You are on page 1of 47

BỘ TÀI CHÍNH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH – MARKETING


KHOA KINH TẾ - LUẬT
BỘ MÔN TOÁN – THỐNG KÊ

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN


MÔN: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
ĐỀ TÀI:

NHẬN THỨC, THÁI ĐỘ, HÀNH VI CỦA SINH VIÊN


ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG LGBT

Nhóm sinh viên thực hiện:


Họ và tên MSSV Lớp
Đỗ Ngọc Thùy Linh 2121012162 21DTA03
Võ Thị Hằng Ni 2121013225 21DTA03
Hứa Hoàng Diệp Ân 2121013518 21DTA03
Giảng viên hướng dẫn: Ths. Vũ Anh Linh Duy
Lớp học phần: 2121101063501
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 3 năm 2022
NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CỦA GIẢNG VIÊN
..........................................................................................................
..........................................................................................................
..........................................................................................................
..........................................................................................................
..........................................................................................................
..........................................................................................................
..........................................................................................................
..........................................................................................................
..........................................................................................................
..........................................................................................................

- Điểm số:................................................................................................
- Điểm chữ:..............................................................................................

TP Hồ Chí Minh, ngày tháng 03 năm 2022


Giảng viên phụ trách học phần
(Ký và ghi rõ họ tên)

GV – Ths. Vũ Anh Linh Duy


BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC CỦA CÁC THÀNH VIÊN

Số thứ tự Mã số Họ và tên Công việc thực hiện Mức độ


sinh viên hoàn
thiện
1 2121012162 Đỗ Ngọc Thùy Linh Chương I 100%
2 2121013225 Võ Thị Hằng Ni Chương II 100%
3 2121013518 Hứa Hoàng Diệp Ân Viết lời cảm ơn, lời 100%
mở đầu và tổng hợp
file
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN..................................................................................................................................7
LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................................................1
Lí do chọn đề tài..........................................................................................................................1
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.....................................................................................2
1. Mục tiêu nghiên cứu..................................................................................................3
2. Đối tượng, khách thể nghiên cứu, phạm vi và mẫu nghiên cứu................................3
2.1 Đối tượng nghiên cứu................................................................................................3
2.2 Khách thể nghiên cứu : Sinh viên trường Đại học Tài chính – Marketing............4
2.3 Phạm vi và địa bàn nghiên cứu:.............................................................................4
2.4 Mẫu nghiên cứu......................................................................................................4
3. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................................5
3.1 Phương pháp luận......................................................................................................5
3.2 Phương pháp cụ thể................................................................................................5
4. Giả thuyết nghiên cứu......................................................................................................6
5. Khung lý thuyết.........................................................................................................7
6. Đóng góp mới cho đề tài............................................................................................7
7. Bố cục đề tài tiểu luận...............................................................................................7
NỘI DUNG CHÍNH........................................................................................................................8
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI.............................................8
1. Hệ khái niệm công cụ................................................................................................8
1.1 Giới và giới tính.........................................................................................................8
1.2 Bản sắc giới và vai trò giới........................................................................................9
1.3 Khái niệm LGBT và cộng đồng LGBT...................................................................10
2. Tổng quan về hiện tượng đồng tính luyến ái trên thế giới cũng như ở Việt Nam và
xu hướng giải quyết...........................................................................................................13
3. Các hướng tiếp cận lý thuyết...................................................................................16
3.1 Đồng tính dưới con mắt của Phân tâm học cổ điển.............................................16
3.2 Thuyết Lệch pha (Queer theory) hay học thuyết về sự giằng co giữa Kiến tạo
luận (Constructionism) và Bản chất luận (Essentialism)...............................................18
CHƯƠNG II: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ........20
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU................................................................................................20
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và địa bàn nghiên cứu..........................................20
1.1 Tình hình nghiên cứu...............................................................................................20
1.2 Địa bàn nghiên cứu..................................................................................................22
2. Mức độ biết đến của nhóm sinh viên đối với cộng đồng LGBT và mức độ phổ biến qua
điều tra tần suất gặp...........................................................................................................22
3. Nhận thức của sinh viên về bản chất của cộng đồng LGBT..........................................26
3.3 Nhận thức của sinh viên về nguyên nhân dẫn đến hiện tượng đồng tính............28
4. Thái độ và quan điểm của sinh viên đối với cộng đồng LGBT...............................30
5. Một vài ý kiến của sinh viên về cộng đồng LGBT:.................................................31
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ....................................................................................32
1. Kết luận....................................................................................................................32
2. Khuyến nghị.............................................................................................................34
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................................36
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên cho nhóm chúng em xin cảm ơn trường Đại học Tài chính –
Marketing nói chung và khoa Kinh tế - Luật nói riêng đã tạo điều kiện về cơ sở
vật chất, trang thiết bị kĩ thuật, tài liệu tham khảo, giáo trình môn Phương pháp
nghiên cứu khoa học một cách tốt nhất. Đặc biệt cho nhóm chúng em xin gửi lời
cảm ơn chân thành đến thầy Vũ Anh Linh Duy – giảng viên bộ môn Phương pháp
nghiên cứu khoa học đã truyền đạt kiến thức bổ ích và cơ bản cần có, hướng dẫn,
chỉ bảo tận tình cho nhóm chúng em để hoàn thành tốt bài tiểu luận này.
Tuy nhiên trong quá trình học tập môn học và nghiên cứu làm đề tài này, do
kiến thức và kĩ năng còn hạn chế nên sẽ không tránh khỏi những sai sót, hạn chế
nhất định. Em rất mong nhận được sự quan tâm, thông cảm, góp ý của thầy/cô
giảng viên bộ môn để bài tiểu luận của nhóm chúng em trở nên đầy đủ và hoàn
thiện hơn. Một lần nữa, chúng em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy và chúc
thầy luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành công trong sự nghiệp.
LỜI MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài

Đồng tính, song tính và chuyển giới (LGBT) tuy được xem là khái niệm
mới mẻ và khó chấp nhận trong xã hội cũ nhưng nó lại là vấn đề thường xuyên bắt
gặp trong đời sống xã hội hiện đại. Trong những năm gần đây trên thế giới và ở
Việt Nam, cộng đồng LGBT phát triển mạnh mẽ. Đây đó đã xuất hiện những
phong trào đòi quyền bình đẳng, đòi quyền được kết hôn cho những người đồng
tính. Hiện tượng đồng tính nói chung và cộng đồng LGBT nói riêng ở Việt Nam
được quan niệm như một lối sống, một ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường khác
với những giá trị truyền thống, nền tảng văn hoá của dân tộc. Đồng thời nó còn
phát triển trở thành một tệ nạn xã hội - đặc biệt là đồng tính nam. Chính vì thế dư
luận xã hội thường không đồng tình và coi đây không chỉ là một loại bệnh lý
thông thường mà còn phát triển thành một lối sống lệch lạc, trái với thuần phong
mỹ tục của dân tộc. Từ đó, việc nhận thức một cách đầy đủ về cộng đồng người
LGBT vẫn còn nhiều hạn chế đáng tiếc. Đồng thời các yếu tố chính trị, lịch sử,
truyền thống văn hóa, xã hội, định kiến, sự kì thị,... đã có ảnh hưởng vô cùng to
lớn đối với cuộc sống của người LGBT. Hiện nay trên thế giới còn tồn tại khá
nhiều nhận thức khác nhau về cộng đồng người LGBT trong đó có cả sự tôn
trọng, thông cảm, ủng hộ thì cũng không thể thiếu những lời miệt thị, thái độ xa
lánh. Vì vậy, những người thuộc cộng đồng LGBT thường bị phân biệt đối xử và
phải nhận những định kiến nặng nề, thậm chí còn bị hành hung, bị tước đi mạng
sống một cách dã man. Thái độ không chấp nhận hôn nhân hoặc kết hợp dân sự
giữa những người đồng tính đến từ đại bộ phận những người trung niên, lớn tuổi,
các bậc phụ huynh nhưng còn về phía giới trẻ, họ nghĩ ra sao về vấn đề này? Họ
xem nó như một “quyền con người” hay cũng chỉ là suy nghĩ lệch lạc, đơn thuần

1
là một “căn bệnh” lạ. Xuất phát từ đó, nhóm chúng em chọn đề tài “Nhận thức,
thái độ, hành vi của sinh viên đối với cộng đồng người LGBT” nhằm tìm hiểu sâu
và kĩ hơn về suy nghĩ của họ về hiện tượng này.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

LGBT là một hiện tượng không nằm ngoài sự quan sát, đánh giá và tìm
hiểu của bộ môn khoa học mang tên Xã hội học. Vốn là một hiện tượng tưởng
chừng như cá biệt nảy sinh từ lối sống hay quan hệ của con người nhưng đồng
tính luyến ái nhanh chóng thu hút được sự quan tâm của xã hội bởi những ảnh
hưởng của nó đối với nền tảng đạo đức, lối sống cũng như sự phát triển của cả
cộng đồng. Nó có thể được giải thích là bệnh lí bẩm sinh nhưng cũng có thể là
xuất phát từ ảnh hưởng của môi trường sống hoặc do lối sống, nhận thức của cá
nhân. Ở Việt Nam, tuy rằng đồng tính vẫn chỉ tồn tại ở cá biệt một số nhóm đối
tượng nhưng trong thời gian gần đây, nó có xu hướng phát triển mạnh hơn. Nhiều
người, đặc biệt là lứa tuổi thanh niên coi đây như một thứ mốt để đu theo. Thêm
nữa, tệ nạn mại dâm từ trước tới nay đã từng không ít lần gây đau đầu cho các nhà
quản lý, buộc các nhà chức trách phải có những biện pháp xử lí mạnh hơn thì bây
giờ lại xuất hiện thêm cả nạn mại dâm nam. Không chỉ là một hiện tượng lạ, một
loại bệnh lý, LGBT ở Việt Nam được coi như sự đi xuống về đạo đức, trái với
những giá trị văn hoá, truyền thống tốt đẹp đã được ông cha ta gầy dựng từ xưa
đến nay. Việc giải quyết nó là một việc rất khó khăn, căng thẳng và cần rất nhiều
thời gian và chất xám bởi những người LGBT vẫn được coi là “con người”, là
những thành viên trong xã hội, họ vẫn có quyền và nghĩa vụ của một con người và
sự phát triển của họ gắn liền với sự phát triển của xã hội. Do vậy việc trước tiên
của quá trình giải quyết vấn đề căng não này là tìm hiểu sự nhận thức và hiểu biết
cũng như thái độ của người dân. Ở đây, đề tài nghiên cứu đã dựa trên những cơ sở

2
đó và tập trung vào nhóm đối tượng thế hệ trẻ, đề cập đến ở đây là sinh viên,
những chủ nhân tương lai sẽ lo cho vận mệnh của đất nước. Bởi đây là nhóm tiêu
biểu cho thanh niên, đối tượng dễ bị ảnh hưởng bởi các hiện tượng xã hội mới lạ
trong đó có đồng tính luyến ái. Do vậy nên họ cần có những hiểu biết nhất định để
có định hướng giải quyết nhưng không thể hiện thái độ kì thị đối với những người
trong cộng đồng LGBT.

