You are on page 1of 8

Lê Thu Linh

Vợ chồng A Phủ
Đoạn 1: Mở bài.
Sự nghiệp sáng tác của nhà văn Tô Hoài tính đến nay đã già nửa thế kỉ. Ông là nhân
vật lớn với cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học Việt Nam. Là nhân vật có vốn
hiểu biết phong phú, đặc biệt là về văn hóa, phong tục tập quán, ông đi nhiều, viết nhiều
và viết đều. Tuy là người con của mảnh đất ven đô nhưng duyên nợ văn chương lại đưa
Tô Hoài đến với vùng cao Tây Bắc. Tình yêu cùng sự thấu hiểu về mảnh đất và con người
nơi đây đã giúp nhân vật khắc họa chân thực sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong
thiên truyện “Vợ chồng A Phủ”. Qua những trang văn ấy ta thấy được cái tâm cao đẹp
và cái tài của người nghệ sĩ chân chính được tỏa sáng. Và mỗi lần đắm mình trog tập
“Truyện Tây Bắc”, độc giả lại thêm một lần được thấu hiểu hơn về cái độc đáo mà tác
phẩm đã để lại.

Đoạn 2: Chuyển ý.
Văn học hướng tới đề tài miền núi Tây Bắc đã hiếm, khai thác hình tượng người
phụ nữ ở vùng đất này lại càng hiếm hơn. Vì thế văn phẩm “Vợ chồng A Phủ” là một
sáng tác tiêu biểu cho xu hướng vận động văn học của thời kì này: Từ bóng tối tới ánh
sáng, từ nô lệ đến tự do và cuộc đời của bông hoa núi rừng Tây Bắc- Mị đã thể hiện rất
cố những điều ấy. Có lẽ vì vậy, dù viết về một đề tài không mới- về những con người
vùng núi cao Tây Bắc và những phong tục tập quán hay cuộc sống của nhân dân dưới
ách cai trị phong kiến chúa đất (Như tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao; “Tắt đèn” của
Ngô Tất Tố) nhưng quả thực Tô Hoài đã có một phát hiện lớn khi tìm một thấy một con
đường mới, một ánh sáng mới của sự sống và có sự đóng góp vô cùng quan trọng về chủ
đề này. Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” đã không lặp lại con đường than nghèo kể khổ, khi
cùng chiến đấu, sinh hoạt với những người nông dân mộc mạc giản dị, nhà văn đã phát
hiện ra ẩn chứa sâu bên trong những con người tưởng chừng lạc hậu ấy là một sức sống
tiềm tàng mãnh liêt, là vẻ đẹp của tình yêu tự do, của tấm lòng nhân hậu, ngay thẳng và
đáng mến. Tác phẩm là kết quả chuyến đi của nhân vật cùng bộ đội giải phóng Tây Bắc
năm 1952 và được in trong tập “Truyện Tây Bắc” (1953). Đây là khoảng thời gian cuộc
kháng chiến chống Pháp bước vào thời kì vô cùng cam go, khốc liệt. Và cũng vì thế: “Tây
Bắc để thương để nhớ cho tôi nhiều quá” nên điều kì diệu là dù viết về một vùng đất
còn rất mới mẻ trong văn học nhưng Tô Hoài đã tạo ra một thiên truyện vừa đậm sắc
màu Tây Bắc, vừa giàu chất thơ và vô cùng hấp dẫn, gần gũi, sống động.
Lê Thu Linh
Đoạn 3: Sự xuất hiện của Mị.
“Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái
ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi,
thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt,
mặt buồn rười rượi.” chính là cách mở đầu tác phẩm vô cùng độc đáo mà nhà văn Tô
Hoài đã viết. Tại sao lại độc đáo ư? Bởi có lẽ nhờ vào đó tác giả đã tạo nên những nét
đối nghịch, vốn là “bông hoa ban của núi rừng Tây Bắc”, là “bông hoa có cả sắc cả
hương” nhưng giờ đây bông hoa có khát vọng sống mãnh liệt ấy đáng lẽ đang bung nở
một cách hạnh phúc thì giờ đây lại lụi tàn một cách lẻ loi, âm thầm tan biến dần vào
những vật vô tri bằng một cách vô thức trong cái khung cách đông đúc tấp nập tại gia
đình thống lí Pá Tra. Tuy là nàng dâu của một gia đình quyền thế, “nhiều nương, nhiều
bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng” cớ sao mà lúc nào nàng cũng “cúi mặt” nhẫn nhục và
“buồn rười rượi”. Chắc hẳn người con gái ấy đã và đang phải chịu nhiều ấm ức, dồn nén
hay biết bao đau khổ mà không thể giãi bày một ai. Qua phần mở đầu đậm chất điện
ảnh, Tô Hoài đã trực tiếp bộc lộ ra một góc về số phận và thân phận của nhân vật Mị. Và
cũng qua đó, ta cũng nhờ tới các bậc đại tài các bậc đại tài trong văn xuôi Việt Nam hiện
đại như Thạch Lam, Nam Cao,…

