến và bà Phùng Thị Nhiễm
Bị đơn: Ông Đoàn Cưu và bà Trần Thị Lắm
Ông Cưu, bà Lắm và con trai là Đoàn Tấn Linh thống nhất thỏa thuận chuyển
nhượng cho vợ chồng ông Mến, bà Nhiễm một lô B với giá chuyển nhượng là
90.000.000 đồng. Nhưng vì không có lô B nên hai bên thống nhất ông Mến, bà
Nhiễm giao thêm 30.000.000 đồng nữa để lấy lô khu A. Giao dịch chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa hai bên không được công chứng, chứng thực nhưng quá hai
năm, bị đơn không yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu nên hợp đồng vẫn có hiệu
lực. Tại Tòa giám đốc thẩm, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng quyết định: chấp
nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 68/2018/KN-DS. Hủy toàn bộ bản
án dân sự phúc thẩm số 24/2018/DS-PT. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ngãi xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.

Trang 38
1. Đoạn nào trong Bản án số 16 cho thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất được xác lập trước ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực và chưa được
công chứng, chứng thực?
Trích phần Nhận định của Tòa án trong Bản án số 16:
Đoạn cho thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập trước
ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực “…ngày 10/8/2009 nguyên đơn ông M, bà N
cùng phía bị đơn ông C, bà L và anh Đoàn Tấn L1 thỏa thuận và lập “Giấy chuyển
nhượng đất thổ cư” (Bút lục 27),…”.
Đoạn cho thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất chưa được công chứng,
chứng thực:
..tuy thời điểm các bên thỏa thuận việc chuyển nhượng quyền sử
dụng đất thì phía bị đơn chưa được cấp đất nên chỉ lập giấy viết tay
thể hiện nội dung thỏa thuận, nhưng khi được cấp đất các bên đã thay
đổi thỏa thuận bằng lời nói thành chuyển nhượng thửa 877 và tiếp tục
thực hiện hợp đồng bằng việc giao thêm tiền, giao đất, giao giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, thời điểm giao giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đang đứng tên bị đơn là đã đủ điều kiện để chuyển
nhượng….
2. Đoạn nào trong Bản án số 16 cho thấy Toà án đã áp dụng Điều 129 BLDS
2015 cho hợp đồng chuyển nhượng dù hợp đồng được xác lập trước ngày
BLDS năm 2015 có hiệu lực?
Trích phần Nhận định của Tòa án trong Bản án số 16:
 …Theo quy định tại Điều 116, khoản 2 Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015
thì tuy giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các bên không tuân
thủ về hình thức được quy định tại khoản 1 Điều 502 Bộ luật dân sự năm
2015 nhưng bên nguyên đơn đã thực hiện giao cho phía bị đơn 110.000.000
đồng, phía bị đơn đã giao quyền sử dụng đất cho nguyên đơn là đã thực hiện
hơn 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch nên giao dịch được công nhận hiệu lực. Tòa
án cấp sơ thẩm công nhận hiệu lực của giao dịch là đúng pháp luật nhưng
buộc bị đơn phải làm thủ tục chuyển nhượng thửa 877 cho nguyên đơn là
không cần thiết, khi Tòa án công nhận hiệu lực của giao dịch thì nguyên đơn
liên hệ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được công nhận quyền sử dụng
đất theo bản án đã có hiệu lực pháp luật.

Trang 39
3. Việc Toà án áp dụng Điều 129 BLDS 2015 trong trường hợp như trên có
thuyết phục không? Vì sao?
Tòa án áp dụng Điều 129 BLDS 2015 cho hợp đồng chuyển nhượng quyền bất động
sản như trên là thuyết phục. Vì hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu đất chưa
được công chứng, chứng thực bên nhượng quyền đã giao tài sản, bên nhận quyền sở
hữu đã nhận tài sản, đã xây dựng công trình kiên cố từ trước khi có văn bản này nên
Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng quy định tại Khoản 2, Điều 129 BLDS 2015. Theo đó,
các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được ký kết vào năm 2002 và năm
2009 đều vi phạm pháp luật, cụ thể: Người sử dụng đất chưa có quyền sử dụng đất
hợp pháp do hợp đồng chưa được công chứng, chứng thực.
4. Trong Bản án số 16, Tòa án áp dụng Điều 129 BLDS 2015 khi chỉ xác định
Nguyên đơn thực hiện 2/3 nghĩa vụ có thuyết phục không? Vì sao?
Tuy rằng, hợp đồng không tuân thủ theo quy định về hình thức do chưa thực hiện
công chứng, chứng thực. Trước lúc được cấp đất, cả hai đã lập hợp đồng chuyển
nhượng bằng văn bản nhưng khi được cấp đất sau và thay đổi đất lô B thành thửa
đất số 887, hai bên thay đổi thỏa thuận chỉ bằng lời nói nên không thỏa điều kiện
được đáp ứng. Song song đó, bên nguyên đơn đã thực hiện việc giao 110.000.000
đồng cho bị đơn và phía bị đơn cũng đã giao quyền sử dụng đất cho nguyên đơn thì
xem như đã thực hiện 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch này. Nên việc áp dụng Điều 129
BLDS 2015 khi chỉ xác định nguyên đơn thực hiện 2/3 nghĩa vụ và ra quyết định
công nhận hiệu lực giao dịch đó là hợp lý.
5. Trong Bản án số 16, đoạn nào cho thấy, khi áp dụng Điều 129 BLDS, bên
bán không cần phải làm thủ tục chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng
được liên hệ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được công nhận quyền sử
dụng đất theo bản án đã có hiệu lực pháp luật?
Trong Bản án số 16, đoạn [6] thuộc phần Nhận định của Tòa án đã thể hiện việc khi
áp dụng Điều 129 BLDS, bên bán không cần phải làm thủ tục chuyển nhượng và
bên nhận chuyển nhượng được liên hệ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được
công nhận quyền sử dụng đất theo bản án đã có hiệu lực pháp luật. Cụ thể: 
Theo quy định tại Điều 116, Khoản 2 Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015 thì
tuy giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các bên không tuân thủ
về hình thức được quy định tại Khoản 1 Điều 502 Bộ luật dân sự năm 2015
nhưng bên nguyên đơn đã thực hiện giao cho phía bị đơn 110.000.000 đồng,
Trang 40
phía bị đơn đã giao quyền sử dụng đất cho nguyên đơn là đã thực hiện hơn
2/3 nghĩa vụ trong giao dịch nên giao dịch được công nhận hiệu lực. Tòa án
cấp sơ thẩm công nhận hiệu lực của giao dịch là đúng pháp luật nhưng buộc
bị đơn phải làm thủ tục chuyển nhượng thửa 877 cho nguyên đơn là không
cần thiết, khi Tòa án công nhận hiệu lực của giao dịch thì nguyên đơn liên hệ
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được công nhận quyền sử dụng đất theo
bản án đã có hiệu lực pháp luật.
6. Hướng giải quyết như nêu trên của Tòa án có thuyết phục không? Vì sao?
Hướng giải quyết trên của Tòa án là thuyết phục. Vì theo Khoản 2 Điều 129 BLDS
2015:
Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt
buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít
nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc
các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong
trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.
Giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các bên không tuân thủ về hình
thức được quy định tại khoản 1 Điều 502 BLDS 2015 nhưng bên nguyên đơn đã
thực hiện giao cho phía bị đơn 110.000.000 đồng, phía bị đơn đã giao quyền sử
dụng đất cho nguyên đơn là đã thực hiện hơn 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch nên giao
dịch được công nhận hiệu lực. Khi Tòa án công nhận hiệu lực của giao dịch thì
nguyên đơn liên hệ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được công nhận quyền sử
dụng đất theo bản án đã có hiệu lực pháp luật. 🡪
Tại sao áp dụng BLDS 2015 ? Theo quy định tại Điều 688.1.b : “b) Giao dịch dân
sự chưa được thực hiện hoặc đang được thực hiện mà có nội dung và hình thức phù
hợp với quy định của Bộ luật này thì áp dụng quy định của Bộ luật này;”
Theo luật Đất Đai Điều 167.3 & 188 “Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê,
cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử
dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm
đăng ký vào sổ địa chính”. 🡪 cái việc đăng ký có phải là điều kiện để GD có hiệu
lực của HĐ hay không ? TA công nhận việc đk quyền sở hữu 🡪 HĐ có hiệu lực dù
chưa công chứng, chứng thực
Điều 161 BLDS Thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản
Dù không tuân thủ về ĐK không công chứng, chứng thực chỉ cần dựa trên Đ100
đưa ra phòng đk đất đai 🡪 người nhận chuyển nhượng được nhận

Trang 41
NQ 02/2004 🡪 bản án số 41 khánh hòa ( bình luận án ) -
Làm sao biết được đã thực hiện 2/3 NV ?
Về nguyên tắc nếu vp về hình thức thì sẽ bị vô hiệu : Điều 132.1.d và 129. 2 là
ngoại lệ
7. Đoạn nào trong Quyết định số 93 cho thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất ngày 10/8/2009 chưa được công chứng, chứng thực?
Trong phần nhận định của Tòa án, ở đoạn [5]:
Về hình thức của hợp đồng: Đối với các giao dịch dân sự được xác lập trước
ngày 01/01/2017, thời hiệu được áp dụng theo qui định của Bộ luật Dân sự
năm 2015 (Điểm d Khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015). Giao dịch
chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 10/08/2009 giữa vợ chồng ông
Cưu, bà Lắm với vợ chồng ông Mến, bà Nhiễm không được công chứng,
chứng thực là vi phạm về hình thức.
8. Theo BLDS 2015, hệ quả pháp lý của việc hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên
bố hợp đồng vô hiệu về hình thức.
Cơ sở pháp lý: Điều 132 Bộ luật Dân sự 2015
Theo Khoản 2, Điều 132 quy định về Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch
dân sự vô hiệu: “2. Hết thời hiệu quy định tại Khoản 1 Điều này mà không có yêu
cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự có hiệu lực.”
9. Đoạn nào trong Quyết định số 93 cho thấy Toà án đã áp dụng quy định về
thời hiệu tại Điều 132 BLDS 2015 để công nhận hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 10/8/2009 dù chưa được công chứng, chứng thực?
Đoạn trong Quyết định số 93 cho thấy Tòa án đã áp dụng quy định về thời hiệu tại
Điều 132 BLDS 2015 để công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
ngày 10/8/2009 dù chưa được công chứng, chứng thực là:
Như trên đã phân tích, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên
không vi phạm về nội dung, về hình thức của hợp đồng tuy không được công
chứng hoặc chứng thực nhưng trong thời hạn hai năm kể từ ngày giao dịch
được xác lập, ông Cưu, bà Lắm không yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô
hiệu nên giao dịch này có hiệu lực theo Khoản 2 Điều 132 Bộ luật Dân sự
năm 2015. Mặt khác, căn cứ để yêu cầu hủy hợp đồng và tuyên bố hợp đồng
vô hiệu là khác nhau. Theo quy định tại Điều 425 Bộ luật Dân sự năm 2005,
hợp đồng không được công chứng, chứng thực không phải là căn cứ để yêu

Trang 42
cầu hủy hợp đồng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm công nhận hợp đồng chuyển
nhượng, đồng thời bác yêu cầu phản tố của bị đơn về việc yêu cầu hủy hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 10/8/2009 là có căn cứ.
10. Trong quyết định số 93, việc Toà án công nhận hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 10/8/2009 dù chưa được công chứng, chứng thực có
thuyết phục không? Vì sao?
Trong quyết định số 93, việc Toà án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ngày 10/8/2009 dù chưa được công chứng, chứng thực là thuyết phục. Vì
từ khi xác lập hợp đồng đến ngày nguyên đơn khởi kiện 18/4/2017, đã quá thời hạn
hai năm, bị đơn không yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu theo quy định tại Khoản
1 Điều 132 BLDS 2015. Do đó, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên
có hiệu lực theo Khoản 2 Điều 132 BLDS 2015.
VẤN ĐỀ 2: ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT, HỦY BỎ DO KHÔNG THỰC
HIỆN ĐÚNG HỢP ĐỒNG 
Tóm tắt Bản án số 06/2017/KDTM-PT ngày 26/5/2017 của Tòa án nhân dân
tỉnh Vĩnh Long.
Bản án do nguyên đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Đông Phong
Cần Thơ có ông Nguyễn Thành Tơ là người thừa kế quyền, nghĩa vụ tố tụng kiện bị
đơn là bà Nguyễn Thị Dệt về vụ việc “tranh chấp hợp đồng mua bán”. Hợp đồng
mua bán xe ngày 26/05/2012 vô hiệu nên không tuyên hủy hợp đồng. Hợp đồng ghi
bên mua là “Trang trí nội thất Thanh Thảo”, người đại diện Nguyễn Thị Dệt là
không đúng vì ông Trương Hoàng Thành mới là Giám đốc đại diện. Hợp đồng đại
diện bên mua là bà Dệt, nhưng ký kết là ông Trương Văn Liêm là không đúng pháp
luật. Tòa tuyên không chấp nhận yêu cầu kháng cáo nguyên đơn và bị đơn.
1. Điểm giống nhau và khác nhau giữa hợp đồng vô hiệu và hủy bỏ hợp đồng
do có vi phạm.
Điểm giống nhau: 
- Hợp đồng vô hiệu và hợp đồng hủy bỏ do có vi phạm đều làm hợp đồng không có
giá trị thi hành (chấm dứt hiệu lực của hợp đồng).
- Trách nhiệm hoàn trả : Các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường
hợp không hoàn trả được bằng hiện vật thì được trị giá thành tiền để hoàn trả
(Khoản 2 Điều 131 và Khoản 2 Điều 427 BLDS 2015 ) 

Trang 43
- Bên có lỗi / bên kia gây thiệt hại thì phải bồi thường. (Khoản 4 Điều 131 và Khoản
3 Điều 427 BLDS 2015). 
Điểm khác nhau : 

Hợp đồng vô hiệu (Điều 407 Hủy bỏ hợp đồng do có vi


BLDS 2015)  phạm (Điều 423 BLDS 2015) 

1.Căn cứ - Khoản 1 Điều 407 BLDS 2015: Điều 423 BLDS 2015: 
phát “Quy định về giao dịch dân sự vô - Vi phạm hợp đồng là điều kiện
sinh   hiệu từ Điều 23 đến Điều 133 của hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận;
Bộ luật này cũng được áp dụng
- Vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ
đối với hợp đồng vô hiệu ”
hợp đồng;
+ Do vi phạm điều cấm của luật,
- Trường hợp khác do luật quy
trái đạo đức xã hội.
định.
+ Do người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi dân
sự, người hạn chế năng lực dân
sự xác lập, thực hiện;
+ Do nhầm lẫn;
+ Do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng
ép;
+ Do người xác lập không nhận
thức và làm chủ hành vi của
mình;
+ Do không tuân thủ quy định về
hình thức;
+ Do có đối tượng không thể
thực hiện được.
- Hợp đồng vô hiệu do vi phạm
một trong các điều kiện để hợp
đồng có hiệu lực quy định tại
Điều 117.

Trang 44
- Hợp đồng vô hiệu do có đối
tượng không thể thực hiện được
tại Điều 408. 

2.Hiệu Tại Khoản 1 Điều 131 BLDS Tại Khoản 1 Điều 427 BLDS
lực hợp 2015: “Giao dịch dân sự vô hiệu 2015: “Khi hợp đồng bị hủy bỏ
đồng  không làm phát sinh, thay đổi, thì hợp đồng không có hiệu lực
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự từ thời điểm giao kết, các bên
của các bên kể từ thời điểm giao không phải thực hiện nghĩa vụ đã
dịch được xác lập.” thỏa thuận, trừ thỏa thuận về phạt
vi phạm, bồi thường thiệt hại và
thỏa thuận về giải quyết tranh
chấp.”

3.Quyền Căn cứ vào Điều 132 BLDS - Theo Khoản 3 Điều 423 thì một
hạn tuyên 2015: Tòa án tuyên bố hợp đồng trong các bên có thể hủy bỏ hợp
bố   vô hiệu.  đồng khi có vi phạm hợp đồng. 
- Tòa án. 

4.Phạm Hợp đồng bị vô hiệu toàn bộ Hợp đồng bị hủy bỏ toàn  bộ. 
vi  hoặc vô hiệu toàn phần. 

5.Thông Không phải thông báo. Theo Khoản 3 Điều 423 : “Bên
báo  hủy bỏ hợp đồng phải thông báo
ngay cho bên kia biết về việc hủy
bỏ, nếu không thông báo mà gây
thiệt hại thì phải bồi thường”.

Trang 45
2. Theo Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long, hợp đồng vô hiệu hay bị huỷ bỏ?
Theo Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long thì hợp đồng vô hiệu. Điều này được nêu rõ
trong Quyết định tuyên xử của Bản án: “Vô hiệu hợp đồng mua bán xe ô tô ngày
26/05/2012 giao kết giữa công ty TNHH MTV Đông Phong Cần Thơ với ông
Trương Văn Liêm”.
3. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Long (về huỷ bỏ hay vô hiệu hợp đồng). 
Quan điểm của tòa rằng hợp đồng mua bán xe ô tô ngày 26/5/2012 vô hiệu là hợp
lý, bởi vì: 
Về chủ thể: Hợp đồng ghi bên mua là “Trang trí nội thất Thanh Thảo”, người đại
diện Nguyễn Thị Dệt là không đúng vì bà Dệt không đại diện cho Trang trí nội thất
Thành Thảo mà thực chất là Công ty TNHH-SX-TM Thành Thảo do Trương Hoàng
Thành làm Giám đốc đại diện. Vì vậy, bà Dệt không có năng lực chủ thể phù hợp vì
bà không có khả năng đại diện cho “Trang trí nội thất Thanh Thảo” xác lập giao
dịch dân sự.
Mặt khác: Hợp đồng ghi đại diện bên mua là bà Nguyễn Thị Dệt nhưng đứng ra
giao dịch ký kết lại là ông Trương Văn Liêm là không đúng quy định của pháp luật.
Do đó, phần chủ thể không có năng lực hành vi dân sự phù với giao dịch dân sự
được xác lập. Giao dịch dân sự vô hiệu vì không thỏa điều kiện được quy định theo
Điều 122, Điểm a Khoản 1 Điều 117 BLDS 2015.
Xét về lỗi dẫn tới vô hiệu hợp đồng của các bên giao dịch là ngang nhau, do đó các
bên không phát sinh quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng mà các bên đã ký cho nên
hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận theo Điều 131 BLDS 2015. 

Trang 46
4. Nếu hợp đồng bị vô hiệu thì có áp dụng phạt vi phạm hợp đồng không? Vì
sao?
Theo Khoản 1 Điều 418: “Phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp
đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm.”
Điều 300 Luật Thương mại 2005 quy định: “Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm
yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp
đồng có thỏa thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của
Luật này”.“Phạt vi phạm chỉ được đặt ra khi các bên muốn vậy hoặc là khi các bên
có thỏa thuận trước trong hợp đồng.” 9
Các quy định về phạt vi phạm đều nằm trong phần thực hiện hợp đồng (BLDS
2015) và phần chế tài trong Luật Thương mại 2005. Điều này có nghĩa là phạt vi
phạm chỉ có giá trị khi hợp đồng có hiệu lực. Khi hợp đồng có hiệu lực thì các điều
khoản mà các bên đã thỏa thuận mới có giá trị pháp lý ràng buộc giữa các bên.
Ngược lại, nếu hợp đồng vô hiệu thì thỏa thuận phạt vi phạm cũng không có hiệu
lực pháp luật.10
Do đó, nếu hợp đồng bị vô hiệu thì không áp dụng phạt vi phạm hợp đồng.
Phạt VP và BTTH khác nhau ntn ?
5. Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long đối với câu hỏi trên
như thế nào và suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết này của Toà án nhân
dân tỉnh Vĩnh Long. 
Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long đối với câu hỏi trên là hoàn
toàn thuyết phục. Vì:
Hợp đồng mua bán xe ngày 26/05/2012 vô hiệu do không thỏa điều kiện được quy
định theo điều 122, điểm a khoản 1 điều 117 BLDS 2015. Vì thế, giao dịch dân sự
này không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên ngay từ thời
điểm giao kết hợp đồng.

9
Hoàng Thanh Giang,”Hoàn thiện quy định pháp luật về chế tài phạt vi phạm hợp đồng”
https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/hoan-thien-quy-dinh-phap-luat-ve-che-tai-phat-vi-
pham-hop-dong-86789.htm, truy cập ngày 26/09/2022
10
Bích Phượng - Sơn Hải, “Bàn về mức phạt vi phạm hợp đồng”,  
https://tapchitoaan.vn/ban-ve-uc-phat-vi-pham-hop-dong, truy cập ngày 26/09/2022

Trang 47
Căn cứ áp dụng phạm vi vi phạm như: Thứ nhất, hợp đồng phải có hiệu lực.
Thứ hai, chỉ áp dụng khi có hành vi vi phạm hợp đồng. Thứ ba, có thỏa thuận
áp dụng phạt vi phạm. 11
Việc phạt vi phạm hợp đồng không mang tính bắt buộc, mà do các bên thỏa
thuận với nhau. Tuy nhiên, thỏa thuận này (nếu có), thì phải thể hiện rõ trong
hợp đồng theo điều 418 BLDS 2015. Nếu trong hợp đồng không có nội dung
này thì xem như hai bên không thỏa thuận. 12
Về nguyên tắc, hợp đồng có hiệu lực thì các điều khoản trong hợp đồng mới có giá
trị pháp lý ràng buộc đối với các bên. Trường hợp hợp đồng vô hiệu thì điều khoản
phạt vi phạm hợp đồng cũng không có giá trị pháp lý và không phát sinh trách
nhiệm ràng buộc đối với bên vi phạm theo khoản 1 điều 131 BLDS 2015.
6. Điểm giống nhau và khác nhau giữa đơn phương chấm dứt hợp đồng và hủy
bỏ hợp đồng do có vi phạm.
Điểm giống nhau : 
- Hậu quả của cả hai hành vi đều dẫn đến kết thúc hợp đồng.
- Do một bên thực hiện.
- Chỉ không phải bồi thường khi một bên vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trong hợp
đồng. Đây cũng là điều kiện để áp dụng việc hủy bỏ hoặc đơn phương chấm dứt
hợp đồng.
- Phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc chấm dứt hoặc hủy bỏ, nếu không
thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
- Ai có lỗi dẫn đến hợp đồng bị chấm dứt/ hủy bỏ thì người đó phải có trách nhiệm
bồi thường.

Đơn phương chấm dứt hợp Hủy bỏ hợp đồng do có vi


đồng  phạm 

11
Nguyễn Đức Anh, “Các căn cứ phạt vi phạm hợp đồng theo quy định của pháp luật”,
https://thuvienphapluat.vn/banan/tin-tuc/phat-vi-pham-hop-dong-theo-phap-luat-thuong-
mai-viet-nam-4493, truy cập ngày 27/09/2022 
12
Trần Minh Sơn, “Phạt vi phạm, bồi thường hợp đồng dân sự theo Bộ luật dân sự năm
2015”, https://htpldn.moj.gov.vn/Pages/chi-tiet-tin.aspx?ItemID=1&l=Camnanghtpchodn,
truy cập ngày 27/09/2022

Trang 48
Điều kiện  Không bắt buộc phải có sự vi Phải có sự vi phạm hợp đồng và
phạm hợp đồng vì các bên có thể đây cũng là điều kiện để hủy bỏ
thỏa thuận hoặc do pháp luật quy hợp đồng
định.

Trường Điều 428 BLDS Khoản 1 Điều 423 BLDS


hợp chấm - Chậm thực hiện nghĩa vụ;  - Một bên vi phạm nghiêm trọng
dứt/hủy (không thể thực hiện mục đích
- Không có khả năng thực hiện; 
bỏ giao kết HĐ) nghĩa vụ trong hợp
-Trong trường hợp tài sản bị mất,
đồng.
bị hư hỏng.
- Các bên có thỏa thuận.
- Pháp luật có quy định.

Trách Bên đơn phương chấm dứt Bên hủy bỏ phải thông báo
nhiệm thực hiện hợp đồng phải thông ngay cho bên kia biết về việc
thông báo ngay cho bên kia biết về hủy bỏ, nếu không thông báo mà
báo  việc chấm dứt hợp đồng, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường
không thông báo mà gây thiệt  thiệt hại.
hại  thì phải bồi thường.

Thời điểm Hợp đồng chấm dứt kể từ thời Khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp
chấm dứt/ điểm bên kia nhận được thông đồng không có hiệu lực từ thời
hủy bỏ   báo chấm dứt. (Khoản 3 Điều điểm giao kết. (Khoản 1 Điều
428) 427)

Hậu quả Các bên không phải tiếp tục thực Các bên phải hoàn trả cho nhau
pháp lý  hiện nghĩa vụ, trừ thỏa thuận về những gì đã nhận sau khi trừ chi
phạt vi phạm, bồi thường thiệt phí hợp lý trong thực hiện hợp
hại và thỏa thuận về giải quyết đồng và chi phí bảo quản, phát
tranh chấp. Bên đã thực hiện triển tài sản.Việc hoàn trả được
nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên thực hiện bằng hiện vật. 
kia thanh toán phần nghĩa vụ đã Trường hợp không hoàn trả được
thực hiện. bằng hiện vật thì được trị giá

Trang 49
thành tiền để hoàn trả.
Trường hợp các bên cùng có
nghĩa vụ hoàn trả thì việc hoàn
trả phải được thực hiện cùng một
thời điểm, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc pháp luật có quy
định khác.

7. Ông Minh có được quyền hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng nêu trên không?
Vì sao? Nếu có, nêu rõ văn bản cho phép hủy bỏ.
Ông Minh có quyền hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng nêu ra trong tình huống trên.
Theo đó, ông Minh và ông Cường đã thực hiện giao kết hợp đồng hợp pháp và ông
Minh đã thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng đã chuyển nhượng đất cho ông Cường.
Tuy trong hợp đồng không đề cập về thời hạn thanh toán tiền, nhưng ông Cường lại
không thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền cho ông Minh khi ông Minh đã chuyển
nhượng đất cho ông và còn để ông Minh nhắc nhở nhiều lần. Như vậy, ông Cường
đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng theo Khoản 2 Điều 423 BLDS 2015 vì
việc ông Cường không thanh toán tiền cho ông Minh là hành vi không đúng với
mục đích ban đầu của giao kết.
Do đó, căn cứ theo Điểm b, Khoản 1 Điều 423 và Khoản 1 Điều 428 BLDS 2015
thì ông Minh hoàn toàn có quyền yêu cầu hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất cho ông Cường. 

Trang 50
VẤN ĐỀ 3: ĐỨNG TÊN GIÙM MUA BẤT ĐỘNG SẢN
Tóm tắt Quyết định số 17/2015/DS-GĐT ngày 19/05/2015 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao.
Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị Tuệ.
Bị đơn: bà Nguyễn Thị Vân và ông Nguyễn Văn Bình.
Quyết định số 17/2015/DS-GĐT ngày 19/05/2015 của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao về vụ án kiện đòi tài sản. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao ra kết luận căn cứ “ Giấy cam đoan xác định tài sản nhà ở” lập ngày 07/6/2001
xác nhận căn nhà số 16-B20 do bà Tuệ bỏ tiền mua và nhờ ông Bình, bà Vân đứng
tên hộ. Giấy cam đoan này có chữ ký của ông Bình và bà Vân. “Giấy khai nhận tài
sản” ngày 09/8/2001 của bà Tuệ cũng có chữ ký của bà Tuệ; bà Vân và ông Bình ký
tên dưới mục người đứng tên mua hộ. Theo “giấy chứng nhận” ngày 12/6/2009 của
Tổng lãnh sự quán nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Nhật Bản thì bà
Tuệ vẫn có quốc tịch Việt Nam. Vì vậy, trong trường hợp này bà Tuệ được công
nhận quyền sở hữu nhà 16-B20 và xem xét đến công sức quản lý, giữ gìn nhà cho
gia đình ông Bình trên cơ sở xác định giá nhà đất theo giá thị trường ở thời điểm xét
xử sơ thẩm, trừ đi số tiền mua nhà đất do bà Tuệ bỏ ra, phần giá trị còn lại chia đôi
cho bà Tuệ và ông Bình.
1. Việc Tòa án nhân dân tối cao xác định nhà có tranh chấp do bà Tuệ bỏ tiền
ra mua và nhờ ông Bình, bà Vân đứng tên hộ có thuyết phục không? Vì sao?
Việc Tòa án nhân dân tối cao xác định nhà có tranh chấp do bà Tuệ bỏ tiền ra mua
và nhờ ông Bình, bà Vân đứng tên hộ thuyết phục vì ba căn cứ sau:
“Giấy cam đoan xác định tài sản nhà ở” lập ngày 07/06/2001 xác nhận căn nhà số
16-B20 do bà Tuệ bỏ tiền mua và nhờ ông Bình, bà Vân đứng tên hộ. Giấy cam
đoan này có chữ ký của ông Bình và bà Vân.
“Giấy khai nhận tài sản” ngày 09/8/2001 của bà Tuệ cũng có nội dung năm 1993 bà
Tuệ mua căn nhà số 16-B20 phường Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội
tổng diện tích sử dụng là 134m2 xây 02 tầng trên 68,5m2 đất của Công ty xây dựng
nhà ở dân dụng và được Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở ngày 25/5/2001 với lý do bà Tuệ là người
Việt Nam định cư ở nước ngoài không đứng tên mua nhà được nên nhờ ông Bình và
bà Vân đứng tên mua hộ. Giấy này cũng có chữ ký của bà Tuệ, bà Vân và ông Bình
ký tên dưới mục người đứng tên mua hộ.

Trang 51
Biên bản hòa giải ngày 05/10/2010 và ngày 14/10/2010, ông Bình cũng thừa nhận
nhà 16-B20 là bà Tuệ cho tiền mua và nhờ bà Vân đứng tên cùng mua. Anh Nguyễn
Xuân Hải là con ông Bình cũng khẳng định nhà 16-B20 do bà Tuệ mua.
2. Ở thời điểm mua nhà trên, bà Tuệ có được đứng tên không? Vì sao?
Thứ nhất, “Hợp đồng mua nhà ngày 11/12/1992 đã ghi bên mua là ông Bình và bà
Vân, với giá 320 chỉ vàng được quy thành tiền tại thời điểm thanh toán. Ngày
13/7/1993, Công ty xây dựng nhà Hà Nội đã lập biên bản giao nhà cho bên mua”.
Vậy thời điểm mua nhà là năm 1992.
Thứ hai, bản án cũng đề cập đến việc bà Tuệ định cư ở Nhật Bản từ năm 1977 và có
nguyện vọng mua nhà tại Việt Nam tuy nhiên không có nhu cầu định cư lâu dài.
Vì vậy, theo Điều 126 Luật nhà ở năm 2005: Quyền sở hữu nhà ở tại Việt
Nam của người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài về đầu tư lâu dài tại Việt Nam, người có
công đóng góp với đất nước, nhà hoạt động văn hoá, nhà khoa học có nhu cầu về
hoạt động thường xuyên tại Việt Nam nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước,
người được phép về sống ổn định tại Việt Nam và các đối tượng khác do Uỷ ban
thường vụ Quốc hội quy định được sở hữu nhà ở tại Việt Nam.
2. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài không thuộc diện quy định tại Khoản 1
Điều này đã về Việt Nam cư trú với thời hạn được phép từ sáu tháng trở lên được sở
hữu một nhà ở riêng lẻ hoặc một căn hộ.
Và cũng theo Điều 121 Luật đất đai năm 2003: Quyền và nghĩa vụ của người
Việt Nam định cư ở nước ngoài được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng
đất ở tại Việt Nam
1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc các đối tượng sau đây thì được mua
nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam:
a) Người về đầu tư lâu dài có nhu cầu nhà ở trong thời gian đầu tư tại Việt Nam;
b) Người có công đóng góp với đất nước;
c) Những nhà hoạt động văn hoá, nhà khoa học có nhu cầu về hoạt động thường
xuyên tại Việt Nam nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước;
d) Người có nhu cầu về sống ổn định tại Việt Nam;
đ) Các đối tượng khác theo quy định của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Trang 52
2. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất
ở tại Việt Nam có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
a) Các quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 105 và Điều 107 của Luật này;
b) Bán nhà ở gắn liền với đất ở cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng quy định tại Khoản 1 Điều này;
c) Thế chấp nhà ở gắn liền với đất ở tại các tổ chức tín dụng được phép hoạt động
tại Việt Nam;
d) Để thừa kế nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở cho hộ gia đình, cá nhân,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng quy định tại Khoản 1 Điều
này theo quy định của pháp luật về dân sự; trường hợp người thừa kế là người Việt
Nam định cư ở nước ngoài không thuộc đối tượng quy định tại Khoản 1 Điều này
hoặc cá nhân nước ngoài thì được hưởng giá trị của phần thừa kế đó;
đ) Tặng cho nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở cho Nhà nước, cộng đồng dân
cư, tặng cho nhà tình nghĩa theo quy định tại Điểm c Khoản 2 Điều 110 của Luật
này; tặng cho nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở đối với hộ gia đình, cá nhân
hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng quy định tại Khoản 1
Điều này.
Từ các lý do trên, có thể thấy, thời điểm bà Tuệ mua nhà, bà không cư trú ở Việt
Nam trên sáu tháng. Hơn nữa, theo bản án có thể thấy, bà Tuệ không có nhu cầu về
sống ổn định ở Việt Nam. Thế nên, bà Tuệ không thể đứng tên mua nhà vào thời
điểm này.
3. Ở thời điểm hiện nay, bà Tuệ có được đứng tên mua nhà ở tại Việt Nam
không?
Theo Luật nhà ở năm 2014:
Theo Điều 7 Luật nhà ở: Đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam bao gồm:
1. Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước.
2. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
3. Tổ chức, cá nhân nước ngoài quy định tại Khoản 1 Điều 159 của Luật này.
Luật nhà ở năm 2014 có phần mở rộng hơn Luật nhà ở năm 2005, nếu Luật nhà ở
năm 2005 yêu cầu đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài điều kiện như:
người này đã về Việt Nam cư trú và có thời gian cư trú trên sáu tháng sẽ được
quyền sở hữu một nhà ở riêng hoặc một căn hộ. Tuy nhiên, ở Luật nhà ở năm 2014,
đã bỏ đi điều kiện này, chỉ cần là người Việt Nam định cư ở nước ngoài sẽ thuộc
Trang 53
một trong các đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam và cũng không quy định số
lượng nhà ở người này sở hữu.
Cũng theo Điều 8 của Luật này, điều kiện để công nhận nhà ở của người Việt Nam
định cư ở nước ngoài thì phải được phép nhập cảnh vào Việt Nam.
Theo Luật đất đai năm 2013:
Theo Khoản 6 Điều 5 Luật đất đai năm 2013, “Người Việt Nam định cư ở nước
ngoài theo quy định của pháp luật về quốc tịch” thuộc nhóm các đối tượng người sử
dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận
chuyển quyền sử dụng đất.
Theo Khoản 1 Điều 186 Luật đất đai năm 2013, Quyền và nghĩa vụ về sử dụng đất
ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam; người
nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài không thuộc đối tượng được
mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam “Người Việt Nam định cư
ở nước ngoài thuộc các đối tượng có quyền sở hữu nhà ở theo quy định của pháp
luật về nhà ở thì có quyền sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt
Nam.”
Theo “Giấy chứng nhận” ngày 12/6/2009 của Tổng lãnh sự quán nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam tại Nhật Bản thì bà Tuệ vẫn có quốc tịch Việt Nam. Ngày
18/6/2009 bà Tuệ còn được cấp “Giấy miễn thị thực” để bà Tuệ nhập cảnh Việt
Nam nhiều lần đến ngày 18/6/2014, mỗi lần nhập cảnh tạm trú không quá 90 ngày.
Như vậy, bà Tuệ có đủ điều kiện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam theo luật hiện
nay.
4. Ngày nay, theo Tòa án nhân dân tối cao, bà Tuệ được công nhận quyền sở
hữu nhà trên không? Hướng giải quyết này của Tòa án nhân dân tối cao đã có
tiền lệ chưa?
Ngày nay, theo TAND tối cao, bà Tuệ có thể được công nhận sở hữu nhà trên. Dựa
trên những cơ sở:
“Giấy chứng nhận” ngày 12/6/2009 của Tổng lãnh sự quán nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam tại Nhật Bản công nhận bà Tuệ vẫn có quốc tịch Việt
Nam. (1)
Ngày 18/6/2009, “Giấy miễn thị thực” được cấp cho bà Tuệ để bà nhập cảnh
Việt Nam nhiều lần đến ngày 18/6/2014, mỗi lần nhập cảnh tạm trú không quá
90 ngày. (2)

Trang 54
Luật nhà ở năm 2014:
Điều 7. Đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam bao gồm: “2. Người Việt Nam
định cư ở nước ngoài.”
Như vậy, (1) cho thấy bà Tuệ là đối tượng thuộc Khoản 2 Điều 7 nêu trên.
Điều 8. Điều kiện để công nhận quyền sở hữu nhà ở: “1. … đối với người Việt Nam
định cư ở nước ngoài thì phải được phép nhập cảnh vào Việt Nam …”.
Bà Tuệ đã đáp ứng được điều kiện nêu trên theo bằng chứng đưa ra tại (2).
Luật đất đai năm 2013:
Điều 5. Người sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền
sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này, bao gồm:
“6. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài theo quy định của pháp luật về quốc
tịch;”.
Điều 186. Quyền và nghĩa vụ về sử dụng đất ở của người Việt Nam định cư ở nước
ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam; người nước ngoài hoặc người Việt Nam
định cư ở nước ngoài không thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền với quyền sử
dụng đất ở tại Việt Nam.
1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc các đối tượng có quyền sở hữu
nhà ở theo quy định của pháp luật về nhà ở thì có quyền sở hữu nhà ở gắn
liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam.
Như vậy, TAND tối cao có thể căn cứ vào luật hiện nay và công nhận bà Tuệ có đủ
điều kiện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam.
Hướng giải quyết này của TAND tối cao đã có tiền lệ tại Quyết định 27/2010/DS-
PT.
5. Theo Tòa án nhân dân tối cao, phần giá trị chênh lệch giữa số tiền bà Tuệ bỏ
ra và giá trị hiện tại của nhà đất có tranh chấp được xử lý như thế nào? 
Theo TAND tối cao, phần giá trị chênh lệch giữa số tiền bà Tuệ bỏ ra và giá trị hiện
tại của nhà đất tranh chấp sẽ chia đôi cho bà Tuệ và ông Bình nhằm tính đến công
sức quản lý, giữ gìn nhà cho bà Tuệ của gia đình ông Bình.
6. Hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao đã có Án lệ chưa? Nếu
có, nêu Án lệ đó. 
Hướng giải quyết trên của TAND tối cao đã có Án lệ 02/2016/AL.

Trang 55
Tuy bà Thảnh là người bỏ 21,99 chỉ vàng để chuyển nhượng đất (tương
đương khoảng 27.047.700 đồng). Nhưng giấy tờ chuyển nhượng đứng tên
ông Tám và sau khi nhận chuyển nhượng ông Tám quản lý đất, sau đó
chuyển nhượng cho người khác. Như vậy, lẽ ra phải xác định ông Tám có
công sức trong việc bảo quản, giữ gìn, tôn tạo làm tăng giá trị đất nên phải
xác định số tiền trên (sau khi trừ tiền gốc tương đương 21,99 chỉ vàng của bà
Thảnh) là lợi nhuận chung của bà Thảnh và ông Tám. Đồng thời xác định
công sức của ông Tám để chia cho ông Tám một phần tương ứng với công
sức của ông mới đúng và đảm bảo quyền lợi của các đương sự (Trường hợp
không xác định được chính xác công sức của ông Tám thì phải xác định bà
Thảnh, ông Tám có công sức ngang nhau để chia).
7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao. 
Trong Quyết định trên, TAND tối cao xem phần tiền mà bà Tuệ trả cho căn nhà ban
đầu (356 chỉ vàng) như phần vốn gốc. Phần chênh lệch giữa giá trị của căn nhà theo
giá thị trường vào thời điểm xét xử sơ thẩm và phần tiền bà Tuệ đã bỏ ra chính là
phần lãi chung của bà Tuệ và ông Bình. Việc TAND tối cao đưa ra hướng giải
quyết như trên là hợp lý vì vừa đảm bảo việc bà Tuệ vẫn nhận được phần “vốn gốc”
mà mình đã bỏ ra, công nhận quyền sở hữu nhà và sử dụng đất của bà Tuệ, đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của bà. Mặt khác vẫn đảm bảo được quyền lợi và xem xét
công giữ gìn, trông nom nhà cửa của gia đình ông Bình. Tuy nhiên, TAND tối cao
cần  xem xét về quyết định chia phần “lãi chung”. Trong lời khai của các bên đương
sự thì bà Tuệ và ông Bình đều thừa nhận rằng ông Bình có cho sinh viên thuê trọ
trong thời gian trông nom nhà cửa hộ bà Tuệ. Câu hỏi đặt ra là phần lợi tức sinh ra
từ việc cho thuê trọ đó sẽ thuộc về ai? Theo quy định tại Điều 235 BLDS 2005:
“Chủ sở hữu, người sử dụng tài sản có quyền sở hữu đối với hoa lợi, lợi tức theo
thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật, kể từ thời điểm thu được hoa lợi, lợi
tức đó.” Vậy phần lợi tức này sẽ thuộc về bà Tuệ. Nhưng TAND tối cao vẫn chưa
đề cập đến phần lợi tức này (giả sử như buộc ông Bình trả phần lợi tức này cho bà
Tuệ). Vì thế TAND tối cao nên xem xét thực tế về phần công sức đóng góp và các
khoản hoa lợi, lợi tức phát sinh để chia phần “lãi chung” hợp lý cho các bên đương
sự thay vì chia đôi.

Trang 56
Ngoài ra, mặc dù quyết định trên được ban hành trước khi HĐTP TANDTC công
bố Án lệ 02/2016/AL nhưng quyết định trên vẫn có một số điểm tương đồng nhất
định với Án lệ 02/2016/AL.
Căn cứ vào các quy định của pháp luật áp dụng vào thời điểm người Việt
Nam định cư ở nước ngoài nhờ người ở Việt Nam đứng tên “mua” đất, giao
dịch đó bị cấm vì pháp luật tại thời điểm đó không cho phép người Việt Nam
định cư ở nước ngoài nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nói riêng và
quyền sử dụng đất nói chung ở Việt Nam. Giao dịch đó được thực hiện vào
thời điểm Pháp lệnh Hợp đồng dân sự có hiệu lực và bị điều chỉnh bởi pháp
lệnh đó. Khoản 5 Điều 16 Pháp lệnh quy định: “Khoản thu nhập không hợp
pháp từ việc thực hiện hợp đồng vô hiệu phải bị tịch thu”. Do đó, các giao
dịch tương tự đã bị Tòa án tuyên bố vô hiệu và khoản lợi nhuận thu được bị
tịch thu.
Quy định trên vẫn tiếp tục được thể hiện tại BLDS 1995 về xử lý hậu quả của
giao dịch dân sự vô hiệu. Tuy nhiên, đến BLDS 2005 đã không quy định
“cứng nhắc” như trên mà chỉ quy định chung tại Điều 137 rằng hoa lợi, lợi
tức có thể bị tịch thu “theo quy định của pháp luật”.
Có lẽ, HĐTP TANDTC đã tính đến sự thay đổi của pháp luật theo hướng có
lợi hơn đối với các đương sự để “áp dụng hồi tố”. Trong vụ việc này có hai
quy định có lợi hơn đối với các đương sự. Thứ nhất, pháp luật đã cho phép
người Việt Nam định cư ở nước ngoài được quyền sở hữu nhà, sử dụng đất ở
Việt Nam trong một số trường hợp. Thứ hai, việc tịch thu hoa lợi, lợi tức thu
được từ việc thực hiện giao dịch vô hiệu không phải là trong mọi trường hợp
mà chỉ trong trường hợp pháp luật có quy định cụ thể.13
Có thể thấy, TAND tối cao cũng đã đi theo hướng linh hoạt hơn và có lợi hơn đối
với các đương sự, tương tự như ở Án lệ 02/2016/AL.

13
Lưu Tiến Dũng (2021), Án lệ Việt Nam - phân tích và luận giải, Nhà xuất bản Tư pháp,
tr.36

Trang 57
Buổi thảo luận thứ tư: Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ

Vấn đề 1: Đối tượng dùng để bảo đảm và tính chất phụ của biện pháp bảo đảm

*Tóm tắt
- Bản án số 208/2010/DS-PT ngày 09/03/2010 của Tòa án nhân dân TP.
HCM; Vy
Nguyên đơn: ông Phạm Bá Minh.
Bị đơn: bà bùi Thị Khen và ông Nguyễn Khắc Thảo.
Ngày 14/9/2007, bà Khen và ông Thảo thế chấp cho ông Minh một giấy
chứng nhận sạp D2 - 9 tại chợ Tân Hương để vay 60.000.000 đồng, thời hạn
vay là 6 tháng, lãi suất thỏa thuận là 3%/tháng. Hết hạn vay nhưng ông Thảo,
bà Khen vẫn chưa thanh toán được toàn bộ nợ. Tại biên bản hòa giải ngày
27/8/2009, cả hai bên xác nhận tiền lãi mà ông Minh đã nhận với lãi suất
3%/tháng là 29.600.000 đồng. Song, việc nhận lãi suất 3%/tháng là trái quy
định của pháp luật nên cần điều chỉnh. Bà Khen, ông Thảo có nghĩa vụ thanh
toán cho ông Minh số tiền 38.914.800 đồng và ông Minh phải trả lại bản
chính Giấy chứng nhận sạp D2 - 9 tại chợ Tân Hương cho bà Khen.
- Quyết định số 02/2014/QĐ-UBTP ngày 28/2/2014 của Tòa án nhân dân
Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang; Vy
Nguyên đơn: ông Nguyễn Văn Ôn
bà Lê Thị Xanh
Bị đơn: ông Nguyễn Văn Rành
Vào năm 1995 (30/8/1995 al), ông Ôn, bà Xanh và ông Rành có lập giấy
“Giấy thục đất làm ruộng”, bản chất của giao dịch này được xem xét tương
tự như một giao dịch cầm cố tài sản, không trái pháp luật , thực hiện đúng
hình thức, nội dung theo quy định của pháp luật nên được pháp luật thừa
nhận. Theo thỏa thuận, ông Ôn, bà Xanh có cầm cố cho ông Rành 3000 m2
đất với giá 30 chỉ vàng 24k (loại nhẫn), hạn 3 năm và quá hạn 3 năm không
chuộc sẽ phải giao phần đất trên với số vàng cầm cố. Trong hạn, ông Ôn và
bà Xanh có về chuộc đất nhưng ông Rành không cho chuộc do khó khăn.
Ông Ôn và bà Xanh khiếu kiện đòi ông Rành, bà Hết trả đất cầm cố và hai
ông bà sẽ trả 30 chỉ vàng 24k. Do xét việc giao dịch thục đất nêu trên là
tương tự với giao dịch cầm cố tài sản, nên áp dụng nguyên tắc tương tự để
giải quyết. Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Tiền Giang Xin rút đoạn “Thứ nhất” về phần thủ tục, còn đoạn “Thứ
hai” trong kháng nghị về phần nội dung thì vẫn giữ y và đề nghị Hội đồng
xét xử giám đốc thẩm hủy bản án sơ thẩm nêu trên của Tòa án nhân dân
huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm lại theo quy định của
Trang 58
pháp luật. Hội đồng xét xử giám đốc thẩm xét thấy kháng nghị của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang là có căn cứ chấp nhận.
Quyết định số 27/2021/DS-GĐT ngày 02/6/2021 của Toà án nhân dân
cấp cao tại Tp. Hồ Chí Minh. (Thy)
Nguyên đơn: Ngân hàng Liên doanh V.
Bị đơn: Công ty PT.
Ngân hàng Liên doanh V và Công ty PT đã ký kết các hợp đồng thế chấp để
đảm bảo nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng. Trong đó, hợp đồng thế chấp của
ông Trần T và bà Trần Thị H đã được tất toán tương ứng với khoản vay
nhưng Ngân hàng V đã không thanh lý hợp đồng thế chấp này. Tuy nhiên,
Ngân hàng muốn xử lý tài sản thế chấp cho khoản vay khác.
Quyết định của Tòa án:
Hủy Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm: tuyên bố hợp đồng thế chấp
có hiệu lực pháp luật. Ngân hàng V có quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp.
Giữ Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm: tuyên hợp đồng thế chấp chấm
dứt hiệu lực. Ngân hàng phải trả lại cho ông Trần T và bà Trần Thị H bản
chính Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất.
1. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 liên quan đến tài sản
có thể dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. (Thy)
Thứ nhất, BLDS năm 2015 đã có sự thay đổi về chế định liên quan đến tài
sản để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ so với BLDS 2005. BLDS năm 2005 có 3
điều luật về tài sản bảo đảm: Điều 320 quy định về Vật bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự, Điều 321 quy định về Tiền, giấy tờ có giá dùng để bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ và Điều 322 về Quyền tài sản dùng để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự; còn ở BLDS 2015 chỉ có 1 điều luật: Điều 295 quy định về
Tài sản bảo đảm:
“1. Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường
hợp cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu,
2. Tài sản bảo đảm có thể được mô tả chung, nhưng phải xác định được,
3. Tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong
tương lai,
4. Giá trị của tài sản bảo đảm có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá trị
nghĩa vụ được bảo đảm.”
BLDS năm 2005 theo phương pháp liệt kê nên đã không đầy đủ và “dường
như cũng chỉ là sự lặp lại các loại tài sản theo quy định tại Điều 163 của Bộ
Luật”.14 Chẳng hạn, khi đề cập đến tài sản hình thành trong tương lai, các
quy định trên của BLDS năm 2005 chỉ đề cập đến “vật hình thành trong
tương lai” mà không đề cập đến loại tài sản khác hình thành trong tương lai
hay không.

14
Tham khảo Viên Thế Giang, Thực trạng pháp luật về tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
và hướng sửa đổi, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 04/2015, tr.36.
Trang 59
Với sự thay đổi ở Điều 295 BLDS 2015, ta thấy được khái niệm tài sản được
mở rộng hơn so với vật, do đó, việc sử dụng thuật ngữ chung là tài sản đã
mở ra nhiều cơ hội đa dạng hóa các loại tài sản là đối tượng của giao dịch
dân sự bảo đảm.
Thứ hai, về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, BLDS 2005 có quy định
làm rõ yếu tố “tương lai” của tài sản đảm bảo tại khoản 2 Điều 320 BLDS
2005, theo đó “vật hình thành trong tương lai là động sản, bất động sản thuộc
sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao dịch
bảo đảm được giao kết”. Còn BLDS 2015 không có quy định làm rõ thế nào
là “tài sản hiện có” hay “tài sản hình thành trong tương lai”. Việc thay đổi
như thế để tránh sự khó hiểu và rườm rà vì đã có quy định tại Điều 108
BLDS 2015 về Tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.
Thứ ba, ở Khoản 1, Điều 320 BLDS 2005: “1. Vật bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ dân sự phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm và được phép giao
dịch.”; còn ở Khoản 1, Điều 295 BLDS 2015 quy định: “1. Tài sản bảo đảm
phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường hợp cầm giữ tài sản,
bảo lưu quyền sở hữu.”. Như vậy, quy định tại BLDS 2015 đã bỏ đi quy định
“được phép giao dịch” và chỉ quy định “trừ trường hợp cầm giữ, bảo lưu
quyền tài sản”. Sở dĩ, phần Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bỏ quy
định này không phải là cho phép sử dụng tài sản không được phép giao dịch
để bảo đảm mà do các quy định chung đã có hướng giải quyết.
Thứ tư, BLDS 2015 cũng bổ sung thêm quy định về giá trị của tài sản đảm
bảo tại Khoản 4, Điều 295: “4. Giá trị của tài sản bảo đảm có thể lớn hơn,
bằng hoặc nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm”. Quy định này được bổ
sung để tránh trường hợp có người yêu cầu giá trị tài sản bảo đảm phải lớn
hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm.
2. Đoạn nào của bản án số 208 cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận sạp
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay? Vy
Đoạn của bản án số 208 cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận sạp để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay là: “Bị đơn bà Bùi Thị Khen và ông
Nguyễn Khắc Thảo xác nhận: Có thế chấp một giấy tờ sạp D2 - 9 tại chợ Tân
Hương để vay 60.000.000 đồng cho ông Phạm Bá Minh là chủ dịch vụ cầm
đồ Bá Minh. Lãi suất 3%/ tháng.”
3. Giấy chứng nhận sạp có là tài sản không? Vì sao? Vy
Giấy chứng nhận sạp không là tài sản. Bởi vì, theo trong Bản án, Hội đồng
xét xử đã xét thấy giấy chứng nhận sạp D2 - 9 tại chợ Tân Hương chỉ là giấy
đăng kí sử dụng sạp chứ không phải quyền sở hữu. Thế nên, ông Thảo, bà
Khen chỉ có quyền sử dụng chứ không được định đoạt hoặc đem đi cầm cố,
thế chấp, quyền sở hữu thuộc về Ban quản lý chợ.

