You are on page 1of 86

Le Hoang Quan

Intracranial Pressure
in Clinical Practice
HCMC - 2015
nhận, nhưng phần lớn khuyến cáo điều trị

Tăng áp lực nội sọ (ALNS) là 1 biến chứng dựa trên kinh nghiệm lâm sàng, do thiếu bằng

thần kinh thường gặp ở bệnh nhân (BN) nặng, chứng từ các nghiên cứu lâm sàng tiền cứu

nó có thể là biểu hiện của các rối loạn thần ngẫu nhiên có đối chứng về theo dõi và điều

kinh hoặc không thuộc thần kinh. Tăng ALNS trị tăng ALNS cho thấy có cải thiện kết cục lâm

có thể là hậu quả của tổn thương choán chỗ sàng trong nhiều bệnh lí.

nội sọ, rối loạn tuần hoàn dịch não tủy (DNT) Tuy nhiên, cần đo ALNS trước mới có thể

hay trong giai đoạn tổn thương lan tỏa nội sọ. chẩn đoán tăng ALNS và hiểu biết rõ nguyên lí

Tăng ALNS có thể cấp hoặc mạn tính. của phương pháp đo là điều kiện tiên quyết

Tăng ALNS là nguyên nhân gây tử vong để xác định các rối loạn chức năng não. Bài

phổ biến nhất ở BN phẫu thuật thần kinh. này trình bày về sinh lí bệnh của tăng ALNS,

Nhiều nghiên cứu báo cáo tăng ALNS kéo dài bằng chứng ủng hộ theo dõi và điều trị tăng

luôn đi kèm tiên lượng xấu (Becker, 1977; ALNS.

Johnston và Jennett, 1973; Langfitt, 1969;


Narayan, 1982; Marshall, Smith và Shapiro,
2.1 Lịch sử phát triển
1979; Miller, 1981). Điều trị tăng ALNS hiệu
Nhà giải phẫu học Scotland Alexander
quả cho thấy làm giảm tỉ lệ tử vong (Marshall,
Monro là người đầu tiên mô tả ALNS năm
Smith và Shapiro, 1979).
1783. Đồng nghiệp của Monro là George
Những tiến bộ gần đây trong theo dõi
Kellie tán thành quan sát của Monro sau đó
thần kinh và hình thành các đơn vị ICU thần
vài năm dựa trên khám nghiệm tử thi người
kinh cho phép xác định BN tăng ALNS nhanh
và động vật. Những khẳng định này được gọi
chóng và dễ dàng hơn, giúp khởi trị sớm hơn
là học thuyết Monro-Kellie. Tuy nhiên, cả hai
và qua đó cải thiện tỉ lệ biến chứng và tử vong
đều thiếu một thành phần quan trọng: đó là
những BN này. Tuy nhiên, vẫn chưa thiết lập
DNT. Nhà giải phẫu học Vesalius đã mô tả não
chỉ định rõ ràng về đo ALNS, đa số theo dõi
thất chứa đầy dịch từ thế kỷ 16, mặc dù quan
trong CTSN và ngoại suy từ CTSN cho các bệnh
điểm này chưa bao giờ được chấp nhận rộng
lí nội sọ khác. Một số điều trị tăng ALNS đã
rãi. Cho đến khi nhà sinh lí học người Pháp
được các nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên xác
Francois Magendie năm 1842 thực nghiệm
chọc dò và phân tích DNT trên động vật thì gauge), thì đã có thể đo ALNS trực tiếp qua
quan điểm dịch trong não mới được chấp catheter não thất bằng cảm biến ngoài sọ.
nhận. Phẫu thuật viên thần kinh tiên phong phát
Sharpe xuất bản một chuyên đề về chấn triển nó là Janny (1951) và Lundberg (1960).
thương đầu năm 1920 và cho rằng có chỉ định Từ đó, kĩ thuật này được áp dụng rộng rãi.
mổ giải ép dưới thái dương khi áp lực DNT Bước ngoặt quan trọng tiếp theo là năm
>15mmHg (Sharpe, 1920). Jackson cũng ủng 1973 với sự ra đời của vít dưới nhện (Vries,
hộ chọc dò tủy sống và đo áp lực trong chấn 1973) dẫn đến phát triển các phương pháp
thương đầu năm 1922, dù có nhiều bất đồng theo dõi ALNS khác bao gồm đặt catheter
về vị trí và nguy cơ do chọc dò, độ chính xác dưới màng cứng (Wilkinson, 1977), ngoài
của phép đo. Đa số tác giả đồng ý chắc chắn là màng cứng (Wald, 1977) và catheter sợi
bất thường khi áp lực >200 mmH2O. quang. Từ khi có cảm biến áp lực strain gauge
Guillaume và Janny đo ALNS gián tiếp qua thì cũng bắt đầu ứng dụng theo dõi ALNS
phép đo áp lực DNT cột sống thắt lưng vào trong nhu mô não (Guyot, 1998). Theo dõi
năm 1951, nhưng không gây được sự chú ý và ALNS trở nên thường quy hơn sau khi có
chỉ công bố ở Pháp. Hai vấn đề chính của chọc hướng dẫn điều trị của Hội Chấn thương Não
dò tủy sống trong chẩn đoán tăng ALNS là gây Mỹ (BTF) năm 1995 và cập nhật năm 2000. Có
nguy hiểm do chèn ép thân não qua lều hoặc thể sử dụng ALNS để theo dõi, điều trị và tiên
thoát vị hạnh nhân tiểu não, cũng như quan lượng trong nhiều bệnh cảnh như XHDN, dãn
điểm cho rằng áp lực DNT không phải lúc nào não thất, u não, nhồi máu, XHN không do
cũng phản ánh chính xác ALNS. Langfitt (1964) chấn thương, nhưng nhiều nhất là CTSN.
đã chứng minh thiếu sự tương quan giữa 2.2 Áp lực nội sọ
ALNS và áp lực DNT cột sống khi ALNS cao. Alexander Monro là người đầu tiên mô tả
Chọc dò não thất để giảm ALNS là một ALNS: (1) não được bao bọc trong một cấu
trong những thủ thuật lâu đời nhất trong trúc cứng, (2) não không thể dãn nở, (3) thể
phẫu thuật thần kinh. Thường đo áp lực trong tích máu trong khoang nội sọ là hằng định, (4)
quá trình làm thủ thuật này, nhưng thời gian cần dẫn lưu máu tĩnh mạch liên tục để
đo kéo dài và phải thực hiện thường xuyên, nhường chỗ cho cấp máu động mạch. Từ học
ngoài áp kế nước và thủy ngân cồng kềnh, còn thuyết Monro-Kellie, Harvey Cushing (1926)
có nguy cơ nhiễm trùng nội sọ. Đến khi có sự phẫu thần viên thần kinh người Mỹ đã xây
phát triển của cảm biến biến đổi (strain dựng học thuyết như chúng ta biết ngày nay,
cụ thể là trong hộp sọ kín thì thể tích não, Nếu có khối choán chỗ phát triển trong
máu và DNT là hằng định. Vì bản chất mô não não, ban đầu sẽ có đáp ứng bù trừ bằng cách
và tủy là không nén ép lại, nên thể tích máu, giảm thể tích DNT và máu (chủ yếu từ các
DNT và não trong hộp sọ ở bất kì thời điểm xoang tĩnh mạch) và đến khi cơ chế bù trừ này
nào cũng phải giữ tương đối hằng định. Tăng thất bại thì ALNS sẽ tăng. Cơ chế bù trừ giữa
1 phần sẽ gây giảm 1 hoặc 2 thành phần kia. ALNS và thể tích còn gọi là bù trừ dự trữ hay
Cụ thể hộp sọ chứa 3 thành phần: não chiếm bù trừ khoảng trống, khoảng 60-80ml ở người
khoảng 80%, máu chiếm khoảng 12% và DNT trẻ và 100-140ml ở người già chủ yếu do teo
khoảng 8% với tổng thể tích khoảng 1.600 ml. não. Hình 1 minh họa đường cong thể tích-áp
Khi ALNS tăng do bất kì nguyên nhân gì, lực. Phần đầu tiên của đường cong cho thấy
đầu tiên là mạch máu não sẽ bị chèn ép. Nếu tăng ALNS rất nhỏ do còn bù trừ dự trữ đủ lớn
áp lực tĩnh mạch thay đổi thì ALNS cũng sẽ để chứa thêm thể tích. Nếu thể tích ngày càng
nhanh chóng thay đổi cùng hướng. Vì thế, tăng, thì khi vượt quá bù trừ dự trữ cuối cùng
tăng áp lực tĩnh mạch sẽ gây giảm lưu lượng sẽ gây tăng áp lực nhanh chóng. Điểm giới
máu não theo 2 cách, vừa giảm trực tiếp áp hạn thường khoảng 20mmHg ở dân số chung
lực tưới máu hữu hiệu vừa tăng chèn ép mạch (đường đứt nét màu vàng).
máu não. Mối liên hệ này giúp bù trừ sự thay
đổi HA động mạch ở đầu do tư thế. Ví dụ khi
đứng thẳng người (gia tốc trọng trường
dương), máu sẽ chạy về hướng chân và HA
động mạch ở đầu giảm. Tuy nhiên, áp lực tĩnh
mạch cũng giảm và ALNS cũng giảm nên áp
lực đè lên mạch máu não cũng giảm và lưu
lượng máu não ít bị ảnh hưởng. Ngược lại, khi
chúi đầu xuống, trọng lực tác động lên đầu
(gia tốc trọng trường âm) làm tăng HA động
mạch ở đầu, nhưng ALNS cũng tăng nên mạch Hình 1. Đường cong thể tích-áp lực nội sọ
máu não được nâng đỡ và không bị vỡ. Mạch (nguồn Laurence T, 2002, J Neurol Neurosurg)
máu não cũng được bảo vệ theo cách tương Hiện khó thiết lập “giá trị bình thường”
tự trong những tình huống ho rặn như khi đi chung cho ALNS vì phụ thuộc vào tuổi, tư thế
tiêu hoặc rặn đẻ. cơ thể và tình trạng lâm sàng. Ở tư thế nằm,
ALNS bình thường ở người lớn khỏe mạnh nội sọ; HATT: Huyết áp tâm thu; HATTr: Huyết
khoảng 7-15 mmHg. Ở tư thế đứng thẳng, nó áp tâm trương.

là giá trị âm trung bình khoảng -10 mmHg ALTMN bình thường khoảng 70-90mmHg.
nhưng không quá -15 mmHg. ALNS ở trẻ em Nếu <60 mmHg là giảm tưới máu não. Trong
khoảng 3-7 mmHg và ở trẻ sơ sinh 1,5-6 điều kiện sinh lí bình thường, cơ chế tự điều
mmHg. não duy trì 1 lưu lượng máu hằng định đến
2.2.1. Ảnh hưởng của ALNS trên HA hệ thống não bằng cách co hoặc dãn các tiểu động
Khi ALNS tăng >33mmHg trong một giai mạch.
đoạn ngắn, lưu lượng máu não sẽ giảm đáng Lưu lượng máu não (LLMN) phụ thuộc vào
kể. Mô não bị thiếu máu cục bộ do hiện tượng áp lực tưới máu não và kháng lực mạch máu
này sẽ kích thích vùng vận mạch gây tăng HA, não. ALTMN là sự chênh lệch giữa HA động
kích thích luồng xung phế vị đi ra gây nhịp mạch hệ thống tại sàn sọ ở tư thế nằm và áp
chậm và thở chậm. THA này, đôi khi gọi là lực tĩnh mạch tại chỗ đi ra khỏi khoang dưới
phản xạ Cushing, giúp duy trì lưu lượng máu nhện, áp lực tĩnh mạch ở đây xấp xỉ bằng
não. HA hệ thống sẽ tăng tỉ lệ với mức tăng ALNS. Ở người bình thường, lưu lượng máu
ALNS trong 1 phạm vi khá rộng, đến 1 ngưỡng não được duy trì gần như hằng định khi MAP
nếu ALNS tăng vượt quá HA động mạch thì lúc nằm trong khoảng 65-140 mmHg (số khác
đó tuần hoàn não sẽ bị ngưng lại. cho rằng 50-150 mmHg hoặc 50-170 mmHg),
2.2.2. Vai trò của ALNS trên LLMN trong điều kiện bình thường khi áp lực tĩnh
2.2.2.1. LLMN và áp lực tưới máu não mạch nội sọ không đáng kể, MAP sẽ tương
Não nhận 15-20% tổng cung lượng tim, đương với ALTMN.
tương ứng khoảng 800 ml/phút lúc nghỉ và Bình thường, LLMN được ước tính khoảng
tiêu thụ 25% lượng oxy của cơ thể. HA động 50ml/100g não/phút. Khi LLMN giảm dưới
mạch trung bình là yếu tố quan trọng nhất 12ml/100g/phút sẽ xảy ra tổn thương thiếu
trong duy trì tưới máu não. Bình thường có máu không hồi phục.
thể ước lượng áp lực tưới máu não (ALTMN) 2.2.2.2. Cơ chế tự điều hòa lưu lượng máu
bằng công thức: ALTMN = MAP – ALNS với não
MAP = (2×HATTr + HATT)/3 Cơ chế giúp duy trì lưu lượng máu não
MAP: Huyết áp động mạch trung bình; hằng định khi HA hay ALTMN thay đổi được
ALTMN: Áp lực tưới máu não; ALNS: Áp lực gọi là cơ chế tự điều hòa (Reed và Devous,
1985; Powers, 1993), đây là 1 cơ chế điều
biến phức tạp của hệ thống động-tĩnh mạch hết. Tuy nhiên, hoạt động chuyển hóa vẫn còn
não. Cơ chế tự điều hòa có 3 mức kiểm soát được duy trì nhờ tăng tỉ lệ trích xuất oxy, mức
chính: cơ học (myogenic), chuyển hóa tưới máu này gọi là tưới máu misery hay
(metabolic) và thần kinh (neurogenic). Tự oligemia (giảm tưới máu). Cuối cùng khi tỉ lệ
điều hòa cơ học là khả năng hệ mạch máu não trích xuất oxy đã đạt mức tối đa mà ALTMN
duy trì mức LLMN bình thường với ALTMN từ vẫn giảm nữa, thì sẽ giảm các hoạt động
50-150 mmHg, chủ yếu nhờ thay đổi kháng chuyển hóa não, CMRO2 (tốc độ chuyển hóa
lực mạch máu dựa trên đáp ứng cơ học của oxy não). Đó là hiện tượng xảy ra khi thiếu
hệ tiểu động mạch. Cơ chế điều hòa chuyển máu não cục bộ, khi dự trữ tưới máu não đã
hóa là thay đổi kháng lực mạch máu tiểu động kiệt quệ và lưu lượng máu không đủ cho nhu
mạch do tác động của các chất CO2, O2, cầu chuyển hóa của mô não. Tại thời điểm
pH/lactate, adenosine và nitric oxide. Điều này, BN sẽ có triệu chứng, có thể khu trú như
hòa thần kinh là do tín hiệu giao cảm kích liệt nửa người nếu chỉ ảnh hưởng 1 phần não
thích các động mạch não dẫn đến co mạch hoặc không khu trú như ngất nếu ảnh hưởng
giao cảm nhẹ, cho phép đạt giới hạn cao hơn toàn bộ não. Bất kì tổn thương não nào gây ra
trên đường cong tự điều hòa. Ngược lại, hệ tình trạng liệt vận mạch, cơ chế tự điều hòa
phó giao cảm có vai trò nhỏ trong cơ chế tự sẽ mất và lưu lượng máu não sẽ phụ thuộc
điều hòa. Có thể tính toán giới hạn của cơ chế hoàn toàn vào ALTMN.
tự điều hòa mạch máu não bằng kĩ thuật siêu Nếu ALTMN vượt quá giới hạn trên của cơ
âm Doppler xuyên sọ dựa trên so sánh biến chế tự điều hòa, khi co mạch bù trừ và
beat-to-beat giữa HA hệ thống với vận tốc ALTMN đã đạt mức tối đa, lúc đó sẽ xảy ra
LLMN. tưới máu quá mức và kéo theo LLMN dư thừa
Trong phạm vi cơ chế tự điều hòa, khi ngoài mức chuyển hóa não cần thiết. Đây là 1
ALTMN giảm, trong vòng vài giây sẽ có sự dãn sự tăng LLMN bất tương xứng hay còn gọi là
mạch não làm giảm kháng lực mạch máu não tưới máu xa xỉ (luxury perfusion). Áp lực vượt
và do đó làm tăng thể tích máu não, kết quả quá giới hạn trên của cơ chế tự điều hòa sẽ
là lưu lượng máu não được giữ hằng định gây sung huyết và phù não (phù căn nguyên
(Aaslid, 1989). Nếu đã dãn mạch ở mức tối đa mạch máu), tăng ALNS và trên lâm sàng sẽ có
mà ALTMN vẫn tiếp tục giảm do giảm HA hệ hội chứng bệnh não do THA. Dữ liệu từ động
thống hoặc tăng ALNS, thì lưu lượng máu não vật gần đây cho thấy giới hạn dưới của cơ chế
sẽ bắt đầu giảm vì dự trữ tưới máu não đã tự điều hòa sẽ tăng lên khi ALNS tăng, do đó
có thể cần nâng cao dần ALTMN mục tiêu để mất hoàn toàn (đường C) hoặc thay đổi
có thể duy trì LLMN ổn định. ngưỡng tự điều hòa (đường B). Những hình
Tóm lại, tự điều hòa lưu lượng máu là khả tròn phía trên thể hiện mức độ dãn mạch của
năng nổi bật của não nhằm giữ hằng định lưu các tiểu động mạch tiền mao mạch. (nguồn
lượng máu đến mô não dù áp lực tưới máu Laurence T, 2002, J Neurol Neurosurg)
thay đổi. Đối với não người, hiện tượng tự 2.2.2.3. LLMN và áp lực khí trong máu
điều hòa giúp duy trì lưu lượng máu não bình Lưu lượng máu não rất nhạy với những
thường khi MAP dao động trong khoảng 50- thay đổi nhỏ trong áp suất riêng phần carbon
150 mmHg. Sự bù trừ này sẽ mất khi HA ra dioxid máu động mạch (PaCO2), tăng cấp tính
khỏi khoảng giới hạn trên, tức quá cao hoặc 1 mmHg sẽ gây tăng tức thì lưu lượng máu
quá thấp, khi đó lưu lượng máu não sẽ thay não thêm khoảng 5% do dãn các mạch máu
đổi thụ động theo HA động mạch hoặc sẽ tụt não. Trong suy hô hấp mạn, do có sự thích
xuống quá mức gây thiếu máu não, hoặc sẽ nghi nên lưu lượng máu não vẫn bình thường
tăng cao đến mức gây tổn thương thành các dù có tăng thán khí. Áp lực oxy trong máu
mạch máu nhỏ, phá vỡ hàng rào máu-não. Hai động mạch biến đổi nhẹ không ảnh hưởng
thái cực này là suy tuần hoàn và bệnh lí não đến lưu lượng máu não, nhưng PaO2 giảm
do THA. xuống <50 mmHg và bắt đầu giảm độ bão hòa
oxy, thì kháng lực mạch máu não sẽ giảm
nhanh và tăng lưu lượng máu não (Brown,
1985). Tăng PaO2 trên mức bình thường ít ảnh
hưởng trên lưu lượng máu não.
2.2.2.4. LLMN và chức năng não
Chụp cắt lớp phát xạ positron (PET) cho
thấy lưu lượng máu não, thể tích máu não và
chuyển hóa năng lượng não đo bằng tốc độ
chuyển hóa oxy hoặc glucose não (CMRO2

Hình 2. Cơ chế tự điều hòa máu não. LLMN hoặc CMRglu) luôn đi song hành nhau, cao

được duy trì ổn định bình thường trong hơn ở chất xám so với chất trắng. Điều này có

khoảng ALTMN 50-150 mmHg (đường A). Sau nghĩa là tỉ lệ bắt giữ oxy tương tự nhau (bằng
tổn thương, khả năng tự điều hòa có thể bị khoảng 1/3) ở toàn bộ não (Leenders, 1990).
Do đó ở não người bình thường trong trạng
thái nghỉ, thể tích máu não phản ánh đáng tin đường kính mạch máu não (cơ chế tự điều
cậy chức năng não hoặc CMRO2. Lưu lượng hòa). Để giữ LLMN ổn định, khi ALNS tăng thì
máu não, thể tích máu não, CMRO2, và HA động mạch cũng tăng (phản xạ Cushing)
CMRglu giảm dần theo tuổi nhưng chúng vẫn dựa trên tăng catecholamine. Nếu ALNS tiếp
đi song hành nhau và do đó tỉ lệ bắt giữ oxy tục tăng cao, sẽ gây thiếu máu não và liệt vận
vẫn giữ khá hằng định (Blesa, 1997). mạch. Khi LLMN ở mức 20 ml/100g mô
Tăng hoạt động chức năng khu trú ở não, não/phút sẽ có các dấu hiệu thiếu máu não
ví dụ vỏ não vận động đối bên tương ứng với trên lâm sàng. Tế bào thần kinh sẽ chết khi
cử động tay hữu ý, sẽ làm tăng hoạt động LLMN <12ml /100g mô não/phút, biểu hiện
chuyển hóa ở vùng đó (Lassen, 1977; Geisler, lâm sàng là các rối loạn thần kinh không hồi
2006). Tăng tốc độ chuyển hóa oxy và glucose phục.
(CMRO2 và CMRglu) không phải nhờ tăng tỉ lệ 2.2.3.2. ALNS và thoát vị não
bắt giữ oxy (oxygen extraction fraction) hay tỉ Hộp sọ chia thành nhiều khoang nhờ các
lệ bắt giữ glucose, mà nhờ 1 cơ chế nhanh nếp gấp màng cứng của liềm đại não (falx
(trong vòng vài giây) khác là dãn các mạch cerebri) và lều tiểu não (tentorium cerebelli),
máu não cục bộ, làm tăng thể tích máu não và lều tiểu não tạo thành hố đại não và hố sau,
do đó tăng lưu lượng máu não. Ngược lại, khi liềm não tạo nên khoang bán cầu đại não phải
yêu cầu chức năng và chuyển hóa thấp như và trái. Tăng ALNS thường gây thay đổi chênh
trong nhồi máu não, thì lưu lượng máu não
áp giữa các khoang và đẩy lệch các cấu trúc
cũng thấp. não. Thoát vị não là sự di chuyển cơ học của
2.2.3. Biến chứng do tăng ALNS não, DNT và mạch máu lớn từ khoang này
Tăng ALNS gây ra 2 biến chứng chính là sang khoang khác trong hộp sọ. Nhiều trường
thiếu máu não và thoát vị não (brain shift) đe hợp tăng ALNS trên lâm sàng là hậu quả do sự
dọa tính mạng BN. di chuyển này hơn là mức ALNS tuyệt đối. BN
2.2.3.1. Thiếu máu nuôi tổ chức não tụ máu thùy thái dương có thể bị thoát vị não
Trong điều kiện sinh lí, LLMN trung bình là xuyên lều dù không có tăng ALNS, điều này rất
50 ml/100g mô não/phút, chất xám là 75 ml quan trọng vì không nên dựa vào mức ALNS
và chất trắng là 45 ml/100g mô não/phút. Các để điều trị những BN này. Có 3 type thoát vị
yếu tố ảnh hưởng đến LLMN bao gồm MAP, não thường gặp là thoát vị xuyên lều, thoát vị
PaCO2, nồng độ H+ và PaO2 thông qua thay đổi
hạnh nhân tiểu não và thoát vị dưới liềm (4) Thoát vị hạnh nhân tiểu não (cerebellar
(Hình 3). tonsillar herniation): là 1 dạng thoát vị dưới
lều, hạnh nhân tiểu não bị đẩy xuyên qua lỗ
chẩm lớn (foramen magnum) gây chèn ép
hành tuỷ, dẫn đến nhịp chậm và ngưng thở.
(5) Thoát vị tiểu não hướng lên (upward
cerebellar herniation) gây chèn ép thân não
phía trên, là 1 biến thể của thoát vị trung tâm.
(Nguồn Jeffrey V, 2015, Neurology)

2.2.4. Nguyên nhân tăng ALNS


Các nguyên nhân gây tăng ALNS (Bảng 1)
có thể xảy ra riêng lẻ hoặc cùng nhau. Đối với
các nguyên nhân gây tăng ALNS nguyên phát,
thường phụ thuộc vào việc nhanh chóng nhận
Hình 3. Thoát vị não. (1) Thoát vị dưới liềm
ra rối loạn cơ bản của não. Còn ở nhóm thứ
(subfalcine herniation) hay thoát vị hồi lưỡi
phát, tăng ALNS thường do 1 bệnh lí ngoài sọ
(cingulate herniation): Hồi khứu hải mã
hoặc hệ thống và thường có thể điều trị được.
(cingulate gyrus) của thuỳ thái dương bị đẩy
Nguyên nhân tăng ALNS khác là sau phẫu
xuống dưới liềm não do tổn thương choán
thuật thần kinh.
chỗ ở vùng não kế bên phát triển, đẩy lệch
Điểm nổi bật cần quan tâm đối với tăng
đường giữa về phía bán cầu đối bên. Đây là
ALNS thứ phát sau CTSN là những tổn thương
kiểu thoát vị hay gặp nhất. (2) Thoát vị móc
này có thể không đồng nhất và nhiều yếu tố
hồi hải mã (uncal herniation) (thoát vị xuyên
có thể cùng góp phần gây tăng ALNS: (1) Khối
lều): là do bờ giữa móc hồi hải mã và hồi hải
choán chỗ do chấn thương như máu tụ NMC
mã di chuyển trên bờ lỗ lều tiểu não cùng bên
hoặc DMC, dập não xuất huyết, dị vật và vỡ
dẫn đến chèn ép não giữa, gây liệt dây III cùng
lún sọ; (2) Phù não; (3) Sung huyết não do liệt
bên, liệt nửa người (kernohan’s notch). (3)
vận mạch hoặc mất cơ chế tự điều hòa; (4)
Thoát vị xuyên lều trung tâm (central
Giảm thông khí dẫn đến tăng thán khí và hậu
transtentorial herniation): là do nhân nền và
quả là dãn mạch não; (5) Dãn não thất do tắc
bán cầu não di chuyển xuống, còn gian não và
nghẽn lưu thông hoặc hấp thu DNT; (6) Tăng
não giữa kế bên bị đẩy xuyên qua khuyết lều.
áp lực lồng ngực hoặc ổ bụng do thông khí, tư 2.3 Ứng dụng theo dõi ALNS
thế, kích thích vật vã hoặc gắng sức kiểu Nguyên nhân thứ phát gây tăng ALNS
Valsalva. thường thấy 3-10 ngày sau chấn thương, chủ
Sau mổ lấy máu tụ do chấn thương thì yếu do hình thành khối máu tụ muộn như
nguyên nhân tăng ALNS quan trọng nhất là máu tụ NMC, DMC cấp và dập não xuất huyết
sung huyết mạch máu (vascular do chấn thương kèm phù não xung quanh, đôi
engorgement). Các nghiên cứu gần đây báo khi cần mổ lấy máu tụ. Nguyên nhân tăng
cáo phù não là nguyên nhân chính trong phần ALNS muộn tiềm năng khác là co thắt mạch
lớn trường hợp. não, giảm thông khí và hạ natri máu.
2.3.1. Vai trò theo dõi ALNS trong lâm sàng
Bảng 1. Nguyên nhân tăng ALNS thường gặp
Chỉ định theo dõi ALNS khác nhau giữa
Bệnh lí nội sọ Bệnh lí ngoài sọ
- Chấn thương (dập - Giảm oxy máu các bệnh viện có thể bao gồm CTSN nặng,
não, tổn thương trục - Tăng thán khí XHN và xuất huyết màng não, dãn não thất
lan tỏa) - Tăng thân nhiệt
hoặc phù não sau đột quỵ thiếu máu rộng, tổn
- Xuất huyết nội sọ - Tăng huyết áp
(ngoài màng cứng, dưới - Hạ natri máu thương não do thiếu oxy, nhiễm trùng hệ
màng cứng, dưới nhện, - Tắc nghẽn tĩnh thần kinh trung ương hoặc suy gan tối cấp.
nhu mô não, u não) mạch cảnh
Điều trị khi nào ALNS vượt ngưỡng cho phép,
- Nhồi máu não với phù - Kích thích vật vã và
độc tế bào (cytotoxic rặn (valsalva) phụ thuộc vào tuổi và bệnh lí.
edema) - Động kinh co giật Định nghĩa tăng ALNS phụ thuộc vào
- Ung thư phối hợp với hoặc thuốc dãn cơ
bệnh lí cụ thể. Trong dãn não thất ALNS >15
phù căn nguyên mạch khử cực
máu (vasogenic edema) - Thông khí cơ học mmHg được xem là cao, còn ở người lớn
- Dãn não thất (khi áp lực đỉnh cuối CTSN thì ngưỡng ALNS >20-25 mmHg sẽ ảnh
- Nhiễm trùng (viêm kì thở ra >ALNS cơ
màng não, viêm não, bản)
hưởng tiêu cực kết cục. Đa số đơn vị ICU sẽ
abces, nang sán thần - Suy gan điều trị tích cực khi ALNS >25 mmHg. Vẫn
kinh/neurocysticercosis, - Phù não do độ cao chưa thống nhất về ngưỡng ALNS nguy hiểm
sốt rét) (high-altitude
- Trạng thái động kinh cerebral edema) ở trẻ em. Gần đây, người ta đề nghị nên điều
- Sau mổ: xuất huyết - Ngộ độc và thuốc trị nếu ALNS >15 mmHg ở trẻ sơ sinh, >18
não, túi phình, phù (chì, tetracycline,
mmHg ở trẻ em <8 tuổi và >20 mmHg ở trẻ
hoặc tắc dịch não tủy doxycycline,
rofecoxib, acid lớn và thanh thiếu niên (Mazzola CA, 2002).
retinoic) Quan trọng là ALNS sẽ thay đổi khác nhau
theo thời gian trong nhiều trường hợp. Cần ít hằng định trong khoảng ALTMN 50-150
nhất 30 phút để tính ALNS trung bình. mmHg nhờ cơ chế tự điều hòa, khi não bị tổn
Mặc dù, điều trị định hướng thường dùng thương thì nó bị đẩy lệch sang bên phải
ALTMN làm mục tiêu, nhưng vẫn chưa thống đường cong tự điều hòa. Cơ chế tự điều hòa
nhất nên sử dụng ngưỡng tưới máu nào. Giao thường bị rối loạn ở BN tổn thương não. Do
thức Lund (Lund’s protocol) đề nghị giới hạn đó, hiệu quả của việc nâng ALTMN khó dự
là <50 mmHg (Asgeirsson B, 1994), hướng dẫn đoán và có thể nhỏ, dù phải tăng ALTMN
của Hội Chấn thương Não Mỹ (Brain Trauma nhiều.
Foundation) đề nghị là <60 mmHg và các Theo dõi ALNS cung cấp 2 thông tin chinh
nghiên cứu trước đây đề nghị cần ALTMN ≥80 là giá trị số và biến thể của áp lực tức là dạng
mmHg (Rosner MJ, 1995). Đã có nhiều nghiên sóng. Nói cách khác là tăng ALNS có thể xảy ra
cứu xác định ngưỡng ALTMN cho từng cá liên tục hoặc ngắt quãng (chu kì). Nhiều BN có
nhân như Doppler xuyên sọ, bão hòa oxy thể có ALNS tương đối ổn định trên hay dưới
xoang cảnh (jugular bulb oxymetry), vi thẩm 20 mmHg, thuật ngữ tăng ALNS kháng trị
tích não (microdialysis), bão hòa oxy mô não được dùng khi tăng ALNS kéo dài vài giờ ở giá
(brain tissue oxymetry), chỉ số phản ứng áp trị rất cao và dẫn đến tử vong nếu không dùng
lực (index of pressure reactivity), nhưng cho biện pháp mạnh như mở sọ giải áp. Có thể
đến nay vẫn chưa có bằng chứng về cách tiếp nhìn thấy sóng ALNS tự phát ở một số BN và
cận nào giúp cải thiện kết cục. Các nghiên cứu có thể phân tích dạng sóng theo thời gian dựa
gần đây nhất cũng báo cáo duy trì ALTMN cao trên phân loại Lundberg (1960). ALNS bình
là không phù hợp và phối hợp với kết cục xấu. thường là nhịp đập của động mạch trong sọ
Hiện cũng chưa thống nhất là nên để giới hạn phản ánh chu kì tim và hô hấp. Lundberg xác
trên của ALTMN ở 60, 70 hay 90 mmHg trong định có 3 loại sóng ALNS khác nhau là sóng A,
bệnh cảnh nào (Elf K, 2005; Shimbles S, 2005; B và C (Hình 5,6).
BTF, 2007). - Sóng A (hay sóng cao nguyên) rất quan
Điều trị nâng ALTMN là nhằm tăng LLMN trọng trên lâm sàng vì thể hiện là giảm độ dãn
ở những vùng não có lưu lượng máu thấp nở nội sọ nguy hiểm. Sóng này là do tăng
nghiêm trọng. Tuy nhiên, tăng ALTMN chỉ ALNS nhanh và cao, từ giá trị gần bình thường
tăng LLMN khi cơ chế tự điều hòa đã mất đến ≥50 mmHg, kéo dài 5-20 phút rồi sau đó
hoặc ALTMN thấp hơn giới hạn dưới của cơ giảm tụt dốc nhanh chóng, thậm chí xuống
chế tự điều hòa. Bình thường thì LLMN sẽ dưới mức ban đầu. Sóng này luôn là dấu hiệu
bệnh lí, thường đi kèm với suy giảm thần kinh pressures). Lưu ý là độ dãn nở bị giảm theo
và xảy ra ở BN còn cơ chế tự điều hòa nhưng tuổi và có thể góp phần dẫn đến kết cục xấu
giảm độ dãn nở nội sọ (intracranial trong vài trường hợp như ở BN lớn tuổi bị tổn
compliance). Chúng thường xuất hiện bất thương não.
thường không có dấu hiệu báo trước. Chúng Có một số khó khăn khi theo dõi ALNS,
cũng có thể là dấu hiệu tổn thương nặng cơ chúng không chỉ do có nhiều loại monitor
chế tự điều hòa. theo dõi ALNS khác nhau, vị trí nào là tốt nhất
- Sóng B là loại thường gặp nhất nhưng ý để theo dõi mà còn là chênh áp giữa các vị trí
nghĩa bất lợi lâm sàng ít hơn sóng cao nguyên. có thể ảnh hưởng đến phép đo. Trong bối
Sóng này dao động nhịp nhàng mỗi 1-2 phút. cảnh này, cần xác định tình trạng bệnh lí cụ
ALNS tăng dần dần đến mức 20-30 mmHg so thể như dãn não thất thể thông hay không
với mức ban đầu rồi sau đó giảm xuống đột thông, BN tăng ALNS vô căn, trong những
ngột. Những sóng này ban đầu luôn gắn liền trường hợp này dường như không có chênh
với kiểu thở Cheyne-Stokes, nhưng cũng thấy áp xuyên thành não thất. Ngoài ra, ở BN xuất
ở BN thở máy và có thể liên quan đến thay huyết dưới nhện hoặc xuất huyết hạch nền tự
đổi trương lực mạch máu não và thể tích máu phát, có thể ước tính ALNS thực dựa trên áp
não (Doppler xuyên sọ thường thấy tăng tốc lực DNT cột sống thắt lưng.
độ dòng máu động mạch não giữa cùng tần số Nhìn chung, dường như có sự đồng thuận
sóng B). Sóng B cũng là biểu hiện của ALNS ở rằng có tồn tại 1 chênh áp nhỏ trong hệ thống
giai đoạn mất bù. thần kinh trung ương giữa các khoang sọ,
- Sóng C là những dao động có tần số 4-8 chúng có thể bị tăng thêm do chấn thương dù
lần/phút và biên độ nhỏ hơn sóng B. Sóng C ít có hay không có mở rộng tổn thương cấp
có ý nghĩa lâm sàng. tính. Hiện nay, hầu như không có bằng chứng
ALNS thay đổi có thể do thay đổi LLMN ủng hộ có tồn tại 1 chênh áp lớn trong điều
hoặc HA động mạch, đặc biệt khi giảm độ dãn kiện sinh lí.
nở nội sọ. Bất cứ thay đổi thể tích máu não Các nghiên cứu ban đầu về chênh áp mô
nào đều sẽ dẫn đến tăng ALNS. Thay đổi này tả áp lực khác nhau giữa các khoang sọ khác
có thể do các biến cố nội sọ như động kinh nhau cũng như dọc theo trục não-tủy (Symon,
hoặc do đáp ứng với các thay đổi hệ thống 1975, Langfitt, 1964; Rosenwasser, 1989). Sau
như MAP, nhiệt độ, khí máu, natri máu và áp đó các nghiên cứu khác cũng như trên mô
lực bơm vào của máy thở (inflation hình thực nghiệm lợn báo cáo có chênh áp
ALNS theo vùng, chỉ ra rằng có thể theo dõi áp, mức độ thường xuyên của nó cũng như
tốt nhất ALNS khi đặt càng gần tổn thương khi nào cần theo dõi thường quy ALNS ở cả 2
(Weaver, 1982; Wolfla, 1996; Mindermann, bán cầu. Tuy nhiên, khi đánh giá BN chấn
1998). thương, do mức độ nguy hiểm của tăng ALNS
Cho đến nay, chưa có nghiên cứu nào có cục bộ, cần nghĩ đến nó nếu ALNS và triệu
thể kết luận trong hoàn cảnh nào thì có chênh chứng lâm sàng khác nhau rõ rệt.