Đoạn 4: Mị là một cô gái hồng nhan bạc phận: Phẩm chất tốt đẹp+ số phận bi thảm.
Mị vốn là một cô gái xinh đẹp, tài hoa, một bông hoa ban của núi rừng Tây Bắc, cô
có một tuổi thanh xuân phơi phới biết bao người theo đuổi: “trai đứng nhẵn vách đầu
buồng Mị”. Nhưng chỉ vì một món nợ truyền kiếp người khổ đau. Những ngày tháng
sống trong thân phận làm dâu gạt nợ là những chuỗi ngày dằng dặc đau thương của
Mị. Mị sống trong tủi cực, đúng nghĩa với một nô lệ khổ sai. Mị bị biến thành một thứ
công cụ lao động trong tay cha con Thống Lý, thậm chí, Mị đã hoàn toàn buông xuôi và
đầu hàng số phận, sống mà tê liệt như đã chết. Cô như một đám than đã nguội lạnh,
băng giá, vô cảm.

Đoạn 5: Sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa xuân: Hình ảnh của Mị trước
đêm tình mùa xuân.
Dù viết về tội ác của bọn thống trị và nỗi khổ trăm bề nhưng Tô Hoài không để cho
các nhân vật của mình chìm trong bể khổ, nỗi tuyệt vọng. Nhà văn đã tạo cho câu
chuyện phong phú trữ tình thật nồng nàn như một khúc tình ca Tây Bắc. Cuộc sống “lùi
Lê Thu Linh
lũi như con rùa trong xó cửa” của Mị cứ thế diễn ra nếu như không có đêm tình mùa
xuân ở Hồng Ngài. Nguyên nhân nào đã đánh thức dậy lòng ham và lòng khát khao hạnh
phúc mạnh liệt bên trong con người Mị? Chỉ thật sự yêu thương con người, với một tấm
lòng bao dung nhân hậu, Tô Hoài mới phát hiện ra bên trong của một mai con rùa là một
con người đang khao khát có được thứ gọi là tình yêu, thứ gọi là tự do. Nhà văn đã khắc
họa sự hồi sinh trong tâm hồn Mị bằng ngòi bút khám phá nội tâm độc đáo. Khi ta đọc
tác phẩm “Chí Phèo”, người đọc được chứng kiến một Chí Phèo từ người biến thành quỷ
dữ của làng Vũ Đại, thế nhưng chỉ một bát cháo hành của Thị Nở, một hòn than nhân
tình nhỏ bé trong cái đống tro tàn, thâm tâm Chí Phèo bỗng cháy lên một chút khát
vọng làm người lượng thiện. Thì trong “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài cũng tìm được hòn
than nhân tình ấy, dáng vẻ bên ngoài ngoài là một cô Mị lầm lũi như cái bóng, như đã
chết nhưng bên trong lại ẩn chứa lòng ham sống. Sức sống ấy như hòn than nhỏ đang bị
vùi lấp trong cái vẻ ngoài lặng câm vô cảm. Vô tình cơn gió của một đêm tình mùa xuân
đã làm hồi sinh con người Mị, thức dậy cả một kí ức tươi đẹp và trỗi dậy sức sống, lòng
ham sống đến cuồng nhiệt nhưng cũng đầy bi kịch. Mị đã hồi sinh, Mị không thể thờ ơ
trước không khí của mùa xuân thiên nhiên Tây Bắc: “Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc
gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng”. Mùa xuân ở Hồng Ngài đẩy tiếng rộn rã của âm thanh
và màu sắc vạn vật trước thềm năm mới. Đó là tiếng cười của trẻ con, màu vàng ửng của
cỏ gianh và gió rét dữ dội, là màu đỏ của những chiếc váy hoa phơi trên những mỏm đá
“xòe ra như những con bướm sặc sỡ” và chắc chắn không thể thiếu được “tiếng sáo gọi
bạn yêu lửng lơ bay ngoài đường”. Quả thực không hổ danh là nhà văn của những tiếng
phong tục tập quán, nhà văn của văn hóa các vùng miền, nên những dòng văn miêu tả
ngày tết ở Hồng Ngài hiện lên thật sống động, tươi vui, rộn rã. Chính những hình ảnh ấy
như một cơn gió thổi tung đám tàn tro đang vây quanh cuộc đời Mị, để chúng ta biết
rằng ngọn lửa của sự sống không bao giờ lụi tắt và văn học, nhiêm vụ của nó là làm sáng
lên những ngọn lửa ấy.