Trang 60
Theo căn cứ khoản 1, Điều 105 BLDS 2015 rằng: “Tài sản là vật, tiền, giấy
tờ có giá và quyền tài sản.”. Mà ta thấy giấy chứng nhận sạp không thuộc nội
dung nêu trên nên không là tài sản.
4. Việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ dân sự có được
Tòa án chấp nhận không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời? Vy
Việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ dân sự không được Tòa
án chấp nhận. Đoạn nào của bản án cho câu trả lời là:
“Xét thấy sạp thịt heo do bà Khen đứng tên và cầm cố, nhưng giấy
chứng nhận sạp D2 - 9 tại chợ Tân Hương là giấy đăng kí sử dụng
sạp, không phải quyền sở hữu, nên giấy chứng nhận trên không đủ cơ
sở pháp lý để bà Khen thi hành án trả tiền cho ông Minh.”
5. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết và cơ sở pháp lý của Tòa án
đối với việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ. (Thảo)
Hướng giải quyết của Tòa án là hợp lý. Xét sạp thịt heo do bà Khen đứng tên
và cầm cố, nhưng giấy chứng nhận sạp D2-9 tại chợ Tân Hương là giấy đăng
ký sử dụng sạp, không phải quyền sở hữu, nên giấy chứng nhận trên không
đủ cơ sở pháp lý để bà Khen thi hành án trả tiền cho ông Minh. Căn cứ vào
khoản 1 Điều 295 BLDS 2015: “Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu
của bên bảo đảm, trừ trường hợp cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu”.
Do đó, tài sản cầm cố nếu không thuộc quyền sở hữu của bà Khen thì bà
Khen có quyền sử dụng nó chứ không có quyền định đoạt nó trong giao dịch
cầm cố.
6. Đoạn nào của Quyết định số 02 cho thấy các bên đã dùng quyền sử dụng
đất để cầm cố? (Thy)

Trong Quyết định số 02 cho thấy các bên đã dùng quyền sử dụng đất để cầm cố:

“...Thực hiện giao dịch ông Ôn, bà Xanh giao quyền sử dụng đất cho ông Rành canh
tác, đổi lại ông Rành đưa cho ông Ôn, bà Xanh 30 chỉ vàng 24k để sử dụng , hai bên
thỏa thuận nếu quá 3 năm mà ông Ôn, bà Xanh không chuộc lại đất cũng bằng số
vàng nêu trên thì ông Ranh có quyền canh tác số ruộng đất này vĩnh viễn...”.
7. Văn bản hiện hành có cho phép dùng quyền sử dụng đất để cầm cố
không? Nêu cơ sở văn bản khi trả lời? (Thảo)
Văn bản hiện hành cho phép dùng quyền sử dụng đất để cầm cố.
Căn cứ Điều 309 BLDS 2015 quy định về cầm cố tài sản: “Cầm cố tài sản là
việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu
của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ.”
Đối tượng cầm cố là tài sản thuộc quyền sở hữu của bên cầm cố. Theo Điều
105 BLDS 2015 quy định: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài
sản”
Trang 61
Quyền sử dụng đất là một quyền tài sản (Điều 115) vì vậy nên thỏa mãn điều
kiện của đối tượng cầm cố là tài sản.

8. Trong Quyết định trên, Tòa án có chấp nhận cho phép dùng quyền sử
dụng đất để cầm cố không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
(Thảo)
Trong quyết định trên, Tòa án đã chấp nhận cho phép dùng quyền sử dụng
đất để cầm cố.
Đoạn của Quyết định cho câu trả lời là: “Xét việc giao dịch thục đất nêu trên
là tương tự với giao dịch cầm cố tài sản, do đó phải áp dụng nguyên tắc
tương tự để giải quyết. Về nội dung thì giao dịch thục đất nêu trên phù hợp
với quy định về cầm cố tài sản của Bộ luật dân sự (tại Điều 326, 327), do đó
cần áp dụng các quy định về cầm cố tài sản của BLDS để giải quyết mới
đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên giao dịch.”

9. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết
định số 02. (Thảo)
Hướng giải quyết trên của Tòa án là hợp lý.
Căn cứ vào Điều 309 BLDS 2015 có quy định: “Cầm cố tài sản là việc một
bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình
cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để đảm bảo thực hiện nghĩa
vụ” và khoản 2 Điều 310 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp bất động sản
là đối tượng của cầm cố theo quy định của luật thì việc cầm cố bất động sản
có hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký”, điều này
cho thấy khả năng cầm cố bất động sản nếu luật cho phép. Vì thế việc sử
dụng đất để cầm cố là hợp pháp theo quy định của pháp luật.
10. Trong Quyết định số 27, thế chấp được sử dụng để bảo đảm cho nghĩa
vụ nào? Vì sao? (Thy)
Trong Quyết định số 27, thế chấp được sử dụng để bảo đảm cho nghĩa vụ trả
nợ cho Ngân hàng V của Công ty PT. Trong Hợp đồng thế chấp của ngân
hàng với công ty có ghi: “...Hợp đồng này để bảo đảm thực hiện toàn bộ
nghĩa vụ đã, đang và sẽ hình thành trong tương lai theo toàn bộ các Hợp
đồng tín dụng đã và sẽ ký giữa Ngân hàng với Bên vay trong giới hạn số tiền
tối đa bằng giá trị tài sản thế chấp…”
Và căn cứ theo khoản 1, Điều 317 BLDS 2015 quy định về Thế chấp tài sản:
“1. Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài
sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài
sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp).”
11. Đoạn nào trong Quyết định số 27 cho thấy Toà án xác định hợp đồng thế
chấp đã chấm dứt? (Thy)

Trang 62
Trong Quyết định số 27, ở đoạn Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2019/KDTM-
ST ngày 12/9/2019, Tòa án quyết định:
“Tuyên bố hợp đồng thế chấp số 63/2014/HĐTC ngày 06/6/2014 đã ký giữa
ông Trần T, bà Trần Thị H; Ngân hàng Liên doanh V - Chi nhánh Thành
phố H và Công ty PT chấm dứt hiệu lực.”
Và trong phần Quyết định: “Hủy Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm
sổ 20/2020/KDTM-PT ngày 26/8/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Dương và giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số
11/2019/KDTM-ST ngày 12/9/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ
Dầu Một, tỉnh Bình Dương đối với vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”
giữa nguyên đơn Ngân hàng Liên doanh V với bị đơn Công ty PT.”
Như vậy, qua hai đoạn quyết định trên Tòa án sơ thẩm xác định hợp đồng thế
chấp đã chấm dứt.
12. Vì sao Tòa án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt? (Thy)
Cơ sở pháp lý: khoản 1, Điều 357 BLDS 2005 và khoản 1, Điều 327 BLDS
2015 quy định về Chấm dứt thế chấp tài sản.
Qua quá trình giải quyết vụ án, Ngân hàng V thừa nhận Công ty PT đã tất
toán các khoản vay từ Hợp đồng tín dụng số 60/2014/HĐTD ngày 14/4/2014
lần lượt vào các ngày 15/10/2014; ngày 25/10/2014 và ngày 12/11/2014. Vì
vậy, việc thế chấp tài sản của ông T, bà H đã chấm dứt theo quy định tại
Điều luật trên. Như vậy, việc Ngân hàng yêu cầu được xử lý tài sản thế chấp
của ông T, bà H để thu hồi nợ là không có cơ sở. Do hợp đồng thế chấp đã
chấm dứt nên Ngân hàng có trách nhiệm hoàn trả bản chính Giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở cho ông T, bà H.
13. Việc Toà án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt có thuyết
phục không? Vì sao? (Thảo)
Việc Tòa án xác định hợp đồng thế chấp nên trên đã chấm dứt là thuyết phục.
Vì hợp đồng thế chấp bất động sản số 63/2014/HĐTC ngày 05/6/2014 được
ký kết với bên bảo lãnh của Công ty PT là ông Trần T, bà Trần Thị H để bảo
đảm nghĩa vụ trả nợ của Công ty PT với ngân hàng với đảm bảo khoản vay
1.500.000.000 đồng. Tại khoản 2 Điều 1 của Hợp đồng thế chấp có ghi: “…
Hợp đồng này để bảo đảm thực hiện toàn bộ nghĩa vụ đã, đang và sẽ hình
thành trong tương lai theo toàn bộ các Hợp đồng tín dụng đã và sẽ ký giữa
Ngân hàng với Bên vay trong giới hạn số tiền tối đa bằng giá trị tài sản thế
chấp…”. Nhưng Công ty PT và ngân hàng có nâng hạn mức tín dụng lên mà
lại không có không hề có ý kiến của người thế chấp là ông Trần T và bà Trần
Thị H là không đúng quy định. Mặt khác, việc Ngân hàng ký nâng hạn mức
vay từ 1.500.000.000 đồng lên 10.000.000.000 đồng đã vượt quá giá trị tài
sản thế chấp là điều bất hợp lý. Tiếp đó, ngân hàng Việt Nga thừa nhận Công
ty PT đã tất toán các khoản vay của Hợp đồng tín dụng số 60/2014/HĐTD

Trang 63
ngày 14/4/2014. Do đó, việc thế chấp tài sản của ông T, bà H đã chấm dứt
theo quy định tại khoản 1 Điều 327 BLDS 2015.

14. Khi xác định hợp đồng thế chấp chấm dứt, Tòa án theo hướng bên nhận
thế chấp (Ngân hàng) có trách nhiệm hoàn trả Giấy chứng nhận quyền
sở hữu nhà và quyền sử dụng đất có thuyết phục không? Vì sao? (Thảo)
Khi xác định hợp đồng thế chấp chấm dứt, Tòa án theo hướng bên nhận thế
chấp (Ngân hàng) có trách nhiệm hoàn trả Giấy chứng nhận quyền sở hữu
nhà và quyền sử dụng đất là thuyết phục. Vì trong quá trình giải quyết vụ án,
nguyên đơn Ngân hàng Việt Nga thừa nhận Công ty PT đã tất toán các khoản
vay từ Hợp đồng tín dụng số 60/2014/HĐTD ngày 14/4/2014 lần lượt vào
các ngày 15/10/2014; ngày 25/10/2014 và ngày 12/11/2014. Vì vậy, việc thế
chấp tài sản của ông T, bà H đã chấm dứt theo quy định tại khoản 1 Điều 357
Bộ luật dân sự năm 2005 và khoản 1 Điều 327 Bộ luật dân sự năm 2015. Do
đó, việc Ngân hàng yêu cầu được xử lý tài sản thế chấp của ông T, bà H để
thu hồi nợ là không có cơ sở. Do hợp đồng thế chấp đã chấm dứt nên Ngân
hàng có trách nhiệm hoàn trả bản chính Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà
ở và quyền sử dụng đất ở cho ông T, bà H.

Vấn đề 2: Đăng ký giao dịch bảo đảm

*Tóm tắt:
- Bản án số 90/2019/KDTM-PT ngày 16/8/2019 của Toà án nhân dân TP.
Hà Nội;
Nguyên đơn : ngân hàng N
Bị đơn : Công ty TNHH Xây dựng và Thương mại V
Tranh chấp về Hợp đồng tín dụng. Về Hợp đồng thế chấp ngày 07/9/2009, có nội
dung là ông Q, bà V tự nguyện dùng tài sản thuộc sở hữu của mình, là nhà đất, để
đảm bảo cho khoản vay của Công ty V tại Ngân hàng, ông bà thừa nhận chữ ký của
mình tại hợp đồng này. Tòa sơ thẩm nhận định hợp đồng thế chấp các bên có ký
nhưng đơn yêu cầu đăng ký thế chấp ngày 30/9/2009 thì không phải chữ ký của bên
thế chấp nên hợp đồng thế chấp nên chưa phát sinh hiệu lực là không đúng. Do
ngày 01/3/2010 mới có Thông tư số 06/2010/TTLT-BTP-BTNMT theo đó, đơn
đăng ký thế chấp thì Ngân hàng có ký đóng dấu vào đơn này nên Đơn đăng ký vẫn
đúng quy định và phát sinh hiệu lực. Hợp đồng sẽ không bị vô hiệu. Về tài sản đảm
bảo Bà V cho rằng tài sản thế chấp chỉ để đảm bảo cho hợp đồng tín dụng ban đầu,
việc ngân hàng tiếp tục dùng hợp đồng thế chấp này để đảm bảo cho hợp đồng tín
dụng ký sau đó mà không thông báo là không đúng. Tòa cấp phúc thẩm nhận định,
việc ký thêm hợp đồng tín dụng mới thì hợp đồng thế chấp vẫn phải đảm bảo.
Quyết định của tòa : Bác yêu cầu độc lập của ông Q, bà V về việc tuyên bố Hợp
đồng thế chấp 1013.2009/HĐTC là vô hiệu, là chưa phát sinh hiệu lực pháp luật,
Trang 64
yêu cầu Ngân hàng phải trả lại bản gốc Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và
quyền sử dụng đất ở số 0104110021 cho ông Q và bà V.
- Quyết định số 41/2021/KDTM-GĐT ngày 08/7/2021 của Tòa án nhân
dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh.
Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng;
Bị đơn: Ông Lê Vĩnh Thọ, bà Nguyễn Thị Ngọc Loan;
Nội dung: Ngày 19/6/2015 Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng cho ông Lê
Vĩnh Thọ và bà Nguyễn Thị Ngọc Loan vay tiền, tài sản thế chấp là 1 chiếc ô-tô tải
có mui biển số 70C-061-00. VP bank khởi kiện ông Thọ và bà Loan vì ông Thọ và
bà Loan nhiều lần vi phạm nghĩa vụ trả nợ, đồng thời còn tự ý chuyển nhượng chiếc
xe cho người khác khi không có sự đồng ý của VPbank. Tòa án cấp sơ thẩm xác
định giao dịch chuyển nhượng ô-tô giữa các bên đương sự là trái pháp luật, buộc
ông Tân (người đang chiếm giữ chiếc xe) phải trả xe lại cho VP bank để đảm bảo
thực hiện nghĩa vụ trả nợ của ông Thọ - bà Loan.
Quyết định của Tòa án:
Chấp nhận kháng nghị số 41/2020/KN-KDTM ngày 28/08/2020.
Giữ nguyên bản án Kinh doanh - Thương mại sơ thẩm số 06/2018/DS-PT ngày
29/11/2018 phần buộc ông Thọ, bà Loan trả nợ cho VP Bank. Hủy bản án phần
buộc ông Tân phải trả lại xe ô tô và về phần xử lý xe ô tô này để đảm bảo nghĩa vụ
trả nợ.
Giao hồ sơ, xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm cho TAND tỉnh Tây Ninh về phần bản
án bị hủy.

1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về đăng ký giao dịch bảo
đảm.

Tên gọi BLDS 2005 “Đăng ký giao dịch BLDS 2015 “Đăng ký biện pháp
bảo đảm” bảo đảm”

→ Bản chất của hai thuật ngữ “giao dịch bảo đảm” và “biện pháp bảo
đảm” có sự khác nhau nhất định. Giao dịch bảo đảm là giao dịch dân sự
do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định về việc thực hiện biện
pháp bảo đảm. Do đó, việc sử dụng thuật ngữ đăng ký biện pháp đảm
bảo sẽ phù hợp hơn. 15
→Việc sửa đổi tên gọi này bảo đảm được tính chính xác về nội hàm của
chế định này. Các quy định cụ thể cũng không còn đề cập nhiều đến
thuật ngữ giao dịch bảo đảm nữa mà sử dụng thuật ngữ “biện pháp bảo
đảm” bởi nếu gọi là giao dịch bảo đảm sẽ không bao quát biện pháp
cầm giữ tài sản.16

15
Đỗ Văn Đại, Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS 2015, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật
gia Việt Nam, Xuất bản lần thứ ba, tr.354,355.
16
Đinh Trung Tụng (2017), Những điểm mới cơ bản của Bộ luật Dân sự 2015, NXB Lao động,
tr147.
Trang 65
Phạm vi Theo khoản 2 Điều 323 BLDS Theo khoản 1 Điều 298 BLDS 2015
điều 2005 “Việc đăng ký là điều kiện : “Việc đăng ký là điều kiện để giao
chỉnh để giao dịch bảo đảm có hiệu lực dịch bảo đảm có hiệu lực chỉ trong
chỉ trong trường hợp pháp luật trường hợp luật có quy định”
có quy định”.
Thứ tự Theo quy định tại BLDS năm BLDS năm 2015 quy định tại Điều
ưu tiên 2005, thì thứ tự ưu tiên thanh toán 308 thì thứ tự ưu tiên thanh toán
thanh là theo thứ tự "đăng ký giao dịch được xác định theo thứ tự xác lập
toán bảo đảm" và ưu tiên giao dịch bảo hiệu lực đối kháng với người thứ ba
đảm đã được "đăng ký". Như vậy, theo nguyên tắc "ai công khai
thứ tự ưu tiên thanh toán sẽ được quyền của mình trước thì được ưu
xác định theo thứ tự thời gian xác tiên thanh toán trước", một người
lập giao dịch bảo đảm. đã công khai quyền của anh ta đối
với tài sản, người khác đã biết hoặc
phải biết về "quyền" này thì phải có
nghĩa vụ tôn trọng "quyền" này.
Trong trường hợp người thứ ba đã
biết về "quyền" của người khác đối
với tài sản mà vẫn thực hiện giao
dịch liên quan đến tài sản thì phải
chấp nhận rủi ro khi "quyền" được
xác lập trước đó được thực hiện lên
tài sản.

→ BLDS năm 2015 đã quy định về "hiệu lực đối kháng với người thứ
ba" của hợp đồng thế chấp sau khi việc thế chấp tài sản được đăng ký
(bản chất là một hình thức công khai hóa quyền của mình). Đây là một
quy định tiến bộ so với BLDS năm 2005 vì BLDS năm 2005 không có
quy định về "hiệu lực đối kháng với người thứ ba" mà chỉ có quy định
về "đăng ký giao dịch bảo đảm" và thứ tự ưu tiên thanh toán về nguyên
tắc được xác định trên cơ sở theo thứ tự "đăng ký giao dịch bảo đảm"17
Đối Tiếp cận đối tượng của hoạt động Đối tượng của đăng ký là “biện
tượng đăng ký là giao dịch bảo đảm pháp bảo đảm”: Đăng ký quyền,
của hoạt (hình thức ghi nhận và thể hiện công bố quyền và công khai quyền.
động thỏa thuận của các bên trong quan
đăng ký hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ)
Ghi nhận: “Đăng ký giao dịch bảo

17
Tăng Thị Hà Chi, “Một số vấn đề về hợp đồng thế chấp tài sản đảm bảo thực hiện nghĩa vụ”,
https://stp.binhduong.gov.vn/bo-tro-tu-phap/Lists/GiaoDichBaoDam/DispForm.aspx?ID=19, truy
cập ngày 02/10/2022.
Trang 66
đảm là việc cơ quan đăng ký giao
dịch bảo đảm ghi vào Sổ đăng ký
giao dịch bảo đảm hoặc nhập vào
Cơ sở dữ liệu về giao dịch bảo
đảm việc bên bảo đảm dùng tài
sản để bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ dân sự đối với bên nhận bảo
đảm”.

→ Cách tiếp cận của BLDS 2005 không thực sự phù hợp với lý thuyết
chung về đăng ký cũng như thực tiễn vận hành Hệ thống đăng ký của
nước ta. Bởi lẽ, nhìn một cách tổng thể, đăng ký biện pháp bảo đảm
chính là sự công bố công khai quyền được bảo đảm bằng tài sản của
một (hoặc) nhiều chủ thể đối với tài sản bảo đảm. Quy định của BLDS
năm 2015 về đăng ký đối với biện pháp bảo đảm là phù hợp và tiệm cận
gần hơn với vai trò, địa vị pháp lý của thiết chế đăng ký trong nền kinh
tế thị trường, đó chính là thiết chế đăng ký quyền, công bố quyền và
công khai quyền.18
Giá trị Theo khoản 2 Điều 323 BLDS Theo quy định tại khoản 1 Điều
pháp lý năm 2005: "Việc đăng ký giao 297, Điều 298, khoản 2 Điều 310,
của đăng dịch bảo đảm được thực hiện theo khoản 2 Điều 319, khoản 2 Điều
ký biện quy định của pháp luật về đăng ký 347 BLDS năm 2015, việc đăng ký
pháp bảo giao dịch bảo đảm. Việc đăng ký biện pháp bảo đảm là phương thức
đảm là điều kiện để giao dịch bảo đảm để biện pháp bảo đảm phát sinh
có hiệu lực chỉ trong trường hợp hiệu lực đối kháng với người thứ
pháp luật có quy định". Như vậy, ba
tùy trường hợp mà hợp đồng thế
chấp tài sản chỉ phát sinh hiệu lực
sau khi đăng ký giao dịch bảo
đảm.
→ Cách tiếp cận của BLDS năm 2015 về giá trị pháp lý của đăng ký
biện pháp bảo đảm “việc đăng ký có ý nghĩa trong việc phân định thứ tự
ưu tiên bảo vệ trong trường hợp có nhiều lợi ích cùng xác lập lên một tài
sản bảo đảm, chứ không phải là điều kiện để giao dịch bảo đảm có giá
trị pháp lý”19.
→ BLDS năm 2015 đã rất tiến bộ khi tách bạch về "hiệu lực" và "hiệu
lực đối kháng với người thứ ba" của hợp đồng thế chấp. Trong trường
hợp việc thế chấp tài sản chưa được đăng ký theo quy định thì Hợp
đồng thế chấp chỉ chưa có "hiệu lực đối kháng với người thứ ba" chứ
không mất đi "hiệu lực" giữa bên thế chấp và bên nhận thế chấp (trừ
trường hợp việc đăng ký là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thế
chấp). Về nguyên tắc, trong trường hợp các bên không đăng ký thế chấp
18
Đinh Trung Tụng (2017), Những điểm mới cơ bản của Bộ luật Dân sự 2015, NXB Lao động, tr
155
19
Đinh Trung Tụng (2017), Những điểm mới cơ bản của Bộ luật Dân sự 2015, NXB Lao động, , tr
156
Trang 67
tài sản, các bên vẫn phải tuân thủ và thực hiện nghĩa vụ như đã cam kết
trong Hợp đồng thế chấp.20

2. Hợp đồng thế chấp số 1013.2009/HĐTC ngày 07/9/2009 có thuộc trường


hợp phải đăng ký không? Vì sao?
Hợp đồng thế chấp số 1013.2009/HĐTC ngày 07/9/2009 thuộc trường hợp phải
đăng ký. Theo điểm a, b, c khoản 1 Điều 4 Thông tư 07/2019/TT-BTP quy định :
1. Các trường hợp đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất
gồm:
a) Đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất;
b) Đăng ký thế chấp tài sản gắn liền với đất;
c) Đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất đồng thời với tài sản gắn liền với đất;
Theo điểm a khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai 2013: “Hợp đồng chuyển nhượng, tặng
cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn
liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp kinh doanh bất
động sản quy định tại điểm b khoản này”
Theo khoản 1 Điều 122 Luật Nhà ở 2014: “Trường hợp mua bán, tặng cho, đổi, góp
vốn,thế chấp nhà ở, chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở thương mại thì phải
thực hiện công chứng, chứng thực hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại khoản 2
Điều này. Đối với các giao dịch quy định tại khoản này thì thời điểm có hiệu lực
của hợp đồng là thời điểm công chứng, chứng thực hợp đồng.”

3. Hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 đã được đăng ký phù hợp với quy định
không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
- Hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 đã được đăng ký phù hợp với quy định pháp
luật.
- Đoạn của bản án cho câu trả lời: “Đối với hợp đồng thế chấp quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất của bên thứ ba ngày 07/9/2009. Sau khi các
bên ký hợp đồng thì công chứng viên thực hiện công chứng theo trình tự…
Bên thế chấp, bên nhận thế chấp và bên vay ghi nhận rõ việc bên thế chấp và
bên vay ký tên và Hợp đồng trước mặt công chứng viên. Công chứng viên
khẳng định khi ký kết hợp đồng, ông Q và bà V đã xuất trình đầy đủ chứng
minh thư nhân dân, hộ khẩu và Giấy chứng nhận QSDĐ. Biên bản định giá
tài sản có đầy đủ chữ ký của bên thế chấp là vợ chồng ông Q và bà V; bên
khách hàng vay là Công ty V ký tên và đóng dấu. Văn phòng công chứng đã
thực hiện đúng pháp luật công chứng, nội dung văn bản công chứng không

20
Tăng Thị Hà Chi, “Một số vấn đề về hợp đồng thế chấp tài sản đảm bảo thực hiện nghĩa vụ”,
https://stp.binhduong.gov.vn/bo-tro-tu-phap/Lists/GiaoDichBaoDam/DispForm.aspx?ID=19, truy
cập ngày 02/10/2022
Trang 68
trái với quy định pháp luật, không vi phạm Điều 122 BLDS 2005 nên không
thể tự vô hiệu.”
- Và đoạn “Ông Q bà V đã xác nhận chữ ký của mình tại hợp đồng thế chấp
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của bên thứ ba ngày
07/09/2009. Tòa án sơ thẩm với nhận định hợp đồng thế chấp các bên có ký
của bên thế chấp nên chưa phát sinh hiệu lực là không đúng…. Tại thời điểm
ngày 30/9/2009 chỉ cần một bên là bên thế chấp hoặc bên nhận thế chấp, bảo
lãnh ký là được. Mà theo yêu cầu đăng ký thế chấp ngày 30/9/2009 thì bên
nhận thế chấp là Ngân hàng có ký đóng dấu vào đơn này nên Đơn đăng ký
vẫn đúng quy định và phát sinh hiệu lực.”
4. Theo Toà án, nếu không được đăng ký, hợp đồng thế chấp số 07/9/2009
có vô hiệu không? Vì sao?
Theo Tòa án, nếu không được đăng ký, hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 không vô
hiệu.
Vì tại thời điểm làm thủ tục đăng ký thế chấp ngày 30/9/2009 thì Thông tư số
05/TTLB-BTP-BTNMT ngày 16/6/2005 đang có hiệu lực, tại Điều 4 về người yêu
cầu đăng ký có quy định “người yêu cầu đăng ký là một bên trong các bên hoặc các
bên ký hợp đồng thế chấp, bảo lãnh” cho đến ngày 01/3/2010 thì mới có Thông tư
số 06/2010/TTLT-BTP-BTNMT và tại Điều 1 mà Thông tư số 06 mới có quy định
là khi đăng ký thế chấp mới (lần đầu) thì các bên phải ký còn đăng ký thay đổi, bổ
sung thì chỉ cần một bên. Như vậy, tại thời điểm ngày 30/9/2009 chỉ cần một bên là
bên thế chấp hoặc bên nhận thế chấp, bảo lãnh ký là được. Mà theo đơn yêu cầu
đăng ký thế chấp ngày 30/9/2009 thì bên nhận thế chấp là Ngân hàng có ký đóng
dấu vào đơn này nên Đơn đăng ký vẫn đúng quy định và phát sinh hiệu lực.

5. Hướng của Tòa án như trong câu hỏi trên có thuyết phục không? Vì
sao?
Hướng xử lý trên của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tuy không
phù hợp với quy định của BLDS, nhưng lại phù hợp với thực tiễn.
Về nguyên tắc, nếu tài sản bảo đảm bắt buộc phải đăng ký giao dịch bảo đảm
nhưng không đăng ký thì không có hiệu lực theo Điều 323 BLDS 2005 (Điều 298
BLDS 2015).
Tuy nhiên xét về bản chất, mục đích của đăng ký giao dịch bảo đảm chỉ là
công khai thông tin về biện pháp bảo đảm đối với người ngoài về việc tài sản được
sử dụng để bảo đảm. Nếu giao dịch bảo đảm đã thỏa mãn các điều kiện khác như
xuất phát từ sự tự nguyện của các bên tham gia và nội dung thỏa thuận không trái
với quy định của pháp luật, mà không được đăng ký thì giao dịch đó vẫn có hiệu lực
giữa các bên. Trong vụ việc này, Vietinbank và Công ty Ngọc Quang đã tự nguyện

Trang 69
ký kết với nhau và các thỏa thuận trong hợp đồng cũng không trái quy định của
pháp luật nên Tòa theo hướng công nhận hợp đồng thế chấp nêu trên là hợp lý, bảo
đảm được quyền và lợi ích của các bên. 
Thực tiễn xét xử cho thấy việc đăng ký không ảnh hưởng tới quan hệ giữa các
bên trong biện pháp bảo đảm, nhưng trong quá trình áp dụng vẫn còn nhiều lúng
túng. Thiết nghĩ nên có quy định rõ hơn về vấn đề này, cụ thể là khi đăng ký giao
dịch bảo đảm thì phát sinh hiệu lực như thế nào và khi giao dịch bảo đảm bắt buộc
phải đăng ký nhưng không đăng ký thì hậu quả pháp lý trong trường hợp này là gì.

6. Hợp đồng thế chấp trong Quyết định số 41 có hiệu lực đối kháng với
người thứ ba không? Vì sao?
Hợp đồng thế chấp trong Quyết định số 41 có hiệu lực đối kháng với người
thứ ba. Bởi vì:
- Căn cứ theo khoản 1 Điều 297 BLDS 2015: “Biện pháp bảo đảm phát
sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba từ khi đăng ký biện pháp bảo
đảm hoặc bên nhận bảo đảm nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản bảo
đảm.” và khoản 2 Điều 319 BLDS 2015 cũng quy định: “Thế chấp tài
sản phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm
đăng ký.”
- Tài sản thế chấp ở đây là chiếc ô tô - tải được xem là tài sản bảo đảm
trong hợp đồng vay tiền số HCM/15/1636/HĐTD do ông Thọ - bà
Loan thế chấp cho ngân hàng VP Bank.
- Từ đó cho thấy, VP Bank và ông Thọ - bà Loan đã thỏa thuận tài sản
thế chấp bảo đảm cho khoản vay là chiếc ô-tô tải nên sẽ phát sinh hiệu
lực đối kháng với người thứ ba ở đây là ông Tân. Vì vậy, hợp đồng
thế chấp có hiệu lực đối kháng với người thứ ba. Do đó, VP Bank có
quyền yêu cầu người đang chiếm giữ chiếc xe ô tô - tải là ông Tân
phải trả lại chiếc xe đó để thực hiện nghĩa vụ trả nợ của ông Thọ - bà
Loan.
7. Theo quy định về đòi tài sản (Điều 166 và tiếp theo BLDS năm 2015),
Ngân hàng có quyền yêu cầu ông Tân (người thứ ba so với hợp đồng thế
chấp) trả lại tài sản thế chấp (xe ô tô) không? Vì sao?
Theo quy định về đòi tài sản (Điều 166 và tiếp theo BLDS năm 2015), Ngân
hàng có quyền yêu cầu ông Tân (người thứ ba so với hợp đồng thế chấp) trả
lại tài sản thế chấp (xe ô tô).
Theo đó, VP Bank chính là chủ thể có quyền khác đối với tài sản, cụ thể là
bên nhận thế chấp đối với chiếc ô-tô tải có mui biển số 70C-061-00 trong
hợp đồng vay tiền số HCM/15/1636/HĐTD do ông Thọ-bà Loan thế chấp.
Người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật ở đây là ông Tân vì ông

Trang 70
Thọ-bà Loan tự ý chuyển nhượng xe cho bà Giao và sau đó, bà Giao tiếp tục
chuyển nhượng cho ông Tân mà không có sự đồng ý của VPbank. Vì vậy,
căn cứ tại khoản 1 Điều 166 BLDS 2015: “Chủ sở hữu, chủ thể có quyền
khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử
dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.”, ngân
hàng có quyền yêu cầu ông Tân trả lại tài sản thế chấp là xe ô-tô cho mình.

8. Việc Tòa án buộc ông Tân trả lại tài sản thế chấp (xe ô tô) cho Ngân
hàng có thuyết phục không? Vì sao?
Việc Tòa án buộc ông Tân trả lại tài sản thế chấp (xe ô tô) cho Ngân hàng là
thuyết phục. Vì:
- Căn cứ theo khoản 1 Điều 297 BLDS 2015: “Biện pháp bảo đảm phát
sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba từ khi đăng ký biện pháp bảo
đảm hoặc bên nhận bảo đảm nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản bảo
đảm.” , khoản 2 Điều 23 NĐ 21/2021/NĐ-CP thì “thời điểm đăng ký
tại cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật liên quan là
thời điểm biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người
thứ ba”, và khoản 2 Điều 319 BLDS 2015 cũng quy định: “Thế chấp
tài sản phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm
đăng ký.”
- Đối tượng bị chiếm giữ, nắm giữ ở đây là tài sản bảo đảm, cụ thể là
chiếc xe ô tô - tải do ông Thọ-bà Loan thế chấp trong hợp đồng vay
tiền số HCM/15/1636/HĐTD. Và VP Bank chính là chủ thể có quyền
khác đối với tài sản trong hợp đồng vay.
- Từ đó, hợp đồng thế chấp phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ
ba là ông Tân. Do đó, ông Tân phải trả lại tài sản thế chấp cụ thể là xe
ô tô - tải cho Ngân hàng là hoàn toàn hợp lý.
- Tuy nhiên, để hoàn toàn thuyết phục thì Tòa phải xem xét, giải quyết
số tiền mà ông Tân, bà Giao đã dùng để trả nợ cho VP Bank thay cho
ông Thọ-bà Loan.

Vấn đề 3: Đặt cọc

*Tóm tắt
- Quyết định số 49/2018/KDTM-GĐT ngày 18/10/2018 của Tòa án nhân
dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh; K. Yến
Nguyên đơn: Công ty Cổ phần TV-TM-DV Địa ốc Hoàng Quân.
Bị đơn: Công ty TNHH Thương mại và Xây dựng Sơn Long Thuận.
Tòa án nhân dân cấp cao mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh
thương mại “Tranh chấp đòi lại tiền đặt cọc từ việc hủy hợp đồng mua bán cổ

Trang 71
phần”.
[1] Ngày 20/02/2008, Công ty Ninh Thuận ký kết biên bản thỏa thuận về việc Công
ty Ninh Thuận bán cho nguyên đơn cổ phần thuộc sở hữu của Tổng công ty Đầu tư
và Kinh doanh vốn Nhà nước tại Công ty Ninh Thuận 39.192 cổ phiếu, mệnh giá
100.000 đồng/cổ phiếu, tổng giá trị 3.919.200 đồng. Ngày 22/02/2008, nguyên đơn
chuyển tiền đặt cọc trước 1.000.000.000 đồng vào tài khoản bị đơn. Tuy nhiên,
Ngân hàng đã căn cứ vào hợp đồng tín dụng trích tài khoản của bị đơn để cấn trừ
vào số nợ công quá hạn và lãi suất là trái với quy định của pháp luật.
[2] Quá trình mua bán nợ giữa Công ty TNHH Thương mại-Xây dựng Sơn Long
Thuận với Công ty Ninh Thuận không có văn bản nào bàn giao khoản nợ tiền cọc
1.000.000 đồng mua bán cổ phần từ nguyên đơn. Ngân hàng trích số tiền đặt cọc
của nguyên đơn để thu nợ vay của công ty Ninh Thuận là không có căn cứ pháp
luật. Do đó, Tòa án sơ thẩm và phúc thẩm đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn, buộc Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam
có trách nhiệm hoàn trả cho nguyên đơn là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[3] Quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng với Công ty Ninh Thuận độc lập với quan hệ
đặt cọc giữa Công ty Ninh Thuận với nguyên đơn. Bị đơn là bên nhận sáp nhập phải
chịu trách nhiệm hoàn trả cho nguyên đơn 1.000.000.000 đồng tiền đặt cọc.
- Bản án số 26/2019/DS-PT ngày 11/6/2019 của Toà án nhân dân tỉnh
Quảng Ninh.
Nguyên đơn: Ông Vũ Đình P
Bị đơn: Ông Trần Xuân I
Do có mối quan hệ làm ăn quen biết từ năm 2008, ông P biết ông I có người thân
định cư ở Mỹ có thể mua được xe ô tô sản xuất tại Mỹ nhập khẩu về Việt Nam nên
đã nhờ ông I mua hộ, ông I đồng ý. Ngày 26/8/2016, ông P và ông I thống nhất thỏa
thuận ký hợp đồng đặt cọc, với nội dung: Ông P đặt cọc trước cho ông I
450.000.000 đồng để mua và thời gian ông I giao xe trước Tết Dương lịch năm
2017. Ông I khai rằng đã không giao xe do chính sách pháp luật thay đổi nên không
thể nhập khẩu xe ô tô về và đã trả cho ông P số tiền cọc nhưng ông P vẫn kiện đòi
ông I số tiền phạt cọc tương đương. Tòa án xét thấy ông P và ông I khi ký hợp đồng
đặt cọc đã không xem xét các quy định của pháp luật về điều kiện mua bán xe ôtô
nhập khẩu, nên cả hai bên đều có lỗi làm cho giao dịch vô hiệu, nên thiệt hại các
bên phải tự chịu và yêu cầu phạt đặt cọc của ông P không có căn cứ. Tòa án cũng
xét thấy việc ông I không thực hiện được thỏa thuận là do yếu tố khách quan nên đã
căn cứ vào Án lệ số 25 quyết định ông I không phải chịu phạt cọc và không chấp
nhận yêu cầu kháng cáo của ông P.

1. Khác biệt cơ bản giữa đặt cọc và cầm cố, đặt cọc và thế chấp; K. Yến.
● Khác biệt giữa đặt cọc, cầm cố và thế chấp:
Đặt cọc Cầm cố Thế chấp

Trang 72
Khái Đặt cọc là việc một Cầm cố tài sản là việc Thế chấp tài sản là
niệm bên (sau đây gọi là bên một bên (sau đây gọi việc một bên (sau đây
đặt cọc) giao cho bên là bên cầm cố) giao tài gọi là bên thế chấp)
kia (sau đây gọi là bên sản thuộc quyền sở dùng tài sản thuộc sở
nhận đặt cọc) một hữu của mình cho bên hữu của mình để bảo
khoản tiền hoặc kim kia (sau đây gọi là bên đảm thực hiện nghĩa
khí quý hoặc vật có nhận cầm cố) để bảo vụ và không giao tài
giá trị khác (sau đây đảm thực hiện nghĩa sản cho bên kia (sau
gọi chung là tài sản đặt vụ. (Điều 309 BLDS đây gọi là bên nhận
cọc) trong một thời 2015) thế chấp) → Tài sản
hạn để bảo đảm giao thế chấp do bên thế
kết hoặc thực hiện hợp chấp giữ hoặc có thể là
đồng. (khoản 1 Điều người thứ ba theo thỏa
328 BLDS 2015) thuận của các bên.
(Điều 317 BLDS
2015)

Tài sản Tiền hoặc kim khí Không giới hạn về loại Động sản hay bất động
dùng để quý, đá quý hoặc vật tài sản được sử dụng sản.
bảo đảm có giá trị khác. để bảo đảm.
Trường Sử dụng để bảo đảm Sử dụng để bảo đảm sử dụng để bảo đảm
hợp sử giao kết hoặc thực thực hiện nghĩa vụ. thực hiện nghĩa vụ.
dụng hiện hợp đồng.

Xử lý tài Không cần phải qua Tiến hành theo thủ tục Tài sản thế chấp là
sản bán đấu giá. bán đấu giá nếu không quyền sử dụng đất và
có thỏa thuận. tài sản gắn liền với
đất, có hai trường hợp:
+ Thế chấp quyền
sử dụng đất mà
không thế chấp
tài sản gắn liền
với đất. (Điều
325 BLDS
2015)
+ Thế chấp tài sản
gắn liền với đất
mà không thế
chấp quyền sử
dụng đất. (Điều
326 BLDS
2015)

Các Không có quy định về 1. Nghĩa vụ được bảo 1. Nghĩa vụ được bảo
trường trường hợp chấm dứt đảm bằng cầm cố đảm bằng thế chấp
hợp đặt cọc. Tuy nhiên chấm dứt. chấm dứt.
chấm việc đặt cọc sẽ dẫn đến 2. Việc cầm cố tài sản 2. Việc thế chấp tài

Trang 73
dứt một số vấn đề sau: được hủy bỏ hoặc sản được hủy bỏ hoặc
1. Nếu hợp đồng được được thay thế bằng được thay thế bằng
thực hiện, giao kết thì biện pháp bảo đảm biện pháp bảo đảm
tài sản đặt cọc được trả khác. khác.
lại hoặc được trừ khi 3. Tài sản cầm cố đã 3. Tài sản thế chấp đã
thực hiện nghĩa vụ trả được xử lý. được xử lý.
tiền. 4. Theo thỏa thuận của 4. Theo thỏa thuận của
2. Nếu bên đặt cọc từ các bên. các bên.
chối giao kết, thực
hiện hợp đồng thì tài
sản đặt cọc thuộc về
bên nhận đặt cọc.
3. Nếu bên nhận đặt
cọc từ chối giao kết,
thực hiện hợp đồng thì
phải trả lại tài sản đặt
cọc và khoản tiền
tương đương với tài
sản đặt cọc (trừ trường
hợp có thỏa thuận
khác.

2. Thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về đặt cọc. K. Yến.
Theo quy định của Điều 292 BLDS 2015, có chín biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ bao gồm: Cầm cố tài sản; Thế chấp tài sản; Đặt cọc; Ký cược; Ký quỹ;
Bảo lưu quyền sở hữu; Bảo lãnh; Tín chấp; Cầm giữ tài sản. Ta có thể chia các loại
biện pháp bảo đảm thành hai loại.
+ Loại 1: Các giao dịch dân sự được quy định (Cầm cố tài sản; Thế chấp tài
sản; Đặt cọc; Ký cược; Ký quỹ; Bảo lưu quyền sở hữu; Bảo lãnh), đây là các
giao dịch dân sự, vì vậy nó chịu sự chi phối của các quy định về giao dịch
dân sự, phần lớn là hợp đồng. Riêng với bảo lãnh, có thể là hành vi pháp lý
đơn phương, có thể là hợp đồng.
+ Loại 2: Không có giao dịch dân sự (do luật quy định): Cầm giữ tài sản không
trên cơ sở thỏa thuận.
Lưu ý:
Nguồn điều chỉnh: các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hiện nay được quy
định chủ yếu trong BLDS, trong đó có điều 292 và tiếp theo, bên cạnh đó, có nghị
định hướng dẫn áp dụng NĐ 21/2021 thay thế NĐ 163/2006. Ngoài ra trong lĩnh
vực ngân hàng như bảo lãnh ngân hàng có văn bản của ngân hàng NN.
Đặt cọc là biện pháp nhằm bảo đảm cho các bên trong việc giao kết và thực hiện
hợp đồng và thực tế biện pháp này rất phổ biến trong quá trình các bên xác lập và

Trang 74
thực hiện giao dịch dân sự, đặc biệt là những giao dịch có giá trị lớn như mua bán
nhà ở, chuyển nhượng quyền sử dụng đất…
Có thể nhận thấy, chế định đặt cọc giữa BLDS 2005 và BLDS 2015 có sự thay đổi
về hình thức của đặt cọc21, Điều 328 BLDS hiện hành không quy định hình thức bắt
buộc của đặt cọc nên các bên có thể tự do tự thoả thuận về hình thức. Hình thức phổ
biến nhất hiện nay đó là văn bản, các bên có thể lập hợp đồng đặt cọc bằng văn bản
độc lập hoặc đưa vào nội dung của hợp đồng chính, miễn là việc đặt cọc được văn
bản hoá và việc này trở lại tinh thần của BLDS 2005. Việc xác lập giao dịch đặt cọc
thành văn bản một mặt giúp các bên trong hợp đồng có “cơ sở” rõ ràng, “giấy trắng
mực đen” để xác định quyền, nghĩa vụ của mỗi bên trong giao dịch đặt cọc (quyền,
nghĩa vụ của các bên trong đặt cọc đã được quy định tại Điều 38 Nghị định
21/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 của Chính phủ quy định thi hành BLDS về bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ), mặt khác đó còn là bằng chứng mang tính pháp lý giúp
Toà án giải quyết nhanh chóng, hiệu quả các vụ tranh chấp phát sinh từ đặt cọc.
3. Theo BLDS, khi nào bên đặt cọc mất cọc, bên nhận cọc bị phạt cọc?
Theo khoản 2 BLDS 2015:
Trường hợp hợp đồng được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả
lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt
cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên
nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng
thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương
giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Như vậy, theo quy định của BLDS 2015, trong trường hợp hợp đồng không được
giao kết, thực hiện thì sẽ xảy ra hai trường hợp:
- Do lỗi của bên đặt cọc: Bên đặt cọc sẽ mất cọc.
- Do lỗi của bên nhận đặt cọc: Bên nhận đặt cọc sẽ phải hoàn trả lại tiền cọc và
bị phạt cọc một khoản tiền tương đương với tiền cọc hoặc do các bên thỏa
thuận.

4. Nếu hợp đồng được đặt cọc không được giao kết, thực hiện vì lý do
khách quan, bên nhận cọc có nghĩa vụ trả lại tài sản đặt cọc cho bên đặt
cọc không? Vì sao?
Nếu hợp đồng được đặt cọc không được giao kết, thực hiện vì lý do khách quan,
bên nhận cọc vẫn có nghĩa vụ trả lại tài sản đặt cọc cho bên đặt cọc.
Theo Nghị quyết số 01/2003 của Hội đồng thẩm phán, trong trường hợp “có
sự kiện bất khả kháng hoặc có trở ngại khách quan thì không phạt cọc”.

21
Nguyễn Hoàng Bá Huy và Mạch Hồng Phượng, “Một số vướng mắc trong quy định đặt cọc ở Bộ
luật Dân sự 2015” , https://tapchitoaan.vn/mot-so-vuong-mac-trong-quy-dinh-dat-coc-o-bo-luat-
dan-su-20155860.html,
truy cập ngày 02/10/2022.

Trang 75
Trong thực tiễn pháp lý, người đặt cọc nhận lại tiền đặt cọc trong những
tình huống này.22
Cũng theo Án lệ 25/2018/AL:
Trường hợp này, phải xác định việc bên nhận đặt cọc không thể thực hiện
đúng cam kết là do khách quan và bên nhận đặt cọc không phải chịu phạt
cọc.
Vì hợp đồng không được giao kết, thực hiện vì lý do khách quan mà hai bên không
thể lường trước được. Cả hai bên đều không từ chối việc thực hiện giao kết, thực
hiện hợp đồng nên đây không được xem là lỗi của hai bên. Vì thế, bên đặt cọc có
quyền đòi lại tài sản đặt cọc. Quyền của bên đặt cọc chính là nghĩa vụ của bên nhận
đặt cọc nên bên nhận đặt cọc phải trả lại tài sản đặt cọc. Bên nhận đặt cọc chỉ không
phải bị phạt cọc khoảng tiền tương đương với tiền cọc theo quy định của pháp luật
(hoặc do thỏa thuận của hai bên) trong trường hợp này.

* Đối với Quyết định số 49 K. Yến.


5. Theo Quyết định được bình luận, bên đặt cọc đã chuyển tài sản đặt cọc
cho bên nhận cọc như thế nào?
Theo Quyết định được bình luận, ngày 22/02/2008, Công ty Hoàng Quân đã chuyển
số tiền đặt cọc vào tài khoản của Công ty Ninh Thuận mở tại Ngân hàng TMCP
Đầu tư và Phát triển Việt Nam- Chi nhánh tỉnh Ninh Thuận theo ủy nhiệm chi ngày
22/02/2008.
6. Theo Toà giám đốc thẩm trong Quyết định được bình luận, tài sản đặt
cọc còn thuộc sở hữu của bên đặt cọc không? Vì sao?
- Theo Tòa giám đốc thẩm trong Quyết định được bình luận, số tiền
1.000.000.000 đồng là tiền của Công ty Hoàng Quân đặt cọc chưa thuộc
quyền sở hữu của Công ty Ninh Thuận, quá trình mua bán nợ giữa Công ty
TNHH Thương mại- Xây dựng Sơn Long Thuận với Công ty Ninh Thuận
không có văn bản nào bàn giao số tiền đặt cọc 1.000.000.000 đồng mua bán
cổ phần từ Công ty Hoàng Quân.
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 328 BLDS 2015: “Đặt cọc là việc một bên (sau
đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc)
một khoản tiền hoặc kim khí quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi chung
là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp
đồng”. Tại ủy nhiệm chi ngày 22/02/2008, Công ty Hoàng Quân khi chuyển
tiền vào tài khoản Công ty Ninh Thuận ghi rõ nội dung là tiền đặt cọc mua cổ
phần. Do đó, số tiền đặt này không thuộc sở hữu của Công ty Ninh Thuận.
7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà giám đốc thẩm
liên quan đến quyền sở hữu tài sản đặt cọc.

22
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng (Tái bản lần 1, có sửa đổi và bổ sung), Nhà xuất bản Hồng Đức, tr.305
Trang 76
Hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm liên quan đến quyền sở hữu tài sản
đặt cọc là hợp lý.
- Thứ nhất, theo ủy nhiệm chi ngày 22/02/2008, Công ty Hoàng Quân chuyển
vào tài khoản công ty Ninh Thuận ghi rõ nội dung là tiền đặt cọc mua cổ
phần. Tuy nhiên Ngân hàng đã căn cứ vào hợp đồng tín dụng có điều kiện
thỏa thuận cho phép Ngân hàng được quyền trích tài khoản của Công ty Ninh
Thuận để cấn trừ vào số công nợ quá hạn và lãi suất của Công ty Ninh Thuận
là trái với quy định của pháp luật. Tòa đã căn cứ vào khoản 1 Điều 328
BLDS 2015 “ Đặt cọc là việc một bên giao cho bên kia một khoản tiền…
trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng”. Do đó,
khoản tiền đặt cọc vẫn thuộc quyền sở hữu của Công ty Hoàng Quân.
- Thứ hai, về chủ thể hoàn trả số tiền đặt cọc, từ bản án có thể thấy, trong quá
trình diễn ra mua bán nợ giữa Công ty TNHH Thương mại-Xây dựng Sơn
Long Thuận với Công ty Ninh Thuận không có văn bản nào bàn giao khoản
tiền đặt cọc 1.000.000.000 đồng mua bán cổ phần từ Công ty Hoàng Quân.
Hơn nữa, Công ty TNHH Thương mại-Xây dựng Sơn Long Thuận là bên
nhận sáp nhập, căn cứ theo khoản 2 Điều 89 BLDS 2015 “ Sau khi sáp nhập,
pháp nhân được sáp nhập chấm dứt tồn tại; quyền và nghĩa vụ dân sự của
pháp nhân được sáp nhập được chuyển giao cho pháp nhân sáp nhập”. Vì
vậy, sau khi sáp nhập, Công ty Ninh Thuận chấm dứt tồn tại, quyền và nghĩa
vụ lúc này thuộc về Công ty TNHH Thương mại-Xây dựng Sơn Long Thuận.
Do đó, Công ty TNHH Thương mại-Xây dựng Sơn Long Thuận phải chịu
trách nhiệm hoàn trả số tiền đặt cọc.