Hình 4. Hình dạng sóng ALNS tương tự như huyết áp hệ thống và có 3 thành phần khá hằng định
gồm P1, P2, P3. Hình B với sóng P2 cao cho thấy khả năng bù trừ não thấp. (nguồn Rodriguez-Boto,
2012, Neurology)
Một cạm bẫy trên lâm sàng khi theo dõi sự lan truyền tín hiệu áp lực mạch (Hình 4).
ALNS là xác định độ tin cậy của giá trị ALNS Nếu đảo ngược P1 với P2 sẽ phản ánh tình
thu được. Phân tích dạng sóng ALNS cho phép trạng rối loạn cơ chế tự điều hòa (Hình 4B).
phân tích chính xác ALNS thu được hơn như ví Khuyết dội đôi giữa P2 và P3 tương ứng với
dụ sau. Tĩnh điện có thể gây thay đổi ALNS mạch đập. Ngoài ra có thể không thấy đường
nhanh chóng cũng như thay đổi độ lệch từ từ, cong áp lực này sau phẫu thuật mở sọ và tụ
mà bác sĩ lâm sàng có thể không chú ý. Nếu khí nội sọ sau mổ.
để ý biên độ trung bình của sóng sẽ thấy tăng 2.3.2. Các kiểu hình ALNS điển hình và xu
biên độ khi ALNS tăng, còn thay đổi ALNS do hướng sóng ALNS
phóng tĩnh điện sẽ không đi kèm với tăng biên Khi theo dõi ALNS liên tục trong những
độ sóng. Hơn nữa, để kiểm tra tín hiệu thu tình trạng cấp tính (CTSN, xuất huyết dưới
được là thực và là ALNS, bác sĩ lâm sàng cần nhện phân độ xấu, tụ máu nội sọ…), có thể
đảm bảo rằng khi đánh giá ALNS thì trên phân loại ALNS trung bình thành vài kiểu hình
monitor phải có 1 đường cong sóng áp lực (Hình 5,6). Các dạng sóng ALNS có nhiều
dao động giảm dần với P1, P2 và P3 thể hiện
thông tin hơn so với 1 mình giá trị ALNS trung bình tại 1 thời điểm.

Hình 5. Các kiểu dạng sóng ALNS. (A) ALNS thấp và ổn định. MAP nằm dưới. (B) ALNS tăng và ổn
định, thấy ở BN CTSN phần lớn thời gian. (C) Sóng B, thấy ở cả ALNS trung bình và dải sóng biên độ
xung của ALNS (AMP: spectrally resolved pulse amplitude of ICP, sơ đồ trên). (D) Sóng cao nguyên.
Khả năng bù trừ của não thường thấp khi thấy sóng này. Chỉ số dự trữ bù trừ tức hệ số tương quan
giữa biên độ AMP và MAP (correlation coefficient between AMP amplitude and mean pressure) gần
bằng +1. Tại đỉnh sóng, trong khoảng dãn mạch cực đại, mất hòa nhập giữa biên độ xung và ALNS
trung bình cho thấy giảm RAP. Sau sóng cao nguyên, ALNS thường giảm thấp hơn mức ban đầu và
cải thiện dự trữ bù trừ não. (nguồn Czosnyka và Pickard, 2006, BMJ)

- ALNS thấp và ổn định (<20 mmHg), ví dụ ở - Sóng vận mạch: sóng B (Hình C) và sóng cao
BN sau CTSN không biến chứng (Hình A). Kiểu nguyên (Hình D).
hình này cũng thường thấy trong giai đoạn - Sóng ALNS liên quan đến thay đổi HA động
đầu sau chấn thương não, trước khi phù não mạch và các biến cố sung huyết (hyperaemic)
tiến triển. (Hình E-G).
- ALNS cao và ổn định (>20 mmHg), thường
gặp nhất sau CTSN (Hình B).
- Tăng ALNS kháng trị (Hình H). Loại này Dạng sóng ALNS bao gồm ba thành phần,
thường dẫn đến tử vong, trừ khi áp dụng biện và chồng chéo trong miền thời gian (time
pháp triệt để như mở sọ giải áp. domain), nhưng có thể tách ra trong miền tần
2.3.3. Phân tích dạng sóng ALNS số (frequency domain) (Hình 7).

Hình 6. Kiểu hình dạng sóng ALNS (tiếp theo). (E) Sóng ALNS cao nhọn do tăng MAP đột ngột. (F)
Tăng ALNS do giảm tạm thời MAP. (G) Tăng ALNS do sung huyết. Cả vận tốc dòng máu (blood flow
velocity, FV) và bão hòa oxy máu tĩnh mạch cảnh (jugular venous oxygen saturation, SjO2) đều tăng
song song với ALNS. (H) Tăng ALNS kháng trị. ALNS tăng >100 mmHg trong vài giờ. Đường thẳng
đứng là thời điểm sóng thiếu máu ảnh hưởng trung tâm vận mạch ở thân não: nhịp tim tăng và
MAP (ALTMN) giảm đột ngột. Lưu ý biên độ xung của ALNS (AMP) biến mất khoảng 10 phút trước
biến cố cuối này. (nguồn Czosnyka và Pickard, 2006, BMJ)

Các dạng sóng xung có 1 số thành phần là amplitude of ICP - Dải sóng biên độ xung của
sóng hòa âm (harmonic), thành phần cơ bản ALNS) rất hữu ích để đánh giá các chỉ số khác.
của những sóng này có tần số bằng tần số tim. Thành phần thứ 2 là do tần số của chu kì hô
Biên độ của thành phần này (AMP: Pulse hấp (8-20 chu kì mỗi phút). Sóng hô hấp đồng
bộ với thay đổi áp lực tĩnh mạch trung tâm
phản ánh áp lực trong lồng ngực, nhìn thấy rõ thể tính bằng căn bậc hai độ mạnh tín hiệu
ở bệnh nhân thở máy. Bình thường biên độ của dải tần số tương đương tại đầu ra bộ lọc
xung mạch máu là 1,1 mmHg, thay đổi cả tim kĩ thuật số. Gần đây, sóng chậm cho thấy có
và hô hấp vào khoảng 3,3 mmHg (Bradley, thể dự đoán kết cục ở BN tăng ALNS sau
1970) (Hình 8). CTSN. Hình thái sóng chậm thấp trong toàn bộ
động học sóng ALNS sẽ phối hợp với tử vong
(Balestreri M, 2004).

2.3.4. Bù trừ dự trữ thể tích-áp lực


Về mặt lí thuyết, có thể nghiên cứu mối
quan hệ giữa thay đổi ALNS và thể tích
khoang nội sọ được gọi là bù trừ dự trữ hay
“đường cong thể tích-áp lực”.
Có thể xác định dự trữ bù trừ trên 3 phần
Hình 7. Bản ghi sóng ALNS cho thấy bao gồm
của đường cong thể tích-áp lực tức là chỉ số
sóng xung, sóng hô hấp và sóng chậm theo
RAP. Có thể tính chỉ số RAP (hệ số tương quan
miền thời gian (hình trên). (nguồn Balestreri
(R) giữa biên độ AMP (A) và ALNS trung bình
M. và Czosnyka M, 2004, Acta Neurochir)
(P), được gọi là chỉ số bù trừ dự trữ) dựa trên
sự tương quan tuyến tính giữa các điểm dữ
liệu trung bình, liên tiếp của AMP và ALNS
(thường là 40) thu được trong một thời gian
dài-trung bình trên sóng hô hấp và sóng mạch
(thường là 6-10 giây). Chỉ số này thể hiện mức
Hình 8. Dạng sóng ALNS. (nguồn Brian North, độ tương quan giữa AMP và ALNS trung bình
1997, Chapman & Hall) trong thời gian ngắn (khoảng 4 phút). Nguyên
Thành phần thứ 3 là các “sóng chậm” (slow tắc tính chỉ số này được minh họa trong Hình
waves) được định nghĩa ít chính xác so với 9. Giá trị của chỉ số này nằm trong phạm vi từ
luận điểm gốc của Lundberg. Các thành phần -1 đến +1 và thực tế là biên độ dạng sóng
này có một phổ tần số giới hạn 0,05-0,0055 ALNS tăng theo ALNS trung bình, đầu tiên nó
Hz (khoảng 20 giây đến 3 phút) được phân tăng từ từ và khi dự trữ bù trừ giảm thì tăng
loại là sóng chậm. Độ lớn của các sóng này có nhanh hơn.
Trong phần bằng phẳng đầu của đường cáo chỉ số này thể hiện mất khả năng co dãn
cong thể tích-áp lực, chỉ số này gần bằng 0. mạch tại đỉnh sóng cao nguyên, nếu ALNS cao
Chỉ số RAP gần bằng 0 phản ánh thiếu đồng (>20 mmHg) kết hợp với chỉ số <0,5 thì BN sẽ
bộ giữa thay đổi AMP với ALNS trung binh, có có kết cục xấu (Czosnyka M, 1996, 1999). Có
nghĩa là dự trữ bù trừ thể tích-áp lực tốt khi thể sử dụng vị trí của BN trên đường cong thể
ALNS thấp (Hình 9), tức là thay đổi thể tích tích-áp lực để dự đoán nguy cơ suy giảm lâm
nhưng không làm thay đổi áp lực hoặc thay sàng hoặc thoát vị. Steiner LA (2005) đã sử
đổi rất ít. dụng chỉ số này để dự đoán đáp ứng với tăng
Trong phần dốc (tăng theo cấp số nhân) thông khí của ALNS.
của đường cong, chỉ số này tăng và cuối cùng 2.3.5. Phản ứng áp lực mạch máu não
đạt đến +1. Khi RAP tăng đến +1, AMP sẽ thay (cerebrovascular pressure reactivity)
đổi trực tiếp (tức thì) với ALNS và điều này Thay đổi ALNS do MAP thay đổi phụ thuộc
cho thấy “điểm hoạt động” của khoang nội sọ vào phản ứng áp lực của mạch máu não. Chỉ
dịch chuyển sang bên phải, phía phần dốc số phản ứng áp lực (PRx: pressure-reactivity
đứng của đường cong thể tích-áp lực. Tại đây index) này xuất phát từ việc đánh giá phản
thì bù trừ dự trữ thấp, do đó tăng thêm thể ứng mạch não dựa trên quan sát đáp ứng của
tích sẽ gây tăng ALNS nhanh chóng. Sau CTSN ALNS trên sự thay đổi MAP chậm tự phát.
rồi tiếp theo là phù não, RAP thường tiến đến Phản ứng áp lực được định nghĩa là phản
gần +1. ứng của mạch máu khi áp lực xuyên thành
Tại phần thứ 3 của đường cong, nếu tăng thay đổi và là 1 thành phần quan trọng của cơ
thêm ALNS (ALNS rất cao >40 mmHg), AMP chế điều hòa áp lực. Khi giường mạch máu
giảm và RAP rơi xuống <0, chỉ số này sẽ âm và não phản ứng bình thường, MAP thay đổi sẽ
tiến đến -1. Điều này xảy ra khi mất cơ chế tự dẫn đến thay đổi lưu lượng máu não ngược
điều hòa não và đường cong thể tích-áp lực bị chiều và do đó cũng thay đổi ALNS. Khi phản
đẩy về bên phải, do khả năng dãn mạch của ứng bị rối loạn, thay đổi MAP là thụ động rồi
hệ tiểu động mạch não đáp ứng với giảm đến ALNS. Sử dụng cách tính tương tự như chỉ
ALTMN đã hết hoàn toàn và chúng có xu số RAP, PRx được xác định bằng cách tính hệ
hướng xẹp thụ động. Nó phản ánh là rối loạn số tương quan giữa các điểm dữ liệu ALNS và
mạch máu não giai đoạn cuối với giảm truyền MAP trung bình liên tiếp.
áp lực mạch từ giường động mạch đến Phản ứng áp lực rối loạn có nghĩa là rối
khoang nội sọ. Các nghiên cứu trước đây báo loạn cơ chế tự điều hòa áp lực. Nếu còn phản
ứng áp lực, tăng MAP sẽ dẫn đến co mạch não thể tích máu não sẽ tăng thụ động khi MAP
trong vòng 5-15 giây với giảm cả thể tích máu tăng và ALNS sẽ tăng. Tác động ngược lại sẽ
não và ALNS. Nếu phản ứng áp lực bị suy yếu, xảy ra khi MAP giảm.

Hình 9. Trong mô hình đơn giản, biên độ xung ALNS (thể hiện dọc theo trục y - bên phải hình) là kết
quả do thay đổi xung của lưu lượng máu não (thể hiện dọc theo trục x) chuyển đổi từ đường cong
thể tích-áp lực. Đường cong này có 3 phần: phần bằng phẳng đầu thể hiện khả năng bù trừ dự trữ
tốt, phần dốc thể hiện dự trữ bù trừ kém và phần bằng phẳng cuối với ALNS rất cao (trên mức ALNS
nguy hiểm) thể hiện rối loạn khả năng đáp ứng của mạch máu não bình thường. Biên độ xung của
ALNS là thấp và không phụ thuộc vào ALNS trung bình ở phần đầu đường cong. Biên độ xung tăng
tuyến tính với ALNS trung bình ở phần có dự trữ bù trừ kém. Ở phần thứ 3, biên độ xung giảm khi
ALNS tăng. Chỉ số RAP là chỉ số bù trừ dự trữ. (nguồn Balestreri M. và Czosnyka M, 2004, Acta
Neurochir)
PRx dương nghĩa là xu hướng dương trên ALNS (Hình 10B). Chỉ số này tương quan tốt
đường hồi quy giữa các sóng chậm của MAP với các chỉ số của cơ chế tự điều hòa trên
và ALNS, nó được giả thuyết là do hoạt động Doppler xuyên sọ. Hơn nữa, giá trị bất thường
thụ động của giường mạch máu không phản của cả PRx và RAP (phản ứng áp lực bị rối
ứng (Hình 10A). PRx âm phản ánh giường loạn, tương ứng với cơ chế tự điều hòa suy
mạch máu phản ứng bình thường, khi sóng yếu hoặc rối loạn bù trừ dự trữ não) có thể
MAP tăng cao đột ngột ngược chiều với sóng tiên đoán kết cục xấu sau CTSN. Kết quả gần
đây cho thấy phản ứng áp lực có thể ảnh ALTMN mục tiêu cho từng cá nhân (Steiner
hưởng đến việc lựa chọn chiến lược điều trị ở LA, 2002).
BN CTSN hoặc có thể sử dụng để xác định

Hình 10: Mối tương quan giữa sóng chậm của MAP với ALNS. (A) Sóng chậm của ALNS và MAP sinh
ra có mối tương quan thuận rõ (hình dưới), cho ra giá trị PRx dương. Điều này cho thấy mất khả
năng dự trữ mạch não. (B) Sóng Coherent của MAP và ALNS (hình trên) có hệ số tương quan nghịch
trên biểu đồ hồi quy (bảng dưới), cho giá trị PRx âm rõ. (nguồn Balestreri M. và Czosnyka M, 2004,
Acta Neurochir)
2.3.6. Ứng dụng lâm sàng của các thông số tính áp lực tối ưu này bằng cách vẽ và phân
xuất phát từ ALNS: “ALTMN tối ưu” và phân tích đường cong PRx-ALTMN trong 1 cửa sổ
tích đa hướng thời gian liên tục 6 giờ. Một nghiên cứu báo
Cả PRx và RAP đều có thể sử dụng để cáo nếu khoảng cách giữa ALTMN hiện hữu và
đánh giá các biến thứ phát bằng cách kết hợp “tối ưu” càng lớn thì kết quả sẽ càng xấu
trị số tuyệt đối của ALNS và ALTMN với thông (Steiner, 2002). Phương pháp tiềm năng này
tin về tình trạng tự điều hòa và bù trừ dự trữ. nhằm cố gắng tinh chỉnh điều trị định hướng
PRx cộng với ALTMN sẽ cho ra 1 đồ thị “hình ALTMN. Cả ALTMN quá thấp (thiếu máu) và
chữ U”. Điều này chỉ ra rằng phần lớn BN sẽ quá cao (sung huyết và tăng ALNS thứ phát)
có 1 giá trị ALTMN mà tại đó phản ứng áp lực đều bất lợi. Do đó, Czosnyka và Pickard đề
(pressure-reactivity ) là tối ưu. Có thể ước
xuất nên tối ưu ALTMN để duy trì tưới máu cho thấy rằng đáp ứng mạch máu còn tốt là 1
não khi tình trạng chung BN thuận lợi nhất. yếu tố quan trọng của sự cân bằng nội môi
(homoeostasis) não, cho phép não tự bảo vệ
mình chống lại sự tăng thể tích trong não mất
kiểm soát. Sóng chậm của ALNS có giá trị thấp
cũng thể hiện kết cục tử vong sau CTSN.
Cũng như ALNS, PRx và độ lớn của sóng
chậm ALNS là yếu tố dự báo độc lập về kết
cục, 3 biến này dù có sự tương quan nhưng
cần đánh giá cùng nhau khi phân tích kết quả.
Hình 11. Một ví dụ điển hình về tăng ALNS ở 1 ALTMN trung bình đã trở thành 1 biến
BN tử vong. Trong ca này, tăng ALNS tiến triển điều trị tích cực và do đó nó bị mất sức mạnh
dẫn đến giảm ALTMN nặng (48 giờ), mặc dù trong tiên đoán kết cục. Giảm ALTMN ngắn
vẫn giữ được MAP bình thường. Chỉ số phản hạn (ALTMN bị tổn hại) không có nghĩa là nó
ứng áp lực (PRx) lúc đầu hơi trên phạm vi bình lành tính hơn, nhưng hiện nay chúng ta có thể
thường, sau đó bắt đầu tăng lên trong thời kiểm soát ALTMN tốt hơn và khi ALTMN cơ
gian theo dõi (≥40 giờ) khi ALNS tăng dần bản >65-70 mmHg thường không gây thiếu
cộng với giảm ALTMN. Tương tự, RAP (chỉ số máu. Đây có lẽ là 1 trong những “thành công”
bù trừ dự trữ) ban đầu >0,6 sau đó bắt đầu ấn tượng nhất của giao thức điều trị định
giảm cho thấy mất khả năng vận mạch dự trữ hướng theo ALTMN. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu
(≥40 giờ). Sóng chậm thấp lúc bắt đầu, tăng bằng chứng “class I” cho thấy điều trị định
lên khoảng 24 giờ sau tổn thương và giảm 36 hướng ALTMN là có lợi rõ ràng. Robertson so
giờ sau tổn thương. (nguồn Balestreri M. và sánh điều trị định hướng theo ALTMN và
Czosnyka M, 2004, Acta Neurochir) ALNS cho thấy có giảm tổn thương thiếu máu
cục bộ khi điều trị định hướng theo ALTMN,
2.3.6. Phân tích ALNS trong CTSN nặng
nhưng tăng các biến chứng hô hấp mà không
Trong CTSN nặng, nếu ALNS trung bình
khác biệt trên kết cục lâm sàng.
>25 mmHg trong toàn bộ thời gian theo dõi
2.3.7. Ứng dụng trong dãn não thất và tăng
thì nguy cơ tử vong sẽ tăng gấp 2. Giá trị
trung bình của chỉ số RAP và PRx cũng là yếu ALNS lành tính

tố dự báo mạnh cho tử vong. Cả 2 chỉ số này Trong các bệnh lí mãn tính như dãn não
thất hoặc tăng ALNS lành tính, cần ALNS lý giải
hơi khác. Vấn đề cần quan tâm nhiều hơn là hoàn DNT. RDNT được tính là áp lực tăng trong
rối loạn lưu thông DNT. Tăng ALNS nghĩa là quá trình truyền chia cho tốc độ truyền. Giá
tăng kháng lực với dòng chảy DNT hoặc tăng trị <13 mmHg/ml/phút là lưu thông DNT bình
áp lực dòng máu tĩnh mạch não, chứ không thường; >18 mmHg/ml/phút là rối loạn lưu
phải là mất bù trừ dự trữ não do giảm thể tích thông DNT rõ, từ 13-18 mmHg/ml/phút là
của 1 trong 2 hoặc cả hai thành phần đệm vùng xám, nếu ở vùng này thì cần xem xét
chính là DNT và thể tích máu tĩnh mạch, như thêm các thông số bù trừ khác và xét
trong CTSN. nghiệm/khám lâm sàng để đưa ra quyết định
Trong các bệnh mãn tính gây dãn não đặt shunt. Vì kháng lực dòng chảy DNT ở
thất, nếu ALNS không tăng nhiều, có thể sử người bình thường và BN dãn não thất áp lực
dụng test truyền DNT (não thất hoặc thắt bình thường (normal pressure hydrocephalus)
lưng) để xác định tắc nghẽn gây cản trở hấp đều tăng lên theo tuổi, nên khả năng cao là
thu DNT. Có thể test truyền dịch qua khoang cũng cần điều chỉnh “ngưỡng tới hạn” của
DNT cột sống thắt lưng hoặc qua catheter đặt RDNT bình thường và bất thường theo độ tuổi.
trong não thất. Trong cả 2 trường hợp, sẽ đưa
vào 2 kim (kim tủy sống 22G nếu test thắt
lưng; kim bướm 25G để test não thất). Một
kim nối với bộ chuyển đổi áp lực qua 1 ống
chứa nước muối sinh lí và 1 ống khác để
truyền dịch đặt trên xe đẩy có bộ khuếch đại
áp lực và máy tính. Sau 10 phút đo mức ALNS
cơ bản, sẽ truyền nước muối sinh lí tốc độ 1,5
ml/phút hoặc 1 ml/phút (nếu ALNS cơ bản Hình 12. Test truyền dịch. Biên độ xung của
>15 mmHg) và tiếp tục đến khi ALNS đạt mức ALNS (AMP) ở biểu đồ trên và ALNS trung
cao nguyên ổn định (Hình 12). Nếu ALNS tăng bình (biểu đồ dưới) theo thời gian. Truyền
đến 40 mmHg thì ngừng truyền. Sau ngừng nước muối sinh lí tại phút thứ 6 trong quá
truyền nước muối, đo ALNS cho đến khi nó trình theo dõi. ALNS đạt đến 37 mmHg.
giảm đến mức cơ bản ổn định. Tất cả thông số Ngừng truyền dịch tại phút 17 sau khi bắt đầu
bù trừ được tính bằng máy tính dựa trên mô đo. Kháng lực dòng chảy DNT tăng lên 20
hình lưu thông DNT sinh lí. ALNS cơ bản và mmHg/ml/phút. AMP luôn luôn tăng tỉ lệ
RDNT thể hiện các thuộc tính tĩnh của tuần thuận với tăng ALNS trung bình. (nguồn
Balestreri M. và Czosnyka M, 2004, Acta tính, chứ không phải là tốc độ sản xuất thực.
Neurochir) Nó dựa trên giả định là tổng tuần hoàn DNT
Hệ số co dãn não tủy (E1: cerebrospinal sẽ được tái hấp thu qua các hạt màng nhện.
elasticity coefficient) và dạng sóng AMP sẽ đại Trong trường hợp tràn dịch DNT đáng kể vào
diện cho các thành phần động của bù trừ thể nhu mô não, thì có thể đánh giá không đúng
tích-áp lực DNT. E1 mô tả sự dãn nở/bù trừ (thấp hơn) sản xuất DNT.
của khoang DNT theo công thức: Dãn nở Test truyền thêm vào khoang DNT
khoang DNT = Ci = 1/[E1× (ALNS-P0)], trong đó (volume-adding test) có thể hữu ích để đánh
P0 là mức áp lực tham chiếu, đại diện cho áp giá chức năng shunt trong cơ thể. Áp lực cuối
lực thủy tĩnh khác nhau giữa vị trí đo ALNS và điểm cân bằng trong quá trình test không
điểm cân bằng áp lực (indifferent point) trên được vượt quá nhiều áp lực mở của shunt
trục não tủy. Độ dãn nở não tủy tỉ lệ nghịch cộng với kháng lực của các shunt mở nhân với
với ALNS, do đó có thể so sánh tương đối giữa tốc độ truyền. Hiện có những giá trị tại phòng
các đối tượng khác nhau bằng ALNS-P0. E1 thí nghiệm đánh giá shunt tại Anh (Academic
độc lập với ALNS, do đó hệ số này là 1 tham Neurosurgical Unit, Addenbrooke’s Hospital,
số thuận lợi hơn khi so sánh các BN. E1 thấp Cambridge) và có thể áp dụng cho các phép
(<0,2/ml) cho thấy hệ thống còn bù trừ, đo lâm sàng để xác định hỏng shunt. Test thể
ngược lại giá trị cao hơn sẽ chỉ ra giảm dự trữ tích cùng với đo ALNS và/hoặc theo dõi ALNS
bù trừ thể tích-áp lực. qua đêm cộng với phân tích dạng sóng có vai
AMP tăng tương ứng với tăng ALNS trung trò quan trọng, đặc biệt ở BN đã đặt shunt
bình. Tỉ lệ cân xứng (chỉ số AMP/P) thể hiện đúng vị trí (shunt in situ) nhưng có triệu
cho khả năng dãn nở (elastance) của khoang chứng lâm sàng tái phát hoặc dai dẵng, nó
não tủy và dẫn truyền xung động mạch đến giúp tránh việc tái sửa shunt không cần thiết.
khoang DNT. Cuối cùng là có thể ước tính sản Đặc biệt ở BN có tiền sử sửa shunt nhiều lần,
xuất DNT bằng phương trình Davson. Tuy cơ hội đạt kết quả lâu dài tốt thấp. Nó giúp
nhiên, áp lực xoang dọc (PSS: sagittal sinus giảm việc điều trị không hiệu quả trong dãn
pressure) khó xác định và khó đo, là thủ thuật não thất khi ngày càng tăng số lượng các ca
có tính xâm lấn cao. Do đó, sẽ ước tính PSS và sửa chữa shunt.
sản xuất DNT bằng 1 mô hình phi tuyến tính Có thể thấy tỉ lệ lớn sóng chậm trong ngủ
trong test truyền dịch. Lưu ý là tốc độ sản khi theo dõi ALNS qua đêm ở BN dãn não thất
xuất DNT gần xấp xỉ với hấp thu DNT là 1 ước áp lực bình thường, đó là dấu hiệu tiên lượng
hữu ích cho kết cục sau đặt shunt (Hình 13A). (craniostenosis), theo dõi ALNS hữu ích cho cả
Tăng ALNS lành tính hiếm khi cần nhiều hơn chẩn đoán và theo dõi đáp ứng điều trị.
việc theo dõi áp lực DNT qua catheter hay kim Tăng ALNS ngắt quãng do hội chứng
tại thắt lưng trong 1 giờ. Khi theo dõi ALNS ngưng thở lúc ngủ có thể có các triệu chứng
qua đêm ở BN tăng ALNS lành tính, ALNS cơ giống như tăng ALNS lành tính. Có thể theo
bản thường tăng, biên độ và tần số của “sóng dõi đa phương thức bao gồm ALNS, Doppler
chậm” là trung bình, nhưng chỉ số RAP tăng vận tốc lưu lượng và bão hòa oxy máu động
cho thấy giảm dự trữ bù trừ não (Hình 13B). Ở mạch (Hình 13C).
BN tăng ALNS lành tính hoặc hẹp hộp sọ