1. Mục tiêu nghiên cứu

 Mục đích nghiên cứu của đề tài này là làm sáng tỏ một cách toàn diện, có
hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về vấn đề nhận thức, thái độ,
hành vi của sinh viên đối với những người đồng tính
 Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức cũng như thái độ và hành
vi của sinh viên
 Tìm hiểu mức độ phổ biến của hiện tượng này qua sự đánh giá của sinh
viên.
 Trên cơ sở những kết quả đạt được từ việc nghiên cứu lí luận và thực tiễn
để đưa ra các quan điểm, giải pháp và thức tỉnh mọi người về cộng đồng
LGBT. Từ đó đưa cộng đồng LGBT gần hơn với mọi người, để mọi người
có nhận thức đúng đắn về công đồng này. Đồng thời lên án, phê phán
những hành vi phân biệt đối xử, bạo lực hướng đến công đồng LGBT. Cổ
vũ, động viên, đứng về phía mọi người – những con người không dám hoặc
chưa dám sống thật hay thừa nhận giới tính của mình hãy dám công khai,
sống cho chính bản thân và vượt qua định kiến.

2. Đối tượng, khách thể nghiên cứu, phạm vi và mẫu nghiên cứu

2.1 Đối tượng nghiên cứu

3
Đối tượng nghiên cứu của đề tài tiểu luận là nhận thức, thái độ và hành vi
của giới trẻ đối với những người trong cộng đồng LGBT
2.2 Khách thể nghiên cứu : Sinh viên trường Đại học Tài chính – Marketing

2.3 Phạm vi và địa bàn nghiên cứu:

- Địa bàn nghiên cứu: Trường Đại học Tài chính – Marketing
- Phạm vi nghiên cứu: Tìm hiểu nhận thức của sinh viên trường Tài chính -
Marketing về hiện tượng đồng tính cũng như thái độ, hành vi tương ứng.
Đánh giá sự ảnh hưởng của yếu tố giới, nơi cư trú hiện nay, thành phần gia
đình và nơi sống trước khi vào đại học với các yếu tố trên. Đề tài chỉ tập
trung vào sự hiểu biết và đánh giá của sinh viên về hiện tượng này và khía
cạnh xã hội.

2.4 Mẫu nghiên cứu

Mẫu nghiên cứu được lựa chọn gồm 300 sinh viên thuộc Trường Đại học
Tài chính - Marketing. Cơ cấu mẫu như sau:
-  50% sinh viên nam và 50% sinh viên nữ.
-  50% sinh viên nông thôn và 50% sinh viên đô thị.
- Tỷ lệ sinh viên có nơi cư trú là ký túc xá, nhà trọ và gia đình tồn tại ngẫu
nhiên.
- Tỷ lệ sinh viên thuộc loại hình gia đình công nhân viên chức, buôn bán
nghề nông và nhóm nghề khác tồn tại ngẫu nhiên.
Cơ cấu mẫu điều tra

Tiêu chí Đặc điểm Số lượng %


Giới tính Nam 150 50

4
Nữ 150 50
Nơi cư trú Kí túc xá 95 31,7
Gia đình 85 28,3
Nhà trọ 120 40
Nơi sống trước khi vào đại học Đô thị 170 56,7
Nông thôn 130 43,3
Thành phần gia đình Công nhân - Viên chức 90 30
Buôn bán 128 42,7
Nghề nông 82 27,3

3. Phương pháp nghiên cứu

3.1 Phương pháp luận

Trong đề tài tiểu luận hay luận văn, người viết đề tài nghiên cứu thường sử
dụng hệ phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử nhằm xem xét vấn đề cần được nghiên cứu dưới góc độ khoa học nhất.
3.2 Phương pháp cụ thể

3.2.1 Phương pháp thu thập ý kiến bằng bảng hỏi

Chúng tôi đã phát 300 bảng hỏi chia đều cho hai nhóm sinh viên thuộc
Trường Đại học Tài chính - Marketing. Bảng hỏi được xây dựng gồm 14 câu hỏi
cụ thể và 1 câu hỏi mở nhằm tìm hiểu về:
- Đặc điểm cá nhân của sinh viên như giới tính, nơi cư trú hiện nay, nơi
sống trước khi vào đại học và nghề nghiệp của bố mẹ.

5
- Nhận thức của họ về hiện tượng đồng tính, hay những người thuộc cộng
đồng LGBT.
- Mức độ phổ biến về hiện tượng này qua sự đánh giá của sinh viên.
- Thái độ của sinh viên đối với hiện tượng đồng tính và người trong cộng
đồng LGBT.
3.2.2 Phương pháp phỏng vấn

Phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi nêu trên có thể đem lại những
thông tin định lượng có tính khái quát. Để tìm hiểu thêm những thông tin định
tính chi tiết và sâu sắc hơn, chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn sâu 20 sinh viên của
trường nhằm hiểu rõ hơn bản chất của vấn đề và phát hiện những khía cạnh mới
mẻ và sâu sắc hơn về vấn đề nghiên cứu.
3.2.3 Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu

Chúng tôi có sử dụng một số tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu nhằm
thu được những thông tin có tính khách quan và khoa học để luận giải thuyết phục
các nội dung của tiểu luận.
3.2.4 Phương pháp phân tích tình huống thực tiễn và lịch sử

Nhằm nắm rõ thực trạng của cộng đồng LGBT và nhấn mạnh những bất
công cũng như sự thay đổi của cộng đồng này.
3.2.5 Phương pháp thống kê và phân tích số liệu

Nhằm tập hợp, đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.

4. Giả thuyết nghiên cứu

 Đồng tính luyến ái là một hiện tượng rất phức tạp của xã hội hiện nay và

đã được đa số sinh viên biết đến.

 Sinh viên có những hiểu biết tương đối về nguyên nhân, bản chất, biểu

6
hiện cũng như đối tượng của hiện tượng này. Từ nhận thức, họ có thái độ

quan điểm đánh giá tương ứng.

 Nhận thức cũng như thái độ, hành vi của nhóm sinh viên đối với hiện tượng
này chịu sự chi phối của yếu tố kinh tế-văn hoá- xã hội, giới, nơi cư trú hiện
nay, thành phần gia đình, nơi sống trước khi vào đại học.

5. Khung lý thuyết

6. Đóng góp mới cho đề tài


Dựa trên tổng quan tài liệu nghiên cứu

7
7. Bố cục đề tài tiểu luận

CHƯƠNG I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.


CHƯƠNG II: Kết quả nghiên cứu, những giải pháp và khuyến nghị kết quả
nghiên cứu.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ.

NỘI DUNG CHÍNH


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ
TÀI
1. Hệ khái niệm công cụ
1.1 Giới và giới tính
- Giới tính là khái niệm chỉ các đặc điểm sinh học của nam và nữ
- Giới là khái niệm chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các
mối quan hệ xã hội.

- Giới tính là bẩm sinh và đồng nhất (nam và nữ khắp nơi trên thế giới đều có
chức năng/cơ quan sinh sản giống nhau), không thể thay đổi được (trừ
trường hợp có sự can thiệp của y học), do các yếu tố sinh học quyết định.
Chúng ta sinh ra là đàn ông hay đàn bà: chúng ta không thể lựa chọn và
không thể thay đổi được điều đó. Ví dụ nam giới có thể làm thụ thai, phụ
nữ có thể sinh con và cho con bú.

- Giới phản ảnh sự khác biệt giữa nam và nữ về khía cạnh xã hội. Những sự
khác biệt này là do quá trình học mà thành, đa dạng, và có thể thay đổi.
Chúng thay đổi theo thời gian, từ nước này sang nước khác, từ nền văn hoá

8
này sang nền văn hoá khác trong một bối cảnh cụ thể của một xã hội, do
các yếu tố xã hội, lịch sử, tôn giáo, kinh tế quyết định. Ví dụ: phụ nữ làm
nội trợ, thêu thùa, chăm sóc con cái, nam giới xây dựng nhà cửa, làm kinh
tế, chính trị,…  Những hành vi này không phải là hành vi hay kỹ năng bẩm
sinh mà do họ được xã hội, gia đình, cộng đồng dạy dỗ để làm việc đó vì xã
hội cho rằng như vậy là phù hợp với thiên chức phụ nữ hoặc nam giới.
1.2 Bản sắc giới và vai trò giới
Bản sắc giới tính là ý thức riêng tư của một người là đàn ông hay phụ nữ.
Bằng cách chấp nhận vai trò và hành vi giới được xác định theo xã hội, một người
có thể nói đã phát triển một loại bản sắc giới tính nhất định về người đó. Đây là cơ
sở của sự hình thành bản sắc xã hội của một người. Hơn nữa, một khi bản sắc
được hình thành, nó được cho là rất cứng nhắc và khó thay đổi. Bản sắc giới được
hình thành do kết quả của ảnh hưởng xã hội và lợi ích cá nhân của người đó. Bản
sắc giới thường phù hợp với giới tính của cá nhân nhưng không phải trường hợp
nào bản sắc giới cũng đồng nhất với giới tính của cá nhân đó.

Những bản sắc giới tính khác gồm có những thuật ngữ sau, nhưng không giới hạn:

  Giới tính linh hoạt (Gender fluid): mô tả người có bản sắc giới tính không cố
định.
 Bản sắc giới tính đa dạng/phi nhị nguyên (genderqueer/non-binary): mô tả
những người có bản sắc giới tính nằm ngoài nhị phân giới truyền thống của
một trong hai giới gái/phụ nữ/nữ hoặc trai/nam.
Vai trò giới: là tập hợp các hành vi ứng xử mà xã hội mong đợi ở nam và
nữ liên quan đến những đặc điểm giới tính và năng lực mà xã hội coi là thuộc về
nam giới hoặc thuộc về phụ nữ (trẻ em trai hoặc trẻ em gái) trong một xã hội hoặc
một nền văn hoá cụ thể nào đó. Vai trò giới được quyết định bởi các yếu tố kinh

9
tế, văn hoá, xã hội. Phụ nữ và nam giới thường có 3 vai trò giới như sau: Vai trò
sản xuất, Vai trò tái sản xuất, Vai trò cộng đồng.