* Đối với Bản án số 26:


8. Đoạn nào cho thấy Toà án đã áp dụng Án lệ số 25/2018/AL?
Đoạn cho thấy Tòa án đã áp dụng Án lệ số 25/2018/AL:
Căn cứ theo Án lệ số 25/2018/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2018 và được công bố theo
Quyết định số 269/QĐ-CA ngày 06 tháng 11 năm 2018 của Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao: “Trường hợp bên nhận đặt cọc không thể thực hiện đúng
cam kết là do yếu tố khách quan và bên nhận đặt cọc không phải chịu phạt
cọc”.

9. Việc Toà án áp dụng Án lệ số 25/2018/AL vào hoàn cảnh trong vụ việc


này có thuyết phục không? Vì sao?
Điều kiện áp dụng tương tự Án lệ số 25/2018/AL:
- Hai bên có giao kết hợp đồng đặt cọc

Trang 77
- Mặc dù xuất phát điểm của Án lệ số 25 là “Hợp đồng mua bán nhà” nhưng nếu
trường hợp đó không phải là hợp đồng mua bán nhà thì vẫn có thể áp dụng trường
hợp tương tự với Án lệ số 2523
- Nguyên nhân dẫn đến việc bên nhận cọc không thực hiện hợp đồng là do yếu tố
khách quan
Căn cứ theo:
- Theo lời khai của ông I:
Cuối năm 2016, ông P đưa trực tiếp cho ông I là 450.000.000 đồng, do tin
tưởng nên không lập giấy tờ giao nhận tiền, sau đó ông I nhờ người thân là
em gái định cư ở Mỹ để mua xe ô tô nhưng do chính sách pháp luật thay đổi
nên ông không thể nhập khẩu xe ô tô từ Mỹ về Việt Nam giúp ông P được.
- Theo Đại diện Viện Kiểm sát:
… Nội dung các cuộc điện thoại giữa Nguyên đơn và Bị đơn, đã được
Nguyên đơn ghi âm xuất trình tại phiên chưa đủ cơ sở khẳng định đó là cuộc
hội thoại giữa Nguyên đơn và Bị đơn; chưa đủ cơ sở khẳng định Bị đơn đã
nhập xe ô tô về cảng Hải Phòng, nhưng lại mang bán cho người khác và việc
Bị đơn có bán đất để lấy tiền trả cho Nguyên đơn, hay dùng khoản tiền nào
khác để trả, không có ý nghĩa xác định lỗi của Bị đơn …
- Theo nhận định của Tòa án:
Mặt khác, thực tế ông I cũng đã từng nhờ em gái mua được ô tô nhập khẩu từ
Mỹ về Việt Nam để sử dụng (có thể dưới dạng quà tặng, quà biếu), nên ông
mới đồng ý mua hộ ông P; nhưng hoàn toàn phụ thuộc vào chính sách quản
lý của Nhà nước ở từng thời điểm và hoàn toàn phụ thuộc vào người thân
bên Mỹ và Đại lý nhập khẩu; Vì ông I không có xe ô tô để bán và cũng
không có đủ điều kiện nhập khẩu xe để bán cho ông P; ông P biết rõ điều này
và không có tài liệu, chứng cứ gì chứng minh rằng ông I có khả năng bán xe
ô tô cho ông P, nhưng cố tình từ chối thực hiện. Do đó, việc ông I không
thực hiện được thỏa thuận là do yếu tố khách quan.
Theo lời khai và bằng chứng trên thực tế, có thể thấy trường hợp trong Bản án
26/2019/DS-PT hoàn toàn có thể đáp ứng yêu cầu áp dụng tương tự của Án lệ
25/2018/AL nên việc Tòa án áp dụng Án lệ 25/2018/AL vào hoàn cảnh trong vụ
việc này là hoàn toàn hợp lý.

10. Việc Toà án “không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông P, về việc yêu
cầu ông I phải trả số tiền phạt cọc là 450.000.000đ” có phù hợp với Án lệ
số 25/2018/AL không? Vì sao?
Xét thấy việc ông I không giao xe cho ông P là “hoàn toàn phụ thuộc vào chính
sách quản lý của Nhà nước ở từng thời điểm và hoàn toàn phụ thuộc vào người thân
bên Mỹ và Đại lý nhập khẩu”; ông P cũng không cung cấp được bằng chứng cho
thấy ông I cố tình vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Vì vậy, ông I không thực hiện hợp

23
https://www.youtube.com/watch?v=Ccwi5ogXgso
Trang 78
đồng là do yếu tố khách quan nên theo Án lệ 25/2018/AL thì ông I không phải chịu
phạt cọc. Vì vậy, việc Tòa án “không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông P về
việc yêu cầu ông I phải trả số tiền phạt cọc là 450.000.000đ” là phù hợp với Án lệ
số 25/2018/AL.

Vấn đề 4: Bảo lãnh

*Tóm tắt Quyết định số 02/2013/KDTM-GĐT ngày 08/1/2013 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao:

Quỹ tín dụng ký hợp đồng tín dụng cho doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân do bà
Tỉnh làm chủ doanh nghiệp vay 900.000.000 đồng. Tài sản bảo đảm cho khoản vay
là quyền sử dụng 20.408 m2 đất tại xã Thạnh Phú do vợ chồng ông Miễn và bà Cà
đem thế chấp cho quỹ tín dụng để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ cho chủ doanh nghiệp tư
nhân Đại Lộc Tân, ông Miễn và bà Cà ký hợp đồng thế chấp trên để vay được
70.000.000 đồng là trong hoàn cảnh buộc, không phải tự nguyện. Nay quỹ tín dụng
khởi kiện yêu cầu bà Tỉnh trả số tiền còn lại, nếu bà Tỉnh không trả được thì yêu
cầu người bảo lãnh có trách nhiệm với số nợ.

*Tóm tắt Quyết định số 968/2011/DS-GĐT ngày 27/12/2011 của Tòa dân sự Tòa án
nhân dân tối cao (Trâm)

Nguyên đơn: Vũ Thị Hồng Nhung

Bị đơn: Nguyễn Thị Thắng

Giữa nguyên đơn và bị đơn có tranh chấp hợp đồng bảo lãnh. Ngày 30/11/2008, bị
đơn là cháu của chồng nguyên đơn giới thiệu bà Nguyễn Thị Mát đến vay nguyên
đơn 500.000.000 đồng với lãi suất 1,2% /tháng, các bên thỏa thuận trả lãi hàng
tháng và số tiền gốc sẽ trả vào tháng 10/2006 ; lập giấy biên nhận có sự bảo lãnh
của ông Nguyễn văn ân và bà Nguyễn Thị Thắng. sau đó Bà Mát chỉ trả 8 tháng tiền
lãi (30/11/2005 – 30/07/2006) và từ đó bà không trả cả gốc lẫn lãi nên nguyên đơn
khởi kiện yêu cầu bị đơn trả nợ thay cho bà Mát. Tòa giám đốc thẩm xác định bà
Mát là người vay tiền của bà Nhung, bà Thắng và ông Ân chỉ là người bảo lãnh.
Trước hết cần xác định bà Mát phải là người thực hiện nghĩa vụ đối với bà Nhung
và cần xem xét lại khả năng thực hiện nghĩa vụ dân sự của bà Mát trước khi yêu cầu
bà Thắng và ông Ân thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.

1.Những đặc trưng của bảo lãnh:

Cơ sở pháp lý: Điều 335, Điều 336, Điều 337, Điều 338, Điều 339, Điều 340, Điều
341, Điều 342, Điều 343 BLDS 2015.

Dựa trên những cơ sở trên, những đặc trưng của bảo lãnh gồm:

Trang 79
Khái niệm bảo lãnh 1. Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên
(Điều 335) bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên
nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có
nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi
đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.

Chủ thể trong bảo lãnh bên có quyền (bên nhận bảo lãnh), bên có nghĩa vụ
(bên được bảo lãnh), người thứ ba (bên bảo lãnh).

Từ “người thứ ba” đã có cách hiểu khác nhau, từ người


được hiểu là cá nhân, vậy liệu có bao gồm pháp nhân
hay không? Trong BLDS 2015 khoản 4 Điều 336 đã
xuất hiện từ pháp nhân, cho nên người thứ ba ở đây
được hiểu là bao gồm cả cá nhân và pháp nhân.

Phạm vi bảo lãnh (Điều 1. Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc
336) toàn bộ nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh.

2. Nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc,


tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại, lãi trên số tiền
chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

3. Các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo


đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh.

4. Trường hợp nghĩa vụ được bảo lãnh là nghĩa vụ phát


sinh trong tương lai thì phạm vi bảo lãnh không bao
gồm nghĩa vụ phát sinh sau khi người bảo lãnh chết
hoặc pháp nhân bảo lãnh chấm dứt tồn tại.

Thù lao (Điều 337) Bên bảo lãnh được hưởng thù lao nếu bên bảo lãnh và
bên được bảo lãnh có thỏa thuận.

Trang 80
Điều 338. Nhiều người Khi nhiều người cùng bảo lãnh một nghĩa vụ thì phải
cùng bảo lãnh liên đới thực hiện việc bảo lãnh, trừ trường hợp có thỏa
thuận hoặc pháp luật có quy định bảo lãnh theo các
phần độc lập; bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai
trong số những người bảo lãnh liên đới phải thực hiện
toàn bộ nghĩa vụ.

Khi một người trong số những người bảo lãnh liên đới
đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thay cho bên được bảo
lãnh thì có quyền yêu cầu những người bảo lãnh còn
lại phải thực hiện phần nghĩa vụ của họ đối với mình.

Quan hệ giữa bên bảo 1. Trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện
lãnh và bên nhận bảo hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình thì bên
lãnh (Điều 339) nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh phải thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh, trừ trường hợp các bên có thỏa
thuận bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay
cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo
lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ.

2. Bên nhận bảo lãnh không được yêu cầu bên bảo lãnh
thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh khi
nghĩa vụ chưa đến hạn.

3. Bên bảo lãnh không phải thực hiện nghĩa vụ bảo


lãnh trong trường hợp bên nhận bảo lãnh có thể bù trừ
nghĩa vụ với bên được bảo lãnh.

Quyền yêu cầu của bên Bên bảo lãnh có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh thực
bảo lãnh (Điều 340) hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi nghĩa vụ bảo
lãnh đã thực hiện, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Trang 81
Miễn việc thực hiện 1. Trường hợp bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ
nghĩa vụ bảo lãnh (Điều bảo lãnh mà bên nhận bảo lãnh miễn việc thực hiện
341) nghĩa vụ cho bên bảo lãnh thì bên được bảo lãnh
không phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo
lãnh, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật có
quy định khác.

2. Trường hợp chỉ một trong số nhiều người cùng bảo


lãnh liên đới được miễn việc thực hiện phần nghĩa vụ
bảo lãnh của mình thì những người khác vẫn phải thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh của họ.

3. Trường hợp một trong số những người nhận bảo


lãnh liên đới miễn cho bên bảo lãnh không phải thực
hiện phần nghĩa vụ đối với mình thì bên bảo lãnh vẫn
phải thực hiện phần nghĩa vụ còn lại đối với những
người nhận bảo lãnh liên đới còn lại.

Trách nhiệm dân sự của 1. Trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện
bên bảo lãnh (Điều 342) hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh
phải thực hiện nghĩa vụ đó.

2. Trường hợp bên bảo lãnh không thực hiện đúng


nghĩa vụ bảo lãnh thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu
cầu bên bảo lãnh thanh toán giá trị nghĩa vụ vi phạm
và bồi thường thiệt hại.

Chấm dứt bảo lãnh (Điều Bảo lãnh chấm dứt trong trường hợp sau đây:
343)
1. Nghĩa vụ được bảo lãnh chấm dứt.

2. Việc bảo lãnh được hủy bỏ hoặc được thay thế bằng
biện pháp bảo đảm khác.

3. Bên bảo lãnh đã thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.

4. Theo thỏa thuận của các bên.

2. Những thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về bảo lãnh.

Thứ nhất, về hình thức bảo lãnh:

Trang 82
Điều 362 BLDS 2005 quy định về hình thức bảo lãnh như sau “Việc bảo lãnh phải
được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng
chính. Trong trường hợp pháp luật có quy định thì văn bản bảo lãnh phải được công
chứng hoặc chứng thực.” Trong khi đó, BLDS 2015 đã bỏ điều luật này.

Về việc bỏ điều luật quy định về hình thức của bảo lãnh này giúp các bên có thể chủ
động linh hoạt hơn trong việc xác lập quan hệ bảo lãnh bởi giao kết không chỉ có
thể bằng văn bản mà còn có thể bằng lời nói.

Thứ hai, về phạm vi bảo lãnh:

+ khoản 2 Điều 336 BLDS 2015 đã quy định thêm nghĩa vụ bảo lãnh có bao gồm
“lãi trên số tiền chậm trả” như sau “Nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm cả tiền lãi trên nợ
gốc, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại, lãi trên số tiền chậm trả, trừ trường hợp có
thoả thuận khác.” Trong khi đó BLDS 2005 Điều 363 không quy định về “lãi trên
số tiền chậm trả”.

+ Điều 336 BLDS 2015 đã quy định thêm 2 điều mới ở khoản 3 và khoản 4:

“3. Các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.”

“4. Trường hợp nghĩa vụ được bảo lãnh là nghĩa vụ phát sinh trong tương lai thì
phạm vi bảo lãnh không bao gồm nghĩa vụ phát sinh sau khi người bảo lãnh chết
hoặc pháp nhân bảo lãnh chấm dứt tồn tại.”

Với quy định thêm nghĩa vụ bảo lãnh có bao gồm “lãi trên số tiền chậm trả” đã giúp
bảo vệ thêm quyền cho bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) vì lãi trên số tiền chậm trả
nếu không được quy định vào bảo lãnh thì bên nhận bảo lãnh có thể sẽ không được
bảo đảm về số tiền đó. Về quy định thêm ở khoản 3, 4 Điều 336 BLDS 2015 giúp
làm rõ hơn về phạm vi bảo lãnh. Đây chính là điểm thay đổi tích cực trong BLDS
2015.

Thứ ba, về quyền yêu cầu của bên bảo lãnh:

Điều 340 BLDS 2015 quy định “Bên bảo lãnh có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh
thực hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh đã thực hiện, trừ
trường hợp có thoả thuận khác.”

Điều 367 BLDS 2005 quy định “Khi bên bảo lãnh đã hoàn thành nghĩa vụ thì có
quyền yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi
bảo lãnh, nếu không có thỏa thuận khác.”

Như vậy, BLDS 2015 đã thay cụm từ “đã hoàn thành nghĩa vụ” ở BLDS 2015 bằng
cụm từ “trong phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh đã thực hiện”. Có nghĩa trước đây Bộ luật
2015 theo hướng sau khi thực hiện toàn bộ mới được yêu cầu bên được bảo lãnh
thực hiện nghĩa vụ đối với mình, trong khi đó, Bộ luật 2015 đã tiếp cận theo hướng
được quyền yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình dù chưa

Trang 83
thực hiện toàn bộ nghĩa vụ, như vậy là được yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện
nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi nghĩa vụ được thực hiện.

Thứ tư, về việc miễn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh:

Điều 368 khoản 1 BLDS 2005 quy định: “Trong trường hợp bên nhận bảo lãnh
miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh thì bên được bảo lãnh vẫn phải thực
hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp
luật có quy định phải liên đới thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.”

Điều 341 khoản 1 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp bên bảo lãnh phải thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh mà bên nhận bảo lãnh miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo
lãnh thì bên được bảo lãnh không phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo
lãnh, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác.”

BLDS 2015 đã có một điểm thay đổi về việc nếu bên nhận bảo lãnh miễn việc thực
hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh thì bên được bảo lãnh không phải thực hiện nghĩa
vụ đối với bên nhận bảo lãnh khác với BLDS 2005 bên được bảo lãnh vẫn phải thực
hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh. Điều này chứng tỏ nhà làm luật muốn
hướng đến việc xem nghĩa vụ của bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh là một, nếu
bên có quyền miễn việc thực hiện nghĩa vụ đó thì phải miễn cho cả bên bảo lãnh lẫn
bên được bảo lãnh, như vậy mới hợp lý. Bởi vì theo lý luận, nếu ngược được bảo
lãnh đã được bảo lãnh có nghĩa họ đã có thể không thể thực hiện nghĩa vụ hoặc
người bảo lãnh mong muốn thực hiện thay họ nghĩa vụ đó, nên người có quyền
không thể miễn nghĩa vụ cho người bảo lãnh và bắt người được bảo lãnh tiếp tục
thực hiện nghĩa vụ được.

Thứ năm, về trách nhiệm dân sự của bên bảo lãnh:

Tại khoản 2 Điều 342 BLDS 2015 có quy định: “Trường hợp bên bảo lãnh không
thực hiện đúng nghĩa vụ bảo lãnh thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo
lãnh thanh toán giá trị nghĩa vụ vi phạm và bồi thường thiệt hại.”

BLDS 2005 Điều 369 quy định “Trong trường hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ
thay cho bên được bảo lãnh, mà bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải đưa tài sản thuộc sở hữu của mình để thanh
toán cho bên nhận bảo lãnh.”

BLDS 2015 đã quy định mở rộng hơn khi quy định nếu bên bảo lãnh không thực
hiện đúng nghĩa vụ bảo lãnh thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu trong khi đó
BLDS 2005 chỉ quy định bên bảo lãnh phải đưa tài sản thuộc sở hữu của mình để
thanh toán. Quyền yêu cầu bên bảo lãnh thanh toán giá trị nghĩa vụ vi phạm và bồi
thường thiệt hại ở BLDS 2015 sẽ giúp bảo vệ lợi ích cho bên có quyền (bên nhận
bảo lãnh) khi bên nhận bảo lãnh bị thiệt hại thì được bồi thường và thanh toán.

Thứ sáu, về việc chấm dứt bảo lãnh:

Điều 370 BLDS 2005 quy định: “Việc bảo lãnh có thể được hủy bỏ nếu được bên
nhận bảo lãnh đồng ý, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”

Trang 84
Điều 343 BLDS 2015 quy định: Bảo lãnh chấm dứt trong trường hợp sau đây:

1. Nghĩa vụ được bảo lãnh chấm dứt.

2. Việc bảo lãnh được hủy bỏ hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm
khác.

3. Bên bảo lãnh đã thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.

4. Theo thỏa thuận của các bên.

BLDS 2015 đã có những quy định cụ thể hơn về điều kiện chấm dứt bảo lãnh ở
khoản 1,2,3,4 Điều 343 BLDS 2015 giúp người đọc hình dung rõ ràng hơn. Về cụm
từ “có thể được hủy bỏ nếu được bên nhận bảo lãnh đồng ý” ở BLDS 2005 Điều
370 có thể áp dụng khoản 4 Điều 343 BLDS 2015 để nói về điều này “theo thỏa
thuận các bên”. Như vậy, BLDS 2015 vừa bao quát được Điều 370 BLDS 2015 vừa
nêu cụ thể hơn các điều kiện chấm dứt bảo lãnh.

*Đối với Quyết định số 02/2013/KDTM-GĐT ngày 08/1/2013 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

3. Đoạn nào cho thấy Tòa án xác định quan hệ giữa ông Miễn, bà Cà với Quỹ
tín dụng là quan hệ bảo lãnh?

Cơ sở pháp lý: Điều 361 Bộ luật dân sự 2005 quy định về “Bảo lãnh”.

Đoạn cho thấy Tòa án xác định quan hệ giữa ông Miễn, bà Cà với Quỹ tín dụng là
quan hệ bảo lãnh là:

Trong trường hợp xác định Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của người
thứ ba số 01534 ngày 22/9/2006 giữa các bên có hiệu lực thì phải tuân theo
đúng quy định tại khoản 1 Điều 5 và khoản 1 Điều 7 của Hợp đồng thế chấp;
Điều 361 Bộ luật dân sự là khi chủ doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân không
trả nợ hoặc trả không đủ thì ông Miễn bà Cà phải trả thay nếu ông Miễn bà
Cà không trả nợ hoặc trả không đủ thì mới xử lý tài sản thế chấp để thu hồi
nợ.

Điều 361 Bộ luật dân sự trong đoạn trên của Tòa Án là Bộ luật dân sự 2005, bởi đây
là vụ việc xảy ra trước khi BLDS 2015 có hiệu lực, do vậy Điều 361 Bộ luật dân sự
trong đoạn trên là quy định về “Bảo lãnh”. Do vậy đoạn trên là đoạn Tòa án xác
định quan hệ giữa ông Miễn, bà Cà với Quỹ tín dụng là quan hệ bảo lãnh.

4. Suy nghĩ của anh/chị về việc xác định trên của Hội đồng thẩm phán.

Việc xác định trên của Hội đồng thẩm phán là hợp lý, bởi vì:

Cơ sở pháp lý: Điều 361 Bộ luật dân sự 2005 quy định về “Bảo lãnh” cho biết:

Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên
có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho

Trang 85
bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà
bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các
bên cũng có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ
khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.

Trong vụ việc trên theo Tòa Án nếu Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của
người thứ ba số 01534 ngày 22/9/2006 giữa các bên có hiệu lực thì phải tuân theo
Điều 361 Bộ luật dân sự 2005 quy định về “Bảo lãnh” là hợp lý. Bởi vì nếu việc thế
chấp quyền sử dụng đất của ông Miễn và bà Cà có hiệu lực, tức là đã xuất hiện quan
hệ bảo lãnh mà theo Điều 361 Bộ luật dân sự 2005 ông Miễn và bà Cà đã trở thành
người thứ ba (bên bảo lãnh) nên khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh (tức là bà
Tỉnh) không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh là ông
Miễn và bà Cà sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ là bà Tỉnh. Như vậy,
Hội đồng thẩm phán xác định quan hệ giữa ông Miễn, bà Cà với Quỹ tín dụng là
quan hệ bảo lãnh là hợp lý, cụ thể ông Miễn, bà Cà là bên bảo lãnh, và Quỹ tín dụng
là bên nhận bảo lãnh.

5. Theo Tòa án, quyền sử dụng đất của ông Miễn, bà Cà được sử dụng để bảo
đảm cho nghĩa vụ nào? Vì sao?

Theo Tòa án, quyền sử dụng đất của ông Miễn, bà Cà được sử dụng để đảm bảo cho
nghĩa vụ trả nợ của chủ doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân là bà Tỉnh. Bởi vì:

Căn cứ pháp lý: Điều 361 Bộ luật dân sự 2005 quy định về “Bảo lãnh”; khoản 1
Điều 5 và khoản 1 Điều 7 của Hợp đồng thế chấp.

Trong phần xét thấy của Quyết định trên, có hai đoạn cho thấy Tòa án theo hướng
quyền sử dụng đất của ông Miễn, bà Cà được sử dụng để đảm bảo cho nghĩa vụ trả
nợ của chủ doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân là bà Tỉnh.

Một là đoạn: “…18/10/2007 vợ chồng ông Miễn và Cà có “Giấy ủy quyền xử lý tài


sản thế chấp theo Hợp đồng vay vốn TC066/02- kiêm giấy bàn giao tài sản” cho
quỹ tín dụng xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ.”

Hai là đoạn: “Trong trường hợp xác định Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của
người thứ ba số 01534 ngày 22/9/2006 giữa các bên có hiệu lực thì phải tuyên theo
đúng quy định tại khoản 1 Điều 5 và khoản 1 Điều 7 của Hợp đồng thế chấp; Điều
361 Bộ luật dân sự là khi chủ doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân không trả nợ hoặc
trả không đủ thì ông Miễn bà Cà phải trả thay nếu ông Miễn bà Cà không trả nợ
hoặc trả không đủ thì mới xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ.”

Việc thế chấp trên của vợ chồng ông Miễn và Cà là để Quỹ tín dụng cho bà Tỉnh-
chủ doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân vay 900.000.000 đồng. Dựa vào Điều 361
Bộ luật dân sự 2005 việc thế chấp trên của vợ chồng ông Miễn và Cà là sự xuất hiện
của người thứ ba, vì đây là hợp đồng vay giữa để Quỹ tín dụng cho bà Tỉnh- chủ
doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân và vợ chồng ông Miễn và Cà xuất hiện với tư
cách người thứ ba là bên bảo lãnh, bảo lãnh điều gì, ở đoạn nêu trên có ghi “khi chủ
doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân không trả nợ hoặc trả không đủ thì ông Miễn bà

Trang 86
Cà phải trả thay nếu ông Miễn bà Cà không trả nợ hoặc trả không đủ thì mới xử lý
tài sản thế chấp để thu hồi nợ.” Vậy ở đây vợ chồng ông Miễn và Cà đang bảo lãnh
nghĩa vụ trả nợ của bà Tỉnh (trả thay khi bà Tỉnh không trả nợ hoặc trả không đủ).
Như vậy dựa vào những phân tích trên, thì cho thấy Tòa án đang theo hướng quyền
sử dụng đất của ông Miễn, bà Cà được sử dụng để đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ của
chủ doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân là bà Tỉnh.

*Đối với Quyết định số 968:( Trâm)


1. Đoạn nào cho thấy Tòa án địa phương đã theo hướng người bảo lãnh và
người được bảo lãnh liên đới thực hiện nghĩa vụ cho người có quyền?

Đoạn cho thấy Tòa án địa phương đã theo hướng người bảo lãnh và người được bảo
lãnh liên đới thực hiện nghĩa vụ cho người có quyền:

“…Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 89/2008/DS-ST ngày 30-7-208, Tòa án nhân dân
huyện Tràng Bom, tỉnh Đồng Nai quyết định: chấp nhận yêu cầu của bà Vũ Thị
Hồng Nhung. Bà Nguyễn Thị Mát và bà Nguyễn Thị Thắng cùng có nghĩa vụ liên
đới chịu trách nhiệm trả cho bà Vũ Thị Hồng Nhung 700.100.000 đồng.

….”

2. Hướng liên đới trên có được Tòa giám đốc thẩm chấp nhận không?
Tòa giám đốc thẩm không chấp nhận hướng liên đới của Tòa địa phương cụ
thể Tòa nhận định “Tòa án các cấp chưa thu thập xác định rõ khả năng thực
hiện nghĩa vụ dân sự của bà Mát, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm (Tòa án nhân
dân huyện Tràng Bom) đã buộc bà Thắng cùng liên đới thực hiện nghĩa vụ
dân sự cùng bà Mát là chưa chính xác...." Tòa căn cứ vào điều 361 định
nghĩa của bảo lãnh và điều kiện để thực hiện biện pháp bảo lãnh là khi bên
được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đủ nghĩa vụ của mình
đó đó điều kiện tiên quyết cần xác định đầu tiên đó là khả năng thực hiện
nghĩa vụ của người được bảo lãnh.
3. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm
liên quan đến vấn đề liên đới nêu trên.

Theo nhóm, hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm liên quan đến vấn đề liên
đới nêu trên là hợp lý. Vì:

Theo Điều 338 BLDS 2015 thì nhiều người cùng bảo lãnh thực hiện một nghĩa vụ
thì phải liên đới thực hiện việc bảo lãnh “Khi nhiều người cùng bảo lãnh một nghĩa
vụ thì phải liên đới thực hiện việc bảo lãnh, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp
luật có quy định bảo lãnh theo các phần độc lập; bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ
ai trong số những người bảo lãnh liên đới phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ”.

Trang 87
Do đó, pháp luật không có quy định nào quy định về việc người bảo lãnh và người
được bảo lãnh phải liên đới với nhau để chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ cho
người có quyền. nên Tòa án cấp sơ thẩm buộc bà Mát và bà Thắng liên đới để trả nợ
cho bà Nhung là chưa chính xác không có căn cứ pháp luật và xâm phạm quyền lợi
của người bảo lãnh.

Tòa giám đốc thẩm đã bát bỏ quyết định của Tòa án địa phương và xác định: bà Mát
là người thực hiện nghĩa vụ của mình đối với bà Nhung; yêu cầu xem xét lại khả
năng thực hiện nghĩa vụ của người được bảo lãnh: nếu bà Mát không có khả năng
thực hiện hoặc chỉ có thể thực hiện được một phần thì ông Ân và bà Thắng mới
thực hiện thay cho bà Mát là hoàn toàn hợp lý đúng quy định pháp luật theo Điều
336 BLDS 2015.

4. Phân biệt thời điểm phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh và thời điểm thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh.

Dựa vào khái niệm bảo lãnh điều 336 BLDS 2015 ta có thể rút ra:

- Thời điểm phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh là thời điểm mà bên bảo lãnh cam kết bảo
lãnh cho người được bảo lãnh với người có quyền nếu đến hạn mà người được bảo
lãnh không thực hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ thì người bảo lãnh sẽ
đứng ra thực hiện thay.

- Thời điểm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi người được bảo lãnh không có thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình thì người bảo lãnh sẽ đứng ra
chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ cho người có quyền thay người được bảo lãnh.

5. Theo BLDS, khi nào người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh?

Theo BLDS 2015 tại khoản 1 Điều 335 ghi rõ:

“1. Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có
quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có
nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa
vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.

2. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay
cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh.”

Do đó, người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi đến hạn thực hiện nghĩa
vụ mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
bên canh đó BLDS 2005 tại Điều 361 cũng quy định tương tự không có sự thay đổi
gì khác.

6. Theo Quyết định, khi nào người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh?
Trang 88
Trích phần Xét thấy của Quyết định số 968/2011/DS-GĐT ngày 27/12/2011 của
Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao:

“Như vậy căn cứ vào các tài liệu nêu trên có cơ sở để xác định bà Mát là người vay
tiền của bà Nhung, còn bà Thắng và ông Ân (Nhơn) chỉ là người bảo lãnh cho bà
Mát nên trước hết cần xác định bà Mát phải là người thực hiện nghĩa vụ dân sự của
mình đối với bà Nhung; nếu bà Mát không có khả năng thực hiện nghĩa vụ dân sự
hoặc chỉ có thể thực hiện được một phần, thì phần không thực hiện được bà Thắng
và ông Ân mới phải có trách nhiệm thực hiện thay theo quy định tại Điều 361,363
và Điều 365 Bộ luật dân sự.”

Do đó theo Quyết định, người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi người
được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ dân sự hoặc chỉ có thể thực
hiện được một phần thì phần không thực hiện người bảo lãnh phải thực hiện thay.

7. Có bản án, quyết định nào theo hướng giải quyết trên về thời điểm thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh chưa? Nêu rõ bản án, quyết định mà anh/chị
biết.

Toà án nhân dân tỉnh Cà Mau, Bản án 112/2022/DS-PT ngày 18/05/2022 về “tranh
chấp hợp đồng bảo lãnh”

Nguyên đơn: bà Nguyễn Ngọc T

Bị đơn: bà Lê Thị M

Ngày 11/08/2018 nguyên đơn cho bà Tạ Kim N vay số tiền có trả lãi hàng tháng và
được bị đơn bảo lãnh.sau khi nhận tiền Tạ Kim N không nộp lãi cũng không trả tiền
mà bỏ đi khỏi địa phương nên yêu cầu bị đơn trả nợ thay. Tòa phúc thẩm quyết định
bà N phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trả tiền cho bà T nhưng do bà N người
được bảo lãnh không thực hiện (sau khi nhận được tiền thì bỏ đi khỏi địa phương)
nên bà Lê Thị M phải đứng ra trả nợ số tiền mượn, vốn vay và lãi suất cho bà T thay
cho bà N.

8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.

Theo nhóm, hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm là hợp lý. Bởi lẽ ông Ân
và bà Thắng đã lập giấy có nội dung ghi chịu trách nhiệm về số tiền bà Mát vay đã
ngầm hình thành hợp đồng bảo lãnh vì thấy hai người phải chịu trách nhiệm nghĩa
vụ trả tiền của mình nếu như bà Mát không có khả năng hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ. hơn nữa Tòa quyết định cần xem xét lại khả năng thực hiện nghĩa vụ của
người được bảo lãnh là chính xác vì nhằm tránh việc người được bảo lãnh trốn tránh
trách nhiệm, cố ý đẩy việc thực hiện cho người bảo lãnh gây thiệt hại ảnh hưởng tới
lợi ích của người bảo lãnh.

Theo PGS.TS Đỗ Văn Đại, nghĩa vụ bảo lãnh sinh ra từ cam kết của người thứ ba
nhưng đây là nghĩa vụ mà việc thực hiện “có điều kiện”. Bởi lẽ, BLDS đã quy định
người bảo lãnh sẽ thực hiện thay nếu người được bảo lãnh không thực hiện hoặc
thực hiện không đủ và nội dung này cho thấy nghĩa vụ bảo lãnh sinh ra từ cam kết
Trang 89
của người bảo lãnh nhưng chưa chắc sẽ phải thực hiện và việc thực hiện nghĩa vụ
bảo lãnh còn phụ thuộc vào nghĩa vụ được bảo lãnh có được thực hiện đầy đủ hay
không24

BUỔI THẢO LUẬN THỨ NĂM : TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ, VI PHẠM HỢP
ĐỒNG

24
Đỗ Văn Đại, Luật nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự-Bản án
và bình luận án, Nxb. CTQG, tr.460
Trang 90
Vấn đề 1: Bồi thường thiệt hại do không thực hiện đúng hợp đồng gây ra

Tình huống: Ông Lại (bác sĩ chuyên khoa phẫu thuật thẩm mỹ) và bà
Nguyễn thỏa thuận phẫu thuật ngực với 4 yêu cầu: Lấy túi ngực ra, Thâu nhỏ
ngực lại, Bỏ túi nhỏ vào, Không được đụng đến núm vú. Ba ngày sau phẫu
thuật, bà Nguyễn phát hiện thấy núm vú bên phải sưng lên, đau nhức và đen
như than. Qua 10 ngày, vết mổ hở hết phần vừa cắt chỉ, nhìn thấy cả túi nước
đặt bên trong và ông Lại tiến hành mổ may lại. Được vài ngày thì vết mổ bên
tay phải chữ T lại hở một lỗ bằng ngón tay, nước dịch tuôn ướt đẫm cả
người. Sau đó ông Lại mổ lấy túi nước ra và may lại lỗ hổng và thực tế bà
Nguyễn mất núm vú phải.

1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng theo
pháp luật Việt Nam? Nêu rõ những thay đổi trong BLDS 2015 so với BLDS
2005 về Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng.

* Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng theo pháp luật
Việt Nam:

3 căn cứ :

● có hành VP
● có TH xảy ra
● có quan hệ nhân quả giữa TH và HV

Cơ sở pháp lý:

- Quy định ở Bộ luật dân sự 2015 như sau:

+ Điều 360 BLDS 2015 quy định về “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm
nghĩa vụ” như sau: “Trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có
nghĩa vụ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc
luật có quy định khác.”

+ Điều 419 BLDS 2015 quy định về “Thiệt hại được bồi thường do vi phạm hợp
đồng” như sau:

Trang 1
1. Thiệt hại được bồi thường do vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng được xác
định theo quy định tại khoản 2 Điều này, Điều 13 và Điều 360 của Bộ luật
này.

2. Người có quyền có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại cho lợi ích mà lẽ ra
mình sẽ được hưởng do hợp đồng mang lại. Người có quyền còn có thể yêu
cầu người có nghĩa vụ chi trả chi phí phát sinh do không hoàn thành nghĩa vụ
hợp đồng mà không trùng lặp với mức bồi thường thiệt hại cho lợi ích mà
hợp đồng mang lại.

3. Theo yêu cầu của người có quyền, Tòa án có thể buộc người có nghĩa vụ
bồi thường thiệt hại về tinh thần cho người có quyền. Mức bồi thường do
Tòa án quyết định căn cứ vào nội dung vụ việc.

+ Điều 351 BLDS 2015 quy định về “Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ” đã
cho biết “vi phạm nghĩa vụ” là: “Vi phạm nghĩa vụ là việc bên có nghĩa vụ không
thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện
không đúng nội dung của nghĩa vụ.”

- Quy định ở Bộ luật dân sự 2005 như sau:

+ Điều 302 BLDS 2005 quy định về “Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân
sự” như sau:

1. Bên có nghĩa vụ mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ
thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền.

2. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ dân
sự do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ
trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

3. Bên có nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm dân sự nếu chứng minh
được nghĩa vụ không thực hiện được là hoàn toàn do lỗi của bên có quyền.

Như vậy, Điều 360 BLDS 2015 được áp dụng cho nghĩa vụ nói chung, trong đó có
nghĩa vụ hợp đồng. Ở đây để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì phải có
các đủ các điều kiện sau:

Thứ nhất, phải có vi phạm nghĩa vụ. Vi phạm nghĩa vụ là gì đã được quy định ở
Điều 351 BLDS 2015.

Trang 2
Thứ hai, phải có thiệt hại. Nếu có vi phạm mà không có thiệt hại thì không có bồi
thường thiệt hại.

Thứ ba, phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm nghĩa vụ và thiệt
hại phát sinh. Quan hệ nhân quả là hành vi vi phạm nghĩa vụ là nguyên nhân dẫn
tới thiệt hại và thiệt hại là hệ quả tất yếu của hành vi vi phạm nghĩa vụ đó.

Vậy trong căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì có phải chứng
minh lỗi (nhận thức) của bên vi phạm hay không?

+ BLDS 2005 ngoài 3 điều kiện trên thì còn đòi hỏi yếu tố lỗi của bên vi phạm có
thể là lỗi cố ý hoặc vô ý ở Điều 302 BLDS 2005 quy định về “Trách nhiệm dân sự
do vi phạm nghĩa vụ dân sự”.

+ BLDS 2015 đã thay đổi cơ bản về yêu cầu này, ở Điều 360 BLDS 2015 không đề
cập đến từ “lỗi”, theo Điều 360 BLDS 2015 thì không cần yếu tố lỗi chỉ cần 3 điều
kiện trên. Tuy nhiên ở Điều 360 vẫn có trừ trường hợp Luật quy định khác, vậy nếu
Luật có quy định khác đòi hỏi yếu tố lỗi (nhận thức) thì ta phải xem xét. Ở điều 461
BLDS 2015 quy định về “Thông báo khuyết tật của tài sản tặng cho” có yêu cầu về
nhận thức như sau: “…Trường hợp bên tặng cho biết tài sản có khuyết tật mà không
thông báo thì phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại xảy ra...”. Tuy nhiên trong
thực tế, trường hợp này không xảy ra nhiều.

* Những thay đổi trong BLDS 2015 so với BLDS 2005 về Căn cứ phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng.

BLDS 2015 BLDS 2005

Quy Điều 360 BLDS 2015 quy định Điều 302 BLDS 2005 quy định
định về “Trách nhiệm bồi thường thiệt về “Trách nhiệm dân sự do vi
hại do vi phạm nghĩa vụ” như phạm nghĩa vụ dân sự” như sau:
sau: “Trường hợp có thiệt hại do
1. Bên có nghĩa vụ mà không
vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên
thực hiện hoặc thực hiện không
có nghĩa vụ phải bồi thường toàn
đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách
bộ thiệt hại, trừ trường hợp có
nhiệm dân sự đối với bên có
thỏa thuận khác hoặc luật có quy
quyền.
định khác.”
2. Trong trường hợp bên có

Trang 3
nghĩa vụ không thể thực hiện
được nghĩa vụ dân sự do sự kiện
bất khả kháng thì không phải
chịu trách nhiệm dân sự, trừ
trường hợp có thoả thuận khác
hoặc pháp luật có quy định khác.

3. Bên có nghĩa vụ không


phải chịu trách nhiệm dân sự nếu
chứng minh được nghĩa vụ
không thực hiện được là hoàn
toàn do lỗi của bên có quyền.

Vị trí BLDS 2015 đã có một Điều tách BLDS 2005 chỉ quy định chung
riêng ra (Điều 360 BLDS 2015 ở Điều 302 BLDS 2005 quy định
quy định về “Trách nhiệm bồi về “Trách nhiệm dân sự do vi
thường thiệt hại do vi phạm nghĩa phạm nghĩa vụ dân sự”.
vụ”), tách với quy định ở Điều
351 “Trách nhiệm dân sự do vi
phạm nghĩa vụ”.

Điều - Phải có vi phạm nghĩa vụ. Vi - Bên có nghĩa vụ mà không thực


kiện làm phạm nghĩa vụ là gì đã được quy hiện hoặc thực hiện không đúng
phát định ở Điều 351 BLDS 2015. nghĩa vụ, trừ trường hợp do sự
sinh kiện bất khả kháng.
- Phải có thiệt hại. Nếu có vi
trách
phạm mà không có thiệt hại thì - Có yêu cầu về yếu tố lỗi của
nhiệm
không có bồi thường thiệt hại. bên vi phạm có thể là lỗi cố ý
bồi
hoặc vô ý.
thường - Phải có mối quan hệ nhân quả
thiệt hại. giữa hành vi vi phạm nghĩa vụ và - Trường hợp có thoả thuận khác
thiệt hại phát sinh. hoặc pháp luật có quy định khác.
- Trường hợp có thỏa thuận khác
hoặc luật có quy định khác

Kết luận - BLDS 2015 đã có một Điều khoản quy định riêng về “Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ”, giúp Điều luật được rõ
ràng hơn, hợp lý hơn.

Trang 4
- BLDS 2015 đã thay đổi về yêu cầu yếu tố lỗi ở BLDS 2005, ở Điều
360 BLDS 2015 không đề cập đến từ “lỗi”, theo Điều 360 BLDS
2015 thì không cần yếu tố lỗi chỉ cần 3 điều kiện nêu trên. Tuy nhiên
ở Điều 360 vẫn có trừ trường hợp Luật quy định khác, vậy nếu Luật
có quy định khác đòi hỏi yếu tố lỗi (nhận thức) thì ta phải xem xét. Ở
điều 461 BLDS 2015 quy định về “Thông báo khuyết tật của tài sản
tặng cho” có yêu cầu về nhận thức như sau: “…Trường hợp bên tặng
cho biết tài sản có khuyết tật mà không thông báo thì phải chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại xảy ra...”. Tuy nhiên trong thực tế, trường
hợp này không xảy ra nhiều.

2. Trong tình huống trên, có việc xâm phạm tới yếu tố nhân thân của bà
Nguyễn không? Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà
Nguyễn đã hội đủ chưa? Vì sao?

Trong tình huống trên, chưa có đủ căn cứ để chắc chắn có việc xâm phạm tới yếu tố
nhân thân của bà Nguyễn. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà
Nguyễn đã hội đủ. Bởi vì:

Cơ sở pháp lý:

+ Điều 360 BLDS 2015 quy định về “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm
nghĩa vụ” như sau: “Trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có
nghĩa vụ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc
luật có quy định khác.”

+ Điều 419 BLDS 2015 quy định về “Thiệt hại được bồi thường do vi phạm hợp
đồng”:

1. Thiệt hại được bồi thường do vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng được xác
định theo quy định tại khoản 2 Điều này, Điều 13 và Điều 360 của Bộ luật
này.

2. Người có quyền có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại cho lợi ích mà lẽ ra
mình sẽ được hưởng do hợp đồng mang lại. Người có quyền còn có thể yêu
cầu người có nghĩa vụ chi trả chi phí phát sinh do không hoàn thành nghĩa vụ
hợp đồng mà không trùng lặp với mức bồi thường thiệt hại cho lợi ích mà
hợp đồng mang lại.

Trang 5
3. Theo yêu cầu của người có quyền, Tòa án có thể buộc người có nghĩa vụ
bồi thường thiệt hại về tinh thần cho người có quyền. Mức bồi thường do
Tòa án quyết định căn cứ vào nội dung vụ việc.

+ Điều 361 BLDS 2015 quy định về “Thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ”:

1. Thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về
tinh thần.

2. Thiệt hại về vật chất là tổn thất vật chất thực tế xác định được, bao gồm
tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại,
thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.

3. Thiệt hại về tinh thần là tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các lợi ích nhân thân khác
của một chủ thể.

Theo khoản 3 Điều 361 và khoản 3 Điều 419 BLDS 2015 thì thiệt hại được bồi
thường có thể là tổn thất tinh thần.

Ở Điều 361 BLDS 2015 bàn về bồi thường thiệt hại về tinh thần là những tổn thất
về tinh thần do bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín
và các lợi ích nhân thân khác của một chủ thể. Các yếu tố nhân thân khác có thể là
đời tư và hình ảnh. Tuy nhiên Điều luật lại chưa quy định rõ để có thể buộc tội ông
Lai đã xâm phạm tới yếu tố nhân thân của bà Nguyễn. Nhưng theo tôi, việc ông Lai
làm bà Nguyễn mất núm vú phải do sai sót phẫu thuật đã làm tổn hại tới hình ảnh
của bà Nguyễn tuy nhiên theo Mục 2 về “Quyền nhân thân” BLDS 2015 thì chưa đủ
căn cứ để kết luận điểm này.

Vậy để áp dụng Điều 361 thì phải chứng minh Ông Lại (bác sĩ chuyên khoa phẫu
thuật thẩm mỹ) đã xâm phạm đến yếu tố nhân thân của bà Nguyễn. Vì vậy để áp
dụng Điều 361 là chưa đủ thuyết phục vì Ông Lại chỉ vi phạm hợp đồng thỏa thuận
phẫu thuật ngực với bà Nguyễn. Như vậy, ta có thể áp dụng khoản 3 điều 419 “Theo
yêu cầu của người có quyền, Tòa án có thể buộc người có nghĩa vụ bồi thường thiệt
hại về tinh thần cho người có quyền. Mức bồi thường do Tòa án quyết định căn cứ
vào nội dung vụ việc”. Vì ông Lai đã không thực hiện đúng 1 trong 4 yêu cầu (Lấy
túi ngực ra, Thâu nhỏ ngực lại, Bỏ túi nhỏ vào, Không được đụng đến núm vú) như
đã thỏa thuận với bà Nguyễn nên ông Lai đã vi phạm nghĩa vụ và đem đến thiệt hại
cho bà Nguyễn là làm cho bà Nguyễn mất núm vú phải. Vì vậy theo Điều 360 và

Trang 6
Điều 419 thì hoàn toàn đủ căn cứ để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho
bà Nguyễn.

3. Theo quy định hiện hành, những thiệt hại vật chất nào do vi phạm hợp đồng
gây ra được bồi thường? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời

Cơ sở pháp lý:

+ Điều 419 BLDS 2015 quy định về “Thiệt hại được bồi thường do vi phạm hợp
đồng”:

1. Thiệt hại được bồi thường do vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng được xác
định theo quy định tại khoản 2 Điều này, Điều 13 và Điều 360 của Bộ luật
này.

2. Người có quyền có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại cho lợi ích mà lẽ ra
mình sẽ được hưởng do hợp đồng mang lại. Người có quyền còn có thể yêu
cầu người có nghĩa vụ chi trả chi phí phát sinh do không hoàn thành nghĩa vụ
hợp đồng mà không trùng lặp với mức bồi thường thiệt hại cho lợi ích mà
hợp đồng mang lại.

3. Theo yêu cầu của người có quyền, Tòa án có thể buộc người có nghĩa vụ
bồi thường thiệt hại về tinh thần cho người có quyền. Mức bồi thường do
Tòa án quyết định căn cứ vào nội dung vụ việc.

+ Điều 361 BLDS 2015 quy định về “Thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ” có quy định
về những thiệt hại vật chất gồm: “Thiệt hại về vật chất là tổn thất vật chất thực tế
xác định được, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế,
khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút”.

+ Điều 105 BLDS 2015 quy định về “Tài sản” như sau:

1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.

2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có
thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.

Vậy theo quy định trên ở BLDS 2015, ta có thể kết luận những thiệt hại vật chất do
vi phạm hợp đồng gây ra được bồi thường gồm:

Trang 7
Thứ nhất, Thiệt hại vật chất có thể là thiệt hại về tài sản. Tài sản là gì thì chúng
ta đã có định nghĩa ở Điều 105 BLDS 2015 như trên.

Ví dụ: A gửi xe cho B, thì đương nhiên B có nghĩa vụ phải trả xe cho A. Tuy nhiên
vì một lý do sơ suất nào đó, B lại làm mất xe của A. Như vậy, B đã vi phạm hợp
đồng giữ xe giữa A và B, gây thiệt hại về tài sản cho A (Thiệt hại vật chất), nên B
có trách nhiệm bồi thường cho A.

Thứ 2, có thể là những chi phí phát sinh từ việc vi phạm nghĩa vụ.

Ví dụ: A gửi xe cho B, thì đương nhiên B có nghĩa vụ phải trả xe cho A. Tuy nhiên
vì một lý do sơ suất nào đó, B lại làm mất xe của A. Sau đó, A và B cùng bỏ sức đi
tìm trong lúc đó A nhất định phải bỏ chi phí để đi tìm, như vậy A cũng sẽ được B
bồi thường chi phí đó do đó là chi phí phát sinh từ việc vi phạm nghĩa vụ của B
trong hợp đồng giữ xe.

Thứ ba, đối với hợp đồng, Điều 419 đã bổ sung một nội dung mới kế thừa từ
Luật thương mại về khoản lợi đáng ra được hưởng.

Ví dụ: A cho B thuê một tài sản trong vòng một năm. Vì lý do cá nhân B chấm dứt
hợp đồng trước thời hạn (ở cuối tháng 8 thay vì đúng hợp đồng phải là tháng 12).
Như vậy, B đã vi phạm hợp đồng, gây cho A 4 tháng còn lại không được hưởng tiền
thuê, đây là khoản lợi A đáng ra được hưởng, nên A cũng sẽ được bồi thường.

4. BLDS có cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần phát sinh do vi
phạm hợp đồng không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.

Căn cứ theo khoản 1, 3 Điều 361 BLDS 2015 quy định về Thiệt hại do vi phạm
nghĩa vụ:

“1. Thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại
về tinh thần.

3. Thiệt hại về tinh thần là tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các lợi ích nhân thân khác
của một chủ thể.”

Và khoản 1 Điều 584 BLDS 2015 quy định về Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại.

Trang 8
“1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây
thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên
quan quy định khác.”

Do đó, BLDS 2015 đã quy định rõ và cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh
thần do vi phạm hợp đồng.

5. Theo quy định hiện hành, bà Nguyễn có được bồi thường tổn thất về tinh
thần không? Vì sao? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.

Căn cứ cơ sở pháp lý theo khoản 3 Điều 361 BLDS 2015 quy định về thiệt hại do vi
phạm nghĩa vụ:.

“3. Thiệt hại về tinh thần là tổn thất về tinh thần do bị xâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các lợi ích nhân thân khác
của một chủ thể.”

Và khoản 1 Điều 584 BLDS 2015 quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại.

“1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây
thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên
quan quy định khác.”

Trong trường hợp này thì ông Lại đã gây tổn thất lớn về mặt tinh thần cho bà
Nguyễn:

+ Thứ nhất, ông Lại làm mất uy tín thông qua việc ông không làm theo đúng
thỏa thuận với bà Nguyễn là không được đụng đến núm vú nhưng sau khi
phẫu thuật thì núm vú sưng lên, đau nhức, đen và cuối cùng thì bị mất.
+ Thứ hai, trong quá trình làm việc ông Lại không cẩn thận dẫn đến vết mổ hở
nhiều lần gây ảnh hưởng đến sức khỏe của bà Nguyễn.

Do đó, bà Nguyễn sẽ được bồi thường tổn thất về tinh thần từ ông Lại.

Trang 9
Vấn đề 2: Phạt vi phạm hợp đồng

*Tóm tắt Bản án số 121/2011/KDTM-PT ngày 26/12/2011 của Tòa án nhân dân
TP. Hồ Chí Minh

Nguyên đơn: Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Dịch vụ Tân Việt (Công ty Tân
Việt).

Bị đơn: Công ty TNHH Tường Long (Công ty Tường Long).