Hình 13. Theo dõi ALNS qua đêm. (A) Dãn não thất áp lực bình thường: áp lực cơ bản bình thường
(5 mmHg) với tăng vận mạch chu kì đạt đến 20 mmHg (mỗi giờ), kết hợp với giảm dự trữ bù trừ
(RAP tăng hướng đến +1) và tăng cường độ sóng chậm. Đây là các biến cố vận mạch, thường được
kích hoạt chủ yếu trong giai đoạn giấc ngủ REM. (B) Tăng ALNS lành tính: ALNS cơ bản tăng đến 20
mmHg với rất ít động học (mặc dù sóng vận mạch xuất hiện rõ khoảng 5-6 giờ sáng) và giảm thường
trực dự trữ bù trừ (RAP gần bằng +1). (nguồn Balestreri M. và Czosnyka M, 2004, Acta Neurochir)

2.4. Chỉ định theo dõi ALNS Dãn đồng tử mặc dù là dấu hiệu tăng
Đau đầu, buồn nôn và nôn ói, dãn đồng ALNS đặc trưng nhưng có thể chỉ thấy ở 1 số ít
tử là những dấu hiệu của tăng ALNS. Tuy BN. Phù gai thị là 1 dấu hiệu tăng ALNS đáng
nhiên, không thể khám những triệu chứng tin cậy, nhưng nó không phổ biến sau CTSN,
lâm sàng này ở BN hôn mê. thậm chí ở BN có tăng ALNS. Một nghiên cứu
trên BN CTSN báo cáo 54% BN có tăng ALNS năng mở rộng dẫn đến tăng ALNS và lâm sàng
nhưng chỉ 3,5% có phù gai thị trên soi đáy xấu đi. Theo dõi cho đến khi ALNS bình
mắt. Các dấu hiệu khác như dãn đồng tử và tư thường trong 24-48 giờ mà không cần biện
thế duỗi cứng mất não (decerebrate pháp điều trị tăng ALNS nào. Những bệnh lí có
posturing) có thể xảy ra mà không có tăng thể theo dõi ALNS để hướng dẫn chẩn đoán
ALNS. hoặc điều trị được liệt kê trong Bảng 2.
Dấu hiệu CT scan của phù não như lệch
đường giữa và xóa các bể dịch nền là tiên
đoán của tăng ALNS, nhưng tăng ALNS có thể
xảy ra mà không có những dấu hiệu này.
Có nhiều nguyên nhân gây tăng ALNS và
có thể chỉ định theo dõi ALNS cho nhiều bệnh
lí thần kinh khác nhau gồm nội thần kinh,
ngoại thần kinh và thậm chí cả bệnh nội khoa
như bệnh não gan. Thường theo dõi ALNS để Hình 13C. Tăng ALNS ngắt quãng do ngưng
hướng dẫn điều trị (ví dụ CTSN) hoặc để chẩn thở lúc ngủ. ALNS: mức ALNS trung bình
đoán (ví dụ rối loạn tuần hoàn DNT). Hiện (trung bình 1 phút); AMP: biên độ xung của
không có hướng dẫn lâm sàng nào được chấp ALNS; RAP: chỉ số bù trừ dự trữ; Sóng chậm:
nhận rộng rãi và chỉ định theo dõi ALNS khác cường độ sóng chậm của ALNS; FV: vận tốc
nhau đáng kể giữa các bệnh viện. dòng máu; SaO2: bão hòa oxy máu động
Tuy nhiên, hiện nay phương pháp theo mạch; REM: pha mở mắt nhanh. (nguồn
dõi ALNS thường dùng là 1 kĩ thuật xâm lấn và Balestreri M. và Czosnyka M, 2004, Acta
có nguy cơ đi kèm. Để đạt tỉ lệ lợi ích >nguy Neurochir)
cơ, thì chỉ nên theo dõi ALNS cho những BN 2.4.1. Chỉ định theo dõi ALNS ở BN CTSN
có nguy cơ cao tăng ALNS như BN CTSN (Bảng Theo dõi ALNS liên tục nhiều nhất là
3). Ít phổ biến hơn là BN đa chấn thương kèm trong điều trị chấn thương sọ não. Hồi cứu
thay đổi ý thức và sau lấy bỏ khối choán chỗ của Bullock về chỉ định theo dõi ALNS đã kết
nội sọ (như máu tụ, u). Cũng cần cân nhắc khi luận không đủ dữ liệu để đưa ra hướng dẫn
theo dõi ALNS ở những bệnh lí không chấn điều trị chuẩn (không có bằng chứng class I).
thương mà có tổn thương choán chỗ nội sọ Tuy nhiên, có bằng chứng class II và III để đưa
(ví dụ nhồi máu não, XHN tự phát) và có khả ra khuyến cáo trong Bảng 3.
Bảng 2. Các tình trạng có thể theo dõi ALNS tăng hoặc giảm đậm độ như dập não, máu tụ

Bệnh lí Đánh giá NMC, DMC hoặc trong nhu mô não, chèn ép
Xuất huyết Kết hợp với dẫn lưu não thất bể dịch nền và phù não. BN thực hiện theo y
dưới nhện cho dãn não thất cho phép dẫn
lệnh có nguy cơ thấp tiến triển tăng ALNS.
lưu DNT và theo dõi ALNS
Chưa rõ ở BN hôn mê Bảng 3. Chỉ định theo dõi ALNS ở BN CTSN
Chưa rõ khi dùng để hướng dẫn Theo dõi ALNS ở BN CTSN theo BTF (2010)
điều trị tăng huyết áp do tăng GCS 3-8 điểm và CT scan bất thường gồm
thể tích đối với thiếu máu cục - Máu tụ
bộ muộn
- Dập não
Hội chứng Điều trị nâng ALNS làm giảm tỉ - Phù não
Reye lệ tử vong - Thoát vị
BUN >300 mg/dl và suy giảm ý - Chèn ép các bể dịch nền
thức thường có chỉ định theo GCS 3-8 điểm và CT bình thường có ≥ 2 điều kiện sau:
dõi - Tuổi >40
U não Không chỉ định thường quy, - Gồng cứng mất não (hoặc vỏ não) 1 hoặc 2 bên
nhưng có thể có giá trị ở BN có - HATT <90 mmHg
nguy cơ cao của dãn não thất do Chỉ định theo dõi ALNS ở BN XHN theo AHA (2010)
tắc hoặc phù, ví dụ như phẫu BN có GCS ≤ 8, có bằng chứng (Class IIb, Mức bằng
thuật hố sau lâm sàng của thoát vị qua lều chứng C)
Dãn não thất Tăng sóng B tự phát ban đêm hoặc xuất huyết não thất hoặc
ALNS bình được báo cáo là có tiên lượng dãn não thất đáng kể có thể
thường đáp ứng tốt với dẫn lưu DNT xem xét theo dõi và điều trị
Dãn não thất Có thể là phương tiện chẩn ALNS. Duy trì ALTMN từ 50-70
mất bù đoán giá trị ở những ca phức mmHg tùy thuộc vào tình trạng
tạp tự điều hòa của não.
Tăng ALNS Thường theo dõi qua catheter Cập nhật hướng dẫn theo dõi ALNS ở BN XHN theo
lành tính dưới nhện ở cột sống thắt lưng AHA (2015)
cho cả test chẩn đoán và theo Nên dẫn lưu não thất để điều (Class IIa, Mức bằng
dõi đáp ứng điều trị trị dãn não thất đặc biệt ở BN chứng B)
Các chỉ định Phù não thiếu oxy (Hypoxic suy giảm ý thức (sửa lại từ
tiềm năng brain swelling) sau ngạt nước, hướng dẫn trước đây)
khác viêm màng não, viêm não,
huyết khối xoang tĩnh mạch và Mặc dù, CT scan có thể không chính xác
bệnh não gan
trong xác định ALNS thực, nhưng có thể dự
Bệnh nhân CTSN đặc biệt có nguy cơ phát đoán được nguy cơ phát triển tăng ALNS. 60%
triển tăng ALNS là BN có GCS ≤8 sau hồi sinh BN CTSN với CT bất thường có tăng ALNS.
tim phổi và BN có CT đầu nhập viện bất Nhưng chỉ 13% BN với CT bình thường có tăng
thường. Bất thường này bao gồm tổn thương ALNS, ngoại trừ 1 số BN có các yếu tố nguy cơ
khác như tuổi >40, HATT <90 mmHg và tư thế khối máu tụ nhưng không thấy ở vùng xa.
duỗi mất não hoặc gồng mất vỏ. BN có CT Nguyên nhân tăng ALNS thường gặp trong
scan bình thường có 60% nguy cơ bị tăng XHN là dãn não thất do XHNT hoặc hiệu ứng
ALNS nếu họ có 2 yếu tố nguy cơ và 4% nếu có choán chỗ do khối máu tụ (hoặc phù xung
1 yếu tố nguy cơ. Cũng có thể xem xét theo quanh), do đó thường không cần điều trị giảm
dõi ALNS ở BN GCS >8 nếu cần điều trị mà ALNS cho BN có khối máu tụ nhỏ và XHNT giới
không thể theo dõi, thăm khám thần kinh liên hạn.
tục như gây mê kéo dài để phẫu thuật nhiều Thiếu những nghiên cứu cho thấy kiểm
tổn thương hoặc dùng thuốc dãn cơ kéo dài soát tăng ALNS có tác động trên kết cục BN
để kiểm soát thông khí, hoặc nếu cần dùng XHN, làm cho việc quyết định khi nào cần
phương pháp điều trị mà có thể gây tăng theo dõi và điều trị tăng ALNS còn chưa rõ
ALNS như PEEP (áp lực dương cuối kì thở ra). ràng. Theo dõi ALNS trong XHN chủ yếu sử
Theo dõi ALNS không nên chỉ định dụng phương pháp xâm lấn là đặt catheter
thường quy cho BN CTSN nhẹ hoặc trung trong não thất hoặc trong nhu mô não. Nguy
bình. Tuy nhiên, bác sĩ lâm sàng có thể chọn cơ đi kèm với theo dõi ALNS là nhiễm trùng và
theo dõi ALNS ở BN tỉnh táo nhưng bị tổn xuất huyết não, các biến chứng khác bao gồm
thương khối chiếm chỗ. sự cố kĩ thuật, tắc nghẽn và sai vị trí. Nói
Hướng dẫn theo dõi ALNS cho các bệnh lí chung so với catheter nhu mô, nguy cơ xuất
ngoài CTSN vẫn chưa rõ. Tuy nhiên, có thể áp huyết hoặc nhiễm trùng của catheter não thất
dụng các tiêu chuẩn tương tự như trong CTSN cao hơn, mặc dù dữ liệu về tỉ lệ này không
1 cách thích hợp cho BN tăng ALNS không bị đến từ BN XHN, mà chủ yếu từ BN CTSN hoặc
CTSN. Lâm sàng xấu đi và hình ảnh có hiệu XHDN.
ứng choán chỗ có thể xem là tiêu chuẩn lựa Biến chứng thường gặp nhất của catheter
chọn quan trọng. não thất là nhiễm trùng (tỉ lệ 5-14%), sự xâm
thực vi khuẩn (colonization) trên các thiết bị
2.4.2. Theo dõi ALNS trong xuất huyết não
phổ biến hơn nhiễm trùng lâm sàng (Mayhall,
Theo dõi ALNS cũng thực hiện ở BN XHN.
1984). Holloway (1996) báo cáo không giảm tỉ
Tuy nhiên, có rất ít dữ liệu đề cập đến tỉ lệ
lệ nhiễm trùng (có ý nghĩa thống kê) trong 5
tăng ALNS và kiểm soát chúng ở BN XHN. Vài
ngày đầu ở BN có sử dụng phương pháp dự
trường hợp báo cáo có bằng chứng chênh áp,
phòng, so với người đặt catheter ≥5 ngày.
ALNS có thể tăng lên bên trong và xung quanh
Một nghiên cứu loạt ca trên 108 catheter nhu
mô báo cáo tỉ lệ nhiễm trùng là 2,9% và tỉ lệ tế bào (cytotoxic oedema). Theo dõi ALNS
XHN 2,1% (15,3% ở BN có bệnh lí đông máu) trong nhu mô não ở những BN này dẫn đến
(Martınez-Manas RM, 2000). Một nghiên cứu biến chứng ở 20% và xuất huyết gây tử vong
loạt ca từ 1993-1997 trên 536 thiết bị theo 4% BN. Theo dõi bằng đầu dò ngoài màng
dõi (274 trong não thất, 229 trong nhu mô và cứng có thể là lựa chọn an toàn nhất cho
33 loại khác) báo cáo tỉ lệ nhiễm trùng là 4% những BN này, mặc dù chúng được xem ít
và XHN là 3% (Guyot LL, 1998). Park P (2004) chính xác hơn so với các thiết bị khác. Chiến
nghiên cứu 1 nhóm BN dẫn lưu não thất kéo lược điều trị tăng ALNS trong bối cảnh suy gan
dài ≥10 ngày, báo cáo tăng tỉ lệ nhiễm trùng tối cấp vẫn còn tranh cãi.
phi tuyến tính hàng ngày trong 4 ngày đầu,
2.5. Kiểm soát ALNS trong thực hành lâm
nhưng không thay đổi nữa khi kéo dài thời
sàng hiện hành
gian lưu catheter. Bọc kháng sinh catheter
Một phân tích hồi cứu gần đây của Shafi
não thất cho thấy làm giảm nguy cơ nhiễm
S. báo cáo khoảng 43% chỉ định theo dõi ALNS
trùng từ 9,4% xuống 1,3% (Zabramski, 2003).
làm theo hướng dẫn BTF. Vấn đề chính là
Yếu tố làm tăng tỉ lệ nhiễm trùng là: thời
theo dõi ALNS có hữu dụng và cần thiết trong
gian dẫn lưu não thất >5 ngày, thường xuyên
điều trị tích cực hay không?
lấy mẫu DNT, XHNT hoặc XHDN, vỡ sọ cộng dò
DNT và đặt dẫn lưu não thất không vô khuẩn. 2.5.1. Bằng chứng ủng hộ việc theo dõi ALNS
Yếu tố giúp giảm tỉ lệ nhiễm trùng là tạo Phần lớn bằng chứng ủng hộ phương

đường hầm dưới da, đặt catheter tại ICU thần pháp theo dõi ALNS bắt đầu từ cuối những

kinh, sử dụng catheter đã đặt trước đó. năm 1970 và đầu 1980, nhưng những nghiên
Quyết định dùng catheter não thất hay cứu này có phương pháp thiết kế yếu. Nghiên

nhu mô nên dựa trên nhu cầu cụ thể như cần cứu hiện tại báo cáo tỉ lệ sống sót và kết quả

dẫn lưu DNT ở BN dãn não thất hay tắc ngẽn tốt hơn khi có theo dõi ALNS là Patel và
não thất, cân bằng giữa nguy cơ theo dõi với Fakhry.
lợi ích kiểm soát ALNS chưa biết rõ ở BN XHN. Stein hồi cứu tất cả nghiên cứu hiện có về
kết cục CTSN nặng từ >40 năm trở lại đây,
2.4.3. Theo dõi ALNS trong các bệnh lí khác
tổng cộng có 127 nghiên cứu loạt ca,
Tăng ALNS là 1 đặc điểm quan trọng của
>125.000 BN. Nhìn chung, điều trị tích cực
suy gan tối cấp và phối hợp với tỉ lệ tử vong
hơn khi có theo dõi ALNS dẫn đến tỉ lệ tử
cao. Khả năng cao là hậu quả do phù não độc
vong thấp hơn 12% và 6% cơ hội có kết cục
thuận lợi so với điều trị ít tích cực không theo tâm chấn thương khác nhau từ 1996-2001.
dõi ALNS. Tuy nhiên, đa số các nghiên cứu này Một trung tâm theo dõi ALNS thường quy và
có chất lượng nghiên cứu hạn chế. Một tổng điều trị dựa theo ALNS/ALTMN còn trung tâm
quan Cochrane gần đây đã phải loại trừ phần kia không dùng. Mặc dù, không khác nhau về
lớn nghiên cứu thu được vì không nghiên cứu tỉ lệ tử vong và kết cục chức năng giữa 2 trung
nào có tính chất tiền cứu ngẫu nhiên và do đó tâm, nhưng nhóm theo dõi ALNS có thời gian
không được xem là "đủ" bằng chứng. nằm ICU dài hơn. Tác giả kết luận điều trị dựa
trên ALNS và ALTMN đích có thể dẫn đến kéo
2.5.2. Bằng chứng chống lại theo dõi ALNS
dài thời gian thở máy và tăng mức điều trị tích
Những người hoài nghi cho rằng điều trị
cực ở BN CTSN nặng sống sót sau 24 giờ. Tuy
dựa trên ALNS không phải là không có biến
nhiên, có 1 số hạn chế trong kết quả nghiên
chứng và theo dõi ALNS trong các nghiên cứu
cứu của Cremer: (1) Nghiên cứu quan sát hồi
này không phải là nghiên cứu ngẫu nhiên có
cứu không được thiết kế để chứng minh hiệu
đối chứng. Vài tác giả còn cho rằng theo dõi
quả của phương pháp điều trị không theo dõi
ALNS có thể phối hợp với kết cục xấu hơn và
ALNS ở BN CTSN nặng, có sự khác nhau về
thời gian nằm ICU lâu hơn. Mặc dù, nhiễm
phương pháp điều trị chuẩn giữa 2 trung tâm
trùng và xuất huyết sau đặt catheter theo dõi
cũng có thể ảnh hưởng đến kết quả. (2)
ALNS hiếm gặp, nhưng điều trị theo giao thức
Nhược điểm lớn nhất của nghiên cứu này là tỉ
kiểm soát ALTMN có thể dẫn đến các biến
lệ tử vong 24 giờ đầu sau nhập viện là 25%
chứng tim phổi nặng mà không cải thiện kết
(70/281 BN) ở trung tâm không theo dõi ALNS
cục thần kinh. Trong khi nền tảng sinh lí của
và 15% (61/405 BN) ở trung tâm có theo dõi
điều trị nội dựa theo ALNS vẫn còn tranh luận,
ALNS. Tuy nhiên, 10% tỉ lệ tử vong cao hơn ở
cần có các nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên có
trung tâm không theo dõi ALNS không thể
đối chứng, chứng minh lợi ích trước khi đưa
hiện trong kết quả cuối cùng, vì tác giả đã loại
vào sử dụng rộng rãi.
những BN tử vong trong vòng 24 giờ trong
Bằng chứng chống lại việc theo dõi ALNS
tiêu chuẩn nhận bệnh. (3) Nghiên cứu không
trong CTSN nặng còn nhận được ủng hộ bởi 1
được thiết kế để nghiên cứu lợi ích tiềm năng
nghiên cứu hồi cứu so sánh kết quả BN nhập
của việc theo dõi ALNS trong 24 giờ đầu sau
viện ở 2 trung tâm chấn thương thần kinh tại
chấn thương, ví dụ như để phát hiện sớm sự
Hà Lan. Cremer phân tích 1 nghiên cứu đoàn
mở rộng tổn thương cần phẫu thuật.
hệ 686 BN CTSN nặng, nhập viện ở 2 trung
Nghiên cứu thứ 2 là của Shafi cứu lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng về hiệu
(Intracranial pressure monitoring in brain- quả của theo dõi ALNS trên kết cục lâm sàng,
injured patients is associated with worsening nhưng các phân tích gộp gần đây cho thấy tỉ
of survival), dựa trên phân tích hồi cứu dữ lệ tử vong thấp hơn gần 2 lần tại các trung
liệu từ National Trauma Data Bank từ 1994- tâm thần kinh có theo dõi ALNS so với đơn vị
2001. Tử vong sớm (<48 giờ) cũng nằm trong ICU không theo dõi. Tuy nhiên, có hay không
tiêu chuẩn loại trừ. Sau điều chỉnh độ nặng có áp dụng phương pháp theo dõi ALNS
chấn thương và biến chứng, tác giả kết luận không phải là sự khác nhau duy nhất giữa các
theo dõi ALNS phối hợp với giảm 45% khả đơn vị thần kinh và ICU chung để có thể lý giải
năng sống sót. được tỉ lệ tử vong khác nhau.
Cho đến nay, vẫn chưa có nghiên cứu tiền Giá trị của ALNS trong những tình trạng
cứu ngẫu nhiên nào khẳng định lợi ích của cấp tính như CTSN, XHDN phân độ xấu và XHN
việc theo dõi ALNS. Điều trị định hướng theo phụ thuộc vào mối quan hệ mật thiết giữa
ALNS và ALTMN hiện tại đều dựa trên các giả theo dõi và điều trị. Giao thức định hướng
định khác nhau, khuyến cáo bắt đầu điều trị theo ALTMN, điều trị thẩm thấu và giao thức
khi ALNS >20-25mmHg. Tuy nhiên, ngày nay Lund không thể thực hiện chính xác nếu
các phương thức theo dõi thần kinh cần bổ không có ALNS hướng dẫn. Quyết định mở sọ
sung thêm ALNS vào trong môi trường hồi giải áp nên dựa trên đánh giá kỹ xu hướng
sức, giúp tăng độ an toàn cho BN nhờ hướng ALNS và tốt nhất là dựa trên thông tin từ dạng
dẫn cho điều trị chính xác hơn về loại, mức độ sóng ALNS.
tích cực và thời gian điều trị, theo kiểu giao Tóm lại, theo dõi ALNS là 1 phương thức
thức kiểm soát giảm dần. phức tạp bao gồm thông tin về tình trạng bù
trừ của não và cơ chế điều hòa lưu lượng máu
não. Theo dõi ALNS là cách duy nhất chắc
Theo dõi liên tục ALNS là 1 phương thức
chắn khẳng định hoặc loại trừ tăng ALNS.
thiết yếu trong các hệ thống theo dõi thần
Kiểm soát ALNS cần phải theo dõi ALNS liên
kinh. Sau nhiều thập niên nỗ lực phát triển
tục và phân tích các thông tin bổ sung trong
các phương thức theo dõi não mới, nhưng
dạng sóng ALNS và mối quan hệ của chúng với
ALNS vẫn là 1 chỉ số thiết thực, có tính xâm
MAP để giúp chúng ta hiểu rõ về sinh lí bệnh
lấn trung bình và có thể thực hiện trong môi
cơ bản. Nếu có tăng ALNS, theo dõi ALNS
trường bệnh viện. Dù vẫn còn thiếu nghiên
không chỉ là kĩ thuật đáng tin cậy để đánh giá
xem điều trị có hiệu quả không, mà còn tạo ra
cơ hội sớm để chuyển sang 1 phương pháp 1. Nguyễn Sĩ Bảo. (2014). Đo áp lực nội sọ
điều trị khác thay thế cho điều trị thất bại trong xuất huyết não tự phát. Luận văn
hiện tại. Nếu không có tăng ALNS, có thể Tiến sĩ y học, Đại học Y Dược TP.HCM.
tránh được điều trị có khả năng gây nguy 2. Andrea L. and David K. (2011). Intracranial
hiểm. Nếu BN bị liệt hoặc dùng an thần liều pressure: why we monitor it, how to
cao, khó thăm khám thần kinh thông thường monitor it, what to do with the number
thì theo dõi ALNS là 1 phương tiện xác định and what’s the future? Intensive care and
ALTMN của BN. Theo dõi ALNS không những resuscitation, Volume 2011, Article ID
giúp chúng ta hiểu biết sinh lí bệnh của các 0952-7907, 7 pages.
biến cố, mà còn tạo thuận lợi cho việc chăm 3. Bidur Baral et al. (2007). Intracranial
sóc và điều trị người bệnh. pressure monitoring: Concepts in
Vẫn chưa có phương pháp đo ALNS lí evaluation and measurement. Pak J Med
tưởng, vì tất cả phương pháp hiện nay đều Sci. Vol. 23 (No.5): 798-804.
xâm lấn. Do phải chọc thủng hộp sọ để đo 4. Cremer L. et al. (2005). Effect of
ALNS, nên phần lớn phẫu thuật viên thần kinh intracranial pressure monitoring and
miễn cưỡng chấp nhận kĩ thuật này. Phải mất targeted intensive care on functional
gần 50 năm chứng minh lợi ích thì phương outcome after severe head injury, Crit Care
pháp này mới được chấp nhận đưa vào thực Med, Vol. 33, No.10: pp. 2207-2214.
hành lâm sàng thần kinh ở nhiều bệnh viện. 5. Jun Zhong et al. (2003). Advances in ICP
Ngay cả bây giờ, vẫn tồn tại các quan điểm monitoring techniques. Neurological
khác nhau về giá trị của kĩ thuật này, 1 số cho Research. Volume 25: 339-351.
rằng nó không mang đến kết cục khác biệt, 6. Karen March. (2005). Intracranial Pressure
còn số khác khẳng định nó là phần không thể Monitoring. Why Monitor? AACN Clinical
thiếu trong thực hành thần kinh và nếu không Issues, Volume 16, Number 4: pp. 456–475.
có nó nhiều BN chắc chắn sẽ chết. Sự thật 7. Laurence T. (2002). Raised Intracranial
nằm ở đâu đó giữa 2 thái cực này, phụ thuộc Pressure, J Neurol Neurosurg Psychiatry, 73
vào cơ sở vật chất và nhân lực có sẵn tại đơn (Suppl I): pp. 23–27.
vị thần kinh liên quan.
8. Leonardo RC et al. (2008). Management of 13. Rodriguez-Boto et al. (2015). Basic
Intracranial Hypertension, Neurol Clin, 26: concepts about brain pathophysiology and
pp. 521–541. intracranial pressure monitoring,
9. Hemphill JC. et al. (2015). Guidelines for Neurology, 30: pp. 16-22.
the Management of Spontaneous 14. Steiner LA. and Andrews P. (2006).
Intracerebral Hemorrhage, Stroke, 46:000- Monitoring the injured brain: ICP and CBF,
000. British Journal of Anaesthesia, 97 (1): pp.
10. Martin Smith. (2008). Monitoring 26–38.
Intracranial Pressure in Traumatic Brain 15. Thomas J. and Michel T. (2009).
Injury, Anesth Analg, 106: pp. 240–248. Management of Intracranial Pressure,
11. Raboel et al. (2012). Intracranial Pressure Current Neurology and Neuroscience
Monitoring: Invasive versus Non-Invasive Reports, 9: pp. 477–485.
Methods - A Review. Critical Care Research
and Practice. Volume 2012, Article ID
950393, 14 pages.
12. Randall M. et al. (2012). Trends in
monitoring patients with aneurysmal
subarachnoid haemorrhage, N Engl J Med,
367: pp. 2471-81.
biến áp lực ở bên ngoài (cảm biến biến đổi-

Mỗi năm có hàng triệu bệnh nhân (BN) strain gauge) để đo ALNS. Kể từ đó, đo ALNS

nhập viện với chẩn đoán tổn thương não sau bằng catheter não thất nối cảm biến ngoài đã

chấn thương sọ não (CTSN), đột quỵ, u não và trở thành tiêu chuẩn vàng cho các thiết bị

bệnh nhiễm trùng. Tăng áp lực nội sọ (ALNS) theo dõi.

thường gắn liền với những tổn thương này và Cho đến nay, chưa có nghiên cứu lâm

ảnh hưởng đến kết cục lâm sàng. sàng ngẫu nhiên nào cho thấy theo dõi ALNS

Vào cuối thập niên 1960, Jennett báo cáo giúp cải thiện kết cục, mặc dù ngày càng nhiều

tỉ lệ tử vong của CTSN là 52%. Đến năm 1991, nghiên cứu báo cáo điều trị định hướng theo

Marshall phân tích dữ liệu từ Traumatic Data ALNS tích cực (giữ ALNS <20-25) có thể cải

Coma Bank và ghi nhận tỉ lệ tử vong của CTSN thiện kết cục. Một hồi cứu y văn về tuân thủ

nặng là 36%. Cải tiến hệ thống cấp cứu ngoại hướng dẫn điều trị CTSN (guidelines), áp dụng

viện và kĩ thuật chăm sóc BN tổn thương não kĩ thuật theo dõi ALNS và ảnh hưởng trên kết

được cho đã góp phần cải thiện tỉ lệ tử vong. cục, báo cáo tỉ lệ tử vong đã giảm trong

Valentin báo cáo có cải thiện kết quả BN sau những thập kỷ qua từ 41-45% trước khi có

xuất huyết não (XHN) sau khi bắt đầu áp dụng guidelines xuống còn 5-27% sau áp dụng

theo dõi ALNS. Năm 2004, Heuer ghi nhận guidelines. Ngoài giảm tỉ lệ tử vong, còn có sự

54% BN xuất huyết dưới nhện (XHDN) có thay đổi lớn số lượng BN có kết quả trung

ALNS >20 mmHg trong thời gian nằm viện và binh-tốt. BN bị khuyết tật nặng đã giảm từ 25-

những BN này có kết cục xấu hơn BN có ALNS 39% trước guidelines xuống còn 14-25% sau

<20 mmHg. Các nghiên cứu khác cũng ghi guidelines, kết quả tốt đã tăng từ 27-43%

nhận giữ ALNS <20-25 mmHg sẽ cải thiện kết trước guidelines lên 61-79% sau guidelines

cục. (Bảng 1). BN không chỉ sống sót mà còn có

Năm 1960, Lundberg ủng hộ theo dõi khả năng tự chăm sóc bản thân mình tại nhà

ALNS liên tục như là dấu hiệu suy giảm thần và nhiều người đã trở lại làm việc.

kinh sớm do tổn thương thứ phát. Vào thời Mặc dù, có bằng chứng cho thấy điều trị

gian này, ông đã sử dụng catheter dẫn lưu định hướng theo ALNS giúp cải thiện kết cục,

dịch não tủy (DNT) trong não thất nối với cảm nhưng 1 số nghiên cứu báo cáo ngay tại Mỹ
thì chỉ theo dõi ALNS ở <50% số BN có chỉ
định. Thông thường, đặt catheter theo dõi hiện theo dõi ALNS. Nói chung bác sĩ điều trị,
ALNS thuộc lĩnh vực phẫu thuật thần kinh, trợ lí bác sĩ có thể thực hiện thủ thuật đặt
nhưng do nhiều lí do nên dẫn đến khó khăn catheter ALNS nếu được đào tạo phù hợp và
do thiếu hoặc không có phẫu thuật viên thần giám sát định kì. Mặc dù, thực hành đặt
kinh để đặt catheter theo dõi ALNS. Giải pháp catheter ALNS bởi bác sĩ không phải phẫu
cho vấn đề thiếu phẫu thuật viên thần kinh và thuật viên thần kinh còn gây tranh cãi, nhưng
hạn chế nhân lực ở 1 số trung tâm là người đây là giải pháp cho phép bác sĩ lâm sàng điều
không phải phẫu thuật viên thần kinh sẽ thực trị định hướng theo ALNS.