1.3 Khái niệm LGBT và cộng đồng LGBT

LGBT là tên viết tắt của đồng tính nữ (Lesbian), đồng tính nam (Gay), song
tính (Bisexual) và chuyển giới (Transgender). Những thuật ngữ như Gay, Lesbian,
Bisexual dùng để mô tả xu hướng tính dục của một người, tức là họ có sự hấp dẫn
tình yêu và tình dục khác với những người dị tính (hay Straight - những người bị
hấp dẫn bởi người thuộc giới tính trái ngược với mình). 
- Người đồng tính nữ (Lesbian) là một người phụ nữ bị thu hút bởi những
người phụ nữ khác.
- Gay là từ dùng để mô tả một người nam bị thu hút bởi những người cùng
giới.
- Người song tính (Bisexual) mô tả một người (nam hoặc nữ) bị thu hút bởi
cả hai giới.

- Người chuyển giới (Transgender): Theo các chuyên gia tâm lý học, bản
dạng giới có thể được hiểu là nhận thức của một người về giới tính của
người đó, có thể là nữ, cũng có thể là nam hoặc giới tính khác. Vì vậy,
những người chuyển giới là những người có bản dạng giới khác với giới
tính sinh học, họ là những người có biểu hiện sinh học trên cơ thể thuộc
giới này nhưng lại luôn cảm thấy mình giống giới tính còn lại. Vì cảm giác
mình bị mang nhầm cơ thể này mà họ sẽ có khao khát phẫu thuật chuyển
sang giới tính họ muốn một cách mãnh liệt. 

Cộng đồng LGBT là cộng đồng của những người có xu hướng tính dục
cũng như bản dạng giới khác với những người có xu hướng tính dục và bản dạng
giới thông thường. Cộng đồng này bao gồm nhiều nhóm nhỏ khác như cộng đồng

10
Les, cộng đồng Gay hay cộng đồng người chuyển giới....  Hiện nay, do khoa học
giới tính ngày càng phát triển, có nhiều nghiên cứu chứng minh con người còn có
đa dạng các xu hướng tình dục hơn nữa chứ không chỉ dừng ở 4 nhóm trên nên
cụm từ LGBT ngày nay đã dài hơn thành LGBTQIA, trong đó:

- Q - Queer: Queer là những cá nhân có xu hướng tính dục không thuộc các
phân loại khác.
- I -  Intersex: Intersex là từ để chỉ người liên giới tính, những người có đặc
điểm giới tính không điển hình là nam hay nữ. Chẳng hạn, một bé trai có
dương vật nhỏ hơn kích cỡ trung bình hoặc có một rãnh nhỏ gần giống với
âm đạo sẽ được xếp là loại này.
- A - Asexual: Asexual (Ace) hay người vô tính là những người không cảm
thấy hấp dẫn tình dục với bất kỳ giới tính nào.
* Khía cạnh bệnh lý, sinh học:
Về khía cạnh bệnh lý, có rất nhiều giả thuyết đưa ra nhưng những nhà khoa
học dường như đều nhất trí rằng đồng tính luyến ái là bẩm sinh chứ không phải
mắc phải. Người đồng tính luyến ái chẳng có gì khác so với người bình thường
ngoại trừ những lệch lạc về định hướng tình dục. Các nhà bệnh lý học tâm thần
xếp người đồng tính luyến ái vào nhóm lệch lạc đối tượng trong các bệnh lệch lạc
tình dục. Họ được coi là "thiểu số tình dục". Là một loại bệnh tâm thần, đồng tính
luyến ái cần hội tụ 3 điều kiện:
- Có tính chất cưỡng chế, dù có ý thức hay không, họ cũng không thể cưỡng
lại được.
- Chủ yếu ở nam giới (nhưng hiện nay cũng đã có xuất hiện nhiều ở giới nữ).
- Xuất hiện sau tuổi trưởng thành.
* Khía cạnh tâm lý:

11
Ngoại trừ nhóm người đồng tính luyến ái do yếu tố bẩm sinh thì một số
lượng không nhỏ trong nhóm đối tượng này có biểu hiện đồng tính luyến ái do
những nguyên nhân về tâm lý.
- Thứ nhất, đó là do cách giáo dục của gia đình không phù hợp, lệch lạc. Một
gia đình quá hà khắc và gia trưởng hay cách sống không lành mạnh có thể
dẫn đến những tổn thương về tâm lý trong đứa trẻ. Điều này ảnh hưởng
không nhỏ đến sự hình thành nhân cách và giới của đứa trẻ khi trưởng
thành. Và đặc biệt là nội dung, cách thức giáo dục giới tính trong gia đình
còn chưa được quan tâm đến một cách đúng đắn.
- Thứ hai, đó là sự lạm dụng tình dục với trẻ em, đặc biệt là của người cùng
giới với chúng. Điều này tạo nên một trạng thái ám ảnh suốt thời thơ ấu. Và
khi trưởng thành, nó có thể trở thành một nguyên nhân dẫn đến hiện tượng
đồng tính luyến ái.
* Khía cạnh cá nhân và xã hội:
Theo các nhà nghiên cứu hầu hết các hiện tượng đồng tính luyến ái mà
người ta ngộ nhận thường do yếu tố môi trường, bản thân chứ ít khi là do bẩm
sinh.
- Thứ nhất: do sự tò mò của bản thân. Hiện tượng này phổ biến ở lứa tuổi
thanh niên, khi hiểu biết còn chưa đầy đủ nhưng lại dễ bị cuốn hút bởi
những điều mới lạ.
- Thứ hai: do sự lôi kéo hoặc đua đòi. Dư luận xã hội về vấn đề này càng
được mở rộng càng làm nảy sinh một số lượng người đồng tính luyến ái
"dởm", a dua theo bạn bè. Họ coi đây là một thứ "mode" chứ không phải do
bản chất. Và cũng không ít những trường hợp những người bình thường tự
biến mình thành người đồng tính luyến ái vì lợi ích kinh tế hay những lợi
ích khác.

12
- Thứ ba: do ảnh hưởng của luồng văn hoá nước ngoài. Nước ta từ khi mở
cửa, giao lưu kinh tế đồng thời cũng bắt buộc phải " giao lưu" với những
luồng văn hóa nước ngoài mà không ít trong số đó kém lành mạnh, đi
ngược lại với những quan niệm, thuần phong mỹ tục vốn có. Sự ảnh hưởng
của văn hoá có thể nhìn nhận rõ ràng qua cách sống, cách tiêu dùng văn hoá
của người dân đặc biệt là tầng lớp thanh niên. Văn hóa nước ngoài với cái
nhìn khá "thoáng" về các vấn đề giới tính hay tình dục dễ dàng ảnh hưởng
đến nhóm đối tượng còn chưa có nhiều hiểu biết và năng lực đánh giá này.
* Khía cạnh xã hội học:
Với cách tiếp cận xã hội học thì đồng tính luyến ái có thể được coi là một
hiện tượng lệch chuẩn. Bởi lối sống của người đồng tính luyến ái đi ngược lại với
những quan niệm đạo đức xã hội cũng như luật pháp của một số nước, nghĩa là
trái với những chuẩn mực tồn tại trong xã hội. Durkhiem trong cuốn "Các quy tắc
của phương pháp nghiên cứu xã hội học" đã đưa ra quan điểm: sai lệch là tiền đề
của biến đổi xã hội. Hiện tượng đồng tính luyến ái đã tạo ra những thay đổi trong
quan niệm của một số nước như chấp nhận họ như những người bình thường, một
giới tính thứ ba. Hà Lan và một bang của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã cho phép
người đồng tính luyến ái được kết hôn, nghĩa là đã có sự chấp nhận của luật pháp.
2. Tổng quan về hiện tượng đồng tính luyến ái trên thế giới cũng như ở
Việt Nam và xu hướng giải quyết
Từ trước đến nay, cộng đồng LGBT+ luôn chịu sự kỳ thị của xã hội do
những khác biệt về xu hướng tính dục của bản thân. Nhiều người thường cho rằng
Gay, Les... là một bệnh về tâm thần và cố gắng tìm cách chữa trị bằng các liệu
pháp tâm lý. Tuy nhiên, từ năm 1973, Hiệp hội Tâm thần học Mỹ đã không còn
xem đồng tính luyến ái là một bệnh tâm thần nữa. Ở Hà Lan và một bang ở Hoa
Kỳ đã có đạo luật cho phép người đồng tính kết hôn. Hay Trung Quốc năm 1996

13
đã đồng ý với Tổ chức y tế thế giới không coi đây là một chứng bệnh, gạch tên nó
trong danh sách các chứng rối loạn tâm thần.
Trong vài ba thập kỉ nay, tại các nước Tây phương có sự hình thành của
một nền văn hóa LGBT+, những người thuộc cộng đồng LGBT+ đã dần được đối
xử như những người bình thường, thậm chí, nhiều người còn tham gia vào nhiều
hoạt động chính trị, xã hội và có những thành tựu rất nổi bật. Điều này càng ngày
càng củng cố thêm nhận thức của con người về LGBT+ và tiến đến việc tôn trọng,
chống lại sự kỳ thị nhắm đến cộng đồng này. Ở châu Âu và Hoa Kỳ, những năm
cuối thập kỷ 60 của thế kỷ XX là thời kỳ của những phong trào" giải phóng" của
người thuộc cộng đồng LGBT, đấu tranh đòi quyền bình đẳng trong xã hội cũng
như vượt qua những sự chỉ trích của cộng đồng. Đây cũng là thời kỳ phát triển
mạnh mẽ nhất của phong trào nữ quyền. Và dường như cũng đã có một sự thay
đổi trong mức độ cởi mở khi bàn luận về hiện tượng đồng tính cũng như sự đồng
cảm đã tăng lên với những người thuộc giới thứ ba này.

Tại Việt Nam, với đặc trưng của một nền văn hóa Á Đông chịu nhiều ảnh
hưởng của Nho Giáo, những người thuộc cộng đồng LGBT+ cũng vẫn còn khá e
ngại và không dám công khai xu hướng tính dục của mình. Nhưng cho đến những
năm gần đây thì người dân đã thoáng hơn về tư tưởng người đồng tính, có rất
nhiều chương trình bàn luận về người đồng tính, cũng như có nhiều người thành
đạt công khai xu hướng tính dục của mình, tạo động lực cho cộng đồng LGBT+
trở nên mạnh mẽ và tự tin hơn trong cuộc sống. 

Theo một số nghiên cứu thì người đồng tính luyến ái chiếm khoảng từ 1
đến 12 % dân số thế giới. Ở Hoa Kỳ con số này là trên 1% dân số. Ở Trung Quốc
có khoảng từ 36 đến 48 triệu người thuộc cộng đồng LGBT. Còn ở Việt Nam
chưa có con số thống kê chính xác nhưng theo các nhà khoa học thì tỷ lệ người

14
đồng tính chiếm khoảng 1 % dân số. Xét theo số lượng thì con số trên không lớn
nhưng những vấn đề xung quanh nhóm đối tượng này đã làm đau đầu những nhà
quản lý văn hóa và xã hội. Bởi đồng tính luyến ái không chỉ là một căn bệnh mà
nhiều khi là một lối sống thiếu lành mạnh gây hại cho văn hoá và là một nguy cơ
chủ yếu dẫn tới sự gia tăng của bệnh HIV/ AIDS.

