You are on page 1of 27

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ LUẬT

BÀI TIỂU LUẬN GIỮA KỲ

TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN VỀ Ý THỨC XÃ HÔI


VÀ XÂY DỰNG Ý THỨC XÃ HỘI MỚI
Ở VIỆT NAM

Giảng viên: TS. GVC. Nguyễn Thị Thanh Hà


Nhóm thực hiện: Nhóm 4

TP. HỒ CHÍ MINH, 2023


MỤC LỤC

MỤC LỤC.............................................................................................................................................. 0
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................................ 2
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI .................................................................................................................... 2
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ............................................................................................................. 2
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI ............................ 3
1.1 Khái niệm ý thức xã hội.................................................................................................................. 3
1.1.1 Định nghĩa..................................................................................................................................... 3
1.1.2. Kết cấu của ý thức xã hội ........................................................................................................... 3
1.2. Tính giai cấp, tính dân tộc, tính nhân loại của ý thức xã hội ..................................................... 3
1.2.1. Tính giai cấp ................................................................................................................................ 3
1.2.2. Tính dân tộc ................................................................................................................................. 5
1.2.3. Tính nhân loại ............................................................................................................................. 5
1.3. Khái niệm tồn tại xã hội ................................................................................................................ 5
1.3.1. Phương thức sản xuất ................................................................................................................. 6
1.3.2. Sản xuất vật chất ......................................................................................................................... 6
1.3.3. Điều kiện địa lý - tự nhiên .......................................................................................................... 6
1.3.4. Dân số và mật độ dân số ............................................................................................................. 6
1.4. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội .................................................... 6
1.4.1. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xā hội..................................................................................... 6
1.4.2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội ............................... 6
1.5. Ý nghĩa phương pháp luận............................................................................................................ 7
CHƯƠNG 2: XÂY DỰNG Ý THỨC XÃ HỘI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY............................ 7
2.1. Đặc điểm của ý thức xã hội mới ở Việt Nam ............................................................................... 8
2.2. Vai trò của ý thức xã hội mới ở Việt Nam ................................................................................... 8
2.3. Thực tiễn nước ta trong quá trình thực hiện việc tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển văn
hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội Việt Nam thời gian qua ................................................ 8
CHƯƠNG 3: NHỮNG THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU XÂY DỰNG Ý THỨC XÃ
HỘI MỚI Ở VIỆT NAM VÀ LIÊN HỆ THỰC TẾ........................................................................... 9
3.1. Thành tựu ....................................................................................................................................... 9
3.2. Thách thức .................................................................................................................................... 10
3.3. Giải pháp đề xuất ......................................................................................................................... 10
KẾT LUẬN .......................................................................................................................................... 11
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................................. 12

1
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là một trong những nội dung quan trọng của quan
điểm duy vật lịch sử của triết học Mác – Lênin nói riêng, của cả chủ nghĩa Mác – Lênin
nói chung. Nội dung này cung cấp phương pháp luận cho việc nghiên cứu các ngành
khoa học xã hội, làm cho khoa học xã hội trở nên chính xác như các khoa học tự nhiên.
V.I.Lênin cũng nhấn mạnh về tầm quan trọng của nội dung này hay rộng hơn là cả chủ
nghĩa duy vật lịch sử khi cho rằng, nếu như không có một quan điểm khoa học nào có
thể thay thế được chủ nghĩa duy vật lịch sử thì cho đến hiện tại, chủ nghĩa duy vật lịch
sử vẫn đồng nghĩa với khoa học xã hội. Vận dụng nội dung về tồn tại xã hội có mối
quan hệ biện chứng với ý thức xã hội để nghiên cứu cả tồn tại xã hội và ý thức xã hội
Việt Nam, từ đó làm rõ những phương diện: tồn tại xã hội Việt Nam và ý thức xã hội
Việt Nam để có thể có được những phương pháp đúng đắn nhằm xây dựng ý thức xã
hội mới, phục vụ cho công cuộc hiện đại hóa, công nghiệp hóa. Đó cũng là lý do mà em
chọn đề tài này làm hướng nghiên cứu của mình.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Mục tiêu chung: Đề tài đề ra các giải pháp nhằm xây dựng một ý thức xã hội Việt
Nam mới, góp phần phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Mục tiêu cụ thể: Để có thể thực hiện được mục tiêu trên, đề tài phải đạt được
những mục tiêu cụ thể sau:
Thứ nhất, làm rõ cơ sở lý luận về tồn tại xã hội, ý thức xã hội và mối quan hệ biện
chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội của triết học Mác Lênin;
Thứ hai, làm rõ được thực trạng ý thức xã hội Việt Nam hiện nay;
Thứ ba, trên cơ sở mục tiêu cụ thể thứ nhất và mục tiêu cụ thể thứ hai, đề tài đưa
ra một số giải pháp góp phần xây dựng ý thức xã hội Việt Nam mới, góp phần phục vụ
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

2
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ
HỘI
1.1 Khái niệm ý thức xã hội
1.1.1 Định nghĩa
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử: Ý thức xã hội thuộc lĩnh vực tinh thần
của đời sống xã hội bao gồm những tư tưởng, quan điểm, tâm trạng, tình cảm, thói quen, phong
tục, tập quán, truyền thống,v.v. của cộng đồng xã hội được nảy sinh từ tồn tại xã hội của họ và
phản ánh tồn tại xã hội đó trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
1.1.2. Kết cấu của ý thức xã hội
Căn cứ vào trình độ phản ánh: có 2 dạng kết cấu: ý thức xã hội thông thường và ý thức
lý luận.
Ý thức xã hội thông thường là những tri thức, quan niệm, tình cảm, tập quán, thói quen,
v.v..của cộng đồng người được hình thành trực tiếp từ cuộc sống hằng ngày. Tâm lí xã hội là
tình cảm, tâm trạng, truyền thống, tập quán, thói quen, sở thích... phản ánh một cách tự phát và
trực tiếp đời sống và sinh hoạt thường ngày của con người. Tâm lý xã hội thường phát triển
phong phú và đa dạng, phát triển theo quy luật lây lan và mang tính dân tộc.
Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm, tri thức khoa học phản ánh một cách khái
quát, sâu sắc hiện thực xã hội thông qua hệ thống các khái niệm, phạm trù, các học thuyết. Hệ
tư tưởng là quan điểm, tư tưởng hình thành từ các nhà tư tưởng, tạo nên ý thức hệ xã hội, mang
tính khoa học hoặc không khoa học, thường phát triển theo quy luật kế thừa và phản ánh lợi
ích giai cấp.
Mối quan hệ giữa ý thức xã hội thông thường và ý thức luận:
Điều kiện phát triển
Ý thức xã hội thông thường Ý thức lý luận
Phát triển và nâng cao