Đoạn 6: Sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa xuân: Diễn biến tâm trạng của
Mị trong đêm tình mùa xuân.
•Chặng 1:
Đoạn văn cho thấy tài năng trần thuật và miêu tả đặc sắc của nhà văn Tô Hoài, ông
đã mang đến cho người đọc một linh hồn đang cựa quậy hồi sinh đằng sau lớp xác đang
bị giá băng. Trong thế giới thâm cung lạnh lẽo năm ấy, dù không có màu sắc nhưng
chính tiếng sáo đã tác động đến Mị, làm lay động góp phần thức tỉnh một tâm hồn đang
nguội lạnh. Tiếng sáo như sợi dây vô hình nối mị với quá khứ và hiện tại làm sống dậy
Lê Thu Linh
trong Mị một kí ức tươi đẹp, tiếng sáo như mạch nước làm tan đi lớp băng nguội lạnh
kia, để rồi Mị ngồi “nhẩm thầm” lời của người đang thổi sáo- một bản tình ca:
“Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta chưa có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu”
Đó là những giai điệu đã quá quen, những giai điệu của tình yêu và tuổi trẻ mà Mị
đã từng sống, giờ đây lại đầy sống động, tươi mới. Nó làm ta nhớ đến “Chí Phèo” của
Nam Cao, cũng tỉnh dậy sau những cơn say dài, để rồi khi lắng nghe những âm thanh
quen thuộc của cuộc sống, Chí biết buồn, biết nhớ, biết tủi, biết hờn, biết sống như
những con người bình thường. Những nhà văn lớn, những nhà văn của lòng người, họ
gặp nhau ở chỗ: Họ tìm thấy được những phần đẹp nhất bên trong những tâm hồn
tưởng chừng đã chết: đó chính là ký ức tuổi thanh xuân tươi đẹp. Tiếng sáo đã làm Mị
mạnh mẽ hơn, Mị thoát khỏi cái lớp các vô hồn ấy bằng một hành động nổi loạn nhân
tính. Ngày Tết, Mị không hòa và những đám chơi, những cuộc chơi của nhà Thống Lý,
nhưng cô tìm đến rượu, nhưng không phải để tìm vui mà là để giải sầu “Mị uống ực
từng bát”- uống như nuốt đi ất hận, những đắng cay trong cuộc đời mình- “rồi say”.
Rượu và sáo chính là chất men say đánh thức phần người đã mất bên trong con người
của Mị. Xưa, nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng tìm đến chén rượu, trong một đêm trăng mà
nhận ra mình “khuyết chưa tròn”, cũng cố quên đi thực tại nhưng rồi “chén rượu hương
đưa say lại tỉnh”. Còn với một tâm hồn đang băng giá như Mị dường như đang sống với
hai con người. Con người của quá khứ thì Mị đang sống về ngày trước và ngày trước
không gì có thể ngăn được niềm vui của Mị “lòng Mị đột nhiên vui sướng như những
đêm ngày tết trước”, những đêm mùa xuân của tuổi trẻ, tự do, bên bếp lửa, uống rượu,
thổi sáo “biết bao người theo”. Còn gì hạnh phúc bằng khi mình tìm lại được chính
mình? Còn gì vui sướng bằng những kỉ niệm ùa về như thác lũ, lúc mình còn trẻ, còn
tươi, còn tròn đầy?. Tô Hoài đã thâm nhập vào mê cung tâm trạng của người phụ nữ
này và bằng lòng cảm thông yêu thương sâu sắc, nhà văn đã làm người đọc thực sự xúc
động trước những biến đổi về tâm lý của Mị. Những con người của hiện tại, vẫn là
những thói quen, là trạng thái tê liệt, đau đớn đầy bi kịch.
Lê Thu Linh
•Chặng 2:
Bất ngờ thay, lúc bấy giờ Mị lại không bước ra đường chơi cho dù người người nhà
nhà dòng người đi chơi đã vãn nhưng nàng vẫn ngồi trơ một mình giữa căn nhà tại miền
Tây Bắc lạnh lẽo. Đây chính là trạng thái cô độc, lẻ loi và lạc lõng giữa không gian ngày
Tết của nhà Thống Lí. Và có lẽ sự tủi hổ ấy ta cũng đã được bắt gặp nhiều qua các văn
thơ Việt Nam như Nguyễn Du đã viết trong “Truyện Kiều”:
“Đuốc hoa để đó mặc nàng nằm trơ”
Hay Hồ Xuân Hương cũng đã ngán ngẩm mà chua xót than thở trong “Tự Tình”
rằng:
“Trơ cái hồng nhan với nước non”
Thế rồi Mị lại bước vào buồng và ngồi xuống giường, ánh mắt tủi hổ của mị trông ra
ô cửa bé bằng lòng bạn tay. Khung cảnh quen thuộc, hành động quen thuộc, thói quen
của một thể xác không hồn bởi lòng Mị đột nhiên phơi phới lại, đột nhiên vui sướng như
những đêm Tết ngày trước. Dường như đang có hai con người tồn tại song song với
nhau, giữa thể xác và tâm hồn của những thói quen sự tê liệt và niềm hạnh phúc ùa về.
Lúc ấy, Mị đã ý thức được quyền được sống, quyền được tự do và khát khao hạnh phúc
của chính bản thân mình. Mị hồi tưởng lại những tháng ngày được tự do uống rượu bên
bếp và thổi sáo: “Mị uốn chiếc là trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biêu bao
nhiêu người mê gà đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Mị ý thức được rằng: “Mị còn trẻ lắm,
Mị muốn đi chơi, biết bao giờ người có chồng cũng đi chơi ngày Tết”. Còn trẻ nghĩa là
còn sức sống, còn khao khát sống, còn muốn yêu thương, muốn được tự do, ngọn lửa
của lòng ham sống đang bùng lên dữ dôi. Cò gì đau hơn khi nhận ra mình còn trẻ mà
tuổi xuân bị tước đoạt rồi và sống trong hoàn cảnh đáng thương này thì đúng là bi kịch.
Tiếng nói của khát khao hạnh phúc nay đã được vang lên sau quãng thời gian chịu buồn
tủi một mình. Mị đã thấm thía bi kịch của cuộc đời mình. Mất đi tự do, đã bao nhiêu
năm A Sử chẳng cho Mị đi chơi Tết nên cái khát vọng ấy xung đột với cái bất hạnh. Mị
cũng nhận ra thực tại Mị phải sống với người mà Mị không yêu: “Mị và A Sử không có
lòng mà vẫn phải ở với nhau”. Còn gì đau khổ bằng lấy một người mà mình không có
tình yeeuu, còn gì đau khổ bằng phải sống với một kẻ vũ phu chỉ xem mình là món đồ
chơi và bị khinh rẻ như súc nô. Hiện tại thật sự nghiệt ngã và đau đớn cũng như chẳng
dễ gì mà nuốt được. Và có lẽ lúc này Mị mong muốn nhất đó lại được giải thoát.