Trước khi được Liên Hợp Quốc công nhận, trong một thời gian dài ở Đức,
ngày 17/5 được xem là Gay Day. Mãi cho đến ngày 17/5/1990, Tổ chức Y tế Thế
giới (WHO) mới chính thức loại bỏ đồng tính luyến ái ra khỏi danh sách bệnh tâm
thần. Ngày 17/5/2014, với nỗ lực không ngừng của 24000 cá nhân và các tổ chức
về LGBT lớn như: Hiệp hội đồng tính nữ và đồng tính nữ quốc tế ILGA, Ủy ban
Nhân quyền Đồng tính và Đồng tính Quốc tế (IGLHRC), Hội nghị Thế giới của
những người Do Thái LGBT và Liên minh Đồng tính nữ châu Phi... ngày 17/5
mới chính thức trở thành Ngày Quốc tế chống kỳ thị, phân biệt đối xử với người
đồng tính, song tính, dị tính và chuyển giới (LGBT) -  IDAHOBIT (International
Day Against Homophobia, Biphobia, Interphobia & Transphobia) được Liên Hợp
Quốc thông qua (gọi ngắn gọn là ngày Quốc tế chống kỳ thị LGBT).

Ngày Quốc tế chống kì thị LGBT đã được chính thức công nhận tại nhiều
nước như Canada, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Bỉ, Anh, Mexico, Costa Rica,
Croatia, Hà Lan, Pháp, Luxembourg, Venezuela và Liên minh châu Âu EU... Ủy
ban IDAHOBIT được hình thành ở nhiều nước để tổ chức các hoạt động hưởng
ứng sự kiện này. Mục đích chính của ngày Quốc tế chống kỳ thị LGBT là nhằm
giúp nâng cao nhận thức của xã hội về nạn bạo lực, kỳ thị, phân biệt đối xử với
cộng đồng LGBT trên phạm vi toàn cầu, từ đó thay đổi cách nhìn của xã hội và
tác động đến các nhà hoạch định chính sách. 

15
Có thể thấy sự “lệch chuẩn” của con người (phần nhiều là giới trẻ) có ở mọi
khía cạnh của đời sống. Lệch chuẩn có ở hình thức lẫn nội dung, từ suy nghĩ đến
hành động, lệch chuẩn từ trong đến ngoài, từ “vô ý” đến cố ý… được biểu hiện đa
dạng, đa hình thức: Nào là xăm trổ đầy mình, nào là tóc xanh tóc đỏ, rồi ăn nói
nhố nhăng, chửi tục, chửi thề, cố làm cho “giới tính… linh hoạt”. Với cách nhìn
như vậy, những người thuộc cộng đồng LGBT chính là một hiện tượng lệch chuẩn
bởi nó chỉ là một hiện tượng của một nhóm nhỏ trong xã hội, một lối sống khác
thường. Nhìn chung dư luận xã hội đều không đồng tình và muốn ngăn chặn hiện
tượng này. Tuy nhiên nếu đây là một lối sống lệch lạc, bệnh hoạn gây hại cho đạo
đức cũng như sự phát triển của xã hội thì cách nhìn nhận và xử lý trên là hợp lý.
Có nhiều người cho rằng đây là một căn bệnh hay do bản thân mỗi người trong
cộng đồng LGBT tự lựa chọn xu hướng tính dục, vì vậy có thể dễ dàng thay đổi
họ trở về xu hướng “thẳng” vốn có. Nhưng những trường hợp người thuộc cộng
đồng LGBT là bẩm sinh, những thay đổi về hormone bên trong và thể chất bên
ngoài dẫn đến sự thức tỉnh cảm xúc về giới tính. Tình cảm và cảm xúc là thứ mà lí
trí khó có thể kiểm soát được. Những người trong cộng đồng LGBT hoàn toàn
muốn có một cuộc sống bình thường thì cũng đòi hỏi một sự cảm thông và giúp
đỡ chân thành của cộng đồng.
3. Các hướng tiếp cận lý thuyết
3.1 Đồng tính dưới con mắt của Phân tâm học cổ điển

Được coi là một trong ba hiện tượng khoa học làm nên những bước ngoặt
vĩ đại trong lịch sử tiến bộ của nhân loại, học thuyết Phân tâm do S.Freud khởi
xướng từ cuối thế kỷ XIX từ khi ra đời đã gây những chấn động mãnh liệt trong
dư luận và trở thành một thứ công cụ lý luận đắc lực cho nhiều ngành khoa học
cho tới tận ngày nay. Nghiên cứu trên một loại đối tượng khác biệt, ngay từ năm
1905, trong công trình Ba tiểu luận về lý thuyết tính dục, S. Freud đã dành không

16
ít sự quan tâm cho những người đồng tính. Ông xếp họ vào những ca lệch lạc về
tính dục, cụ thể là lệch lạc liên quan đến đối tượng tình dục. Ông cũng lưu ý về
cách định danh hiện tượng này. Thay vì gọi bằng khái niệm homosexual (đồng
tính luyến ái), ông ưa thích gọi bằng inversion (nghịch đảo giới tính) hơn. Các
thuật ngữ ông dùng để chỉ đối tượng trong nhóm này như “nghịch giới tuyệt đối”,
“nghịch giới lưỡng tính”, “nghịch giới cơ hội” đều được gọi ra dựa trên những
khuynh hướng dục năng libido của họ. Ông cũng đặc biệt thích thú với những ca
dục năng libido ngả theo hướng đảo giới tính sau khi có trải nghiệm đau khổ với
một đối tượng tình dục bình thường. Phát triển tư tưởng từ trọng tâm về libido,
Freud chỉ ra rằng, một khi dục năng libido được thỏa mãn, con người sẽ giữ được
trạng thái cân bằng. Ngược lại, vì lý do nào đấy, dục năng này bị cản trở, nó sẽ
quay trở lại xung đột với trạng thái tâm lý và tìm cách phóng thoát trong hoàn
cảnh, môi trường khác nhau. Việc tiếp xúc với môi trường xấu chính là nguyên
nhân dẫn đến thái độ ghê sợ tình dục, trầm cảm, biến thái, tâm thần hay đồng tính.
Với quan niệm này, phân tâm học của S.Freud đã công khai chống lại quan điểm
đồng tính do rối loạn gene di truyền khá phổ biến lúc đó. Các giả thuyết khác về
nguyên nhân dẫn tới đồng tính như tính tự si (nacxit) hay mặc cảm Odipe không
thỏa mãn trong giai đoạn dậy thì… đều là những phát hiện gây nhiều tranh cãi.
Chưa hết, năm 1905, vẫn trong khảo cứu gây nhiều tranh cãi Ba tiểu luận
về lý thuyết tính dục, Sigmund Freud đã liệt kê thói giả trang (một cách gọi khác
của đảo trang giới tính (Transvestism/ Crossdresser) như một biểu hiện của lệch
lạc tính dục trên các đối tượng là con bệnh thần kinh. Ông nhận định: “Thói giả
trang, tức thói thích mặc áo quần của giới tính ngược lại, muốn mang căn tính một
người thuộc giới tính ngược lại ở chốn riêng tư cũng như ở nơi công cộng”. Dễ
dàng có thể thấy, đây là cách nhìn nhận của một người ngoài cuộc, cho nên ngay
tại thời điểm những năm đầu thế kỷ XX, khi công bố này xuất hiện, nó đã vấp

17
phải nhiều chỉ trích, la ó của dư luận, đặc biệt từ phía những người trong cộng
đồng LGBT- người không đời nào chịu im lặng như một sự đồng tình. Với vị trí
và tầm ảnh hưởng của mình, những bàn luận về hiện tượng đồng tính luyến ái của
Sigmund Freud không chỉ được xem là nền tảng có giá trị cho các nghiên cứu y
học, tâm lý về đồng tính đương đại mà còn gợi hướng cho các nhà văn, nhà phê
bình suy nghĩ về sự ra đời của những đứa con tinh thần trong tương lai của mình.
Phân tâm học cổ điển và các nhánh chi của nó sau này đã bỏ nhiều thời gian để đi
tìm câu trả lời xác đáng cho câu hỏi: đồng tính có phải là một “rối loạn định dạng
giới” (biểu hiện của bệnh lý) hay là cái gì khác? Sự phân giải đôi khi chứa nhiều
mâu thuẫn cho thấy sự thực là ngay cả cha đẻ của học thuyết cũng không hoàn
toàn tin chắc vào khả năng “cứu rỗi” của học thuyết do mình tạo nên.

3.2 Thuyết Lệch pha (Queer theory) hay học thuyết về sự giằng co giữa Kiến
tạo luận (Constructionism) và Bản chất luận (Essentialism)

Trong một thời gian dài, những nhà nghiên cứu chia sẻ mối quan tâm đến
chủ đề đồng tính đã tranh cãi nhau gay gắt để ngã ngũ về định đề: đồng tính luyến
ái là một căn tính tự nhiên hay là sản phẩm của xã hội? Kết quả của những tranh
luận này không chỉ hình thành nên hai trường phái tư tưởng đối lập mà còn tạo
tiền đề ra đời cho một học thuyết mà sự đóng góp của nó vào lịch sử tính dục của
nhân loại là không thể phủ nhận: thuyết Lệch pha (Queer theory) (có nhiều tài liệu
dịch là Đồng tính luận).
Những tư tưởng trong bài viết của John D’Emilio cũng nhận được sự đồng
tình của người đồng nghiệp ở Paris là Michel Foucault khi ông này khẳng định:
“thiên hướng tình dục về thực chất là một “sáng chế” của các nhà nước hiện đại,
của cuộc Cách mạng công nghiệp và chủ nghĩa tư bản”. Cũng chính Foucault -
vốn được biết đến như một nhà giải cấu trúc trứ danh - đã trùm ảnh hưởng của
mình lên ý hướng của các nhà lệch pha/đồng tính (queer) học khi ông tuyên bố,