Tạo điều kiện hay cản trở


Tâm lí xã hội Hệ tư tưởng
Thúc đẩy hay kìm hãm

Căn cứ vào nội dung phản ánh: có 2 dạng hình thức gồm: ý thức chính trị, ý thức pháp
quyền và ý thức đạo đức, ý thức thẩm mỹ
Các hình thái Ý thức xã hội bao gồm: Ý thức chính trị; Ý thức pháp quyền; Ý thức đạo
đức; Ý thức thẩm mỹ; Ý thức tôn giáo; Ý thức khoa học; Ý thức triết học.
1.2. Tính giai cấp, tính dân tộc, tính nhân loại của ý thức xã hội
1.2.1. Tính giai cấp
Tính giai cấp của ý thức xã hội được thể hiện ở cả tâm lý xā hội và hệ tư tưởng. Ở phương
diện tâm lý xã hội, mỗi giai cấp đều có đời sống tâm lý riêng, với những tình cảm, tâm trạng,
tập quán, truyền thống, thói quen, sở thích riêng; bày tỏ thiện cảm hay ác cảm, dùng hợp hay
3
không dung hợp đối với các giai cấp khác. Ở phương diện hệ tư tưởng, tính giai cấp của ý thức
xã hội có những quan điểm đối lập nhau. Trong đó, hệ tư tưởng của giai cấp thống trị về kinh
tế và chính trị luôn trở thành tư tưởng thống trị của một thời đại lịch sử
Trong xã hội có giai cấp, do các giai cấp có những điều kiện sinh hoạt vật chất khác nhau,
những lợi ích khác nhau do địa vị xã hội mỗi giai cấp quy định, nên ý thức xã hội của các giai
cấp có nội dung và hình thức phát triển khác nhau hoặc đối lập nhau.
Tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện ở tâm lý xã hội, cũng như ở hệ tư tưởng xã hội.
Về mặt tâm lý xã hội, mỗi giai cấp đều có tình cảm, tâm trạng, thói quen riêng, có thiện cảm
hay ác cảm với tập đoàn xã hội này hay tập đoàn xã hội khác. Ở trình độ hệ tư tưởng thì tính
giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện sâu sắc hơn nhiều. Trong xã hội có đối kháng giai cấp bao
giờ cũng có những tư tưởng hoặc hệ tư tưởn đối lập nhau: Tư tưởng của gia cấp bóc lột và bị
bóc lột, của giai cấp thống trị và bị thống trị.
Những tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng là tư tưởng của giai cấp thống trị
về kinh tế và chính trị ở thời đại đó. Nếu hệ tư tưởng của giai cấp bóc lột thống trị ra sức bảo
vệ địa vị của giai cấp đó, thì hệ tư tưởng của giai cấp bị trị, bị bóc lột thể hiện nguyện vọng và
lợi ích của quần chúng lao động chống lại xã hội người bóc lột người, xây dựng một xã hội
công bằng không có áp bức, bóc lột.
Chủ nghĩa Mác – Lênin là hệ tư tưởng khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân,
ngọn cờ giải phóng của quần chúng bị áp bức, bóc lột, phản ánh tiến trình khách quan của sự
phát triển lịch sử. Hệ tư tưởng Mác – Lênin đối lập với hệ tư tưởng tư sản – hệ tư tưởng bảo vệ
lợi ích của giai cấp tư sản, bảo vệ chế độ người bóc lột người. Cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai
cấp tư sản và giai cấp vô sản từ hàng thế kỷ nay diễn ra gay gắt trên tất cả các lĩnh vực, trong
đó có lĩnh vực hệ tư tưởng.
Trong điều kiện xã hội ngày nay, cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực ý thức hệ vẫn đang
tiếp tục diễn ra. Các thế lực thù địch đang không ngừng tấn công vào chủ nghĩa Mác – Lênin,
muốn phủ nhận, xóa bỏ nó.
Do vậy, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện thế giới ngày nay là
một nhiệm vụ quan trọng của cuộc đấu tranh vì mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa
xã hội. Khi khẳng định tính giai cấp của ý thức xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng, ý
thức của các giai cấp trong xã hội có sự tác động qua lại với nhau.
Trong xã hội có áp bức giai cấp, các giai cấp bị trị do bị tước đoạt tư liệu sản xuất, phải
chịu sự áp bức về vật chất nên không tránh khỏi bị áp bức về tinh thần, không tránh khỏi ảnh
hưởng tư tưởng của giai cấp thống trị. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của tư tưởng giai cấp
thống trị đối với xã hội tùy thuộc vào trình độ phát triển ý thức cách mạng của giai cấp bị trị.
Giai cấp thống trị cũng chịu ảnh hưởng của giai cấp bị trị. Ở thời kỳ đấu tranh cách mạng
phát triển mạnh, thường có một số người trong giai cấp thống trị, nhất là những trí thức tiến
bộ, từ bỏ giai cấp xuất thân chuyển sang hàng ngũ giai cấp cách mạng và chịu ảnh hưởng của
tư tưởng giai cấp đó. Đặc biệt, một số người đã trở thành nhà tư tưởng của giai cấp cách mạng.
Trong xã hội có phân chia giai cấp thì ý thức cá nhân, về bản chất, là biểu hiện mức độ
này hay mức độ khác ý thức giai cấp. Điều này là do địa vị và những điều kiện sinh hoạt vật
4
chất chung của giai cấp quyết định. Nhưng mỗi cá nhân lại có những hoàn cảnh sinh sống riêng,
như hoàn cảnh giáo dục, trường đời, tư tưởng chính trị tiếp thu được khi sống trong môi trường
gia đình, bạn bè, đồng nghiệp…, nên ý thức của mỗi người vừa biểu hiện ý thức giai cấp, vừa
mang những đặc điểm cá nhân, tạo thành cá tính và nhân cách riêng, khác với cá nhân khác
cùng giai cấp.
Tuy nhiên, nếu quá nhấn mạnh điều kiện sinh hoạt của cá nhân, thổi phồng mặt cá nhân,
thì sẽ dẫn tới hiểu sai bản chất của ý thức cá nhân. Ta phải chú ý mối quan hệ biện chứng giữa
ý thức giai cấp và ý thức cá nhân. Trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội không chỉ mang dấu
ấn những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp, mà còn phản ánh những điều kiện sinh hoạt
chung của dân tộc: Những điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, điều kiện tự
nhiên… hình thành trong quá trình phát triển lâu dài của dân tộc. Vì vậy, trong ý thức xã hội,
ngoài tâm lý và hệ tư tưởng xã hội của giai cấp, còn bao gồm tâm lý dân tộc, tình cảm, ước
muốn, tập quán, thói quen, tính cách… của dân tộc, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác tạo
thành truyền thống dân tộc.
Tâm lý dân tộc tuy phản ánh những điều kiện sinh hoạt chung của dân tộc và mang tính
chất toàn dân tộc, nhưng có mối liên hệ hữu cơ với ý thức giai cấp. Giai cấp cách mạng, tiến
bộ phát huy những giá trị tinh thần của dân tộc, ngược lại những tư tưởng của giai cấp phản
động mâu thuẫn sâu sắc với những giá trị đó.
Giai cấp công nhân được vũ trang bằng hệ tư tưởng Mác – Lênin luôn luôn quan tâm sâu
sắc đến việc bảo vệ và phát triển những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
1.2.2. Tính dân tộc
Sự thể hiện tâm lý dân tộc, tình cảm, ước muốn, tập quán, thói quen, tính cách... của dân
tộc được truyền từ thế hệ này sang thể hệ khác và trở thành truyền thống dân tộc. Trong ý thức
xã hội, tính giai cấp và tính dân tộc luôn tác động, ảnh hưởng lẫn nhau. Vì vậy, các giai cấp
cách mạng kế thừa và phát triển những giá trị tinh thần của dân tộc và phục vụ cho dân tộc; trái
lại, những giai cấp lỗi thời, phản động thường phủ nhận những giá trị tinh thần của dân tộc và
đi ngược lại với những lợi ích của dân tộc.
1.2.3. Tính nhân loại
Chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân luôn quan tâm đến việc bảo
vệ và phát triển những giá trị truyền thống của dân tộc, đồng thời luôn phục vụ lợi ích của giai
cấp công nhân,nhân dân lao động và lợi ích của toàn dân tộc.
1.3. Khái niệm tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội là đời sống vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Tồn
tại xã hội là phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ đời sống vật chất và điều kiện sinh hoạt vật
chất của xã hội. Đời sống vật chất của xã hội chủ yếu là lao động sống của con người trong sản
xuất, lưu thông, phân phối và tiêu dùng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu vật chất của con người
như ăn, mặc, ở, đi lại, chữa bệnh... => Duy trì sự tồn tại của các cá thể người, đồng thời tái sản
xuất và không ngừng mở rộng quan hệ vật chất của xã hội. Tồn tại xã hội bao gồm: phương
thức sản xuất vật chất, điều kiện tự nhiên và điều kiện dân số.