•Phần bình:
Lê Thu Linh
Đây vốn chẳng phải lần đầu tiên Mị không nghĩ đến cái chết nhưng trước kia khi
mới về bị bắt làm dâu nhà Lí Thống: Mị đã vứt hết nắm lá ngón đi để thương cha. Mị
chính là một cô gái bản lĩnh dám sống với cái chết. Thì ngày nay Mị chỉ biết thương
mình, suy nghĩ cho mình nên đồng thời suy nghĩ về cái chết đối với Mị ập đến rất quyết
liệt và dữ dội. Đời của Mị thật vô nghĩa vì không tình yêu, không hạnh phúc nên lập tức
Mị: “chỉ muốn chết ngay”- “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết
ngay chứ không buồn nhớ lại nữa, nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra” bởi có lẽ “một con
thuyền thà tự đánh chìm mình trên một dòng sông còn hơn là để nước sông đẩy nó đến
vô định”- muốn chết chính là biểu hiện của lòng ham sống. Khi xưa khi nhà văn Nguyễn
Du miêu tả tâm trạng của Kiều một cách đầy đau đớn “giật mình rồi lại thương mình xót
xa” thì ngày nay Tô Hoài cũng đã miêu tả Mị có những giây phút xót xa y hệt như vậy.
Đúng là “văn học là nhân học” và những tác phẩm lớn phải “đấu tranh cho lẽ công bằng,
tình bác ái, làm cho người gần người hơn”, Tô Hoài với tấm lòng nhân đạo sâu sắc của
mình, xứng đáng là nhà văn có công đưa Tây Bắc, đưa những con người còn rất xa lạ
trên đèo cao núi đá kia vào văn học, để ta thấu hiểu, cảm thông và yêu thương nhiều.
Và để có thể miêu tả được tâm lí của Mị một cách sống động như vậy, tác giả đã sử
dụng một thứ ngôn ngữ nửa trực tiếp, nửa gián tiếp khiến chúng ta không tài nào phân
biệt được đâu là lời nói của nhà văn và đâu là lời nói của nhân vật.