18
tình dục là một sản phẩm của diễn ngôn hơn là một điều kiện tự nhiên, nó chịu
ảnh hưởng nặng nề của các quan hệ quyền lực trong xã hội, chịu sự cấm đoán, ức
chế lẫn sự cho phép của các quan hệ đó đồng thời tạo ra những ý nghĩa mới cho
hoạt động tình dục. Tiếp TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 39, tháng 3 năm 2020 117
thu tư tưởng của M. Foucault, các nhà lệch pha học nhìn giới tính trong cái nhìn
tương đối: không có cái bình thường lẫn cái bất thường, cái kỳ quái (nghĩa phái
sinh của từ “queer”) cũng chỉ là khái niệm ảo, cái gọi là “giới tính” hay “bản sắc”
chung quy lại cũng chỉ như một “sản phẩm hư cấu của văn hóa, một sự cách điệu
hóa được lặp đi lặp lại thường xuyên của thân thể” “lúc nào cũng ở trong tiến
trình được kiến tạo, một cái gì đang được hình thành”.
Khi mới xuất hiện lần đầu tiên tại Anh, Mỹ vào đầu thập niên 90 của thế kỷ
XX, thuyết Lệch pha nhanh chóng được đón nhận và phổ biến rộng rãi, trở thành
tâm điểm giảng dạy trong các trường đại học cũng như chủ đề nóng của các tạp
chí. Mẹ đẻ của học thuyết - bà Teresa de Lauretis, được xem là trường hợp điển
hình cho sự chuyển tách từ chủ nghĩa nữ quyền sang một phạm vi nghiên cứu hẹp
hơn, liên quan đến phong trào đấu tranh giải quyền lực nam giới. Ban đầu, thuyết
đồng tính chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu của nó trong hai lĩnh vực đồng tính
nam và đồng tính nữ (Gay/lesbian Studies), về sau, còn quan tâm tới cả Chuyển
giới tính học (Transgender Studies). Sự phát triển của thuyết Lệch pha chính là
minh chứng hùng hồn nhất cho vị thế áp đảo của các nhà kiến tạo luận với yếu
tính luận, trước hết vì nền tảng học thuyết này là các quan điểm mang tính kiến
tạo về phái tính. Những phát biểu của M.Foucault, Judith Butle, Susan S.Lanser
có thể coi là “tuyên ngôn mới” của Đồng tính luận trong giai đoạn phát triển của
đợt sóng thứ ba này. Nói tới các chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực Lệch pha
học, không thể không kể đến Annamarie Jagose - giảng viên cao cấp của Đại học
Melbourne, tác giả của công trình nổi tiếng Dẫn nhập lý thuyết lệch pha (Queer

19
theory - An introduction). Công trình này đã trở thành một tài liệu tham khảo
quan trọng trong công tác nghiên cứu và tìm hiểu về đồng tính không chỉ trong
phạm vi nước Mỹ mà đã lan ảnh hưởng sang cả các nước khu vực Á, Âu. Như tên
gọi của nó, công trình đưa ra cách hiểu khác về tình dục đồng tính cùng các bản
dạng của nó thông qua thuật ngữ mang một nội hàm đa nghĩa “queer”, với quan
niệm giản dị là “phạm trù bao trùm về liên minh tự định danh tình dục bên lề văn
hóa – một thứ mô hình lý thuyết mới ra đời đã ly khai khỏi thuyết đồng tính
truyền thống”.

CHƯƠNG II: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, NHỮNG GIẢI


PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và địa bàn nghiên cứu
1.1 Tình hình nghiên cứu
Sự phát triển hay nói chính xác hơn là ngày càng có nhiều người công khai
bản thân thuộc LGBT với lối sống khác thường của mình đã thu hút sự chú ý của
dư luận xã hội cũng như của các nhà nghiên cứu. Bởi việc tìm hiểu bản chất cũng
như nguyên nhân của hiện tượng này giúp ích rất nhiều cho việc đưa ra những giải
pháp hạn chế những ảnh hưởng của nó đồng thời giúp cộng đồng có được một
cách nhìn cảm thông và chia sẻ hơn với nhóm xã hội bất thường này. 

20
Trên thế giới, những nghiên cứu chính thức và tập trung về giới đồng tính
được tiến hành rộng rãi nhằm cung cấp những hiểu biết về mọi mặt cuộc sống của
họ:
- Violence against lesbians and gaymen - David Comstock. Đây là một
nghiên cứu tập trung về những vấn đề mà người đồng tính luyến ái gặp phải
trong cuộc sống. Tác giả đưa ra những số liệu về tệ nạn sử dụng bạo lực
cũng như sự phân biệt đối xử đối với người đồng tính luyến ái tại Hợp
chủng quốc Hoa kỳ qua nghiên cứu năm 1992.
- Sociology of marriage and the family (gender, love and property).
- Scott Coltrane and Randall Collins - NXB Wadsworth/ Thomson Learning
2001. Cuốn sách xã hội học về hôn nhân và gia đình này đã đề cập đến rất
nhiều vấn đề về mọi mặt của đời sống hôn nhân cũng như các vấn đề về
giới tính. Trong đó đồng tính luyến ái cũng được đề cập. Chủ yếu nghiên
cứu làm sáng tỏ sự xuất hiện và phát triển của hiện tượng này trong đời
sống cá nhân, cách nhìn nhận của cộng đồng về nó. Dù sao với một cái nhìn
thoáng hơn, mạnh dạn do đặc thù lối sống và quan niệm nên những nghiên
cứu về đồng tính luyến ái ở phương Tây xuất hiện đa dạng và sâu sắc.
Còn ở Việt Nam, cho dù việc người thuộc cộng đồng LGBT ngày càng tăng
không còn xa lạ với xã hội nhưng việc nghiên cứu nó chính thức và sâu rộng còn
rất ít. Đa số báo chí đề cập đến đồng tính như một hiện tượng mới nổi lên, khác
thường với quan niệm xã hội hay chỉ tập trung vào một số nhóm xã hội cụ thể mà
chưa đi sâu cung cấp những kiến thức cơ bản về hiện tượng này. Điều này gây
nhiều khó khăn cho việc nhận thức bản chất, nguyên nhân của hiện tượng.
- Giới tính học trong bối cảnh Việt Nam - BS. Trần Bồng Sơn - NXB Trẻ
2002 Đây là một cuốn sách đi sâu vào những kiến thức khoa học về giới
tính. Vấn đề đồng tính luyến ái cũng là một trong những nội dung nghiên

21
cứu của nó. Qua đó người đọc có thể thu được những hiểu biết về nguyên
nhân, bản chất của đồng tính luyến ái cũng như cách giải quyết đối với hiện
tượng này. 
- Tạp chí AIDS và cộng đồng - Uỷ ban thường trực phòng chống AIDS quốc
gia (số 1-12-2000). Trong tạp chí này, đồng tính luyến ái được nhắc đến
như một nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng căn bệnh HIV/AIDS, đặc biệt là
với nhóm đồng tính nam. Việc nghiên cứu hiện tượng đồng tính luyến ái
dưới góc độ khoa học cũng như xã hội là rất cần thiết. Bởi nhờ đó, cộng
đồng sẽ có những hiểu biết để tìm cách giải quyết cũng như xác định một
thái độ thích hợp với những người thuộc nhóm xã hội này.
1.2 Địa bàn nghiên cứu

Trường Đại học Tài chính - Marketing đào tạo các chuyên ngành về lĩnh
vực kinh doanh, đặc biệt là 2 ngành mũi nhọn Marketing và Tài chính Ngân hàng,
là cơ sở giáo dục đại học công lập, tự chủ tài chính có tư cách pháp nhân, có con
dấu và tài khoản riêng. Do ngành mũi ngọn là Marketing nên số sinh viên nữ
thường chiếm đa số hơn sinh viên nam. Sinh viên của hai trường có xuất thân từ
nhiều địa phương trong nước nên nơi cư trú của họ chủ yếu là ký túc xá và nhà trọ
tại những khu vực xung quanh trường. Trường đều tổ chức Đoàn và Hội sinh viên
phát triển do vậy sinh viên đều được cung cấp khá đầy đủ thông tin về những hiện
tượng xã hội mới.
2. Mức độ biết đến của nhóm sinh viên đối với cộng đồng LGBT và mức
độ phổ biến qua điều tra tần suất gặp
2.1 Mức độ ảnh hưởng của cộng đồng LGBT đên người đồng tính
theo quan điểm của sinh viên

22
Qua điều tra, có thể thấy đa số sinh viên đã biết đến cộng đồng LGBT. Điều

này chứng tỏ rằng LGBT không còn tồn tại như một số trường hợp cá biệt mà đã
phát triển khá rộng rãi. Qua các phương tiện thông tin đại chúng, sách báo gia

đình và bè bạn, sinh viên thu thập được những hiểu biết về hiện tượng này. Vấn
đề đặt ra là trong thực tế, cộng đồng LGBT có tồn tại phổ biến như vậy hay

không. Có thể giải quyết câu hỏi này bằng cách tìm hiểu mức độ đã gặp hiện
tượng này của nhóm sinh viên.
Bản thân của mỗi sinh viên có những hiểu biết khác nhau và những cách

nhìn nhận về vấn đề không giống nhau. Nhìn vào biểu đồ thống kê, chúng ta có

thể nhận thấy, đạo đức là vấn đề được sinh viên quan tâm nhất và cho đó là mức

độ ảnh hưởng cao nhất đối với người đồng tính. Ở đây chúng ta không xét ai

đúng, ai sai. Mà chúng ta chỉ thống kê lại những số liệu đã thu thập được sau khi

điều tra. Về hiện tượng đồng tính luyến ái, ít nhiều sẽ có những mức độ ảnh

hưởng khác nhau tùy thuộc thời điểm và tùy thuộc suy nghĩ của mỗi người. Đồng

tính luyến ái xuất hiện từ lâu, mặc dù được nghe nói đến nhiều, nhưng không phải

sinh viên nào cũng có những hiểu biết căn bản về nó, và đánh giá một cách khách
quan, chính xác nhất.
2.2 Mức độ phổ biến của cộng đồng LGBT qua điều tra tần suất gặp
của sinh viên

Bảng 1: Tương quan giới và nơi sống trước khi vào đại học của sinh viên với sự
quan tâm của họ tới hiện tượng đồng tính (Đơn vị: %)