5
1.3.1. Phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở
những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người, quy định tính chất và kết cấu của mỗi
xã hội. Phương thức sản xuất quyết định sự chuyển biến của xã hội loài người qua các giai
đoạn lịch sử.
1.3.2. Sản xuất vật chất
Đây là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, nhằm cải
biến các dạng vật chất của tự nhiên, tạo ra của cải vật chất, thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát
triển của con người. Sản xuất vật chất đã sáng tạo ra con người và xã hội loài người, là yêu cầu
khách quan cho sự duy trì xã hội, cơ sở cho sự ra đời và hình thành tất cả các quan hệ xã hội.
Sản xuất của cải vật chất còn là cơ sở cho sự tiến bộ xã hội
1.3.3. Điều kiện địa lý - tự nhiên
Môi trường tự nhiên của đời sống xã hội, bao gồm: đất đai (tài nguyên), sông ngòi, biển
cả; thời tiết,khí hậu; các thảm động vật và thực vật... cùng những mối liên hệ và quy luật vận
động của chúng. Đó là môi trường trao đổi chất giữa con người với tự nhiên và xã hội.
1.3.4. Dân số và mật độ dân số
Yếu tố không thế thiếu của sản xuất vật chất. Một quốc gia có dân số lớn, lực lượng lao
động dồi dào, được phân bổ hợp lý sẽ là yếu tố quan trọng thúc đẩy lên sản xuất vật chất và sự
phát triển xã hội.
1.4. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
1.4.1. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xā hội
Nhìn chung, tồn tại xā hội nào thì ý thức xā hội như thế nấy. Khi tồn tại xã hội
thay đổi (nhất là phương thức sản xuất) thì những tư tưởng, tình cảm, tâm trạng v.v. (ý
thức xã hội) sớm hay muộn sẽ thay đổi theo. Tồn tại xã hội quyết định nội dung, tính
chất, đặc điểm, xu hướng phát triển của các hình thái ý thức xã hội. Hơn nữa, nếu tồn
tại xã hội còn phân chia giai cấp thì ý thức xã hội cũng mang tính giai cấp.
1.4.2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
Dù bị tồn tại xã hội quyết định nhưng ý thức xã hội vẫn có tính độc lập tương đối
của mình. Tính chất độc lập tương đối này thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội do nó không phån ánh
kịp tồn tại xã hội; do sự lạc hậu của một số ý thức xã hội như ý thức tôn giáo; do sức ỳ
của tâm lý, của thói quen; do một số lực lượng bảo thú trong xã hội muốn duy trì những
ý thức xã hội lạc hậu. Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội do những
nguyên nhân như: sự biến đổi mạnh mẽ của tồn tại xã hội thường do sự tác động mạnh
mẽ của các hoạt động thực tiễn thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội không
phản ánh kịp. Hơn nữa, ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội nên nó chỉ thay
đổi khi mà tồn tại xã hội đã thay đổi; Hay do sự lạc hậu, bảo thủ, sức mạnh của thói
quen, truyền thống của một số hình thái ý thức xã hội; Ý thức xã hội luôn luôn gắn liền
6
với lợi ích giai cấp, những tập đoàn người, những nhóm người cụ thể. Vì lý do đó mà
nó thường bị các lực lượng phản động, lạc hậu bảo vệ, duy trì nhằm giữ trật tự cho một
xã hội cũ, chống lại những lực lượng xã hội tiến bộ.
Thứ hai, ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội do tính nǎng động của nó
(khi vượt trước nó vẫn bị quy định bởi tồn tại xã hội). Khi khằng định tính thường xuyên
lạc hậu hơn của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội, triết học Mác Lênin cũng cho rằng
trong những điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, tư tưởng của con người mà đặc biệt là
những tư tưởng khoa học tiến bộ có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, có
khả năng dự báo tương lại và tác dụng chỉ đạo, tổ chức hoạt động thực tiễn, hướng vào
đó việc giải quyết những yêu cầu mới do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất
xã hội đặt ra. Mặt khác, khi nhắc đến sự vượt trước của ý thức xã hội thì không có nghĩa
cho rằng trong trường hợp này nó không còn bị tồn tại xã hội chi phối nữa. Tư tưởng
tiên tiến không thoát ly khỏi tồn tại xã hội để trở nên không tưởng mà nó phản ánh chính
xác hơn, sâu sắc hơn tồn tại xã hội.
Thứ ba, tính kế thừa của ý thức xã hội trong sự phát triển của mình.
Lịch sử phát triển của đời sống tinh thần của mỗi một xã hội cho thấy rằng những
quan điểm tiên tiến của mỗi thời đại không bao giừo xuất hiện trên những mảnh đất
trống không, đứng bên ngoài lịch sử ,à được tạo ra trên nền tảng kế thừa các thành tựu
lý luận của csc thời đại trước đây. Một ví dụ cụ thể là triết học Mác ra đời là sự kế thừa
những tinh hoa lý luận của các nhà triết học trước đây, mà cụ thể là nền triết học cổ điển
Đức với phép biện chứng của Hegel và chủ nghĩa duy vật của Phơ-bach. Do tính kế
thừa của ý thức xã hội nên không thể giải thích một tư tưởng nếu chỉ đơn thuần dựa vào
quan hệ kinh tế của xã hội đó mà không chú ý đến những giai đoạn tư tưởng trước nó.
Quan điểm của triết học Mác Lênin về tính kế thừa của ý thức xã hội có ý nghĩa to lớn
với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới.
Thứ tư, sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội (có thể tác động tích
cực, tiêu cực). Mức độ và hiệu quả tác động của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội phụ
thuộc vào các yếu tố: một là, tính đúng đắn, khách quan, khoa học mà ý thức xã hội
phản ánh tồn tại xã hội; hai là, mức độ thâm nhập của ý thức xã hội vào quần chúng
nhân dân; ba là, mức độ vận dụng đúng đắn, sáng tạo ý thức xã hội của chú thể lãnh đạo
quản lý. Đây là một quy luật phát triển của ý thức xã hội. Sự tác động qua giữa các hình
thái ý thức xã hội làm cho ở mỗi hình thái ý thức có những mặt không thể giải thích
được một cách trực tiếp bằng tồn tại xã hội hay bằng các điều kiện vật chất.
Thứ năm, ý thức xã hội tác động trở lại đối với tồn tại xã hội. Đây là một biểu hiện
quan trọng trong tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.