•Chặng 3:
Nhà văn Tô Hoài cũng đã rất dụng công khi miêu tả tiếng sáo- thứ tiếng âm thanh
của tình yêu tuổi trẻ. Lúc này, tiếng sáo gọi bạn yêu ngoài kia đang réo rắt khi mà cả
thiên đường hạnh phúc của mùa xuân phía sau ô cửa nhỏ kia đang nồng nàn, thôi thúc
Mị. Nàng không thể ngồi yên được nữa, Mị phải đứng dậy thôi! Mị hành động trong lặng
lẽ, lặng lẽ nhưng mãnh liệt. Tiếng sáo gợi sức sống ào ạt xuất hiện từ xa đến gần, từ
tiếng âm thanh ngoại cảnh nay đã trở thành tiếng lòng, cảm xúc của nhân vật và tâm
hồn Mị nay đã dần được dẫn dắt bởi các âm thanh của tự do và tuổi trẻ. Mị đã thắp lên
ngọn đèn trong căn phòng u ám, đặc quánh muộn phiền. Ngọn đèn như xua tan đi tất cả
cái bóng tối u ám đang bao quanh cuộc đời Mị. Ngọn đèn thắp sáng tâm hồn Mị, cháy cả
nỗi khát khao vượt ra khỏi bức tường địa ngục để đến với thế giới ngoài kia đang dập
dìu tiếng sáo. Cô muốn đi chơi nên nàng đã chuẩn bị mọi thứ để được đi: “Mị đến góc
nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa cho sáng, không còn muốn sống trong
đau khổ tăm tối”, “Mị quấn tóc lại, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”
trong khi đó đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo của người phụ nữ còn muốn làm đẹp là khát
vọng sống biết bao. “Tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Nếu
Lê Thu Linh
chỉ mấy phút trước, con người của thể xác, của những thói quen vẫn khiến Mị tê liệt:
“ngồi lịm nhìn mọi người”, “ngồi trơ một mình”, “bước vào buồng”,… thì giờ đây con
người của tuổi trẻ của những kí ức, thanh xuân, những khát khao tự do đã chi phối Mị
đã khiến cô dường như không còn ý thức gì về hành động của thực tại nữa. Thế nên lúc
đó dù A Sử- kẻ mà không bao giờ cho Mị đi chơi Tết vẫn ngồi đó và Mị cũng chẳng thèm
để ý, chẳng buồn quan tâm. Chỉ một lối kể chuyện duy nhất nhưng Tô Hoài đã dẫn dắt
nhịp văn rất hấp dẫn, ông luôn tạo ra được độ căng cho chính câu chuyện của mình.
Đúng trong khoảnh khắc ngọn lửa hồng của lòng ham sống, Mị vừa trỗi dậy và bùng
cháy, ngay lập tức nó đã bị vùi dập không một chút tiếc thương. A Sử về ngăn cản Mị đi
chơi bằng cách trói Mị vào cột nhà. Hắn trói Mị bằng một thúng sợi đay, lấy thắt lưng
trói hai tay Mị lại, quấn luôn tóc Mị, tắt đèn để Mị đứng trong căn buồng tối. Chưa bao
giờ ta thấy phẫn uất trước số phận con người bị đày đọa đến thế, Mị nào có tội gì mà lại
bị trói đứng như vậy? Ngoài khát khao đi chơi, khát khao hạnh phúc? Độc giả như bị
cuốn hút vào lời văn, hồi hộp theo dõi và trông theo số phận của nhân vật. Liệu rằng
cuộc đời của Mị rồi tiếp theo sẽ ra sao khi chính thân xác của cô lúc bấy giờ đang bị trói
buộc bởi những sợi dây trói cường quyền và bạo ngược của chính kẻ mang danh nghĩa
chồng mình?