Mức độ quan tâm Nghe nhiều lần Nghe vài lần Chưa nghe bao giờ

23
Nam 77.5 22,5 0
Nữ 75.3 24.2 0.5
Đô thị 60.9 38.7 0.4
Nông thôn 50,7 36,8 12.5

Qua bảng 1 ta thấy sự quan tâm của sinh viên đối với cộng đồng LGBT tồn
tại ở mức cao. Điều này cũng chứng tỏ rằng, cộng đồng này không còn là một
hiện tượng cá biệt mà đã được tồn tại rộng rãi thu hút sự quan tâm của dư luận xã
hội và nhóm sinh viên. Người sinh viên hiện đại không còn chỉ học và nghiên cứu
những vấn đề lý thuyết mà họ luôn năng động, đi sát thực tế, nắm bắt kịp thời mọi
sự thay đổi của xã hội. Đồng thời ta còn thấy số sinh viên nam và số sinh viên đô
thị biết đến cộng đồng LGBT cao hơn nhóm sinh viên nữ và sinh viên nông thôn.
Điều này xuất phát từ những nguyên nhân khách quan. Trước hết, nam giới luôn
nhạy bén hơn, năng động hơn và thích tìm hiểu những hiện tượng mới lạ đặc biệt
là liên quan đến vấn đề giới tính. Còn nữ giới luôn được quan niệm rằng phải dịu
dàng, kín đáo, không nên tự tìm hiểu về vấn đề giới tính. Thêm nữa, nữ giới rất e
dè với những hiện tượng bất bình thường như hiện tượng đồng tính. Do vậy tỷ lệ
nữ sinh viên chỉ nghe đến hiện tượng này một vài lần cao hơn so với sinh viên
nam trong khi nam sinh viên lại biết đến hiện tượng này nhiều hơn. 
Số sinh viên chưa bao giờ nghe nói về hiện tượng này chỉ chiếm tỷ lệ rất
thấp và cũng rơi vào nữ giới. Mỗi sinh viên trước khi tham gia học đại học tại Hà
Nội đều mang trong mình những đặc điểm riêng về nơi sống. Môi trường sống
của một cá nhân chi phối rất nhiều đến nhân cách cũng như sự hiểu biết và quan
niệm của anh ta về thế giới xung quanh. Nếu nơi sống của một sinh viên là đô thị
- khu vực có sự phát triển về kinh tế, văn hoá, xã hội, cá nhân đó sẽ có hiểu biết
phong phú và sâu sắc hơn. Ngược lại, những sinh viên xuất phát từ nông thôn
24
thường chịu thiệt thòi bởi ít được cập nhật những luồng thông tin mới.  Thêm nữa,
quan niệm của người dân nông thôn và đô thị cũng có điểm khác biệt do nền văn
hoá và lối sống. Do vậy, số sinh viên nông thôn đã có sự hiểu biết tương đối nhiều
về hiện tượng đồng tính thấp hơn sinh viên đô thị và tỷ lệ sinh viên đô thị chỉ mới
biết đến hiện tượng này một vài lần thấp hơn nhóm sinh viên nông thôn. Nhưng tỷ
lệ chênh lệch giữa họ không cao. Bởi tuy xuất phát từ nơi sống khác nhau nhưng
môi trường học tập và cư trú của họ hiện nay đều là đô thị, nơi mà các phương
tiện truyền thông đại chúng rất phát triển. Thêm nữa, môi trường cung cấp tri thức
cho họ là trường đại học - đảm bảo nguồn tri thức về mọi mặt của đời sống. Trong
số 2 sinh viên nữ chưa nghe đến cộng đồng LGBT có một người ở nông thôn và
một ở đô thị. Tuy nhiên đây chỉ là trường hợp cá biệt bởi với sự tuyên truyền rộng
rãi của phương tiện truyền thông đại chúng cũng như sự biết đến của nhóm bạn
xung quanh thì chắc chắn có rất ít sinh viên chưa từng nghe qua hiện tượng này.
Loại hình gia đình và nơi cư trú hiện nay của sinh viên cũng có những ảnh hưởng
nhất định tới mức độ hiểu biết của sinh viên về cộng đồng này. Mỗi nghề nghiệp
thường tương ứng với một môi trường làm việc cũng như trình độ học vấn của cá
nhân làm công việc đó. Do vậy hình thành nên những quan niệm và cách đánh giá
khác nhau đồng thời là những môi trường xã hội hoá các thành viên khác nhau.
Khi lớn lên, mỗi sinh viên sẽ mang theo trong mình những ảnh hưởng của gia
đình và nghề nghiệp của bố mẹ tham gia vào xã hội. Các sinh viên theo học đại
học có những nơi cư trú khác nhau nhưng chủ yếu là ký túc xá, nhà trọ và ở cùng
gia đình. Những địa điểm cư trú này sẽ tác động đến nhận thức cũng như mức độ
quan tâm tới các hiện tượng xã hội bởi đặc thù về các mối quan hệ cũng như các
nguồn cung cấp thông tin.

Bảng 2: Tương quan giới với tần suất đã gặp cộng đồng LGBT (Đơn vị %)

25
Thường xuyên Thỉnh thoảng Hiếm khi Chưa bao giờ

Nam sinh viên 20.2 15.5 50.4 13.9


Nữ sinh viên 18.7 20.4 55.7 5.2

Có thể nhận thấy rằng số sinh viên nam đã gặp, đã biết những trường hợp
người LGBT cao hơn so với nữ sinh viên. Và tỷ lệ sinh viên nữ chưa bao giờ gặp
hiện tượng này lại cao hơn nam sinh viên. Tương tự như đánh giá về mức độ quan
tâm tới hiện tượng LGBT, nguyên nhân của sự khác biệt này là do bị chi phối bởi
đặc trưng giới tính là mạnh bạo, ham tìm hiểu nên nam giới luôn có xu hướng
thích tìm hiểu các hiện tượng xã hội mới nảy sinh. Thêm nữa, theo quan điểm
khoa học và trong thực tế, hiện tượng LGBT cũng xuất hiện nhiều ở nam giới hơn
dẫn đến mức độ gặp nhiều hơn của nhóm sinh viên nam. Bởi trong mẫu nghiên
cứu, sinh viên cư trú tại ký túc xá, nhà trọ và gia đình với tỷ lệ không đều nên
trong tương quan phải sử dụng phần trăm trong cùng nhóm cư trú.
3. Nhận thức của sinh viên về bản chất của cộng đồng LGBT
3.1 Nhận thức của sinh viên về nhóm tuổi và nhóm đối tượng

Cũng như những hiện tượng xã hội khác, LGBT hay tình dục đồng giới
cũng có những đặc trưng riêng về đối tượng, lứa tuổi. Theo các nhà khoa học thì
LGBT xuất hiện chủ yếu ở nam giới và thường phát triển khi con người bước vào
độ tuổi trưởng thành. Đối với những người bị bệnh lý bẩm sinh thì đây là giai
đoạn họ phát triển cả về thể chất và tinh thần. Do vậy những biểu hiện tưởng
chừng chỉ có ở thời thơ ấu bây giờ trở nên vững chắc hơn, thôi thúc họ sống theo
cách của mình. Với sự hoàn thiện về thể chất cũng như trình độ nhận thức, hiểu
biết họ lại càng khó vượt qua phần lệch lạc của mình.

26
Bảng 3: Hiểu biết của sinh viên về đối tượng và nhóm tuổi của người LGBT (Đơn
vị %)

Nam giới Nữ giới Cả 2 Thanh thiếu niên Trưởng Cao tuổi


giới thành

5.5 2 92.5 53.2 36.7 10.1

Sinh viên cho rằng hiện tượng đồng tính luyến ái có thể xảy ra ở cả hai giới,
5.5% lựa chọn phương án" chỉ xảy ra ở nam giới" và 2% sinh viên chọn phương
án" chỉ xảy ra ở nữ giới". Qua thực tế cũng như qua những phương tiện truyền
thông đại chúng, sinh viên đã có được những hiểu biết đúng đắn về nhóm đối
tượng của đồng tính luyến ái. Cả hai giới đều có thể tồn tại hiện tượng này nhưng
qua điều tra tình huống gặp người đồng tính luyến ái của sinh viên trong mẫu
nghiên cứu cho thấy có nhiều người đồng tính luyến ái nam hơn nữ. Và thông tin
phỏng vấn sâu cũng chỉ ra xu hướng như vậy. 53.2% sinh viên được hỏi cho rằng
đồng tính luyến ái xảy ra ở độ tuổi thanh thiếu niên. 36.7% họ lại cho rằng hiện
tượng này dễ xuất hiện ở người trưởng thành và chỉ có 10.1% chọn phương án "
xảy ra ở nhóm người cao tuổi". Bởi cho dù là một loại bệnh lý hay sự lệch lạc về
quan niệm, lối sống thì đồng tính và cộng dồng LGBT cũng phải cần có một
khoảng thời gian tương đối để hình thành. 
Một phương án phụ thuộc vào chủ quan của đối tượng - đó là tình cảm của họ đủ
bền vững để vượt qua khó khăn. Và một phương án thuộc về khách quan- xã hội
liệu có dành cho họ sự cảm thông và giúp đỡ. Trong số 52.8% sinh viên đồng ý,
với phương án đầu tiên có 49.1% họ lựa chọn và phương án thứ hai được 60.7%
sinh viên đồng tình. Như vậy, có thể thấy sinh viên vẫn nhận thấy rằng mối quan
hệ, cách sống của người đồng tính luyến ái là bất thường. Tình cảm của họ cho dù

27
có thể gọi là tình yêu nhưng đáng tiếc nó lại thường xuất phát từ nhu cầu sinh lý.
Sự gắn bó của họ không lâu dài và thường thay đổi và nó không có sức mạnh
chống đỡ lại định kiến xã hội như một tình yêu khác giới.
Đa số sinh viên tin tưởng rằng xã hội sẽ có sự cảm thông và giúp đỡ những người
trong cộng đồng LGBT. "Họ hoàn toàn có thể có một cuộc sống bình thường, nếu
như xã hội không có thành kiến với họ. Ngoài hiện tượng này họ có một cuộc
sống như bao người khác. Xã hội càng phát triển càng xuất hiện nhiều vấn đề,
hiện tượng mới. Do vậy chúng ta phải biết chấp nhận nó, có sự biến đổi trong
nhận thức để phù hợp với sự phát triển xã hội. Quan niệm xã hội phải biến đổi
theo sự biến đổi của xã hội nếu không sẽ có nhiều vấn đề mà dựa vào quan niệm
thì không thể giải quyết." (N nữ - K21 khoa NNA). Nhưng điều này có lẽ vẫn chỉ
có ở một xã hội tương lai bởi ngay cả ở những nước tương đối " thoáng" như
Châu Âu, người đồng tính luyến ái vẫn chưa được coi như những thành viên bình
thường trước luật pháp và đạo đức xã hội. Có rất ít sinh viên cho rằng người đồng
tính luyến ái không thể có được một cuộc sống bình thường. Ở đây, lý do của sự
khẳng định này cũng bao gồm cả hai khía cạnh chủ quan và khách quan. Đó là
chủ quan - quan hệ của người đồng tính luyến ái là trái tự nhiên nên không thể tồn
tại lâu dài và bền vững và khách quan - xã hội rất khó có sự thông cảm và ủng hộ
họ.
3.3 Nhận thức của sinh viên về nguyên nhân dẫn đến hiện tượng đồng tính

Cho dù là một loại bệnh lý hay sự lệch lạc về quan niệm, lối sống thì đồng
tính luyến ái cũng phải cần có một khoảng thời gian tương đối để hình thành. Có 3
giai đoạn của quá trình xã hội hoá cá nhân và xã hội hoá vai trò giới. Giai đoạn
thơ ấu và nhi đồng, một cá nhân đã có thể có những biểu hiện khác biệt với giới
tính của mình do nguyên nhân bệnh lý hay do sự giáo dục lệch lạc của gia đình.
Các nhà nghiên cứu xã hội học giới cho rằng đây là giai đoạn quan trọng đối với