7
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm khi tuyệt đối
hóa vai trò của ý thức xã hội mà còn bác cả những quan điểm duy vật tầm thường khi
phủ nhận vai trò tích cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội.
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào những
điều kiện lịch sử cụ thể, vào tính chất của mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy
sinh, vào vai trò lịch sử của giai cấp tiến bộ trong xã hội, vào mức độ phản ánh đúng
đắn và sâu sắc của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội và cuối cùng là vào sự mởi tộng
tư tưởng trong quần chúng lao động. Vì vậy cũng cần phân biệt vai trò của ý thức xã
hội tiến bộ và ý thức xã hội phản động trong sự phát triển xã hội.
Tóm lại, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối của ý
thức xã hội chỉ ra sự phức tạp trong lịch sử phát triển của ý thức xã hội và đời sống tinh
thần, nó phủ nhận mọi quan điểm siêu hình, máy móc tầm thường hóa mối quan hệ giữa
tồn tại xã hội với ý thức xã hội.
1.5. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ sự phân tích mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội chúng ta có thể
rút ra ý nghĩa phương pháp luận của việc nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa tồn
tại xã hội và ý thức xã hội. Trong nhận thức và thực tiễn, chúng ta cần phải thấy được
mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội; Tìm nguồn gốc, nguyên
nhân của các hiện tượng đời sống tinh thần trong tồn tại xã hội; muốn khắc phục những
hiện tượng tiêu cực trong đời sống tinh thần, phải khắc phục tồn tại xã hội sinh ra nó;
Kiên trì đấu tranh, khắc phục với những phong tục, tập quán, thói quen lạc hậu; tránh
nóng vội; Phát huy vai trò dự báo của ý thức xã hội trong đời sống…

8
CHƯƠNG 2: XÂY DỰNG Ý THỨC XÃ HỘI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY
2.1. Đặc điểm của ý thức xã hội mới ở Việt Nam
Thứ nhất, ý thức xã hội là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm,
tâm trạng, truyền thống… của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Ý thức xã hội là toàn bộ
những yếu tố thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội, tinh thần của con người chứ
không phải tinh thần của cá nhân hay của một nhóm người mà là của toàn xã hội dựa
trên những tư tưởng, quan điểm, tình cảm, tâm trạng, truyền thống,...
Thứ hai, hạt nhân là Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng
sản Việt Nam, Pháp luật… Xây dựng đất nước, xã hội mới ở Việt Nam dựa trên tinh
thần chủ nghĩa xã hội dưới góc độ lấy ý thức hệ tư tưởng của Chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng Việt Nam. Nó bao quát trên đời sống
tinh thần của con người, do đó khi là công dân Việt Nam thì phải xây dựng ý thức pháp
luật trên cơ sở nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng Việt Nam được đề cao và đi vào phong tục tập
quán, suy nghĩ, tình cảm, lập trường, quan điểm của một cá nhân con người sống trong
cộng đồng dân tộc Việt Nam. Điều này đã tạo nên tư tưởng, tâm trạng, truyền thống,
thói quen, phong tục tập quán,... được nảy sinh từ tồn tại xã hội mà tồn tại xã hội là đời
sống vật chất của con người, còn tư tưởng, tình cảm là đời sống tinh thần, do vậy, mọi
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng đúng đắn thì đời sống nhân dân mới phấn
khởi và phát triển. Cụ thể, khi triển khai thực hiện chính sách nông thôn mới, người dân
ý thức được phải bảo vệ môi trường, xây dựng điện đường, trường, trạm, cơ sở vật chất
đầy đủ mới là điều kiện chuẩn để chúng ta có đời sống vật chất ổn định, điều này sẽ
được phản ánh thông qua đời sống tinh thần của con người. Vì vậy, yếu tố tinh thần giữ
vai trò hết sức quan trọng, chúng ta làm việc có hiệu quả và thành công hay không đều
dựa vào tinh thần.
Thứ ba, ý thức xã hội mới ở nước ta bắt nguồn từ ý thức cách mạng của giai cấp
vô sản. Cách mạng Việt Nam thuộc phạm trù cách mạng của giai cấp vô sản. Điều này
có nghĩa rằng, vai trò lãnh đạo cách mạng tất yếu thuộc về giai cấp công nhân mà đội
tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Có thể thấy ý thức xã hội mới bắt nguồn từ ý
thức cách mạng của giai cấp công nhân, luôn hướng tới mục tiêu phát triển chủ nghĩa
xã hội, giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Do đó, ý thức xã hội mới xuất phát từ tinh
thần của nhân dân và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, nên mọi chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng phải luôn đúng đắn, phù hợp, kịp thời thì nhân dân mới có thể
chuẩn bị tinh thần vững chắc để tiếp tục cống hiến, phấn đấu vì mục tiêu phát triển đất
nước, phát triển kinh tế theo con đường chủ nghĩa xã hội.