•Chặng 4:
May thay, với tính cách và con người của Mị, những sợi dây trói của cường quyền
và bạo ngược kia chỉ có thể trói được thể xác của Mị chứ làm sao có thể trói buộc được
tâm hồn và khát vọng tự do của cô? “Tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những
đám chơi” Thế nên “Mị vùng bước đi” nhưng men rượu đã làm cho Mị say trong cảm
xúc đi chơi xuân- nàng không biết mình bị trói, vẫn quẫy đạp và đi theo tiếng gọi của
những cuộc chơi, đám chơi. Mị vùng bước đi nhưng bấy giờ Mị đã nhận ra sự trói buộc
của làn dây cứa vào da thịt cô. Một lần nữa, nhà văn Tô Hoài lại sử dụng biện pháp nghệ
thuật điện ảnh để trong cùng một khoảnh khắc, chúng ta vẫn nhận ra được quá khứ và
hiện tại cùng song song và tồn tại với nhau. Hiện tại là lúc Mị tỉnh, là lúc “Mị không nghe
tiếng sáo nữa, chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách” với “khắp người dây trói đau
nhức”, “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Cả đêm, Mị bị trói đứng nhưng
lúc thì thấy đau, lúc thì lại nồng nàn thiết tha: Đến quá khứ là lúc Mị mê, “Mị vẫn nghe
tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi” rồi “lúc Mị lại nồng nàn tha
thiết nghe tiếng sáo”. Có một chi tiết rất đắt giá khi nhà văn kết thúc diễn biến tâm trạng
của Mị trong đêm tình mùa xuân. Đó là chi tiết: Mị tỉnh dậy và nhớ lại câu chuyện người
đàn bà bị chồng trói chết trong căn nhà này. Và Mị đã sợ, sợ chết: “Mị cựa quậy xem
Lê Thu Linh
thử mình còn sống hay đã chết”. Sợ chết là biểu hiện của lòng ham sống. Sức sống trong
con người khốn khổ ấy đã không lụi tàn mà ngược lại vẫn mãnh liệt như những đợt sóng
ngầm gầm gào trong lòng đại dương tưởng như không có gì có thể dập tắt nổi. Nói như
nhà văn Lỗ Tấn “Một tia lửa hôm nay báo hiệu một đám cháy ngày mai”. Chắc chắn
trong đợt sóng ngầm ấy sẽ hứa hẹn trở thành một đợt sóng thần của ngày mai Đó là
đêm cởi trói cho A Phủ một năm sau đó. Nhà văn Nam Cao cũng đã khẳng định rằng:
“Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nó phải là tiếng kêu vút lên từ những
kiếp lầm than”. Một tác phẩm lớn phải đấu tranh vì lí lẽ công bằng, vì tình bác ái. Đoạn
văn mà nhà văn Tô Hoài miêu tả tâm lí Mị đã chứng minh được điều ấy. Ta xót thương
cho nỗi đau của Mị bởi những khát vọng giản đơn mà chẳng thể nào làm được. Ta căm
phẫn với những kẻ như A Sử, như Thống Lí coi con người không bằng con vật. Nhưng
chúng ta đều có quyền tin rằng vào ngày hôm nay, có thể Mị không bước ra đường chơi,
nhưng ngày mai nếu Mị không bị trói buộc bởi những sợi dây kia, được tự do thì Mị sẽ
hành động ngày một dữ dội hơn, ngày một mạnh mẽ hơn. Đó chính là một đêm tình
mùa đông, Mị sẽ cắt dây trói cứu A Phủ và chạy trốn khỏi Hồng Ngài.

Đoạn 7:

You might also like