28
việc định hình bản sắc giới của trẻ (đặc biệt là 2 tuổi). Vai trò của cha mẹ rất quan
trọng trong việc chọn quần áo, đồ chơi phù hợp với giới tính. Nếu cha mẹ không
giúp trẻ hiểu về giới tính của mình cũng như cách ứng xử phù hợp thì có thể dẫn
đến sự lệch lạc sau này. Tuy nhiên, với sự chưa hoàn thiện về thể chất và nhận
thức, đối tượng chưa thể tự khẳng định mình là người đồng tính luyến ái. Phải chờ
cho đến khi đối tượng bước vào thời kỳ phát triển (tuổi dậy thì), những biểu hiện
ban đầu mới được củng cố, mạnh mẽ dần lên và đối tượng dần thay đổi theo sự
cảm nhận về giới tính của mình. Tuổi thanh thiếu niên có nhiều biến đổi về tâm
sinh lý, dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường bên ngoài. Chính vì vậy đây cũng là thời
điểm dễ xuất hiện xu hướng đồng tính luyến ái nếu thanh thiếu niên bị lôi kéo, bị
dụ dỗ hay những biểu hiện ban đầu về bệnh lý ở thời thơ ấu rõ rệt hơn. "Theo
mình, đa phần người đồng tính luyến ái là thanh niên. ở tuổi nhỏ thì ít khi có suy
nghĩ như thế. Còn những người lớn tuổi dù bị bệnh thật sự, họ vẫn kiềm chế để
không ai biết hoặc không ảnh hưởng đến người khác. Họ có suy nghĩ chín chắn
hơn. Còn tuổi thanh niên có rất nhiều tính tò mò, chưa có suy nghĩ chín chắn, dễ
bị ảnh hưởng."(H. nữ, K20, UFM, ký túc xá). Nam giới và nữ giới ở nhóm tuổi
này nếu bị đồng tính luyến ái có những suy nghĩ, mong muốn được gắn bó với
người cùng giới. Họ vẫn quan hệ với mọi người nhưng người cùng giới là đối
tượng họ gửi gắm tình cảm. Như vậy, hiện tượng đồng tính luyến ái phát triển
mạnh mẽ và rõ nét khi đối tượng bước vào tuổi dậy thì. Tuy nhiên theo quan điểm
khoa học cũng như ý kiến của các bạn sinh viên thì hiện tượng đồng tính luyến ái
xuất phát ở độ tuổi thanh thiếu niên nhưng xảy ra nhiều nhất ở những người
trưởng thành. Đây là giai đoạn quá trình xã hội hoá cá nhân đã hoàn thiện và bản
sắc giới cũng đã định hình rõ nét, khó thay đổi. Thể chất cũng như trình độ nhận
thức của người trưởng thành đã phát triển đầy đủ.

29
Qua khảo sát về vấn đề lí do tại sao LGBT không thể có một cuộc sống và
sự nghiệp bình thường, có 15% sinh viên không cho rằng người đồng tính luyến ái
có thể có một cuộc sống và sự nghiệp như những người khác thì 53.8% họ chọn lý
do cho rằng tình cảm người đồng tính luyến ái không bền vững vì trái tự nhiên.
Điều này là hoàn toàn đúng bởi do đặc thù mối quan hệ đồng giới dường như chỉ
thoả mãn nhu cầu sinh lý nên người đồng tính rất hay thay đổi bạn tình và rất
ghen tuông. Sự trái tự nhiên, bất bình thường đó không cho phép người đồng tính
luyến ái có một tình cảm bền vững, có khả năng gắn kết hai người và vượt qua
những khó khăn như tình yêu giữa hai người khác giới. Ngay chính bản thân họ
cũng nhận thấy sự bất bình thường của mình, điều này khiến họ không đủ tự tin để
tìm cách chứng tỏ mình và cố gắng đạt được những mục tiêu của cuộc sống như
những người bình thường khác. Họ phải chịu đựng một cuộc sống không thanh
thản.
4. Thái độ và quan điểm của sinh viên đối với cộng đồng LGBT
Cho dù nhận được sự cảm thông và chia sẻ của người thân và bạn bè nhưng
để có được một sự nghiệp và cuộc sống riêng tư như những người bình thường
khác, người đồng tính sẽ gặp rất nhiều khó khăn dù đây là hai mặt cần thiết cho
một con người cũng như là cái đích để họ vươn tới. Bởi quan niệm xã hội là một
bức tường vững chãi mà vượt qua nó là cả một quãng đường gian lao. Nhất là khi
người đồng tính ở nước ta chưa được chấp nhận cả về mặt xã hội cũng như cuộc
sống của họ chưa được đảm bảo về luật pháp. Họ sẽ vẫn phải sống che dấu đi con
người thật của mình nếu như muốn được nhìn nhận như những thành viên xã hội
khác.
Được sinh ra và lớn lên trong điều kiện phát triển về kinh tế cũng như sự
tiếp nhận các giá trị văn hoá mới nên sinh viên mạnh dạn và thoáng hơn trong
cách tiếp cận vấn đề. Do vậy, đối với cộng đồng LGBT, sinh viên cho rằng họ

30
hoàn toàn có thể sống như những người bình thường khác bởi họ sẵn sàng chia sẻ
và giúp đỡ họ. Bởi họ cũng có những năng lực và trình độ tri thức như những
người khác và họ cũng rất mong muốn được đóng góp cho xã hội. "Sự ủng hộ và
giúp đỡ người đồng tính luyến ái như thế nào là tuỳ từng nơi, từng người. Nhưng
nếu họ có thể đối xử tốt với những người mắc HIV, tạo điều kiện cho họ sống hoà
đồng thì với người đồng tính luyến ái, tại sao lại không được. Bởi nó không lây
lan như bệnh HIV mà chỉ là một hiện tượng xã hội. Do vậy có thể khắc phục nó.
Vì thế họ có thể có cuộc sống bình thường nếu được sự thông cảm của mọi người
nhưng ngược lại cũng có thể dẫn tới một kết cục bi thảm nếu có sự phân biệt đối
xử" (T. nữ, K19 UFM, nhà trọ). Nhưng thực tế là cho dù có sự giúp đỡ của những
người khác nhưng sự bất bình thường trong quan hệ khiến người đồng tính luyến
ái luôn cảm thấy tự ti và nghi ngờ ngay cả khả năng mình có một cuộc sống bình
thường."Tôi đã cố gắng giúp đỡ bạn tôi rất nhiều bằng cách nói chuyện, hoặc nói
rằng tình trạng này của nó sẽ kết thúc nếu nó cố thoát ra khỏi những ám ảnh về
tình dục. Nhưng nó không tin và luôn cho rằng nó sẽ chẳng bao giờ có được một
cuộc sống bình thường."(K. nam, K21 UFM, gia đình).

5. Một vài ý kiến của sinh viên về cộng đồng LGBT:

Cho dù không còn là một hiện tượng quá mới mẻ của đời sống con người
nhưng sự xuất hiện của cộng đồng LGBT đã gây ra không ít những thắc mắc và
những ý kiến đánh giá khác nhau. Đó là bởi nguồn gốc nảy sinh cũng như ảnh
hưởng của nó tới sự phát triển xã hội. Là nhóm xã hội có trình độ tri thức năng lực
đánh giá khá cao, sinh viên cũng có những cách nhìn riêng của mình về hiện
tượng - lối sống bất bình thường này. Sinh viên đa số đều cho rằng đây là một loại
bệnh lý bẩm sinh nên đối với những người chẳng may gặp phải, chúng ta cần có
sự cảm thông và giúp đỡ như lập ra những trung tâm chữa trị bằng tâm lý. Đồng
thời cần có sự tuyên truyền qua các tổ chức như Đoàn Thanh niên, hội sinh viên
31
để nâng cao hiểu biết và phòng tránh. " Đồng tính là một vấn đề khó nói, thường
người ta tránh không đề cập đến. Do đó nó càng có điều kiện để phát triển. Nếu
chúng ta tích cực trong tuyên truyền vận động thì mọi người sẽ hiểu rõ được tác
hại của nó và " phòng tránh" (Đ. nam, K20 UFM, khoa Du lịch). Đối với hiện
tượng" đồng tính giả" đang phát triển trong xã hội như một lối sống lệch lạc, đua
đòi theo những giá trị văn hoá phương tây, sinh viên cho rằng phải có sự điều
chỉnh từ phía xã hội bằng cách kiên quyết dẹp bỏ những địa điểm người đồng tính
có thể tụ tập, ngăn chặn nó như một hiện tượng phản văn hoá." Đối với những kẻ
do đua đòi và không giữ được lý trí để bị lôi kéo thì cần nghiêm khắc trừng trị,
quản giáo, đưa họ về nếp sống bình thường"(L. nữ, K21 UFM khoa Thương Mại).
Tuy nhiên đây là một khía cạnh thuộc về lối sống cá nhân nên sự điều chỉnh bằng
luật pháp chỉ có hiệu lực khi nó phát triển thành tệ nạn xã hội như mại dâm nam,
hoặc tụ tập gây ra những hoạt động phản văn hoá, không lành mạnh. Việc tìm
hiểu rõ nguyên nhân của hiện tượng này để cung cấp cho mọi thành viên trong xã
hội cũng được các bạn sinh viên đưa ra. Bởi có không ít các bạn sinh viên còn
chưa hiểu bản chất của hiện tượng này, điều đó có thể tạo ra những nhận định sai
lầm về cộng đồng LGBT đồng thời tạo ta nguy cơ bị lôi kéo vào hiện tượng này
Giáo dục giới tính trong nhà trường và gia đình được các bạn sinh viên nhắc đến
nhiều trong phần giải pháp cho hiện tượng này. Bởi giáo dục giới tính ở nước ta
còn gặp nhiều khó khăn bởi nền văn hoá cũng như thói quen của người dân cho
rằng đó là những điều không nên nhắc đến công khai. Chính thái độ không rõ
ràng, "úp mở" như vậy đã dẫn đến sự gia tăng của quan hệ tình dục trước hôn
nhân hay sự phát triển của tình dục đồng giới. Giáo dục giới tính trong gia đình
ngay từ khi cá nhân còn trong tuổi ấu thơ được sinh viên đánh giá cao. Thái độ lên
án gay gắt, coi đồng tính như một hiện tượng xấu tồn tại rất ít trong sinh viên. Bởi
các bạn đều phần nào hiểu rõ nguyên nhân cũng như bản chất của hiện tượng này.
Sự cảm thông và chia sẻ với những người bị bệnh bẩm sinh cũng như những
32
người chẳng may sai lầm hoặc do hoàn cảnh khách quan được nhắc đến nhiều như
một giải pháp hữu hiệu cho hiện tượng này. Qua những nhận xét trên có thể thấy
rằng, sinh viên đã khẳng định được mình là nhóm có trình độ tri thức cao đồng
thời rất nhạy bén với các hiện tượng mới nảy sinh. Cách nhìn nhận vấn đề đúng
đắn và sâu sắc sẽ giúp các bạn sinh viên tự tránh khỏi những ảnh hưởng không tốt
từ những hiện tượng xã hội đồng thời là sự giúp đỡ đầu tiên và hiệu quả cho
những người trong cộng đồng LGBT trong xã hội.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