1
2.2. Vai trò của ý thức xã hội mới ở Việt Nam
Thứ nhất, ý thức xã hội mới ở Việt Nam sẽ phần nào củng cố, phát triển, sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin đồng thời làm phong phú và làm dày thêm giá trị văn hóa, tinh
hoa dân tộc trong quá trình xây dựng ý thức xã hội.
Các giá trị truyền thống của dân tộc, tinh hoa văn hóa của nhân loại luôn là điều
mà chúng ta cần phải chú ý kế thừa và phát huy. Có thể nhận thấy rằng, Đảng ta đã luôn
chú ý kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống trong quá trình lãnh đạo xây dựng
nền văn hóa nói chung, ý thức xã hội nói riêng. Minh chứng điều này cụ thể hơn, có thể
nhìn vào Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943, Đảng ta đã khẳng định, nền văn hóa
mới là nền văn hóa phải đảm bảo tính dân tộc, có nghĩa là phải kế thừa và phát huy các
giá trị truyền thống của dân tộc. Quan điểm này tiếp tục được khẳng định trong suốt quá
trình tiến hành xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, đặc biệt là toàn cầu hóa như hiện nay, quan điểm
cần bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững trong truyền thống văn hóa Việt
Nam lại càng được Đảng ta khẳng định mạnh mẽ. Để thực hiện thành công nhiệm vụ
này, mỗi người chúng ta cần phải hiểu rõ bản chất cũng như phân biệt được những giá
trị đích thực để chọc lọc ra những điều tốt đẹp và phù hợp với cuộc sống hiện tại đồng
thời bài trừ những điều tiêu cực, lạc hậu còn tồn đọng. Không những thế, bên cạnh việc
kế thừa các giá trị truyền thống dân tộc,chúng ta cần phải kế thừa, học hỏi các giá trị
tinh thần của thế giới làm để làm phong phú, đa dạng thêm văn hóa dân tộc.
Thứ hai, ý thức xã hội mới cũng góp phần nâng cao tinh thần trách nhiệm của các
tầng lớp nhân dân, nhất là đội ngũ các bộ Đảng viên, lãnh đạo quản lý hay là những đội
ngũ trí thức - một lực lượng quan trọng, về các vấn đề sau:
(i) Chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước phải nắm
vững để tránh trường hợp bị tụt hậu cũng như khó tiếp cận;
(ii) Nâng cao tinh thần trách nhiệm trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật của nhà nước
để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh.
Mỗi người chúng ta cần trang bị và cập nhật cho mình những tri thức mới của thời
đại đang ngày ngày một phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng như hiện nay. Trong quá
trình xây dựng xã hội với ý thức xã hội mới thì đây là yêu cầu tiên quyết. Song hành
với việc trau dồi tri thức là việc bồi dưỡng lý tưởng sống, hoài bão, ước mơ, khát vọng
cống hiến, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Hơn nữa, đặc biệt là đối với đội ngũ cán bộ
Đảng viên, cần đẩy mạnh việc xây dựng và phát huy ý thức làm chủ trong nhân dân, bồi
dưỡng và phát huy lòng yêu nước, ý thức về dân tộc và tinh thần đoàn kết dân tộc, nâng
cao ý thức phòng chống tham ô và lãng phí.
Bên cạnh đó, cần chú trọng việc tập trung khắc phục tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị trong một bộ phận cán bộ, đảng viên với các biểu hiện như: dao động
về mục tiêu, lý tưởng cũng như con đường phát triển của dân tộc; phủ nhận thành quả
2
cách mạng và giá trị truyền thống của dân tộc; thiếu thống nhất với các quan điểm, chủ
trương của Đảng, từ đó nói và làm không theo đường lối chính sách của Đảng và Nhà
nước, ý thức mất cảnh giác trước âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hòa bình" của các thế
lực thù địch: không kịp thời và kiên quyết phê phán, đấu tranh với những ý kiến, quan
điểm sai trái...
Thứ ba, ý thức xã hội mới góp phần phát triển, sáng tạo nhân cách, năng lực trí
tuệ, năng lực sáng tạo hay phẩm chất tâm hồn của công dân Việt Nam, con người Việt
Nam. Từ đó, góp phần phê phán, đẩy lùi những phong tục tập quán lạc hậu. Nhân cách
được nói đến ở đây không chỉ đơn thuần là phẩm chất đạo đức hay thái độ mà còn là sự
thể hiện khả năng tiếp cận và tiếp nhận của chúng ta. Hay nói cách khác, điều này để
hiện trên ba yếu tố “thể lực” - “tâm lực” - “trí lực” và thông qua cả kỹ năng về việc tiếp
cận phong tục tập quán, khả năng thích nghi khi đến những vùng đất mới, nền văn hóa
mới để làm việc. Bên cạnh đó, cần phát huy ý chí tiến thủ cũng như tinh thần phê phán
“dám nói - dám nghĩ - dám làm” trong hệ thống chính trị Việt Nam.
Trước hết, chúng ta cần coi trọng việc đấu tranh ngăn ngừa, khắc phục tàn dư tư
tưởng, phong tục, tập quán lạc hậu. Trong quá trình phát triển của ý thức xã hội, sự lạc
hậu là điều không tránh khỏi đã được quan điểm triết học Mác - Lênin chỉ rõ. Việt Nam
ở thời điểm hiện tại, những phong tục, tập quán lạc hậu vẫn còn tồn đọng khá nhiều, với
những lỗi suy nghĩ, tư tưởng như trọng nam khinh nữ, gia trưởng, tâm lý “ăn xổi, ở thì”,
hay tập tục tảo hôn và hôn nhân cận huyết,... Những tư tưởng, phong tục, tập quán lạc
hậu này vẫn đang tác động tiêu cực tới đời sống xã hội. Chính vì thế, tiến hành đấu tranh
hạn chế và khắc phục các loại hình tư tưởng, phong tục, tập quán cũ, lạc hậu là một
trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của việc xây dựng đời sống tinh thần nói
chung và ý thức xã hội mới nói riêng hiện nay ở nước ta. Thế nhưng, những tư tưởng,
phong tục, tập quán này đã tồn tại hàng nghìn, hàng trăm năm và dường như len lỏi và
thấm đậm vào những ngóc ngách sâu xa trong đời sống xã hội nên quá trình khắc phục
cũng như xóa bỏ những biểu hiện tiêu cực không hề đơn giản mà là cả một quá trình
khó khăn, lâu dài.
Cuối cùng, ý thức xã hội mới cũng góp một phần không nhỏ trong việc hình thành
văn hóa, đặc sắc dân tộc Việt Nam.
Sự phát triển xã hội không chỉ được đo lường thông qua đời sống vật chất, mà còn được
đánh giá thông qua đời sống tinh thần. Hai mặt luôn gắn bó, tác động tương hỗ có thể
làm giàu, phong phú cho nhau và cũng có thể kìm hãm nhau trong quá trình phát triển.
Phát triển văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc Việt nam đóng vai trò quyết định trong quá
trình phát triển và sự trường tồn của quốc gia, dân tộc bên cạnh việc phát triển kinh tế.
Ý thức xã hội mới giúp chúng ta khám phá sâu rộng hơn về mặt bản chất để nhận thấy
rằng văn hoá đã mang đậm tính nhân văn, tích cực, bao gồm những nhiều tốt đẹp được
cộng đồng dân tộc sáng tạo, lưu giữ, truyền lại cho thế hệ sau thành truyền thống văn
3
hóa, thành hồn thiêng dân tộc. Nhờ đó, từ những truyền thống tốt đẹp này, chúng ta có
thể truyền tải một cách phù hợp để đưa vào các lĩnh vực như chính trị, đạo đức, pháp
luật, nghệ thuật tôn giáo,... tạo thành môi trường văn hoá văn minh, trong sạch đồng
thời vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Chính môi trường văn hóa này sẽ tiếp tục nuôi dưỡng
đời sống tinh thần mỗi cá nhân nói riêng và cả cộng đồng dân tộc Việt Nam nói chung.
2.3. Thực tiễn nước ta trong quá trình thực hiện việc tăng trưởng kinh tế gắn với
phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội Việt Nam thời gian qua
Vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá đã
được đặt ra ngay từ những ngày đầu của nước Việt Nam mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhấn mạnh: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề phải chú ý đến cùng,
phải coi trọng ngang nhau, đó là chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá”. Từ đó, thông qua
các Văn kiện, Hội nghị của Đảng, Nhà nước ta luôn liên tục chủ trương đẩy mạnh các
chính sách, đề ra những nhiệm vụ nhằm phát triển kinh tế gắn bó với văn hóa thông qua
việc lấy yếu tố con người làm cơ bản, là trung tâm chiến lược cho sự phát triển nhanh
và bền vững. Không những thế, trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
Nhà nước ta cũng đã đã khẳng định mục tiêu chủ yếu của sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá là bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây
dựng chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao đời sống văn hoá, nền
tảng tinh thần của xã hội, luôn luôn đẩy mạnh việc tăng trưởng kinh tế gắn liền với phát
triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Năm 1943, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã đưa ra một quan niệm văn hóa vừa cụ thể, vừa khái quát hết sức tinh tế: “Vì lẽ sinh
tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn
ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công
cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những
sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá, văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức
sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những
nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Hơn nữa, Đại hội XII của Đảng đã nêu rõ:
“Gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân”
Trên cơ sở thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, thực tế những năm qua, nhiều
chính sách xã hội lớn được Đảng, Nhà nước ban hành và tổ chức thực hiện đạt kết quả
khả quan. Bên cạnh đó, sau nhiều năm đổi mới đất nước, nền kinh tế nước ta đã khơi
dậy tính năng động, chủ động, tính tích cực xã hội của các tầng lớp dân cư đã thực hiện
về cơ bản nguyên tắc phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, phân
phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông
qua phúc lợi xã hội; giải quyết được chính sách lao động và việc làm; khuyến khích mọi
người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói, giảm nghèo, Đảng và Nhà nước
cũng đã có nhiều chính sách phát triển giáo dục, khoa học, y tế, văn hóa; thực hiện công
4
bằng xã hội trong giáo dục, trong chăm sóc sức khỏe nhân dân; có chính sách trợ cấp
và bảo hiểm y tế cho người nghèo. Chẳng hạn, nhờ đổi mới tư duy về mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội nên chỉ số phát triển con người ngày
càng tăng cao. Năm 2022, số hộ nghèo và cận nghèo trên toàn quốc còn 7,52%; chỉ số
phát triển con người (HDI) năm 2022 đạt mức 0,703 xếp hạng 115/191 quốc gia. Tổng
sản phẩm trong nước (GDP) năm 2022 lần đầu tiên vượt 400 tỷ USD xếp hạng 117 trên
toàn thế giới. Điều này cho thấy sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta có xu hướng
phục vụ sự phát triển con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội khá hơn một
số nước đang phát triển có GDP bình quân đầu người cao. Điều này cho thấy mức hưởng
thụ văn hoá, điều kiện tiếp cận thông tin của người dân được nâng lên rõ rệt. Hệ thống
phúc lợi và an sinh xã hội được coi trọng và từng bước mở rộng. Bình đẳng giới có
nhiều tiến bộ, tỷ lệ phụ nữ tham gia Quốc hội và giữ các trọng trách trong hệ thống
chính trị ngày càng cao.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau nên tăng trưởng kinh tế và phát triển
văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội của nước ta vẫn tồn tại những hạn chế
như sau:
Một là, việc tổ chức triển khai thực hiện quan điểm gắn kết giữa tăng trưởng kinh
tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội còn chưa đồng bộ và
triệt để. Một số địa phương vẫn chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển
kinh tế phải đi kèm với việc phát triển văn hóa, ngoài ra do sức ép về phát triển kinh tế
để đáp ứng đời sống người dân nên một số địa phương ít quan tâm đến phát triển văn
hóa, tiến bộ và công bằng trong xã hội. Trong khi quy hoạch và xây dựng các chương
trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội, nhiều nơi mới chỉ tập trung vào lợi ích kinh tế,
chưa chú ý đúng mức phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Vì vậy,
tăng trưởng nhanh nhưng tính ổn định chưa cao, chưa bền vững; tăng trưởng chủ yếu
dựa vào vốn, ít dựa vào nguồn nhân lực chất lượng cao; tăng trưởng chưa đi đôi với
giảm bất bình đẳng thu nhập và xóa đói giảm nghèo; tăng trưởng kéo theo sự ô nhiễm
môi trường.
Hai là, văn hóa phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Đầu tư cho
phát triển văn hóa ít hiệu quả. Một số cơ chế, chính sách chưa phù hợp với thực tiễn
nhưng chậm được sửa đổi; hệ thống thiết chế văn hóa chưa đồng bộ, chưa hoàn chỉnh,
chưa có những công trình có tầm vóc ngang tầm với lịch sử hào hùng của dân tộc.
Việc xây dựng nếp sống văn hóa chưa có chuyển biến tích cực, nhất là trong sinh hoạt
lễ hội, giao tiếp công sở. Tình trạng mất dân chủ, cửa quyền, quan liêu, xuống cấp về
tư tưởng, đạo đức, lối sống chưa được ngăn chặn có hiệu quả. Sự gia tăng tệ nạn xã
hội và tội phạm đáng lo ngại, nhất là trong lớp trẻ. Một ví dụ điển hình cho việc xuống
cấp tư tưởng, đạo đức chính là hiện tượng tham nhũng của các cán bộ, lãnh đạo các
cấp,... vẫn còn nhiều. Hiện nay, Đảng và Nhà nước đã và đang tích cực phòng chống
5
và xử lý tham nhũng, điều đó cho thấy việc tập trung xây dựng, phát triển văn hóa vẫn
luôn được Nhà nước quan tâm và đẩy mạnh phát triển để đi đôi với việc tăng trưởng
kinh tế.
Ba là, việc giải quyết mối quan hệ giữa thực hiện tiến bộ xã hội và công bằng xã
hội còn nhiều bất cập. Do ảnh hưởng từ đại dịch Covid-19, tỷ lệ thất nghiệp ngày càng
tăng cao. Khoảng cách chênh lệch giàu - nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa thành
thị và nông thôn, miền xuôi và miền núi có xu hướng ngày càng giãn ra. Tỷ lệ tái
nghèo gia tăng ở vùng người dân gặp nhiều thiên tai, vùng núi cao, biên giới và hải
đảo. Cụ thể, trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhân dân, mạng lưới y tế tuy được mở
rộng nhưng phân bố chưa hợp lý, chưa thuận tiện cho người dân. Cơ chế, chính sách
bảo hiểm y tế, thu viện phí và khám, chữa bệnh cho người nghèo, đồng bào vùng sâu,
vùng xa, vùng dân tộc thiểu số còn không ít bất cập. Khoảng cách giới còn tồn tại khá
lớn trong một số lĩnh vực của cuộc sống. Trước hết là sự tham gia của phụ nữ trong
lĩnh vực chính trị còn hạn chế, đặc biệt là ở cấp cơ sở.
Qua đó cho thấy, sự nghiệp phát triển văn hoá của nước ta trong thời gian qua đã
đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần tạo động lực tinh thần cho sự phát triển
đất nước; tư tưởng, đạo đức và lối sống có nhiều chuyển biến tích cực; chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng thấm sâu vào nhận thức và hành động của
cán bộ, đảng viên và nhân dân. Nhiều giá trị văn hoá mới, chuẩn mực đạo đức tiến bộ
được khẳng định, dân chủ trong xã hội không ngừng được củng cố và phát huy. Thế
hệ trẻ có khát vọng và ý chí lập thân, lập nghiệp để phát triển đất nước. Các giá trị văn
hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc được kế thừa và phát huy trong điều kiện mới.
Việc tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại làm giàu cho nền văn hoá dân tộc trong thời
kỳ hội nhập quốc tế được chú trọng. Văn hoá đã ngày càng khẳng định vai trò nền tảng
tinh thần của xã hội, là mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Mặt
khác, khi mức sống bình quân của người dân được cải thiện, quá trình đô thị hóa, hiện
đại hóa ngày càng mạnh mẽ thì nhu cầu về văn hoá của nhân dân ngày càng cao là
điều tất yếu. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, giao lưu văn hoá toàn cầu ngày càng
sôi động cũng tác động không nhỏ đến văn hóa Việt Nam. Những thành tựu khoa học
công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin đã và đang kích thích năng lực
sáng tạo và thụ hưởng các giá trị văn hoá của nhân dân. Vai trò của văn hoá trong xây
dựng doanh nghiệp, phát triển kinh tế khu vực và quốc tế ngày càng được coi trọng.
Quá trình dân chủ hoá trong sáng tạo, sản xuất, truyền bá và hưởng thụ các giá trị văn
hoá ngày càng gia tăng trong bối cảnh toàn cầu hoá. Đây là những viễn cảnh thuận lợi
để phát triển văn hóa.