Tóm tắt nội dung: Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Dịch vụ Tân Việt (Công ty
Tân Việt) và Công ty TNHH Tường Long (Công ty Tường Long) đã ký Hợp đồng
để mua vải thành phẩm. Công ty Tân Việt thanh toán trước 30% đơn hàng gọi là
tiền đặt cọc. Sau khi giao lô hàng đầu tiên Công ty Tường Long yêu cầu tăng giá,
Công ty Tân Việt không đồng ý. Hai bên đã thương lượng giải quyết việc hủy bỏ
hợp đồng và phụ lục nhưng không thành. Tòa sơ thẩm quyết định Công ty Tường
Long có trách nhiệm thanh toán cho Công ty Tân Việt số tiền phạt do hủy bỏ hợp
đồng, không chấp nhận về việc thanh toán tiền phạt cọc. Tòa phúc thẩm giữ nguyên
quyết định bản án sơ thẩm

*Tóm tắt Quyết định số 10/2020/KDTM-GĐT ngày 14/8/2020 của Hội đồng
thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.

Nguyên đơn: Công ty TNHH Yến Sào Sài Gòn

Bị đơn: Công ty cổ phần Yến Việt

Tóm tắt nội dung: Công ty Yến Sào cho rằng Công ty Yến Việt vi phạm hợp đồng
nguyên tắc số 02/HĐNT vì đã thiết lập các cửa hàng để phân phối sản phẩm trên thị
trường tại Hà Nội mà không trao đổi trước với công ty Yến Sào, gây ra thiệt hại cho
Công ty Yến Sào. Nên công ty Yến Sào khởi kiện, yêu cầu công ty Yến Việt, chấm
dứt hoạt động phân phối sản phẩm, thanh toán 10 tỷ đồng tiền phạt vi phạm hợp
đồng số 02/HĐNT (được quy định trong hợp đồng), hoàn trả và bồi thường các
khoản khác.

1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về phạt vi phạm hợp đồng.
BLDS 2005 đã chuyển phạt vi phạm sang mục Thực hiện hợp đồng nên không còn
chức năng đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự như BLDS 1995 quy định; dù vậy,

Trang 10
phạt vi phạm vẫn có vai trò hướng các bên tới việc thực hiện hợp đồng. BLDS 2015
vẫn giữ phạt vi phạm ở mục Thực hiện hợp đồng nhưng có một số thay đổi.
Về mức phạt, khoản 2 Điều 422 BLDS 2005 quy định:

2. Mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận.

Khoản 2 Điều 418 BLDS 2015 quy định:

2. Mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp luật liên quan có
quy định khác.

BLDS 2015 có bổ sung thêm quy định “trừ trường hợp luật liên liên quan có quy
định khác.” bởi hiện nay vẫn có luật quy định khác về mức phạt như Luật xây dựng
(12%), Luật Thương mại (8%) quy định về mức phạt tối đa nhưng các bên không
hoàn toàn tự do thỏa thuận về mức phạt.

Về thỏa thuận phạt vi phạm, khoản 3 Điều 422 BLDS 2005 quy định: “Các bên có
thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm mà
không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa phải bồi
thường thiệt hại; nếu không có thỏa thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì phải
bồi thường toàn bộ thiệt hại. Trong trường hợp các bên không có thoả thuận về bồi
thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm”. Hiện
nay, BLDS 2015 quy định tại khoản 3 Điều 418 BLDS 2015:

3. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt
vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm
và vừa phải bồi thường thiệt hại.

Trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận
về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên
vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm.

Ngày nay, BLDS 2015 đã bỏ đi quy định “nếu không có thỏa thuận trước về mức
bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại”, quy định này đã được bỏ
vì đây là vấn đề bồi thường thiệt hại và đã có quy định khác điều chỉnh (Điều 13 và
Điều 360 BLDS 2015).25

Đỗ Văn Đại, Bình luận khoa học - Những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015, NXB
25

Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr.372


Trang 11
Về mối quan hệ giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại, BLDS 2015 vẫn theo
hướng nếu không có thỏa thuận cụ thể về việc kết hợp hai chế tài này thì thỏa thuận
phạt vi phạm loại trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại, tức là có thỏa thuận về phạt
vi phạm mà không có thỏa thuận về sự kết hợp thì chỉ áp dụng phạt vi phạm. Theo
đó, hai chế tài này sẽ được áp dụng nếu trong trường hợp có thỏa thuận; việc phạt vi
phạm có thể kết hợp bồi thường thiệt hại nếu có thỏa thuận cho phép kết hợp cả hai
chế tài. Quy định này nhằm tránh những trường hợp không có thỏa thuận về bồi
thường thiệt hại trong hợp đồng nhưng khi có vi phạm xảy ra một bên vẫn yêu cầu
bồi thường thiệt hại.26

* Đối với vụ việc thứ nhất

2. Điểm giống nhau giữa đặt cọc và phạt vi phạm hợp đồng.
- Áp dụng đối với hợp đồng có hiệu lực.
- Là trách nhiệm pháp lý của các bên tham gia hợp đồng.
- Phát sinh do có hành vi vi phạm nghĩa vụ của hợp đồng.
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm.
- Bên vi phạm bị mất một khoản tiền (mức phạt vi phạm hoặc phạt cọc), và không
căn cứ vào thiệt hại thực tế.

3. Khoản tiền trả trước 30% được Tòa án xác định là tiền đặt cọc hay là nội
dung của phạt vi phạm hợp đồng?

Khoản tiền 30% được Toà án xác định là tiền đặt cọc, nằm ở phần Quyết định của
tòa án. Cụ thể, đoạn đề cập trong bản án là: “Do vậy số tiền thanh toán đợt 1 là 30%
giá trị đơn hàng (406.920.000 đồng) được xác định là tiền đặt cọc. Việc đặt cọc này
là phù hợp khoản 7 Điều 292 Luật thương mại và Điều 358 Bộ luật dân sự. Việc đặt
cọc này là việc đảm bảo cho việc thực hiện Hợp đồng”.

4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến khoản
tiền trả trước 30%.

Toà án xác định khoản tiền trả trước 30% là khoản tiền đặt cọc mà nguyên đơn đã
giao trước cho bị đơn là có cơ sở thuyết phục. Vì hợp đồng xác lập giữa nguyên đơn
và bị đơn vào ngày 1/10/2010 đã xác định: “bên mua Công ty Tân Việt phải thanh
toán trước cho bên bán 30% giá trị đơn hàng gọi là tiền cọc”. Như vậy, các chủ thể
26
Đại học Luật TP.HCM, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng (Tái bản lần 1, có sửa đổi và bổ sung), Nhà xuất bản Hồng Đức, tr.350
Trang 12
đã thống nhất ý chí của mình trong hợp đồng xác lập và có thoả thuận từ trước xác
định cụ thể khoản tiền 30% trả trước là tiền cọc.

Tuy nhiên, việc tòa án không quyết định phạt cọc đối với công ty Thành Long là
chưa hợp lý. Vì số tiền đặt cọc được các bên thỏa thuận là việc đảm bảo cho việc
thực hiện toàn bộ hợp đồng.

Căn cứ tại điểm a Điều 1 phần I trong nghị quyết số 01/2003-NQ-HĐTP:

Trong trường hợp đặt cọc chỉ để bảo đảm cho việc giao kết hợp đồng hoặc chỉ
để bảo đảm cho việc thực hiện hợp đồng hoặc vừa để bảo đảm cho việc giao kết
hợp đồng vừa để bảo đảm cho việc thực hiện hợp đồng thì bên nào có lỗi làm cho
hợp đồng không được giao kết hoặc không được thực hiện hoặc bị vô hiệu, thì
phải chịu phạt cọc theo quy định tại khoản 2 Điều 363 BLDS.

Vì công ty Thành Long lấy lý do khách quan dẫn đến lỗi trong việc không thể thực
hiện toàn bộ hợp đồng như đã thỏa thuận thì phải chịu phạt cọc cho công ty. Việc
tăng giá này cũng được xem là việc từ chối không thực hiện nghĩa vụ giao vải đúng
mức giá ban đầu và bị phạt cọc. Tuy nhiên, trong trường hợp này Tòa án đã chưa
xem xét kỹ “nguyên nhân khách quan” mà cho rằng bị đơn không từ chối việc thực
hiện nghĩa vụ nên không bị phạt cọc là chưa thỏa đáng.

* Đối với vụ việc thứ hai

5. Cho biết điểm giống và khác nhau giữa thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng
và thoả thuận về mức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.

Phạt vi phạm Mức bồi thường thiệt hại

Cơ sở pháp lý Điều 418 BLDS 2015 Điều 419 BLDS 2015

Khái niệm Là sự thỏa thuận giữa các bên Là trách nhiệm dân sự phát sinh
trong hợp đồng, theo đó bên vi do hành vi vi phạm hợp đồng
phạm nghĩa vụ trong hợp đồng của một bên gây thiệt hại nên
phải nộp một khoản tiền cho phải bồi thường thiệt hại đã gây
bên có quyền bị vi phạm ra cho phía bên kia.

Cơ sở phát - Hai bên có giao kết hợp đồng


sinh - Hợp đồng có hiệu lực
- Một bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng đã giao kết đối với bên còn

Trang 13
lại

Căn cứ áp Thỏa thuận trong hợp đồng Có đủ 3 yếu tố:


dụng - Có hành vi vi phạm hợp đồng
- Có thiệt hại thực tế
- Hành vi vi phạm và thiệt hại
có mối quan hệ nhân quả

Mục đích Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm

- Ngăn ngừa các hành vi vi - Khắc phục hậu quả do hành vi


phạm có thể xảy ra khi giao kết vi phạm gây nên, bù đắp thiệt
hợp đồng nhằm bảo vệ lợi ích hại vật chất cho bên bị vi phạm.
của các bên trong hợp đồng
- Nâng cao ý thức trách nhiệm
của mỗi bên khi thực hiện hợp
đồng.

Mức phạt - BLDS 2015: Thỏa thuận Bồi thường theo mức thiệt hại
- Luật Thương mại 2005:
Không quá 8% phần nghĩa vụ
hợp đồng bị vi phạm
- Luật Xây dựng 2014: Không
quá 12% phần nghĩa vụ hợp
đồng bị vi phạm.

6. Theo Toà án cấp phúc thẩm, thoả thuận được nêu tại mục 4 phần Nhận
định của Toà án trong Quyết định số 10 là thỏa thuận phạt vi phạm hợp
đồng hay thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng?
Vì sao?
Tại bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 01/2017/KDTM-PT không ghi rõ
Tòa án cấp phúc thẩm xác định thỏa thuận được nêu tại mục 4 phần Nhận định của
Tòa án trong Quyết định số 10 là thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng hay thỏa thuận
về mức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng: Tòa án cấp phúc thẩm không
chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Yến Sào Sài Gòn trong đó
có nội dung Công ty cổ phần Yến Việt bồi thường khoản tiền 10.000.000.000 đồng
do vi phạm Hợp đồng nguyên tắc số 02/HĐNT

Trang 14
7. Theo Toà giám đốc thẩm (Hội đồng thẩm phán), thỏa thuận được nêu tại
mục 4 phần Nhận định của Toà án trong Quyết định số 10 là thỏa thuận
phạt vi phạm hợp đồng hay thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng? Vì sao?
Theo Tòa GĐT (Hội đồng thẩm phán):
“...phạt vi phạm là việc các bên thỏa thuận bên vi phạm phải trả một khoản
tiền phạt được xác định trước, nhưng không vượt quá 8% giá trị phần nghĩa
vụ hợp đồng bị vi phạm; còn bồi thường thiệt hại là việc các bên thỏa thuận
bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra
cho bên bị vi phạm, nhưng những tổn thất này chưa được xác định tại thời
điểm thỏa thuận.”
Tại Điều 11 Hợp đồng nguyên tắc số 2, các bên đã thỏa thuận bên vi phạm phải bồi
thường số tiền 10.000.000.000 đồng - số tiền đã xác định trước. (1)

Đồng thời, Tòa GĐT cũng nhận định rằng vẫn chưa xác định được đủ các yếu tố
phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại:
- Có hành vi vi phạm hợp đồng;
- Có thiệt hại thực tế;
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại thực tế;
- Bên bị thiệt hại phải chứng minh được tổn thất, mức độ tổn thất do hành vi vi
phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu
không có hành vi vi phạm. (2)
Từ (1) và (2), Tòa GĐT đã nhận định thỏa thuận được nêu tại mục 4 phần Nhận
định của Tòa án trong Quyết định số 10 là thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng.

8. Cho biết suy nghĩ của anh chị về hướng xác định nêu trên của Hội đồng
thẩm phán?
Theo nhóm, Tòa GĐT xác định thỏa thuận được nêu tại mục 4 phần Nhận định của
Toà án trong Quyết định số 10 là thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng là hợp lý. Vì:
Điều 11 Hợp đồng nguyên tắc số 02 do các bên thỏa thuận:
“... nếu trong quá trình thực hiện Hợp đồng, bên nào vi phạm các điều kiện
đã cam kết trong Hợp đồng thì bên vi phạm phải chịu trách nhiệm bồi thường
cho bên kia số tiền là 10.000.000.000 đồng.”
Theo đó:
- Thời điểm thỏa thuận là lúc hai bên lập Hợp đồng quy tắc số 02, tức là thời
điểm chưa xảy ra hành vi vi phạm;
Trang 15
- Khoản tiền nêu trên được thỏa thuận không phụ thuộc vào điều kiện có thiệt hại
phát sinh do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra hay không. Trong khi đó, “xảy ra
thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng” lại được xem là điều kiện bắt buộc và là
tiền đề để phát sinh nghĩa vụ bồi thường thiệt hại.
Căn cứ theo khoản 1 Điều 418 BLDS 2015 quy định về phạt vi phạm:
Phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi
phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm.
Và Điều 360 BLDS 2015 quy định về bồi thường thiệt hại:
Trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải
bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có
quy định khác.
Có thể thấy, Điều 11 mà các bên đã cam kết tiến gần hơn với định nghĩa về “Phạt vi
phạm.”
Ngoài ra, khoản tiền 10.000.000.000đ quá lớn so với số tiền 1.635.522.000đ mà các
bên đã giao kết với nhau (khi Yến Sào nhập 03 lô hàng của Yến Việt) sau khi ký kết
hợp đồng nên Điều 11 Hợp đồng nguyên tắc số 02 có thiêng hướng nghiêng về mục
đích răn đe, trừng phạt bên vi phạm => đây là tính chất của phạt vi phạm.

Trang 16
Vấn đề 3: Sự kiện bất khả kháng

1. Những điều kiện để một sự kiện được coi là bất khả kháng? Và cho biết các
bên có thể thỏa thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng
không? Nêu rõ cơ sở khi trả lời.
Theo khoản 1 Điều 156 BLDS 2015 “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một
cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù
đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”. Từ định nghĩa trên có
thể xác định được những điều kiện được coi là “bất khả kháng”.
Thứ nhất, sự kiện bất khả kháng là một sự kiện khách quan. Sự kiện này tồn tại
ngoài phạm vi kiểm soát của bên vi phạm hợp đồng như các hiểm họa thiên nhiên
(động đất, sóng thần, mưa lũ, sạt lở đất,...), các sự biến xã hội (đình công, bạo loạn,
chiến tranh,...) và các hiểm họa do cháy nổ tự nhiên.
Thứ hai, các bên không thể lường trước được. Việc không thể lường trước được
hiểu là hoàn cảnh làm cho hợp đồng không thực hiện được, các bên không nhìn thấy
được tại thời điểm giao kết. Do đó, khi rơi vào hoàn cảnh này, bên vi phạm hoàn
toàn bị động. Trên thực tế, có nhiều trường hợp việc có thể lường trước được hay
không vẫn không được phân định rõ ràng.
Thứ ba, không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng các biện pháp cần thiết và
khả năng cho phép. Việc xảy ra sự kiện khách quan và không thể lường trước được
sự kiện đó vẫn chưa đủ để có thể được miễn trách. Bên có nghĩa vụ khi gặp hoàn
cảnh như vậy phải áp dụng mọi biện pháp khắc phục. 27
Các bên có thể thỏa thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng.
Theo khoản 2 Điều 351 BLDS 2015 “Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thể
thực hiện được nghĩa vụ dân sự do sự kiện bất khả kháng thì không thể chịu trách
nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
Các bên thường thỏa thuận với nhau các trường hợp được coi là bất khả kháng với
mục đích nhằm xác định trách nhiệm bồi thường, cụ thể hóa các trường hợp mà
Luật chưa nêu. Các bên có thể thỏa thuận loại trừ trường hợp bất khả kháng để bắt
buộc phải bồi thường (thỏa thuận không trái với quy định của pháp luật).

27
Đại học Luật TP.HCM, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng (Tái bản lần 1, có sửa đổi và bổ sung), Nhà xuất bản Hồng Đức, tr.363.
Trang 17
2. Những hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện được
do sự kiện bất khả kháng trong BLDS và Luật thương mại sửa đổi.
Quan điểm “Sự kiện bất khả kháng” giữa BLDS 2015 và Luật thương mại 2005 sửa
đổi có sự khác biệt:
+ Theo Bộ luật Dân sự giải thích “Sự kiện bất khả kháng” là sự kiện xảy ra
một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục
được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép. Tức
là, sự việc, hiện tượng được coi là sự kiện bất khả kháng khi các sự việc,
hiện tượng, cá nhân, tổ chức không thể lường trước, kiểm soát được và sự
việc, hiện tượng để lại hậu quả không thể nào phòng tránh và khắc phục
được, mặc dù đã thực hiện các biện pháp cần thiết cho phép.
+ Theo Luật Thương mại thì “Sự kiện bất khả kháng” là trường hợp được miễn
trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng và khi sự kiện bất khả kháng
xảy ra, để được miễn trách nhiệm của bên vi phạm hợp đồng thì bên vi phạm
phải thông báo kịp thời và phải chứng minh các hiện tượng, sự kiện xảy ra
làm ảnh hưởng đến công việc, nhiệm vụ thực hiện hợp đồng và nằm ngoài sự
tính toán của họ, mang tính khách quan và nó không thể ngăn chặn hay
không thể khắc phục được hậu quả mặc dù đã thực hiện các biện pháp cần
thiết cho phép.28
Hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện do sự kiện bất khả
kháng trong BLDS:
+ Căn cứ vào khoản 2 Điều 302 BLDS 2005 về trách nhiệm dân sự do vi phạm
nghĩa vụ dân sự: “Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện
được nghĩa vụ dân sự do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách
nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định
khác”. Theo quy định trên thì trường hợp hợp đồng không thể thực hiện do
sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
+ Căn cứ vào khoản 3 Điều 546 BLDS 2005 về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại: “Trong trường hợp bất khả kháng dẫn đến tài sản vận chuyển bị mất
mát, hư hỏng hoặc bị hủy hoại trong quá trình vận chuyển thì bên vận
chuyển không chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Trong quy định về bồi thường

28
Nguyễn Thành Minh Chánh, “Xem dịch Covid-19 là sự kiện bất khả kháng để được
miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng”, https://tapchitoaan.vn/xem-dich-covid-19-la-su-
kien-bat-kha-khang-de-duoc-mien-trach-nhiem-do-vi-pham-hop-dong, truy cập ngày
16/10/2022.
Trang 18
thiệt hại trong hợp đồng vận chuyển nếu trường hợp hợp đồng không thể
thực hiện do sự kiện bất khả kháng thì không chịu trách nhiệm dân sự, trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện do sự kiện bất khả
kháng trong Luật thương mại:
+ Căn cứ theo điểm b khoản 1 Điều 294 Luật thương mại 2005 về các trường
hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm:
“Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau đây:
b) Xảy ra sự kiện bất khả kháng;”
Trong Luật thương mại, ta có trường hợp vi phạm do sự kiện bất khả kháng hay vi
phạm do lỗi của bên có quyền, nhưng Luật thương mại không dùng cụm từ “chịu
trách nhiệm dân sự” thay vào đó dùng từ miễn trách nhiệm dân sự. Ở góc độ lý luận
hai khái niệm này khác nhau, “miễn trách nhiệm dân sự” ngầm hiểu trách nhiệm
này đã phát sinh còn “chịu trách nhiệm” sẽ xảy ra hai trường hợp: đã phát sinh và
chưa phát sinh. Trong thực tiễn cũng không có nhiều khác biệt, cả hai trường hợp,
người có nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm. Như vậy, pháp luật thương mại cho
phép bên vi phạm có thể miễn trách nhiệm đối với bên vi phạm hợp đồng nếu chứng
minh đó là một sự kiện bất khả kháng.

3. Số hàng trên có bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng không? Phân tích các
điều kiện hình thành sự kiện bất khả kháng với tình huống trên.

Số hàng trên có bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng.


Các điều kiện hình thành sự kiện bất khả kháng với tình huống trên:
+ Thứ nhất, “tàu bị gió nhấn chìm” đây là sự kiện xảy ra khách quan, do tác
động của tự nhiên.
+ Thứ hai, sự kiện này không thể lường trước được. Hoàn cảnh tự nhiên “gió to
dẫn đến tàu bị nhấn chìm” làm cho hợp đồng không thực hiện được, cả anh
Văn và anh Bình không nhìn thấy được tại thời điểm giao kết. Khi rơi vào
hoàn cảnh này, bên vi phạm (anh Văn) hoàn toàn bị động.
+ Thứ ba, “tàu bị nhấn chìm và làm hàng bị hư hỏng toàn bộ”, hàng hóa hư
hỏng với số lượng lớn, không thể khắc phục được bằng cách trục vớt do tốn
nhiều chi phí mà bên vi phạm không thể chi trả.
Do đó, trong trường hợp này bên vi phạm là anh Văn không chịu trách nhiệm. Tuy
nhiên, tình huống cũng đề cập đến việc “Anh Văn có mua bảo hiểm trách nhiệm dân
sự cho việc vận chuyển bằng tàu của mình”, trường hợp này nếu các bên có thỏa

Trang 19
thuận về việc đền bù thiệt hại do sự kiện bất khả kháng thì anh Văn phải trích số
tiền được đền bù từ bảo hiểm để bồi thường cho anh Bình.

4. Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, anh Văn có phải bồi
thường cho anh Bình về việc hàng bị hư hỏng không? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.

Cơ sở pháp lý: khoản 2 Điều 351 BLDS 2015

Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, anh Văn không phải bồi thường cho
anh Bình về việc hàng bị hư hỏng. Vì ở đây anh Văn đã không thực hiện đúng nghĩa
vụ vận chuyển hàng cho anh Bình là vi phạm nghĩa vụ. Việc không thực hiện được
nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng là tàu bị gió nhấn chìm.

Theo điều luật, trường hợp hai bên có thỏa thuận trước giá trị bồi thường nếu có bất
trắc, anh Bình không nhận được nguyên vẹn hàng hóa thì anh Văn vẫn phải chịu
trách nhiệm bồi thường cho anh Bình về số hàng bị hư hỏng.

5. Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng và anh Văn thỏa thuận bồi
thường cho anh Bình giá trị hàng bị hư hỏng thì anh Văn có được yêu cầu
Công ty bảo hiểm thanh toán khoản tiền này không? Tìm câu trả lời nhìn
từ góc độ văn bản và thực tiễn xét xử.

Cơ sở pháp lý: Điều 580 của BLDS 2005

Điều 580. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự

1. Trong trường hợp bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với người thứ ba theo
thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật thì bên bảo hiểm phải trả tiền
bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm hoặc cho người thứ ba theo yêu cầu của bên
mua bảo hiểm đối với thiệt hại mà bên mua bảo hiểm đã gây ra cho người
thứ ba theo mức bảo hiểm đã thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật.

2. Trong trường hợp bên mua bảo hiểm đã bồi thường thiệt hại cho người thứ
ba thì có quyền yêu cầu bên bảo hiểm phải hoàn trả khoản tiền mà mình đã
trả cho người thứ ba, nhưng không vượt quá mức trả bảo hiểm mà các bên đã
thoả thuận hoặc pháp luật đã quy định.
Xét ở góc độ văn bản, hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng và anh Văn thỏa
thuận bồi thường cho anh Bình giá trị hàng bị hư hỏng thì anh Văn phải bồi thường

Trang 20
cho anh Bình về số tiền hàng hóa bị thiệt và anh Văn được yêu cầu Công ty bảo
hiểm thanh toán khoản tiền này.
Xét thực tiễn xét xử, Tòa có hai hưởng giải quyết cụ thể qua hai vụ việc sau:

Tại bản án 110/2006/DSPT ngày 5/5/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh

Anh Lê Văn Khen nhận chở thuê hàng bằng đường thủy, anh Khen có mua bảo
hiểm thân tàu, bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho người thứ ba của công ty Bảo Việt
cho việc vận chuyển bằng tàu của mình. Trên đường vận chuyển, tàu bị gió lốc nhấn
chìm và gây thiệt hại đến tài sản hàng hóa. Anh Khen thỏa thuận chịu trách nhiệm
trường hợp này và đã bồi thường cho chủ hàng anh chở thuê số tiền 40.950.000
đồng. Tại bản án này, Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh khẳng định việc gây thiệt hại
cho các chủ hàng là do hiện tượng bất khả kháng nên anh Khen không có trách
nhiệm bồi thường thiệt hại về số hàng hóa bị hư hỏng cho chủ hàng hóa. Trong vụ
tai nạn trên, sau khi sự việc xảy ra anh Khen có thông báo cho Bảo Việt và cung cấp
thông tin yêu cầu Công ty Bảo Việt hoàn lại cho anh số tiền anh đã bồi thường cho
chủ hàng. Nhưng theo Tòa, anh Khen mặc dù đã nhận thông tin từ Công ty Bảo Việt
nhưng vẫn tự nguyện bồi thường (trái với quy định của pháp luật và quy tắc bảo
hiểm) nên anh phải tự chịu trách nhiệm.

Quyết định số 105/GĐT-DS ngày 30/05/2003 của Tòa dân sự TANDTC:

Ông Khóm nhận chuyển 2.600 con vịt cho ông Điền và ông Trình bằng tàu của
mình. Ông Khóm tham gia bảo hiểm dân sự của chủ tàu và trong hợp đồng có nêu
rõ điều kiện bảo hiểm dân sự của chủ tàu, thuyền. Theo phạm vi trách nhiệm bảo
hiểm thì Bảo Việt nhận trách nhiệm bồi thường mất mát, hư hỏng hàng hóa, tài sản
chuyên chở trên tàu, thuyền được bảo hiểm. Trên đường vận chuyển, do mưa gió to,
nước chảy mạnh, tàu va vào chân cầu bị chìm tổn thất trị đến 79.100.000 đồng số
tiền vịt. Vì ông Khóm thỏa thuận trong hợp đồng với ông Trình ông Điền nên đã bồi
thường số tiền trên. Nay ông Khóm yêu cầu bảo việt hoàn trả ông số tiền nói trên.
Về vụ việc trên, theo Tòa vì các bên có nêu rõ trong hợp đồng bảo hiểm nói trên và
theo Điều 546 BLDS 2005 vẫn cho phép người vận chuyển và bên thuê vận chuyển
được thỏa thuận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngay cả trong trường hợp bất
khả kháng. Mặt khác theo thỏa thuận của các bên trong hợp đồng bảo hiểm về
những loại trừ trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu (Mục B) thì không có
thỏa thuận nào về việc Bảo Việt An Giang được từ chối trách nhiệm do tai nạn tàu
bị chìm vì gió bão.Do đó, thỏa thuận giữa ông Khóm và ông Trình ông Điền là

Trang 21
không trái pháp luật, có hiệu lực và ràng buộc cả Bảo Việt An Giang. Công ty Bảo
Việt phải có trách nhiệm bảo hiểm hoàn bồi thường cho ông Khóm.

Qua hướng giải quyết của tòa án trong hai bản án trên thấy để bảo vệ được quyền
lợi ích của người được bảo hiểm các bên nên nêu rõ các điều kiện thỏa thuận trong
hợp đồng đặc biệt khi có sự kiện bất khả kháng xảy ra để tránh trường hợp bị thiệt
hại không được hoàn bồi thường.

Trang 22
Vấn đề 4: Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản

*Tóm tắt Bản án số 133/2021/DS-PT ngày 8/7/2021 của Toà án nhân dân tỉnh
Cà Mau.
Nguyên đơn: Anh Phan Văn T và chị Nguyễn Hồng N.
Bị đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn Đầu tư và Phát triển Thanh M.
Ngày 01/8/2018, anh Phan Văn T cùng vợ là chị Nguyễn Hồng N ký hợp đồng cho
Công ty TNHH Đầu tư và Phát triển Thanh M do chị Trần Thị Thúy A là Giám đốc,
người đại diện theo pháp luật của Công ty thuê nhà. Đến tháng 02/2020, do dịch
bệnh Covid nên chị A có gửi thông báo cho vợ chồng anh T sự kiện bất khả kháng
và phía vợ chồng anh T không lấy tiền thuê nhà 03 tháng (tháng 02, 03 và tháng
04/2020). Tiếp tục đến ngày 26/02/2020, chị A lại thông báo chấm dứt hợp đồng
thuê nhà với lý do công ty không thể tiếp tục hoạt động kinh doanh. Sau nhiều bàn
giao nhà không thành, đến ngày 12/6/2020 anh T phát hiện hiện trạng nhà ở không
đúng như hiện trạng đã cam kết trong hợp đồng. Ngày 26/6/2020, chị A gửi thông
báo về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê nhà. Tuy nhiên, phía chị A khóa
cửa cuốn, vợ chồng anh T không nhận được chìa khóa nhà nên không thể tiến hành
kiểm tra hiện trạng nhà. Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu chấm dứt hợp đồng thuê
nhà, bị đơn trả lại toàn bộ chìa khóa nhà cùng remote cửa cuốn của cửa chính, trả
tiền thuê nhà và bồi thường 01 năm tiền nhà.

Điểm giống và khác nhau giữa sự kiện bất khả kháng và hoàn cảnh thay đổi khi
thực hiện hợp đồng (về sự tồn tại và hệ quả pháp lý của hai trường hợp này).
● Giống nhau
○ là sự kiện mang tính khách quan,
○ không thể lường trước
○ không thể khắc phục

Hoàn cảnh thay đổi khi thực hiện


Sự kiện bất khả kháng
hợp đồng

Căn cứ Khoản 1 Điều 157 BLDS 2015 Điều 420 BLDS 2015
Pháp lý

Điều (i) xảy ra một cách khách quan, (i) Sự thay đổi hoàn cảnh do nguyên

Trang 23
kiện (ii) không thể lường trước được nhân khách quan xảy ra sau khi giao
(iii) không thể khắc phục được kết hợp đồng;
mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp (ii) Tại thời điểm giao kết hợp đồng,
cần thiết và khả năng cho phép. các bên không thể lường trước được
Ngoài ra, căn cứ quy định về hệ về sự thay đổi hoàn cảnh;
quả pháp lý trong trường hợp xảy (iii) Hoàn cảnh thay đổi lớn đến mức
ra sự kiện bất khả kháng được quy nếu như các bên biết trước thì hợp
định tại khoản 2 Điều 351 BLDS đồng đã không được giao kết hoặc
2015, hệ quả về việc bên bị ảnh được giao kết nhưng với nội dung
hưởng không thực hiện được đúng hoàn toàn khác;
nghĩa vụ quy định trong hợp đồng (iv) Việc tiếp tục thực hiện hợp đồng
cũng cần được xét đến trong việc mà không có sự thay đổi nội dung
xác định một sự kiện có được coi hợp đồng sẽ gây thiệt hại nghiêm
là bất khả kháng đối với từng trọng cho một bên; và
trường hợp cụ thể hay không.29 (v) Bên có lợi ích bị ảnh hưởng đã áp
dụng mọi biện pháp cần thiết trong
khả năng cho phép, phù hợp với tính
chất của hợp đồng mà không thể
ngăn chặn, giảm thiểu mức độ ảnh
hưởng đến lợi ích.

Hệ quả Tại khoản 2 Điều 351 BLDS Khoản 2 Điều 420 BLDS năm 2015
pháp lý 2015, cụ thể: “Trường hợp bên có quy định: “ Trong trường hợp hoàn
nghĩa vụ không thực hiện đúng cảnh thay đổi cơ bản, bên có lợi ích
nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng bị ảnh hưởng có quyền yêu cầu bên
thì không phải chịu trách nhiệm kia đàm phán lại hợp đồng trong một
dân sự, trừ trường hợp có thỏa thời hạn hợp lý”.
thuận khác hoặc pháp luật có quy Khoản 4 Điều 420 BLDS năm 2015
định khác”. quy định: “Trong quá trình đàm phán
Về lý thuyết, các bên trong hợp sửa đổi, chấm dứt hợp đồng, Tòa án
đồng có quyền thỏa thuận miễn giải quyết vụ việc, các bên vẫn phải
trừ trách nhiệm với tất cả các biện tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình

29
Trương Nhật Quang - Ngô Thái Ninh, “ Vấn đề miễn trách nhiệm dân sự do vi phạm
nghĩa vụ thanh toán trong trường hợp bất khả kháng- COVVID-19”,
https://quochoi.vn/tintuc/pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?ItemID=44493, truy cập
ngày 16/10/2022.
Trang 24
pháp khắc phục được quy định theo hợp đồng, trừ trường hợp có
trong pháp luật về hợp đồng. Do thỏa thuận khác”,
vậy, nếu các bên muốn miễn trừ Theo Khoản 3 Điều 420, các bên có
trách nhiệm đối với các biện pháp quyền yêu cầu Tòa án chấm dứt hoặc
khắc phục khác (ngoài các biện sửa đổi hợp đồng, nếu việc cùng
pháp được liệt kê cụ thể tại BLDS nhau đàm phán thất bại.
2015 và LTM 2005), các bên cần Điều này là hợp lý, nhằm bảo vệ
quy định cụ thể về vấn đề này quyền và lợi ích của bên bị ảnh
trong hợp đồng. 30 hưởng khi họ gặp khó khăn quá lớn
nhưng bên kia không thiện chí giúp
họ thoát khỏi tình trạng đó. 31

1. Quy định về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản trong một hệ
thống pháp luật nước ngoài.
Tại Điều 1195 Bộ luật Dân sự Pháp. Theo đó, nếu sau khi giao kết hợp đồng, hoàn
cảnh thay đổi cơ bản đến mức làm cho chi phí thực hiện nghĩa vụ đó tăng lên, mà
bên bị bất lợi không thể gánh chịu rủi ro về sự kiện này, họ có quyền yêu cầu tiến
hành đàm phán lại hợp đồng. Trong quá trình đàm phán lại hợp đồng, bên bị bất lợi
vẫn phải thực hiện nghĩa vụ. Nếu các bên không thỏa thuận được, các bên có quyền
hủy bỏ hợp đồng, hoặc cùng yêu cầu Tòa án sửa đổi hợp đồng. Nếu sau một thời
hạn hợp lý mà hai bên không thỏa thuận được, Tòa án, theo yêu cầu của một bên, có
quyền sửa đổi hợp đồng hoặc chấm dứt hợp đồng vào ngày và theo các điều kiện do
Tòa án quyết định.
Bộ luật Dân sự Đức : tại Điều 313. Khoản 1 Điều 313 quy định rằng: nếu sau khi
hợp đồng được giao kết mà hoàn cảnh thay đổi cơ bản đến mức các bên sẽ không
giao kết hợp đồng hoặc sẽ giao kết hợp đồng khác đi nếu họ tiên liệu được sự thay
đổi này, thì hợp đồng có thể được sửa đổi, trong chừng mực xét theo hoàn cảnh liên
quan. Khoản 3 Điều 313 quy định rằng, nếu việc sửa đổi hợp đồng không thể thực
hiện được hoặc không hợp lý cho một bên thì bên bị bất lợi có quyền chấm dứt hợp
đồng
30
Trương Nhật Quang- Ngô Thái Ninh, “ Vấn đề miễn trách nhiệm dân sự do vi phạm
nghĩa vụ thanh toán trong trường hợp bất khả kháng- COVVID-19”,
https://quochoi.vn/tintuc/pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?ItemID=44493,truy cập
ngày 16/10/2022
31
Kinh Thị Tuyết, “Hoàn cảnh thay đổi trong hợp đồng - Nhận diện và hậu quả pháp lý”,
https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/hoan-canh-thay-doi-trong-hop-dong-nhan-dien-va-
hau-qua-phap-ly-74730.htm, truy cập ngày 16/10/2022.

Trang 25
Ở Pháp, Điều 1195 Bộ luật Dân sự Pháp quy định: “Nếu xảy ra sự thay đổi của
hoàn
cảnh mà không thể lường trước được vào thời điểm ký kết hợp đồng và khiến cho
việc thực hiện nghĩa vụ của một bên trở nên khó khăn quá mức và bên đó đã không
thỏa thuận về việc gánh chịu rủi ro thì có thể đề nghị bên kia đàm phán lại hợp
đồng...”.
Theo quy định này thì ngoài quy định về điều kiện xác định hoàn cảnh thay đổi cơ
bản thì BLDS Pháp cũng đề cập đến thực hiện nghĩa vụ trở nên khó khăn quá mức32

2. Trong vụ việc nêu trên, theo Toà án, việc chấm dứt hợp đồng là do sự kiện
bất khả kháng hay do hoàn cảnh thay đổi cơ bản? Vì sao?

Trong vụ việc nêu trên, theo Toà án, việc chấm dứt hợp đồng là do hoàn cảnh thay
đổi cơ bản. Vì trong bản án Tòa có nhận định:

“Căn cứ nội dung hợp đồng, trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng thì các bên
phải đảm bảo điều kiện quy định tại Điều 8 của Hợp đồng về “Trường hợp bất khả
kháng”. Phía nguyên đơn cho rằng có dịch bệnh Covid-19 nhưng bị đơn chưa tận
dụng hết khả năng để khắc phục mà mục đích chuyển đến địa điểm mới tiếp tục
kinh doanh cho nên không xem là bất khả kháng.”

“Tại cấp phúc thẩm, nguyên đơn cung cấp chứng cứ bị đơn vẫn tiếp tục kinh doanh
sau khi chấm dứt thuê nhà, đó là bị đơn vẫn nộp thuế hàng tháng, có phiếu thu tiền
học phí, tuy vậy hồ sơ không thể hiện thu nhập của bị đơn từ hoạt động kinh doanh.
Trong trường hợp này, quá trình thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
thì các bên có thể thương lượng với nhau, tại khoản 2 Điều 420 Bộ luật dân sự quy
định: “Trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản, bên có lợi ích bị ảnh hưởng có
quyền yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng trong một thời gian hợp lý”; phía bị
đơn cũng có các văn bản gửi nguyên đơn về việc xin chấm dứt hợp đồng và trên
thực tế về ý thức nguyên đơn cũng có thiện chí cho bị đơn chấm dứt hợp đồng thuê
nhà, bởi vì nếu không đồng ý nhận lại nhà thì nguyên đơn không yêu cầu bị đơn
phải sơn sửa lại nhà đúng như hiện trạng ban đầu và hẹn ngày giao nhận nhà.”

Đàm Thị Diễm Hạnh (2021), “Bàn Về Khái Niệm Hoàn Cảnh Thay Đổi Cơ Bản Trong
32

Thực Hiện Hợp Đồng Theo Pháp Luật Một Số Nước Trên Thế Giới Và Ở Việt Nam”, Tạp
Chí Pháp Luật Và Thực Tiễn, Số 49/2021, Tr.4.
Trang 26
3. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết nêu trên của Tòa án (đặc biệt là
liên quan đến hoàn cảnh thay đổi cơ bản).

Hướng giải quyết nêu trên của Tòa án là chưa hợp lý.

Toà án xác định việc chấm dứt hợp đồng là do hoàn cảnh thay đổi cơ bản vì giữa
hai bên có sự thương lượng, thỏa thuận cùng thống nhất chấm dứt hợp đồng là chưa
thỏa đáng. Vì sự việc trên chưa đáp ứng đủ điều kiện của hoàn cảnh thay đổi cơ
bản. Theo khoản 1 Điều 420 BLDS 2015, thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay
đổi cơ bản:
1. Hoàn cảnh thay đổi cơ bản khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Sự thay đổi hoàn cảnh do nguyên nhân khách quan xảy ra sau khi giao kết hợp
đồng;
b) Tại thời điểm giao kết hợp đồng, các bên không thể lường trước được về sự thay
đổi hoàn cảnh;
c) Hoàn cảnh thay đổi lớn đến mức nếu như các bên biết trước thì hợp đồng đã
không được giao kết hoặc được giao kết nhưng với nội dung hoàn toàn khác;
d) Việc tiếp tục thực hiện hợp đồng mà không có sự thay đổi nội dung hợp đồng sẽ
gây thiệt hại nghiêm trọng cho một bên;
đ) Bên có lợi ích bị ảnh hưởng đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong khả năng
cho phép, phù hợp với tính chất của hợp đồng mà không thể ngăn chặn, giảm thiểu
mức độ ảnh hưởng đến lợi ích.

Theo đó, Tòa án chưa xem xét đến việc chứng minh nếu các bên biết trước hoàn
cảnh dịch Covid xảy ra thì đã không giao kết hoặc giao kết với nội dung khác theo
điểm c. Vì vậy Tòa án áp dụng quy định về hoàn cảnh thay đổi cơ bản và sự thống
nhất chấm dứt hợp đồng của các bên mà tuyên chấm dứt hợp đồng, không bồi
thường thiệt hại là chưa hợp lý.

BUỔI THẢO LUẬN THỨ SÁU : BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP
ĐỒNG (phần chung)
Vấn đề 1: Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Bản án số 20/2018/DS-ST ngày 23/4/2018 của TAND Quận 2, TP.HCM
- Nguyên đơn: bà Phan Thị Bích Ngọc;

Trang 27
- Bị đơn: ông Trần Quang Huy;
Tranh chấp bồi thường thiệt hại do danh dự, uy tín bị xâm phạm. theo Vi bằng số
294/2017/VB-VPTPLBT do Văn phòng Thừa phát lại Bình Thạnh xác lập lúc 15
giờ 00 phút ngày 19/7/2017 cũng như qua thừa nhận của ông Trần Quang Huy có
cơ sở để xác định ông Huy chính là người đã đăng tải những thông tin: “ĐỀ THI
ĐÃ LỘ…!!. Về mặt nội dung những thông tin ông Huy đăng tải, từ cách sử dụng
câu chữ của ông Huy đủ để người đọc hiểu rằng chính bà Lẽ và bà Ngọc là những
người làm lộ đề thi. Căn cứ văn bản 297/GDĐT-TRH ngày 26/01/2018 của Sở Giáo
dục và Đào tạo TP.HCM và các tài liệu khác mà TAND Quận 2 thu thập được, có
cơ sở để xác định không có sự việc lộ đề kiểm tra giữa học kỳ II môn Ngữ văn tại
Trường THPT Thủ Thiêm. Theo Tòa, các thông tin ông Huy đăng tải chưa được
kiểm chứng trên phương tiện thông tin được nhiều người truy cập đã gây ảnh hưởng
danh dự bà Ngọc, hơn nữa những người truy cập đã đưa ra ý kiến nhận xét, trong số
đó có những ý kiến có tính chất phê phán. hành vi trên của ông Huy là trái với quy
định của pháp luật. Do đó, Tòa chấp nhận yêu cầu buộc ông Huy bồi thường thiệt
hại cho bà Ngọc số tiền 19.160.000đ và buộc ông Huy công khai xin lỗi tại trụ sở
Trường THPT Thủ Thiêm.
1. Cho biết các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng (thiệt hại do người gây ra) trong BLDS 2015?
Theo khoản 1 Điều 584 BLDS, “người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác
mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên
quan quy định khác”. Từ đó, ta có thể thấy các cơ sở để xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại (do người gây ra):
- Thứ nhất: Phải có thiệt hại xảy ra trên thực tế
Đây là điều kiện tiên quyết, bởi lẽ nếu không có thiệt hại xảy ra thì không phát sinh
trách nhiệm bồi thường. Thiệt hại được bồi thường bao gồm: thiệt hại về vật chất và
tổn thất về tinh thần.
- Thứ hai: Có hành vi gây ra thiệt hại là hành vi trái pháp luật
Hành vi trái pháp luật trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phải
thỏa mãn hai điều kiện: vi phạm đến pháp luật và xâm phạm đến quyền và lợi ích
hợp pháp của các chủ thể được pháp luật bảo vệ. Hành vi gây thiệt hại có thể tồn tại
dưới dạng hành động và không hành động.
Pháp luật quy định một số những hành vi, mặc dù gây thiệt hại vẫn được xem là
hành vi hợp pháp. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là thiệt hại xảy ra do các hành
vi hợp pháp này sẽ không được bồi thường. Đó có thể là:

Trang 28
+ Hành vi gây thiệt hại trong giới hạn phòng vệ chính đáng;
+ Hành vi gây thiệt hại phù hợp với yêu cầu của tình thế cấp thiết;
+ Hành vi gây thiệt hại có sự đồng ý hợp pháp của người bị thiệt hại;
+ Hành vi gây thiệt hại khi thi hành công vụ hoặc thực hiện chức trách nghề nghiệp
phù hợp với điều kiện do pháp luật quy định;
+ Những trường hợp khác do luật định.
- Thứ ba: Phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật gây ra
thiệt hại và thiệt hại thực tế
Mối quan hệ nhân-quả giữa hai cặp phạm trù này được hiểu thiệt hại xảy ra phải là
kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại hành vi trái pháp luật là
nguyên nhân gây ra thiệt hại.
Chỉ những thiệt hại nào được coi là hậu quả tất yếu, không thể tránh khỏi của hành
vi trái pháp luật thì người gây thiệt hại đó mới phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Như vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ áp dụng khi xác định chính xác hành
vi trái pháp luật là nguyên nhân gây thiệt hại. Hay nói cách khác thiệt hại là hậu quả
của hành vi trái pháp luật.
- Thứ tư: Phải có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý của người gây thiệt hại.
Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây
thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn,
nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có
khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra
hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt
hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Cần chú ý là đối với trường hợp pháp luật có quy định việc bồi thường thiệt hại cả
khi không có lỗi, thì trách nhiệm bồi thường của người gây thiệt hại trong trường
hợp này được thực hiện theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó.
2. Thay đổi về các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng giữa BLDS 2005 và BLDS 2015?
Về căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thì:
- BLDS 2005 quy định tại Điều 604. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại như sau:
1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh
dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân,
xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây
thiệt hại thì phải bồi thường.

Trang 29
2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường
cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó.
- BLDS 2005 quy định tại Điều 584. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại như sau:
1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây
thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên
quan quy định khác.
2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do
lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy
định khác.
3. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản
phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh
theo quy định tại khoản 2 Điều này.
Ta có thể thấy theo quy định trước đây tại Điều 604 BLDS 2005, trách nhiệm
BTTH ngoài hợp đồng yêu cầu người gây thiệt hại phải có “lỗi cố ý hoặc vô ý”. Với
quy định như vậy, ngoài việc chứng minh người gây thiệt hại có hành vi trái pháp
luật, người bị thiệt hại cần phải chứng minh người gây thiệt hại có lỗi. BLDS 2015
thì tiến bộ hơn khu mà xác định trách nhiệm BTTH là “hành vi xâm phạm của
người gây thiệt hại”, đây là một quy định theo hướng có lợi cho người bị thiệt hại
theo đó thì người bị thiệt hại không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của bên gây thiệt
hại nữa, họ chỉ cần xác định được hành vi xâm phạm của người gây thiệt hại là đã
có thể yêu cầu bồi thường (trách nhiệm chứng minh lỗi giờ đây sẽ thuộc về người
gây thiệt hại trong trường hợp muốn được miễn trách nhiệm BTTH (khoản 2 Điều
585 BLDS 2015) hoặc được giảm mức bồi thường (khoản 2, 4 Điều 586 BLDS
2015).
Ngoài ra thì BLDS 2015 còn mở rộng về chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường.
BLDS 2005 quy định người nào thực hiện hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho
người khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường. Tuy nhiên, BLDS 2015 lại quy
định thêm trường hợp ngoại lệ, đó là “trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên
quan quy định khác”. Đây là một quy định rất phù hợp, bởi vì trách nhiệm BTTH
ngoài hợp đồng về nguyên tắc là được đặt ra cho chính chủ thể có hành vi gây thiệt
hại, nhưng có khi lại là người khác.
Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng đã mở rộng phạm vi áp dụng trách nhiệm BTTH
ngoài hợp đồng. Nếu như BLDS 2005 quy định đối với cá nhân có phạm vi áp dụng
trách nhiệm rất rộng còn đối với pháp nhân thì chỉ liệt kê ba đối tượng bị xâm phạm
Trang 30
là “danh dự, uy tín, tài sản (khoản 1 Điều 604) thì tại Điều 584, BLDS 2015 quy
định đối tượng bị xâm phạm làm phát sinh trách nhiệm BTTH của cá nhân và pháp
nhân bao gồm “tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi
ích hợp pháp khác”.
Cuối cùng BLDS 2015 đã bổ sung thêm căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH là “tài
sản gây thiệt hại”. Cụ thể, theo khoản 3 Điều 584 BLDS 2015: Chủ sở hữu, người
chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản của mình
gây ra. Điều này đáp ứng được thực tiễn đó là có những trường hợp trách nhiệm
BTTH ngoài hợp đồng cũng có thể phát sinh khi có sự kiện tài sản gây ra thiệt hại.
3. Trong Bản án số 20 (về bồi thường thiệt hại do dùng facebook nêu trên),
theo Tòa án, các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng đã hội đủ chưa? Vì sao?
Các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã hội
đủ:
- Thứ nhất, về thiệt hại trên thực tế, Tòa án cho rằng: “Xét thấy việc ông Huy đăng
các thông tin chưa được kiểm chứng trên phương tiện thông tin được nhiều người
truy cập đã gây ảnh hưởng danh dự của bà Ngọc. Không những vậy, từ những thông
tin do ông Huy đăng tải về việc lộ đề thi, những người truy cập thông tin đã đưa ra ý
kiến nhận xét, trong số đó có những ý kiến nhận xét có tính chất phê phán.”
Như vậy, điều này đã làm ảnh hưởng đến danh dự và uy tín của bà Ngọc.
- Thứ hai, về hành vi gây ra thiệt hại là hành vi trái pháp luật, Tòa án cũng đã nêu
ra: “Xét về mặt nội dung, ông Huy không chỉ đăng tải thông tin về việc đề thi bị lộ
mà còn khẳng định bà Lẽ và bà Ngọc đã cho học sinh của mình chép đề và lời giải
phần Đọc - Hiểu trong đề thi vào hai ngày trước thi. Từ cách sử dụng câu chữ của
ông Huy đủ để người đọc hiểu rằng chính bà Lẽ và bà Ngọc là những người làm lộ
đề thi. Căn cứ văn bản 27/GDĐT-TRH ngày 26/01/2018 của Sở Giáo dục và Đào
tạo Thành phố Hồ Chí Minh và các tài liệu, chứng cứ khác mà Tòa án nhân dân
quận 2 thu thập được, có cơ sở để xác định không có sự việc lộ đề kiểm tra giữa học
kỳ II môn Ngữ Văn tại Trường Trung học phổ thông Thủ Thiêm. Xét thấy việc ông
Huy đăng các thông tin chưa được kiểm chứng trên phương tiện thông tin được
nhiều người truy cập đã gây ảnh hưởng danh dự của bà Ngọc.”
Như vậy, hành vi gây thiệt hại của ông Huy là đăng các thông tin chưa được kiểm
chứng là hành vi trái pháp luật.
- Thứ ba, về mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây ra thiệt hại và thiệt hại trên
thực tế, Tòa án cũng nêu rõ rằng: “Rõ ràng hành vi trái pháp luật của ông Huy chính
là nguyên nhân dẫn đến hậu quả làm tổn hại đến danh dự và uy tín của bà Ngọc.”

Trang 31
Qua các chi tiết trên cho ta thấy rằng trong bản án về bồi thường thiệt hại do dùng
facebook nêu trên, theo Tòa án, các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng đã hội đủ.
4. Theo anh/chị, trong vụ việc trên, đã hội đủ các căn cứ làm phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chưa? Vì sao? (anh/chị đánh giá
từng điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã
được đáp ứng chưa).
Theo nhóm, vụ việc trên đã đầy đủ các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng. Phân tích chiếu theo Điều 584 BLDS vào vụ việc, ta có:

Thứ nhất, có thiệt hại xảy ra trên thực tế đối với bà Phan Thị Bích Ngọc.