Bảng 1. Kết quả điều trị trước và sau guidelines


Nghiên Thời gian Số BN Điều trị theo GOS (n)/%
cứu theo dõi guidelines 1 2-3 4-5
ALNS (n)
Palmer Trước 37 - 16/43,24 11/29,73 10/27,03
(2001) guidelines
Sau 56 100% 9/16,07 8/14,29 39/69,64
guidelines
Fakhry Trước 219 - 17,8% 38,9% 43,3%
(2004) guidelines
Sau 423 88% 13,8% 24,7% 61,5%
guidelines
Elf Trước - - 41% 25% 34%
(2002) guidelines
Sau 154 100% 6/5% 16% 79%
guidelines
Hesdorffer Trước 45 - - - -
(2002) guidelines
Sau 56 16 theo hoàn - - -
guidelines toàn; 17 theo
1 phần

Mục tiêu điều trị BN tổn thương não là ALNS mới có thể điều trị tích cực tăng ALNS,
giảm thiểu tác động từ tổn thương thứ phát. bác sĩ có thể đánh giá hiệu quả của các biện
Tổn thương thứ phát là hậu quả từ nhiều biến pháp can thiệp. Hướng dẫn điều trị CTSN nặng
cố có thể dẫn đến giảm tưới máu não và giảm đưa ra các khuyến cáo dựa trên bằng chứng
oxy mô, xa hơn nữa là dẫn đến chết tế bào về theo dõi ALNS nhằm cải thiện điều trị và
thần kinh. Tăng ALNS được cho là yếu tố góp kết cục BN người lớn CTSN nặng. Hướng dẫn
phần chính gây tưới máu không đủ. Cần đo điều trị CTSN nặng cấp tính (BTF, 2016) đã
đưa ra các khuyến cáo bao gồm nên theo dõi CTSN, trong đó nhấn mạnh duy trì áp lực tưới
ALNS BN nào và nên sử dụng kĩ thuật nào máu não 50-70 mmHg, tùy theo tình trạng tự
(Bảng 2). Hướng dẫn điều trị XHN tự phát của điều hòa não. Quyết định sử dụng catheter
Hội Đột quỵ Mỹ (2010) cũng đưa ra khuyến não thất hay nhu mô dựa trên yêu cầu cụ thể
cáo mới về theo dõi ALNS ở BN XHN (Bảng 2). như cần dẫn lưu DNT ở BN dãn não thất, cân
Tuy nhiên, do dữ liệu về theo dõi ALNS trong bằng giữa nguy cơ của việc theo dõi và lợi ích
XHN còn hạn chế, nên nguyên tắc điều trị tăng chưa rõ của kiểm soát ALNS ở BN XHN.
ALNS được “vay mượn” từ hướng dẫn điều trị
Bảng 2. BN và kĩ thuật theo dõi ALNS nên sử dụng
Đối tượng nên theo dõi Kĩ thuật
BN CTSN có GCS ≤8 và CT bất thường ngay Catheter não thất: hệ thống đo dịch hoặc
cả đường khớp và thóp mở cảm biến strain-gauge bên ngoài
BN CTSN có GCS ≤8 và CT bình thường có Catheter trong nhu mô não
≥2 yếu tố: tụt HA, >40 tuổi, tư thế mất vỏ
hoặc mất não nên theo dõi ALNS liên tục
BN CTSN có GCS >9 với tổn thương choán Catheter dưới màng cứng với hệ thống đo
chỗ theo dõi ALNS có thể có lợi hoặc bệnh dịch hoặc đầu cảm biến
nhi khó theo dõi đánh giá thần kinh Catheter dưới nhện với hệ thống đo dịch
Theo dõi ở bề mặt ít chính xác Catheter ngoài màng cứng
BN XHN có GCS ≤8 có bằng chứng lâm sàng Dẫn lưu não thất với catheter sợi quang
thoát vị qua lều hoặc xuất huyết não thất trong não thất
hoặc dãn não thất đáng kể. Catheter trong nhu mô não

Vẫn còn câu hỏi là tại sao bác sĩ vẫn quyết theo dõi này không chính xác và có nhiều
định không theo dõi ALNS? Bác sĩ sẽ không nguy cơ? Đã có kĩ thuật/thiết bị khác cung cấp
điều trị tăng huyết áp hệ thống nếu không đo thông tin cần thiết (ví dụ khám thần kinh,
trực tiếp HA, vậy tại sao 1 số bác sĩ điều trị chụp cắt lớp vi tính)? Hay họ cho rằng theo
tăng ALNS mà không đo trực tiếp ALNS? Do dõi không cải thiện được kết cục BN (do
không có phẫu thuật viên thần kinh? Hay không có nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên)?
phẫu thuật viên thần kinh cho rằng kĩ thuật
Mặc dù, đo ALNS được cho là 1 phần cực phụ thuộc vào độ lớn của giá trị (tuyến tính).
kì quan trọng của điều trị phẫu thuật thần Nhiệm vụ phát triển các phương pháp đo
kinh, nhưng phải mất gần 50 năm chứng minh ALNS lí tưởng vẫn còn khó khăn, vì ngoài độ
lợi ích của phương pháp này để có thể chấp chính xác nó còn phải an toàn và đơn giản
nhận đưa vào thực hành lâm sàng thần kinh ở (North và Reilly, 1990).
nhiều bệnh viện. Hiện nay, nghiên cứu về các Bài viết sẽ tóm tắt y văn về các phương
phương pháp theo dõi ALNS vẫn chưa đầy đủ pháp theo dõi ALNS và thảo luận về kĩ thuật
nhưng chủ yếu bao gồm: (1) Các kĩ thuật xâm theo dõi, độ chính xác và biến chứng của từng
lấn đo trực tiếp ALNS ở các vị trí nội sọ khác phương pháp.
nhau (trong não thất, dưới màng cứng, dưới
màng nhện và trong nhu mô não). Các kĩ thuật
2.1. CÁC PHƯƠNG PHÁP THEO DÕI ALNS
này có độ chính xác cao nhưng liên quan đến
XÂM LẤN
các biến chứng xuất huyết và nhiễm trùng. (2)
Kể từ khi Lundberg theo dõi ALNS lần
Các kĩ thuật không xâm lấn đo gián tiếp ALNS
đầu, sử dụng catheter não thất nối với cảm
như Doppler xuyên sọ, đo độ rung màng nhĩ
biến biến đổi bên ngoài được xem là tiêu
(tympanic membrane displacement), đo
chuẩn vàng hoặc tiêu chuẩn tham chiếu cho
đường kính bao thần kinh thị (optic nerve
việc theo dõi ALNS. Là tiêu chuẩn vàng không
sheath diameter) và soi đáy mắt, dù có thể
phải luôn có nghĩa rằng phương pháp này là kĩ
tránh hoàn toàn các biến chứng nhưng hiện
thuật đo chính xác nhất, mà nó là kĩ thuật đã
không kĩ thuật nào nói trên đủ chính xác để
được nghiên cứu kiểm tra đối chiếu. Các kĩ
áp dụng trong môi trường theo dõi và điều trị
thuật theo dõi ALNS thường dùng nhất là: đặt
tích cực.
catheter não thất trong dẫn lưu não thất
Mỗi thiết bị tùy theo vị trí nội sọ và
(DLNT), cảm biến sợi quang, cảm biến vi mạch
phương pháp truyền áp lực sẽ có ưu và nhược
(cảm biến train-gauge) và kĩ thuật bóng khí
điểm riêng. Một thiết bị tối ưu cần đáp ứng
(air pouch technology).
được các yêu cầu đặc biệt bao gồm: độ chính
Có thể theo dõi ALNS tại 1 số vị trí nội sọ
xác tuyệt đối của phép đo (dung sai), các giá
như trong não thất, nhu mô, dưới màng cứng,
trị liên tục kịp thời của phép đo (độ lệch), ít
dưới màng nhện hay ngoài màng cứng, tuy
phụ thuộc vào các phép đo trước đó hoặc kế
nhiên mỗi vị trí có độ chính xác rất khác nhau.
tiếp (độ trễ), độ chính xác của các phép đo lặp
Áp lực có thể thay đổi trong các khoang nội
lại (giá trị) và độ chính xác của giá trị tuyệt đối
sọ: não vs DNT, trên lều vs dưới lều, giữa 2 áp lực trên lều và 1 catheter trong nhu mô
bán cầu. Vì thành phần nội sọ không đồng tiểu não để theo dõi áp lực dưới lều. Kết quả
nhất, áp lực khác nhau thậm chí cả trong cho thấy áp lực trong khoang dưới lều cao
trường hợp không có bệnh lí thì đó là do mật hơn ở 4/5 BN (1 máu tụ trong não, 3 XHDN)
độ mô và mao mạch, mặc dù sự khác nhau và thấp hơn ở 1 BN (phá nang - cyst
này có thể không đáng kể. Harvey Cushing từ fenestration) với áp lực khác nhau từ 2-8
lâu cho rằng áp lực không phân bố đồng đều mmHg. Hiện tượng này đã được nghiên cứu
khắp não, nhưng đến tận ngày nay vấn đề này trong nhiều năm nhưng có kết quả khác nhau,
vẫn còn tiếp tục tranh luận. Các nhà nghiên có thể do sự đa dạng của các kĩ thuật theo dõi
cứu đã đánh giá khái niệm phân chia khoang áp lực. Theo dõi ở bề mặt (dưới màng cứng,
nội sọ (compartmentalization) trong gần 50 ngoài màng cứng và dưới màng nhện) không
năm nhưng kết quả vẫn khác nhau. đại diện cho áp lực ở các mô sâu hơn. Vị trí
Gần đây, Wolfa báo cáo áp lực mô khác của catheter trong nhu mô và não thất trong
nhau giữa 6 vùng não trên mô hình lợn: thùy các bệnh lí cho ra các mức áp lực khác nhau,
trán 2 bên, thùy thái dương 2 bên, não giữa catheter nằm càng gần tổn thương thì cho
và tiểu não, trước và sau khi bơm bóng chèn mức ALNS cao hơn.
trong khoang ngoài màng cứng. Năm 2002,
Ambrosio cũng ghi nhận có sự khác biệt đáng
kể của ALNS giữa 2 bán cầu loài linh trưởng
khi thể tích nhồi máu >20%. Sahuquillo báo
cáo có chênh áp ở BN CTSN khi theo dõi ALNS
ở 2 bán cầu và xác định có 3 kiểu hình đáp
ứng: (1) áp lực đồng nhất và khác nhau giữa 2
bán cầu tối thiểu (khoảng 2mmHg), (2) độ bù
trừ/dãn nở ở mỗi bán cầu khác nhau nhưng Hình 1. Các vị trí có thể theo dõi ALNS. (nguồn
đáp ứng đồng bộ với can thiệp, (3) áp lực ở Ristic, 2015, Journal of Neuroanaesthesiology
mỗi bán cầu khác nhau nhưng đáp ứng độc and Critical Care)
lập với kích thích và can thiệp. Năm 2003, Tóm lại, tùy vào kĩ thuật có thể đo ALNS
Slavin và Misra nghiên cứu sự khác nhau giữa xâm lấn ở nhiều vị trí khác nhau: trong não
áp lực ở trên lều và dưới lều trên 5 BN tổn thất, trong nhu mô não, ngoài màng cứng,
thương dưới lều. Họ đặt 1 DLNT để theo dõi dưới màng cứng và dưới nhện. Ngoài ra, có
thể đo ALNS bằng chọc tủy sống thắt lưng ở Điểm tham chiếu để đặt cảm biến ngoài
BN có đường DNT thông ở một số trường hợp là lỗ Monro, vài tác giả khác sử dụng điểm
(Hình 1). tham chiếu là ống tai ngoài (Kosteljanetz,
2.1.1. Trong não thất 1987). Dù sử dụng điểm tham chiếu nào thì
• DLNT ngoài (external ventricular drainage) vẫn cần thay đổi mức cảm biến ngoài khi thay
Theo dõi xâm lấn bằng kĩ thuật DLNT đổi tư thế đầu BN.
(DLNT) với 1 catheter đặt vào 1 trong các não Để có phép đo trong não thất chính xác
thất qua 1 lỗ khoan sọ, được xem là theo dõi thì vị trí catheter phải nằm trong não thất
ALNS tiêu chuẩn vàng mà tất cả phương pháp bên, điều này có thể là khó thực hiện trong
khác phải so sánh với nó để tham chiếu. Tuy trường hợp não thất hẹp hoặc bị đẩy lệch. Có
nhiên, kĩ thuật đo ALNS khác như đặt catheter thể tổn thương hạch nền trực tiếp do bệnh lí
trong nhu mô não sẽ ưu tiên trong những hoặc do cố gắng đưa catheter vào trong não
trường hợp chọn lọc, đặc biệt trong tình thất. Tùy vào kích thước não thất, đặt DLNT
huống não thất nhỏ hoặc xẹp kèm theo phù có thể đặc biệt khó ở BN trẻ có hệ thống não
não đáng kể. Sử dụng 1 khóa 3 đầu trong đầu thất rất hẹp (Hình 2a). Ở người già, chúng ta
tận ngoài sọ để dẫn lưu DNT ngắt quãng, có thường thấy hệ thống não thất rộng do teo
thể gắn đầu khác với 1 bộ chuyển đổi áp lực não theo tuổi (Hình 2b).
qua ống chứa nước muối để đo ALNS liên tục.
Cũng có thể sử dụng catheter để truyền thuốc
vào DNT như thuốc tan huyết khối trong
trường hợp XHNT hoặc cục máu đông nằm
gần catheter hoặc kháng sinh trong trường
hợp viêm não thất.
Kĩ thuật đặt DLNT truyền thống là qua lỗ
khoan sọ tại điểm Kocher và đặt đầu DLNT Hình 2. Kích thước não thất khác nhau giữa
trong não thất 3, kĩ thuật khác là qua lỗ khoan BN trẻ (a) và BN lớn tuổi (b). “nguồn Raboel,
sọ Frazier (đính-chẩm), điểm Keen (đính-sau) 2012, Critical Care Research and Practice”
và điểm Dandy (chẩm). Tuy nhiên, vấn đề này Trong thời gian dẫn lưu DNT kéo dài qua
vẫn còn tranh luận và chưa có sự đồng thuận DLNT, chèn ép hệ thống não thất do phù tiến
chung trong lĩnh vực này. triển có thể gây tắc nghẽn catheter DLNT.
Ngoài ra, có thể đặt DLNT để dẫn lưu xuất thay đổi thể tích và thể hiện là sự thay đổi thể
huyết sau chấn thương. Đối với trường hợp tích/sự thay đổi áp lực. Nếu bù trừ nội sọ bị
xác định có khối bất thường gây tăng ALNS và giảm, tăng nhẹ thể tích sẽ dẫn đến sự tăng áp
và cần đặt DLNT để giảm áp lực, cần thận lực lớn. Đánh giá khả năng bù trừ bằng cách
trọng vì khi dẫn lưu DNT cấp tính có thể đẩy thêm hoặc bớt DNT và quan sát sự thay đổi
lệch các cấu trúc trong não và trong trường cường độ ALNS.
hợp nặng có thể gây thoát vị não. Kerr trong 2 nghiên cứu đánh giá đáp ứng
Một lợi thế lớn khi DLNT theo dõi ALNS là liều khi bỏ bớt thể tích nhỏ DNT (1, 2 và 3ml)
cũng có thể sử dụng để điều trị tăng ALNS ghi nhận có cải thiện nhỏ ALNS và ALTMN,
thông qua dẫn lưu DNT. DNT có vai trò quan nhưng sự cải thiện đó không bền. Không cải
trọng trong kiểm soát ALNS. Người ta cho thiện LLMN hay bão hòa oxy mô não. Kết quả
rằng giảm thể tích DNT sẽ làm tăng lưu lượng này lại trái ngược với niềm tin phổ biến rằng
máu não (LLMN) và do đó cải thiện tưới máu dẫn lưu DNT sẽ cải thiện lưu lượng máu não
não. Tuy nhiên, một số nghiên cứu đã đánh và bão hòa oxy mô não. Trong nghiên cứu
giá hiệu quả dẫn lưu DNT trên ALNS và LLMN này, cường độ giảm ALNS và tăng ALTMN
nhưng kết quả lại mâu thuẫn. Fortune nghiên tương quan với thể tích, giảm ALNS trung
cứu hiệu quả dẫn lưu DNT (mở dẫn lưu trong bình 2,4-4,5 mmHg ALNS và tăng tương ứng
3 phút, dẫn lưu đặt ở mức lỗ Monro), ALTMN trong phút đầu tiên và sự thay đổi này
mannitol (25 gam TM trong 5 phút) và tăng là 1-2,6 mmHg tại 10 phút. Kerr chọn mức
thông khí (giảm PaCO2 khoảng 5 mmHg) trên tăng thể tích nhỏ này vì hiện nó đang được sử
tăng ALNS (ALNS >15 mmHg trong 5 phút) và dụng trong thực hành lâm sàng. Khả năng cao
LLMN, sử dụng SjO2 là chỉ số đại diện cho là sẽ không có đáp ứng với dẫn lưu DNT ở BN
LLMN. Ông báo cáo mặc dù tất cả biện pháp CTSN có XHDN và BN nằm tại vùng ngang trên
điều trị đều hạ ALNS, nhưng chỉ mannitol mới phần cuối đường cong thể tích-áp lực có thể
cải thiện LLMN. Dẫn lưu DNT giảm ALNS mạnh tích DNT nhỏ (ví dụ BN CTSN). BN có thể tích
nhất nhưng tác dụng này thường thoáng qua. DNT lớn hơn (BN XHDN và BN dãn não thất
Nghiên cứu cho thấy cường độ và thời gian tắc nghẽn) có thể có đáp ứng tốt hơn đối với
kiểm soát ALNS dựa trên dẫn lưu DNT có thể dẫn lưu DNT. Nghiên cứu này cho thấy mặc
bị ảnh hưởng bởi khả năng bù trừ/dãn nở nội dù dẫn lưu DNT có thể hạ thấp ALNS nhưng
sọ. Bù trừ nội sọ (intracranial compliance) là hiệu quả này có thể chỉ thoáng qua ở 1 số BN
khả năng thích ứng của khoang nội sọ khi có
và không cải thiện tưới máu hoặc bão hòa oxy Phải điều chỉnh vị trí đặt mức cảm biến
mô não. theo mức thay đổi đầu BN để đảm bảo giá trị
Phẫu thuật đặt DLNT được xem là thủ đo tin cậy. Dẫn lưu DNT và đo ALNS cùng 1 lúc
thuật nhỏ với nguy cơ thấp, hiện đo ALNS sẽ làm giá trị ALNS thấp không chính xác so
trong não thất là phương pháp đáng tin cậy với ALNS thực, do đó phải thực hiện 2 phép
nhất, có lợi thế là chi phí tối thiểu và độ chính đo riêng biệt. Do các nguy cơ khác như lạc
xác tối đa vì có thể điều chỉnh cảm biến bên chỗ, nhiễm trùng, chảy máu và tắc nghẽn, đã
ngoài khi có sự thay đổi. Tuy nhiên, đặt vào thúc đẩy việc tìm và thay thế các thiết bị khác
não thất có bất lợi là phải xuyên thủng màng cũng như vị trí theo dõi ALNS khác.
não và não, đưa vào nguy cơ nhiễm vi khuẩn • Kĩ thuật đo trong hệ thống dịch kín (fluid-
qua hệ thống dịch kín. Đặt catheter não thất filled system)
có thể khó nếu có chèn ép hoặc di lệch não Có 1 số yếu tố có thể ảnh hưởng đến độ
thất. Trong trường hợp này, dạng sóng ALNS chính xác của phép đo trong hệ thống dịch
có thể bị cụt và giá trị đo được có thể thấp do kín, chúng bao gồm loại catheter phù hợp
artifact. Có thể bị rò DNT tại cổng vào của trong điều kiện cơ thể, co dãn thấp, không bị
catheter ở ngoài da qua khóa van hoặc do tắc ống và kết nối phù hợp đầu dò với
thủng catheter, dẫn đến giá trị ALNS đo bị sai monitor tại giường. Catheter nhỏ, kích thước
và thấp. Tất cả chỗ nối trong hệ thống đo phải lòng ống (<7F) sẽ làm tăng lực cản ma sát của
kín nước, nếu không thì “rò rất nhỏ” sẽ làm DNT và ảnh hưởng lên áp lực. Chiều dài,
mất hiệu lực giá trị ALNS đo được. Do đó, phải đường kính và tính mềm dẽo của ống có thể
kiểm tra định kì từng phần trong hệ thống. thay đổi độ chính xác của phép đo. Ống mềm,
Đôi khi, catheter bị tắc và có thể khắc phục đường kính ống lớn và dài quá mức (>120 cm)
bằng cách bơm 1 lượng nhỏ nước muối vô sẽ làm giảm áp lực đo dẫn đến đánh giá thấp
khuẩn, nhưng cần tránh bơm lặp lại vì đó là ALNS. Các mảnh vụn trong catheter hoặc ống
nguy cơ gây nhiễm trùng thực sự. Bóng khí, dẫn (mô não, cục máu đông) và tăng độ nhớt
cục máu đông, não hoặc các mảnh vụn khác, của dịch (máu, nhiễm trùng, tăng nồng độ
tất cả đều có thể ảnh hưởng đến sự truyền protein) cũng có thể ảnh hưởng đến phép đo.
sóng áp lực từ não thất đến bộ cảm biến áp Bóng khí trong đầu dò, ống dẫn hoặc khóa van
lực bên ngoài dẫn đến giá trị ALNS đo được sẽ làm hạ thấp dạng sóng áp lực, có thể dẫn
không chính xác. đến sai số. Phải đặt bộ chuyển đổi ở vị trí lỗ
Monro và Zero lại đều đặn để duy trì độ chính
xác. Các đầu dò hiện nay có độ lệch ±2 mmHg hầm dưới da được cho giúp giảm nhiễm trùng
mỗi 8 giờ. Nếu đầu dò và DLNT ngoài không (vấn đề nhiễm trùng sẽ thảo luận trong phần
tham chiếu chính xác theo lỗ Monro dựa trên biến chứng). Catheter gắn với ống nối cảm
leveling (lấy mức ngang bằng) theo kĩ thuật biến áp lực hay “ống áp lực” chứa đầy nước
carpenter, bubble-line hoặc laser thì có thể bị muối và nối với 1 cảm biến strain-gauge. Cảm
lỗi rất lớn. Mỗi cm độ lệch trên hay dưới điểm biến được hiệu chỉnh hoặc zero tại điểm tham
tham chiếu sẽ dẫn đến bị lỗi 0,73 mmHg. chiếu bên ngoài ngang mức lỗ Monro.
Cảm biến strain-gauge ngoài nối với
catheter DLNT để đo áp lực DNT trong não
thất. Cảm biến này thường đo điện trở do
thay đổi sức căng trên chiều dài lá kim loại
mỏng. Cảm biến áp lực strain-gauge sẽ đặt
trên đỉnh màng cơ khí. Áp lực trong catheter
não thất và ống áp lực cũng chính là ALNS ở
phía bên kia màng chắn. Thay đổi ALNS sẽ
thay đổi áp lực tác động lên màng chắn và tạo
Hình 3. Hệ thống đo ALNS cổ điển thông qua
ra sức căng trên cảm biến. Sử dụng mạch điện
DLNT: (a) Kết nối dẫn lưu. (b) Mức zero (nên
1 chiều để đo điện trở của cảm biến này và nó
đặt cao ngang tai BN) và 1 khóa 3 đầu nối với
tỉ lệ thuận với ALNS.
cảm biến áp lực. (c) Buồng nhỏ giọt, điều
2.1.2. Đo ALNS dưới màng nhện
chỉnh chiều cao trên zero để dẫn lưu DNT. Tùy
Hệ thống này sẽ nối khoang nội sọ với bộ
vào vị trí khóa van có thể đo áp lực hoặc dẫn
cảm biến ngoài qua 1 catheter. Vít dưới nhện
lưu DNT. (d) Túi chứa DNT. (nguồn Brenda
là 1 vít rỗng gắn vào hộp sọ giáp với màng
Morgan, 2013, LHSC)
cứng. Khi đục thủng màng cứng sẽ cho phép
• Kĩ thuật đo catheter não thất với cảm biến
DNT lấp đầy vào vít và áp lực giữa chúng sẽ
strain-gauge ngoài
cân bằng. Sau đó ống chứa kín này sẽ chuyển
Catheter não thất gồm 1 catheter đặt
áp lực trong khoang này đến bộ cảm biến.
trong sừng trước não thất bên. Thường sẽ tạo
Mặc dù, nguy cơ nhiễm trùng và chảy máu là
đường hầm dưới da đầu 1 đoạn ngắn cho các
thấp nhưng thiết bị này khá dễ bị lỗi bao gồm
catheter này trước khi để nó đi vào lỗ khoan
đánh giá ALNS thấp, bắt vít sai vị trí và tắc
sọ, các loại khác sẽ cố định bằng vít sọ. Đường
nghẽn do các mảnh vụn.
2.1.3. Đo ALNS dưới màng cứng ngoài màng cứng và dưới màng cứng đã kết
Vít sọ rỗng (vít Richmond) đã được sử luận ALNS cao hơn trong khoang ngoài màng
dụng rộng rãi tại nhiều trung tâm (Vries, cứng là do áp lực sinh lí khác nhau trong hai
Becker và Young, 1973; Hình 4). Đã có nhiều ngăn và không phải do yếu tố kĩ thuật (Poca,
thay đổi để đạt được cấu tạo nhỏ hơn, khả 2007).
năng tương thích với CT scan, nhiều lỗ bên
hơn (vít Leeds) và phiên bản trẻ em (Coroneos
và cs, 1973; James, Bruno và Schut, 1975;
Landy và Villanueva, 1984; Mann và Yue,
1988). Các thiết bị này rất đơn giản để gắn
vào nhưng chúng có xu hướng bị tắc, cho
sóng cụt, không chính xác. Ở áp lực cao, các
vít dưới màng cứng có xu hướng đọc thấp
hơn so với catheter não thất (Mendelow, Hình 4. Vít dưới nhện. “nguồn Re-
1983; Miller, Bobo và Knapp, 1986). Độ chính Owned.com, 2012 và cram.com, 2010”
xác là một vấn đề lớn và là lí do chính làm Nếu cần sử dụng trong điều trị tích cực,
giảm sử dụng phương pháp vít rỗng (Miller, các cảm biến ngoài màng cứng có thể xem xét
1987). Catheter dưới màng cứng có thể có ích sử dụng nếu không nghi ngờ có tăng ALNS cục
khi không đặt được catheter não thất, nhưng bộ có khả năng gây ra chênh áp giữa các
nó cũng có thể đánh giá ALNS thấp hơn thực khoang. Tuy nhiên, điều này là hiếm và theo
tế. dõi trong nhu mô hoặc não thất nên được
Gần đây, người ta sử dụng các kĩ thuật xem là lựa chọn tiêu chuẩn.
hiện đại hơn như catheter sợi quang hoặc vi 2.1.3. Ngoài màng cứng
cảm biến strain-gauge để đo ALNS dưới và Theo dõi ALNS từ khoang ngoài màng
ngoài màng cứng. Một so sánh giữa đặt cảm cứng là một khái niệm hấp dẫn khi không phải
biến áp lực ngoài màng cứng và dưới màng chọc thủng màng cứng, và việc đặt các thiết bị
cứng cho thấy giá trị ALNS thấp hơn khi đo ở theo dõi rất dễ dàng và có tỉ lệ nhiễm trùng và
khoang dưới màng cứng, nhưng gần bằng chảy máu thấp. Tuy nhiên, các thiết bị này dễ
nhau khi đo giá trị ALNS trên 20mmHg bị hỏng/trục trặc, lạc chỗ, bị sút/tụt sau một
(Weinstabl, 1992). Trong một nghiên cứu mới vài ngày sử dụng liên tục.
đây so sánh áp lực DNT thắt lưng với ALNS
Vấn đề kĩ thuật liên quan đến độ cứng và • Catheter sợi quang
không đàn hồi của màng cứng và đòi hỏi cảm Thiết bị cảm biến áp lực sợi quang bao
biến phải nằm ngang (đồng phẳng) trên màng gồm 2 loại “điều biến cường độ/ intensity
cứng. Thật không may là các bất thường của modulation” (Integra Camino; Integra Inc.,
màng cứng và bản trong hộp sọ khá phổ biến. Plainsboro, New Jersey) và “giao thoa/
Nếu không đạt được đồng phẳng, áp lực và interferometry” (Integra Ventrix). Cảm biến
sức căng màng cứng có thể làm sai lệch phép chính sử dụng một màng cơ khí, màng này
đo và ghi sai áp lực cao (Dorsch và Symon, chuyển động khi có thay đổi áp suất. Trong
1975; Coroneos, 1973). Kết quả thiếu chính điều biến cường độ, sự dịch chuyển của màng
xác này là do màng cứng không đàn hồi do đó (và cũng là áp lực) làm thay đổi cường độ ánh
khi áp lực từ DNT truyền đến cảm biến bị sáng phản chiếu từ mặt sau của nó. Trong
thiếu chính xác chứ không phải do thiết bị giao thoa, dịch chuyển của màng được cảm
không chính xác. Phương pháp ngoài màng nhận bằng cách đo tỉ lệ cường độ ánh sáng
cứng hiện nay ít sử dụng vì lí do này. quay trở lại trong 2 dãi thông phổ (spectral
2.1.5. Trong nhu mô não bandwidth). Tỉ lệ này là một hàm của sự nhiễu
Catheter với đầu dò vi cảm biến quang phổ (spectral interference) thay đổi
(microtransducer) là một dạng khác của thiết theo sự dịch chuyển của màng.
bị theo dõi ALNS. Như tên gọi của nó, đầu dò Đầu dò thu nhỏ này được phát triển từ
cảm biến áp lực chính được gắn trên đầu của đầu dò nội mạch, trong đó đầu dò Camino là
catheter. Các vi cảm biến được sử dụng nhiều một ví dụ (Hình 5). Áp lực được đo ở đầu dẹp
nhất để đo ALNS trong nhu mô não, thường của catheter sợi quang tại một màng dẻo. Ánh
được đặt ở vùng trán phải ở độ sâu khoảng sáng truyền qua sợi sợi quang phản chiếu trên
2cm. Tuy nhiên, tùy thuộc vào độ chênh áp đã một màng chuyển đổi, sự thay đổi ALNS sẽ
biết hoặc còn nghi ngờ trong khoang nội sọ, chuyển đến màng này và sự thay đổi cường
các vị trí có thể thay đổi. Nhóm thiết bị theo độ ánh sáng phản xạ sẽ được chuyển đổi sang
dõi ALNS xâm lấn trong nhu mô có thể chia giá trị áp lực. Đường kính bên ngoài của thiết
thành các thiết bị cảm biến sợi quang (fiber bị chỉ có 4FG (1,3 mm). Hệ thống không phụ
optic), cảm biến biến đổi áp điện (strain thuộc vào hệ thống chứa dịch, hoặc cảm biến
gauge), và cảm biến khí nén (pneumatic bên ngoài cần phải điều chỉnh độ cao theo
sensor). mức đầu BN. Ostrup (1987) và Crutchfield
(1990) báo cáo kết quả rất tốt nhưng chi phí
cao vẫn còn là một vấn đề. Có mối tương cảm biến như Codman MicroSensor (Codman,
quan chặt chẽ giữa phép đo ALNS bằng Johnson&Johnson, Raynham, Massachusetts),
catheter Camino và catheter não thất Rehau (Raumedic Neurovent-P, Munchberg,
(Gambardella, Avella và Tomasello, 1992). Bavaria) và Pressio thuộc về nhóm thiết bị
cảm biến biến đổi áp điện (strain-gauge).
Chúng có một đầu dò strain-gauge thu nhỏ
bọc silicon nằm ở một bên catheter gần đỉnh.
Khi cảm biến bị bẻ cong do ALNS sẽ làm thay
đổi điện trở và nó được ghi lại, chuyển đổi và
hiển thị ở dạng ALNS. Thiết bị này có thể sử
dụng để đo áp lực trong não thất, nhu mô,
dưới màng cứng hoặc ngoài màng cứng.