6
CHƯƠNG 3: NHỮNG THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU XÂY DỰNG
Ý THỨC XÃ HỘI MỚI Ở VIỆT NAM VÀ LIÊN HỆ THỰC TẾ
3.1. Thành tựu
Nhờ vào việc Đại hội Đảng XII nhấn mạnh: “Phát triển bền vững văn hóa, xã hội,
gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến
bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”. Kế thừa được những quan điểm ấy,
nhân dân ta đã áp dụng và đạt được những thành tựu đáng kể.
Đảng và Nhà nước ta ngày càng chú trọng về văn hóa; quan tâm đúng mức các
chính sách kinh tế - xã hội; quan hệ biện chứng giữa văn hóa với con người và những
đặc trưng của văn hóa, đặc tính của con người Việt Nam được xác định đầy đủ hơn. Vai
trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và trách nhiệm của các đoàn thể chính trị
- xã hội, của nhân dân, đặc biệt của đội ngũ trí thức đối với sự nghiệp xây dựng, phát
triển văn hóa ngày càng được đề cao. Hệ thống thể chế, thiết chế văn hóa từng bước
được tăng cường. Với từng vùng, miền thì giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được
kế thừa và có bước khởi sắc, nhất là trong điều kiện hội nhập, giao lưu văn hóa với thế
giới. Nhiều di sản văn hóa ngày càng được tôn vinh, bảo tồn và được tôn tạo; xã hội hóa
hoạt động văn hóa ngày càng mở rộng. Văn học, nghệ thuật có bước phát triển mới;
nhiều bộ môn nghệ thuật truyền thống được quan tâm đầu tư gìn giữ; nhiều tác phẩm
về đề tài cách mạng và kháng chiến, về công cuộc đổi mới có chất lượng tốt. Truyền
thông đại chúng phát triển nhanh cả về loại hình, quy mô, lực lượng, phương tiện và có
tầm ảnh hưởng sâu rộng đối với đời sống xã hội. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa” đã khơi dậy được nhiều giá trị nhân văn trong cộng đồng; giao
lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa có nhiều sắc thái mới... Bởi vậy, những năm qua, đời
sống văn hóa, tinh thần của nhân dân từng bước được cải thiện, “bước đầu hình thành
những giá trị mới về con người với các phẩm chất về trách nhiệm xã hội, ý thức công
dân, dân chủ, chủ động, sáng tạo, khát vọng vươn lên”.
Những thành tựu trong phát triển kinh tế giúp con người có điều kiện hơn để phát
triển về thể chất, trí tuệ, đạo đức, nghề nghiệp, có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh
phúc. Ví dụ: Người dân được khám, chữa bệnh bằng các thiết bị hiện đại. Hệ thống các
dịch vụ xã hội cơ bản, thiết yếu được chú trọng đầu tư, phát triển, tạo điều kiện thuận
lợi cho người dân tiếp cận và thụ hưởng, được thể hiện trong việc phổ cập giáo dục;
chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn; xây dựng hệ thống y tế cơ sở và y
tế dự phòng, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; chương trình
nhà ở cho các nhóm đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương, cho công nhân khu công
nghiệp; mạng lưới cấp nước sạch nông thôn; hệ thống thông tin truyền thông cơ sở…
3.2. Thách thức
a) Những biến đổi nhanh chóng và phức tạp của tồn tại xã hội hiện nay