Thiệt hại xảy ra đối với nguyên đơn là thiệt hại về mặt tinh thần, danh dự nhân
phẩm, uy tín khi nguyên đơn bị ông Trần Quang Huy xúc phạm bằng những lời lẽ
phản cảm, vô căn cứ, sau đó ông còn kích động đám đông đưa ra những lời nhục
mạ. Hứng chịu tất cả những lời sỉ nhục, cáo buộc vô căn cứ của ông Huy và đám
đông do ông kích động đã khiến bà Ngọc bị ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm,
gây tổn thất cho bà về mặt tinh thần, uy tín.

Thứ hai, hành vi gây ra thiệt hại của ông Huy là trái pháp luật.

Việc ông Huy lên Facebook đưa ra những thông tin chưa được kiểm chứng, xác
thực làm ảnh hưởng đến danh dự nhân phẩm bà Ngọc là hành vi vi phạm pháp luật.
Cụ thể, tại điểm a khoản 1 Điều 101 Nghị định số 15/2020/NĐ-CP “Quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện,
công nghệ thông tin và giao dịch điện tử” có quy định việc “Cung cấp, chia sẻ
thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của
cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân” là một hành vi vi phạm quy
định về trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội là hành vi vi phạm pháp luật cần
được chấn chỉnh.

Thứ ba, hành vi tung tin sai sự thật của ông Huy là nguyên nhân dẫn tới những lời lẽ
xúc phạm bà Ngọc, dẫn tới việc bà Ngọc bị thương tổn tinh thần, danh dự, nhân
phẩm.

Chính từ hành động cáo buộc bà Ngọc làm lộ đề thi không có căn cứ cùng với việc
ông Huy kích động đám đông đưa ra những nhận xét phê phán, lăng mạ đã làm bà
Ngọc bị tổn thất về mặt tinh thần, mất uy tín, danh dự và nhân phẩm của bà. Mối
quan hệ nhân quả của hai sự việc này đã rõ ràng.
Trang 32
Ngoài ra, hành vi của ông Huy không phải là kết quả của một sự kiện bất khả
kháng, cũng như không có yếu tố lỗi của bà Ngọc liên quan đến vụ việc. Do đó, có
thể khẳng định đã hội đủ các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng giữa ông Huy và bà Ngọc.

5. Trong Bản án số 99 (về covid 19), các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã hội đủ chưa? Vì sao?
Trong Bản án số 99 (về covid 19), các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng đã được hội đủ. Vì:
Đáp ứng điều kiện có hành vi trái pháp luật, xâm phạm tới quyền lợi ích của người
khác:
Tại Bản Cáo trạng số 110/CT-VKS-P2 ngày 12/10/2012, Viện kiểm sát nhân
dân thành phố Đà Nẵng truy tố bị can Nguyễn Quang Trọng về tội “Vi phạm
quy định về an toàn ở nơi đông người” theo điểm c khoản 3 Điều 295 Bộ luật
Hình sự.
Mặc dù biết dịch Covid-19 bùng phát trở lại từ cuối tháng 4/2021 bùng phát
trở lại từ cuối tháng 4/2021 và nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc áp
dụng các biện pháp phòng chống dịch bệnh, với vai trò là Giám đốc công ty
TNHH quốc tế Amida Nguyễn Quang Trọng đã yêu cầu nhân viên đeo khẩu
trang khi làm việc, tiếp xúc với đồng nghiệp và khách hàng. Tuy nhiên tại
cuộc họp công ty vào ngày 02/5/2021 với khoảng 40 người trong phòng họp
nhỏ, không có ngăn cách giữa người với người, bị cáo đã yêu cầu tất cả nhân
viên dự họp bỏ khẩu trang để hô to mục tiêu kinh doanh là vi phạm quy định
phòng, chống dịch Covid-19; cụ thể: vi phạm yếu tố “Khẩu trang”, “Khoảng
cách” và “Không tập trung” trong quy định 5K của Bộ Y tế và các quy định
hạn chế tập trung đông người không cần thiết.
Gây ra thiệt hại:
Xuất hiện chùm ca bệnh Covid-19 ở cả Công ty TNHH Quốc tế Amida và các tỉnh
Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Trị, Đắk Lắk với số lượng 65
người. Tổng số tiền thiệt hại là 11.823.302.738 đồng, bao gồm chi phí phòng chống
dịch như truy vết, cách ly, phong tỏa, xét nghiệm, điều trị.
Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại:
Dù rằng trước đó ông Nguyễn Quang Trọng đã có ý thức rất tốt về phòng chống
dịch Covid 19 cho bản thân và nhân viên công ty. Nhưng do hành vi bất cẩn vào
buổi họp ngày 02/5/2021 của ông Trọng đã gây ra hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng
đến nhiều người trong cuộc họp và các người khác nhiễm bệnh Covid-19 ở 5 tỉnh

Trang 33
Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Trị, Đắk Lắk và thiệt hại lên tới
11.823.302.738 đồng.
Bàn về yếu tố lỗi:
Với nguyện vọng muốn truyền lửa cho nhân viên mà ông đã chủ quan yêu cầu mọi
người gỡ khẩu trang và hô to mục tiêu. Đây coi như là lỗi cố ý, vì trước đó ông đã
biết về tầm quan trọng trong việc phòng, chống dịch bệnh Covid 19.
6. Việc Tòa án xác định Nguyễn Quang Trọng có trách nhiệm bồi thường thiệt
hại trong Bản án số 99 có thuyết phục không? Vì sao?
Việc Tòa án xác định Nguyễn Quang Trọng có trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong Bản án số 99 là hợp lý và thuyết phục. Vì ông Nguyễn Quang Trọng vốn đã ý
thức được tầm quan trọng của việc phòng, chống dịch Covid-19 và trước đó cũng đã
có hành động phòng, chống dịch nhằm bảo vệ bản thân và những người trong công
ty nhưng sau đó ông lại chủ quan triệu tập họp với số lượng 40 người trong không
gian hẹp, yêu cầu nhân viên gỡ bỏ khẩu trang, hành vi này của ông đã trái với quy
định pháp luật, gây ra hậu quả nghiêm trọng với tổng thiệt hại là 11.823.302.738
đồng. Việc xác định từng khoản bồi thường thiệt hại tại phần “Về thiệt hại xảy ra”
tại trang 7 Bản án cũng được nêu ra rõ ràng, chi tiết, đảm bảo quyền lợi đã bị thiệt
hại. Việc xử phạt hành vi của Nguyễn Quang Trọng bằng cách chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại còn mang tính răn đe và phòng ngừa chung.
trong trường hợp : ông này co sphari là nguyên nhân trực tiếp gây bệnh không ? mối
liên hệ nhân quả
Vấn đề 2: Xác định tổn thất về tinh thần được bồi thường
Bản án số 08/2017/DS-ST ngày 30/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện IA Grai
tỉnh Gia Lai.
Nguyên đơn: Bà Vũ Thị Nhị.
Bị đơn: Anh Vũ Minh Hiếu.
Ngày 11/10/2015 tại thôn 4, xã Ia Krái, huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai, anh Hiếu đã
dùng gậy đánh trúng vào tay trái của chị Nhị làm cho chị Nhị bị gãy tay, phải điều
trị tại Bệnh viện Quân Y 15. Với tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương
tích gây nên là 23% căn cứ theo Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số
151/TTPY Trung tâm pháp y tỉnh Gia Lai ngày 08/7/2016. Anh Hiếu phải bồi
thường cho chị Nhị với số tiền 80.440.000 đồng bao gồm chi phí hợp lý về cứu
chữa, bồi dưỡng phục hồi sức khỏe, chức năng bị mất bị giảm sút, thu nhập thực tế,
bù đắp tổn thất về tinh thần của người bị hại, chi phí hợp lý về phần thu nhập thực

Trang 34
tế của người chăm sóc. Thời điểm xảy ra vụ việc anh Hiếu chưa đủ 18 tuổi không
đủ tài sản đền bù vì thế ông Dư, bà Huyền phải bồi thường đủ cho chị Nhị.
Bản án số 26/2017/HSST ngày 29/5/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc.
Bị cáo: Nguyễn Văn A tên gọi khác A Cong
Người bị hại: Chu Văn D
Người đại diện hợp pháp của người bị hại: Chu Văn Đ, Trần Thị E
Do nghi ngờ từ trước phạm nhân Chu Văn D lấy chiếc quần cộc của phạm nhân
Trần Hữu Sáu. 17 giờ 30 phút 23/10/2016, phạm nhân Nguyễn Văn A đã gọi Chu
Văn D, Lý Văn F để hỏi chuyện. Lúc ban đầu cho Chu Văn D không thừa nhận
mình đã lấy chiếc quần mà đến khi các phạm nhân khác làm chứng thì D mới thừa
nhận. Nên Nguyễn Văn A đã dùng chân trái đá trúng vào ngực D, khiến D bất tỉnh.
D được đưa bệnh viện nhưng đã tử vong lúc 18 giờ 25 phút cùng ngày. Hành vi của
A là Cố ý gây thương tích được quy định tại Điều 104 BLHS năm 1999. Và A phải
bồi thường cho D các khoản gồm: chi phí mai táng, mức bồi thường tổn thất về tinh
thần cho người nhà nạn nhân, cấp dưỡng cho con D đến khi đủ 18 tuổi.
Bản án số 31/2019/HS-PT ngày 10/6/2019 của Toà án nhân dân tỉnh Phú Yên.
Bị cáo: Ksor Y Ký

Bị hại: Kpas Hờ Miên

Bị cáo phạm tội “hiếp dâm người dưới 16 tuổi” phải chịu mức phạt tù và chịu bồi
thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm cho người bị hại gồm các chi phí hợp lý,
phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại và một khoản
tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần. Ngoài ra bị cáo còn phải bồi thường thiệt
hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm cho người bị hại. Theo yêu cầu của
người bị hại, bị cáo chỉ bồi thường các chi phí hợp lý và khoản tiền bù đắp tinh thần
do sức khỏe bị xâm phạm là 71.100.000 đồng.

1. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về tổn thất tinh thần
được bồi thường?
BLDS năm 2015 đã bổ sung nhiều điểm mới đặc biệt là việc tăng mức tiền bồi
thường tổn thất về tinh thần. BLDS 2015 đã dùng cụm từ “mức lương cơ sở” thay
cho “tháng lương tối thiểu” để tính mức bù đắp tổn thất về tinh thần.
Về bồi thường tổn thất tinh thần do sức khỏe bị xâm hại:

Trang 35
Về nguyên tắc, mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên tự thỏa
thuận. Tuy nhiên, nếu các bên không thỏa thuận được sẽ theo quy định của pháp
luật. BLDS 2015 quy định nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa bù đắp tổn thất
về tinh thần do sức khỏe bị xâm hại là không quá 50 lần mức lương cơ sở do Nhà
nước quy định (khoản 2 Điều 590 BLDS 2015). Còn BLDS 2005 quy định mức bù
đắp về tinh thần trong trường hợp này là không quá 30 tháng lương tối thiểu do Nhà
nước quy định (khoản 2 Điều 609 BLDS 2005).
Về bồi thường tổn thất tinh thần do tính mạng bị xâm phạm:
Về nguyên tắc, mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên tự thỏa
thuận. Tuy nhiên, nếu các bên không thỏa thuận được sẽ theo quy định của pháp
luật. BLDS 2015 quy định nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa bù đắp về tinh
thần do tính mạng bị xâm phạm là không quá 100 lần mức lương cơ sở do Nhà nước
quy định (khoản 2 Điều 591 BLDS 2015). Còn BLDS 2005 quy định mức bù đắp về
tinh thần trong trường hợp này là không quá 60 tháng lương tối thiểu do Nhà nước
quy định (khoản 2 Điều 610 BLDS 2005).
2. Khả năng bồi thường tổn thất về tinh thần khi tài sản bị xâm phạm trong
một hệ thống pháp luật nước ngoài.
Theo pháp luật Hoa Kỳ, tùy từng bang và từng trường hợp cụ thể mà vấn đề bồi
thường tổn thất về tinh thần cho chủ sở hữu tài sản bị xâm phạm sẽ được chấp nhận
hay không được chấp nhận.

Tòa án nhiều bang đã đặt giới hạn về những người và hoàn cảnh có thể khởi
kiện yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần. Để đảm bảo yêu cầu bồi
thường chính xác, nhiều Tòa án yêu cầu nguyên đơn trình bày biểu hiện thể
chất trực tiếp gây ra bởi những tổn thất về tinh thần. Các biểu hiện thể chất
được xem xét bởi Tòa án ở một số bang bao gồm: giảm cân, mất ngủ, căng
thẳng thần kinh, thay đổi nhân cách, thần kinh, thoái hóa mô, sẩy thai, suy
nhược thần kinh, hoặc tê liệt. Các điều kiện này được đặt ra để hạn chế các
vụ kiện liên quan đến yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần.

Có nhiều trường hợp nếu người có tài sản bị xâm phạm chỉ bị tổn thất về tinh
thần đơn thuần mà không dẫn đến những ảnh hưởng về mặt thể chất thì sẽ
không được bồi thường thiệt hại do tổn thất về tinh thần. Trong vụ City of
Tyler v. Likes, nguyên đơn đã không thể chứng minh rằng cô bị bất kỳ tổn

Trang 36
thương nào về thể chất. Do đó, Tòa án cho rằng “đau khổ tinh thần chỉ dựa
trên thiệt hại tài sản sẽ không được bồi thường”.

Có thể nhận thấy, hầu như Tòa án ở các bang của Hoa Kỳ đều cố gắng hạn
chế sự bồi thường cho những tổn thất về tinh thần không nghiêm trọng. Như
vậy, để được chấp nhận yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần, người yêu
cầu phải đưa ra những chứng cứ để chứng minh sự liên quan đến tinh thần
khi tài sản của mình bị hủy hoại hoặc mất mát phải thực sự nghiêm trọng. 33

3. Theo pháp luật hiện hành, tổn thất về tinh thần khi tài sản bị xâm phạm có
được bồi thường không? Vì sao?
Pháp luật hiện hành có quy định tổn thất về tinh thần khi tài sản bị xâm phạm. Cụ
thể tại các quy định sau:
Điều 589 BLDS 2015 quy định về: “Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm bao gồm:
1. Tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng.
2. Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút.
3. Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại.
4. Thiệt hại khác do luật quy định.”
Điểm b, khoản 1, Điều 204 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định:
Thiệt hại về tinh thần bao gồm các tổn thất về danh dự, nhân phẩm, uy tín,
danh tiếng và những tổn thất khác về tinh thần gây ra cho tác giả của tác
phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; người biểu diễn; tác giả của sáng chế,
kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, giống cây trồng.
Trong BLDS, khi bàn về tài sản bị xâm phạm thì BLDS mới tập trung vào thiệt hại
về vật chất. Trong thực tiễn, khi tài sản bị xâm phạm thì tổn thất về tinh thần hoàn
toàn có thể xảy ra. Sự liệt kê những thiệt hại được bồi thường căn cứ vào đối tượng
bị thiệt hại ở Điều 589 BLDS 2015. Cách thức xác định thiệt hại này có ưu điểm
của nó là dễ áp dụng khi chúng ta đối diện với đối tượng bị xâm phạm. Tuy nhiên,
cách thức này có nhược điểm của nó là vì nó liệt kê nên có thể nó không đầy đủ.
Như vậy có thể thấy pháp luật Việt Nam quy định về tổn thất tinh thần khi tài
sản bị xâm phạm. Tuy nhiên, chế định về vấn đề này còn khá hạn chế không
33
ThS. Nguyễn Tấn Hoàng Hải, “Chứng minh tổn thất về tinh thần khi tài sản bị xâm phạm theo pháp luật
Hoa Kỳ – Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, Chứng minh tổn thất về tinh thần khi tài sản bị xâm phạm
theo Hoa Kỳ (iluatsu.com), truy cập ngày 25/10/2022.

Trang 37
được quy định rõ ràng, còn nhiều bỏ ngỏ, việc áp dụng quy định còn phụ
thuộc khá nhiều vào trình độ của từng thẩm phán, làm ảnh hưởng đến quyền
và lợi ích của bên bị xâm phạm. Khác với những thiệt hại về vật chất, có thể
tính toán một cách cụ thể, chính xác bằng một số phương pháp nhất định thì
tổn thất về tinh thần là những “thiệt hại phi vật chất” mà không thể cân đo,
đong, đếm một cách chính xác. Tuy nhiên, không thể vì vậy mà không thừa
nhận trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần khi những tài sản này bị
xâm phạm, bởi vì mục đích của việc bồi thường tổn thất về tinh thần trong
trường hợp này là nhằm hạn chế, bù đắp một phần những mất mát về tinh
thần của chủ thể có tài sản bị xâm phạm.34
4. Đoạn nào của các bản án cho thấy Toà án đã áp dụng các quy định về tổn
thất tinh thần của BLDS 2015 trong các vụ việc trên?
Bán án số 08
“Xét về mức bù đắp tổn thất về tinh thần thấy rằng:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 609 BLDS 2005 quy định: “mức bồi thường
bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thoả thuận
được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước
quy định.”
Theo quy định tại khoản 2 Điều 590 BLDS 2015 quy định: “mức bồi thường
bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thoả thuận
được thì mức tối đa không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước
quy định.”
Theo quy định tại khoản 3 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật. Hội đồng xét xử sẽ áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 590 BLDS 2015
để xác định mức bù đắp tổn thất về tinh thần.
Xét thấy, sau khi bị Vũ Minh Hiếu đánh gây thương tích tinh thần của bà Nhi
bị khủng hoảng do thương tích và phải đi bệnh viện cấp cứu và điều trị tại
bệnh viện quân y 15. Sau khi điều trị chị Nhi không thể đi làm việc do vết
thương chưa phục hồi hoàn toàn, ảnh hưởng đến thói quen sinh hoạt của bà
Nhi và gia đình vì vậy Hội đồng xét xử nhận thấy yêu cầu mức bù đắp tổn
thất về tinh thần cho bà Nhi là 24.200.000 đồng tương đương 2 tháng lương
tối thiểu là có căn cứ.”

34
Nguyễn Tấn Hoàng Hải, Bồi thường tổn thất về tinh thần khi tài sản bị xâm phạm - Kinh nghiệm pháp luật
nước ngoài, Tạp chí khoa học pháp lý 08(111)/2017.

Trang 38
Bản án số 26
“Do bị cáo Nguyễn Văn A thực hiện hành vi cướp đoạt tính mạng của người
bị hại nên người đại diện hợp pháp của người bị hại yêu cầu bồi thường có
căn cứ, phù hợp với pháp luật. Trong vụ án này, những khoản tiền pháp luật
quy định bị cáo Nguyễn Văn A phải bồi thường cho gia đình người bị hại
Chu Văn D bao gồm: Tiền chi phí mai táng cho gia đình người bị hại; Tiền
bồi thường tổn thất tinh thần do tính mạng bị xâm phạm cho gia đình người
bị hại; Tiền cấp dưỡng con chưa thành niên của người bị hại Chu Văn D…
Tiền bồi thường tổn thất về tinh thần do tính mạng bị xâm phạm cho gia đình
người bị hại là 100.000.000 đồng.”
Bán án số 31
“Trong trường hợp này theo quy định tại Điều 590, BLDS 2015, thì người
gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại các khoản, gồm: Chi phí
hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị
mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại; Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực
tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị, và
một khoản tiền khác để bù đắp tổn thương tinh thần mà người bị hại phải
gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa
thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe
bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy
định.”
5. Cho biết suy nghĩ của anh chị về việc Toà án không áp dụng BLDS 2005 mà
áp dụng BLDS 2015 trong các vụ việc trên liên quan đến tổn thất tinh thần.
Việc Tòa án áp dụng BLDS 2015 trong các vụ việc trên liên quan đến tổn thất tinh
thần là hoàn toàn hợp lý. BLDS năm 2015 có quy định mới theo hướng tăng mức
bồi thường tổn thất về tinh thần khi người có tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín... bị xâm phạm.
Về mức bồi thường bù đắp tổn thất tinh thần do các bên thỏa thuận, nếu các bên
không có thỏa thuận thì được giải quyết theo quy định của BLDS năm 2015, cụ thể
như sau:
Về thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm, mức tối đa cho một người có sức khỏe bị
xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định tại
khoản 2 Điều 590 BLDS năm 2015 (Điều 609 BLDS năm 2005 quy định tối đa
không quá 30 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định)
Về thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm, mức tối đa cho một người có tính mạng
bị xâm phạm không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định tại
Trang 39
khoản 2 Điều 591 BLDS năm 2015 (Điều 610 BLDS năm 2005 quy định tối đa
không quá 60 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định)
Về thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm, thì mức tối đa cho
một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức
lương cơ sở do Nhà nước quy định theo khoản 2 Điều 592 BLDS 2015.
Về thiệt hại do xâm phạm thi thể, mức tối đa đối với mỗi thi thể bị xâm phạm
không quá ba mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định theo khoản 3 Điều
606 BLDS 2015.
Về thiệt hại do xâm phạm mồ mả, mức tối đa đối với mỗi mồ mả bị xâm phạm
không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định theo khoản 3 Điều 607
BLDS năm 2015.
Như đã nêu trên, với những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về bồi
thường tổn thất tinh thần. Thấy rõ, những quy định mới của BLDS 2015 đã nâng
cao mức bồi thường thiệt hại nhiều hơn so với những quy định cũ. Từ đó ta thấy
rằng, các nhà làm luật đã nhận thức và chú trọng hơn sự quan trọng của việc bảo
đảm quyền và lợi ích của người bị xâm phạm khi bị tổn thất tinh thần.
6. Trong Bản án số 31, đoạn nào cho thấy người bị hại vừa bị xâm phạm về sức
khoẻ vừa bị xâm phạm về danh dự, nhân phẩm?
Trích phần Nhận định của Bản án số 31:

“[2.2] Về mức bồi thường thiệt hại: bị cáo đã thực hiện hành vi hiếp dâm làm
rách màng trinh của người bị hại, khi người bị hại mới 14 tuổi 02 tháng 25
ngày, là đã xâm phạm đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người bị
hại…”
7. Theo Toà án trong Bản án số 31, thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm và thiệt
hại do danh dự, nhân phẩm bị xâm phạm có được kết hợp với nhau không?
Theo Toà án trong Bản án số 31, thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm và thiệt hại do
danh dự, nhân phẩm bị xâm phạm được kết hợp với nhau, cụ thể trách phần Nhận
định của Bản án số 31:

“[2.2]…Mặt khác, ngoài quy định mức bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị
xâm phạm tại Điều 590 Bộ luật Dân sự năm 2015 như trên, thì bị cáo còn
phải bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm cho
người bị thiệt hại một khoản tiền tại điều 592 bộ luật dân sự năm 2015 quy
định, nhưng quá mười lần mức lương cơ sở.”

Trang 40
Theo đó người gây thiệt hại phải chịu kết hợp 2 trách nhiệm bồi thường, không chỉ
bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm các chi phí hợp lý, thu nhập
thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hai trong thời gian phục hồi và một
khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần mà kèm theo đó phải chịu trách nhiệm bồi
thường do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.

8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án trong Bản án số
31 về khả năng kết hợp các loại thiệt hại khi nhiều yếu tố nhân thân của một
chủ thể cùng bị xâm phạm.
Theo nhóm, hướng giải quyết trên của Tòa án trong Bản án số 31 về khả năng kết
hợp các loại thiệt hại khi nhiều yếu tố nhân thân của một chủ thể cùng bị xâm phạm
trên là thuyết phục.

Cụ thể trong trường hợp này Tòa án đã giải quyết theo hướng kết hợp bồi thường
thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm và bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm,
uy tín bị xâm phạm. Bởi lẽ, thứ nhất, trong trường hợp này khi một người bị xâm
hại trái với ý muốn của họ đã gây ra tổn thất về tinh thần khiến họ sợ hãi ảnh hưởng
đến tâm lý. Bên cạnh đó còn ảnh hưởng đến danh dự của bản thân, gia đình người bị
thiệt hại gây tổn thất nặng nề về tinh thần.. Đó là danh dự nhân phẩm uy tín bị xâm
phạm, về sức khỏe thì khi bị xâm hại người bị thiệt hại có kháng cự nhưng do sức
yếu và bị người gây thiệt hại dùng vũ lực để khống chế gây tổn thất về thể xác. Thứ
hai, theo Điều 585 BLDS 2015 tại khoản 1 thì người gây thiệt hại phải chịu trách
nhiệm toàn bộ và kịp thời đối với thiệt hại gây ra do đó trong trường hợp trên thiệt
hại gây ra không chỉ có sức khỏe mà cả nhân phâm, danh dự uy tín của nạn nhân. Vì
vậy bị cáo phải chịu toàn bộ trách nhiệm bồi thường thiệt hại do mình gây ra.

Vấn đề 3: Thay đổi mức bồi thường đã được ấn định


Tình huống:
Nghĩa vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ gây thiệt
hại cho bà Muối. Sau khi thương lượng khắc phục hậu quả với số tiền 60.000.000đ,
phía bị thiệt hại đã cam kết “bãi nại về dân sự không yêu cầu thắc mắc khiếu nại gì
về sau”, “không yêu cầu khiếu nại gì về sau”. Tuy nhiên, nay phía bị thiệt hại yêu
cầu bồi thường thêm 70.000.000đ, chi phí điều trị phát sinh phải thay khớp.

Trang 41
1. Những khác biệt cơ bản giữa thay đổi mức bồi thường không còn phù hợp
với thực tế và giảm mức bồi thường do thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh
tế.

Thay đổi mức bồi thường không Giảm mức bồi thường do thiệt hại
còn phù hợp với thực tế (khoản 3 quá lớn so với khả năng kinh tế
Điều 585 BLDS 2015) (khoản 2 Điều 585 BLDS 2015)

Hoàn + Khi mức bồi thường không còn + Khi người chịu trách nhiệm bồi
cảnh phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt thường thiệt hại không có lỗi hoặc
áp hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so
dụng yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà với khả năng kinh tế của mình.
nước có thẩm quyền khác thay đổi
mức bồi thường.

+ Một Khi mức bồi thường đã được


ấn định thì phải được các chủ thể
liên quan tuân theo, tuy nhiên sau
một thời gian mức ấn định đó không
còn phù hợp trong thực tế nữa.

Yếu Không đề cấp tới yếu tố lỗi. + Không có lỗi hoặc có lỗi vô ý.
tố lỗi + Ở BLDS 2005 có quy định người
gây thiệt hại được giảm mức bồi
thường do lỗi vô ý. Bộ luật dân sự
2015 đã bổ sung thêm trong yếu tố
lỗi là “không có lỗi”.

Trang 42
Ví dụ A chịu trách nhiệm bồi thường phải Về mức giảm là giảm bao nhiêu
thực cấp dưỡng cho B Tòa án ấn định về Luật không cho biết.
tiễn mức cấp dưỡng là 500.000 đồng 1
Trong thực tế, Tòa án đã theo
tháng vào năm 2015, tuy nhiên 5
hướng giảm 30% trong một vụ việc
năm sau nó không còn phù hợp với
một nhà cháy lan cho nhà hàng
nhu cầu cuộc sống. Các chủ thể liên
xóm.
quan có thể yêu cầu tăng hoặc giảm
mức bồi thường đó cho phù hợp.

2. Nêu rõ từng điều kiện được quy định trong BLDS để thay đổi mức bồi
thường không còn phù hợp với thực tế.
Cơ sở pháp lý: khoản 3 Điều 585 BLDS 2015 quy định: “Khi mức bồi thường
không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền
yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi
thường.”

Thứ nhất, phải xảy ra hoàn cảnh mức bồi thường đó không còn phù hợp với
thực tế nữa, các bên có thể chứng minh bằng nhiều cách như giá cả mọi thứ tăng,
khi phát sinh thêm phí điều trị, v..v..

Thứ hai, về chủ thể yêu cầu thay đổi mức bồi thường khi không còn phù hợp
với thực tế, có thể xuất phát từ người bị thiệt hại hoặc có thể xuất phát từ người
chịu trách nhiệm bồi thường tùy vào hoàn cảnh. Tuy nhiên trong thực tế thường là
từ phía người bị thiệt hại và yêu cầu tăng mức bồi thường.

Thứ ba, về mức bồi thường cần thay đổi, thường sẽ do Tòa án hoặc cơ quan nhà
nước có thẩm quyền khác ấn định. Tuy nhiên BLDS 2015 cũng không giới hạn là
phải do Tòa án mà đó có thể là do các bên thỏa thuận với nhau. Khi thỏa thuận
không được thì các bên có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm
quyền khác thay đổi mức bồi thường.

Ví dụ: các bên đã thỏa thuận xong về mức bồi thường, nhưng sau đó gia đình nạn
nhân, gia đình người bị hại thấy rằng mức thỏa thuận đó không còn phù hợp với
thực tế nữa thì lúc đó người bị hại, gia đình người bị hại có thể yêu cầu thay đổi
mức bồi thường đó sao cho phù hợp với thực tế.

Trang 43
Thứ tư, về số lần được yêu cầu thay đổi mức bồi thường, BLDS 2015 chỉ đề cập
đến là “khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế” còn số lần thì BLDS
2015 chưa nói rõ. Về mặt lý thuyết, thì mức bồi thường 1 khi đã ấn định rồi thì hoàn
toàn có thể thay đổi tiếp, vậy ở đây ta có thể hiểu không giới hạn về số lần được yêu
cầu thay đổi mức bồi thường khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế.

3. Trong tình huống nêu trên, yêu cầu bồi thường thêm 70.000.000đ của phía bị
thiệt hại có được chấp nhận không? Vì sao?
Trong tình huống nêu trên, yêu cầu bồi thường thêm 70.000.000đ của phía bị thiệt
hại được chấp nhận. Bởi vì:

Cơ sở pháp lý:

+ khoản 3 Điều 585 BLDS 2015 quy định: “Khi mức bồi thường không còn phù
hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án
hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.”

+ Mục 1.1 phần II về xác định thiệt hại trong NQ số 03/2006/NQ- HĐTP có quy
định về “Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm” như sau:

Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức
năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại bao gồm: Tiền thuê phương
tiện đưa người bị thiệt hại đi cấp cứu tại cơ sở y tế; tiền thuốc và tiền mua
các thiết bị y tế, chi phí chiếu, chụp X-quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét
nghiệm, mổ, truyền máu, vật lý trị liệu... theo chỉ định của bác sỹ; tiền viện
phí; tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe cho
người bị thiệt hại theo chỉ định của bác sĩ; các chi phí thực tế, cần thiết khác
cho người bị thiệt hại (nếu có) và các chi phí cho việc lắp chân giả, tay giả,
mắt giả, mua xe lăn, xe đẩy, nạng chống và khắc phục thẩm mỹ… để hỗ trợ
hoặc thay thế một phần chức năng của cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút của
người bị thiệt hại (nếu có).

Đầu tiên, khi thương lượng khắc phục hậu quả với số tiền 60.000.000đ, phía bị thiệt
hại đã cam kết “bãi nại về dân sự không yêu cầu thắc mắc khiếu nại gì về sau”,
“không yêu cầu khiếu nại gì về sau”. Tuy nhiên, nay bên phía bị thiệt hại có chi phí
điều trị phát sinh phải thay khớp.

Việc điều trị phải thay khớp là thiệt hại của bà Muối do Nghĩa đã gây ra cho bà
Muối và số tiền 60.000.000đ đã cam kết lúc trước bây giờ không đủ để chi trả hết

Trang 44
những thiệt hại của bà Muối bởi vì phát sinh chi phí thay khớp chi phí thay khớp
được xem là chi phí hợp lý theo mục 1.1 phần II về xác định thiệt hại trong NQ số
03/2006/NQ- HĐTP. Vậy xét theo tình trạng hiện tại của bà Muối thì hoàn toàn có
thể áp dụng khoản 3 điều 585 bộ luật dân sự 2015 vì thực tế hiện nay thì gia đình bà
muối phải trả thêm số tiền để bàn có thể điều trị thay khớp nên số tiền 60.000.000đ
không còn đủ để chi trả nữa. Như vậy, hoàn toàn có đủ cơ sở để yêu cầu bồi thường
thêm 70.000.000đ của phía bị thiệt hại (bà Muối) được chấp nhận.

Vấn đề 4: Xác định người có trách nhiệm bồi thường (cùng gây thiệt hại)
Bản án số 19/2007/DSST ngày 16/4/2007 của Tòa án nhân dân Thành phố
Pleiku-tỉnh Gia Lai;
Nguyên đơn: chị Trương Thị Thu Hiền; bà Nguyễn Thị Kim Khánh.
Các bị đơn: anh Ngô Văn Lễ; chị Nguyễn Thị Thanh Hà; anh Nguyễn Nam Hải.
Ngày 23/2/2001, chị Trương Thị Tám bán hàng và có xả rác bừa bãi trước nhà anh
Ngô Văn Lễ nên vợ chồng anh Lễ yêu cầu chị Tám dọn rác và không được bán
hàng trước nhà anh nhưng chị Tám không nghe và có thái độ xúc phạm; dẫn đến hai
bên xảy ra xô xát. Đến 18h cùng ngày, anh Hải (em vợ anh Lễ) đến mua thuốc lá
nhà chị Hiền; hai bên giằng co với nhau dẫn đến bể một số trứng và gãy hai chiếc
ghế gỗ của bà Khánh. Nay bà Khánh được chị Hiền ủy quyền yêu cầu ông Lễ, bà
Hà và ông Hải phải bồi thường tiền cơm thuốc, tiền công lao động cho người chăm
sóc, khoản thu nhập bị mất của chị Hiền, và bồi thường thiệt hại về tài sản.
Quyết định của Tòa án: Bác toàn bộ yêu cầu của chị Trương Thị Thu Hiền về việc
kiện đòi anh Ngô Văn Lễ, chị Nguyễn Thị Thanh Hà và anh Nguyễn Nam Hải phải
bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm. Chấp nhận một phần đơn khởi kiện
của bà Nguyễn Thị Kim Khánh.

Quyết định số 226/2012/DS-GĐT ngày 22/5/2012 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao.
Nguyên đơn: Bà Trần Thị Hộ
Đồng bị đơn: Bà Nguyễn Huệ Lan (Trần Thị Lan), ông Trần Thúc Bảo và các đồng
bị đơn khác.
Bà Hộ đã chửi gia đình ông Bảo nên ông Bảo cho các con đánh bà Hộ. Bà Lan là
người trực tiếp đánh và gây hậu quả khiến bà Hộ hỏng mắt. Bà Hộ đã khởi kiện yêu
cầu các đồng bị đơn có trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại cho bà. Bà Lan
thừa nhận thương tích của bà Hộ là do bà gây ra, các đồng bị đơn khác không đánh
bà Hộ. Tòa Sơ thẩm và Phúc thẩm chỉ quy trách nhiệm bồi thường cho bà Lan và

Trang 45
không xem xét kỹ từng khoản chi phí phải bồi thường. Tòa Giám đốc thẩm xét thấy
ông Bảo cũng có trách nhiệm liên đới với bà Lan để bồi thường cho bà Hộ nên đã
quyết định hủy hai bản án nêu trên.
1. Trong phần “trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” của BLDS,
trách nhiệm dân sự liên đới bồi thường thiệt hại phát sinh trong những trường
hợp nào?
Xuất phát từ nguyên tắc người nào gây thiệt hại người đó phải bồi thường nên để có
nhiều người cùng gây ra thiệt hại thì mỗi người phải bồi thường theo phần thiệt hại
mà mình đã gây ra. Điều 620 Bộ luật dân sự 2005 quy định : “Trong trường hợp
nhiều người cùng gây thiệt hại thì những người đó phải liên đới bồi thường cho
người bị hại..”
Căn cứ làm phát sinh trách nhiệm liên đới :Theo quy định tại Điều 587 Bộ luật Dân
sự 2015 về Bồi thường thiệt hại do nhiều người cùng gây ra: “Trường hợp nhiều
người cùng gây thiệt hại thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị
thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của từng người cùng gây thiệt hại được xác định
tương ứng với mức độ lỗi của mỗi người; nếu không xác định được mức độ lỗi thì
họ phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau.”
Như vậy, theo BLDS thì trách nhiệm dân sự liên đới bồi thường thiệt hại phát sinh
trong trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại.
Thứ nhất, cùng gây thiệt hại, Trách nhiệm bồi thường liên đới chỉ phát sinh
đối với thiệt hại do nhiều người gây ra khi nhiều người này cùng gây thiệt hại.
Thứ hai, “Khi Thiệt hại phát sinh xuất phát từ sự thống nhất ý chí của nhiều
người thì đây là trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại và làm phát sinh trách
nhiệm liên đới” 35. Theo hướng của 1 số nhà bình luận khác lại theo hướng : “ Hành
vi cùng gây thiệt hại có thể cùng ý chí nhưng cũng có thể không cùng ý chí vì vậy
yếu tố cùng ý chí không phải là yếu tố bắt buộc”36.
2. Trong Bản án số 19, bà Khánh bị thiệt hại trong hoàn cảnh nào? Có xác
định chính xác được người gây thiệt hại cho bà Khánh không?
Thiệt hại tài sản của bà Khánh do xô xát giữa chị Tám và anh hiền với anh Hải đã
dẫn đến hai chiếc ghế gỗ bị gãy chân và các loại bánh trứng tại quán bà Khánh bị đổ
bể trong quá trình xô xát.
Tuy nhiên không xác định rõ ai là người gây thiệt hại cho bà Khánh do tình hình lúc
đó khá rối vì xảy ra xô xát, giằng co giữa anh Hải, chị Hiền và chị Tám nên không

35
Đỗ Văn Đại (2018), Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận
bản án, Nxb. Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam, tr. 797.
36
Hoàng Thế Liên, Bình luận khoa học bộ luật dân sự năm 2005, Nxb. TCQG, tập II, tr747.
Trang 46
xác định được ai là người làm gãy ghế, bể trứng, các loại bánh khác được. Do đó,
buộc những người này phải liên đới chịu trách nhiệm bồi thường cho bà Khánh.
3. Đoạn nào của Bản án số 19 cho thấy Tòa án đã theo hướng chị Tám, chị
Hiền và anh Hải liên đới bồi thường?
Tại đoạn 5 phần Xét thấy của bản án đã nêu:
“…xét thiệt hại về tài sản của bà Khánh do xô xát giữ chị Tám, chị Hiền với
anh Hải đã dẫn đến hai chiếc ghế gỗ bị gãy chân và các loại bánh, trứng tại
quán bàn Khánh bị đổ, bể trong quá trình xô xát là có thật. Do vậy, cần buộc
những người này liên đới bồi thường cho bà Khánh…”
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết nêu trên của Tòa án về trách
nhiệm liên đới.
Khó có thể xác định là bánh, trứng và 2 chiếc ghế gỗ là do hành vi của cả ba người
và có nhiều khả năng thiệt hại chỉ do một trong ba người gây ra. Tòa án xem xét
phần trách nhiệm của anh Hải và buộc anh Hải bồi thường thiệt hại về tài sản cho bà
Khánh bằng 1/3 số tiền đã yêu cầu là 267000₫ là hợp lý vì trong quá trình xảy ra xô
xát giữa chị Tám với chị Hiền với anh Khánh đã dẫn tới thiệt hại cho bà Khánh. Do
vậy cần phải buộc những người này liên đới bồi thường cho bà Khánh mà không
buộc anh Hải bồi thường toàn bộ số tiền .Trong trường hợp này do xô xát giữa chị
Tám, chị Hiền và anh Hải đã dẫn tới thiệt hại cho chị Khánh do đó những người
cùng nhau thực hiện hành vi làm phát sinh hậu quả cho chị Khánh thì phải chịu
trách nhiệm bồi thường. Khi nhiều người cùng gây thiệt hại thì tòa án buộc phải
trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại và nếu không quy trách nhiệm liên đới thì
quyết định của tòa án là trái với quy định pháp luật .
5. Trong Quyết định số 226, ai là người trực tiếp gây thiệt hại cho bà Hộ?
Trong Quyết định số 226, bà Lan là người trực tiếp gây thiệt hại cho bà Hộ.
“Bị đơn là bà Trần Thị Lan trình bày: Bà thừa nhận thương tích của bà Hộ là
do bà gây ra, các đồng bị đơn khác không đánh bà Hộ…”
“Ngày 13/9/2003, bà Trần Thị Hộ đã bị bà Nguyễn Huệ Lan đánh vào mặt
gây thương tích ở mắt trái làm cho bà Hộ bị loét giác mạc mắt trái và phải
khoét bỏ nhãn cầu mắt trái.”
6. Trong Quyết định số 226, ai là người phải liên đới bồi thường thiệt hại cho
bà Hộ?
Trong Quyết định số 226, ông Bảo là người phải liên đới bồi thường thiệt hại cho bà
Hộ. Vì ông Bảo là người đã khởi xướng kêu các con (trong đó có bà Lan) đánh bà
Hộ, gây ra hậu quả là bà Hộ bị chấn thương mắt trái.

Trang 47
“... Hành vi trực tiếp gây ra thương tích cho bà Hộ là Nguyễn Huệ Lan, song
cũng cần phải xem xét trách nhiệm dân sự của người khởi xướng trong vụ án
cố ý gây thương tích là ông Trần Thúc Bảo, người đã kêu các con đánh bà
Hộ, việc bà Hộ bị thương tích dẫn đến hỏng mắt có quan hệ nhân quả của
ông Bảo. Do đó cần buộc ông Bảo phải chịu trách nhiệm dân sự cùng với
Nguyễn Huệ Lan…”
7. Hướng giải quyết trong Quyết định số 226 đã có tiền lệ chưa? Nếu có, nêu
tóm tắt tiền lệ đó.
Hướng giải quyết trong Quyết định số 226 đã có tiền lệ. Cụ thể:
Quyết định số 114/2006/DS-GĐT ngày 26/05/2006 của Toà án dân sự Toà
án nhân dân tối cao.
Căn cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận ông An là người chủ
mưu, khởi xướng, rủ rê con cháu cùng gây thương tích cho Hiền. Tại đơn
khởi kiện, anh Hiền yêu cầu ông An phải bồi thường thiệt hại, do đó theo
quy định của Bộ luật Dân sự thì ông An là người có lỗi cố ý cùng gây thiệt
hại nên phải có nghĩa vụ liên đới bồi thường cho anh Hiền. Anh Hiền có thể
khởi kiện yêu cầu một trong những người cùng gây thiệt hại phải bồi thường.
Cùng tham gia gây thương tích cho anh Hiền còn có anh Bằng (con trai ông
An), sau khi gây thương tích cho anh Bằng anh An đã bị chết nên anh Hiền
chỉ khởi kiện ông An bồi thường. Vì vậy, căn cứ vào đơn khởi kiện, Tòa án
cấp sơ thẩm xác định ông An là bị đơn dân sự là đúng.37
8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến
trách nhiệm liên đới.
Theo nhóm, hướng giải quyết trên của Tòa án là hợp lý, đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của bà Hộ.
Điều 587 BLDS 2015:
Trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì những người đó phải liên đới
bồi thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của từng người
cùng gây thiệt hại được xác định tương ứng với mức độ lỗi của mỗi người;
nếu không xác định được mức độ lỗi thì họ phải bồi thường thiệt hại theo
phần bằng nhau.
Nhiều chủ thể được xem là cùng gây thiệt hại khi họ có sự thống nhất về ý
chí, hành vi, hậu quả trong việc gây thiệt hại. Quy định tại Điều 587 BLDS
2015 không nên được hiểu là nhiều chủ thể phải cùng đồng thời thực hiện
hành vi gây thiệt hại cho người khác, mà theo đó, các hành vi có thể không

37
Đỗ Văn Đại, tlđd(3), tr.789.
Trang 48
được thực hiện đồng thời mà có thể được thực hiện kế tiếp nhau xét theo thời
gian, nhưng giữa chúng có mối quan hệ nhân quả với nhau: hành vi của
người sau là hậu quả tất yếu do hành vi của người trước, và vì vậy, họ phải
liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.38
Tòa Giám đốc thẩm cũng nhận định rằng:
“... Hành vi trực tiếp gây ra thương tích cho bà Hộ là Nguyễn Huệ Lan, song
cũng cần phải xem xét trách nhiệm dân sự của người khởi xướng trong vụ án
cố ý gây thương tích là ông Trần Thúc Bảo, người đã kêu các con đánh bà
Hộ, việc bà Hộ bị thương tích dẫn đến hỏng mắt có quan hệ nhân quả của
ông Bảo…”
Theo đó, hành vi khởi xướng, kêu các con đánh bà Hộ của ông Bảo có thể được
xem là nguyên nhân dẫn đến hành vi bà Lan trực tiếp đánh bà Hộ. Có thể thấy, hành
vi khởi xướng của ông Bảo có mối quan hệ nhân quả với hành vi trực tiếp đánh bà
Hộ của bà Lan, gây nên thiệt hại làm hỏng mắt của bà Hộ. Như vậy, ông Bảo cũng
có một phần lỗi trong việc gây thiệt hại hỏng mắt của bà Hộ và phải liên đới với bà
Lan chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà Hộ. Trách nhiệm liên đới bồi
thường sẽ được thực hiện theo Điều 288 BLDS 2015.
9. Bản án số 19, bà Khánh đã yêu cầu bồi thường bao nhiêu và yêu cầu ai bồi
thường?
Trong bản án số 19, bà Khánh yêu cầu bồi thường 14.000.000 đồng (bao gồm tiền
cơm thuốc, tiền công lao động cho người chăm sóc, khoản thu nhập bị mất của chị
Hiền và bồi thường thiệt hại về tài sản) và yêu cầu ông Lễ, bà Hà và ông Hải phải
bồi thường.
10. Bản án số 19, Tòa án đã quyết định anh Hải bồi thường bao nhiêu?
Trong bản án số 19, Tòa án đã quyết định anh Hải bồi thường thiệt hại về tài sản
cho bà Khánh bằng ⅓ số tiền bà yêu cầu bồi thường là 267.000 đồng.
11. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến anh
Hải.
Về yêu cầu bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm, giữa anh Hải và chị
Hiền, chị Tám có xảy ra xô xát, vật lộn với nhau nhưng việc này không xác định
được việc anh Hải là người gây ra thiệt hại về sức khỏe cho chị Hiền. Bởi, không có
cơ sở chính xác nào để xác định anh Hải là người gây thương tích cho chị Hiền; cả
chị Tám và chị Hiền đều không xác định được ai là người đánh trực tiếp. Các lời
khai cũng khác nhau và có nhiều mâu thuẫn; hơn nữa, sau vụ việc đến 10 ngày thì

38
Trường Đại học Luật TP. HCM (2021), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng (tái bản lần thứ 1, có sửa đổi và bổ sung), Nhà xuất bản Hồng Đức, tr.389.
Trang 49
chị Hiền mới nhập viện và bà Khánh (người được chị Hiền ủy quyền) không cung
cấp được chứng cứ để chứng minh anh Hải là người gây ra thương tích cho chị
Hiền. Như vậy, Tòa án không chấp nhận yêu cầu của chị Hiền về bồi thường thiệt
hại do sức khỏe bị xâm phạm là thuyết phục.
Về yêu cầu bồi thường thiệt hại tài sản, do xô xát giữa anh Hải và chị Hiền, chị Tám
nên dẫn đến 2 chiếc ghế gỗ bị gãy và các loại bánh, trứng của bà Khánh bị đổ, bể,...
Do vậy, yêu cầu của bà Khánh là có căn cứ. Như vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt
hại tài sản cho bà Khánh thuộc về trách nhiệm của cả ba căn cứ theo Điều 587
BLDS 2015. Nhưng bà Khánh chỉ yêu cầu anh Hải thực hiện trách nhiệm bồi
thường nên anh Hải phải chịu ⅓ số tiền gây thiệt hại là 267.000 đồng. Hướng giải
quyết của Tòa án chưa thực sự thuyết phục. Tòa án cần phải xác định mức độ gây
thiệt hại của mỗi người để đưa ra mức bồi thường tương ứng, chứ không phải chia
đều mức bồi thường dẫn đến ảnh hưởng quyền lợi của người chịu tổn thất, ở đây là
bà Khánh.

BUỔI THẢO LUẬN THỨ BẢY : BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP
ĐỒNG (phần chung)

Vấn đề 1: Bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên gây ra.

1. Khi nào cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên gây ra?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Cơ sở pháp lý:

+ Khoản 2 Điều 586 BLDS 2015:

Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải
bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường
mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi
thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật
này.

Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải
bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì
cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.

+ Khoản 2 Điều 606 BLDS 2005:


Trang 50
Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì
cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ
để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài
sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 621
của Bộ luật này.

Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải
bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì
cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
Cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên gây ra khi:
- Người chưa đủ 15 tuổi mà gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi
thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ mà con chưa thành niên
gây ra thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu.
- Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài
sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần
còn thiếu bằng tài sản của mình.

*Đối với tình huống.


2. Tòa án có thể buộc cha mẹ của Hùng bồi thường cho anh Bình thiệt hại do
sức khỏe bị xâm phạm không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Cơ sở pháp lý:

+ Khoản 1 Điều 584 BLDS 2015: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người
khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có
liên quan quy định khác”.

+ Khoản 2 Điều 586 BLDS 2015:

Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải
bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường
mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi
thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật
này.

Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải
bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì
cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.

Trang 51
Trước tiên, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định tại
khoản 1 Điều 584: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây
thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy
định khác”. Hùng đánh Bình là có hành vi trái pháp luật xâm phạm tính mạng, sức
khoẻ của Bình, gây ra thiệt hại vì Bình tốn chi phí chữa trị là 10 triệu đồng và có
quan hệ nhân quả là vì Hùng đánh Bình nên Bình mới bị thiệt hại. Như vậy, có căn
cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Tuy nhiên, Toà có thể buộc cha mẹ Hùng bồi thường cho Bình. Hùng – 16 tuổi là
người chưa thành niên từ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi nên theo quy định tại khoản 2
Điều 586 thì trách nhiệm bồi thường là của Hùng, cha mẹ chỉ bồi thường phần còn
thiếu nên nhưng Hùng không có tài sản để bồi thường nên Toà có thể buộc cha mẹ
Hùng bồi thường thay cho Hùng.

3. Tòa án có thể buộc cha mẹ Hùng bồi thường cho anh Hùng giá trị chiếc đồng
hồ và chiếc xe đạp không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho biết hướng giải
quyết trong thực tiễn xét xử đối với hoàn cảnh tương tự.

Cơ sở pháp lý:

+ Khoản 1 Điều 584 BLDS 2015: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người
khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có
liên quan quy định khác.”

+ Khoản 1 Điều 589 BLDS 2015: “Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm bao gồm (1).
Tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng.”
Tương tự như câu trên, theo quy định tại khoản 1 Điều 584, thì có căn cứ phát sinh
trách nhiệm bồi thường là có hành vi có vi phạm pháp luật gây thiệt hại (trộm cắp),
gây ra thiệt hại là là anh Bình bị Hùng lấy mất đồng hồ và xe đạp, có mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi và hậu quả.
Hùng lấy chiếc đồng hồ của Bình đem bán cho người đi đường thì không thể tìm lại
được chiếc đồng hồ nên có thể coi đây là thiệt hại do tài sản bị mất theo khoản 1
Điều 589, Toà án buộc cha mẹ Hùng bồi thường giá trị chiếc đồng hồ vì Hùng
không có tài sản để chịu trách nhiệm bồi thường.
Đối với chiếc xe đạp, vì chiếc xe đạp đã được gửi nhờ ở nhà người bạn của Hùng
nên không bị mất, chỉ cần yêu cầu người bạn đó hoàn trả chiếc xe cho Bình. Nếu

Trang 52
trong trường hợp chiếc xe đạp bị Hùng làm hư hỏng thì cha mẹ Hùng bồi thường vì
Hùng không có tài sản để chịu trách nhiệm bồi thường.
Trong thực tiễn xét xử, Quyết định số 04/HĐTP-HS ngày 23-3-2004 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cũng theo hướng tương tự. Hùng từ khi trốn trại
đến khi bị bắt lại đã gây ra 10 vụ trộm cắp, giá trị tài sản chiếm đoạt được là trên 28
triệu đồng. Tại bản án sơ thẩm, tòa đã buộc ông Xuất và bà Xuân là bố, mẹ của
Hùng bồi thường cho những người bị hại số tiền là 4.332.000 đồng, đồng thời buộc
ông Xuất và bà Xuân phải nộp số tiền 7.570.000 đồng thu lợi bất chính để xung quỹ
nhà nước. Tuy nhiên, Hội đồng Thẩm phán hủy quyết định sơ thẩm với căn cứ rằng
“tài sản mà bị cáo chiếm đoạt được chưa được thu hồi trả cho người bị hại đã được
Tòa án các cấp giải quyết buộc bố mẹ bị cáo phải bồi thường”. Như vậy, theo Hội
đồng Thẩm phán, cha mẹ không phải bồi thường giá trị tài sản khi tài sản này vẫn
còn khả năng thu hồi.