Hình 5. Catheter sợi quang. “nguồn Raboel,


2012, Critical Care Research and Practice”

Đầu dò Innerspace là loại tương tự như


cảm biến sợi quang nhưng sử dụng tần số
quang phổ. Marmarou đã báo cáo hai bài
thực nghiệm (Yoshihara, 1993) và lâm sàng
(Marmarou, 1994) về loại cảm biến này.
Việc đặt catheter nằm trong não ở độ sâu
Hình 6. Catheter cảm biến vi mạch. “nguồn
1-2cm là khá đơn giản. Nhưng hạn chế chính
Raboel, 2012, Critical Care Research and
của cảm biến này là không thể hiệu chỉnh lại
Practice”
và cần thay thế nếu theo dõi dài hơn 5 ngày vì
Một ví dụ về cảm biến vi mạch strain-
có thể bị lệch (drift). Hơn nữa, sợi quang dễ bị
gauge hiện nay là cảm biến Codman
hư hỏng do BN kích thích hoặc bị bẻ cong quá
MicroSensor. Nó gồm một cảm biến áp suất
mức, đây là 1 vấn đề thực tế và cũng là một
cứng thu nhỏ (Hình 6) được bọc trong hộp
trong những hạn chế của phương pháp này.
titan rất nhỏ (đường kính 1,2mm; 3,6FG) ở
• Catheter cảm biến biến đổi áp điện
đầu một ống nylon dẻo dài 100cm (đường
Loại thứ hai là hệ thống cáp thường có
chứa một vi đầu dò ở đầu một dây mềm. Các
kính 0,7mm; 2,1FG). Đầu dò chứa một vi thời gian trung bình là 3,8+1,6 ngày. Nó có độ
mạch silicon với cảm biến biến đổi áp điện. trung thực cao với đáp ứng tần số lớn hơn
Narayan ghi nhận thiết bị này có độ lệch 10.000 Hz nhờ tính chất đàn hồi của silicon,
trung bình <1 mmHg trong khoảng thời gian 9 kích thước chung nhỏ và độ xê dịch thể tích
ngày (Gopinath, 1993, 1994). Nhóm này cũng rất nhỏ khi chịu áp lực. Khi kết hợp với một
nghiên cứu đầu dò Codman trên 25 BN và so catheter não thất, hệ thống cho phép dẫn lưu
sánh với catheter não thất +cảm biến bên DNT cùng lúc với đo ALNS. Nó mềm và có thể
ngoài. Độ lệch cơ bản là thấp và không có xu luồn dưới da đầu để tránh bị vỡ. Kích thước
hướng đọc thấp hơn hay cao hơn (Gopinath, nhỏ gọn (đường kính ngoài của dây catheter
1995). Piper và Miller (1995) đánh giá phân là 0,7 mm và của đầu cảm biến là 1,2 mm) là 1
tích dạng sóng giữa cảm biến này và cảm biến lợi thế bổ sung đặc biệt đối với trẻ em.
của hệ thống đo bằng dịch, và cũng thấy Khi đặt trong cơ thể, thiết bị sợi quang và
không khác biệt đáng kể giữa hai đầu dò. Trên đầu dò vi cảm biến strain-gauge trong não
thực tế các cảm biến vi mạch có đáp ứng tần thất cung cấp những đặc điểm về áp lực và
số ưu việt hơn, mặc dù điều này có thể không dạng sóng rất giống nhau. Một lợi thế rất
quan trọng về mặt lâm sàng trong phân tích quan trọng của cảm biến strain-gauge là nó
dạng sóng. được đặt ở đầu catheter, không cần hệ thống
Crutchfield (1990) báo cáo các thiết bị dịch giúp tránh được tắc nghẽn do cục máu
này có độ chính xác là ±3 mmHg trong phạm đông, mảnh vỡ hoặc bóng khí, và vì cũng
vi 0-30 mmHg trong phòng thí nghiệm. Độ không cần phải rữa nên nguy cơ nhiễm trùng
lệch tối đa hàng ngày là ±2,5 mmHg với độ cũng thấp. Điều này làm cho nó có lợi thế hơn
lệch trung bình hàng ngày là ±0,6 mmHg và độ khi theo dõi ALNS kéo dài so với hệ thống
lệch trong khoảng thời gian 5 ngày là ±2,1 catheter chứa đầy dịch và bộ cảm biến bên
mmHg. Gray (1996) báo cáo các vi cảm biến ngoài với nhược điểm thường liên quan đến
strain gauge Codman là chính xác, với khác cảm biến sai vị trí so với đầu BN, artifact. Một
biệt trung bình -0,5 đến +2,6 mmHg giữa kết biến thể của một catheter não thất với cảm
quả đọc từ MicroSensor và đầu dò trong não biến áp lực nằm ở đầu catheter là Ventcontrol
thất. Nó ổn định và có độ lệch hàng ngày thay MTC (Piek và Raes, 1996).
đổi từ -0,13 đến +0,11 mmHg/ngày. Độ lệch Cả hai loại đầu dò trên đặt vào nhu mô
trung bình so với mức zero của MicroSensor não thông qua 1 vít rỗng 4 mm gắn vào hộp
đo ở áp suất không khí là 0,2±0,5 mmHg với sọ. Tỉ lệ nhiễm trùng và chảy máu khá thấp
nhưng những thiết bị này không cho phép dẫn 2.2.1. Nhiễm trùng
lưu DNT. Độ chính xác là tối ưu và đáng tin Xâm thực vi khuẩn (colonization) trên các
cậy, chỉ đứng thứ hai sau catheter não thất. thiết bị ALNS tăng đáng kể sau đặt 5 ngày. Súc
Các thiết bị này chỉ cần hiệu chỉnh một lần rữa catheter ALNS làm tăng đáng kể sự xâm
trước khi đưa vào và không phụ thuộc vào vị thực vi khuẩn. Tốc độ xâm thực vi khuẩn
trí của đầu BN. trung bình nội sọ là 5% đối với vị trí não thất
• Kĩ thuật bóng khí (air pouch technology) (Winfield, 1993), 5% dưới nhện (Chambers,
Kĩ thuật bóng khí đo ALNS bằng cảm biến 1990), 4% dưới màng cứng (North, 1986) và
khí nén Spiegelberg nhờ bơm căng 1 bóng 14% trong nhu mô (Artru, 1992). Mặc dù, các
nhỏ bao quanh đầu catheter 1 thể tích khí nghiên cứu này ghi nhận tăng xâm thực vi
(0,05-0,1 cc) để ghi nhận thay đổi áp lực và áp khuẩn ở tất cả thiết bị ALNS theo thời gian,
lực đè lên bóng chính là áp lực của mô xung nhưng nhiễm trùng nội sọ có ý nghĩa lâm sàng
quanh. Các catheter tự reset (về 0) theo giờ không phổ biến.
bằng cách xả và bơm lại bóng để duy trì 1 thể Nhiễm trùng có thể định nghĩa là: (1) cấy
tích khí không đổi. Tùy theo kĩ thuật, có thể DNT dương tính từ catheter não thất hoặc
theo dõi trong não thất, trong nhu mô, ngoài thắt lưng, (2) cấy DNT dương tính với tăng
màng cứng, dưới màng cứng hoặc khoang lympho bào (pleocytosis), glucose thấp hoặc
dưới nhện. protein cao, (3) cấy không dương tính nhưng
2.2. BIẾN CHỨNG tăng lympho bào hoặc chỉ có glucose thấp, (4)
Biến chứng của thiết bị theo dõi ALNS bao có triệu chứng lâm sàng như sốt hoặc thay đổi
gồm nhiễm trùng và xuất huyết, các biến tình trạng thần kinh và (5) 2 lần cấy dương
chứng khác bao gồm vỡ hoặc hỏng/trục trặc tính với vi sinh vật giống nhau. Tạp nhiễm
thiết bị, tắc nghẽn và khó đặt. Khó đánh giá tỉ (contamination) được định nghĩa là 1 lần cấy
lệ thực của các vấn đề này do sự thay đổi phân lập DNT với số lượng tế bào DNT bình
khác nhau giữa các định nghĩa sử dụng trong y thường và không có triệu chứng lâm sàng
văn khi báo cáo. hoặc nhuộm Gram âm tính với cấy dương
Yếu tố liên quan đến các biến chứng bao tính. Rất khó xác định tỉ lệ nhiễm trùng hệ
gồm: tuổi (> 44 tuổi), thời gian theo dõi kéo thần kinh trung ương từ các thiết bị theo dõi
dài (trung bình ≥14 ngày), sử dụng steroid, ALNS do những thay đổi trong định nghĩa
thời gian nằm viện kéo dài và theo dõi trên nhiễm trùng.
BN suy kiệt (Rosner, 1976).
Tỉ lệ nhiễm trùng chung bất kể định nghĩa 62 DMC, 5
não thất
dao động 0-27%, nhiều nghiên cứu trong số Anderson 80 catheters: 1 (1,6%) Không có
(2004) 18 (22,5%)
này có định nghĩa nhiễm trùng kém hoặc não thất, 18
Camino nhu
không có (Bảng 3).
mô, 44 (55%)
Bảng 3. Tỉ lệ nhiễm trùng của các thiết bị 2 vị trí
Park 770 não thất 51 (8,6%) Cấy DNT (+)
Nghiên Thiết bị Tỉ lệ nhiễm ĐN nhiễm (2004)
cứu trùng trùng
Zingale 15 catheter 8 (53%) Cấy DNT có tác • Tỉ lệ nhiễm trùng của catheter não thất
(1999) não thất nhân gây bệnh
hoặc shunt mới hoặc khác Xâm thực vi khuẩn catheter với nhiễm
ngoài
Martinez 108 catheter 9 (13,2%) Viêm não thất trùng ngược dòng sau đó là 1 biến chứng của
Manas Camino: 63 cấy (+) hoặc viêm
(2000) nhu mô, 28 không triệu màng não với catheter não thất, chúng bao gồm nhiều biến
DMC, 17 não chứng LS; 2 cấy hoặc
chứng từ nhiễm trùng da lành tính đến viêm
thất (2,9%) nhuộm gram
nhiễm trùng (+) não thất, viêm màng não, nhiễm trùng huyết
LS
Rebuck 215 Camino 16 (7,4%) Cấy DNT (+) gây tử vong.
(2000) nhu mô hoặc nhiễm và/hoặc sốt
não thất trùng: (>380C); BC⬆ Các hồi cứu về chủ đề này ghi nhận tỉ lệ
11,3% não (>50 BC đa
thất vs 3,7% nhân); protein nhiễm trùng liên quan đến catheter chiếm
nhu mô DNT⬆ và/hoặc khoảng 0-27%, tuy nhiên định nghĩa về nhiễm
⬇ (<15g/dl);
hoặc nhuộm trùng liên quan đến catheter rất khác nhau.
gram DNT có vi
khuẩn Phần lớn nghiên cứu sử dụng kết quả cấy DNT
Walter 160 catheter 48 cấy DLNT ngoài >2
(2000) não thất (+)/đa số ngày; cấy và (+) lấy từ DLNT hoặc chọc dò tủy sống (Beer,
(nhi) tạp nhiễm, nhuộm gram
7 nhiễm (+); không dùng
2008; Lozier, 2002).
trùng (5 dẫn KS; sốt (>380C) Zingale báo cáo 53% nhiễm trùng trên BN
lưu ngoài) tăng BC
Hader 160 dẫn lưu 48 cấy (+), 7 Sốt (>38,50C) và có shunt ngoài. Trong số những nghiên cứu có
(2000) ngoài (4%) nhiễm tăng BC ngoại
trùng, biên (>11 định nghĩa nhiễm trùng hệ thần kinh trung
27/48 tạp K/mm3) và thay
nhiễm đổi màu DNT ương rõ ràng, thì tỉ lệ chung của nhiễm trùng
Lyke 196 catheter 11 (5,6%) Nhuộm gram và
catheter não thất là 5,6-20,5%. Tỉ lệ nhiễm
(2001) não thất cấy (+), glucose
DNT⬇ (≤50 trùng catheter não thất có đường hầm
mg/dl); protein
DNT⬆ (≥50 khoảng 0-4%, mặc dù các nghiên cứu này
mg/dl) hoặc BC
đa nhân ≥10 không có định nghĩa tốt.
TB/mm3
Lang Catheter 0% Không dấu hiệu
Tuy nhiên, điều cần lưu ý là kết quả cấy
(2003) Spiegelberg: viêm màng não DNT dương tính có thể từ các nguồn khác như
25 nhu mô,
tạp nhiễm da trong quá trình lấy mẫu. Những nhiễm trùng. Tuy nhiên, cần có thêm các
yếu tố quyết định tỉ lệ nhiễm trùng cao hơn nghiên cứu tiền cứu ngẫu nhiên để có kết
bao gồm: thời gian DLNT kéo dài >5 ngày, luận cuối cùng là việc thay catheter thường
thường xuyên lấy mẫu DNT, xuất huyết não quy không làm giảm nguy cơ nhiễm trùng. Ở
thất hoặc XHDN, vỡ sọ kèm dò DNT và đặt đa số trung tâm trên BN có mở thông não
DLNT không vô khuẩn (Lozier, 2002; thất, yếu tố quan trọng để kiểm soát tạp
Hoefnagel, 2008). Yếu tố chính quyết định tỉ nhiễm DNT là thực hiện lấy mẫu DNT định kì
lệ nhiễm thấp hơn là tạo đường hầm dưới da (thường là 2-3 ngày) thông qua cổng catheter
(Beer, 2008). bằng cách sử dụng kĩ thuật vô khuẩn, cũng
Dasic kiểm soát chặt chẽ các yếu tố ảnh như tạo đường hầm dưới da đầu đưa
hưởng nêu trên và kết quả đã giảm đáng kể tỉ catheter xa khỏi lỗ khoan sọ. Việc đặt DLNT
lệ nhiễm trùng từ 27% xuống 12% trên 95/113 tại ICU hay phòng cấp cứu so với phòng mổ
BN đặt DLNT, bằng cách thực hiện thủ thuật nhằm giảm tỉ lệ tạp nhiễm phải dựa trên điều
trong môi trường vô khuẩn phòng mổ, sử kiện của từng bệnh viện. Những đơn vị có tỉ lệ
dụng kháng sinh dự phòng, tạo đường hầm nhiễm trùng bệnh viện thấp chấp nhận được
dưới da ≥10cm từ lỗ khoan sọ, tránh lấy mẫu sẽ có lợi khi đặt DLNT tại giường.
DNT thường xuyên (trừ khi có chỉ định) và Đối với vấn đề sử dụng kháng sinh dự
không thay đổi catheter (trừ khi có chỉ định). phòng trước mổ, Beer không ủng hộ điều này
Tse cũng tuân thủ nghiêm ngặt quy trình vì cho rằng sẽ làm tăng nguy cơ lây nhiễm các
vô khuẩn và cho thấy tỉ lệ nhiễm trùng thấp vi sinh vật nguy hiểm hơn cũng như tăng sự
trong hồi cứu lớn trên 328 BN với 368 DLNT. đề kháng kháng sinh về mặt lí thuyết.
Hơn 4 năm sau, tỉ lệ nhiễm trùng trung bình là Catheter ngâm kháng sinh là 1 lựa chọn khác,
2,98% và họ cũng thấy rằng không phải do cho thấy giảm tỉ lệ nhiễm trùng rất hiệu quả
thời gian DLNT, do mổ lại hay dùng urokinase (Abla, 2011; Harrop, 2010). Tuy nhiên, chúng
và cũng không phải do XHN trước mổ làm cũng có những nguy cơ tương tự liên quan
tăng nguy cơ nhiễm trùng. đến đề kháng kháng sinh (Beer, 2008; Dasic,
Holloway hồi cứu 584 BN CTSN có DLNT. 2006). Lựa chọn khác là sử dụng catheter
Tỉ lệ viêm não thất là 10,4%, và tỉ lệ nhiễm ngâm hạt nano bạc. Kĩ thuật này có đặc tính
trùng tăng lên hàng ngày sau 10 ngày đầu kháng khuẩn tốt trong ống nghiệm, nhưng
theo dõi. Tác giả cũng ghi nhận thay catheter chưa được kiểm tra kĩ trong cơ thể. Nghiên
mỗi 5 ngày để phòng ngừa không giảm tỉ lệ cứu pilot của Lackner trên 19 BN sử dụng
catheter ngâm hạt nano bạc và 20 BN nhóm mô nhưng không có bằng chứng nhiễm trùng
chứng với catheter não thất thông thường, lâm sàng. Thời gian lưu (>5 ngày) và vị trí đặt
kết quả cho thấy tỉ lệ viêm não thất ở nhóm catheter trong bệnh viện (ngoài phòng mổ) có
catheter ngâm hạt nano bạc (0 BN) thấp hơn mối tương quan với tỉ lệ nhiễm trùng cao hơn.
đáng kể so với nhóm chứng (5 BN). Kết quả Cần sử dụng kĩ thuật vô khuẩn nghiêm ngặt
khả quan tương tự cũng được Fichtner báo trong quá trình đặt (áo choàng, găng tay, khẩu
cáo trong nghiên cứu hồi cứu trên 164 BN, 90 trang) và khi thao tác trên thiết bị để tránh
BN sử dụng DLNT tiêu chuẩn và 74 BN với tạp nhiễm. Tác nhân gây bệnh thường gặp
DLNT ngâm bạc, ông ghi nhận giảm có ý nghĩa: nhất là Staphylococcus aureus và epidermis, E
kết quả cấy DNT (+), xâm thực vi khuẩn đầu coli, Klebsiella và Streptococcus. Lợi ích của
catheter và tăng bạch cầu đa nhân ở nhóm kháng sinh dự phòng vẫn không rõ.
DLNT ngâm bạc so với nhóm DLNT tiêu chuẩn Một nghiên cứu lớn khác trên 1.000 BN
(18,9% so với 33,7%, P =0,04). Hai nghiên cứu với 1.071 thiết bị Camino, khi hồi cứu trên
này tương đối nhỏ, do đó cần nghiên cứu lớn 574 đầu dò đã ghi nhận 8,5% cấy dương tính
với sức mạnh thống kê lớn hơn hoặc nhiều có vi khuẩn mọc, mặc dù 1 kết quả cấy (+) có
trung tâm hơn để đưa ra kết luận chắc chắn. thể do nhiễm bẩn da trong quá trình lấy mẫu
Yếu tố góp phần làm tăng tỉ lệ nhiễm (Gelabert-Gonzalez, 2006).
trùng khác là đặt catheter không chính xác Một số nghiên cứu cũng đánh giá kỹ các
hoặc catheter bị hỏng. Saladino hồi cứu 138 catheter MicroSensor Codman. Hong nghiên
BN báo cáo 12,3% catheter đặt sai trong nhu cứu trên 120 BN đặt MicroSensor Codman và
mô hoặc ngoài não thất. Điều này dẫn đến báo cáo không có chẩn đoán nhiễm trùng
phải mổ lại 1 số trường hợp, đây là 1 yếu tố trong dân số nghiên cứu, tuy nhiên 1 BN bị sốt
góp phần làm tăng tỉ lệ nhiễm trùng. Những và cấy vi khuẩn (+) từ đầu catheter nhưng
ca đặt sai này cũng có thể gây tổn thương các thấy vi khuẩn phát triển trong DNT. Một
cấu trúc não quan trọng ví dụ hạch nền, đồi nghiên cứu lớn của Koskinen và Olivecrona
thị, bao trong và thậm chí xuyên vào tầng não trên gần 1.000 Microsensor Codman báo cáo
thất 3. không có nhiễm trùng liên quan đến đặt
• Tỉ lệ nhiễm trùng của catheter vi cảm biến MicroSensor.
Tỉ lệ nhiễm trùng của các thiết bị nhu mô Đối với cảm biến Raumedic Neurovent-P,
dao động 0,3-3,7%. Jensen báo cáo 7% cấy Citerio nghiên cứu trên 99 bộ cảm biến/99 BN
đầu catheter dương tính từ các thiết bị nhu cũng không ghi nhận nhiễm trùng hệ thần
kinh trung ương. Cảm biến Spiegelberg cũng Trong các nghiên cứu gần đây, người ta
được Lang nghiên cứu và báo cáo không BN đã cố gắng đưa ra 1 phân loại về độ nặng của
nào có dấu hiệu lâm sàng viêm màng não. xuất huyết. Blaha phân loại xuất huyết thành
2.2.2. Xuất huyết 3 độ: (1) độ 1 là xuất huyết điểm nhỏ hoặc
Cấy bất cứ thiết bị nào vào trong não XHDN tại chỗ, (2) độ 2 là XHN, XHDN lan tỏa
cũng có nguy cơ chảy máu tiềm ẩn. Tuy nhiên, hoặc tụ máu ngoài trục mà không có suy giảm
xuất huyết thường không được báo cáo hoặc thần kinh mới cần mở sọ, (3) độ 3 là XHN,
có thể do chảy máu không có ý nghĩa lâm XHDN lan tỏa hoặc tụ máu ngoài trục với suy
sàng. giảm thần kinh mới cần phẫu thuật mở sọ.
Một phân tích gộp về "chảy máu sau mổ" Blaha báo cáo các thiết bị nhu mô có tỉ lệ xuất
từ sau năm 1970 báo cáo biến chứng xuất huyết chung là 9,2% (7,5% độ 1 và 2,2% độ 2),
huyết chiếm trung bình 5,7% trường hợp. Con còn Anderson báo cáo tỉ lệ xuất huyết của các
số này có sự khác biệt lớn trong tỉ lệ mắc, tùy thiết bị nhu mô là 6,4% (4,8% độ 1 và 1,6% độ
thuộc vào việc chụp CT thường quy sau thủ 2). Không có nghiên cứu nào báo cáo chảy
thuật. Xuất huyết được phát hiện nhiều hơn ở máu độ 3. Tuy nhiên, Anderson báo cáo có
BN có chụp CT scan (10,06%), so với người 17,6% xuất huyết đối với catheter não thất và
không chụp CT thường quy sau thủ thuật 1 ca chảy máu phải can thiệp phẫu thuật.
(1,53%). Phần lớn xuất huyết không quan Rối loạn đông máu (RLĐM) được xem là 1
trọng trên lâm sàng. Trong tổng số xuất yếu tố góp phần gây xuất huyết và thường
huyết, chỉ 0,61% có tầm quan trọng lâm sàng, cần quan tâm đặc biệt trong chấn thương cấp
nghĩa là gây suy giảm thần kinh, cần can thiệp tính và suy gan. Do đó, khuyến cáo là phải
phẫu thuật hoặc tử vong (Binz, 2009). điều chỉnh RLĐM trước khi đặt catheter ALNS.
Theo Paramore (1994) tỉ lệ xuất huyết Tuy nhiên, 1 nghiên cứu mới đây của Davis khi
của tất cả thiết bị ALNS là 1,4%. Chảy máu lớn đánh giá nguy cơ xuất huyết ở BN có INR 1,3-
cần mổ chiếm khoảng 0,5 % BN trong 1 1,6 báo cáo không tăng nguy cơ chảy máu và
nghiên cứu trên hơn 200 BN theo dõi ALNS. Tỉ do đó không có lợi nếu tiếp tục truyền huyết
lệ xuất huyết gây tử vong phụ thuộc vào loại tương tươi đông lạnh để điều chỉnh INR. Điều
cảm biến. 5% xuất huyết gây tử vong là do các chỉnh các yếu tố đông máu là vấn đề khó ở BN
thiết bị dưới màng cứng, 4% trong nhu mô và suy gan tối cấp. Những BN này có thể có ALNS
1,1% trong não thất (Bley, 1993). rất cao, nhưng 1 số bác sĩ không muốn đặt
catheter nhu mô vì sợ nguy cơ chảy máu và
kết quả là họ phải sử dụng thiết bị theo dõi ở Bảng 4. Tỉ lệ xuất huyết của các thiết bị
bề mặt nông ít tin cậy. Báo cáo gần đây cho Nghiên Thiết bị Tỉ lệ xuất huyết
cứu
thấy, ở những BN này, không chỉ catheter nhu Blei 272 catheters: 160 NMC: 3,8%; DMC:
(1993) (61%) NMC, 79 20%; nhu mô: 22%
mô an toàn mà catheter vi thẩm tích (30,2%) DMC, 23
(microdialysis) cũng như vậy. (8,8%) nhu mô
Yablon 46 catheters: 43 nhu 2/46 (3,4%) (máu tụ
• Tỉ lệ xuất huyết của catheter não thất (1993) mô, 3 não thất NMC)
Khanna 100 catheter não Không có
Một nghiên cứu trên 188 BN DLNT, BN (1995) thất
Shapiro 244 Camino nhu mô, 2/244 (0,8%) XHN (2
được chụp CT scan sau đặt, kết quả cho thấy (1996) 74 có kèm não thất BN suy gan)
chảy máu sau thủ thuật chiếm 41% trường Schurer 95 catheters: 73 nhu 4/95 (4,2%)
(1997) mô, 22 não thất
hợp, mặc dù chỉ có 10,6% chảy máu >15ml Guyot 536 catheters: 274 Não thất: 9/274
(1998) não thất, 229 Camino (3,28%); Camino:
hoặc thấy máu trong não thất. Một BN nhu mô, 33 2/262 (0,87%); 2 ca
Licox/Camino gây tử vong
(0,53%) phát triển máu tụ dưới màng cứng Khan 156 catheters: 104 Não thất: 1/104
cần mổ dẫn lưu (Gardner, 2009). (1998) não thất, 52 Camino (0,9%) XHNT; 3/156
nhu mô (1,9%) XHN: 2 não
• Tỉ lệ xuất huyết của catheter vi cảm biến thất, 1 nhu mô
Munch 136 Camino: 104 nhu 5,1% XHN
Một nghiên cứu lớn trên 1.000 BN/tổng số (1998) mô, 32 não thất
Rossi 542 catheter : 330 1 (0,2%)
1.071 thiết bị theo dõi Camino, chụp CT kiểm (1998) (57%) não thất, 248
(43%) DMC
tra trong 92,2% trường hợp, kết quả ghi nhận
Detry 12 Camino DMC Không
xuất huyết chiếm 2,5% trường hợp. Trong đó, (1999)
Holzschuh 51 nhu mô 11/51 (17%): 6 nhỏ,
6 ca (0,66%) xuất huyết có ý nghĩa lâm sàng (4 (2000) 5 >1cm
Martinez 108 Camino: 63 nhu 2/95 (2,1%) không
trong nhu mô và 2 ngoài màng cứng). Một Manas mô, 28 DMC, 17 não kèm RLĐM; 2/13
nghiên cứu khác trên 328 BN đặt catheter (2000) thất (15,3%) kèm RLĐM;
chung 3,7%
Camino báo cáo xuất huyết chiếm 1,1% Tofteng 10 vi thẩm tích và Không (không có CT)
(2002) Camino nhu mô
trường hợp (Bekar, 2009). Anderson 80 catheters: 18 Não thất: 3 (4,4%)
(2004) (22,5%) não thất, 18 G1, 8 (11,7%) G2, 1
Hong nghiên cứu trên 120 BN đặt nhu mô, 44 (55%) 2 vị (1,5%) G3; nhu mô:
trí 3 (4,8%) G1, 1
MicroSensor Codman báo cáo không có biến
(1,6%) G2
chứng xuất huyết sau thủ thuật (85% BN chụp Davis 157 nhu mô 3 (1,9%)
(2004)
lại CT sau đặt). Nghiên cứu lớn của Koskinen Tofteng 12 vi thẩm tích và Không
(2004) Camino nhu mô
và Olivecrona trên gần 1.000 Microsensor NMC: ngoài màng cứng, DMC: dưới màng cứng,
Codman báo cáo chỉ có 3 tai biến xuất huyết XHN: xuất huyết não, XHNT: xuất huyết não thất,
G1: độ 1 = điểm xuất huyết hoặc XHDN tại chỗ,
liên quan đến phẫu thuật, không BN nào
G2: độ 2 = xuất huyết rộng không suy giảm thần
trong số đó cần can thiệp phẫu thuật.
kinh và không cần can thiệp phẫu thuật, G3: độ 3 nhu mô Codman vỡ
= suy giảm thần kinh mới cần can thiệp phẫu Khan 156 : 104 não 4 (2,5%) lỗi 21 sai vị trí
(1998) thất, 52 hoặc lệch: (20,1%)/ tất
thuật.
Camino nhu 0,64% não cả là não thất
mô thất, 1,9%
Trong một nghiên cứu về cảm biến nhu mô
Raumedic Neurovent-P trên 99 BN, chỉ 2 BN bị Munch 136 Camino: 27 (26%) lỗi
(1998) 104 nhu mô, kĩ thuật, 7
xuất huyết nhỏ và không cần can thiệp 32 não thất vỡ, 16 sai vị
trí
(Citerio, 2008). Lang nghiên cứu trên cảm biến Banister 17 Camino 2 Camino
(2000) nhu mô, 17 hỏng, 1
Spiegelberg và ghi nhận không có bất kì tỉ lệ Codman nhu Codman
mô hỏng
xuất huyết nào trong số 87 BN (tất cả BN đều
Holzschuh 51 nhu mô 4 (6,3%) 9 (14,1%) đặt
được chụp CT scan sau đặt). (2000) hỏng cảm không đúng,
biến 8 (12,5%) sai
Bảng 5. Biến chứng catheter hỏng, sai chỗ, sút vị trí
Walter 160 dẫn lưu 20 (12,5%): 3
Nghiên Thiết bị Hỏng/RL Hỗn hợp (2000) ngoài sút, 3 dò
cứu chức năng DNT, 14 tắc
Clark 78 (55,7%) 10: 50% kĩ hoặc hẹp dẫn
(1989) DMC, 33 thuật hoặc lưu
(23,6%) vít không liên Lang Spiegelberg: 3/87(3,4%)
dưới nhện quan nhiễm (2003) 25 nhu mô, 62 lỗi đọc
trùng DMC, 5 não
Yablon 46: 43 nhu 7 (12%) vỡ, thất
(1993) mô, 3 não thất 5 (8,6%) lỗi
đọc
2.2.3. Biến chứng khác
Khanna 100 não thất Tắc 6%
(1995) Mối quan tâm khác khi đặt catheter đo
Pople 303: 286 8 hỏng 3 khó đặt
(1995) Camino nhu (2,6%), 3/8 (1%) ALNS là hỏng/trục trặc thiết bị, sai vị trí hoặc
mô, 7 Gaeltec, Camino gãy, 1 DMC
9 não thất 1 Gaeltec tắc/kẹt khó đặt và sút catheter. Catheter hỏng hoặc
hỏng
vỡ là vấn đề chính của các thiết bị hiện đại.
Shapiro 244 Camino 41 (7%) vỡ
(1996) nhu mô, 74 Khó đặt thường gặp nhất đối với catheter não
kèm não thất
Bavetta 101 Camino 23 lỗi kĩ thất vì não thất bị đẩy lệch sang 2 bên đường
(1997) thuật, 11 vỡ
sợi quang, 5 giữa hoặc hẹp não thất. Bảng 5 tóm tắt tỉ lệ
lạc chỗ
Jenson 98 Camino 12 (13%) lỗi
trục trặc, sai vị trí catheter, khó đặt và sút
(1997) nhu mô catheter.
Schurer 95: 73 Camino 24 (25,4%) 12 sút
(1997) nhu mô, 22 lỗi kĩ thuật (12,6%) Theo North (1986), dừng sớm theo dõi
não thất
Guyot 274 não thất, 4 (1,45%) 1 Camino ALNS xảy ra ở 5,5% trường hợp đặt catheter
(1998) 229 Camino hỏng nhu mô tạo u
nhu mô, 33 hạt dưới màng cứng, 20,3% trường hợp vít và
Licox/Camino (granuloma)
7,1% trường hợp catheter não thất. Chấm dứt
Fernandes 8 Camino nhu 1 Camino
(1998) mô, 8 Codman sút, 1 theo dõi sớm thường do tắc catheter mà
không thể thông bằng bơm nước muối. Rò ALNS chính xác. Bảo vệ và cố định catheter
đáng kể xảy ra trong 16% trường hợp vít sọ sau đặt và chăm sóc khi di chuyển BN sẽ tránh
Richmond, 2,7% trường hợp catheter dưới sút và vỡ catheter.
màng cứng và 2,5% trường hợp catheter não 2.2.4. Độ chính xác
thất. Sút catheter không khác nhau có ý nghĩa Một mối quan tâm lớn đối với bác sĩ lâm
thống kê giữa 3 phương pháp. sàng là độ chính xác của kĩ thuật theo dõi
Một nghiên cứu khác của Piek (1990) báo ALNS. Các bác sĩ lo ngại rằng ALNS thể bị đánh
cáo hỏng/rối loạn chức năng hoặc tắc nghẽn giá thấp hơn hoặc cao hơn và do đó có thể
chiếm 6,3% catheter não thất, 16% đối với vít dẫn đến điều trị không chính xác hoặc không
dưới nhện và 10,5% catheter dưới màng điều trị. Người sử dụng phải hiểu biết những
cứng. Khi đo mức ALNS >50 mmHg, sẽ bắt đầu hạn chế của thiết bị sử dụng (bao gồm sự
có 1 tỉ lệ tắc nghẽn và mất tín hiệu. Một phân chia khoang trong hộp sọ), độ lệch
nghiên cứu lớn trên 1.000 BN/1.071 catheter (drift) và mức đặt bộ chuyển đổi/cảm biến để
Camino báo cáo lỗi kĩ thuật chiếm 4,5% có được phép đo chính xác (level).
trường hợp, thường gặp nhất là các thiết bị Theo dõi ở bề mặt nông như catheter
sợi quang. Nghiên cứu tương tự của Piper ngoài màng cứng, dưới màng cứng và vít dưới
cũng thấy 10% bị lỗi cảm biến trên 50 thiết bị nhện cho thấy không chính xác. Người ta cho
Camino. Một nghiên cứu khác trên 328 BN sử rằng kết quả đo từ những thiết bị này không
dụng thiết bị Camino cũng ghi nhận lỗi kĩ đại diện cho các biến cố xảy ra sâu trong não.
thuật chiếm 3,14% (Bekar, 2009). Cảm biến Weinstabl báo cáo catheter ngoài màng cứng
Spiegelberg trong nghiên cứu của Lang cho Gaeltec (Dunvegan, Isle of Skye, Scotland) báo
thấy có 3 BN bị rò dẫn đến kết quả đo không giá trị ALNS cao hơn catheter dưới màng cứng
chính xác. Camino. Người ta cho rằng áp lực dưới màng
Tuy nhiên, có thể giải quyết các vấn đề về cứng sẽ gần với mức ALNS thực hơn. Phép đo
nhiễm trùng, xuất huyết, sai vị trí, vỡ và sút trong hệ thống kín dịch như vít dưới nhện bị
catheter bằng cách đào tạo thích hợp, thực thiếu chính xác là do rò rỉ nhỏ tại khóa van, vị
hành cẩn thận khi đặt và lưu các thiết bị này. trí vít không đúng (đầu vít phải đặt trong
Bám sát theo khuyến cáo của nhà sản xuất khoang dưới nhện) và các mảnh vụn trong
trong quá trình đặt sẽ hạn chế chấn thương đầu vít cản trở xung động dịch.
khi đặt và hư hỏng catheter, đảm bảo vị trí 2.2.5. Độ lệch (drift)
catheter thích hợp và do đó sẽ có phép đo
Tiêu chuẩn của kĩ thuật đo ALNS đã được Nghiên cứu thứ 2 của Morgalla đánh giá
Hội phát triển dụng cụ y tế Mỹ (Advancement độ lệch zero trên: 12 catheter Camino với 0,8
of Medical Instrumentation) thiết lập như sau: mmHg/24 giờ và 0,8 mmHg độ lệch trung bình
(1) phạm vi đo áp lực 0-100 mmHg, (2) độ hàng ngày; 7 Codman với 0,95 mmHg/24 giờ
chính xác ±2 mmHg trong phạm vi 0-20 và 0,2 mmHg độ lệch trung bình hàng ngày; 7
mmHg, (3) sai số tối đa 10% trong phạm vi 20- Gaeltec với 1,5 mmHg/24 giờ và 1 mmHg độ
100 mmHg. Độ lệch được định nghĩa là độ lệch trung bình hàng ngày; 5 Epidyn với 1,2
lệch so với zero (0) và lỗi đo do thay đổi về mmHg/24 giờ và 1,5 mmHg độ lệch trung bình
nhiệt độ. Bảng 6 trình bày chi tiết kĩ thuật của hàng ngày; 10 HanniSet với 0,2 mmHg/24 giờ
nhà sản xuất về độ chính xác. và 0,8 mmHg độ lệch trung bình hàng ngày; 9
Bảng 6. Chi tiết kĩ thuật độ lệch zero theo nhà MEDEX với 1,8 mmHg/24 giờ và 0,35 mmHg
sản xuất độ lệch trung bình hàng ngày; 7 catheter
Kĩ thuật Độ lệch zero Spiegelberg với 2,1 mmHg/24giờ và 0,7
Camino: Integra ±2 mmHg/24 giờ đầu và mmHg độ lệch trung bình hàng ngày. Bảng 7
<1 mmHg/ngày trong 4
ngày tiếp tóm tắt độ lệch zero trong các nghiên cứu.
Codman: 3 mmHg/ngày Bảng 7 cho thấy dữ liệu khác nhau đáng
Johnson&Johnson
Neurovent: 1-2 mmHg trên 5 ngày kể trong các nghiên cứu bao gồm cách báo
Raumedic Systems cáo dữ liệu. Độ lệch tích lũy (cumulative drift)
Ventrix: Integra ±2 mmHg/24 giờ đầu và
<1 mmHg/ngày trong 4 có thể chấp nhận trong những tình huống này
ngày tiếp khi theo dõi BN vượt quá khuyến cáo của nhà