1
Văn hóa, tiến bộ xã hội nằm trong tồn tại xã hội. Muốn tồn tại xã hội phát triển thì
phải kết hợp chặt chẽ với phát triển kinh tế. Tuy nhiên ở nước ta hiện nay yếu tố phát
triển kinh tế đang rất phức tạp. Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
còn có sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. Cụ thể là những yếu tố xã hội cũ
chưa mất đi trong nền kinh tế cũ, trong tư duy kinh tế cũ, trong nếp sinh hoạt của sản
xuất cũ. Đó là sự cùng tồn tại đan xen, hợp tác và cạnh tranh quyết liệt với nhau của các
thành phần, yếu tố kinh tế, quan hệ kinh tế cả tư bản, tiền tư bản và xã hội chủ nghĩa.
Đặc biệt, việc xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, thiết lập quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa nhất thiết phải trải qua quá trình lâu dài, dần dần có lộ trình với những
bước đi thích hợp và thường xuyên được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tiễn
của từng giai đoạn phát triển. Hiện nay các yếu tố mới của chủ nghĩa xã hội đã có nhưng
chưa đầy đủ, các yếu tố mới phải đấu tranh với cái cũ để tồn tại và phát triển.
Ví dụ: Sau hơn 30 năm đổi mới đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật
quan trọng cho sự phát triển kinh tế. GDP hàng năm tăng, năm 2018 thu nhập GDP bình
quân đầu người ước đạt 2.587 USD1, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng
tăng tỉ trọng khu vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông - lâm -
ngư nghiệp.
Việt Nam đã xây dựng nền kinh tế đa dạng hơn, nhiều ngành nghề mới, nhiều sản
phẩm chất lượng cao thuận lợi cho xuất nhập khẩu, hợp tác kinh tế với các nước trong
khu vực, đặc biệt Việt Nam đã tham gia hiệp hội thương mại thế giới WTO năm 2007
mở rộng thị trường.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng. Kinh tế phát
triển chưa bền vững. Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của
nền kinh tế thấp, các cân đối kinh tế vĩ mô chưa vững chắc, cung ứng hiện chưa đáp
ứng yêu cầu. Công tác quy hoạch, kế hoạch và việc huy động, sử dụng các nguồn lực
còn hạn chế, kém hiệu quả, đầu tư còn dàn trải; quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp
nói chung còn nhiều yếu kém, việc thực hiện chức năng chủ sở hữu đối với doanh nghiệp
nhà nước còn bất cập. Tăng trưởng kinh tế vẫn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo
chiều rộng (tăng trưởng theo chiều rộng: là dựa vào sự tăng đầu tư, khai thác tài nguyên,
sức lao động giá rẻ và một số yếu tố lợi thế khác), chậm chuyển sang phát triển theo
chiều sâu (tăng trưởng theo chiều sâu: là dựa vào trình độ công nghệ, quản lý, từ đó
nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả). Các lĩnh vực văn hóa, xã hội có một số
mặt yếu kém chậm được khắc phục, nhất là về giáo dục, đào tạo và y tế; đạo đức, lối
sống trong một bộ phận xã hội xuống cấp. Môi trường ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm
nặng; tài nguyên, đất đai chưa được quản lý tốt, khai thác và sử dụng kém hiệu quả,
chính sách đất đai có mặt chưa phù hợp. Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn
nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển. Nền tảng để