4. Tòa án có thể buộc cha mẹ Hùng nộp ngân sách nhà nước khoản tiền 7 triệu
đồng mà Hùng có được do lấy trộm tài sản trong chợ không? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời và cho biết hướng giải quyết trong thực tiễn xét xử đối với hoàn
cảnh tương tự.

Cơ sở pháp lý:

+ Khoản 1 Điều 584 BLDS 2015: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người
khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có
liên quan quy định khác.”
Toà án không thể buộc cha mẹ Hùng nộp ngân sách nhà nước khoản tiền 7 triệu
đồng mà Hùng có được do lấy trộm. Vì trách nhiệm bồi thường thiệt hại là trách
nhiệm giữa người gây ra thiệt hại với người bị thiệt hại. Nên cha mẹ Hùng có thể
dùng số tiền đó để bồi thường cho những người ở chợ mà Hùng đã lấy trộm đồ. Căn
cứ theo khoản 1 Điều 584.
Trong thực tiễn xét xử hướng giải quyết của Tòa án không đồng ý việc buộc cha mẹ
của người chưa thành niên phạm tội nộp vào ngân sách Nhà nước khoản tiền mà
người chưa thành niên phạm tội lấy hoặc trộm cắp. Cụ thể trong quyết định số
04/HĐTP-HS ngày 23/02/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Võ Tiến Hùng đã gây ra 10 vụ trộm cắp trong đó có 2 vụ trộm cắp tài sản. Giá trị tài
sản của công dân bị chiếm đoạt là 2.700.000 đồng. Những tài sản có giá trị bao
gồm: 2 xe máy, 1 đầu video, 4 điện thoại bàn…Hùng đã bán cho bà Phương và một
số nơi khác được 7.570.000 đồng. Tại bản án sơ thẩm Tòa án Nhân dân tỉnh Quảng
Trang 53
Trị đã buộc ông Xuất, bà Xuân phải nộp số tiền 7.570.000 đồng mà Hùng thu lợi
bất chính vào quỹ Nhà nước. Tuy nhiên tại bản án phúc thẩm của Tòa phúc thẩm
Tòa án nhân dân tối cao tỉnh Đà Nẵng đã nêu: “Hùng khi phạm tội và khi xét xử
chưa đủ 18 tuổi và không có tài sản riêng nên buộc bố mẹ bị cáo phải nộp số tiền
7.570.000 đồng do bị cáo chiếm hưởng từ việc bán tài sản trộm cắp là không đúng
với quy định của Luật dân sự”. Cho nên ông Xuất, bà Xuân không phải nộp số tiền
7.570.000 đồng (số tiền mà Hùng thu lợi bất chính) để bổ sung quỹ Nhà nước.

5. Tòa án có thể buộc Hùng và cha mẹ cùng bồi thường cho anh Bình không?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời và cho biết hướng giải quyết trong thực tiễn xét
xử.

Xét theo khoản 2 Điều 586 quy định về năng lực trách nhiệm bồi thường thiệt hại:
“Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi
thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải
bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.” thì Hùng phải là người chịu trách
nhiệm bồi thường bằng tài sản của mình, khi nào Hùng không có đủ tài sản để bồi
thường thì cha mẹ Hùng mới dùng tài sản của mình để bồi thường thay phần còn
thiếu. Tuy nhiên, trong tình huống này, Hùng không có tài sản nên Toà án có thể
linh hoạt buộc cha mẹ Hùng bồi thường cho anh Bình.
Thực tiễn xét xử: Bản án số 19/2012/DSST, ngày 12/6/2012 của Tòa án Nhân dân
huyện Cư’Gar tỉnh Đăk Lắk. Cháu Hậu (chưa đủ 18 tuổi tại thời điểm gây tai nạn)
điều khiển xe máy gây thương tích cho bà Nam, tỷ lệ thương tích là 30% sức khỏe.
Mặc dù Hậu là người gây thiệt hại nhưng Tòa án chỉ quyết định: “Buộc ông Thụ và
bà Thêm có nghĩa vụ liên đới bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho bà Nam do Hậu
không có tài sản riêng.” Tòa án đã theo hướng giải quyết cha mẹ phải chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do con gây ra vì con không có tài sản riêng.

* Đối với Bản án số 19.


* Tóm tắt Bản án số 19/2012/DSST ngày 12/6/2012 của Tòa án nhân dân huyện
Cưm’Gar tỉnh Đắk Lắk.

- Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị Nam.


- Bị đơn: bà Nguyễn Thị Thêm.
Ngày 26/12/2010, bà Nguyễn Thị Nam điều khiển xe máy bị cháu Mai Công Hậu đi
không đúng phần đường đâm phải. Hậu quả bà bị gãy xương đùi phải, gãy đốt ngón
3 - gãy xương bàn 3, phải điều trị tại bệnh viện. Vì cháu Mai Công Hậu gây tai nạn
khi chưa đủ 18 tuổi và không có tài sản riêng nên bà yêu cầu mẹ của cháu Hậu, là

Trang 54
bà Nguyễn Thị Thêm, phải bồi thường cho bà. Nhưng bà Thêm cho rằng yêu cầu
bồi thường thiệt hại với số tiền 65.020.000 đồng là quá cao, mặt khác bà đã ly hôn
với cha cháu Hậu thì cháu được giao cho ông Mai Văn Thụ trực tiếp nuôi dưỡng
nên bà không chấp nhận yêu cầu của bà Nam buộc bà bồi thường thiệt hại.
Quyết định của Tòa án: Buộc ông Mai Văn Thụ và bà Nguyễn Thị Thêm liên đới
bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho bà Nguyễn Thị Nam.

6. Theo Tòa án, cha mẹ ly hôn có ảnh hưởng tới việc xác định người phải chịu
trách nhiệm bồi thường không? Cuối cùng, Tòa án đã buộc ai phải bồi thường
thiệt hại.

Theo Tòa án, cha mẹ ly hôn không ảnh hưởng tới việc xác định người phải chịu
trách nhiệm bồi thường và buộc cha và mẹ phải có nghĩa vụ liên đới bồi thường
thiệt hại về sức khỏe cho bà Nam.
Cụ thể tại phần xét thấy của Tòa án:
...Bà Thêm cho rằng bà và ông Thụ đã ly hôn, Toà án đã giao cháu Hậu cho
ông Thụ trực tiếp nuôi dưỡng nên bà không có trách nhiệm về hành vi của
cháu Hậu, lập luận của bà Thêm là không được chấp nhận vì việc ly hôn giữa
hai vợ chồng không làm chấm dứt nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con chung.
Do vậy cần buộc ông Mai Văn Thụ và bà Nguyễn Thị Thêm có nghĩa vụ liên
đới bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho bà Nam…

7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án (từ góc độ văn bản
cũng như so sánh pháp luật).

Hướng giải quyết trên của Tòa án là hợp lý.


Căn cứ theo khoản 2 Điều 586 BLDS 2015 (khoản 2 Điều 606 BLDS 2005):
Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải
bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường
mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi
thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật
này.
Tại thời điểm xảy ra thiệt hại, Hậu chưa đủ 16 tuổi, là người chưa thành niên và
không có tài sản để bồi thường nên việc yêu cầu cha mẹ là ông Thụ và bà Thêm bồi
thường cho bà Nam là phù hợp và đúng với quy định của pháp luật. Hướng giải
quyết của Tòa án nhằm đảm bảo quyền lợi của bà Nam.
Tại Điều 74 Luật HNGĐ 2014 cũng có quy định về việc cha mẹ phải bồi thường khi
con chưa thành niên hoặc mất hành vi dân sự gây ra thiệt hại:

Trang 55
Cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên, con đã thành niên
mất năng lực hành vi dân sự gây ra theo quy định của Bộ luật Dân sự.

Vấn đề 2: Bồi thường thiệt hại do người làm công gây ra.

*Tóm tắt:
* Bản án số 285/2009/HSPT ngày 23/12/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Định.

- Bị cáo: ông Cao Chí Hùng.


- Bị hại: bà Nguyễn Thị Thu Thủy (đại diện hợp pháp của bị hại Trần Ngọc Hải).
- Bị đơn dân sự: Công ty TNHH vận tải Hoàng Long.
Bị cáo Cao Chí Hùng có giấy phép lái xe hợp lệ, điều khiển xe ô tô khách tham gia
giao thông ở đoạn đường có vạch sơn liền nét nhưng điều khiển xe ô tô lấn qua
phần đường bên trái, va chạm với xe mô tô đi ngược chiều gây tai nạn chết 1 người.
Bị cáo kháng cáo yêu cầu được giảm một phần hình phạt do hoàn cảnh gia đình khó
khăn, bản thân bị cáo trong quá trình tạm giữ bị đau ốm, điều này được Tòa chấp
nhận. Mặc khác, bị cáo là người lái xe thuê cho Công ty TNHH vận tải Hoàng Long
nên theo quy định của BLDS thì Công ty TNHH vận tải Hoàng Long phải có trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do bị cáo gây ra khi thực hiện công việc được chuyển
giao và có quyền yêu cầu bị cáo phải hoàn trả lại một khoản tiền theo quy định của
pháp luật.

* Bản án số 05/2019/DS-PT ngày 16/1/2019 của Toà án nhân dân tỉnh Sóc
Trăng.

A thuê B làm công không có hợp đồng chỉ thỏa thuận bằng lời nói. Một lần giao
việc cho B và C (cũng là nhân viên của A), A và B cùng lắp đặt bộ phận máy tàu ở
phía sau đuôi tàu (chẹt), còn C thì sơn ở hầm tàu. Sau đó, B tự ý lấy sắt cắt làm nơi
cho chủ tàu để trái cây cúng (bàn thờ), việc làm này của B không do A phân công
và A cũng không hay biết. Khi B dùng mỏ hàn cắt sắt làm văng lửa xuống thùng
sơn do C đang sơn dưới hầm tàu làm bùng cháy thùng sơn dẫn đến Bùi Xuân C bị
bỏng với tỷ lệ thương tích qua giám định là 51%. Sau đó A bị Tòa án tuyên xử A có
trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho C tổng là 166.647.678 đồng, sau đó A đã khởi
kiện buộc B có trách nhiệm thanh toán lại số tiền cho mình tổng là 165.647.678
đồng. B không đồng ý trả số tiền như vậy nên làm đơn kháng cáo.

Trang 56
1. Vì sao đã có quy định của Điều 584 mà BLDS 2015 còn có thêm quy định
của Điều 600?

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người làm công gây ra tại Điều
600 quy định:
Cá nhân, pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người làm công, người học
nghề gây ra trong khi thực hiện công việc được giao và có quyền yêu cầu
người làm công, người học nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả
một khoản tiền theo quy định của pháp luật.
BLDS 2015 quy định hướng trách nhiệm bồi thường về phía đối tượng chủ thể sử
dụng người làm công, cụ thể là cá nhân, pháp nhân phải bồi thường thiệt dại cho
người bị tổn thất nếu người làm công mà họ sử dụng gây thiệt hại trong khi thực
hiện công việc được giao. Chủ thể phải bồi thường không nhất thiết phải là pháp
nhân vì bên cạnh pháp nhân còn có thêm cá nhân. Sau khi bồi thường cho người bị
thiệt hại, người sử dụng người làm công có quyền yêu cầu người làm công của mình
hoàn trả một khoản tiền.
Về cơ bản, điều luật định hướng quy định căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi
thường dựa trên yếu tố lỗi. Điều này dẫn đến cách hiểu nhầm là chỉ cần
người làm công gây ra thiệt hại thì sẽ phải bồi thường, tức không nhất thiết
phải tồn tại hành vi trái pháp luật theo quy định của Điều 584 BLDS 2015.39
Như vậy, người sử dụng lao động chỉ phải bồi thường khi hành vi gây thiệt hại của
người làm công đáp ứng đầy đủ điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường cho
người làm công bao gồm : giữa cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác với người làm
công (người gây thiệt hại) phải có mối quan hệ giữa chủ thuê người làm công
(thông qua hợp đồng), phải có hành vi trái pháp luật thiệt hại thực tế xảy ra xảy ra.
Đồng thời, giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại trên tồn tại mối quan hệ nhân quả.
Nghĩa là thiệt hại thực tế là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật.

* Đối với Bản án số 285.


2. Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án đã áp dụng các quy định về bồi
thường thiệt hại do người làm công gây ra?

Đoạn của bản án cho thấy Tòa án đã áp dụng các quy định về bồi thường thiệt hại
do người làm công gây ra là:
...bị cáo là người lái xe thuê cho Công ty TNHH vận tải Hoàng Long nên
theo quy định tại ĐIều 622 và Điều 623 của BLDS thì Công ty TNHH vận
39
Trần Thị Anh Thư, “Bàn về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người làm công gây ra”,
https://tapchitoaan.vn/ban-ve-boi-thuong-thiet-hai-ngoai-hop-dong-do-nguoi-lam-cong-gay-ra5817.html, truy
cập ngày 30/10/2022.
Trang 57
tải Hoàng Long phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Cao Chí Hùng
gây ra trong khi thực hiện công việc được chuyển giao và có quyền yêu cầu
Cao Chí Hùng là người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả lại một
khoản tiền theo quy định của pháp luật. Do đó, yêu cầu không phải bồi
thường cho người bị hại của Công ty TNHH vận tải Hoàng Long là không
phù hợp theo quy định của pháp luật nên không được chấp nhận.

3. Trên cơ sở Điều 600, cho biết các điều kiện để áp dụng các quy định về bồi
thường thiệt hại do người làm công gây ra.

Theo Điều 600 BLDS 2015:


Cá nhân, pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người làm công, người học
nghề gây ra trong khi thực hiện công việc được giao và có quyền yêu cầu
người làm công, người học nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả
một khoản tiền theo quy định của pháp luật.
Từ đó, ta có các điều kiện cơ bản như sau:
- Thứ nhất, căn cứ đầu tiên để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
trường hợp này là giữa cá nhân, pháp nhân (chủ sử dụng người làm công) với người
làm công (người gây thiệt hại) là phải tồn tại mối quan hệ giữa chủ thuê và người
làm công. Ví dụ: A thuê B dọn dẹp nhà cửa mới xây dựng, B gây thiệt hại cho C thì
mới có thể xét đến vấn đề bồi thường thiệt hại của A.
- Thứ hai, người gây thiệt hại phải là người làm công. Người làm công như cách
hiểu bản đầu là người thực hiện một công việc cho người khác. Vậy người làm công
có gì khác so với pháp nhân? Để làm rõ vấn đề này ta cần dựa trên đặc điểm về bản
chất phụ thuộc của quan hệ trên. Theo đó, chỉ tồn tại quan hệ người làm công khi
một người thực hiện công việc theo “mệnh lệnh”, “chỉ dẫn” của chủ thể sử dụng hay
quản lý. Trái với người làm công, người của pháp nhân thực hiện công việc một
cách tự do, độc lập. Ví dụ, giám đốc hay tổng giám đốc là người làm việc cho pháp
nhân với tư cách đại diện và họ không phải là “người làm công” vì họ hoạt động
“độc lập”. Như vậy, cần có sự phân biệt minh bạch, rõ ràng hai đối tượng trên tránh
trường hợp nhầm lẫn dẫn đến áp dụng sai luật.
- Thứ ba, người làm công phải gây thiệt hại, tức phải có thiệt hại trên thực tế. Đây là
điều kiện chung của tất cả các chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy
nhiên, có thiệt hại thực tế xảy ra là chưa đủ, thiệt hại đó phải phát sinh trong khi
người làm công thực hiện công việc được giao mới được coi là yếu tố cấu thành
trách nhiệm bồi thường.
- Thứ tư, thiệt hại phải bị gây ra khi người làm công thực hiện công việc được giao.

Trang 58
Như vậy, chủ thể sử dụng người làm công chỉ phải bồi thường khi người làm công
gây hại trong khi thực hiện công việc được giao. Tuy nhiên, pháp luật hiện nay chưa
có hướng dẫn cụ thể về như thế nào là “khi thực hiện công việc được giao”. 40

4. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án vận dụng Điều 622 BLDS 2005 (nay là
Điều 600 BLDS 2015) để buộc Công ty Hoàng Long bồi thường (đánh giá từng
điều kiện nêu ở câu hỏi trên đối với vụ việc được bình luận).

Tòa vận dụng Điều 622 BLDS 2005 (nay là Điều 600 BLDS 2015) để buộc Công ty
Hoàng Long bồi thường:
- Thứ nhất, căn cứ đầu tiên để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
trường hợp này là giữa cá nhân, pháp nhân (chủ sử dụng người làm công) với người
làm công (người gây thiệt hại) là phải tồn tại mối quan hệ giữa chủ thuê và người
làm công: Ông Hùng là người lái xe thuê cho Công ty vận tải Hoàng Long. Mối
quan hệ giữa cả hai là quan hệ chủ sử dụng người làm công-người làm công.
- Thứ hai, người gây thiệt hại phải là người làm công: Người gây ra thiệt hại là ông
Hùng
- Thứ ba, phải có thiệt hại trên thực tế: Thiệt hại trong vụ việc này là anh Trần Ngọc
Hải chết ngay tại chỗ
- Thứ tư, thiệt hại phải bị gây ra khi người làm công thực hiện công việc được giao:
ông Hùng là người lái xe thuê cho Công ty TNHH vận tải Hoàng Long gây ra tai
nạn khi thực hiện công việc được chuyển giao

5. Nếu ông Hùng không làm việc cho Công ty Hoàng Long và xe là của ông
Hùng thì ông Hùng có phải bồi thường không? Vì sao?

Nếu ông Hùng không làm việc cho Công ty Hoàng Long và xe là của ông Hùng thì
ông Hùng phải chịu trách nhiệm bồi thường cho bị hại.
Khoản 1 Điều 584 BLDS 2015:
Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại
thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy
định khác.
Điều 623 BLDS 2015:
1. Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới,
hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất
40
Trần Thị Anh Thư, “Bàn về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người làm công gây ra”,
https://tapchitoaan.vn/ban-ve-boi-thuong-thiet-hai-ngoai-hop-dong-do-nguoi-lam-cong-gay-ra5817.html, truy
cập ngày 1/11/2022.
Trang 59
cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác
do pháp luật quy định.
2. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu,
sử dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thoả thuận
khác.
Theo đó, ông Hùng là người trực tiếp điều khiển xe ô tô khách (nguồn nguy hiểm
cao độ) đã lấn làn, gây ra tai nạn, khiến bị hại tử vong (hành vi xâm phạm đến tính
mạng) nên ông phải bồi thường. Tuy nhiên, do tình hình kinh tế khó khăn nên ông
Hùng có thể được giảm mức bồi thường theo khoản 2 Điều 585 BLDS 2015:
Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi
thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng
kinh tế của mình.

6. Đoạn nào của bản án cho thấy, theo Tòa án, ông Hùng không phải thực hiện
nghĩa vụ bồi thường cho người bị thiệt hại?

Đoạn của bản án cho thấy, theo Tòa án, ông Hùng không phải thực hiện nghĩa vụ
bồi thường cho người bị thiệt hại:
… lẽ ra cần giữ nguyên mức hình phạt của bị cáo nhưng thấy rằng: theo
quyết định của án sơ thẩm mặc dù bị cáo không phải thực hiện nghĩa vụ bồi
thường cho bị hại nhưng đã tự nguyện nộp 5.000.000.000đ để cùng với Công
ty TNHH vận tải Hoàng Long khắc phục hậu quả xảy ra, hoàn cảnh gia đình
bị cáo hiện nay gặp nhiều khó khăn, bản thân bị cáo quá trình tạm giam giữ
bị đau ốm. Do đó chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm cho bị cáo một phần
hình phạt như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định
tại phiên tòa là phù hợp.

7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến
trách nhiệm của ông Hùng đối với người bị thiệt hại.

Theo nhóm, hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến trách nhiệm của ông
Hùng đối với người bị thiệt hại là không hợp lý.
Do đó, đối với chế định “bồi thường thiệt hại do người làm công gây ra”,
thiết nghĩ người sử dụng người làm công chỉ phải bồi thường thiệt hại do
người làm công gây ra khi chính hành vi của người làm công thông thường
làm phát sinh trách nhiệm bồi thường đối với người làm công. Điều đó cũng
có nghĩa là để quy trách nhiệm bồi thường cho người sử dụng người làm

Trang 60
công, thông thường chúng ta phải hội đủ các điều kiện làm phát sinh trách
nhiệm bồi thường đối với người làm công (theo Điều 604 BLDS 2005 và
Điều 584 BLDS 2015).41
Theo nguyên tắc chung về trách nhiệm bồi thường tại Điều 584 BLDS 2015 thì
người gây ra thiệt hại phải chịu trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại. Xét
trên mối quan hệ giữa ông Hùng và bị hại, ông Hùng đã trực tiếp gây ra “lỗi” với bị
hại (việc ông Hùng lấn làn là nguyên nhân gây ra tai nạn khiến nạn nhân thiệt
mạng).
Vì vậy, trước tiên phải xét trách nhiệm của ông Hùng đối với bị hại rồi mới xét đến
trách nhiệm của công ty Hoàng Long đối với bị hại. Tuy nhiên, trong quyết định
Phúc thẩm, Tòa án chỉ xét trách nhiệm của công ty Hoàng Long đối với bị hại. Điều
đó là một thiếu sót vì nếu hành vi của ông Hùng không làm phát sinh trách nhiệm
của ông đối với bị hại thì tại sao lại làm phát sinh trách nhiệm của công ty Hoàng
Long đối với bị hại? Vì vậy, theo nhóm, Tòa án nên xét trách nhiệm của ông Hùng
đối với người bị thiệt hại dù chỉ là một phần.

8. Cho biết suy nghĩ của anh/chị về khả năng người bị thiệt hại được yêu cầu
trực tiếp ông Hùng bồi thường.

Theo nhóm, người bị thiệt hại có khả năng yêu cầu trực tiếp ông Hùng bồi thường.
Một câu hỏi được đặt ra là, ngoài việc có thể yêu cầu trực tiếp người sử dụng
người làm công bồi thường như đã trình bày ở trên, người bị thiệt hại có
quyền yêu cầu trực tiếp người gây thiệt hại (tức người làm công) bồi thường
thiệt hại hay không?
Câu trả lời cho câu hỏi trên có hệ quả rất quan trọng. Nếu chúng ta trả lời là
“không” thì người bị thiệt hại không được bảo vệ nhất là khi chủ thể sử dụng
người làm công lâm vào tình trạng phá sản hay không còn khả năng tài chính
để thực hiện trách nhiệm bồi thường. Hơn nữa, trong trường hợp này, chúng
ta ủng hộ sự “vô trách nhiệm” của người làm công vì, khi họ biết không phải
bồi thường, họ sẽ làm liều, thiếu thận trọng trong khi thực hiện công việc
được giao.42
Cũng theo Điều 584 BLDS 2015, ông Hùng là người gây ra thiệt hại nên phải có
trách nhiệm bồi thường.
Vì thế, nếu người bị thiệt hại yêu cầu trực tiếp ông Hùng bồi thường thì vẫn phù
hợp với quy định của pháp luật.

41
Đỗ Văn Đại (2018), Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng - Bản án và bình luận bản án (Tái bản lần
thứ tư) - Tập 2, NXB. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr.133.
42
Đỗ Văn Đại, tlđd (3), tr.142.
Trang 61
Tuy nhiên, xét về khả năng kinh tế, việc người bị thiệt hại yêu cầu công ty Hoàng
Long bồi thường sẽ có lợi hơn vì ông Hùng gặp khó khăn trong kinh tế, nếu người
bị thiệt hại yêu cầu ông Hùng trực tiếp bồi thường thì khả năng rất cao sẽ không
nhận được mức bồi thường tương ứng với thiệt hại.

* Đối với Bản án số 05.


9. Lỗi của người làm công trong Điều 622 BLDS 2005 (nay là Điều 600 BLDS
2015) cần được hiểu như thế nào? Vì sao?

Thứ nhất, theo khoản 5 Điều 3 Luật Việc làm 2013, việc làm công là việc làm tạm
thời có trả công được tạo ra thông qua việc thực hiện các dự án hoặc hoạt động sử
dụng vốn nhà nước gắn với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa cấp
xã. Theo đó, người làm công là người làm công việc tạm thời có trả công trong việc
thực hiện các dự án hoặc hoạt động sử dụng vốn nhà nước gắn với các chương trình
phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn cấp xã. Về cơ bản thì có thể hiểu khái quát
rằng người làm công là người làm một công việc nào đó cho một chủ thể khác của
pháp luật dân sự, có thể là công việc thường xuyên hoặc thời vụ và không buộc phải
có hợp đồng lao động ký kết với chủ sử dụng lao động.43
Thứ hai, Điều 308 BLDS 2005 quy định về Lỗi trong trách nhiệm dân sự nhưng
cũng không giải thích cụ thể khái niệm này. Tương tự, Điều 364 BLDS 2015 cũng
chỉ dừng lại ở việc xác định “Lỗi trong trách nhiệm dân sự bao gồm lỗi cố ý, lỗi vô
ý”. Cách quy định của cả hai Bộ luật còn cho thấy thêm một vấn đề, yếu tố lỗi được
đề cập là “trong trách nhiệm dân sự” nói chung, chứ không khẳng định liệu rằng
đây có thể là một căn cứ để phát sinh trách nhiệm (kể cả trách nhiệm bồi thường
thiệt hại).
Thứ ba, trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, nếu như trong BLDS
2005, yếu tố lỗi được sử dụng như là căn cứ để xác định trách nhiệm thì trong
BLDS 2015, căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại đầu tiên lại là hành vi
xâm phạm. BLDS 2015 đã thay đổi quy định theo hướng bên bị thiệt hại không có
nghĩa
vụ chứng minh lỗi của bên gây thiệt hại mà chỉ cần xác định hành vi xâm phạm của
người gây thiệt hại là có thể yêu cầu bồi thường.44

43
Trần Thị Anh Thư, “Bàn về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người làm công gây ra”,
https://tapchitoaan.vn/ban-ve-boi-thuong-thiet-hai-ngoai-hop-dong-do-nguoi-lam-cong-gay-ra5817.html, truy
cập ngày 30/10/2022.
44
Nguyễn Phương Thảo, “Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ – So
sánh với quy định của BLDS”, https://tapchitoaan.vn/loi-trong-trach-nhiem-boi-thuong-thiet-hai-do-xam-
pham-quyen-so-huu-tri-tue-so-sanh-voi-quy-dinh-cua-blds-2, truy cập ngày 30/10/2022.
Trang 62
Thứ tư, Bối cảnh gây ra thiệt hại phải trong hoàn cảnh trong khi người làm công
thực hiện nhiệm vụ, công việc được giao. Bộ luật dân sự không định nghĩa cụm từ
“trong khi thực hiện công việc được giao” và văn bản hướng dẫn như Nghị quyết số
03/2006 của Hội đồng Thẩm phán cũng không đề cập đến vấn đề này. Trong thực
tiễn, công việc được giao đôi khi không rõ ràng, thường dẫn tới tranh luận là cái
hành vi gây ra được thiệt hại có được tiến hành trong khi thực hiện công việc được
giao hay không? Điều kiện để áp dụng là có thiệt hại và thiệt hại phải trong khi
người làm công phải thực hiện trong thực hiện công việc, nhiệm vụ được giao.
Như vậy, Điều 622 bộ luật dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại do người làm công
gây ra bộ luật dân sự 2015 giữ nguyên quy định tại điều 622 của bộ luật dân sự
2005 về chủ đề này ngoại trừ bỏ đoạn và các chủ thể khác. Do bộ luật dân sự 2015
không còn coi hộ gia đình và tổ chức hợp tác là chủ thể nữa.
Nhìn một cách tổng thể quy định của bộ luật dân sự quy định hai vấn đề : thứ nhất
là quan hệ giữa người bị thiệt hại và người sử dụng người làm công, thứ hai là quan
hệ những người làm công và người sử dụng người làm công sau khi đã bồi thường
cho người bị thiệt hại.45

10. Theo Tòa án, ông B có lỗi theo Điều 622 BLDS 2005 (nay là Điều 600 BLDS
2015) không? Vì sao?

Tại Điều 622 của Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “cá nhân phải bồi thường
thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra trong khi thực hiện công việc
được giao và có quyền yêu cầu người làm công có lỗi trong việc gây thiệt hại phải
hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật”.
Vì theo như bản án. Ông B là đã tự ý cắt và hàn sắt làm tàn mỏ hàn rơi vào dung
sơn mà chị C đang sơn dưới hầm tàu dẫn đến việc chị C bỏng 51%. Lúc ông B làm
thì chưa có sự đồng ý của ông A và ông A không hề biết. cho thấy ông B là người
có lỗi.
Đồng thời theo nhận định của tòa án: “Nhận thấy, Nguyễn Văn B có lỗi hoàn toàn
trong việc gây thiệt hại cho Bùi Xuân C và đã bị xử lý hình sự về tội vô ý gây
thương tích, nên bản án sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông A,
buộc ông B hoàn trả lại cho ông A tổng số tiến 165.647.678 đồng mà ông A phải
bồi thường cho ông Bùi Xuân C là có căn cứ và đúng quy định Điều 622 Bộ luật
Dân sự năm 2005.”

45
Đỗ Văn Đại, Luật Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb Sự Thật, Tr.123.
Trang 63
11. Theo Tòa án, ông A có được yêu cầu ông B hoàn trả tiền đã bồi thường cho
người bị hại không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời.

Theo Tòa án, ông A được quyền yêu cầu ông B hoàn trả tiền đã bồi thường cho
người bị hại. Đoạn của bản án cho câu trả lời là:
Nhận thấy, Nguyễn Văn B có lỗi hoàn toàn trong việc gây thiệt hại cho Bùi
Xuân C và đã bị xử lý hình sự về tội vô ý gây thương tích, nên bản án sơ
thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông A, buộc ông B hoàn trả
lại cho ông A tổng số tiền 165.647.678 đồng mà ông A phải bồi thường cho
ông Bùi Xuân C là có căn cứ và đúng quy định Điều 622 Bộ luật Dân sự năm
2005.
Mặt khác, nhận thấy việc ông C yêu cầu ông A bồi thường và việc ông A
khởi kiện yêu cầu ông B hoàn trả khoản tiền ông bồi thường cho ông C được
Tòa án giải quyết bằng vụ án riêng biệt, nên ông B kháng cáo cho rằng ông
A không được quyền yêu cầu ông bồi thường lại cho ông A là không có căn
cứ.
Như đã phân tích nêu trên, nhận thấy kháng cáo của ông Nguyễn Văn B
không có căn cứ nên không được chấp nhận.

12. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến
trách nhiệm hoàn trả của ông B (về căn cứ hoàn trả cũng như mức hoàn trả).

Hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến trách nhiệm hoàn trả của ông B (về
căn cứ hoàn trả cũng như mức hoàn trả) là hợp lý. Bởi vì:
Cơ sở pháp lý:
* BLDS 2015:
Điều 584 BLDS 2015 về “Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại” như
sau:
1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây
thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên
quan quy định khác.
Điều 600 BLDS 2015 về “Bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề
gây ra” như sau:
Cá nhân, pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người làm công, người học
nghề gây ra trong khi thực hiện công việc được giao và có quyền yêu cầu
người làm công, người học nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả
một khoản tiền theo quy định của pháp luật.
Trang 64
* BLDS 2005:
Điều 604 BLDS 2005 về “Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại”:
1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh
dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân,
xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây
thiệt hại thì phải bồi thường.
2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường
cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó.
Điều 622 BLDS 2005 về “Bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề
gây ra”:
Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác phải bồi thường thiệt hại do người
làm công, người học nghề gây ra trong khi thực hiện công việc được giao và
có quyền yêu cầu người làm công, người học nghề có lỗi trong việc gây thiệt
hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật.
Về căn cứ hoàn trả:
Trong tình huống này, việc B tự ý làm không thông báo cho A, không xem xét tình
hình xung khi B dùng mỏ hàn cắt sắt làm văng lửa xuống thùng sơn do C đang sơn
dưới hầm tàu làm bùng cháy thùng sơn thì hành vi của B đã là trái pháp luật. Hành
vi này của B đã khiến C bị phỏng với tỷ lệ thương tích 51% nên hoàn toàn có đủ cơ
sở để buộc B có trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo Điều 584 BLDS 2015 về
“Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại”. Và trong tình huống này ta có
thể áp dụng Điều 600 bộ luật dân sự 2015 về “Bồi thường thiệt hại do người làm
công người học nghề gây ra”.
Thứ nhất, để quy trách nhiệm cho người giao công việc ta phải xác định được người
gây thiệt hại gây thiệt hại trong khi thực hiện công việc được giao hay không, trong
trường hợp này B tự ý lấy sắt cắt làm nơi cho chủ tàu để trái cây cúng (bàn thờ),
việc làm này của B không do A phân công và A cũng không hay biết nên không thể
quy trách nhiệm cho A được.
Thứ hai, trong trường hợp này, B tự ý làm mà không thông báo cho A, không xem
xét tình hình xung khi B dùng mỏ hàn cắt sắt làm văng lửa xuống thùng sơn do C
đang sơn dưới hầm tàu làm bùng cháy thùng sơn, nên hoàn toàn đủ căn cứ cho rằng
B có lỗi. Theo Điều 600 BLDS 2015 về “Bồi thường thiệt hại do người làm công,
người học nghề gây ra” có quy định "...có quyền yêu cầu người làm công, người
học nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả.."
Như vậy, theo những phân tích như trên thì ông A được quyền yêu cầu ông B hoàn
trả tiền đã bồi thường cho người bị hại.
Về mức hoàn trả:
Trang 65
Trong vụ án này, A là người không có lỗi, cũng như không có căn cứ để làm phát
sinh trách nhiệm bồi thường của A. Nên số tiền A đã bồi thường thiệt hại cho Bùi
Xuân C tổng cộng là 166.6477.678 đồng (kể cả số tiền 10.000.000 đồng tôi đã hỗ
trợ cho Bùi Xuân C lúc điều trị) hoàn toàn có thể yêu cầu B bồi hoàn. Vì trong
trường hợp này, người bị thiệt hại là C và nếu B không chấp nhận mức bồi thường
này thì sẽ vô cùng thiệt cho C, ở đây không đủ căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi
thường của A nên Tòa án yêu cầu B có trách nhiệm hoàn trả cho ông Nguyễn Văn
A tiền bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng tổng cộng là: 165.647.500 đồng (một
trăm sáu mươi lăm triệu sáu trăm bốn mươi bảy ngàn năm trăm đồng) là hoàn toàn
hợp lý.

Vấn đề 3: Bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra.

*Tóm tắt:
* Bản án số 23/2017/DS-ST ngày 08/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đầm
Dơi tỉnh Cà Mau.

- Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị Nga.


- Bị đơn: ông Lê Phong Nhã.
Ngày 05/01/2014 âm lịch, 5 con heo bà Nga đi ăn trên đất của nhà ông Nhã thì bị
chó nuôi nhà ông cắn. Sau hai ngày thì con heo bị cắn chết và trị giá
1.000.000,không sử dụng được. Ban đầu bà Nga yêu cầu ông Nhã bồi thường toàn
bộ giá trị con heo nhưng sau đó bà Nga yêu cầu ông Nhã bồi thường ½ giá trị con
heo đã chết. Toà quyết định buộc ông Nhã bồi thường ½ giá trị con heo cho bà Nga
vì cả hai đều có lỗi ngang nhau trong việc quản lý súc vật.

1. Quy định nào của BLDS sử dụng thuật ngữ “súc vật”?

BLDS sử dụng thuật ngữ “súc vật” được quy định ở Điều 603 cụ thể như sau:
1. Chủ sở hữu súc vật phải bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra cho người
khác. Người chiếm hữu, sử dụng súc vật phải bồi thường thiệt hại trong thời
gian chiếm hữu, sử dụng súc vật, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp người thứ ba hoàn toàn có lỗi làm cho súc vật gây thiệt hại
cho người khác thì người thứ ba phải bồi thường thiệt hại; nếu người thứ ba
và chủ sở hữu cùng có lỗi thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.
3. Trường hợp súc vật bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật gây thiệt hại thì
người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật phải bồi thường; khi chủ sở hữu,

Trang 66
người chiếm hữu, sử dụng súc vật có lỗi trong việc để súc vật bị chiếm hữu,
sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.
4. Trường hợp súc vật thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu
súc vật đó phải bồi thường theo tập quán nhưng không được trái pháp luật,
đạo đức xã hội.

2. BLDS có định nghĩa “súc vật” là gì không?

Hiện tại, BLDS 2015 vẫn chưa có quy định cụ thể nào về định nghĩa “súc vật”.

3. Trong thực tiễn xét xử, khái niệm súc vật được hiểu như thế nào?

Bản án số 56/2021/DS-ST ngày 28/06/2021 của Tòa án nhân dân huyện U


Minh tỉnh Cà Mau như sau: Ngày 24/06/2020, ông Thi Hoàng A điều khiển
xe mô tô Biển số kiểm soát 69H1-020.68 lưu thông trên đoạn đường hướng
lộ kênh 93 về kênh 90 thì bất ngờ vật nuôi (chó) băng ngang qua đường làm
anh Hoàng A thắng gấp lại nên té xe ngã xuống đường bị thương tích nhiều
nơi trên cơ thể và được nhân dân đưa đi điều trị tại Bệnh viện đa khoa Hoàn
Mỹ Minh Hải. Sau khi Công an lập biên bản hòa giải thì ông Hoàng A mới
biết con chó gây tai nạn là của anh Lê Quốc Kh đang nuôi thả rong ngoài
đường. Theo nhận định của Tòa thì tại biên bản làm việc với ông Lê Quốc
Kh có cơ sở xác định ông Kh là chủ sở hữu súc vật (con chó) đã thả rông trên
đường bộ gây ra tai nạn cho ông Hoàng A, lỗi là của ông Kh nên ông Kh
phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 603 của Bộ luật dân sự 2015.
Từ đó, Tòa chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Thi Hoàng A về
việc yêu cầu ông Lê Quốc Kh bồi thường thiệt hại tổng số tiền là 15.587.900
đồng.46
Từ bản án thực tiễn, chúng ta có thể thấy Tòa án đã áp dụng quy định về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra, cụ thể trong trường hợp này là thiệt hại
do chó gây ra. Theo Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau thì việc anh A thắng gấp do vật
nuôi (chó) băng qua đường là lỗi khách quan. Con chó là nguyên nhân trực tiếp gây
ra tai nạn. Lỗi ở đây thuộc về của chủ súc vật là ông Kh và ông Kh phải có trách
nhiệm bồi thường thiệt hại cho anh A.
Hiện nay, Bộ luật dân sự vẫn chưa có định nghĩa về súc vật, theo Giáo trình Luật
Dân sự của Học viện Tư pháp thì “ súc vật được hiểu theo cách thông thường nhất
bao gồm động vật có vú được nuôi trong nhà như trâu, bò, chó, mèo…” 47, theo Từ

46
FDVN, “Tranh chấp bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra”, http://fdvn.vn/tong-hop-10-ba%CC%89n-an-
boi-thuong-thie%CC%A3t-ha%CC%A3i-do-suc-vat-gay-ra/, truy cập ngày 01/11/2022.
Trang 67
điển Tiếng Việt phổ thông thì “súc vật là thú vật nuôi trong nhà” 48. Ngoài ra, khi
ngỗng gây thiệt hại thì Tòa án cũng xác định đây là thiệt hại do súc vật gây ra (theo
bản án phúc thẩm dân sự số 100/DSPT ngày 7/6/2005 của TAND tỉnh Trà Vinh).
Do đó, cũng phải coi vịt, gà, chim… cũng là súc vật gây thiệt hại. Tương tự chó,
mèo, chuột cũng được coi là súc vật gây ra. Ở nước ngoài, cũng có trường hợp do
ong gây ra thiệt hại. Tóm lại, thực tiễn xét xử cho thấy khái niệm “súc vật” thường
được hiểu là tất cả những động vật đã được con người thuần hóa, nuôi dưỡng từ gia
súc, gia cầm hay động vật nói chung trừ thú dữ là những động vật chưa được con
người thuần hóa.

4. Đoạn nào của bản án cho thấy thiệt hại là do chó gây ra?

Đoạn trong bản án cho thấy thiệt hại do chó gây ra được thể hiện ở phần nhận định
của Toà án:
Hội đồng xét xử xét thấy rằng vào ngày 06/01/2014 05 con heo của bà Nga
đi ăn trên đất của ông Nhã thì bị chó của ông Nhã cắn bị thương 1 con là
thực tế có xảy ra, được các bên đương sự có thừa nhận nên thuộc trường hợp
những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo khoản 2 Điều 92 Bộ
luật tố tụng dân sự. Ngoài ra, qua lời trình bày của bà Nga và ông Nhã trong
quá trình giải quyết vụ án; lời trình bày của ông Nhã tại biên bản hòa giải của
ấp không ghi thời gian (BL 02) và lời trình bày của người làm chứng trong
vụ án chứng minh được sau khi heo bị chó cắn thì hai ngày sau heo chết, bà
Nga không sử dụng được con heo bị chó cắn chết.

5. Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án đã vận dụng các quy định về bồi
thường thiệt hại do súc vật gây ra?

Đoạn của bản án cho thấy Tòa án đã vận dụng các quy định về bồi thường thiệt hại
do súc vật gây ra:
Xét yêu cầu khởi kiện của bà Nga thì thấy rằng: Vị trí heo con của bà Nga bị
chó nuôi của ông Nhã cắn chết là trên đất của ông Nhã. Bà Nga và ông Nhã
xác định vật nuôi của hai bên được thả rông theo tập quán nên xảy ra sự việc
chó cắn heo chết. Theo Điều 625 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “1. Chủ
sở hữu súc vật phải bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra cho người khác;
nếu người bị thiệt hại hoàn toàn có lỗi trong việc làm chủ súc vật gây thiệt

47
Học viện Tư pháp, “Khái niệm súc vật trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra”, Giáo trình
Luật dân sự, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2007, tr.486.
48
Viện Ngôn ngữ học, “Khái niệm súc vật trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra”, Từ điển
tiếng Việt phổ thông, Nxb. Phương Đông, năm 2007, tr.799.
Trang 68
hại cho mình thì chủ sở hữu không phải bồi thường”, “4. Trong trường hợp
súc vật thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu súc vật đó phải
bồi thường theo tập quán nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội”.
Căn cứ điều luật viện dẫn trên, thấy rằng ông Nhã là chủ sở hữu súc vật nuôi
(chó), vật nuôi trong nhà nhưng do lỗi của ông Nhã nên chó của ông Nhã cắn
chết heo bà Nga. Đối với bà Nga cũng là người có sở hữu vật nuôi trong nhà
là heo con nhưng cũng không quản lý đúng quy định, để heo con chạy qua
đất của ông Nhã, hậu quả làm cho chó của ông Nhã cắn chết heo con của bà
Nga, làm cho bà Nga bị thiệt hại 01 con heo trị giá 1000000 đồng. Như vậy,
trong trường hợp trên cả bà Nga và ông Nhã đều có lỗi ngang nhau trong
việc quản lý vật nuôi của mình, đã gây thiệt hại cho bà Nga nên mỗi bên phải
chịu 50% mức độ lỗi là đúng quy định của pháp luật.

6. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án áp dụng các quy định về bồi thường
thiệt hại do súc vật gây ra.

Bà Nga và ông Nhã xác định vật nuôi của hai bên được thả rông theo tập quán nên
xảy ra sự việc chó cắn heo chết . Tòa áp dụng khoản 1, 4 Điều 625 BLDS 2005 để
nhận định bà Nga và ông Nhã đều có lỗi ngang nhau và phân chia mỗi bên chịu ½
thiệt hại là hợp lý.
Khoản 1, 4 Điều 625 BLDS 2005:
1. Chủ sở hữu sức vật phải bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra cho người
khác; nếu người bị thiệt hại hoàn toàn có lỗi trong việc làm chủ súc vật gây
thiệt hại cho mình thì chủ sở hữu không phải bồi thường.
4. Trong trường hợp súc vật thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ
sở hữu súc vật đó phải bồi thường theo tập quán nhưng không được trái pháp
luật, đạo đức xã hội.
Căn cứ điều luật trên, thấy rằng ông Nhã là chủ sở hữu súc vật (con chó) nhưng do
lỗi quản lý không cẩn thận của ông nên con chó đã cắn chết heo nuôi của bà Nga và
ông Nhã phải có trách nhiệm bồi thường cho bà Nga. Tuy nhiên, Tòa án xác định
nguyên nhân dẫn đến việc heo của bà Nga bị chó của ông Nhã cắn chết cũng có lỗi
của bà Nga. Do bà Nga có lỗi trong việc quản lý làm heo chạy qua đất của ông Nhã.
Như vậy đây là trường hợp người bị thiệt hại cũng có lỗi, cả bà Nga và ông Nhã đều
có lỗi ngang nhau trong việc quản lý vật nuôi của mình, đã gây thiệt hại cho bà Nga
nên mỗi bên phải chịu 50% mức do lỗi.

Trang 69
7. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về lỗi của người bị thiệt
hại.

BLDS 2005 BLDS 2015

Điều 604. Căn cứ phát sinh trách Điều 584. Căn cứ phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại nhiệm bồi thường thiệt hại
1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý 1. Người nào có hành vi xâm phạm
xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích
lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, hợp pháp khác của người khác mà
xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ
pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây trường hợp Bộ luật này, luật khác có
thiệt hại thì phải bồi thường. liên quan quy định khác.
2. Trong trường hợp pháp luật quy Điều 585. Nguyên tắc bồi thường
định người gây thiệt hại phải bồi thiệt hại
thường cả trong trường hợp không có 2. Người chịu trách nhiệm bồi thường
lỗi thì áp dụng quy định đó. thiệt hại có thể được giảm mức bồi
Điều 617. Bồi thường thiệt hại thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi
trong trường hợp người bị thiệt hại vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả
có lỗi năng kinh tế của mình.
Khi người bị thiệt hại cũng có lỗi 4. Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong
trong việc gây thiệt hại thì người gây việc gây thiệt hại thì không được bồi
thiệt hại chỉ phải bồi thường phần thường phần thiệt hại do lỗi của mình
thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi gây ra.
của mình; nếu thiệt hại xảy ra hoàn Điều 603. Bồi thường thiệt hại do
toàn do lỗi của người bị thiệt hại thì súc vật gây ra
người gây thiệt hại không phải bồi 1. Chủ sở hữu súc vật phải bồi
thường. thường thiệt hại do súc vật gây ra cho
Điều 605. Nguyên tắc bồi thường người khác. Người chiếm hữu, sử
thiệt hại dụng súc vật phải bồi thường thiệt hại
2. Người gây thiệt hại có thể được trong thời gian chiếm hữu, sử dụng
giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý súc vật, trừ trường hợp có thỏa thuận
mà gây thiệt hại quá lớn so với khả khác.
năng kinh tế trước mắt và lâu dài của
mình.

Trang 70
Khoản 1 Điều 625 BLDS 2005 có quy định rằng: “nếu người bị thiệt hại hoàn toàn
có lỗi trong việc làm súc vật gây thiệt hại cho mình thì chủ sở hữu không phải bồi
thường”. Điều 603 BLDS 2015 không quy định về lỗi của người bị thiệt hại. Khoản
1 Điều 603 BLDS năm 2015 bổ sung quy định về chủ thể là “người chiếm hữu, sử
dụng súc vật” phải bồi thường thiệt hại trong thời gian chiếm hữu, sử dụng động
vật, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Có thể thấy, việc bổ sung thêm trách nhiệm
của người chiếm hữu, người sử dụng súc vật là hoàn toàn phù hợp, bao quát được
mọi trường hợp xảy ra trên thực tế. Nếu như trong BLDS 2005, yếu tố “lỗi” là cần
thiết làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì trong BLDS
2015 căn cứ xác định đầu tiên là “hành vi xâm phạm”. Việc bỏ đi yếu tố lỗi của
người bị thiệt hại mà BLDS 2015 quy định có thể hiểu được. Vì theo khoản 4 Điều
585 BLDS 2015 đã có quy định nếu người bị thiệt hại có lỗi thì không được nhận
bồi thường.
Bên cạnh đó, BLDS 2015 cũng thay đổi theo hướng bên bị thiệt hại không có nghĩa
vụ chứng minh lỗi của bên gây thiệt hại là có thể yêu cầu bồi thường. Trách nhiệm
chứng minh lỗi thuộc về người gây thiệt hại trong trường hợp muốn được miễn
trách nhiệm (tại khoản 2 Điều 285 BLDS 2015) hoặc được giảm mức bồi thường
(tại khoản 2, 4 Điều 585 BLDS 2015).

8. Suy nghĩ của anh chị về việc Toà án xác định bà Nga có lỗi trong việc lợn
nhà bà Nga bị xâm hại?

Theo nhóm, việc Toà án xác định bà Nga có lỗi trong việc lợn nhà bà Nga bị xâm
hại là hoàn toàn thuyết phục. Bởi lẽ, bà Nga là chủ sở hữu của vật nuôi (con heo)
trong nhà có trách nhiệm quản lý trong coi. Theo tập quán chăn nuôi thả rông thì bà
Nga đã không trông nom, quản lý để vật nuôi đi tự do nên dẫn đến thiệt hại. Do đó,
Tòa áp dụng quy tại khoản 4 điều 625 BLDS 2005 (Điều 603 BLDS 2015) là hợp
lý.

9. Việc Toà án không buộc ông Nhã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bà Nga có
thuyết phục không? Vì sao?

Việc Toà án không buộc ông Nhã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bà Nga là thuyết
phục.
Vì ông Nhã là người sở hữu con chó, do không quản lý nên con chó đã cắn con heo
bà Nga đang đi ăn trong phần đất nhà ông Nhã. Lẽ ra ông Nhã phải bồi thường toàn

Trang 71
bộ thiệt hại nhưng bà Nga cũng là chủ sở hữu của vật nuôi là con heo bị thiệt hại.
Trong trường hợp này con heo cũng là vật nuôi trong nhà phải chịu sự giám sát của
bà Nga, nhưng bà thả rông theo tập quán, không quản lý để heo chạy vào nhà ông
Nhã nên dẫn đến xảy ra thiệt hại. Do đó, người bị thiệt hại cũng có lỗi, trong bản án
trên là bà Nga đã không quan sát con heo của mình theo khoản 4 Điều 585 BLDS
2015.
Điều 585. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại
4. Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi
thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.
Đây là điểm mới so với Điều 605 BLDS 2005 nên hai bên đều có lỗi ngang nhau và
mỗi bên chịu 50% thiệt hại áp dụng quy định tại khoản 1,4 Điều 625 BLDS 2005
(Điều 603 BLDS 2015). Vậy ông Nhã không phải chịu toàn bộ thiệt hại cho bà Nga
là hợp lý.

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ


Vấn đề 1: Thông tin trong giao kết hợp đồng
*Tóm tắt Bản án số 18A/2016/DSST ngày 15/6/2016 của Tòa án nhân dân TP.
Tuy Hoà tỉnh Phú Yên:
Nguyên đơn: ông Hà Văn Linh, bà Lê Thị Mỹ Lộc.
Bị đơn: ông Đỗ Kim Thành, bà Trần Thị Ngọc Dinh. 
Ngày 29/9/2015, vợ chồng ông Linh, bà Lộc có giao kết hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất với ông Thành, bà Dinh; vợ chồng ông Linh có đặt cọc
50.000.000 đồng cho vợ chồng ông Thành. Tuy nhiên, sau cọc, ông Linh tìm hiểu
thì được biết lô đất mà ông đang mua của vợ chồng ông Thành là đất cấp theo Nghị
định 64 và đã có thông báo thu hồi, không phải đất thổ cư như ông Thành nói, đất
thuộc quyền sở hữu của ông Trần Dậu. Tòa xét việc chuyển nhượng quyền sử dụng
đất này là không hợp pháp nên hợp đồng đặt cọc đương nhiên vô hiệu, buộc vợ
chồng ông Thành phải trả lại 50.000.000 đồng cho ông Linh.