1. Kết luận
Đa số sinh viên trường Đại học Tài chính - Marketing đã có những hiểu
biết,
nhận thức đúng về tình dục đồng giới, chiếm 75.9%, tuy nhiên nhận thức chưa
đầy đủ và tiêu cực vẫn còn một tỉ lệ khá cao, chiếm 24.1%. Xúc cảm tích cực của
sinh viên thuộc mức độ cao chiếm 66.9%, điều này phù hợp với nhận thức của
sinh viên, nhưng vẫn còn một số đông sinh viên mang xúc cảm tiêu cực đối với
tình dục đồng giới. Vừa có nhận thức tốt, xúc cảm tích cực nên hành vi của sinh
viên trường Đại học Tài chính - Marketing đối với tình dục đồng giới thể hiện rất
rõ điều này, có đến 86% sinh viên có hành vi tích cực trong khi chỉ có khoảng
14% sinh viên có hành vi còn tiêu cực đối với tình dục đồng giới. Điều đó cho
thấy sinh viên đã có nhận thức và xúc cảm tốt trong thái độ đối với tình dục đồng
giới. Xét theo góc độ giới tính, có sự chênh lệch trong thái độ của hai giới nam và
nữ như sau: nữ sinh viên có nhận thức tốt hơn nam sinh viên. Tuy nhiên, nam sinh
viên có xúc cảm tình cảm và hành vi tốt hơn nữ sinh viên.
Tóm lại sinh viên trường Đại học Tài chính - Marketing nhìn chung là có
thái độ tích cực đối với tình dục đồng giới, tuy nhiên một số ít sinh viên vẫn mang
33
thái độ tiêu cực đối với vấn đề này. Nguyên nhân của thực trạng này là do nhận
thức của một số sinh viên còn hạn chế và chưa tiếp cận được những thông tin
khoa học về tình dục đồng giới. Kết quả nghiên cứu trên là phù hợp với giả thiết
khoa học mà chúng tôi đã đề ra ban đầu trong đề tài.
Cộng đồng LGBT không còn là một hiện tượng quá mới mẻ trong đời sống
xã hội cũng như trong giới sinh viên. Tuy nhiên sự tìm hiểu về hiểu biết cũng như
nhận thức và thái độ của sinh viên về hiện tượng này là rất cần thiết. Bởi sinh viên
là lớp trí thức trẻ sẽ gánh vác những nhiệm vụ quản lý và xây dựng đất nước. Hiểu
được bản chất của đồng tính đồng nghĩa với việc họ đã tự xây dựng cho mình một
bức tường bảo vệ khỏi nó, đồng thời giúp đỡ những người xung quanh. Cho dù
những nguồn cung cấp thông tin chính như gia đình, các tổ chức không đề cập
nhiều đến hiện tượng này vì sự e ngại. Nhưng sinh viên lại thu được những hiểu
biết qua sự trao đổi với nhóm bạn bè, qua sách báo và các phương tiện thông tin
đại chúng khác. Điều này chứng tỏ sự quan tâm của sinh viên tới các sự kiện xã
hội mới nảy sinh. Xuất pháp từ những hiểu biết về nguyên nhân và bản chất của
đồng tính, sinh viên đã xác định cho mình một thái độ tích cực, sẵn sàng chia sẻ
và giúp đỡ những người thuộc nhóm đối tượng này. Đồng thời họ cũng nhận thấy
những ảnh hưởng không tốt của lối sống và quan hệ này tới sự phát triển cả về vật
chất và tinh thần của cộng đồng. 

2. Khuyến nghị

LGBT không còn là một vấn đề thuộc tự do cá nhân mà đã trở thành một
lối sống xã hội bất bình thường, khác với những quan niệm đạo đức tồn tại trong
nền văn hoá Việt Nam. Ảnh hưởng của nó tới mọi mặt của đời sống như sức khoẻ,
đạo đức, văn hoá và luật pháp là không thể phủ nhận. 

34
- Thứ nhất, cộng đồng LGBT là nhóm xã hội có khả năng lây truyền bệnh
HIV nhanh nhất bên cạnh các nhóm đối tượng khác như nghiện hút,… do
đặc thù mối quan hệ của họ. 
- Thứ hai, LGBT thường do sự thiếu bản lĩnh của cá nhân trước những lôi
kéo vật chất. Do vậy, nó trở thành một lối sống lệch lạc, không phù hợp với
đạo đức xã hội.
- Thứ ba, tình dục đồng giới đã có khi phát triển trở thành một loại tệ nạn xã
hội - mại dâm nam ảnh hưởng đến trật tự, thuần phong mỹ tục của xã hội.
Thêm nữa, một số tụ điểm văn hoá như vũ trường, quán bar đã trở thành
nơi tụ tập của giới đồng tính ngay giữa Thủ đô Hà Nội.
Xuất phát từ những nhận xét như trên, chúng tôi xin mạnh dạn đưa ra một
số khuyến nghị cho hiện tượng này đặc biệt tập trung vào nhóm sinh viên như
sau:
- Cho dù qua nghiên cứu đã có thể kết luận rằng sinh viên đa số đã có những
hiểu biết về hiện tượng này nhưng sự tuyên truyền, giáo dục của trường đại
học, Hội sinh viên, Đoàn thanh niên rất cần thiết. Đa số các bạn sinh viên
đều có những hiểu biết về cộng đồng LGBT qua bạn bè hoặc qua sách báo.
Những con đường truyền thông này cũng có hiệu quả nhất định. Tuy nhiên
vẫn rất cần sự tuyên truyền chính thức và chính xác để sinh viên tiếp xúc
nhận thức đọc tầm quan trọng của việc hiểu rõ bản chất hiện tượng. Không
nên để xảy ra trường hợp như bạn sinh viên đã trở thành nạn nhân của tệ
nạn tình dục đồng giới vì thiếu hiểu biết. "Tôi chỉ là một nạn nhân vì sự dốt
nát và thiếu cảnh giác." (" Tôi đã đánh mất giới tính của mình như thế" -
báo Hoa Học Trò - số 420/421 - ra ngày 1-1-2002).
- Nhà trường và các tổ chức của sinh viên cần có sự kiểm tra và quan tâm
thường xuyên đến các bạn sinh viên ở ký túc xá và đặc biệt là nhà trọ để

35
tránh những tệ nạn xã hội như ma tuý hay tệ tình dục đồng giới ảnh hưởng
đến họ. Đây là hai nhóm sinh viên có đặc thù về nơi ở đồng nhất về giới
trong một thời gian dài. Thêm nữa, khu vực nhà trọ của sinh viên thường có
dân cư phức tạp, lẫn lộn giữa tốt và xấu nên càng phải được thường xuyên
kiểm tra.
- Ngày càng có nhiều những bài báo viết về cộng đồng LGBT ở nước ta.
Điều này chứng tỏ đây không còn là một hiện tượng đơn lẻ mà đã có lúc
phát triển thành một lối sống. Xã hội cần có sự tuyên truyền rộng rãi về
hiện tượng này tới mọi thành viên để hạn chế phần nào sự phát triển của nó.
- Giáo dục giới tính trong gia đình và nhà trường ngay từ khi cá nhân còn
trong tuổi nhỏ là vô cùng cần thiết cho sự phát triển bình thường về thể chất
cũng như vai trò giới của cá nhân.
- Về phía sinh viên, là một nhóm xã hội có trình độ hiểu biết và năng lực
đánh giá cao. Các bạn cần có sự cảnh giác và tạo cho mình một bản lĩnh để
đối phó với những cám dỗ của cuộc sống có thể xuất hiện bất kỳ lúc nào và
với bất cứ ai. Đừng để có thêm những nạn nhân của tệ nạn xã hội vì sự
thiếu cảnh giác và kém bản lĩnh của mình. Đặc biệt là những bạn sinh viên
nam, nhóm được coi là dễ bị lôi kéo vào những hiện tượng tiêu cực của xã
hội. Các bạn cần tạo cho mình một lối sống lành mạnh, điều này không
những tốt cho các bạn mà cho cả những người thân đang sống quanh mình. 

36
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Tất Dong - Lê Ngọc Hùng (đồng chủ biên) Xã hội học - NXB ĐHQG
1997 
2. Lê Ngọc Hùng - Nguyễn Thị Mỹ Lộc (đồng chủ biên) Xã hội học về giới và
phát triển - NXB ĐHQG Hà Nội 2000
3. Báo Sinh Viên Việt Nam Số 15 ra ngày 10- 4- 2001
4. Báo An ninh thế giới Số 291 ra ngày 30 - 5 -2002
5. Tạp chí AIDS và cộng đồng Số ra ngày 1- 12 -2000
6. Một số khái niệm cơ bản liên quan về giới:
https://congdoancongthuong.org.vn/tin-tuc/t1283/mot-so-khai-niem-co-
ban-lien-quan-ve-gioi.html#:~:text=Gi%E1%BB%9Bi%20t%C3%ADnh
%20l%C3%A0%20b%E1%BA%A9m%20sinh,thay
%20%C4%91%E1%BB%95i%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%A3c
%20%C4%91i%E1%BB%81u%20%C4%91%C3%B3.
7. Giới và giới tính
https://vinhphuc.gov.vn/ct/cms/Convert/daibieudaihoiphunuXIII/Lists/
duthaobaocaodaihoi/View_Detail.aspx?ItemID=46

37
8. Sự khác biệt giữa giới và bản sắc giới

https://vi.sawakinome.com/articles/people/difference-between-gender-and-
gender-identity-2.html

https://thuvienphapluat.vn/tintuc/vn/thoi-su-phap-luat-binh-luan-gop-y/
26622/su-khac-nhau-giua-gioi-tinh-va-gioi
9. LGBT, cộng đồng LGBT là gì? https://meta.vn/hotro/lgbt-la-gi-7115
10.Luận về đồng tính từ những góc nhìn lý thuyết
https://sti.vista.gov.vn/tw/Lists/TaiLieuKHCN/Attachments/
300133/47935-1393-151632-1-10-20200512.pdf
11.Nguyễn Hưng Quốc, Các lý thuyết phê bình văn học (9): Thuyết lệch pha,
www.tienve.org/ home/literature/view.Truy cập tháng 6 năm 2015

38
39

You might also like