Morgalla nghiên cứu 5 loại kĩ thuật về độ sản xuất (ví dụ >5 ngày). Vị trí đặt catheter có

lệch nhiệt độ bao gồm: Camino (7) 0,2 thể ảnh hưởng đến độ tin cậy của dữ liệu.

mmHg/0C; Codman (7) <0,15 mmHg/0C; Catheter Camino nhu mô thường được nhắc

Gaeltec (5) 0,18 mmHg/0C; Epidyn (5) <0,15 đến là đặt trong khoang dưới màng cứng,

mmHg/0C; Rehau Neurovent (7) <0,15 nhưng khuyến cáo của nhà sản xuất catheter

mmHg/0C. Các catheter được nghiên cứu độ này là đặt trong nhu mô chứ không phải

lệch từ 20-450C. Nhiệt độ lâm sàng được xem khoang dưới màng cứng. Các nhà sản xuất

là 35-410C. Có thể bị lỗi nhiệt độ nếu zero không có thiết bị nào đặt trong khoang dưới

catheter tại nhiệt độ phòng mát (<20 giây) và màng cứng sau phẫu thuật mở sọ, nhưng đây

sau đó chèn vào não ấm. không phải là những gì được các nghiên cứu
này đề cập đến.
Bảng 7. Tóm tắt nghiên cứu về độ lệch zero 12-7 mmHg TB
=0,5 mmHg/ngày
Nghiên Thiết bị (n)
cứu Camino Codman Catheter Theo Martinez Manas, catheter não thất
(năm) não thất
Narayan Nhu mô (10), Não thất phải được hiệu chỉnh (calibrate) mỗi 8 giờ vì
(1987) não thất (10), (18), vít
DMC (2); D= (+)2 dưới nhện chúng có độ lệch trung bình 5 mmHg/mỗi 8
mmHg/8h (TB (4); (+) 17
(+)0,75 mmHg) mmHg (TB giờ, tối đa là 11 mmHg. Các thiết bị sợi quang
(+)11
có độ lệch hàng ngày trung bình 0,6-2 mmHg,
mmHg
Gambarde- Nhu mô (209); Não thất do đó lỗi tích lũy ALNS đáng kể sẽ xảy ra sau
lla D= (+)15,81 (18); D=
(1992) ±4,93 mmHg (+) 17,71 ± 3-4 ngày theo dõi (Crutchfield, 1990). Cảm
4,86
mmHg biến Pressio tương đối mới và vẫn chưa được
Weinstabl Nhu mô (10) (10
(1992) Gaeltec); 7
kiểm tra kĩ trong cơ thể. Chỉ có 1 nghiên cứu
Camino ≥ ±3 lâm sàng hiện nay đó là của Lescot, đánh giá
mmHg; 6 Gaeltec
≤ ±3; 4 Gaeltec ≥ độ chính xác của 15 cảm biến Pressio, 15 vi
±3 mmHg
Gopinath 6 (in vitro) ±1 cảm biến Codman và so sánh với DLNT. Hai
(1993) mmHg;
12/thỏ: 8 loại cảm biến giống nhau và khác nhau trung
catheters có
bình ±7mmHg so với giá trị ALNS của DLNT.
độ lệch sau 9
ngày; 4 = (+)1 Khi giải thích giá trị ALNS thu được, các
mmHg
Shapiro Nhu mô (244), bác sĩ phải xem xét vị trí đặt so với tổn
(1996) não thất (74); D=
(+)8-10 mmHg thương (ALNS có thể cao hơn nếu càng nằm
Schurer Nhu mô (73),
(1997) não thất (22); D=
gần tổn thương), tình trạng lâm sàng và vị trí
(-)0,21 đặt thích hợp. Phải thay đổi vị trí catheter sợi
mmHg/24h
Munch Nhu mô (104), quang ngay sau khi đặt vào để giảm kẹt mô
(1998) não thất (32); D=
(-)2,7± 17,3 não trong đầu catheter, đè màng đo và cho
mmHg/24h
Signorini Nhu mô (3); D= (- Nhu mô (6); giá trị ALNS sai (cao hơn). Cần nhớ rằng số
(1998) )1/1, (-) 3/2 D= (-) 9/1, (-
liệu công bố khác nhau cũng có thể hoặc
)3/1, (-)1/2,
(+)1/1, (+)2/1 không thể phản ánh đúng sự khác nhau trong
Piper Nhu mô (34); D=
(2001) (-)13-22 mmHg cải tiến của các nhà sản xuất.
(TB = (-) 0,67 - (-)
1)/50%, 50% có
D> ±3 mmHg 2.2.6. Lấy mức cân bằng (level)
Poco Nhu mô (163); Brisnaire và Robinson thực hiện nghiên
(2002) D= 0/14, lệch (-)
80/126, lệch (+) cứu lấy mức cân bằng (level), các tác giả thấy
32/126, D= (-)
rằng nếu kiểm tra mức đầu dò/buồng dẫn lưu 2.2.7. Theo dõi ALNS ở trẻ em
bằng mắt thường sẽ có sai số trung bình là 4,4 Mặc dù, hiện có có nhiều kĩ thuật theo
cm (3,2 mmHg). Lỗi này sẽ giảm đi khi sử dụng dõi và thiết bị, nhưng có rất ít nghiên cứu ở
kĩ thuật Carpenter lấy mức cân bằng (trung trẻ em. Jensen nghiên cứu 98 BN trẻ em CTSN
bình là 1,3 cmH2O, 0,95 mmHg) và còn tốt có theo dõi catheter sợi quang đặt trong nhu
hơn nếu sử dụng laser để lấy mức cân bằng mô trán và không dùng kháng sinh dự phòng.
(trung bình là 0,9 cmH2O, 0,7 mmHg). Họ cũng Tất cả đầu catheter được nuôi cấy sau khi rút.
thấy là 5/33 người làm thủ thuật không biết Thời gian theo dõi ALNS thông thường 3-15
cách tham chiếu lỗ Monro thích hợp. 9/33 ngày, ngoại trừ 1 BN theo dõi 40 ngày. Không
người làm thủ thuật không biết làm thế nào có biến chứng xảy ra trong quá trình đặt
để điều chỉnh đúng buồng dẫn lưu. Có nhiều catheter. Cấy đầu catheter dương tính với
năm kinh nghiệm trong đơn vị ICU (>5 năm) Staphylococcus epidermidis ở 7% trẻ, nhưng
và tham gia đào tạo (50% thời gian) sẽ thay không phát triển thành triệu chứng lâm sàng
đổi được độ chính xác. nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương. Vị trí
Rice cũng so sánh các phương pháp xác catheter hoặc thời gian theo dõi ALNS không
định mức catheter khi theo dõi áp lực xâm lấn ảnh hưởng đến tỉ lệ cấy đầu catheter dương
và báo cáo lỗi trung bình của phương pháp tính. Có 13% catheter bị lỗi/hỏng là catheter
không dùng dụng cụ hỗ trợ (nhìn bằng mắt) là sợi quang.
±2 mmHg (ĐLC= ±1,2 mmHg) so với dùng Pople nghiên cứu 303 trẻ em theo dõi
thước Carpenter là ±1 mmHg (ĐLC= ±1 ALNS và ghi nhận tỉ lệ nhiễm trùng là 0,3 %,
mmHg) và thước laser là ± 0,1 mmHg (SD = ± XHN là 0,3% (hậu quả do số lượng tiểu cầu
0,2 mmHg). Xác định mức catheter và đặt vị thấp), di chuyển catheter chiếm 1% và lỗi kĩ
trí buồng dẫn lưu thiếu chính xác, cộng thêm thuật 2,6%.
độ lệch của đầu dò có thể dẫn đến 1 sai số Gambardella báo cáo catheter sợi quang
tích lũy khoảng vài mmHg. Chìa khóa để sử và catheter não thất có cùng độ chính xác và
dụng chính xác kĩ thuật này là cần có giao độ tin cậy khi sử dụng ở trẻ em. Catheter sợi
thức làm thủ thuật thích hợp (bao gồm sử quang có mối tương quan rất chặt với
dụng thiết bị lấy mức đúng), tham chiếu lỗ catheter não thất, nhưng giá trị áp lực luôn
Monro chuẩn và các buổi học thường xuyên. thấp hơn 3±2 mmHg so với BN dùng hệ thống
dịch kín với đầu dò áp lực thông thường, đặc
biệt là những BN bệnh nặng.
2.3. CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐO ALNS KHÔNG lệch nhỏ chỉ áp dụng cho trị số ALNS
XÂM LẤN <30mmHg. Nếu trị số ALNS cao hơn, độ lệch
Ý tưởng về 1 phương pháp đo ALNS tăng lên sẽ làm phép đo ALNS này không
không xâm lấn khá hấp dẫn, vì có thể tránh chính xác. Khi PI bằng 1 có nghĩa là sai số từ
được các biến chứng liên quan đến phương vài mmHg đến 40 mmHg. Giá trị sai số lớn
pháp đo xâm lấn là xuất huyết và nhiễm như vậy rõ ràng không thể chấp nhận để sử
trùng. Có nhiều kĩ thuật đo khác nhau, nhưng dụng trên lâm sàng.
dưới đây là những kĩ thuật đo phổ biến nhất. Behrens cũng mô tả 1 phạm vi rộng như
2.3.1. Siêu âm Doppler xuyên sọ (transcranial vậy trong thực nghiệm của mình, trong đó 10
doppler ultrasonography - TCD) BN dãn não thất vô căn áp lực bình thường có
TCD đo vận tốc dòng máu trong các động tăng hoặc giảm ALNS giả tạo (artifact) do bơm
mạch sàn sọ, thường dùng để phát hiện mạch dịch vào cột sống thắt lưng. ALNS tính từ PI
máu bị hẹp. Các nghiên cứu báo cáo có những đem so sánh với ALNS đo bằng MicroSensor
thay đổi đặc trưng của dạng sóng lưu lượng Codman. Họ báo cáo ALNS =20 mmHg tính từ
khi ALNS tăng (Hassler, 1988; Aaslid, 1982). PI có khoảng tin cậy 95% từ -3,8 đến 43,8
TCD sử dụng siêu âm để đo vận tốc dòng máu mmHg. Brandi cũng kết luận rằng ALNS tính
trong động mạch não giữa. Chênh lệch vận từ PI quá thiếu chắc chắn. Nghiên cứu của ông
tốc lưu lượng giữa huyết áp tâm thu và tâm trên 45 BN CTSN nặng dùng an thần và theo
trương chia cho vận tốc lưu lượng trung bình dõi bằng đầu dò Raumedic và kiểm tra TCD
được gọi là chỉ số xung (pulsatility index-PI): hàng ngày. ALNS tính theo PI so sánh với ALNS
xâm lấn. Mối tương quan tốt nhất theo cách
tính của Bellner có sự khác biệt trung bình là -
3,2 ± 12,6 mmHg (Bellner, 2004).
Ngoài thiếu chính xác, kĩ thuật này đòi hỏi
PI có mối tương quan với đo ALNS xâm
người làm phải được đào tạo và thực hành
lấn (Bellner, 2004; Voulgaris, 2005; Moreno,
thường xuyên (Shen, 1999), còn 1 vấn đề nữa
2000) và hệ số tương quan khoảng 0,439-
là có sự khác biệt về kết quả đo trên cùng 1
0,938. Bellner báo cáo nó có mối tương quan
người quan sát (intraobserver-) và giữa nhiều
rất tốt với kết quả đo ALNS xâm lấn, độ lệch
người quan sát (interobserver variation) như
trung bình là ±4,2 mmHg. Độ lệch này nhỏ và
đã nói trên (Baumgartner, 1994; Meada,
chấp nhận được trên lâm sàng. Tuy nhiên, độ
1990; McMahon, 2007). Hơn nữa, kĩ thuật này
không áp dụng được ở 10-15% BN do siêu âm thời điểm thực nghiệm. Có 1 mối tương quan
không thể xuyên hộp sọ (còn gọi là cửa sổ giữa các giá trị ALNS đo bằng TMD và xâm lấn.
xương) (Tsivgoulis, 2009). Tuy nhiên, sự khác biệt kết quả đo giữa các cá
2.3.2. Đo độ rung màng nhĩ (tympanic nhân là rất lớn mà giới hạn tiên đoán của
membrane displacement - TMD). phân tích hồi quy lớn hơn nhiều so với phạm
Có thể sử dụng 1 phương pháp khác để vi ALNS bình thường, do đó phương pháp này
đo gián tiếp ALNS là đo chuyển động của bị loại khỏi thực hành lâm sàng (Shimbles,
màng nhĩ. DNT giao tiếp với bể ngoại dịch qua 2005).
ống bể ngoại dịch (perilymphatic duct), tăng
2.3.3. Đo đường kính bao thần kinh thị (optic
ALNS sẽ làm tăng áp lực lên cửa sổ bầu dục.
nerve sheath diameter-ONSD).
Áp lực này sau đó sẽ truyền đến màng nhĩ qua
Thần kinh thị là 1 phần của hệ thần kinh
1 xương nhỏ của tai giữa (xương bàn đạp).
trung ương, do đó được bao bọc bởi màng
Đặt 1 máy đo thính lực trở kháng trong ống
cứng. Giữa bao và chất trắng là khoang dưới
tai ngoài rồi phát và nhận sóng âm bật ra từ
nhện nhỏ chỉ 0,1-0,2mm và thông với khoang
màng nhĩ sẽ tính được rung động của màng.
dưới nhện quanh não. Khi tăng ALNS thì bao
Nếu ALNS ảnh hưởng trên sự rung động này
dày lên, có thể thấy được thay đổi đường kính
hằng định thì có thể suy ra được ALNS. Xung
bao thần kinh qua siêu âm xuyên nhãn cầu.
động từ phản xạ cơ bàn đạp sẽ gây chuyển
Một số nghiên cứu báo cáo có mối tương
động màng nhĩ và có mối tương quan với
quan giữa đường kính bao thần kinh thị và
ALNS (Lang, 2003; Reid, 1990). Tuy nhiên, kĩ
ALNS xâm lấn, hệ số tương quan r = 0,59-0,73
thuật này không phải là không có sai số.
(Geeraerts, 2007; Kimberly, 2008; Soldatos,
Shimbles nghiên cứu trên 148 BN có bệnh lí
2008; Rajajee, 2011). Kĩ thuật này rẻ và hiệu
nội sọ (dãn não thất và tăng ALNS lành tính)
quả, chỉ mất khoảng 5 phút kiểm tra cho mỗi
và 77 người khỏe mạnh nhóm chứng. Kĩ thuật
BN. Tuy nhiên, cũng như các kĩ thuật siêu âm
này áp dụng thành công trên 70% người khỏe
khác, cần người làm được đào tạo và cũng có
mạnh, nhưng chỉ 40% trong số BN. Nghiên
các biến intraobserver và interobserver dù các
cứu ghi nhận tỉ lệ thành công thấp chủ yếu do
biến này nhỏ. Các nghiên cứu gần đây ghi
ống ngoại dịch bị giảm thông theo tuổi, đặc
nhận biến số intraobserver trung bình là ±0,1-
biệt khi >40 tuổi.
0,2 mm và biến interobserver trung bình là
Hơn nữa, 1 phân nhóm nhỏ trong số
±0,2-0,3 mm (Soldatos, 2008; Ballantyne,
những BN này được theo dõi ALNS xâm lấn tại
2002; Baule, 2012). Hơn nữa, một số tình mạch, tĩnh mạch và dòng chảy DNT trong và
trạng có thể ảnh hưởng đến đường kính thần ngoài sọ trong chu kì tim. Có thể thấy được sự
kinh thị ví dụ khối u, viêm, bệnh cường giáp thay đổi thể tích nhỏ (khoảng 1ml) trong chu
và sarcoidosis (Soldatos, 2008, 2009). BN tăng kì tim và tính toán tỉ lệ lưu lượng thể tích DNT
nhãn áp và đục thủy tinh thể đã bị loại ra khỏi và máu xuyên sọ/thay đổi áp lực ước lượng từ
dân số nghiên cứu nêu trên, do đó không chắc vận tốc DNT. Chỉ số elastance được tính là tỉ lệ
kĩ thuật này có thể áp dụng cho BN có các thay đổi áp lực/thay đổi thể tích và có mối
bệnh phổ biến này hay không. Tổn thương tương quan tốt với giá trị ALNS xâm lấn (R2=
hốc mắt hoặc thần kinh thị chiếm khoảng 10% 0,965, p<0,005). Tuy nhiên, Marshall cho rằng
trường hợp chấn thương đầu và có thể không cần thận trọng khi chọn slide hình ảnh cũng
thực hiện được phép đo ONSD. như mạch máu đại diện. Hơn nữa, kĩ thuật
Hiện nay, kĩ thuật này có vẻ không đủ này rất nhạy với thay đổi nhịp tim trong tuần
chính xác để thay thế phương pháp đo ALNS hoàn. Hơn nữa còn có sự khác biệt về kết quả
xâm lấn, nhưng có thể phân biệt giữa ALNS giữa những lần đo lặp lại ở 1 số cá nhân, đòi
bình thường và tăng (>20mmHg). Một nghiên hỏi phải giải thích thận trọng kết quả khi thu
cứu hồi cứu đề xuất giá trị ngưỡng cắt 5- thập dữ liệu từ các cá nhân này (Alperin,
5,9mm là dự đoán tăng ALNS. Độ nhạy 74- 2000). Nhưng nếu chúng ta chấp nhận những
95% và độ đặc hiệu 79-100% (Soldatos, 2009). thiếu sót này, thì kĩ thuật này có thể có vai trò
Một nghiên cứu khác của Rajajee cho thấy kết như 1 phương tiện tầm soát nhằm xác định
quả tốt hơn với độ nhạy 96% và độ đặc hiệu BN nào cần theo dõi ALNS xâm lấn sau CTSN
94% trong dự đoán tăng ALNS (>20 mmHg) trung bình. Nó cũng có thể có vai trò trong
với giá trị ngưỡng cắt là 4,8 mm. Điều này có chẩn đoán và đánh giá 1 số bệnh mãn tính có
nghĩa là có thể sử dụng kĩ thuật này như 1 khả năng có tăng ALNS như dãn não thất, giả
phương pháp sàng lọc để phát hiện tăng ALNS u não (pseudotumor cerebri), tổn thương
trong bối cảnh không có kĩ thuật theo dõi choán chỗ nội sọ…
ALNS xâm lấn. Phân tích ALNS từ CT scan sọ não cũng
2.3.4. Cộng hưởng từ và chụp cắt lớp vi tính được nghiên cứu, phần lớn nghiên cứu này
Năm 2000, Alperin nghiên cứu khả năng tiến hành vào cuối những năm 1980 và đầu
sử dụng MRI như phương pháp đo ALNS 1990 nhưng không tìm thấy mối tương quan
không xâm lấn. Sử dụng MRI cảm ứng chuyển giữa ALNS và đặc điểm trên CT scan. Năm
động (motion-sensitive MRI) để đo xung động 2003, Eide báo cáo có sự tương quan có ý
nghĩa giữa kích thước thực của não thất trên trong tình huống khẩn cấp với tăng ALNS đột
CT sọ não và giá trị ALNS xâm lấn trên 184 BN. ngột như chấn thương (Selhorst, 1985).
Đây là 1 mối tương quan tuyến tính, nhưng 2.3.6. Đo độ bão hòa oxy tĩnh mạch cảnh
không dự đoán được giữa ALNS cơ bản và đặc (jugular venous oxygen saturation)
điểm CT scan ban đầu (Miller, 2004). Hiler Theo dõi độ bão hòa oxy tĩnh mạch cảnh
nghiên cứu trên 126 BN CTSN nặng cũng có (SjvO2) có thể có giá trị ở BN tăng ALNS. Cần
kết luận tương tự là không thể dự đoán được phải đặt ngược dòng catheter có đầu đo oxy
giá trị ALNS trung bình trong 24 giờ đầu khi vào xoang cảnh để thực hiện phép đo này,
dựa trên phân loại CT Marshall. Nhìn chung, mặc dù 1 số nghiên cứu ban đầu cho thấy có
hiện không còn sử dụng phương pháp ước thể sử dụng quang phổ cận hồng ngoại cho
lượng ALNS dựa trên CT sọ não. cách đo không xâm lấn này (McCormick,
2.3.5. Soi đáy mắt và phù gai thị 1991). Khi lưu lượng máu não giảm, SjvO2
Có thể thấy phù gai thị hoặc phù đĩa thị cũng sẽ giảm theo kiểu phi tuyến tính. SjvO2
do tăng ALNS bằng cách soi đáy mắt và phân sẽ giảm xuống nếu ALNS tăng, gây giảm
loại theo Frisen thành 5 loại tùy theo dấu hiệu nghiêm trọng áp lực tưới máu não và lưu
rối loạn vận chuyển sợi trục. Một nghiên cứu lượng máu não do tăng trích xuất oxy não
sử dụng hình ảnh đáy mắt cho thấy bảng phân (oxygen extraction). Tương tự, nếu tốc độ
loại này có độ đặc hiệu dao động 88-96% và chuyển hóa oxy não (CMRO2) tăng lên và
độ nhạy khoảng 93-100% (Frisen, 1982). Tuy LLMN vẫn không đổi thì SjvO2 sẽ giảm. Ngược
nhiên, ngay cả khi thường xuyên soi đáy mắt lại, khi tăng ALNS liên quan đến sung huyết
tầm soát trong trường hợp nghi ngờ tăng não (cerebral hyperemia), SjvO2 có thể tăng
ALNS, thì bảng phân loại lại không được áp (Robertson, 1995).
dụng hoặc không được chấp nhận rộng rãi. 2.3.7. Điện thế gợi thị giác (visual evoked
Bản thân kĩ thuật này là 1 hạn chế, nó phụ response hay visual evoked potential)
thuộc vào khả năng của người khám cũng như Vork báo cáo có mối tương quan tốt giữa
môi trường xung quanh, người khám cần một tăng ALNS và thay đổi độ trễ sóng N2 trên
tầm nhìn tốt khi quan sát đĩa thị để có thể điện thế gợi thị giác. Sóng N2 bình thường là
phát hiện phù gai thị. Hơn nữa, quá trình 70ms và được xem là hiện tượng vỏ não. Do
khám phù đĩa thị trong tăng ALNS tốn nhiều đó, nó có thể nhạy với tổn thương vỏ não có
thời gian, kĩ thuật này không thể áp dụng thể hồi phục như thiếu máu cục bộ hoặc tăng
ALNS.
2.4. CHỌN KĨ THUẬT NÀO? rãi, làm cho việc áp dụng theo dõi ALNS xâm
Kĩ thuật theo dõi ALNS nhiều và đa dạng. lấn tại các bệnh viện rất khác nhau. Người ta
Tuy nhiên, trước khi chọn kĩ thuật để áp dụng sợ rằng nếu để phương pháp theo dõi ALNS
trong điều trị tích cực, cần xem xét một số xâm lấn được sử dụng quá tự do có thể sẽ
yếu tố: độ chính xác của phép đo, chi phí của dẫn đến những kết cục lâm sàng xấu không
thiết bị cũng như biến chứng khả dĩ, vấn đề về cần thiết.
trang thiết bị và kĩ thuật cá nhân. Tỉ lệ nhiễm trùng sau đặt DLNT tương đối
Nói đến độ chính xác của phép đo ALNS, cao lên đến 27% (Beer, 2008). Một số lớn BN
thì DLNT được xem là tiêu chuẩn vàng, tiếp này sẽ phát triển thành nhiễm trùng toàn
đến là vi cảm biến (microtransducer) (Bratton, thân hoặc nhiễm trùng não với nguy cơ tiếp
2007; Lang, 2003). Các kĩ thuật không xâm lấn theo là tăng tỉ lệ biến chứng và tử vong, ví dụ
có thiếu sót lớn nhất trong vấn đề này. Hiện dãn não thất, nhồi máu não, động kinh hoặc
nay, không có kĩ thuật không xâm lấn nào nói liệt thần kinh sọ (Hansen và Knudsen, 2004).
trên là chính xác, đủ để sử dụng trong môi Dasic báo cáo cách duy nhất để giảm thiểu
trường điều trị tích cực. Tuy nhiên, các kĩ nguy cơ nhiễm trùng sau đặt là phải thực hiện
thuật không xâm lấn có lợi thế là tránh được đúng nguyên tắc vô khuẩn. Đáng lưu ý là BN
hoàn toàn các biến chứng xuất huyết và đặt microtransducer thường có tỉ lệ nhiễm
nhiễm trùng như ở kĩ thuật xâm lấn. trùng sau mổ thấp hơn BN đặt DLNT, dao
Xuất huyết gây ảnh hưởng tiêu cực trên động 0-8,5% (Gelabert Gonzalez, 2006; Bekar,
lâm sàng là những trường hợp gây suy giảm 2009; Hong, 2006; Koskinen và Olivecrona,
thần kinh hoặc phải can thiệp phẫu thuật 2005; Lang, 2003).
chiếm khoảng 0,5% trường hợp DLNT và có tỉ Tỉ lệ DLNT mất chức năng là 6,3%
lệ tương tự đối với microtransducer. Tỉ lệ xuất (Bratton, 2007). Người ta nghĩ rằng kĩ thuật
huyết lâm sàng là 0,5% liên quan đến các kĩ này tương đối đơn giản sẽ đáng tin cậy hơn
thuật xâm lấn có vẻ không nhiều, nhưng cần loại microtransducer phức tạp. Tuy nhiên,
nhớ rằng điều này có nghĩa là trong 200 BN sẽ microtransducer chỉ hư hỏng trong 3,14-5%
có 1 BN có kết cục lâm sàng xấu hơn chỉ vì sử trường hợp (Gelabert Gonzalez, 2006; Bekar,
dụng kĩ thuật đặt catheter ALNS xâm lấn. Đây 2009; Lang, 2003). Trong phần lớn trường
là vấn đề gây tranh cãi mạnh mẽ, đặc biệt hợp, tỉ lệ DLNT bị hỏng tương đối cao là do
trên thực tế không có hướng dẫn (guidelines) DLNT đặt vào trong nhu mô não hoặc bị tắc
về theo dõi ALNS nào được chấp nhận rộng
bởi các mảnh mô não và cục máu đông (North MicroSensor Camino có độ lệch lớn (Gelabert
và Reilly, 1986; Drake, 1993; Bratton, 2007). Gonzalez, 2006; Piper, 2001). Về mặt kinh tế
Đối với các kĩ thuật không xâm lấn, không thì microtransducer đắt tiền hơn nhưng
thể áp dụng các phương pháp đo này trong dường như có tỉ lệ nhiễm trùng sau đặt thấp
thực hành lâm sang ở 1 số BN. Không thể sử hơn. Mặt khác, DLNT có những lợi thế là có
dụng Doppler xuyên sọ để đo ALNS ở 10-15% thể dẫn lưu DNT và bơm thuốc vào não thất,
BN (Tsivgoulis, 2009). Trong phép đo độ rung nhưng dẫn lưu DNT không được sử dụng
màng nhĩ con số này là 60% (Shimbles, 2005) thường quy trong thực hành lâm sàng để
và đo đường kính bao thần kinh thị là 10% giảm ALNS, vì không cho thấy tưới máu não
(Geeraerts, 2007; Soldatos, 2008). tốt hơn và cũng không cải thiện kết cục lâm
Chi phí cho mỗi lần đặt DLNT và sàng BN (Kerr, 2001). Bảng 8 tóm tắt kết quả
microtransducer đắt tiền hơn. Ngoài ra, còn của các loại kĩ thuật khác nhau.
thêm chi phí thiết bị đi kèm để duy trì và thay Trong số các kĩ thuật xâm lấn nói riêng,
thế. Các kĩ thuật không xâm lấn chỉ phải tốn cũng không dễ quyết định chọn hệ thống đo
chi phí cho 1 lần mua thiết bị, sau đó có thể ALNS nào là tốt nhất, vì số lượng lớn các biến
sử dụng nhiều lần mà không tốn thêm ngoài số bao gồm chi phí. Nếu cần xâm nhập vào
tiền bảo trì. não thất thì chọn catheter não thất và cảm
Tóm lại, kinh tế và biến chứng tốt thì các biến ngoài sẽ hiệu quả cho cả chi phí và độ tin
kĩ thuật không xâm lấn được ưa chuộng. cậy (nó là tiêu chuẩn vàng). Tuy nhiên, đa số
Nhưng có một lượng lớn BN không thể áp BN hiện nay đang theo dõi ALNS là do CTSN và
dụng kĩ thuật không xâm lấn và quan trọng thường có não thất hẹp, do đó sẽ khó luồn
hơn là phép đo này có độ chính xác thấp, làm catheter vào, đặc biệt đối với phẫu thuật viên
cho các kĩ thuật không xâm lấn ít được ưu thần kinh trẻ. Trong bối cảnh CTSN, kĩ thuật
chuộng. Các kĩ thuật không xâm lấn hiện nay ưa chuộng là catheter cảm biến sợi quang
đơn giản là không đủ chính xác để thay thế (Camino hay InnerSpace) hoặc vi cảm biến
các kĩ thuật xâm lấn truyền thống. Điều này biến đổi (Codman) đặt vào nhu mô não và có
khiến cho lựa chọn tốt nhất chỉ gồm catheter thể thực hiện tại giường. Lựa chọn giữa các
DLNT và microtransducer. Nói về tính chính loại đầu dò chủ yếu là về chi phí thay đổi từ
xác thì không có khác biệt giữa 2 kĩ thuật này, nước này sang nước khác và là quyết định
mặc dù thực tế đa số microtransducer không mang tính cá nhân. Camino và InnerSpace có
có thể tái hiệu chỉnh. Hơn nữa, cần nhớ là các chi phí tốn kém hơn Codman.
Pickard đánh giá các đầu dò Camin, hưởng từ (MRI) và không gây nguy hiểm cho
Codman và InnerSpace trong một nghiên cứu BN. Cảm biến Camino và Pressio chứa các
đánh giá shunt/dãn não thất (Czosnyka, thành phần sắt từ tính và do đó BN đặt thiết
Czosnyka và Pickard, 1996). Họ đo độ lệch bị này sẽ không thể chụp MRI (Stendel, 2003;
tạm thời và lâu dài, đặc điểm đáp ứng tần số, Shellock, 2002).
độ chính xác của phép đo áp lực tĩnh, áp lực Nói chung, kết quả từ những nghiên cứu
mạch và tốc độ quay. Tất cả 3 đầu dò đều đạt trên kết luận rằng đo ALNS bằng
nhưng đầu dò Codman đạt điểm tốt nhất. microtransducer chính xác như các catheter
Bảng 8. So sánh các kĩ thuật DLNT. Tuy nhiên, vi cảm biến có điểm bất lợi
Kĩ Chính Nhiễm Xuất Chi Hỗn hợp chung là không thể hiệu chỉnh (calibrate) sau
thuật xác trùng huyết phí
DLNT Cao Thấp - Thấp Tương Có thể dẫn lưu khi đã đặt, mặc dù có ngoại lệ là catheter
ngoài Trung đối DNT và bơm
bình thấp kháng sinh Spiegelberg tự hiệu chỉnh mỗi giờ. Mặt khác,
Đầu dò Cao Thấp Thấp Cao Vài đầu dò có DLNT có những lợi thế riêng, có thể hiệu chỉnh
vi cảm độ lệch zero
biến cao lại bất cứ lúc nào chỉ đơn giản bằng cách cài
SA Thấp Không Không Thấp Tỉ lệ đo không
xuyên thành công đặt lại bộ cảm biến với áp suất không khí tại
sọ cao
Đo độ Thấp Không Không Thấp Tỉ lệ đo không mức điểm tham chiếu 0 (lỗ Monro/Tragus). Số
rung thành công
lượng DNT dẫn lưu phụ thuộc vào chênh áp
màng cao
nhĩ bên trong khoang DNT và kháng lực của hệ
Đo ĐK Thấp Không Không Thấp Có tiềm năng
dây TK dùng để tầm thống dẫn lưu DNT, kháng lực được định
thị giác soát tăng ALNS
MRI/CT Thấp Không Không Thấp MRI là phương nghĩa là chênh áp mà DNT phải vượt qua để đi
pháp tiềm
đến buồng chứa. Điều này có nghĩa là vị trí
năng để ước
lượng ALNS của buồng chứa so với khoang DNT là yếu tố
không xâm lấn
Soi Thấp Không Không Thấp Có thể dùng quan trọng đối với số lượng DNT dẫn lưu. Khi
đồng sàng lọc tăng
tử ALNS, nhưng đo ALNS, nó cũng vô cùng quan trọng vì hệ
không phải
trong trường thống khóa 3 van phải đóng dẫn lưu thì đo
hợp tăng ALNS
ALNS mới đúng, nếu không nó sẽ là áp lực dẫn
đột ngột như
chấn thương lưu. Các vấn đề thường phát sinh là do cài đặt