Trang 72
1. Theo Toà án, bên bán có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho bên mua về lô đất
chuyển nhượng không?
Theo Toà án, bên bán phải có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho bên mua về lô đất
chuyển nhượng. Cụ thể:
Xét yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ông Hà Văn Linh thì thấy rằng: Mục đích vợ
chồng ông Linh mua đất là để xây dựng nhà ở mà phải là đất thổ cư theo quy định
của pháp luật; Tuy nhiên diện tích đất mà vợ chồng ông Thành bán cho vợ chồng
ông Linh là đất vườn theo nghị định 64 của Chính phủ và đã có thông báo thu hồi
đất nhưng khi giao kết hợp đồng đặt cọc vợ chồng ông Thành không cung cấp rõ
thông tin về lô đất; Mặt khác quyền sử dụng đất mà vợ chồng ông Thành chuyển
nhượng cho vợ chồng ông Linh không thuộc quyền sử hữu của mình mà của ông
Trần Dậu nhưng vợ chồng ông Thành chuyển nhượng cho vợ chồng ông Linh. Vì
vậy việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất là không hợp pháp cho nên hợp đồng
đặt cọc giữa vợ chồng ông Hà Văn Linh và vợ chồng ông Đỗ Kim Thành đương
nhiên vô hiệu.

2. Đối với hoàn cảnh như trong vụ án, BLDS 2015 có buộc bên bán phải cung
cấp thông tin về lô đất chuyển nhượng không? Vì sao?
Cơ sở pháp lý:
+ khoản 1 Điều 387 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp một bên có thông tin ảnh
hưởng đến việc chấp nhận giao kết hợp đồng của bên kia thì phải thông báo cho bên
kia biết.”
+ Điều 443 BLDS 2015:
Bên bán có nghĩa vụ cung cấp cho bên mua thông tin cần thiết về tài sản mua
bán và hướng dẫn cách sử dụng tài sản đó; nếu bên bán không thực hiện
nghĩa vụ này thì bên mua có quyền yêu cầu bên bán phải thực hiện trong một
thời hạn hợp lý; nếu bên bán vẫn không thực hiện làm cho bên mua không
đạt được mục đích giao kết hợp đồng thì bên mua có quyền hủy bỏ hợp đồng
và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Từ những nội dung được quy định trong BLDS ở trên, ta thấy khi một bên có thông
tin ảnh hưởng đến việc chấp nhận giao kết hợp đồng của bên kia thì phải có trách
nhiệm thông báo. Mục đích của hợp đồng là mang lại lợi ích cho các bên. Mỗi chủ
thể khi tham gia vào một quan hệ hợp đồng đều có cho mình những quyền và lợi
ích, tuy nhiên, việc tìm kiếm lợi ích đó không được ảnh hưởng đến quyền của bên
còn lại. Nên khi có thông tin chứa đựng nội dung quan trọng, có liên quan đến
những điều khoản cơ bản hợp đồng mang tính chất quyết định, những thông tin liên
Trang 73
quan đến chủ thể, đối tượng của hợp đồng bị thay đổi thì việc báo lại cho bên kia là
cần thiết. Việc thông báo này thể hiện sự cân bằng lợi ích giữa cá nhân và lợi ích
chung giữa những người giao kết hợp đồng với nhau, đảm bảo sự công bằng thông
tin, không dẫn đến trường hợp giao dịch dân sự lừa dối.
Ngoài ra, Điều 443, BLDS 2015 cũng có quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin
đối với tài sản chuyển nhượng. Thế nên, đối với hoàn cảnh như trong vụ án thì
BLDS 2015 đã buộc bên bán phải cung cấp thông tin về lô đất chuyển nhượng.

3. Việc Toà án đã theo hướng giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn có thuyết
phục không? Vì sao?
Theo phần Quyết định của bản án, Tòa án đã áp dụng Điều 137 “Giao dịch dân sự
vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép”. Cụ thể với bản án số 18A/2016/DSST là
giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối. Bởi vì, vợ chồng ông Thành thừa nhận bản thân
là chủ sở hữu đất tức là họ biết và buộc phải biết mảnh đất nằm trong quy hoạch và
đang bị UBND phường 9, Tp Tuy Hòa thu hồi. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng
ông Thành chuyển nhượng cho vợ chồng ông Linh không thuộc quyền sở hữu của
họ, thuộc về bên thứ ba là ông Trần Dậu. Và ban đầu, vợ chồng ông Linh cũng đã
nêu nguyện vọng là muốn tìm mua đất thổ cư, đất của vợ chồng ông Thành bán là
đất vườn theo Nghị định 64 của Chính phủ. Thế nhưng vợ chồng ông Thành vẫn
không cung cấp rõ thông tin về lô đất, ký kết hợp đồng và nhận 50.000.000 đồng
tiền cọc.
Việc Toà án đã theo hướng giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn là chưa đủ thuyết
phục. Bởi vì:
Để một giao dịch dân sự xác lập được xem là nhầm lẫn cần phải đảm bảo các điều
kiện: phải có sự nhầm lẫn của một bên; vì sự nhầm lẫn này các bên không thể đạt
được mục đích. Trong vụ việc này, bên bán là vợ chồng ông Linh, dưới tư cách chủ
sở hữu quyền sử dụng đất họ phải biết việc đất đang bị quy quy hoạch và đã có
quyết định thu. Xét về thực tế, quyền sử dụng đất thật sự cũng thuộc về bên thứ ba.
Nói việc khu đất trong trong giao dịch thuộc quy hoạch giải tỏa nhưng bên bán đã
nhầm lẫn khiến mục đích giao dịch không được thực hiện là không có căn cứ. Bởi
lẽ, nhầm lẫn là hành vi vô ý của một hoặc các bên dẫn đến không đạt được mục
đích, tuy nhiên, trường hợp của vợ chồng ông Thành có đủ căn cứ cho thấy họ
không thể nhầm lẫn sự việc về mảnh đất. Hành vi không cung cấp đầy đủ thông tin
của họ dẫn đến hiểu sai lệch về đối tượng của hợp đồng không còn là giao dịch dân
sự nhầm lẫn như ở Điều 126, BLDS 2015 mà bên bán đã cố tình che giấu đi thông
tin chính xác và đầy đủ về mảnh đất. Theo khoản 3, Điều 3 BLDS 2015 đã quy định
rằng “Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự

Trang 74
của mình một cách thiện chí, trung thực.”, song vợ chồng ông Thành đã không
trung thực cung cấp thông tin cho bên mua. Từ những căn cứ nêu trên, ta có thể
thấy đây là một giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối theo Điều 127, BLDS 2015 chứ
không thể xét theo hướng nhầm lẫn ở Điều 126 BLDS 2015.

4. Đối với hoàn cảnh như trong vụ án, BLDS 2015 có cho phép xử lý theo
hướng giao dịch chuyển nhượng vô hiệu do nhầm lẫn không? Vì sao?
Đối với hoàn cảnh như trong vụ án, BLDS 2015 có cho phép xử lý theo
hướng giao dịch chuyển nhượng vô hiệu do có nhầm lẫn. Tuy nhiên, cần phải
xác định bên nào không đạt được mục đích của mình trong trường hợp hợp
đồng bị nhầm lẫn mới có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu.49
Xét tình tiết vụ án, mục đích vợ chồng ông Linh mua đất là để xây dựng nhà ở mà
phải là đất thổ cư theo quy định pháp luật mà vợ chồng ông Thành bán cho vợ
chồng ông Linh là đất vườn theo Nghị định 64 của Chính phủ và có thông báo thu
hồi nên việc xác lập giao dịch dân sự không đúng với mục đích của nguyên đơn.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 126 BLDS 2015 thì giao dịch dân sự bị nhầm lẫn
nên vợ chồng ông bà có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu.
1. Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một
bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên
bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, trừ
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
Vậy, khi hợp đồng mà các bên xác lập bị nhầm lẫn làm cho một hoặc các bên không
đạt được mục đích của mình, hay nói cách khác việc tham gia hợp đồng của các bên
không hoàn toàn tự nguyện thì hợp đồng trên có thể bị Tòa án tuyên bố vô hiệu.

49
 Phan Nhật Thanh, Sách tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng - Bình luận
bản án, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr.135.

Trang 75
Vấn đề 2: Hợp đồng vô hiệu một phần và hậu quả hợp đồng vô hiệu
*Tóm tắt Quyết định số 22/2020/DS-GĐT ngày 23/04/2020 của Hội đồng thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao:
Ông Long mất để lại 252,6 m2 cho vợ và các con; đã được Ủy ban nhân dân huyện
Lộc Ninh cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng 252,6 m 2 đất cho hộ bà Dung. Ngày
27/7/2011, Ủy ban nhân dân Thị trấn Lộc Ninh chứng thực Hợp đồng ủy quyền thể
hiện các nguyên đơn ủy quyền cho bà Dung được là ký kết Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền. Nhưng các nguyên đơn không thừa
nhận mình ký vào Hợp đồng ủy quyền nên Hợp đồng chuyển nhượng giữa bà Dung
và bị đơn là không đúng theo quy định của pháp luật.

* Tóm tắt Quyết định số 319/2011/DS-GĐT ngày 28/03/2011 của Tòa dân sự
Tòa án nhân dân tối cao:
Nguyên đơn: Ông Trịnh Văn Vinh.
Bị đơn: Ông Đào Văn Lộc, bà Hoàng Thị Lan.
Ngày 9/9/2005, ông Vinh cùng vợ chồng ông Lộc lập hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất có diện tích 953 m2 với giá 120.000.000 đồng, tiền đặt cọc là
10.000.000 đồng, sau đó vợ chồng ông Lộc thống nhất bớt cho ông 20.000.000
đồng và lập lại hợp đồng chuyển nhượng ngày 17/7/2006. Ông Vinh đã giao
45.000.000 đồng và vợ chồng ông Lộc có nghĩa vụ giao sổ đỏ và giao đất cho ông.
Đến ngày 17/3/2007, ông biết vợ chồng ông Lộc không có sổ đỏ để giao, nên đã gặp
trao đổi, hẹn thời gian khác giao tiền nhưng vợ chồng ông Lộc không đồng ý cho
rằng thời gian trả tiền kéo dài ảnh hưởng đến quyền lợi của vợ chồng ông Lộc nên
không đồng ý chuyển nhượng. Nay ông yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất đã ký với ông Lộc, bà Lan.

1. Khi nào hợp đồng vô hiệu một phần, vô hiệu toàn bộ? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời.
Cơ sở pháp lý:
+ Điều 117 BLDS 2015 quy định về Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự:
1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với
giao dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của
luật, không trái đạo đức xã hội.

Trang 76
2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân
sự trong trường hợp luật có quy định.
+ Điều 130 BLDS 2015: “Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần khi một phần nội
dung của giao dịch dân sự vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần
còn lại của giao dịch.”
Như vậy, khi vi phạm các quy định trên thì hợp đồng vô hiệu.
Hợp đồng vô hiệu từng phần khi một phần nội dung của hợp đồng vô hiệu nhưng
không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của hợp đồng theo quy định tại
Điều 130 BLDS 2015.
BLDS 2015 không quy định thế nào là hợp đồng vô hiệu toàn bộ nhưng ta có thể
hiểu hợp đồng vô hiệu toàn bộ khi toàn bộ mục đích, nội dung của hợp đồng đó vi
phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức của xã hội hoặc một trong các bên giao
kết hợp đồng không có quyền xác lập giao dịch dân sự hoặc vi phạm một thỏa thuận
và ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại, dẫn đến toàn bộ giao dịch vô hiệu.

2. Đoạn nào cho thấy trong Quyết định số 22 đã có việc chuyển nhượng tài sản
chung của hộ gia đình mà không có sự đồng ý của tất cả các thành viên của hộ
gia đình?
Trong phần Nhận định của Tòa án cho thấy việc chuyển nhượng tài sản chung của
hộ gia đình mà không có sự đồng ý của tất cả các thành viên của hộ gia đình:
Hợp đồng ủy quyền được Ủy ban nhân dân thị trấn Lộc Ninh chứng thực
ngày 27/7/2011 thể hiện các anh, chị Khánh, Tuấn, Vy cùng ủy quyền cho bà
Dung được làm thủ tục ký kết Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
và tài sản gắn liền với đất tại Tổ 2, khu phố Ninh Thành, nhưng các anh, chị
Khánh, Tuấn, Vy không thừa nhận ký vào Hợp đồng ủy quyền nêu trên.

3. Đoạn nào trong Quyết định số 22 cho thấy Hội đồng thẩm phán theo hướng
hợp đồng chuyển nhượng trên chỉ vô hiệu một phần?
Trong phần Nhận định của Tòa án, đoạn cho thấy Hội đồng thẩm phán theo hướng
hợp đồng chuyển nhượng trên chỉ vô hiệu một phần:
Theo đó, phần quyền sử dụng, quyền sở hữu của bà Dung đã chuyển nhượng
cho vợ chồng ông Học nếu đúng quy định của pháp luật thì có hiệu lực. Còn
phần quyền sử dụng, quyền sở hữu của các anh, chị Khánh, Tuấn, Vy là vô
hiệu theo quy định tại Điều 135 Bộ luật Dân sự năm 2005.

Trang 77
4. Suy nghĩ của anh/chị về việc Hội đồng thẩm phán theo hướng hợp đồng
chuyển nhượng trên chỉ vô hiệu một phần.
Hướng giải quyết của Hội đồng thẩm phán theo hướng hợp đồng chuyển nhượng
trên chỉ vô hiệu một phần là hợp lý. Vì:
Trong trường hợp này, 252,6 m2 đất là tài sản chung của gia đình bà Dung và Tòa
án đã áp dụng theo khoản 2 Điều 109 BLDS 2005: “Việc định đoạt tài sản là tư liệu
sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ đủ
mười lăm tuổi trở lên đồng ý; đối với các loại tài sản chung khác phải được đa số
thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý”. Do đó, việc mua bán 252,6 m 2 đất
cần được sự đồng ý của anh, chị Khánh, Tuấn, Vy là phù hợp.
Tòa án đã căn cứ theo Điều 216, khoản 1 Điều 223 BLDS 2005: “1. Sở hữu chung
theo phần là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu
được xác định đối với tài sản chung; 2. Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền,
nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung tương ứng với phần quyền sở hữu của
mình, trừ trường hợp có thoả thuận khác”, “1. Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có
quyền định đoạt phần quyền sở hữu của mình theo thoả thuận hoặc theo quy định
của pháp luật”. Theo đó, phần quyền sử dụng, quyền sở hữu của bà Dung đã chuyển
nhượng cho vợ chồng ông Học nếu đúng quy định của pháp luật thì có hiệu lực.
Còn phần quyền sử dụng, quyền sở hữu của anh, chị Khánh, Tuấn, Vy là vô hiệu
theo quy định tại Điều 135 BLDS 2005. Do đó, xác định hợp đồng vô hiệu một
phần là hợp lý.
Việc xác định hợp đồng vô hiệu một phần nhằm đảm bảo quyền lợi của bà Dung
với các thành viên khác trong gia đình. Bà Dung có quyền định đoạt về phần quyền
sở hữu của mình trong khối tài sản chung, bà có quyền chuyển nhượng quyền sử
dụng đất và quyền sở hữu tài gắn liền với đất cho ông Học và bà Mỹ theo đúng quy
định pháp luật thì hợp đồng có hiệu lực. Còn quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài
sản gắn liền với đất của các anh chị Khánh, Tuấn, Vy không có sự đồng ý của anh,
chị nên không được chuyển nhượng, dẫn đến vô hiệu. Hướng giải quyết của Tòa án
là hoàn toàn phù hợp.

5. Thay đổi về hậu quả của hợp đồng vô hiệu giữa BLDS 2005 và BLDS 2015.

BLDS năm 2005 BLDS năm 2015

Khoản 2 Điều 137 BLDS 2005: Khoản 2, 3 Điều 131 BLDS


“Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục 2015:
lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì “2. Khi giao dịch dân sự vô

Trang 78
đã nhận;… trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, hiệu thì các bên khôi phục lại
lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp tình trạng ban đầu, hoàn trả
luật...” cho nhau những gì đã nhận…
3. Bên ngay tình trong việc
thu hoa lợi, lợi tức không phải
hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức
đó.”

Thứ nhất, các chế định về hoa lợi, lợi tức và chủ thể bồi thường thiệt hại,
BLDS 2015 quy định hẳn sang một khoản khác, xem như ngang bằng với nghĩa vụ
“khôi phục tình trạng ban đầu, trả lại cho nhau những gì đã nhận”. Khoản 2 Điều
137 BLDS 2005 lại theo hướng vấn đề hoa lợi và lợi tức là vấn đề “khôi phục lại
tình trạng ban đầu” là chưa hợp lý vì hoa lợi, lợi tức hoàn toàn có thể phát sinh sau
khi giao dịch được xác lập, nếu khôi phục lại tình trạng ban đầu sẽ thiếu công bằng
đối với bên hưởng lợi từ hoa lợi, lợi tức. Thấy rằng, BLDS 2015 tách vấn đề hoa
lợi, lợi tức ra khỏi quy định về khôi phục lại tình trạng ban đầu là phù hợp.
Thứ hai, hoa lợi, lợi tức theo quy định tại BLDS 2015 nếu là “bên ngay tình”
thì “không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó”. Trong khi BLDS 2005 lại quy định
theo hướng hoa lợi, lợi tức không phải trả lại trong trường hợp “bị tịch thu theo quy
định của pháp luật”, tức là khi pháp luật có yêu cầu tịch thu hoa lợi, lợi tức thu được
thì người thu được nó phải nộp cho Nhà nước thay vì hoàn trả cho bên kia. Còn
BLDS 2015 thì ngầm định chỉ cần người đó ngay tình thì những hoa lợi, lợi tức thu
được sẽ vẫn thuộc sở hữu của người đó mà không phải hoàn trả lại cho người có
quyền liên quan. Hướng quy định mang hướng tiến bộ, bảo vệ lợi ích của người
ngay tình.
Thứ ba, BLDS 2015 quy định thêm: “Việc giải quyết hậu quả của giao dịch
dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan
quy định”. Việc bổ sung thêm chế định này sẽ làm đầy đủ hơn trách nhiệm pháp lý
của các bên gây ra thiệt hại, đồng thời bảo vệ tối đa nhất lợi ích của những người bị
xâm phạm đến các quyền nhân thân.
Khoản 2 Điều 133 BLDS 2015: “Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng
tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển
giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn
cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô
hiệu”. Quy định này đã bảo đảm quyền lợi hơn cho bên ngay tình, đồng thời nâng
cao vai trò của việc đăng ký tài sản tại các cơ quan Nhà nước.
Trang 79
6. Trong Quyết định số 319, lỗi của các bên được Tòa giám đốc thẩm xác định
như thế nào?
Tòa giám đốc thẩm xác định cả hai bên cùng có lỗi.
Tại phần xét thấy: “Trong trường hợp này ông Vinh mới trả được 45.000.000 đồng
trên tổng giá trị thửa đất trên tổng giá trị thửa đất 100.000.000 đồng tức là mới trả
45% giá trị thửa đất, cả hai bên cùng có lỗi thì khi giải quyết hậu quả của hợp đồng
vô hiệu ông Vinh chỉ được bồi thường thiệt hại là ½ chênh lệch giá của 45% giá trị
thửa đất theo giá thị trường.”
Tòa xác định mỗi bên có ½ lỗi. Lỗi này cũng được Tòa sơ thẩm xác định trước đó.

7. Quyết định số 319, Tòa dân sự cho biết ông Vinh sẽ được bồi thường như thế
nào?
Trong phần Xét thấy của Bản án có đoạn: “Việc xác định thiệt hại của hợp đồng vô
hiệu cũng không chính xác. Trong trường hợp này ông Vinh mới trả được
45.000.000 đồng trên tổng giá trị thửa đất 100.000.000 đồng tức là mới trả 45% giá
trị thửa đất, cả hai bên cùng có lỗi khi giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu ông
Vinh chỉ được bồi thường thiệt hại là ½ chênh lệch giá của 45% giá trị thửa đất theo
giá thị trường, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm lại buộc vợ chồng ông Lộc bồi
thường thiệt hại ½ giá trị toàn bộ thửa đất theo giá thị trường là không đúng.”

8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa dân sự.
Hướng giải quyết trên Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao là hoàn toàn
thuyết phục. Việc xác định khoản tiền chênh lệch là thiệt hại hoàn toàn có cơ
sở pháp lý. Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP xác định thiệt hại có nói đến
“Thiệt hại còn bao gồm khoản tiền chênh lệch giá trị quyền sử dụng đất do
các bên thỏa thuận với giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm xét xử sơ thẩm
hoặc các thiệt hại khác, nếu có”.50
Cách xác định khoản tiền bồi thường dựa trên chênh lệch giá trị thửa đất theo giá thị
trường hợp lý hơn cách xác định 50/50, mỗi bên chịu ½ giá trị thửa đất theo giá trị
thị trường. Vì cả hai bên đều có lỗi mà xác định cho ông Vinh được bồi thường một
nửa giá trị thửa đất theo giá trị thị trường thì không hợp tình, không đảm bảo quyền
lợi cho vợ chồng ông Lộc. Do đó, việc Tòa hủy bản án dân sự phúc thẩm số
128/2007/DSPT và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 156/2007/DSST là hoàn toàn hợp
lý.

50
Phan Mạnh Thăng, Cách thức xác định khoản chênh lệch giá trị tài sản, https://luatlongphan.vn/chenh-
lech-gia-tri-tai-san-luc-bat-dau-giao-dich-den-khi-phat-sinh-tranh-chap-co-duoc-xem-la-thiet-hai, truy cập
ngày 08/11/2022.
Trang 80
9. Với các thông tin trong Quyết định số 319, ông Vinh sẽ được bồi thường
khoản tiền cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?
Với các thông tin trong quyết định số 319, ông Vinh sẽ được bồi thường khoản tiền
cụ thể là 52.548.750đ. Vì theo biên bản định giá thửa đất 953 m 2 hiện nay có giá trị
là 333.550.000đ. Như vậy, giá chênh lệch là 233.550.000đ. Nên theo quyết định số
319 thì phần bồi thường thiệt hại là 1/2 chênh lệch giá trị của 45% giá trị thửa đất
theo giá thị trường nên ta có công thức như sau: 233.550.000đ x 45% x ½ =
52.548.750đ là số tiền ông Vinh sẽ được bồi thường.

Trang 81
Vấn đề 3: Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ có thời hạn
*Tóm tắt Quyết định số 05/2020/KDTM-GĐT ngày 26/02/2020 của HĐTP Tòa
án nhân dân tối cao:
Nguyên đơn: Công ty TNHH K.N.V (Bên A)
Bị đơn: Công ty TNHH sản xuất và thương mại phân bón Cửu Long Việt Nam (Bên
B); Ngân hàng TMCP Việt Á.
Bên A ký hợp đồng mua bán phân bón với Bên B có tổng giá trị 15 tỷ 300 triệu
đồng, thời hạn Bên B bắt đầu giao hàng chậm nhất cho bên A là 20 ngày làm việc
kể từ ngày bên V nhận tiền ký quỹ tạm ứng của bên A. Bên A thanh toán tạm ứng
cho bên B số tiền tương đương 20% tổng giá trị hợp đồng ngay sau khi hai bên ký
kết hợp đồng.
Bên A đã chuyển vào tài khoản bên B tại ngân hàng Việt Á số tiền như đã thỏa
thuận nhưng bên B đã không giao hàng đúng thời hạn thỏa thuận, vi phạm nghĩa vụ
giao hàng nên bên A khởi kiện yêu cầu bên B chịu phạt 5% giá trị hợp đồng và trả
lãi tiền ký quỹ/tạm ứng cho Bên A. Đồng thời, việc ngân hàng Việt Á không gửi
công văn có nội dung bên A phải Thư bảo lãnh bản gốc cho ngân hàng mà từ chối
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh là không thể chấp nhận. Tòa cấp sơ thẩm và phúc thẩm
đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bên A. Tòa giám đốc thẩm quyết định giữ nguyên
bản án phúc thẩm.

1. Thư bảo lãnh của Ngân hàng có thời hạn như thế nào?
Thư bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước ngày 14/4/2016 và Thư tu chỉnh bảo lãnh ngày
04/5/2016 gia hạn hiệu lực của Thư bảo lãnh đến 17 giờ 00 phút ngày 09/5/2016 do
Ngân hàng Việt Á phát hành.
Cơ sở pháp lý:
+ điểm đ khoản 14 Điều 3 Thông tư 11/2022/TT-NHNN: “Thư bảo lãnh là cam kết
của bên bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh về việc bên bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ
tài chính thay cho bên được bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc
thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh”.
+ khoản 6 Điều 13 Thông tư 11/2022/TT-NHNN, thời hạn hiệu lực và nội dung của
thư bảo lãnh được xác định như sau:
a) Thư bảo lãnh có hiệu lực kể từ thời điểm phát hành cho đến thời điểm ít
nhất sau 30 ngày kể từ thời hạn giao, nhận nhà theo cam kết tại hợp đồng
mua, thuê mua nhà ở, trừ trường hợp nghĩa vụ bảo lãnh chấm dứt theo quy
định tại Điều 23 Thông tư này. Trường hợp ngân hàng thương mại và chủ
đầu tư chấm dứt hợp đồng bảo lãnh nhà ở hình thành trong tương lai trước

Trang 82
thời hạn, các thư bảo lãnh đã phát hành cho các bên mua trước đó vẫn có
hiệu lực cho đến khi nghĩa vụ bảo lãnh chấm dứt;
b) Ngoài các nội dung theo quy định tại khoản 1 Điều 16 Thông tư này, thư
bảo lãnh còn phải có nội dung nêu rõ nghĩa vụ tài chính của chủ đầu tư được
ngân hàng thương mại bảo lãnh.

2. Nghĩa vụ của Cty Cửu Long đối với Cty KNV có phát sinh trong thời hạn
bảo lãnh của Ngân hàng không?
Nghĩa vụ của Công ty Cửu Long đối với Công ty KNV có phát sinh trong thời hạn
bảo lãnh của Ngân hàng vì:
Do Công ty Cửu Long vi phạm nghĩa vụ giao hàng nên trước 17 giờ 00 phút
ngày 09/5/2016, Công ty K.N.V đã có Công văn số 01 đề nghị Ngân hàng
Việt Á thực hiện trách nhiệm bảo lãnh. Ngân hàng Việt Á đã nhận được văn
bản này, đồng thời có thông báo số 54/TB/CNBD/16 ngày 09/5/2016 gửi
Công ty Cửu Long về việc Công ty K.N.V yêu cầu Ngân hàng Việt Á hoàn
trả tiền ứng trước theo Thư bản lãnh. Trong cùng ngày, Ngân hàng Việt Á có
Công văn số 04/TB/CNBD/16 gửi Công ty K.N.V thông báo về việc Công ty
Cửu Long đề nghị Ngân hàng Việt Á tạm thời ngưng việc hoàn trả tiền tạm
ứng.

3. Theo Toà án nhân dân tối cao, khi người có quyền (Cty KNV) khởi kiện
Ngân hàng trả nợ thay sau khi thời hạn bảo lãnh kết thúc thì Ngân hàng có còn
trách nhiệm của người bảo lãnh không? Đoạn nào của Quyết định có câu trả
lời?
Theo Tòa án nhân dân tối cao, khi người có quyền (Công ty KNV) khởi kiện Ngân
hàng trả nợ thay sau khi thời hạn bảo lãnh kết thúc thì Ngân hàng có trách nhiệm
của người bảo lãnh vì:
Đến ngày 11/5/2016, khi đã hết thời hạn hiệu lực của Thư bảo lãnh, Ngân
hàng Việt Á mới có Thông báo số 56TB/CNBD/16 gửi Công ty K.N.V về
việc không thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh với lý do chưa nhận được Thư bảo
lãnh bản gốc trước 17 giờ 00 phút ngày 09/5/2016. Sau khi nhận được thông
báo của Ngân hàng, ngày 12/5/2016, Công ty K.N.V đã gửi Thư bảo lãnh
gốc cho Ngân hàng. Như vậy, lý do từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của
Ngân hàng Việt Á là không thể chấp nhận được.

4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao.
Ngân hàng Việt Á có trách nhiệm trả nợ thay cho Công ty Cửu Long mặc dù
thời hạn bảo lãnh đã kết thúc theo nhóm là hợp lý.
Trang 83
Nghĩa vụ bảo lãnh của Ngân hàng là nghĩa vụ có điều kiện, theo đó khoản 1
Điều 335 BLDS quy định bên bảo lãnh “sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có
nghĩa vụ, nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ, các bên cũng có thể thỏa thuận về việc
bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng
thực hiện nghĩa vụ của mình”. Ở đây khi đến thời hạn giao hàng cho Công ty KNV,
Công ty Cửu Long lại giao hàng chậm mà theo thỏa thuận của các bên từ trước, việc
cố tình trì hoãn, chậm giao hàng, không giao hàng mà do lỗi của Công ty Cửu Long
thì phải chịu phạt 5% giá trị hợp đồng và trả lãi ký quỹ/tạm ứng cho Công ty KNV.
Về việc xác định trách nhiệm của người bảo lãnh: Bảo lãnh chỉ là biện pháp
bảo đảm cho nghĩa vụ được bảo lãnh, nghĩa vụ của người bảo lãnh chỉ là nghĩa vụ
phụ so với nghĩa vụ được bảo lãnh “Do Công ty Cửu Long vi phạm nghĩa vụ giao
hàng nên trước 17 giờ 00 phút ngày 09/5/2016, Công ty K.N.V đã có Công văn số
01 đề nghị Ngân hàng Việt Á thực hiện trách nhiệm bảo lãnh. Ngân hàng Việt Á đã
nhận được văn bản này, đồng thời có thông báo số 54/TB/CNBD/16 ngày
09/5/2016 gửi Công ty Cửu Long về việc Công ty K.N.V yêu cầu Ngân hàng Việt Á
hoàn trả tiền ứng trước theo Thư bản lãnh”. Phía Ngân hàng đã nhận được đề nghị
thực hiện trách nhiệm bảo lãnh từ Công ty KNV do đó có thể xác định trách nhiệm
bảo lãnh của Ngân hàng.
Tuy nhiên, Ngân hàng Việt Á lấy lý do “Thư bảo lãnh hoàn trả tiền ứng
trước ngày 14/4/2016 và Thư tu chỉnh bảo lãnh ngày 04/5/2016 gia hạn hiệu lực của
Thư bảo lãnh đến 17 giờ 00 phút ngày 09/5/2016 do Ngân hàng Việt Á phát hành”,
trong Công văn số 04/TB/CNBD/16 Ngân hàng Việt Á không đề cập đến nội dung
Ngân hàng từ chối trách nhiệm bảo lãnh và cũng không yêu cầu Công ty KNV gửi
Thư bảo lãnh bản gốc cho Ngân hàng ngày 09/5/2016. “Đến ngày 11/5/2016, khi
đã hết thời hạn hiệu lực của Thư bảo lãnh, Ngân hàng Việt Á mới có Thông báo số
56TB/CNBD/16 gửi Công ty K.N.V về việc không thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh với
lý do chưa nhận được Thư bảo lãnh bản gốc trước 17 giờ 00 phút ngày 09/5/2016.
Sau khi nhận được thông báo của Ngân hàng, ngày 12/5/2016, Công ty K.N.V đã
gửi Thư bảo lãnh gốc cho Ngân hàng. Như vậy, lý do từ chối thực hiện nghĩa vụ
bảo lãnh của Ngân hàng Việt Á là không thể chấp nhận được”.
Như vậy, đối với nghĩa vụ phát sinh trong thời hạn bảo lãnh nhưng chưa thực
hiện thì bảo lãnh ngân hàng vẫn còn giá trị.

Trang 84
Vấn đề 4: Giảm mức bồi thường do hoàn cảnh kinh tế khó khăn
Tình huống: Anh Nam là người thuộc quản lý của UBND xã, đã vô ý gây thiệt hại
cho bà Chính khi thực hiện công việc được UBND xã giao. Thực tế, thiệt hại quá
lớn so với khả năng kinh tế của anh Nam và Tòa án đã áp dụng các quy định về
giảm mức bồi thường do thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của anh Nam để
ấn định mức bồi thường.

1. Từng điều kiện được quy định trong BLDS để giảm mức bồi thường do thiệt
hại quá lớn so với khả năng kinh tế.
Cơ sở pháp lý:
+ khoản 2 Điều 585 BLDS 2015
+ điểm 2.2.c khoản 2 Điều 1 mục I Nghị quyết số 03/2006.
Điều kiện được quy định trong BLDS để giảm mức bồi thường do thiệt hại quá lớn
so với khả năng kinh tế là:
Thứ nhất, chủ thể được yêu cầu giảm. Trước đây BLDS 2005 quy định tại
khoản 2 Điều 605: “2. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường,
nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và
lâu dài của mình” theo đó chủ thể yêu cầu giảm mức BTTH là người gây
thiệt hại, bỏ qua trường hợp thiệt hại do tài sản gây ra.Việc quy định như vậy
đã gây khó khăn trong quá trình xét xử. Ngày nay, BLDS 2015 đã có quy
định khác tại khoản 2 Điều 585: “2. Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và
thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.” Ta thấy rằng, chủ thể
được giảm mức bồi thường là người chịu trách nhiệm bồi thường có thể được
giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn
so với khả năng kinh tế của mình. Chế định này được áp dụng cho người
chịu trách nhiệm bồi thường do người hoặc tài sản gây ra.51
Đây là điểm mới của BLDS 2015 khắc phục được hạn chế của BLDS 2005
chủ thể được giảm bồi thường không còn bó hẹp trong trường hợp người gây thiệt
hại.
Thứ hai về hoàn cảnh gây ra thiệt hại. BLDS 2005 có nêu người gây thiệt
hại do lỗi vô ý mới được giảm mức bồi thường thiệt hại do đó nếu gây thiệt hại do
lỗi cố ý thì người gây thiệt hại vẫn chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại, dù
cho mức bồi thường đó quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt hoặc lâu dài của
họ.

51
Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam, Bản án và bình luận bản án (Xuất bản lần
thứ 3), NXB Hồng Đức  - Hội Luật gia Việt Nam.
Trang 85
Dưới góc độ lý thuyết thì các hành vi vi phạm pháp luật do lỗi cố ý là thể
hiện sự “chống đối” xã hội cao hơn các hành vi do lỗi vô ý. Do đó nguyên
tắc này không đặt vấn đề giảm bồi thường trong trường hợp người gây thiệt
hại do lỗi cố ý.52
Về khái niệm lỗi vô ý, không giống với phần trách nhiệm do vi phạm nghĩa
vụ dân sự đã tồn tại giữa các bên, BLDS không nêu rõ lỗi vô ý trong phần BTTH
ngoài hợp đồng là gì. Theo Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP “vô ý gây thiệt hại là
trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại
mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi
của mình có khả năng gây thiệt hại nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc
có thể ngăn chặn được”.
So với BLDS trước đây, BLDS 2015 đã tiến bộ hơn khi đặt ra điều kiện “nếu
không có lỗi hoặc có lỗi vô ý”, ngược lại trong trường hợp gây thiệt hại do cố ý thì
không được yêu cầu giảm mức bồi thường. BLDS 2015 bổ sung thêm trường hợp
được phép giảm mức bồi thường khi người chịu trách nhiệm BTTH không có lỗi
như do thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được giảm mức bồi thường.
Thứ ba, thiệt hại quá lớn. Để có thể giảm mức BTTH bên cạnh chủ thể yêu
cầu và hoàn cảnh gây thiệt hại thì điều kiện tiếp theo là thiệt hại xảy ra quá lớn so
với khả năng kinh tế của người chịu trách nhiệm bồi thường.
Trước đây BLDS 2005 có xuất hiện cụm từ khả năng kinh tế “trước mắt và
lâu dài”, ngày nay trong BLDS 2015 cụm từ này không được giữ lại nhưng
hướng áp dụng vẫn giống như trước vì cụm từ này bàn về khả năng chịu
trách nhiệm BTTH. 53
Người chịu trách nhiệm BTTH là chủ thể có khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài
khó khăn, không đảm bảo cho việc BTTH toàn bộ thì có thể giảm mức bồi thường,
mức bồi thường có thể thấp hơn so với thiệt hại thực tế. Theo GS TS Đỗ Văn Đại,
thực tế việc xác định như thế nào là thiệt hại quá lớn so với thiệt hại thực tế là vấn
đề phức tạp, các cơ quan có trách nhiệm cũng chưa có giải thích cụ thể hoặc hướng
dẫn chi tiết. “Khái niệm thiệt hại quá lớn không thể quy định cụ thể bởi cùng thiệt
hại với đại lượng không đổi đối với cá nhân này là rất lớn nhưng với người khác lại
không coi là lớn”54. Do đó, để xác định điều kiện này cần phải xem xét tùy hoàn
cảnh của vụ án.

52
Tưởng Duy Lượng: Nguyên tắc tính mức bồi thường do danh dự nhân phẩm uy tín của cá nhân bị xâm
phạm, Tạp chí Tòa án Nhân dân số 4/2003.
53
Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam, Bản án và bình luận bản án (Xuất bản lần
thứ 3), NXB Hồng Đức  - Hội Luật gia Việt Nam.
54
Ngô Quỳnh Hoa và Vũ Thị Hiền : Hỏi đáp pháp luật về BTTH , NXB. Lao động – xã hội , 2003.
Trang 86
Điều kiện thứ tư là khi có người bồi thường thay. Trong thực tế có trường
hợp một người gây thiệt hại nhưng theo pháp luật quy định buộc người khác phải
BTTH thay cho họ. Chẳng hạn như cha mẹ BTTH do con chưa chưa thành niên gây
ra, pháp nhân BTTH do người của pháp nhân gây ra, người sử dụng người làm công
BTTH do người làm công gây ra. Vấn đề đặt ra những trường hợp trên có thể áp
dụng quy định về giảm mức BTTH do khó khăn về khả năng kinh tế hay không?
Thực tiễn xét xử, Tòa án theo hướng không áp dụng nhưng nếu hai bên đều khó
khăn về khả năng kinh tế thì có thể xem xét giảm mức bồi thường. Bởi chế định trên
được sinh ra để tạo điều kiện cho người bị thiệt hại được bồi thường nhanh chóng
đặc biệt khi người gây thiệt hại có hoàn cảnh khó khăn.
Tóm lại, BLDS 2015 quy định người chịu trách nhiệm BTTH có thể được
giảm mức BT nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng
kinh tế. Trong trường hợp hành vi gây thiệt hại có người khác chịu trách nhiệm bồi
thường thay do pháp luật quy định thì điều kiện để giảm mức BTTH là xem xét các
điều kiện trên cả người gây thiệt hại và người chịu trách nhiệm bồi thường thay, nếu
chỉ xét điều kiện liên quan đến người gây thiệt hại thì chúng ta không cho giảm mức
bồi thường để bảo vệ lợi ích người bị thiệt hại.

2. Trong tình huống nêu trên, việc Tòa án áp dụng các quy định về giảm mức
bồi thường do thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của anh Nam để ấn
định mức bồi thường có thuyết phục không? Vì sao?
Trong tình huống nêu trên, việc Tòa án áp dụng các quy định về giảm mức bồi
thường do thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của anh Nam để ấn định mức
bồi thường không thuyết phục. Bởi vì:
Cơ sở pháp lý:
+ khoản 2 Điều 585 BLDS 2015.
+ khoản 2 Điều 605 BLDS 2005.
+ Điều 597 BLDS 2015.
Anh Nam là người của pháp nhân và được pháp nhân phân công thực hiện
nhiệm vụ. Khi anh Nam gây thiệt hại cho bà Chính là trong lúc đang thi hành nhiệm
vụ mà UBND giao cho nên việc bồi thường thiệt hại phải áp dụng quy định Điều
597 BLDS 2015 BTTH do người của pháp nhân gây ra. Hành vi của anh đã được
UBND bảo trợ chịu trách nhiệm BTTH đã được pháp luật quy định do đó UBND
phải chịu trách nhiệm BTTH.
Hơn nữa nếu chỉ xem xét điều kiện hoàn cảnh của người gây thiệt hại trong
hành vi đã có người khác chịu trách nhiệm BT thay, để giảm mức bồi thường sẽ gây
bất lợi cho người thiệt hại nên để đáp ứng nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời

Trang 87
thiệt hại thì pháp nhân có người gây thiệt hại trong lúc đang thực hiện nhiệm vụ
phải BTTH hại cho người bị thiệt hại. Chế định này tạo điều kiện cho người bị thiệt
hại sớm nhận được bồi thường, nhất là trong trường hợp người gây thiệt hại có hoàn
cảnh khó khăn.
Do đó nếu chỉ “xem xét hoàn cảnh của người đã gây thiệt hại trong hành vi
gây thiệt hại đã có người khác chịu trách nhiệm bồi thường thay thì chúng ta
đã vô hiệu hóa các quy định thiết lập cơ chế bồi thường thay làm ảnh hưởng
tới quyền lợi của người bị thiệt hại như mức bồi thường.”55
Vì vậy hướng giải quyết trên của Tòa là không thuyết phục, ảnh hưởng tới quyền lợi
của người được bồi thường.

55
Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam, Bản án và bình luận bản án (Xuất bản lần
thứ 3), NXB Hồng Đức  - Hội Luật gia Việt Nam.

Trang 88
Vấn đề 5: Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
*Tóm tắt Quyết định số 30/2010/DS-GĐT ngày 22/01/2010 của Tòa dân sự Tòa
án nhân dân tối cao Trà:
Ngày 17-01-2003, công ty điện lực do ông Nguyễn Văn Bạch làm đại diện có ký
hợp đồng bản điện sinh hoạt cho anh Nguyễn Văn Xưa, nhưng người ký tên là anh
Trần Văn Ri. Hợp đồng quy định trách nhiệm bên mua điện phải có nghĩa vụ sử
dụng điện an toàn, chịu trách nhiệm quản lý từ đầu dây ra của công tơ điện. Ngày
10-5-2003, cháu Nguyễn Hữu Lợi bị điện giật chết do đường dây điện kéo ngang
bên trên mái nhà anh Dũng bị hở mạch điện. Tòa án sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm
nhận định anh Công khởi kiện không đúng đối tượng để bác yêu cầu khởi kiện của
ông Công là không đúng, gây thiệt hại cho quyền lợi của gia đình anh Công. Do đó
Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao hủy bản án dân dự phúc thẩm số 540/2006/DS-
PT và bản án dân sự sơ thẩm số 226/2006/DS-ST về vụ án “Đòi bồi thường tính
mạng”.

1. Đoạn nào của Quyết định cho thấy Tòa án đã vận dụng chế định bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra?
Đoạn của Quyết định cho thấy Tòa án đã vận dụng chế định bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra: “Khi giải quyết vụ án, Tòa án các cấp cần xác định
rõ đường dây điện đó do ai quản lí, sử dụng; từ đó căn cứ vào Điều 623 BLDS và
nghị định số 45/2001/NĐCP ngày 02-08-2001 của chính phủ quy định về hoạt động
điện lực và sử dụng điện để giải quyết.”

2. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định đây là bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Theo nhóm, Tòa xác định đây là bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra phù hợp. Bởi vì:
Thứ nhất, Hệ thống tải điện là loại nguồn nguy hiểm cao độ. Chỉ những hệ
thống tải điện đang hoạt động thì mới được xem là nguồn nguy hiểm cao độ và đang
tải dòng điện có áp lực lớn. Như vậy, đường dây tải điện phục vụ cho sinh hoạt của
hộ gia đình, đang hoạt động, có điện áp từ 110V trở lên là 1 nguồn nguy hiểm cao
độ.
Thứ hai, điều kiện phát sinh bồi thường thiệt hại:
+ Có thiệt hại xảy ra trên thực tế: tòa án xác định có thiệt hại xảy ra: cháu Hữu bị
điện giật chết. Như vậy đã có thiệt hại xảy ra cho tính mạng con người. Số tiền thiệt
hại ở đây được xác định và yêu cầu bồi thường là 28 triệu đồng.

Trang 89
Sự thiếu sót trong việc mắc dây dẫn điện, là hành vi lắp đặt hệ thống điện không
đảm bảo an toàn. Tuy vậy, hành vi lắp đặt điện không đảm bảo an toàn không trực
tiếp làm điện giật chết người mà chỉ là nguyên nhân làm rò rỉ điện. Và khi cháu hữu
trực tiếp chạm vào vật dẫn điện trong nhà thì bị điện giật dẫn điện tử vong. Tuy
nhiên, theo pháp luật quy định người quản lý khai thác các loại điện nói chung phải
có trách nhiệm quản lý sử dụng cẩn thận, kỹ lưỡng, đồng thời phải chịu trách nhiệm
do thiệt hại gây ra. Do đó, toà án xác định thiệt hại tính mạng là do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra, nên chủ sở hữu hoặc người quản lý, sử dụng phải có trách
nhiệm bồi thường.
+ Có quan hệ nhân quả xảy ra: cháu Hữu bị điện giật chết là do đường dây hạ thế
(sau công tơ tổng) bị hở mạch điện.
Như vậy, trong vụ việc trên, toà án xác định bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ là hoàn toàn thuyết phục.

3. Tòa dân sự có cho biết ai là chủ sở hữu đường dây điện hạ thế gây thiệt hại
không?
Theo Tòa án dân sự thì Tòa chưa cho biết ai là chủ sở hữu đường dây điện hạ thế
gây thiệt hại. Cụ thể theo Tòa án:
Trong trường hợp này, nếu anh Công khởi kiện không đúng đối tượng thì
Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm phải hướng dẫn anh Công khởi
kiện đúng đối tượng. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm nhận định
anh Công khởi kiện không đúng đối tượng để báo yêu cầu khởi kiện của anh
Công là không đúng gây thiệt hại đến quyền lợi của gia đình anh Công. Khi
giải quyết vụ án Tòa án các cấp cần xác định rõ đường dây đó do ai quản lý,
sử dụng từ đó căn cứ vào Điều 623 Bộ luật dân sự và Nghị định số 45/ 2001/
NĐCP ngày 02-08-2001 của Chính phủ quy định về hoạt động điện lực và sử
dụng điện để giải quyết.

4. Theo anh/chị, ai là chủ sở hữu đường dây hạ thế gây thiệt hại?
Theo nhóm, chủ sở hữu đường dây hạ thế gây thiệt hại là Công ty điện lực 2.
Đối với hệ thống điện, cơ cấu của các đơn vị điện lực Việt Nam bao gồm khá
nhiều cấp quản lý, khai thác khác nhau, như âm vị phát điện, truyền tải điện,
phân phối điện, điều độ hệ thống điện quốc gia, buôn bán điện, bán lẻ điện...
Có thể xác định được hệ thống tải điện từng cấp độ thuộc về những đơn vị cụ
thể, nhưng đơn vị bán lẻ điện chính là chủ sở hữu đầu cuối của bên cung
ứng, còn người mua điện là cá nhân, pháp nhân sử dụng điện.56
56
Đại học Luật TP. HCM (2020), Sách tình huống: Pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng (Bình luận bản án), Nhà xuất bản Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tr.555.
Trang 90
Tại quyết định kháng nghị số 581/2009/KN-DS:
Ngày 17/01/2003, Công ty điện lực 2 do ông Nguyễn Văn Bạch (Trưởng Chi nhánh
điện Cái Bè) là đại diện có hợp đồng mua bán điện do ông Nguyễn Văn Xua (Sua)
đại diện (ông Sua đứng tên trên hợp đồng mua điện nhưng người ký tên là ông Trần
Văn Ri).
Công ty điện lực 2 là đơn vị bán lẻ, đã ký hợp đồng mua bán điện với Tổ điện 4 (do
ông Nguyễn Văn Xua đại diện đứng tên trong hợp đồng). Như vậy, có thể xác định
Công ty điện lực 2 là chủ sở hữu đường dây hạ thế gây thiệt hại và Tổ điện 4 là chủ
thể quản lý, sử dụng đường dây nêu trên.

5. Theo Tòa dân sự, chủ thể nào sẽ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho
gia đình nạn nhân?
Theo Tòa dân sự, người quản lý, sử dụng đường dây sẽ chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại cho gia đình nạn nhân. Cụ thể:
Khi giải quyết vụ án Tòa án các cấp cần xác định rõ đường dây đó do ai quản
lý, sử dụng từ đó căn cứ vào Điều 623 Bộ luật dân sự và Nghị định số 45/
2001/ NĐCP ngày 02-08-2001 của Chính phủ quy định về hoạt động điện
lực và sử dụng điện để giải quyết.

6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân
tối cao liên quan đến xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
cho gia đình nạn nhân.
Hướng xử lý trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao liên quan đến xác định
chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình nạn nhân là hợp lý.
Cơ sở pháp lý: khoản 2,3 Điều 601 BLDS 2015:
2. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu,
sử dụng thì người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
3. Chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi
thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ trường hợp sau đây:
a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Có thể thấy, Điều khoản trên xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ khi nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại mà không dựa trên yếu tố lỗi của các đối

Trang 91
tượng trên. Lý do là vì tự thân các nguồn nguy hiểm cao độ này có thể gây ra
thiệt hại cho cá nhân tổ chức khác mà không phải do lỗi của chủ sở hữu,
người sử dụng, bảo quản, trông giữ, vận chuyển. Vì đây là nguồn nguy hiểm
cao độ nên khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người
chiếm hữu, quản lý, vận hành… phải bồi thường. Việc quy định như vậy
nhằm nhanh chóng khắc phục thiệt hại cho người bị hại.57
Việc quy định như vậy cũng đáp ứng được yêu cầu về nguyên tắc bồi thường thiệt
hại kịp thời quy định tại khoản 1 Điều 585 BLDS 2015, bảo đảm quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị thiệt hại.
Tòa Giám đốc thẩm cũng nhận định rằng việc Tòa cấp Sơ thẩm và Phúc thẩm không
xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình nạn nhân mà
cho rằng anh Công khởi kiện không đúng đối tượng để bác yêu cầu khởi kiện của
anh công là không đúng, gây thiệt hại đến quyền lợi của gia đình nạn nhân.
Có thể thấy, Tòa Giám đốc thẩm đã đưa ra hướng xử lý trên hoàn toàn phù hợp với
nguyên tắc bồi thường thiệt hại và mục đích đảm bảo quyền lợi cho gia đình nạn
nhân.

57
Đại học Luật TP. HCM (2021), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng vả bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
(Tái bản lần thứ 1, có sửa đổi và bổ sung, Nhà xuất bản Hồng Đức, tr. 421.

Trang 92
Vấn đề 6: Bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra
* Tóm tắt Bản án số 02/2015/HSST ngày 15/4/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh
Phú Yên:
Ngô Thanh Kiều trộm cắp tài sản, ngày 13/5/2012 Nguyễn Minh Quyền, Phạm
Ngọc Mẫn, Nguyễn Tấn Quang, Đỗ Như Huy, Nguyễn Thân Thảo Thành các trinh
sát viên, điều tra viên Công an Thành phố Tuyên hòa về trật tự xã hội công an tỉnh
Phú Yên được phân công tiến hành hoạt động điều tra canh giữ đối tượng Ngô
Thanh Kiều đã có hành vi cầm tay dùng dùi cui cao su đánh nhiều cái và người
Kiều dẫn đến Kiều tử vong. Căn cứ vào kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ
khác trong hồ sơ vụ án, lời khai của nhân chứng, biên bản đối chất, kết quả thực
nghiệm điều tra thì đủ cơ sở xác định trong quá trình canh giữ Thành đã có hành vi
dùng dùi cui cao su đánh vào đầu Ngô Thanh Kiều là nguyên nhân chính dẫn đến
Kiều Tử Vong, các bị cáo Nguyễn Thân Thảo Thành, Nguyễn Minh Quyền, Phạm
Ngọc Mẫn, Nguyễn Tấn Quang đều khai nhận là nhìn thấy lẫn nhau trong việc dùng
dùi cui cao su đánh Ngô thân Kiều.

1. Những khác biệt cơ bản về thiệt hại được bồi thường khi một cá nhân chết
theo Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và BLDS.

  Luật trách nhiệm bồi Bộ luật dân sự


thường của Nhà nước

Cơ sở Điều 25; khoản 4 Điều + mục 2 phần II Nghị quyết 03/2006.


pháp 27 Luật trách nhiệm bồi
+ Khoản 2 Điều 591 BLDS 2015
lý thường của Nhà nước
2017.

Chi Chi phí cho việc mai Chi phí hợp lý cho việc mai táng bao gồm:
phí táng người bị thiệt hại các khoản tiền mua quan tài, các vật dụng cần
mai chết được xác định theo thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương,
táng mức trợ cấp mai táng nến, hoa, thuê xe tang và các khoản chi khác
theo quy định của pháp phục vụ cho việc chôn cất hoặc hỏa táng nạn
luật về bảo hiểm xã hội. nhân theo thông lệ chung. Không chấp nhận
yêu cầu bồi thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn
uống, xây mộ, bốc mộ...

Trang 93
Tổn Thiệt hại về tinh thần mức tối đa cho một người có tính mạng bị
thất trong trường hợp người xâm phạm không quá một trăm lần mức lương
tinh bị thiệt hại chết được cơ sở do Nhà nước quy định.
thần xác định là 360 tháng
lương cơ sở.

  Mức bồi thường tổn thất tinh thần trong Luật trách nhiệm bồi thường
nhà nước cao hơn Luật dân sự.

2. Hoàn cảnh như trong vụ việc trên có được Luật trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước điều chỉnh không? Vì sao?
Hoàn cảnh như trong vụ việc trên được Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
điều chỉnh. Bởi vì:
Cơ sở pháp lý:
+ khoản 1 Điều 7 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước về “Căn cứ xác định
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước”:
Nhà nước có trách nhiệm bồi thường khi có đủ các căn cứ sau đây:
a) Có một trong các căn cứ xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành
công vụ gây thiệt hại và yêu cầu bồi thường tương ứng quy định tại khoản 2
Điều này;
b) Có thiệt hại thực tế của người bị thiệt hại thuộc phạm vi trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước theo quy định của Luật này;
c) Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại thực tế và hành vi gây thiệt hại.
+ điểm c khoản 2 Điều 7 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước về “Căn cứ xác
định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước”:
Căn cứ xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây thiệt
hại và yêu cầu bồi thường tương ứng bao gồm:
c) Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án hình sự đã xác định có hành vi trái
pháp luật của bị cáo là người thi hành công vụ gây thiệt hại thuộc phạm vi
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính, tố
tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án hình sự, thi hành án dân sự và có
yêu cầu bồi thường trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Thứ nhất, dựa vào Bản án số 02/2015/HSST ta đã xác định được người có hành vi
trái pháp luật là nguời thi hành công vụ.
Thứ hai, đã có thiệt hại xảy ra là Ngô Thanh Kiều tử vong.

Trang 94
Thứ ba, có mối quan hệ nhân quả là hành vi của Nguyễn Minh Quyền, Phạm Ngọc
Mẫn, Nguyễn Tấn Quang, Đỗ Như Huy, Nguyễn Thân Thảo Thành dẫn đến hậu quả
là Ngô Thanh Kiều tử vong.
Do vậy, đã đủ căn cứ để xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước theo Điều 7
Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước về “Căn cứ xác định trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước”.

3. Nếu hoàn cảnh như trong vụ án trên xảy ra sau khi BLDS 2015 có hiệu lực,
hướng giải quyết có khác hướng giải quyết trong vụ án không? Vì sao?
Nếu hoàn cảnh như trong vụ án trên xảy ra sau khi BLDS 2015 có hiệu lực, hướng
giải quyết sẽ khác hướng giải quyết trong vụ án. Bởi vì:
Cơ sở pháp lý:
+ khoản 2 Điều 610 BLDS 2005 “Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm”: “Mức bồi
thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận
được thì mức tối đa không quá sáu mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy
định.”
+ khoản 2 Điều 591 BLDS 2015 “Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm”: “Mức bồi
thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận
được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá một trăm
lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”
BLDS 2015 đã tăng mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần từ tối đa 60 tháng
lương tối thiểu do Nhà nước quy định lên 100 lần mức lương cơ sở do Nhà nước
quy định. Sự thay đổi này là rất hợp lý, vì nó có lợi cho phía người bị hại đồng
thwoif cho thấy tổn thất về tinh thần được xem trọng hơn lúc trước.
Theo hướng giải quyết của Tòa án Bản án số 02/2015/HSST thì Tòa án đã xét về
tiền bù đắp tổn thất tinh thần tòa án để theo Điều 610 BLDS 2005, chấp nhận mức
bồi thường tối đa bằng 60 tháng lương tối thiểu: 60 x 1.150.000 đồng/tháng bằng
69.000.000 đồng.
Như vậy, nếu như sau khi BLDS 2015 có hiệu lực, Tòa án sẽ quyết định được mức
bồi thường tối đa bằng 100 tháng lương tối thiểu: 100 x 1.150.000 đồng/tháng bằng
115.000.000 đồng.

Trang 95
BÀI TẬP THÁNG THỨ NHẤT
Vấn đề 1: Được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật
*Tóm tắt Bản án số 19/2017/DS-ST ngày 03/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện
Long Hồ tỉnh Vĩnh Long.
Nguyên đơn: Ngân hàng NN & PTNTVN (Ngân hàng)
Bị đơn: Anh Đặng Trường T
Chị Huỳnh Diệu T nộp số tiền 5.000.000đ tại chi nhánh của Ngân hàng tại Vĩnh
Long để chuyển cho anh T. Tuy nhiên, chị V là kế toán chi nhánh đã chuyển nhầm
số tiền 50.000.000đ. Anh T đã rút 25.000.000đ tiền mặt và chuyển khoản
20.000.000đ trả nợ cho chị gái. Khi phát hiện sai sót, Ngân hàng đã phong tỏa tài
khoản và thông báo đến anh T về việc chuyển nhầm nhưng sau nhiều lần cam kết
hoàn trả số tiền trên, anh T vẫn không thực hiện nên Ngân hàng đã khởi kiện yêu
cầu anh T trả lại số tiền 40.000.000đ và tính lãi chậm trả cho đến khi anh T trả xong
số tiền. Sau đó ngân hàng có rút lại yêu cầu tính lãi. Tòa án quyết định buộc anh T
trả cho Ngân hàng số tiền nêu trên.
1. Thế nào là được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật?
Theo quy định tại khoản 2 Điều 579 BLDS 2015 BLDS 2015 "Được lợi về tài sản
không có căn cứ pháp luật" được hiểu như sau:
Người được lợi về tài sản là người có khối tài sản được gia tăng nhưng họ có
thể biết hoặc buộc phải biết, có thể không biết và cũng không buộc phải biết
việc giá trị tài sản tăng lên. Ví dụ: được trả nhầm tiền, được người khác
chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng… Tuy nhiên, cho dù người đó có biết
hay không biết và không buộc phải biết về việc được lợi thì họ vẫn phải thực
hiện nghĩa vụ hoàn trả tài sản cho người bị thiệt hại.58
Theo khoản 4 Điều 580: “Người được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật
phải hoàn trả khoản lợi về tài sản đó cho người bị thiệt hại bằng hiện vật hoặc bằng
tiền.” và Điều 581 quy định về việc hoàn trả hoa lợi, lợi tức từ được lợi về tài sản
không có căn cứ pháp luật.
"Unjust enrichment" (được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật) trong pháp luật
Hoa Kỳ: Trích từ Quyết định của Thẩm phán McEvers: Được lợi về tài sản không
có căn cứ pháp luật là một suy đoán pháp lý được áp dụng để đạt được công lý khi
mà không tồn tại một hợp đồng trên thực tế. Yếu tố căn bản của học thuyết được lợi
về tài sản không có căn cứ pháp luật là bị đơn được hưởng lợi từ nguyên đơn và sẽ
là không công bằng nếu như bị đơn được lợi mà không phải thanh toán giá trị của
khoản lợi này. Theo án lệ của các bang của Hoa Kỳ, được lợi về tài sản không có

58
Nguyễn Văn Cừ - Trần Thị Huệ (2017), Bình luận khoa học bộ luật dân sự 2015, NXB CAND,tr.865.
Trang 96
căn cứ pháp luật là một nguyên tắc pháp lý theo đó nếu một người được lợi về tài
sản không có căn cứ với chi phí của người khác thì phải hoàn trả cho người đó chi
phí đã bỏ ra.
Theo Điều 1102 Bộ luật dân sự Nga quy định nếu một người có được hoặc giữ được
tài sản mà không có căn cứ theo quy định của pháp luật, theo hành vi pháp lý hoặc
trên cơ sở giao dịch, bằng chi phí của người khác (nạn nhân) thì phải có nghĩa vụ
hoàn trả cho nạn nhân tài sản đã có được hoặc giữ được trừ trường hợp quy định tại
Điều 1109 của Bộ luật này.
Theo Điều 1302 BLDS Pháp, người đã nhận tài sản hoặc lợi ích trong trường hợp
này có nghĩa vụ hoàn trả tài sản hoặc lợi ích đó, người được lợi trong trường hợp
này phải trả cho người bị thiệt hại hoặc khoản thiệt hại mà người này gánh chịu,
hoặc khoản lợi mà người kia được hưởng tuỳ theo khoản nào có giá trị nhỏ hơn.
2. Vì sao được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật là căn cứ phát sinh
nghĩa vụ?
Theo Khoản 4 Điều 275 được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật là căn cứ
phát sinh nghĩa vụ: “Chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc được lợi về tài sản không có
căn cứ pháp luật.”
Nếu chiếm hữu, sử dụng được lợi về tài sản có căn cứ pháp luật được bảo vệ
bằng công cụ pháp lý thì chiếm hữu, sử dụng được lợi về tài sản không có
căn cứ pháp luật sẽ phát sinh nghĩa vụ hoàn trả cho chủ sở hữu , người chiếm
hữu hợp pháp tài sản đó. 59
3. Trong điều kiện nào người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật có
trách nhiệm hoàn trả?
Thứ nhất, có sự gia tăng giá trị tài sản hoặc sự thụ hưởng lợi ích. Khoản 2 Điều
579 BLDS nhắc đến người được lợi về tài sản một cách chung chung. Có thể là sự
xuất hiện yếu tố mới trong khối tài sản có (một người nhận của ai được một khoản
lợi nào đó ) hoặc sự biến mất của một hoặc nhiều yếu tố trong khối tài sản nợ (một
món nợ của bản thân được người khác trả hộ,...), một người không bị mất một cái gì
đó về tài sản mà đáng ra không bị mất một cái gì đó về tài sản mà đáng ra họ phải
mất.
Thứ Hai, có sự thiệt hại về tài sản mà người khác gánh chịu. Theo khoản
2 Điều 579 BLDS ghi nhận thiệt hại mà một người phải gánh chịu như là
điều kiện để áp dụng điều luật. Đây là điểm tạo sự khác biệt giữa được lợi về
tài sản mà không có căn cứ pháp luật và chiếm hữu, sử dụng tài sản mà
không có căn cứ pháp luật.60

59
Nguyễn Văn Cừ - Trần Thị Huệ(2017), Bình luận khoa học bộ luật dân sự 2015, NXB CAND,tr 464.
Trang 97
Thật ra, yêu cầu “bị thiệt hại” trong quy định hiện hành là điều khó hiểu và
chúng ta nên hiểu bản thân việc chiếm hữu, sử dụng hay được lợi về tài sản
không có căn cứ pháp luật của một người đối với tài sản, phần lợi của người
khác đã làm cho người này có thiệt hại phát sinh đối với một người do chính
việc người khác được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.61
Thứ Ba, có mối liên hệ nhân quả giữa việc một người được lợi và một người
khác chịu thiệt hại.
Điều quan trọng, để tình trạng được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật
được ghi nhận là giữa sự thiệt hại của một người là tình trạng được lợi của
một người khác có mối liên hệ nhân quả: chính sự thiệt hại của người này là
nguyên nhân việc được lợi của người kia. 62
Thứ Tư, thế nào là không có căn cứ pháp luật? Tình trạng được lợi về tài
sản không có căn cứ pháp luật được ghi nhận trong điều kiện không có bất
kỳ một quy tắc pháp lý nào có thể được dùng để đặt cơ sở cho việc được lợi
đó. “Ở đây chính việc được lợi của một người là thiệt hại của bên kia và làm
cho bên kia bị thiệt hại”63
Thứ Năm, không có căn cứ pháp luật. Nếu tình trạng được lợi có căn cứ pháp
luật, thì người bị thiệt hại không thể kiện cáo, ngay cả trong trường hợp tình trạng
thiệt hại là không hợp lý đối với người bị thiệt hại.
Thứ Sáu, người được lợi không có lỗi, theo giáo trình Luật dân sự của Trường Đại
học Luật Hà Nội để phát sinh nghĩa vụ hoàn trả được lợi về tài sản không có căn cứ
pháp luật người được lợi về tài sản không có lỗi về điều này được hiểu là khi được
lợi về tài sản người được lợi không biết mà coi là tài sản đó là của mình.
Khi người này biết hay không biết tài sản này không là của mình (không có
căn cứ pháp luật) thì họ vẫn phải hoàn trả và yếu tố biết hay không biết này
chỉ ảnh hưởng tới việc hoàn trả hoa lợi lợi tức được quy định tại điều 584 bộ
luật dân sự 2015 nếu ngay tình thì không phải hoàn trả hoa lợi lợi tức. Ngược
lại nếu không ngay tình thì phải hoàn trả hoa lợi lợi tức. 64

60
Nguyên Ngọc Điện, “Tiêu chí nhận diện và hệ quả pháp lý của việc chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc được
lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật”, http://lapphap.vn/Pages/TinTuc/210482/Tieu-chi-nhan-dien-
va-he-qua-phap-ly-cua-viec-chiem-huu--su-dung-tai-san-hoac-duoc-loi-ve-tai-san-ma-khong-co-can-cu-
phap-luat.html, truy cập ngày 06/10/2022.
61
Đỗ Văn Đại (2017), Luật Nghĩa vụ và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam, NXB Hồng Đức hội luật gia
Việt Nam, tr120.
62
Nguyên Ngọc Điện, “Tiêu chí nhận diện và hệ quả pháp lý của việc chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc được
lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật”, http://lapphap.vn/Pages/TinTuc/210482/Tieu-chi-nhan-dien-va-
he-qua-phap-ly-cua-viec-chiem-huu--su-dung-tai-san-hoac-duoc-loi-ve-tai-san-ma-khong-co-can-cu-phap-
luat.html, truy cập ngày 06/10/2022.
63
Đỗ Văn Đại (2017), Luật Nghĩa vụ và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam, NXB Hồng Đức hội luật gia
Việt Nam Nam, tr121.
Trang 98
4. Trong vụ việc được bình luận, đây có là trường hợp được lợi về tài sản
không có căn cứ pháp luật không? Vì sao?
Người được lợi về tài sản  là người có khối tài sản được gia tăng nhưng họ có
thể biết hoặc buộc phải biết, có thể không biết và cũng không buộc phải biết
việc giá trị tài sản tăng lên.65
Theo đó, chị V đã chuyển nhầm số tiền 50.000.000đ thay vì 5.000.000đ cho anh T.
Như vậy, số tiền của anh T đã được tăng lên 45.000.000đ. Đối với mức tiền có sự
chênh lệch lớn như vậy, anh T “bắt buộc phải biết về việc giá trị tài sản tăng lên” và
anh đã dùng số tiền đó để trả nợ cho chị gái. Đây được xem là trường hợp được lợi
về tài sản không có căn cứ pháp luật.
5. Nếu Ngân hàng không rút yêu cầu tính lãi chậm trả thì phải xử lý như thế
nào? Cụ thể, anh T có phải chịu lãi không? Nếu chịu lãi thì chịu lãi từ thời
điểm nào, đến thời điểm nào và mức lãi là bao nhiêu?
Nếu Ngân hàng không rút yêu cầu tính lãi chậm trả thì anh T sẽ phải chịu lãi.
Theo khoản 2 Điều 579 BLDS 2015:
Người được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật làm cho người khác
bị thiệt hại thì phải hoàn trả khoản lợi đó cho người bị thiệt hại, trừ trường
hợp quy định tại Điều 236 của Bộ luật này.
Theo đó, khi được thông báo về việc chuyển nhầm vào ngày 07/11/2016, ngân hàng
có quyền đòi và anh T đã phát sinh nghĩa vụ phải trả lại số tiền mà ngân hàng đã
chuyển nhầm.
Đến ngày 12/11/2016, Công an huyện V phối hợp với Công an xã LP, huyện LH
qua làm việc với anh T và anh cam kết đến ngày 14/11/2016 trả 20.000.000 đồng và
ngày 21/11/2016 trả 20.000.000 đồng còn lại. Anh T đã cam kết trả lại số tiền trên
vào ngày 12/11/2016. Đây được xem là thời điểm phát sinh nghĩa vụ hoàn trả lại
khoản tiền trên của anh T cho ngân hàng.
Tuy nhiên, khi đến hạn cam kết, tức hết ngày 21/11/2016. anh T vẫn không thực
hiện. Đây có thể được xem là thời điểm và căn cứ phát sinh lãi chậm trả đối với anh
T. 
Theo khoản 1 Điều 357 BLDS 2015: “Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì
bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.”
Anh T sẽ phải chịu lãi chậm trả tính từ ngày 22/11/2016 cho đến khi hoàn trả hết số
tiền trên. Phần lãi trả chậm này được xem như là một dạng “lợi tức” quy định tại
Điều 581.

64
Đỗ Văn Đại (2017), Luật Nghĩa vụ và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam, NXB Hồng Đức hội luật gia
Việt Nam Nam, tr122.
65
Nguyễn Văn Cừ - Trần Thị Huệ, tlđd(1), tr 865.
Trang 99
Khoản 2 Điều 357 cũng có đề cập đến việc xác định lãi suất và thời điểm trả lãi:
Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các
bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1
Điều 468 của Bộ luật này; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy
định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này.
Điều 468 quy định:
1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận
không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác
có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của
Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất
nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định
tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.
2. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ
lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức
lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ.
Vậy anh T sẽ phải chịu mức lãi suất 10%/năm của khoản tiền 40.000.000đ.
Vấn đề 2: Giao kết hợp đồng có điều kiện phát sinh
Tóm tắt Quyết định số 09/2022/DS-GĐT ngày 30/3/2022 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao.
Nguyên đơn: ông Trần Thế Nhân.
bà Lê Thị Hồng Lan.
ông Trần Nhật Minh.
bà Đặng Ngọc Diễm .
Bị đơn: bà Phan Minh Yến.
Về việc Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hợp đồng ủy
quyền.
Năm 2007, tài sản là nhà đất tọa lạc tại Khu vực 4, phường Phú hưng, quận Cái
Răng, thành phố Cần Thơ của ông Nhân, bà Lan bị thu hồi để thực hiện dự án tái
định cư do Công ty Phát triển nhà Cần Thơ làm chủ đầu tư. Ông Nhân được nhận
nền tái định cư 60m2, nhưng theo thiết kế là 92,5 m2 với số tiền đóng thêm là
66.060.000 đồng. Sau khi nhận nền số 281A3, ngày 21/11/2013, vợ chồng ông
Nhân kí kết “Văn bản thỏa thuận chuyển nhượng lô đất nền” với bà Yến với giá
520.000.000 đồng và đã nhận đủ. Song, do có nhu cầu nhà ở và do thấy thỏa thuận
không đúng nên nguyên đơn khởi kiện hủy. Hủy Quyết định giám đốc thẩm số
45/2021/DS-GĐT ngày 18/01/2021 của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp
Trang 100
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh; hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 57/2020/DS - PT
ngày 18/6/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ; hủy Bản án dân sự sơ
thẩm số 52/2019/DS-ST ngày 02/8/2019 của Tòa án nhân dân quận Cái Răng, thành
phố Cần Thơ. Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 72/2021/KN -
DS ngày 29/11/2021 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
1. BLDS có cho biết thế nào là hợp đồng giao kết có điều kiện phát sinh
không?
Khái niệm Hợp đồng có điều kiện được quy định tại khoản 6 Điều 402 BLDS 2015:
“Hợp đồng có điều kiện là hợp đồng mà việc thực hiện phụ thuộc vào việc phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một sự kiện nhất định.” Vậy hợp đồng có điều kiện là
một loại hợp đồng dân sự được giao kết hợp pháp nhưng hiệu lực của hợp đồng còn
phụ thuộc vào sự kiện, điều kiện do các bên thỏa thuận. Theo đó, để hợp đồng được
có hiệu lực thực hiện, thay đổi, chấm dứt thì sự kiện phải phát sinh hoặc chấm dứt.
Sự kiện này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể giao
kết hợp đồng.
2. Trong trường hợp bên chuyển nhượng tài sản chưa có quyền sở hữu tại thời
điểm giao kết nhưng đang làm thủ tục hợp thức hóa quyền sở hữu, có quy định
nào của BLDS coi đây là hợp đồng giao kết có điều kiện không?
Khoản 1 Điều 120 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp các bên có thỏa thuận về
điều kiện phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự thì khi điều kiện đó xảy ra, giao
dịch dân sự phát sinh hoặc hủy bỏ.” Như vậy, Có thể coi việc hợp thức hóa tài sản
như một sự kiện. Khi sự kiện này xảy ra thì có thể dẫn đến việc hợp đồng được giao
kết.
Chẳng hạn, khi các bên xác lập hợp đồng mua bán có điều kiện phát sinh thì, khi
điều kiện chưa xảy ra, hợp đồng mua bán chưa tồn tại nên chưa thể áp dụng các quy
định tương ứng của hợp đồng mua bán tài sản: không thể coi giao dịch trái với quy
định hay vi phạm điều cấm khi nó chưa tồn tại và cũng không thể tuyên bố hợp
đồng vô hiệu vì hợp đồng này chưa tồn tại.
3. Trong Quyết định số 09, Tòa án nhân dân tối cao có coi hợp đồng trên là
hợp đồng giao kết có điều kiện không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả
lời?
Trong Quyết định số 09, Tòa án nhân dân tối cao đã coi hợp đồng trên là hợp đồng
giao kết có điều kiện. Đoạn thể hiện điều đó là:
[7] Căn cứ vào nội dung thỏa thuận nêu trên giữa các bên thì “Văn bản thỏa thuận
về việc chuyển nhượng lô nền” là giao dịch có điều kiện, đó là khi vợ chồng ông
Nhân, bà Lan được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với lô đất nền thì phải
ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà Yến theo đúng quy định của
Trang 101
pháp luật; trường hợp ông Nhân, bà Lan không thực hiện việc ký hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng lô đất nền này thì phải bồi thường cho bà Yến gấp 03 (ba)
lần số tiền đã nhận và các khoản chi phí khác mà bà Yến đã cho Nhà nước (nếu có).
4. Ngoài Quyết định số 09, còn có bản án/quyết định nào khác đề cập đến vấn
đề này không? Nêu một bản án/quyết định mà anh/chị biết.
Theo Quyết định số 09/2022/DS-GĐT ngày 30/3/2022: vợ chồng ông Nhân cùng vợ
chồng ông Minh (con ông Nhân, bà Lan) ký kết với bà Phan Minh Yến “Văn bản
thỏa thuận về việc chuyển nhượng lô nền” cho bà Yến lô đất số 281A3 khu tái định
cư phường Hưng Phú, quận Cái Răng với giá chuyển nhượng là 520.000.000 đồng
và đã nhận đủ. Tại khoản 1 Điều 3 của hợp đồng giao kết thì nguyên đơn có trách
nhiệm ký hợp đồng chuyển nhượng chính thức cho bị đơn sau khi có giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, nếu bên nguyên đơn không thực hiện hoặc đổi ý không bán
thì phải bồi thường gấp ba lần số tiền đã nhận của bà Yến (bị đơn) và tất cả các chi
phí, các khoản tiền khác mà bà Yến đã nộp cho Nhà nước. Theo Tòa án đây là hợp
đồng có điều kiện.
Một vụ việc tương tự khác:
Quyết định số 403/2011/DS - GĐT ngày 25/5/2011 của Tòa án dân sự Tòa án nhân
dân tối cao. Căn cứ vào hồ sơ vụ án, vào ngày 18/5/2007 tại Phòng công chứng số
3, Thành phố Hồ Chí Minh, bà Thu và bà Ngọc có ký hợp đồng đặt cọc để đảm bảo
cho việc chuyển nhượng quyền sử dụng 138m2 đất tại ấp Bình Đường 2. Theo nội
dung hợp đồng thì bên A (bà Ngọc) hứa sau khi hoàn tất thủ tục chuyển nhượng
quyền sử dụng diện tích đất nêu trên sẽ chuyển nhượng cho bên B (bà Thu) với giá
400.000.000 đồng. Bên B nhận chuyển nhượng đất sau khi bên A làm xong thủ tục
chuyển nhượng. Như vậy, đây là hợp đồng có điều kiện là khi nào hoàn tất thủ tục
chuyển nhượng quyền sử dụng đất sẽ chuyển nhượng.
5. Theo Hội đồng thẩm phán, cho đến khi bà Lan được Cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng có tranh chấp đã tồn tại chưa?
Có vô hiệu không? Vì sao?
Theo Hội đồng thẩm phán, cho đến khi bà Lan được Cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng có tranh chấp là không tồn tại. Vì “Văn bản
thỏa thuận về việc chuyển nhượng lô nền” ngày 21/11/2013 giữa vợ chồng ông
Nhân, bà Lan với bà Yến không phải là Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất mà là giao dịch bằng văn bản giữa các bên về việc cam kết chuyển nhượng
quyền sử dụng đất mà là giao dịch bằng văn bản giữa các bên về việc cam kết
chuyển nhượng quyền sử dụng đất và trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu bên
chuyển nhượng không thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận và cam kết; giao dịch bằng
văn bản cam kết chuyển nhượng quyền sử dụng đất này là tự nguyện, phù hợp với
Trang 102
quy định của pháp luật. Do đó, “Văn bản thỏa thuận chuyển nhượng lô nền” giữa vợ
chồng ông Nhân, bà Lan với bà Yến không bị vô hiệu nhưng chưa phát sinh hiệu
lực do tại thời điểm ông Nhân, bà Lan khởi kiện vào ngày 20/7/2018 thì điều kiện
làm phát sinh hiệu lực của giao dịch chưa xảy ra vì đến ngày 04/9/2018 bà Lan mới
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong trường hợp này, vợ chồng ông
Nhân, bà Lan có quyền đơn phương chấm dứt việc cam kết ký kết hợp đồng chuyển
nhượng theo thỏa thuận tại “Văn bản thỏa thuận về việc chuyển nhượng lô nền”
ngày 21/11/2013 và phải bồi thường gấp 3 lần số tiền đã nhận theo thỏa thuận.
6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết nêu trên của Hội đồng thẩm phán.
Hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm phán là hợp lý. Vì căn cứ vào khoản 1
Điều 3 của “Văn bản thỏa thuận về việc chuyển nhượng lô đất nền” giữa hai bên có
nội dung quy định: “Bên A có trách nhiệm phải ký hợp đồng chuyển nhượng chính
thức theo yêu cầu bên B sau khi có giấy chứng nhận QSD đất mà không kèm theo
bất cứ điều kiện gì, nếu không thực hiện hoặc đổi ý không bán, bên A phải bồi
thường gấp ba lần số tiền đã nhận của bên B và tất cả các chi phí, các khoản tiền
khác mà bên B đã nộp cho Nhà nước.” Do đó, sau khi có giấy chứng nhận Quyền sử
dụng đất nếu vợ chồng ông Nhân, bà Lan không thực hiện hoặc đổi ý không bán thì
phải bồi thường gấp 3 lần số tiền đã nhận cho bà Yến theo thoả thuận.
7. Suy nghĩ của anh/chị về việc vận dụng các quy định liên quan đến giao kết
hợp đồng có điều kiện phát sinh.
Theo quy định tại Điều 120 và khoản 6 Điều 402 BLDS 2015 thì đối với hợp đồng
có điều kiện mà các bên có thỏa thuận về điều kiện phát sinh hiệu lực của hợp đồng
(thỏa thuận về một sự kiện mà khi sự kiện đó xảy ra các bên mới được thực hiện
hợp đồng) thì việc hợp đồng đó có hay không phát sinh hiệu lực, các bên có hay
không được thực hiện hợp đồng, phụ thuộc vào việc có hay không xảy ra sự kiện do
các bên thỏa thuận.
Thông thường hợp đồng được xem là giao kết (tồn tại) khi các bên thống
nhất với nhau về nội dung nhưng trong một số trường hợp thống nhất giữa
các bên về nội dung của hợp đồng chưa đủ để hình thành hợp đồng vì việc
giao kết hợp còn phụ thuộc vào một điều kiện nào đó.66
Về nguyên tắc, theo quy định tại Điều 120 và Điều 402 BLDS 2015 thì điều kiện
chỉ khi phát sinh, thay đổi, chấm dứt sự kiện là điều kiện của hợp đồng thì hợp đồng
mới được thực hiện.
Mặt khác, Bộ luật dân sự còn quy định tại khoản 1 Điều 284 BLDS 2015:
Trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định về điều kiện
66
Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án (Tập 1); Nxb. Hồng Đức - Hội luật gia
Việt Nam, tr.231.
Trang 103
thực hiện nghĩa vụ thì khi điều kiện phát sinh, bên có nghĩa vụ phải thực
hiện.”. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy nhiều trường hợp các bên không có
thỏa thuận và Tòa án cũng chưa xác định được thời điểm phát sinh điều kiện
là thời điểm nào? 67
Theo xét xử tại Quyết định số 09/2022/DS-GĐT của Hội đồng thẩm phán, các bên
đều thống nhất hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng lô đất nền số 281A3,
nhưng hợp đồng chưa tồn tại vì còn phụ thuộc vào điều kiện trong tương lai, và chỉ
khi điều kiện đó phát sinh hai bên sẽ phải thực hiện giao dịch đã thỏa thuận. Tại
thời điểm giao dịch dân sự bắt đầu tồn tại thì giao dịch có hiệu lực không cũng còn
tùy thuộc vào việc có thỏa mãn những điều kiện về nội dung và hình thức để có hiệu
lực hay không. Trong sự việc trên, trước khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đối với lô đất nền số 281A3, bên nguyên đơn không tiếp tục thực hiện việc
chuyển nhượng quyền sử dụng lô đất nền như đã thoả thuận tại khoản 1 Điều 3 của
“Văn bản thỏa thuận về việc chuyển nhượng lô đất nền” dẫn đến hợp đồng bị vô
hiệu về hình thức.
Qua Quyết định trên, cho thấy rằng Tòa án đã vận dụng rất hợp lý bằng việc căn cứ
vào điều kiện phát sinh của giao dịch để xử lý các vấn đề liên quan đến giao kết hợp
đồng có phát sinh điều kiện một cách thuyết phục, nhằm đảm bảo được quyền lợi
của các bên trong quan hệ giao kết hợp đồng.

67
Hội luật gia Việt Nam, Sách Tình huống Pháp luật hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb.
Hồng Đức, tr.237.
Trang 104
Vấn đề 3: Hợp đồng chính/phụ vô hiệu
1. Thế nào là hợp đồng chính và hợp đồng phụ? Cho ví dụ minh họa đối với
mỗi loại hợp đồng.
Hợp đồng chính là hợp đồng mà hiệu lực không phụ thuộc vào hợp đồng phụ
(khoản 3 Điều 402 BLDS 2015).
VD: Hợp đồng vay tiền là một hợp đồng độc lập, mà không nhất thiết phải được bảo
đảm bằng tài sản thế chấp. Ngay cả khi việc vay tiền là có thế chấp tài sản bảo đảm
đi nữa mà điều khoản thế chấp (nếu thế chấp là một điều khoản trong hợp đồng vay)
hoặc hợp đồng thế chấp (nếu thế chấp được lập thành văn bản riêng) bị vô hiệu, thì
hiệu lực của hợp đồng vay tiền vẫn không bị ảnh hưởng.
Hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính (khoản 4
Điều 402 BLDS 2015).
VD: Hợp đồng vay tiền có bảo lãnh. Ở đây, hợp đồng vay là hợp đồng chính và hợp
đồng bảo lãnh là hợp đồng phụ.
2. Trong vụ việc trên, ai là người (chủ thể) có nghĩa vụ trả tiền cho Ngân hàng?
Trong vụ việc trên, Công ty Thiên Minh có nghĩa vụ trả tiền cho Ngân hàng. Vì
giữa Công ty Thiên Minh và Ngân hàng tồn tại hợp đồng vay tài sản. Theo Điều
463 BLDS 2015: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó, bên
cho vay giao tài sản cho bên vay, khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho
vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa
thuận hoặc pháp luật có quy định”. Do đó, phía Công ty Thiên Minh có nghĩa vụ trả
nợ theo khoản 1 Điều 466 BLDS 2015: “Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền
khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng,
trừ trường hợp có thỏa thuận khác.” Trong tình huống có đề cập đến việc Ngân
hàng cho Công ty Thiên Minh vay một số tiền. Ngoài ra, theo khoản 1 Điều 335
BLDS 2015: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết
với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho
bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện
nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa
vụ.” Và cũng theo khoản 2 Điều này: “Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo
lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên
được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.” Trong trường hợp
này, phía Công ty Thiên Minh là chủ thể có nghĩa vụ trong hợp đồng vay và việc
này được bà Quế đứng ra bảo lãnh bằng một phần bất động sản thuộc sở hữu chung
của vợ chồng bà Quế. Bà Quế chỉ phát sinh nghĩa vụ trả tiền cho Ngân hàng khi đến
thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà Công ty Thiên Minh không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ.
Trang 105
3. Bà Quế tham gia quan hệ trên với tư cách gì? Vì sao?
Bà Quế tham gia quan hệ với tư cách là người thứ ba bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ
của Công ty Thiên Minh, được dân chứng trong tình huống như sau: “Ngân hàng
cho Công ty Thiên Minh vay một số tiền. Việc vay này được bà Quế đứng ra bảo
lãnh bằng một bất động sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng bà Quế”. Căn cứ theo
khoản 1 Điều 335 BLDS 2015: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên
bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện
nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến
thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ”. Do đó có thể xác định được tư cách của bà Quế trong quan
hệ này là bên bảo lãnh.
4. Việc Tòa án tuyên bố hợp đồng thế chấp trên vô hiệu có thuyết phục không?
Vì sao?
Việc Tòa án tuyên bố hợp đồng thế chấp trên vô hiệu là thuyết phục. Bởi vì:
Cơ sở pháp lý:
+ Khoản 1 Điều 408 BLDS 2015 quy định về “Hợp đồng vô hiệu do có đối tượng
không thể thực hiện được” như sau: “Trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp đồng có
đối tượng không thể thực hiện được thì hợp đồng này bị vô hiệu.”
+ Khoản 2, khoản 3 Điều 213 BLDS 2015 quy định về “Sở hữu chung của vợ
chồng” như sau:
2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang
nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
3. Vợ chồng thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản chung.
Trong tình huống trên, việc vay của công ty Thiên Minh được bà Quế đứng ra bảo
lãnh bằng một bất động sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng bà Quế. Việc bảo
lãnh bằng bất động sản đã được công chứng nhưng không có sự đồng ý của chồng
bà Quế. Dựa vào cơ sở pháp lý Điều 213 BLDS 2015 thì khi bà Quế định đoạt tài
sản chung của vợ chồng bà (bất động sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng bà
Quế), thì phải có sự đồng ý của chồng bà, có nghĩa cả hai vợ chồng bà Quế phải
thỏa thuận và cùng đồng ý thống nhất với nhau thì bất động sản trên mới được định
đoạt hợp pháp. Trong tình huống này, chồng bà Quế không đồng ý nên ta có thể áp
dụng khoản 1 Điều 408 BLDS 2015 quy định về “Hợp đồng vô hiệu do có đối
tượng không thể thực hiện được” như sau: “Trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp
đồng có đối tượng không thể thực hiện được thì hợp đồng này bị vô hiệu.”, như vậy
bất động sản trên thuộc trường hợp là đối tượng không thể thực hiện được do ngay

Trang 106
từ đầu không có sự đồng ý của chồng bà Quế nên giao dịch không xảy ra được. Vậy
có thể kết luận Việc Tòa án tuyên bố hợp đồng thế chấp trên vô hiệu là thuyết phục.
5. Theo Tòa án, bà Quế có còn trách nhiệm gì đối với Ngân hàng không?
Theo Tòa án, bà Quế không còn trách nhiệm gì đối với Ngân hàng. Đoạn thể hiện
Tòa án cho rằng bà Quế không còn trách nhiệm gì đối với Ngân hàng là: “Tòa án
xét rằng “hợp đồng thế chấp trên bị vô hiệu” và “không có cơ sở để buộc bà Quế
phải chịu trách nhiệm dân sự đối với các khoản nợ nêu trên.”
6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án trong vụ việc trên liên
quan đến trách nhiệm của bà Quế.
Hướng giải quyết của Tòa án trong vụ việc trên liên quan đến trách nhiệm của bà
Quế là chưa hợp lý. Bởi vì:
Cơ sở pháp lý:
+ Điều 407 BLDS 2015 quy định ở khoản 3 như sau: “Sự vô hiệu của hợp đồng phụ
không làm chấm dứt hợp đồng chính, trừ trường hợp các bên thỏa thuận hợp đồng
phụ là một phần không thể tách rời của hợp đồng chính.”
+ Điều 402 BLDS 2015 quy định ở khoản 3, khoản 4 như sau: “(3). Hợp đồng chính
là hợp đồng mà hiệu lực không phụ thuộc vào hợp đồng phụ; (4). Hợp đồng phụ là
hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính.”
+ Điều 335 BLDS 2015 khoản 1 quy định về “bảo lãnh” như sau:
Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên
có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho
bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn
thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ.
+ Điều 342 “Trách nhiệm dân sự của bên bảo lãnh” BLDS 2015 khoản 2 quy định:
Trường hợp bên bảo lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ bảo lãnh thì bên
nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thanh toán giá trị nghĩa vụ vi
phạm và bồi thường thiệt hại.
+ Khoản 1 Điều 408 BLDS 2015 quy định về “Hợp đồng vô hiệu do có đối tượng
không thể thực hiện được” như sau: “Trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp đồng có
đối tượng không thể thực hiện được thì hợp đồng này bị vô hiệu.”
+ Khoản 2, khoản 3 Điều 213 BLDS 2015 quy định về “Sở hữu chung của vợ
chồng” như sau:
2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang
nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
3. Vợ chồng thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản chung.
Trang 107
Trong tình huống trên, ngân hàng cho công ty Thiên Minh vay một số tiền và bà
Quế đã đứng ra bảo lãnh việc vay này bằng một bất động sản thuộc sở hữu chung
của vợ chồng bà Quế. Tuy nhiên hợp đồng thế chấp trên bị vô hiệu bởi vì chồng của
bà Quế không có sự đồng ý, theo khoản 1 Điều 408 “trường hợp ngay từ khi giao
kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được thì hợp đồng này bị vô hiệu”
và theo khoản 2 khoản 3 Điều 213 BLDS 2015 quy định về “sở hữu chung của vợ
chồng” thì Tòa Án tuyên bố hợp đồng thế chấp trên bị vô hiệu là hợp lý.
Tuy nhiên, việc bà Quế cam kết thực hiện bảo lãnh với ngân hàng thì bảo Quế vẫn
phải tiếp tục chịu trách nhiệm dân sự cho cái bảo lãnh của của mình. Trong tình
huống trên, hợp đồng thế chấp bất động sản giữa bà Quế và ngân hàng để đảm bảo
thực hiện việc bảo lãnh là hợp đồng phụ của hợp đồng bảo lãnh khoản vay cho công
ty Thiên Minh, ngược lại, hợp đồng bảo lãnh khoản vay cho công ty Thiên Minh là
hợp đồng chính của hợp đồng thế chấp bất động sản nêu trên giữa bà Quế và ngân
hàng.
Dựa theo Điều 407 BLDS 2015 quy định ở khoản 3 thì “Sự vô hiệu của hợp đồng
phụ không làm chấm dứt hợp đồng chính, trừ trường hợp các bên thỏa thuận hợp
đồng phụ là một phần không thể tách rời của hợp đồng chính.” Trong tình huống
này, hợp đồng chính là hợp đồng bảo lãnh khoản vay cho công ty Thiên Minh nên
khi hợp đồng phụ (hợp đồng thế chấp bất động sản giữa bà Quế và ngân hàng) vô
hiệu thì hợp đồng chính vẫn phải tiếp tục vì bà Quế đã cam kết bảo lãnh nên theo
Điều 342 “Trách nhiệm dân sự của bên bảo lãnh” BLDS 2015 khoản 2 quy định:
“Trường hợp bên bảo lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ bảo lãnh thì bên nhận
bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thanh toán giá trị nghĩa vụ vi phạm và bồi
thường thiệt hại.” thì bà Quế vẫn phải tiếp tục thực hiện việc bảo lãnh và ta có thể
xem việc bảo lãnh chính là hợp đồng chính trong tình huống này, vì vậy khi hợp
đồng thế chấp bất động sản giữa bà Quế và ngân hàng (hợp đồng phụ) vô hiệu thì
hợp đồng chính vẫn phải tiếp tục thực hiện.
Như vậy, Tòa án cho rằng bà Quế không còn trách nhiệm gì đối với Ngân hàng qua
câu “không có cơ sở để buộc bà Quế phải chịu trách nhiệm dân sự đối với các
khoản nợ nêu trên.” là chưa hợp lý.
Vấn đề 4: Phân biệt thời hiệu khởi kiện tranh chấp về tài sản và về hợp đồng
Tóm tắt Quyết định số 14/2017/QĐ-PT ngày 14/7/2017 của Toà án nhân tỉnh
Hưng Yên
Nguyên đơn: ông Vũ Văn V.
Bị đơn: Tô Văn P.
Ngày 26/11/2016 nguyên đơn khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dấn huyện V giải
quyết buộc bị đơn trả 25 triệu đồng tiền đặt cọc và 45 triệu đồng tiền phạt do vi
Trang 108
phạm thỏa thuận đặt cọc, theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
07/06/2010. Tòa án nhân dân huyện V đình chỉ giải quyết vì lí do hết thời hiệu khởi
kiện.
Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên xác định Tòa không giải quyết yêu cầu của ông V
đòi 45 triệu đồng tiền phạt do vi phạm thỏa thuận đặt cọc vì đã hết thời hiệu là đúng
và yêu cầu của ông V đòi ông P trả lại 25 triệu tiền đặt cọc (khoản tiền gốc) thì
thuộc trường hợp đòi lại tài sản nên không áp dụng thời hiệu khởi kiện nên Tòa phải
thụ lý giải quyết theo thủ tục chung.
1. Những điểm khác biệt giữa thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng và thời
hiệu khởi kiện tranh chấp về quyền sở hữu tài sản.

Thời hiệu khởi kiện tranh Thời hiệu khởi kiện tranh
chấp hợp đồng chấp về quyền sở hữu tài sản

Cơ Điều 429 Bộ luật Dân sự 2015: Khoản 2 Điều 155. Không áp


sở Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu dụng thời hiệu khởi kiện
pháp Tòa án giải quyết tranh chấp hợp “Thời hiệu khởi kiện không áp
lý đồng là 03 năm, kể từ ngày dụng trong trường hợp sau đây:
người có quyền yêu cầu biết …2. Yêu cầu bảo vệ quyền sở
hoặc phải biết quyền và lợi ích hữu, trừ trường hợp Bộ luật này,
hợp pháp của mình bị xâm luật khác có liên quan quy định
phạm. khác…”

Thời Tính từ ngày xảy ra vi phạm và Tính từ ngày xảy ra hành vi xâm
điểm kết thúc sau 3 năm kể từ ngày vi phạm và không có thời hạn kết
bắt phạm. thúc.
đầu

kết
thúc

Thời 3 năm Vĩnh viễn


hạn
khởi
kiện

Trang 109
Hệ Bên vi phạm phải hoàn trả tài Bên vi phạm phải hoàn trả tài
quả sản kèm một khoản tiền tương sản.
đương tài sản.

2. Theo anh/chị, tranh chấp về số tiền 45 triệu đồng là tranh chấp hợp đồng
hay tranh chấp về quyền sở hữu tài sản? Vì sao?
Theo nhóm, tranh chấp về số tiền 45 triệu đồng là tranh chấp hợp đồng. Bởi vì:
Cơ sở pháp lý: Điều 429 BLDS 2015
Trong phần xét thấy có ghi “45 triệu đồng tiền phạt do vi phạm thỏa thuận đặt cọc”
là khi ông P vi phạm hợp đồng thì số tiền này mới phát sinh chứ không phải thuộc
quyền sở hữu của bất kì ai hay là đối tượng được giao dịch trong hợp đồng. Ông V
yêu cầu vừa hoàn trả tài sản là 25 triệu đồng và vừa đòi một khoản tiền 45 triệu nên
số tiền 45 triệu là tranh chấp hợp đồng.
Hơn nữa vì không phải là tài sản thuộc quyền sở hữu của các bên trong hợp đồng
nên BLDS chỉ quy định thời hiệu khởi kiện là 03 năm kể từ ngày người có quyền
yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Trước
đây BLDS 2005 quy định là 02 năm nhưng để bảo đảm việc xác định chính xác thời
điểm quyền và lợi ích xâm phạm thì BLDS đã kéo dài thêm 1 năm.
3. Theo anh/chị, tranh chấp về số tiền 25 triệu đồng là tranh chấp hợp đồng
hay tranh chấp về quyền sở hữu tài sản? Vì sao?
Theo nhóm, tranh chấp về số tiền 25 triệu đồng là tranh chấp về quyền sở hữu tài
sản.
Cơ sở pháp lý: Điều 358 BLDS 2005; Điều 328 BLDS 2015.
Trong phần xét thấy của Quyết định: “Đối với yêu cầu của ông V đòi ông P trả lại
25 triệu đồng tiền đặt cọc (khoản tiền gốc) thì thuộc trường hợp đòi lại tài sản nên
không áp dụng thời hiệu khởi kiện, Tòa án thụ lý giải quyết theo thủ tục chung”.
Số tiền 25 triệu đồng là số tiền đặt cọc của ông V để đảm bảo giao kết, thực hiện
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất chứ không phải số tiền có trong hợp
đồng thỏa thuận. Như vậy, số tiền 25 triệu đồng đó được hiểu là tài sản của ông Vũ
Văn V giao cho ông Tô Văn P để đảm bảo giao kết.
4. Đường lối giải quyết của Tòa án về 2 khoản tiền trên có thuyết phục không?
Vì sao?
Đường lối giải quyết của Tòa án về 2 khoản tiền trên là thuyết phục.
Đối với yêu cầu của ông V đòi 45 triệu đồng tiền phạt do vi phạm thỏa thuận đặt
cọc, Tòa án cho rằng đã hết thời hiệu khởi kiện là hợp lý. Ông Vũ Văn V và ông Tô
Văn P làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 07/6/2010, được xem
Trang 110
là ngày bắt đầu thời điểm xảy ra vi phạm và cũng là ngày bắt đầu tính thời điểm
khởi kiện về hợp đồng. Căn cứ theo điểm a, khoản 3 Điều 159 của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2004 và Điều 427 BLDS 2005 (Điều 429 BLDS 2015), thời hiệu để ông
V khởi kiện về hợp đồng là 2 năm (3 năm đối với BLDS 2015), kể từ ngày người có
quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.
Như vậy, tính đến ngày ông V khởi kiện là ngày 26/11/2016 thì đã hết thời hiệu
khởi kiện hợp đồng nên ông V đã hết thời hiệu để yêu cầu Tòa án giải quyết đòi lại
45 triệu đồng tiền phạt do vi phạm thỏa thuận đặt cọc.
Đối với yêu cầu đòi lại 25 triệu đồng tiền đặt cọc, Tòa án xét thấy đây là trường hợp
đòi lại tài sản nên không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Hướng giải quyết này của Tòa
án là hợp lý. Vì theo khoản 2 Điều 358 BLDS 2005 (khoản 2 Điều 328 BLDS
2015), ông V đã cọc 25 triệu đồng để đảm bảo giao kết với ông P nhưng ông P
không thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông V nên ông P phải
trả lại tiền đặt cọc cho ông V. Trong trường hợp này, tiền đặt cọc của ông V là tài
sản để đảm bảo giao kết, thực hiện hợp đồng nên đây được xem là đòi lại tài sản.
Căn cứu theo điểm b, khoản 3 Điều 23 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP thì không
áp dụng thời hiệu đối với đòi lại tài sản.
5. Đường lối giải quyết cho hoàn cảnh như trên có thay đổi không khi áp dụng
BLDS 2015? Vì sao?
Căn cứ theo Điều 429 BLDS 2015: “Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải
quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc
phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”. Theo BLDS 2015, thời
hiệu khởi kiện về hợp đồng được kéo dài thêm 1 năm so với BLDS 2005. Tuy
nhiên, trong trường hợp của ông V, đã hết thời hiệu khởi kiện về hợp đồng để yêu
cầu Tòa án giải quyết đòi lại 45 triệu đồng tiền phạt do vi phạm thỏa thuận đặt cọc.
Đối với yêu cầu đòi 25 triệu đồng đặt cọc thuộc trường hợp đòi lại tài sản theo
BLDS 2015. Căn cứ theo khoản 2 Điều 328 BLDS 2015, không có gì thay đổi so
với khoản 2 Điều 358 BLDS 2005, theo đó ông P không thực hiện việc chuyển
nhượng quyền sử dụng đất cho ông V nên ông P phải trả lại tiền đặt cọc cho ông V.
Ông V dùng tài sản (tiền) của mình để đặt cọc nên đây được xem là đòi lại tài sản.
Về thời hiệu khởi kiện liên quan đến quyền sở hữu, Bộ luật Tố tụng dân sự
2004 sửa đổi năm 2011 quy định không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với
“tranh chấp về quyền sở hữu tài sản; tranh chấp về quyền đòi lại tài sản do
người khác quản lý, chiếm hữu”. Hiện các trường hợp không áp dụng thời
hiệu khởi kiện đã không còn được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự
2015 mà được dẫn chiếu áp dụng các quy định của BLDS 2015 về thời hiệu
khởi kiện. Theo khoản 2 Điều 155 BLDS 2015: “Yêu cầu bảo vệ quyền sở
Trang 111
hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”. Quy
định này được xem là quy định mới so với BLDS 2005, quy định mới này
mang tính chính xác, khái quát và đầy đủ hơn. Từ đó, yêu cầu bảo vệ quyền
sở hữu có thể hiện hữu trong tranh chấp về quyền sở hữu, quyền khác đối với
tài sản, tranh chấp về giao dịch dân sự, hợp đồng dân sự hoặc trong vụ án
yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật và yêu cầu bồi thường thiệt hại
hoặc trong “tranh chấp khác” theo khoản 14 Điều 26 BLTTDS 2015. Vì vậy,
khi triển khai áp dụng, Tòa án cần phải thận trọng xem xét bản chất của từng
vụ án liên quan đến quyền sở hữu để xác định tranh chấp đó có phải là yêu
cầu bảo vệ quyền sở hữu hay không, cho dù có thể đó là tranh chấp theo hợp
đồng, để xác định chính xác việc áp dụng hay không áp dụng thời hiệu khởi
kiện.68

68
TS.Đặng Thanh Hoa, “Về không áp dụng thời hiệu khởi kiện yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu”,
https://tapchitoaan.vn/ve-khong-ap-dung-thoi-hieu-khoi-kien-yeu-cau-bao-ve-quyen-so-huu , truy cập ngày
06/10/2022
Trang 112

You might also like