Một điều đáng lưu ý nữa là cảm biến hệ thống không chính xác, chủ yếu dẫn đến 1

Neurovent-P, cảm biến Spiegelberg và chênh áp sai và vấn đề tiếp theo là dẫn lưu

MicroSensor Codman tương thích với cộng DNT không hiệu quả, đo ALNS sai do sử dụng
khóa 3 đầu không đúng.
Thiếu hiệu chỉnh liên tục có thể làm các Các microtransducer hiện nay có nhiều ưu
cảm biến báo cáo trị số ALNS không chính xác. điểm hơn, có thể thay thế catheter não thất
Sự khác nhau giữa giá trị ALNS ban đầu khi với cảm biến ngoài. Tuy nhiên, lựa chọn kĩ
cảm biến được hiệu chỉnh (0mmHg) và giá trị thuật nào là quyết định của từng cá nhân bác
ALNS đo được khi cảm biến được lấy ra gọi là sĩ lâm sàng và tùy vào điều kiện cụ thể của
“độ lệch zero”. Nếu có sự khác nhau lớn giữa từng bệnh viện.
2 phép đo này sẽ chỉ ra rằng ALNS đo được Theo dõi ALNS đã phát triển thành 1 công
khi đặt thiết bị vào BN không phải là giá trị cụ hữu ích, đặc biệt ở BN CTSN. Nếu quyết
ALNS thực tại thời điểm đó. Vì vậy, áp lực tích định theo dõi ALNS, phải đạt được độ tin cậy
lũy khác nhau có thể có ý nghĩa quan trọng của dữ liệu thu được. Vì vậy, chúng tôi cho
trong điều trị và tiên lượng của BN. rằng các kĩ thuật không xâm lấn rất thiếu
Tóm lại, nên sử dụng cảm biến vi mạch chính xác so với phương pháp xâm lấn. Hơn
thay cho hệ thống kín dịch. Nhược điểm chính nữa, không thể đo ALNS không xâm lấn trên 1
của cảm biến vi mạch là không thể hiệu chỉnh số lớn BN do các thay đổi giải phẫu, do đó kĩ
trong cơ thể, nhưng sự thiếu hụt này dường thuật không xâm lấn hiện tại không thể thay
như ít quan trọng trong thực hành lâm sàng. thế các kĩ thuật xâm lấn.
Theo dõi ALNS là an toàn, tỉ lệ biến chứng
tương đối thấp và đã cho thấy có thể cải thiện
Bài viết này nhằm tìm câu trả lời cho 2
kết cục BN nhờ giúp bác sĩ lâm sàng có thêm 1
câu hỏi chính: (1) Cung cấp cái nhìn tổng quan
phương tiện đánh giá BN và đánh giá hiệu quả
về ưu và nhược điểm của các phương pháp
của biện pháp điều trị. Đào tạo thích hợp cho
theo dõi ALNS hiện đang được sử dụng nhiều
các bác sĩ lâm sàng, dù là phẫu thuật viên thần
nhất. (2) Đánh giá xem kĩ thuật không xâm lấn
kinh hay không thì cũng đều giảm thiểu biến
có thể thay thế các kĩ thuật xâm lấn trong môi
chứng và tạo thuận lợi cho việc thu được
trường điều trị tích cực hay không?
thông tin chính xác. Cần nhớ điểm mạnh và
Để trả lời câu hỏi đầu tiên, có thể kết luận
hạn chế của từng hệ thống khi lựa chọn vị trí
rằng cả catheter não thất và microtransducer
đặt catheter (nhu mô, não thất hoặc theo dõi
là những công nghệ tốt nhất để theo dõi ALNS
bề mặt), kĩ thuật (dùng hệ thống dịch kín so
và là "tiêu chuẩn vàng" trong theo dõi ALNS.
với kĩ thuật hiện đại) và cũng như chi phí.
Cả hai đều chính xác nhưng có nguy cơ biến
Theo dõi ALNS sẽ giúp chăm sóc và điều trị BN
chứng là xuất huyết và nhiễm trùng sau đặt.
tổn thương não tốt hơn.
9. Leonardo RC et al. (2008). Management
of Intracranial Hypertension, Neurol Clin,
26: pp. 521–541.
10. Hemphill JC. et al. (2015). Guidelines for
the Management of Spontaneous
1. Andrea L. and David K. (2011). Intracerebral Hemorrhage, Stroke,
Intracranial pressure: why we monitor it, 46:000-000.
how to monitor it, what to do with the 11. Martin Smith. (2008). Monitoring
number and what’s the future? Intensive Intracranial Pressure in Traumatic Brain
care and resuscitation, Volume 2011, Injury, Anesth Analg, 106: pp. 240–248.
Article ID 0952-7907, 7 pages. 12. Raboel et al. (2012). Intracranial Pressure
2. Bekar A. et al (2008). Risk factors and Monitoring: Invasive versus Non-Invasive
complications of intracranial pressure Methods - A Review. Critical Care
monitoring with a fiberoptic device, Research and Practice. Volume 2012,
Journal of Clinical Neuroscience, 16: pp. Article ID 950393, 14 pages.
236–240. 13. Ristic A. et al. (2015). Current
3. Berlin T. et al. (2015). Comparison of neuromonitoring techniques in critical
parenchymal and ventricular intracranial care, Journal of Neuroanaesthesiology
pressure readings utilizing a novel multi- and Critical Care, Vol. 2 (Issue 2): pp. 97-
parameter intracranial access system, 103.
SpringerPlus, 4: pp. 10. 14. Society of Clinical care medicine and
4. Bidur Baral et al. (2007). Intracranial World federation of Pediatric intensive
pressure monitoring: Concepts in and critical care societies. (2003).
evaluation and measurement. Pak J Med Intracranial pressure monitoring
Sci. Vol. 23 (No.5): 798-804. technology, Pediatr Crit Care Med, Vol. 4,
5. Brian North. (1997). Intracranial Pressure No. 3 (Suppl): pp. 28-30.
Monitoring, Head Injury. Edited by Peter 15. Steiner LA. and Andrews P. (2006).
Reilly and Ross Bullock. Chapman & Hall, Monitoring the injured brain: ICP and
London. ISBN 0412585405. CBF, British Journal of Anaesthesia, 97
6. Jun Zhong et al. (2003). Advances in ICP (1): pp. 26–38.
monitoring techniques. Neurological 16. Thomas J. and Michel T. (2009).
Research. Volume 25: 339-351. Management of Intracranial Pressure,
7. Karen March. (2005). Intracranial Current Neurology and Neuroscience
Pressure Monitoring. Why Monitor? Reports, 9: pp. 477–485.
AACN Clinical Issues, Volume 16, Number
4: pp. 456–475.
8. Laurence T. (2002). Raised Intracranial
Pressure, J Neurol Neurosurg Psychiatry,
73 (Suppl I): pp. 23–27.
điều trị giảm ALNS. Cần theo dõi ALNS liên tục

Tăng áp lực nội sọ (ALNS) có thể gặp để đánh giá hiệu quả các biện pháp điều trị,

trong nhiều bệnh lí khác nhau như chấn cũng như đánh giá tiến triển tổn thương não

thương sọ não (CTSN) (Saul, 1982), dãn não (Lane, 2000).

thất (Hakim, 1976), u não (Shapiro, 1975), Mặc dù, một số nhà nghiên cứu còn nghi

bệnh não gan (Lidofsky, 1992) và phù não ngờ hiệu quả của phương pháp theo dõi ALNS

(Bingaman, 1995). Tăng ALNS kháng trị có thể xâm lấn trong cải thiện kết cục bệnh nhân

dẫn đến tử vong, tổn thương thần kinh nặng (Cremer, 2005; Dang, 2015), nhưng hiện có

hoặc gây giảm áp lực tưới máu não dẫn đến nhiều nghiên cứu hồi cứu và ngân hàng dữ

thiếu máu não cục bộ, hoặc chèn ép gây thoát liệu ủng hộ kĩ thuật này (Becker, 1977;

vị thân não hay các cấu trúc quan trọng khác Bowers, 1980; Alali, 2015; Dawes, 2015).

(Miller, 1977). Điều tối quan trọng là cần phát Mục tiêu theo dõi ALNS là đảm bảo duy

hiện nhanh chóng để can thiệp thích hợp và trì áp lực tưới máu não tối ưu. Theo dõi ALNS

kịp thời. cũng là nền tảng cho điều trị can thiệp nội

Tăng ALNS kháng trị là 1 “biến cố cuối” khoa hoặc phẫu thuật trong những trường

thường gặp nhất dẫn đến tử vong ở bệnh hợp tăng ALNS, thông qua sử dụng thuốc như

nhân phẫu thuật thần kinh (Miller, 1981). Có natriclorua 3%, mannitol hoặc lợi tiểu, mở

mối liên hệ giữa độ nặng của tăng ALNS và kết thông não thất, dẫn lưu dịch não tủy (DNT);

cục xấu sau CTSN nặng. Kết cục có xu hướng gây mê pentobarbital hoặc phẫu thuật giải áp

tốt hơn ở bệnh nhân có ALNS bình thường, trong trường hợp tăng ALNS kháng với điều

còn BN tăng ALNS nhiều khả năng có kết cục trị bảo tồn.

không thuận lợi (Marshall, 1979). Tăng ALNS Có thể chấm dứt theo dõi ALNS khi ALNS

phối hợp với tỉ lệ tử vong khoảng 20% duy trì ở mức bình thường trong vòng 48-72

(Fakhry, 2004). giờ sau khi ngưng các biện pháp điều trị hoặc

Do đó, phát hiện sớm tăng ALNS hết sức nếu tình trạng thần kinh của bệnh nhân cải

quan trọng và rõ ràng là phải theo dõi ALNS thiện ở mức có thể thực hiện theo y lệnh.

thì mới có thể thực hiện các phương pháp


Hiện nay, catheter đặt trong não thất và Hiện nay, catheter Camino là thiết bị cảm
cảm biến vi mạch (microtransducer bao gồm biến sợi quang phổ biến nhất, mặc dù có độ
cảm biến sợi quang và cảm biến biến đổi- lệch tương đối lớn nhưng rẻ hơn và có sẳn
strain gauge) là 2 loại thiết bị có độ chính xác trên thị trường so với cảm biến strain gauge
cao nhất trong theo dõi ALNS. Catheter não của Codman có tỉ lệ nhiễm trùng thấp hơn.
thất có lợi thế là có thể dẫn lưu DNT và bơm Theo dõi ALNS sẽ dễ dàng hơn vì có thể tiến
thuốc vào não thất. Tuy nhiên, một số nghiên hành đặt catheter ngay tại giường để theo
cứu trước đây cho thấy dẫn lưu DNT không dõi ALNS. Quyết định vị trí đặt tùy thuộc vào
được sử dụng thường quy để giảm ALNS và tổn thương và nhận định của người thực
cũng không thấy giúp tưới máu não tốt hơn, hiện (phẫu thuật viên thần kinh hoặc bác sĩ
cũng như không cải thiện kết cục lâm sàng gây mê hồi sức). Thường cũng bao gồm đặt
(Raboel, 2012). catheter đo HA động mạch xâm lấn và
Hơn nữa, cảm biến vi mạch hiện đang catheter tĩnh mạch trung tâm để đo áp lực
dần thay thế hệ thống đo bằng dịch (catheter tĩnh mạch trung tâm.
não thất). Nhược điểm chính của cảm biến vi Bài viết tóm tắt đặc điểm của thiết bị
mạch là không thể hiệu chỉnh trong cơ thể, cảm biến sợi quang phổ biến và hiện có trên
nhưng sự thiếu hụt này dường như ít quan thị trường, giới thiệu kĩ thuật đặt catheter
trọng trong thực hành lâm sàng. theo dõi ALNS trong nhu mô não tại giường
Mặc khác, dạng thương mại của catheter đã áp dụng tại khoa Gây mê hồi sức, bệnh
não thất thường không có sẵn tại Việt Nam. viện Nhân Dân 115 từ năm 2008 và hiện đã
Đối với 2 loại thiết bị cảm biến vi mạch còn lại, trở thành một thủ thuật thường quy cho BN
cũng không có nhiều nghiên cứu trong nước phẫu thuật thần kinh tại bệnh viện của
về lĩnh vực này, mặc dù kết quả bước đầu của chúng tôi.
các nghiên cứu cho thấy việc theo dõi ALNS
trong nhu mô não cho phép tối ưu hóa điều
trị thuốc (Nguyễn Ngọc Anh, 2011), giúp chọn 2.1. CẢM BIẾN ÁP LỰC SỢI QUANG

lựa phương pháp can thiệp (nội khoa hay Thiết bị cảm biến áp lực sợi quang bao

phẫu thuật) kịp thời và cải thiện kết quả điều gồm 2 loại “điều biến cường độ” (Integra

trị ở BN CTSN nặng, đột quỵ thiếu máu và Camino; Integra Inc, Plainsboro, New Jersey)

XHN tự phát (Nguyễn Sĩ Bảo, 2008, 2015). và “giao thoa” (Integra Ventrix).
quang và thay đổi cường độ ánh sáng phản xạ
của sợi này hoặc nối 1 sợi khác song song với
sợi đầu tiên. Các nghiên cứu ban đầu đã sử
dụng các cấu hình tương tự như trên. Tuy
nhiên, thay vì sử dụng 1 sợi quang đơn,
nghiên cứu sử dụng 1 bó sợi quang và các
thành phần không phải sợi quang để dẫn sóng
do các hạn chế tại khớp nối ánh sáng ở thời
Hình 1. Cấu hình cảm biến điều biến cường điểm đó (Lindstrom, 1970). (2) Đặt 2 sợi
độ. (A) Đặt 1 sợi quang trước 1 gương phản quang đối diện nhau tại 1 khoảng cách xác
xạ có thể di chuyển. Cường độ phản xạ sẽ định (Hình 1B). Cách đo này sẽ đo sự thay đổi
giảm khi khoảng cách d giữa sợi quang và khoảng cách giữa 2 sợi và do đó sẽ đo được
gương tăng lên. (B) Đặt 2 sợi quang đặt ở 1 thay đổi cường độ dẫn truyền. Cấu hình khác
khoảng cách d xác định. Cường độ dẫn truyền là sử dụng ≥2 sợi quang nối với nguồn ánh
giảm khi khoảng cách d tăng. (C) Đầu vào ánh sáng có thể bù đắp cho sự thay đổi cường độ
sáng của sợi quang được nối với 2 sợi quang. nguồn sáng hoặc bị mất đi trong sợi quang
Nếu khoảng cách d1 và d2 giữa trục của sợi (Hình 1C). (3) Sử dụng 1 sợi quang bẻ cong
quang đầu vào và trục tương ứng của 2 sợi vòng rộng (macrobending) (Hình 2A) hoặc nhỏ
quang đầu ra tăng thì cường độ dẫn truyền (microbending) (Hình 2B). Tác động này cũng
giảm. (nguồn Roriz P, 2013, Journal of dẫn đến mất ánh sáng và làm giảm cường độ
Biomedical Optics) ánh sáng đầu ra (Fields, 1980).
Cảm biến điều biến cường độ (intensity
modulated) được giới thiệu vào đầu những
năm 1960 (Polanyi, 1962; Singh, 1970).
Nguyên tắc hoạt động dựa trên sự thay đổi
cường độ hoặc biên độ ánh sáng. Có 1 số cấu
hình đã được mô tả (Silvestri, 2011; Roriz,
2012): (1) Đặt 1 sợi quang phía trước 1 gương
phản xạ và di chuyển được (Hình 1A). Sợi này
dẫn ánh sáng đến gương. Đo sự thay đổi Hình 2. Cấu hình macrobend và microbend.
khoảng cách từ gương ban đầu đến đầu sợi (A) Cấu hình macrobend điển hình (vòng lặp
hình số 8). Biến thể 2 đầu sợi quang kéo dài phân giải và độ nhạy sáng cao, nhưng chi phí
được chuyển thành 1 biến thể có bán kính cao và tương đối phức tạp (Yu, 2002).
cong 2 vòng gây hiệu ứng macrobending mất
ánh sáng. (B) Cấu hình microbend. Sợi quang
rò điện là đặc điểm của sóng vô tuyến
microbend uốn cong, có thể tạo sức căng
hoặc lực ép dọc theo chiều dài sợi quang.
(nguồn Roriz P, 2013, Journal of Biomedical
Optics)
Cảm biến giao thoa (interferometry) cũng
có nhiều cấu hình (ví dụ giao thoa Sagnac, Hình 3. Catheter sợi quang Camino (hình
Michelson, Mach-Zehnder) nhưng giao thoa dưới) với cảm biến giao thoa Fabry-Perot
Fabry-Perot (Fabry và Perot, 1898) được áp (hình trên). (nguồn Roriz P., 2013, Journal of
dụng nhiều nhất trong các cảm biến xâm lấn Biomedical Optics)
tối thiểu. Cảm biến giao thoa Fabry-Perot
2.2. ĐÁNH GIÁ BỆNH NHÂN TĂNG ÁP LỰC
được giới thiệu vào đầu những năm 1980 và
NỘI SỌ
đã giải quyết được nhiều nhược điểm của các
2.2.1. Thăm khám lâm sàng
cảm biến điều biến cường độ. Thay vì đo sự
Thăm khám lâm sàng là công cụ quan
thay đổi cường độ ánh sáng, các cảm biến này
trọng nhất để chẩn đoán nguy cơ tăng ALNS
đo sự khác nhau trong các chùm ánh sáng.
và theo dõi tiến triển của nó (Suarez, 2004).
Cấu hình phổ biến nhất bao gồm 1 cảm biến
Trong thời hiện đại, mặc dù các xét nghiệm
kích thước nhỏ gắn ở đầu sợi quang. Cảm
hình ảnh không xâm lấn ít có giá trị trong chẩn
biến này là 1 khoang quang học có 2 bề mặt
đoán ban đầu cho tăng ALNS. Tuy nhiên, quan
phản xạ song song, cho phép có nhiều phản
sát lâm sàng không bị mất tầm quan trọng khi
xạ (Hình 3). Một trong 2 bề mặt phản xạ là 1
theo dõi liên tục tình trạng bệnh nhân, do đó
màng chắn, dưới tác động của phép đo nó
nên thăm khám và đánh giá bệnh nhân
thay đổi độ sâu của khoang quang học (bao
thường xuyên, bao gồm:
gồm khoảng cách giữa 2 gương), sau đó sẽ
- Đau đầu, buồn nôn và nôn ói
chuyển các tín hiệu này đến bộ tách sóng
- Mức độ tỉnh táo hay ý thức (điểm Glasgow)
quang. So với phương pháp điều biến cường
độ, giao thoa Fabry-Perot có khả năng đạt độ
- Hiểu ngôn ngữ, lặp đi lặp lại, trôi chảy, phát Trong bối cảnh xuất huyết dưới nhện, nó phát
âm triển nhanh hơn rất nhiều khoảng từ 2-8 giờ.
- Phản xạ đồng tử (cần lưu ý đồng tử không Khi soi đáy mắt có thể phát hiện lồi sợi thần
đối xứng hoặc dãn đồng tử 1 bên >2mm) kinh ở rìa đĩa, sung huyết đĩa và dãn các mao
- Vận động nhãn cầu và thị trường ở tất cả mạch đĩa thị (Hedges, 1975). Đĩa thị bị nhô lên
góc phần tư (nếu bệnh nhân không thể làm với mờ 1 phần hoặc hoàn toàn bờ đĩa thị
theo y lệnh, chụp kiểm tra hình ảnh theo dõi, (Van Stavern, 2007). Có thể đánh giá bằng
chớp mắt với đe dọa trực quan hoặc nghiệm cách đo khoảng cách từ phần cao nhất của đĩa
pháp búp bê, đặc biệt chú ý liệt dây VI) đến nền (diốp: D). 3-D tương đương với chiều
- Soi đáy mắt (hiện vẫn là 1 tiêu chuẩn đánh cao khoảng 1 mm.
giá tăng ALNS) Có thể xuất huyết trên hoặc gần đĩa thị,
- Dấu hiệu sinh tồn (đặc biệt lưu ý nếu không biểu hiện như hình ngọn lửa hoặc hình lưỡi
có tam chứng Cushing: ức chế hô hấp, tăng liềm. Có thể thấy những đường đồng tâm
huyết áp, nhịp chậm) quanh nền đĩa thị phù. Không thấy tĩnh mạch
- Phản xạ ho hoặc nôn và đáp ứng với kích đập tự phát (spontaneous venous pulsation)
thích đau (cần thực hiện thận trọng, vì chúng mà có thể thấy ở đa số mắt bình thường. Có
có thể gây tăng ALNS và có thể kéo dài) thể loại trừ phù gai thị nếu có tĩnh mạch đập.
2.2.2. Soi đáy mắt 2.2.3. Chẩn đoán hình ảnh
Trong khám soi đáy mắt, quan sát cẩn Phương thức nhanh và hiệu quả để đánh
thận thần kinh thị có thể hữu ích trong đánh giá tăng ALNS và bệnh lí liên quan là chụp CT
giá ALNS (Hedges, 1975). Thần kinh thị được scan đầu không cản quang, kết quả gợi ý tăng
bao quanh bởi khoang dưới nhện và có cùng ALNS bao gồm:
sự thay đổi áp lực như khoang nội sọ. Áp lực - Tụ máu nội sọ/vỡ xương sọ
tác động lên thần kinh thị khi nó đi ra khỏi - Tổn thương choán chỗ
vòm sọ ức chế dẫn truyền ngược chiều trong - Dãn não thất tắc nghẽn
sợi trục, dẫn đến ứ máu sợi trục ở đầu dây - Phù não (khu trú hoặc lan tỏa)
thần kinh. Nó dẫn đến những thay đổi mạch - Lệch đường giữa
máu thứ phát và phù nề với biểu hiện như - Xóa các bể DNT bình thường, bể nền, mất
phù đĩa thị còn gọi là phù gai thị (Tso, 1977). phân biệt chất trắng-chất xám và mất các
Phù gai thị hầu như luôn bị 2 bên và hồi (gyrus) và rãnh não bình thường
thường phát triển 1-5 ngày sau tăng ALNS. (Spelle, 2001).
MRI tốn kém và mất thời gian, không - Bệnh nhân chưa tỉnh có nguy cơ tăng ALNS
được xem là chỉ định chẩn đoán đầu tiên đang được gây mê toàn diện cho 1 phẫu thuật
trong bối cảnh cấp tính. Nhiều bệnh nhân ngoài thần kinh (ví dụ phẫu thuật đoạn chi
chụp MRI vì những lí do khác (bao gồm đột cứu mạng) mà không thể thăm khám lâm
quỵ, suy gan, viêm màng não, viêm não màng sàng.
não và bệnh não sau hồi sức) sau khi thấy có - Bệnh nhân xuất huyết não không có chỉ định
tăng ALNS. MRI fat­suppression có thể đo phẫu thuật nhưng được đặt nội khí mà không
đường kính bao thần kinh thị (Geeraerts, thể thăm khám lâm sàng.
2008). MRI cũng rất hữu ích trong bối cảnh - Bệnh nhân CTSN trung bình bị dập não có
tăng ALNS nguyên phát (Friedman, 2002; nguy cơ tiến triển (phải thận trọng hết sức
Brodsky, 1998). trong đánh giá lâm sàng đối với các tổn
thương ở hố sau, vì nằm gần thân não có thể
dẫn đến thoát vị nguy hiểm và chèn ép thân
não mà thay đổi ALNS rất ít).
Theo dõi ALNS chu phẫu có thể chỉ định
3.1. CHỈ ĐỊNH VÀ CHỐNG CHỈ ĐỊNH ĐẶT
cho những bệnh nhân vừa trải qua phẫu thuật
CATHETER THEO DÕI ALNS
cắt u hoặc dị dạng động tĩnh mạch có nguy cơ
3.3.1. Chỉ định
phù não mà không có khả năng thực hiện
Tham khảo thêm sinh lí bệnh tăng ALNS
theo yêu cầu thăm khám thần kinh lâm sàng.
và chỉ định theo dõi ALNS trong bài “Áp lực
nội sọ trong thực hành lâm sàng”. 3.3.2. Chống chỉ định
Chỉ định phổ biến nhất để theo dõi ALNS Đặt catheter theo dõi ALNS không có
xâm lấn là CTSN kín (Bratton, 2007). Theo chống chỉ định tuyệt đối, vì nó là 1 thủ thuật
hướng dẫn điều trị CTSN nặng của Hội Chấn có nguy cơ tương đối thấp. Tuy nhiên, cần
thương não Mỹ (BTF), nên đặt catheter theo đánh giá lâm sàng trước khi đặt, đặc biệt ở
dõi ALNS cho những bệnh nhân hôn mê bệnh nhân có tiền sử rối loạn đông máu. Bệnh
Glasgow <8 (sau hồi sức) và sau hóa giải thuốc nhân giảm tiểu cầu (đếm tiểu cầu <10.000/µl),
dãn cơ hay thuốc an thần đã sử dụng trong tiền sử rối loạn chức năng tiểu cầu (ức chế do
quá trình đặt nội khí quản. Chỉ định theo dõi thuốc kháng kết tập tiểu cầu như
ALNS khác bao gồm: aspirin/clopidogrel hoặc bệnh não tăng urê
máu), thời gian prothrombin >13 giây hoặc
INR >1,3 có nguy cơ cao xuất huyết thứ phát - Catheter sợi quang
sau theo dõi ALNS. - Băng dán nhỏ (Tegaderm) để dán trên vít
3.3.3. Tư vấn trước thủ thuật sau điều chỉnh- zero để nó không di chuyển
Giải thích cho bệnh nhân/gia đình về lợi trong quá trình thao tác.
ích, chi phí và các biến chứng của thủ thuật.
Cần có sự đồng ý của bệnh nhân hoặc các
thành viên trong gia đình bằng văn bản.
3.3.4. Chuẩn bị dụng cụ
Dụng cụ đặt catheter trong nhu mô não
bao gồm:
- Găng tay vô khuẩn/mask/áo choàng
- Gây tê tại chỗ (thường là lidocain 1% với Hình 4. Bộ kit catheter ALNS Camino. (nguồn
epinephrin) Integra Corp, 2010)
- Dung dịch chlorhexidin hoặc betadin 3.3.5. Chuẩn bị bệnh nhân
- Drap hoặc khăn vô khuẩn - Mở bộ kit đo ALNS bằng kĩ thuật vô khuẩn và
- Bơm tiêm (3ml) để gây tê tại chỗ kiểm tra ngày hết hạn
- Kim (25 gauge) để tiêm thuốc - Thực hiện thăm khám đánh giá thần kinh cơ
- Kim tủy sống vô khuẩn (18 gauge) để đâm bản
thủng màng cứng - Chiếu sáng khu vực dự kiến đặt
- Dụng cụ banh da nhỏ - Đặt bệnh nhân ở vị trí nằm ngửa.
- Vít ALNS để cố định đầu sợi quang - Trong quá trình đặt, để bác sĩ được thoải
- Khoan sọ số 36 (đường kính 2,71 mm) có mái cần điều chỉnh chiều cao của giường phù
mức dừng an toàn hợp.
- Spacer để điều chỉnh độ sâu của vít - Nâng cao đầu giường 15-30 độ trong khi vẫn
- Vỏ bọc bảo vệ giữ nó ở vị trí đường giữa với gối hoặc túi cát
- Stylet (đường kính 1,3 mm) đảm bảo không để tăng cường hồi lưu máu tĩnh mạch não.
để các mảnh vụn vào trong vít trước khi chèn Ngay cả 1 chuyển động đầu nhẹ lệch đường
đầu dò sợi quang giữa vài độ cũng có thể tăng ALNS gấp đôi.
- Khoá Hex để cố định mũi khoan vào khoan - Sau thủ thuật, nâng đầu cao 30 độ để tối ưu
- Dụng cụ điều chỉnh để zero đầu dò sợi quang tưới máu não trong khi giảm thiểu ALNS.
tại áp suất khí quyển
3.3.6. Gây mê Tê thấm xylocain hoặc lidocain (1%) bằng
Đảm bảo gây mê thích hợp cho thủ thuật. ống tiêm 3ml và kim 25-G xung quanh vị trí
Cần chuẩn bị kĩ bệnh nhân trước khi đặt rạch da đến khi có 1 vùng da gồ lên. Vị trí rạch
catheter ALNS với thở máy, an thần và giảm khoảng 2-3 cm phía trước đường khớp trán
đau (midazolam 0,05 mg/kg/giờ, sufentanil đỉnh, trên mặt phẳng nối đường giữa từ gốc
0,02 µm/kg/giờ). Cho thuốc dãn cơ khi cần. mũi lên đỉnh đầu 12-13cm, cách đường giữa
3.2. HƯỚNG DẪN KĨ THUẬT 2,5-3cm phía sau chân tóc, thường thực hiện
Catheter thường đặt ở bên phải hoặc bên ở bên bán cầu phải (không ưu thế), trừ khi có
trái vùng trán trước, cho phép xoay đầu bệnh chống chỉ định.
nhân mà không ảnh hưởng đến chức năng Thực hiện thủ thuật theo nguyên tắc vô
theo dõi. Chọn bên bị tổn thương nặng nhất khuẩn tùy theo điều kiện bệnh viện. Người
trong các tổn thương cục bộ, nếu bị tổn đặt catheter rửa tay, mặc áo choàng và mang
thương lan tỏa thì thường sử dụng bán cầu găng vô khuẩn. Cạo tóc và chuẩn bị vùng này
não phải. Vị trí rạch da nên chọn phía sau bằng cách rửa chlorhexidin hoặc betadin và
chân tóc để có mức thẩm mĩ chấp nhận. phủ drap vô khuẩn. Đo và đánh dấu vị trí rạch
da bằng bút đánh dấu da vô khuẩn. Rạch 1
đường thẳng 0,5 cm đến tận xương. Dùng
dụng cụ banh da nhỏ để bộc lộ xương và cầm
máu các cạnh da (Hình 6).

Hình 5. Vị trí rạch da. (A) Vùng chuẩn trán


trước phải và trái là vùng ưu tiên hàng đầu.
Vùng này cho phép BN xoay đầu sang 2 bên
nhưng vẫn giữ vị trí nằm ngữa không ảnh
hưởng đến chức năng theo dõi ALNS. (B) Vị trí
rạch da nằm phía sau chân tóc ở đa số BN, vì
vậy cũng có tính thẩm mĩ chấp nhận. (nguồn
Integra Corp, 2010) Hình 6. (1) Cạo tóc và phủ drap vô khuẩn. (2)
Rạch da. (3) Banh da và cầm máu. (4) Chọn
mũi khoan phù hợp, mũi 2,7 mm để đặt thể tạo đường hầm dưới da nhằm giảm thiểu
catheter trong nhu mô và dưới màng cứng; nguy cơ nhiễm trùng như một số nghiên cứu
mũi 5,8 mm để đặt catheter trong não thất. báo cáo (Beer, 2008; Dasic, 2006).
(nguồn Codman Inc, 2010)

Hình 7. Khoan sọ. (1) Gắn mũi khoan vào đầu


khoan. (2) Dùng khóa Hex để cố định độ sâu Hình 8: Tạo đường hầm dưới da. (1) Dùng kim
mũi khoan. (3) Khoan 1 lỗ qua 2 bản sọ ngoài Touhy tạo đường hầm dưới da đầu. (2) Luồn
và trong. (4) Có thể tạo đường hầm dưới da catheter dưới da qua lòng kim Touhy. (3)
nếu muốn. (nguồn Codman Inc, 2010) Uống nhẹ catheter và đưa vào lỗ khoan sọ,
chú ý tránh đụng vào đầu cảm biến. (4) Khâu
Khoan 1 lỗ qua bản sọ ngoài và trong. Chú
cố định catheter. (nguồn CodmanInc, 2010)
ý không làm thủng màng cứng hoặc gây tổn
thương não bằng cách điều chỉnh độ sâu mũi Trường hợp dùng vít và không tạo đường
khoan phù hợp. Sau khi khoan thủng bản sọ hầm dưới da (Hình 9.1), thì sau khi rút mũi
trong, tháo khoan và bơm rữa toàn bộ bằng khoan (Hình 9.2), dùng tay vặn vít vào hộp sọ
nước muối vô khuẩn (Hình 7). (Hình 9.4). Độ sâu của vít sẽ theo quyết định
Chọc thủng màng cứng bằng kim tủy sống của người làm dựa theo độ dày xương sọ.
18G có sẵn trong bộ kit. Chèn catheter vào Khoảng 2-3 mm ở trẻ sơ sinh, 3-5 mm ở trẻ
nhu mô não với độ sâu phù hợp và cố định vị em và 0,5-1 cm ở người lớn. Nếu muốn có thể
trí catheter sau khi xác định rõ tín hiệu số và dùng thêm spacer hoặc nếu không thì gỡ bỏ
dạng sóng ALNS trên monitor (Hình 12), có (Hình 9.3).
(B4) Bấm nút zero (màu xanh) để zero đầu dò.
(nguồn Integra Corp và Codman Inc, 2010)
Chèn stylet qua lỗ vít để loại bỏ các mảnh
xương hoặc mảnh vụn mô mềm nhằm làm
thông thoáng đường vào (Hình 11). Đưa
catheter sợi quang đi trong lớp bảo vệ vào
trong vít và để nó nằm sâu 0,5 cm (tính từ đầu
tận của vít) ở trong nhu mô não. Nếu có bất kì

Hình 9. Bắt vít qua xương sọ. (nguồn Codman kháng lực đáng kể nào, thường là do chưa

Inc, 2010) thủng 2 bản xương sọ hoặc chưa thủng màng

Tháo catheter khỏi bao vô khuẩn và nối cứng.

vào màn hình monitor. Nếu monitor không Để tính độ sâu khi chèn catheter vào nhu

hiển thị số không (0) sau 1 thời gian ngắn do mô não, nên sử dụng đoạn đánh dấu cm trên

máy tự điều chỉnh, thì dùng dụng cụ điều đầu catheter. Người làm đặt ngón tay tại vị trí

chỉnh theo hướng dẫn của nhà sản xuất để 5cm (2 ngón), sau đó chèn catheter vào đến

hiệu chỉnh về mức “zero” (Hình 10). khi ngón tay chạm đầu trên của vít, thì đầu
catheter sẽ là 0,5 cm tính từ đầu trong của vít,
cũng xấp xỉ nằm trong khoang dưới nhện
(Hình 13). Sau khi chèn catheter vào nhu mô
não, kéo ngược catheter lại 1 hoặc 2 milimet
để nó không bị sức ép từ mạch máu hay nhu
mô não. Sau đó, vặn nút vặn theo chiều kim
đồng hồ để cố định vị trí catheter. Nếu cần có
Hình 10. Hiệu chỉnh zero. (A) Hiệu chỉnh zero
thể nới lỏng nút vặn để điều chỉnh lại vị trí
bằng dụng cụ điều chỉnh của Camino. (B) Hiệu
đầu catheter rồi sau đó vặn lại.
chỉnh zero của catheter Codman. (B1) Nối đầu
Kiểm tra dạng sóng áp lực và ghi giá trị
dò với monitor. (B2) Đợi máy tín hiệu báo
ALNS ban đầu. Monitor cung cấp 2 dữ liệu
“press zero to zero transducer”, nếu máy
hiển thị trên màn hình LCD bao gồm dạng
không báo thì khởi động lại monitor. (B3)
sóng và trị số ALNS (mmHg). Dạng sóng ALNS
Nhúng đầu catheter trong nước vô khuẩn.
bao gồm 3 thành phần sóng P1, P2 và P3 giúp
xác định hình dạng sóng bình thường hay
không bình thường để điều chỉnh vị trí đầu từ phía trên, tay kia trượt lớp vỏ bảo vệ xuống
catheter (Hình 12). Sau khi đã xác định dạng và cố định nó trên đầu nút vặn (catheter
sóng và giá trị ALNS phù hợp thì có thể tiến Camino). Dán Tegaderm để đảm bảo lớp bảo
hành cố định catheter. Một tay giữ catheter vệ sợi quang (Hình 13).

Hình 11. Chèn catheter. (1) Mở nút vặn ở đầu vít bằng cách vặn ngược chiều kim đồng hồ. (2) Dùng
stylet làm thông thoáng đường vào sau khi đâm thủng màng cứng. (3) Rửa sạch bằng nước muối vô
khuẩn. (4) Luồn catheter qua lòng vít đến độ sâu thích hợp. Vặn nút vặn theo chiều kim đồng hồ để
cố định vị trí catheter và băng lại. (nguồn Integra Corp và Codman Inc, 2010)
thuật này tùy thuộc bác sĩ lâm sàng. Khi
ngừng theo dõi, nên gỡ bỏ đầu catheter 1
cách vô khuẩn và gởi đến phòng xét nghiệm
để nuôi cấy.

3.3. BIẾN CHỨNG


Hình 12: Giá trị số và dạng sóng ALNS trên Biến chứng của thiết bị đo ALNS bao gồm
monitor đầu giường (mũi tên xanh). (nguồn nhiễm trùng, xuất huyết, rối loạn chức năng
hình chụp tại khoa Gây Mê Hồi Sức, bệnh viện và tắc nghẽn. Những yếu tố liên quan đến
Nhân Dân 115, 2013) biến chứng bao gồm: tuổi (>44 tuổi), thời gian
Tiến hành phân tích dạng sóng ALNS (xem theo dõi kéo dài (≥14 ngày), sử dụng steroid,
thêm bài “Áp lực nội sọ trong thực hành lâm thời gian nằm viện kéo dài và bệnh nhân suy
sàng”. Sử dụng kháng sinh dự phòng cho thủ kiệt (Rosner, 1976). Yếu tố giúp giảm tỉ lệ
nhiễm là tạo đường hầm dưới da (Beer, 2008; đỏ nằm trên đuôi lớp vỏ bảo vệ (hình 4 nhỏ),
Dasic, 2006). cần phải kiểm tra lại đầu catheter để đảm bảo
Xâm thực vi khuẩn (colonization) trên các độ sâu phù hợp. “nguồn Integra Corp, 2010”
thiết bị ALNS tăng đáng kể sau đặt 5 ngày
Tỉ lệ nhiễm trùng của các thiết bị nhu mô
(Paramore, 1999; Bekar, 1998). Tốc độ xâm
dao động 0,3-3,7% mặc dù nhiều nghiên cứu
thực vi khuẩn nội sọ trung bình là 14% đối với
trong số đó có định nghĩa nhiễm trùng kém
catheter cảm biến biến đổi hoặc sợi quang
hoặc không có. Thời gian lưu thiết bị (>5 ngày)
trong nhu mô não (Artru, 1992). Mặc dù, các
và vị trí đặt catheter trong bệnh viện (bên
nghiên cứu ghi nhận tăng xâm thực vi khuẩn ở
ngoài phòng mổ) có mối tương quan với tăng
tất cả thiết bị ALNS theo thời gian, nhưng
tỉ lệ nhiễm trùng. Cần sử dụng kĩ thuật vô
nhiễm trùng nội sọ có ý nghĩa lâm sàng không
khuẩn nghiêm ngặt trong quá trình đặt (áo
phổ biến (Yau, 2000).
choàng, găng tay, khẩu trang) và khi thao tác
trên thiết bị để tránh tạp nhiễm. Các tác nhân
gây bệnh thường gặp nhất là Staphylococcus
aureus và epidermis, E coli, Klebsiella và
Streptococcus (March, 2005).
Một nghiên cứu lớn trên 1.000 bệnh nhân
với 1.071 thiết bị Camino báo cáo 8,5% cấy vi
khuẩn dương tính (Gelabert-Gonza lez, 2006).
Một nghiên cứu khác trên 328 bệnh nhân với
thiết bị Camino báo cáo tỉ lệ nhiễm trùng là
4,75% (Bekar, 2009).
Các cảm biến strain-gauge/Codman có tỉ

Hình 13. Ước tính độ sâu catheter. (1) Ước lệ nhiễm trùng thấp hơn so với sợi quang.

tính độ sâu bằng đoạn đánh dấu cm có sẵn Hong nghiên cứu 120 bệnh nhân với

trên đầu catheter. (2) Đặt vị trí 2 ngón tay ở MicroSensor Codman báo cáo không có nhiễm

mức 5cm rồi đưa catheter vào đến khi đầu trùng trong dân số nghiên cứu. Một nghiên cứu

ngón chạm đầu vít. (3) Kéo lui lại 1-2 mm nhẹ lớn khác của Koskinen và Olivecrona sau đặt

nhàng. (4) Giữ catheter phía trên và kéo lớp gần 1.000 Microsensor Codman cũng không ghi

vỏ bảo vệ trượt xuống đầu vít, nếu mức màu nhận nhiễm trùng do đặt catheter.
Clark báo cáo tăng nguy cơ nhiễm trùng kết luận sử dụng kháng sinh dự phòng trong
liên quan đến số lượng thiết bị đặt vào, theo theo dõi ALNS ở BN CTSN là không cần thiết
đó 1 đầu dò là khoảng 10,3% và đầu dò thứ 3 và có khả năng gây hại.
là khoảng 80%, mặc dù nghiên cứu không đủ Vị trí đặt catheter theo dõi ALNS vẫn còn
dữ liệu để rút ra kết luận. tranh cãi. Theo Clark, nên thực hiện thủ thuật
Vai trò của kháng sinh dự phòng trong này tại phòng mổ vì các biến chứng nặng có thể
phòng ngừa nhiễm trùng liên quan đến xảy ra, một số trường hợp cần chuyển đến khoa
catheter theo dõi ALNS chưa được xác định ICU. Tuy nhiên, tác giả khác không thấy khác
rõ. Prabhu thực hiện 1 phân tích gộp 85 biệt đáng kể về tỉ lệ nhiễm trùng liên quan đến
nghiên cứu về chỉ định điều trị kháng sinh dự thủ thuật này khi thực hiện tại phòng cấp cứu,
phòng ở bệnh nhân theo dõi ALNS, các nghiên ICU hoặc phòng mổ (Diaz, 1994; Bekar, 2008).
cứu này đa số là hồi cứu, không ngẫu nhiên, Xuất huyết thường không được báo cáo
không mù đôi, không đối chứng phù hợp hoặc hoặc có thể là không có ý nghĩa lâm sàng, xuất
số lượng bệnh nhân không đủ. Chỉ định dùng huyết hiếm khi được định nghĩa là biến chứng
kháng sinh dự phòng thích hợp không được hoặc bằng thể tích trên hình ảnh CT (Bullock,
thiết lập rõ ràng, trong khi sử dụng kháng sinh 2007). Tỉ lệ xuất huyết não sau đặt catheter
bừa bãi về mặt lí thuyết có thể dẫn đến nhiễm theo dõi ALNS được báo cáo trong y văn khác
vi khuẩn kháng thuốc, phản ứng phản vệ, tăng nhau khá lớn, dao động 0-15,3%. Tuy nhiên,
thời gian chảy máu và nhiễm độc toàn thân. đa số nghiên cứu không phân biệt giữa khối
Hơn nữa, sử dụng kháng sinh dự phòng còn máu tụ lớn cần phẫu thuật và xuất huyết điểm
phải dựa trên tình trạng của từng bệnh viện nhỏ phát hiện tình cờ trên chẩn đoán hình
về phổ kháng khuẩn, sinh khả dụng, tác dụng ảnh (Bekar, 1998; Blaha, 2005; Morgalla,
phụ và tỉ lệ hiệu quả/chi phí kháng sinh. 2002).
Jacobs và Westerband đánh giá sự an toàn và Trong 3 nghiên cứu trên >200 bệnh nhân
hiệu quả của kháng sinh dự phòng ở BN CTSN theo dõi ALNS, chỉ 0,5% bệnh nhân cần phẫu
có theo dõi ALNS và ghi nhận bệnh nhân có thuật do xuất huyết liên quan đến theo dõi
điều trị kháng sinh dự phòng có tỉ lệ nhiễm ALNS (Narayan, 1982; Paramore, 1994;
trùng cao hơn có ý nghĩa thống kê (78,6% so Shapiro, 1996). Một nghiên cứu khác trên 536
với 31,3%), tỉ lệ viêm phổi cao hơn có ý nghĩa thiết bị theo dõi sợi quang báo cáo tỉ lệ xuất
thống kê (57,1% so với 18,8%) so với bệnh huyết là 0,87% nhưng tỉ lệ nhiễm trùng không
nhân không điều trị kháng sinh. Các tác giả đã rõ (Guyot, 1998).
Mặc dù, một số tác giả cho rằng biến thiết bị trong nhu mô. Trong nghiên cứu của
chứng xuất huyết chỉ thường gặp ở các thiết Anderson (2004), tỉ lệ này là 6,4%. Koskinen
bị sợi quang công nghệ cũ trước năm 1999 (2005) báo cáo 3 ca máu tụ trong não trên 28
(Bullock, 2007). Nhưng hiện đã có 1 số báo bệnh nhân sử dụng catheter cảm biến strain-
cáo về biến chứng xuất huyết của các đầu dò gauge trong nhu mô não. Tỉ lệ biến chứng
sợi quang mới cải tiến từ sau năm 1999. xuất huyết là 2,5% trong nghiên cứu của
Nghiên cứu của Blaha (2003) đã đưa ra 1 Gelabert-Gonzalez trên 1.000 BN/1.071
phân loại độ nặng xuất huyết bao gồm 3 độ và catheter Camino (2006).
báo cáo tỉ lệ xuất huyết chung là 9,2% trên các
Bảng 1: So sánh các thiết bị cảm biến vi mạch
Thiết bị/ Kĩ Nghiên cứu (năm) Nhiễm Xuất Lỗi kĩ Độ lệch zero
thuật trùng huyết thuật
Camino/Sợi Gelabert Gonzalez 8,5% 2,5% 4,5% TB 7,3±5,1 mmHg (17-21)
quang (2006)
Bekar (2009) 4,75% 1,1% 3,14% -
Piper (2001) - - 10% TB -0,67 mmHg (-13-22)
Stendel (2003) - - - TB 3,5±3,1 mmHg (0-12)
Nguyễn Sĩ Bảo (2008) 0% 1,89% 1,89% -
Nguyễn Sĩ Bảo (2015) 0% 0% 1,4% -
Codman/ Hong (2006) 0% - - -
Strain gauge Koskinen (2005) 0% 0,3% - TB 0,9±0,2 mmHg (-5-4)
Bekar (2009) - 0% - -
Lescot (2011) - - - TB 0,1±1,6 mmHg
Al-Tamimi (2009) - - - TB 2 mmHg (-6-15)
Nguyễn Ngọc Anh (2011) 0% 0% 5,7% -
Raumedic Citerio (2008) 0% 2,02% - TB 0,8±2,2 mmHg (-4-8)
Neurovent-P/ Stendel (2003) - - - TB 1,7±1,36 mmHg (-2-3)
Strain gauge
Pressio/ Lescot (2011) - - - TB 0,7±1,6 mmHg
Strain gauge
Spiegelberg/ Lang (2003) 0% 0% 3,45% TB <±2 mmHg
Pneumatic

Davis nghiên cứu nguy cơ xuất huyết do không thường gặp ở những bệnh nhân rối
theo dõi ALNS ở bệnh nhân có thông số đông loạn đông máu, không ủng hộ sử dụng huyết
máu bất thường và kết luận rằng biến chứng tương tươi đông lạnh để điều chỉnh các thông
xuất huyết sau đặt catheter theo dõi ALNS số đông máu vì làm chậm trễ việc theo dõi.
Một nghiên cứu về mức độ an toàn của thủ dõi ALNS giúp xử trí thích hợp và kịp thời,
thuật khoan sọ trên 1.032 lỗ khoan sọ báo cáo tránh được những tác dụng phụ không mong
chỉ có 4 thủ thuật (0,38%) gây chảy máu lâm muốn của các thuốc chống phù não. Nghiên
sàng đáng kể, tất cả đều điều trị bảo tồn mà cứu không ghi nhận biến chứng xuất huyết
không cần can thiệp phẫu thuật (Maartens, hay nhiễm trùng, ngoài 5,7% biến chứng gãy-
2002). đứt catheter trong thời gian theo dõi trung
Lỗi kĩ thuật của catheter nhu mô được báo bình 7,89 ± 1,8 ngày. Cũng tại đơn vị này, 1
cáo khoảng 16% trường hợp. Một nghiên cứu nghiên cứu gần đây trên 60 BN XHN tự phát
lớn trên 1.000 BN/1.071 catheter Camino báo (GCS nhập viện trung bình 8,3±3) kết luận
lỗi kĩ thuật xảy ra trong 4,5% trường hợp và theo dõi ALNS liên tục giúp can thiệp điều trị
thường gặp nhất ở các thiết bị sợi quang chính xác và kịp thời làm giảm ALNS, góp phần
(Gelabert-Gonzalez, 2006). Piper cũng thấy cải thiện tỉ lệ biến chứng và tử vong. Tiên
10% bị lỗi cảm biến trên 50 thiết bị Camino lượng GOS (Glasgow Outcome Scale) càng xấu
trong nghiên cứu. Một nghiên cứu khác trên khi giá trị ALNS trung bình càng cao. Theo dõi
328 bệnh nhân với thiết bị Camino cũng ghi liên tục ALNS có thể chủ động lựa chọn
nhận lỗi kĩ thuật 3,14% (Bekar, 2009). Rối loạn phương pháp điều trị chính xác (phẫu thuật
chức năng/hỏng thiết bị theo dõi ALNS được hay nội khoa bảo tồn) giúp cải thiện kết cục.
báo cáo là 0% đối với cảm biến strain-gauge Nghiên cứu này cũng không ghi nhận biến
và 16% với vít dưới nhện (Koskinen, 2005; chứng nhiễm trùng, xuất huyết sau đặt
Gopinath, 1995; Bavetta, 1996). catheter đo ALNS, chỉ có 1,6% lỗi kĩ thuật
Các nghiên cứu theo dõi catheter trong trong thời gian theo dõi trung bình 10,7±3,1
nhu mô não tại khoa Gây Mê Hồi Sức, bệnh ngày (Nguyễn Sĩ Bảo, 2015). Tuy nhiên, tất cả
viện Nhân Dân 115 chúng tôi cũng không ghi nghiên cứu này đều là nghiên cứu loạt ca với
nhận có biến chứng đáng kể. Nguyễn Sĩ Bảo cỡ mẫu nhỏ và sức mạnh thống kê hạn chế.
(2008) nghiên cứu 53 BN CTSN báo cáo 1,89% Hơn nữa, các nghiên cứu này sử dụng kháng
biến chứng xuất huyết mà không cần can sinh trên tất cả bệnh nhân dù không phải với
thiệp phẫu thuật, 1,89% lỗi kĩ thuật do sút mục đích phòng ngừa nhiễm trùng sau đặt
catheter và không có biến chứng nhiễm trùng. catheter, cũng như không chụp CT scan
Nguyễn Ngọc Anh nghiên cứu 35 BN CTSN thường quy cho tất cả bệnh nhân sau đặt, do
(GCS 6-10 điểm) nhằm đánh giá hiệu quả điều đó có thể làm sai lệch tỉ lệ biến chứng của thủ
trị nội chống phù não có kết luận rằng theo thuật. Dữ liệu so sánh sự khác nhau giữa các
thiết bị theo dõi ALNS vi cảm biến được tóm mạch và có thể ảnh hưởng đến phép đo ban
tắt trong Bảng 1. đầu.
Điều cần lưu ý là cảm biến MicroSensor Độ sâu khuyến cáo của nhà sản xuất cho
Codman tương thích với cộng hưởng từ và các thiết bị được trình bày trong Bảng 2. Hiện
không gây nguy hiểm cho bệnh nhân. Cảm y văn không có dữ liệu về độ sâu tối đa sâu
biến Camino chứa các thành phần sắt từ tính hơn các khuyến cáo này. Các thiết bị theo dõi
và do đó bệnh nhân có các thiết bị này không ALNS phổ biến hiện nay là Camino và chúng
thể chụp MRI (Stendel, 2003 ; Shellock, 2002). có độ sâu tối đa trong thực hành là 20 mm.
Mặt khác, các catheter Camino có mức cảnh
3.4. ĐỘ SÂU CATHETER TRONG NHU MÔ
báo độ sâu để hỗ trợ giúp đặt đúng vị trí
NÃO
(Hình 14).
Theo dõi ALNS đã trở thành 1 phần không
Bảng 2. Độ sâu catheter trong nhu mô não
thể thiếu trong điều trị tích cực bệnh nhân
Thiết bị Số Độ sâu tối Độ sâu Phạm
tổn thương não. Nhiều loại thiết bị theo dõi lượng đa khuyến trung vi độ
trong nhu mô não đã được sử dụng trong cáo của bình sâu
nhà sản (mm) (mm)
nhiều năm để theo dõi ALNS và gần đây nhất xuất (mm)
Camino 34 20 24,8 8,7-
là để đo bão hòa oxy mô não và nhiệt độ não 42,2
ở bệnh nhân CTSN và XHDN. Tuy nhiên như Licox 1 35 28,4 -
Hemedex 1 25 74,2 -
đã nói trên, các thiết bị xâm lấn này không Rehau 1 - 26,8 -
phải là không có nguy cơ. Ngoài các biến
Ross thực hiện một nghiên cứu đánh giá
chứng đã nêu trên thì chấn thương tại chỗ do
độ sâu của catheter trên 37 BN với chụp CT
đặt mù catheter ALNS cũng dẫn đến lan rộng
sau đặt catheter theo dõi ALNS (Ross, 2010).
mức tổn thương liên quan đến cả kĩ thuật đặt
Mặc dù, ông sử dụng thường quy mức cảnh
và mức sâu của catheter trong não (Ross,
báo độ sâu này, nhưng có 59% thiết bị
2010). Chấn thương tại chỗ do đặt mù các
Camino bị đặt quá độ sâu được khuyến cáo và
catheter theo dõi trong nhu mô não dẫn đến
không BN nào trong số 37 bệnh nhân nghiên
tổn thương lớp mô đồng tâm tiếp giáp trực
cứu bị xuất huyết sau đặt. Rõ ràng, có 1 phạm
tiếp với đầu dò (xung quanh đầu dò khoảng
vi rộng về độ sâu catheter ở các thiết bị
70-500 micromet), điều này có thể dẫn đến
Camino và hiện vẫn không biết độ sâu tối ưu
xuất huyết tại chỗ và chèn ép giường mao
của catheter là bao nhiêu và sự thay đổi vị trí
có ảnh hưởng đến độ chính xác của các thiết
bị theo dõi này hay không. Độ chính xác của ràng là nằm trong não thất. Mũi tên chỉ mức
phép đo ALNS là điểm quan trọng nhất vì điều cảnh báo độ sâu (màu đỏ) nằm ngoài phạm vi
trị tăng ALNS dự phòng hay điều trị không phù cho phép. (nguồn Ross, 2010, JICS)
hợp không phải là không có nguy cơ. Tăng
thông khí kéo dài gây giảm lưu lượng máu não
Theo dõi ALNS là phương pháp chẩn đoán
(Sheinberg, 1992; Gopinath, 1994). Thuốc dãn
và điều trị an toàn, có thể áp dụng cho những
cơ phối hợp với tăng viêm phổi và thời gian
bệnh nhân có hoặc đang có nguy cơ cao phát
nằm viện (Hsiang, 1994). Barbiturate có thể
triển tăng ALNS nhằm ngăn chặn các tổn
làm xấu thêm tình trạng tụt HA (Roberts,
thương thứ phát. Theo dõi ALNS bằng các
2005) và mannitol đã cho thấy có tác dụng rất
thiết bị sợi quang trong nhu mô não cho
khác nhau trên mức độ và thời gian giảm
chúng ta 1 phép đo ALNS đáng tin cậy trong
ALNS (Marshall, 1978; Mendelow, 1985).
phần lớn trường hợp. Độ lệch trung bình của
Hiện nay, mặc dù còn vài loại catheter
hệ thống này là chấp nhận được.
không có mức cảnh báo độ sâu (ví dụ
Khi sử dụng một cách chính xác, nguy cơ
Hemedex Bowman) hoặc không có khuyến
biến chứng là tối thiểu và tỉ lệ các biến chứng
cáo về độ sâu từ nhà sản xuất (Rehau) nhưng
cơ học, xuất huyết và nhiễm trùng là rất thấp.
phần lớn đều có độ sâu khuyến cáo của nhà
Hơn nữa, có thể giải quyết những vấn đề về
sản xuất và mức cảnh báo độ sâu (Camino).
nhiễm trùng, xuất huyết, sai vị trí, vỡ và sút
Do đó, cần hết sức thận trọng khi đặt các
catheter bằng cách đào tạo thích hợp, thực
catheter theo dõi ALNS mà không có mức
hành cẩn thận khi đặt và sử dụng các thiết bị
cảnh báo độ sâu.
này. Bám sát các khuyến cáo của nhà sản xuất
trong quá trình đặt sẽ hạn chế chấn thương
cho bệnh nhân trong khi quá trình đặt và hư
hỏng catheter, đảm bảo vị trí thiết bị thích
hợp sẽ có phép đo ALNS chính xác. Bảo vệ và
cố định catheter sau đặt, chăm sóc khi di
chuyển bệnh nhân sẽ tránh sút hay đứt vỡ
Hình 14. Theo dõi ALNS bằng catheter Camino catheter.
trên hình ảnh CT scan. Đầu catheter dự định
nằm trong nhu mô não, nhưng CT cho thấy rõ
emedicine.medscape.com, article
1829950.
7. Koskinen L. et al. (2005). Clinical
experience with the trong nhu mô não
intracranial pressure monitoring codman
1. Nguyễn Ngọc Anh và cs. (2011). Đánh giá
microsensor system, Neurosurgery,
hiệu quả chống phù não trên bệnh nhân
Vol.56, (4): pp. 693-698.
chấn thương sọ não nặng được theo dõi
8. Martinez-Manas M. et al. (2000). Camino
áp lực trong sọ, Tạp chí Y Học Tp. Hồ Chí
intracranial pressure monitor:
Minh, Tập 15, Phụ bản của Số 3: tr. 57-64.
prospective study of accuracy and
2. Nguyễn Sĩ Bảo. (2014). Đo áp lực nội sọ
complications, J Neurol Neurosurg
trong xuất huyết não tự phát. Luận văn
Psychiatry, 69: pp. 82–86.
Tiến sĩ y học, Đại học Y Dược TP.HCM.
9. Raboel et al. (2012). Intracranial Pressure
3. Bekar A. et al (2008). Risk factors and
Monitoring: Invasive versus Non-Invasive
complications of intracranial pressure
Methods - A Review. Critical Care
monitoring with a fiberoptic device,
Research and Practice. Volume 2012,
Journal of Clinical Neuroscience, 16: pp.
Article ID 950393, 14 pages.
236–240.
10. Ristic A. et al. (2015). Current
4. Berlin T. et al. (2015). Comparison of
neuromonitoring techniques in critical
parenchymal and ventricular intracranial
care, Journal of Neuroanaesthesiology
pressure readings utilizing a novel multi-
and Critical Care, Vol. 2 (Issue 2): pp. 97-
parameter intracranial access system,
103.
SpringerPlus, 4: pp. 10.
11. Roriz P. et al. (2013). Review of fiber-
5. Gelabert-Gonzalez M. et al. (2006). The
optic pressure sensors for biomedical and
Camino intracranial pressure device in
biomechanical applications, Journal of
clinical practice: Assessment in 1000
Biomedical Optics 18(5): article 050903.
cases, Acta Neurochir (Wien), 148: pp.
12. Ross MJ et al. (2010). Depth of trong nhu
435–441.
mô não brain monitoring devices in
6. Gupta G. et al. (2015). Intracranial
neurosurgical intensive care, JICS, Vol.11
Pressure Monitoring,
(4): pp. 250-252.
Bảng 1. Định nghĩa mức bằng chứng theo khuyến cáo của AHA

Nhóm khuyến cáo


I Bằng chứng và/hoặc thỏa thuận chung cho rằng thủ thuật/điều trị hữu ích/hiệu quả
II Bằng chứng mâu thuẫn và/hoặc quan điểm bất đồng về sự hữu ích/hiệu quả của thủ
thuật/điều trị
IIa Bằng chứng/quan điểm thiên về ủng hộ thủ thuật/điều trị
IIb Bằng chứng/quan điểm ít ủng hộ lợi ích/hiệu quả
III Bằng chứng và/hoặc thỏa thuận chung cho rằng thủ thuật/điều trị không hữu ích/hiệu quả
và trong một số trường hợp có thể có hại
Phân loại mức bằng chứng
A Dữ kiệu từ những nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên đa trung tâm
B Dữ liệu từ các nghiên cứu lâm sàng không ngẫu nhiên hoặc đơn trung tâm
C Ý kiến chuyên gia hoặc nghiên cứu loạt ca

You might also like