2
Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa được hình thành đầy
đủ. Vẫn đang tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội và đe dọa chủ
quyền quốc gia.
b) Những thách thức và mặt trái của quá trình toàn cầu, hội nhập Quốc tế và Cách
mạng công nghiệp 4.0
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (cách mạng công nghiệp 4.0) là sự kết
hợp của công nghệ trong các lĩnh vực vật lý, công nghệ số và sinh học, tạo ra những
khả năng sản xuất hoàn toàn mới và có tác động sâu sắc đến đời sống kinh tế, chính trị,
xã hội của thế giới. Đứng trước sự phát triển nhanh chóng và tác động của Cách mạng
công nghiệp 4.0 chúng ta gặp phải các khó khăn, thách thức sau đây:
Thứ nhất, “Sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số
lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; thiếu nghiêm trọng các
chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong công nghiệp
và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế; đa phần công nhân từ nông dân, chưa được đào
tạo cơ bản và có hệ thống”.
Thứ hai, mặt bằng chung trình độ văn hóa và tay nghề của công nhân nước ta dù
được cải thiện, song vẫn còn thấp, đã ảnh hưởng đến việc tiếp thu khoa học - kỹ thuật,
đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, với tốc độ
tăng năng suất lao động như hiện nay, thì phải đến năm 2038, năng suất lao động của
công nhân Việt Nam mới bắt kịp Philippines, năm 2069 chúng ta mới bắt kịp được Thái
Lan. Do đó, nếu không tập trung đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có kế
hoạch đào tạo đón đầu, thì chúng ta sẽ bị thiếu hụt nghiêm trọng về lao động khi các dự
án lớn đầu tư vào Việt Nam. Một thực trạng đáng quan tâm khác là tỷ lệ thất nghiệp của
những người đã qua đào tạo đang ngày càng cao…
Ví dụ: Trong thời gian tới, quá trình toàn cầu hóa sản xuất với sự phân công và
hợp tác lao động diễn ra ngày càng sâu rộng giữa các nước trong khu vực và trên thế
giới. Khi chúng ta thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, những rào cản
về không gian kinh tế, hàng hóa, dịch vụ, vốn, khoa học - công nghệ, thị trường lao
động được gỡ bỏ, thì sự cạnh tranh giữa các nước càng trở nên gay gắt. Theo thỏa thuận
trong khuôn khổ Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), 8 lĩnh vực ngành nghề được tự do
di chuyển, gồm nha khoa, điều dưỡng, kỹ thuật, xây dựng, kế toán, kiến trúc, khảo sát
và du lịch. Việc công nhận trình độ lẫn nhau về kỹ năng nghề sẽ là một trong những
điều kiện rất quan trọng trong việc thực hiện dịch chuyển lao động giữa Việt Nam với
các nước trong khu vực. Nhưng đây cũng sẽ là thách thức cho Việt Nam, vì số lượng
công nhân lành nghề ở nước ta còn khiêm tốn, buộc phải chấp nhận nguồn lao động di
cư đến từ các nước khác có trình độ cao hơn. Thời gian tới, nếu trình độ của công nhân

3
nước ta không được cải thiện để đáp ứng yêu cầu, thì chúng ta sẽ bị thua ngay trên “sân
nhà”.
c) Sự suy thoái về tư tưởng, phẩm chất, đạo đức ở một bộ phận cán bộ, đảng viên
Sự suy thoái về tư tưởng, phẩm chất đạo đức ở một bộ phận cán bộ đảng viên cũng
là một thách thức không nhỏ trong việc thay đổi ý thức xã hội, tồn tại xã hội. Sự lãnh
đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta và
công tác xây dựng Đảng luôn luôn là nhiệm vụ then chốt của Đảng, có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng nước ta. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã
lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức và đạt được những thành tựu
to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Bên cạnh những kết quả, thành tích đã đạt được, việc thực
hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII của Đảng cũng còn những hạn chế, khuyết
điểm:
Thứ nhất, một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý
nhận thức chưa đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng;
chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý
chí chiến đấu, đặc biệt là sa vào chủ nghĩa cá nhân, nói không đi đôi với làm, vi phạm
kỷ luật Đảng, vi phạm pháp luật của Nhà nước.
Thứ hai, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, tự phê bình và phê bình; công tác kiểm
tra, giám sát của nhiều tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên còn hạn chế. Hệ thống chính
trị ở nước ta chưa thực sự trong sạch, vững mạnh như mong muốn; không ít cán bộ,
đảng viên, nhất là những người có chức, có quyền, làm việc ở những ngành, lĩnh vực
dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực vẫn thiếu tu dưỡng và rèn luyện, vẫn sa vào chủ nghĩa
cá nhân, vi phạm các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bị xử lý kỷ luật của
Đảng và xử lý hình sự.
Thứ ba, cơ chế kiểm soát quyền lực và chế tài xử lý vi phạm ở nhiều lĩnh vực chưa
có, hoặc có nhưng chưa cụ thể, thực hiện chưa nghiêm. Hoạt động giám sát của Mặt
trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện
của cán bộ, đảng viên chưa hiệu quả; chưa phát huy đầy đủ sức mạnh tổng hợp của cả
hệ thống chính trị trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác
các quan điểm sai trái, thù địch...
Ví dụ: Sáng 10-1, Ban Bí thư đã tổ chức Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác
kiểm tra, giám sát năm 2022, triển khai nhiệm vụ năm 2023. Báo cáo do Phó chủ nhiệm
thường trực Ủy ban Kiểm tra Trung ương Trần Văn Rón trình bày nêu rõ: trong năm
2022, ủy ban kiểm tra các cấp đã kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 3.533 tổ chức
đảng và 10.475 đảng viên (tăng 17,57% tổ chức đảng và 16,62% đảng viên so với năm
2021). Trong đó qua kiểm tra, kết luận có 2.333 tổ chức đảng và 8.003 đảng viên có vi
phạm; phải thi hành kỷ luật 333 tổ chức đảng và 3.909 đảng viên; đã thi hành kỷ luật

4
244 tổ chức đảng, 3.595 đảng viên. Cấp ủy các cấp và chi bộ đã thi hành kỷ luật 410 tổ
chức đảng, 16.202 đảng viên. Ban Chấp hành Trung ương thi hành kỷ luật khai trừ ra
khỏi Đảng 4 đảng viên; Bộ Chính trị thi hành kỷ luật 11 tổ chức đảng; Ban Bí thư thi
hành kỷ luật 10 tổ chức đảng, 43 đảng viên. Có 10 ủy viên Trung ương Đảng, nguyên
ủy viên Trung ương Đảng bị thi hành kỷ luật. Ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ
luật 101 tổ chức đảng và 5.356 đảng viên. Nội dung vi phạm của tổ chức đảng và đảng
viên chủ yếu về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc; công tác
cán bộ; quản lý, sử dụng đất đai, tài chính, tài sản; thực hiện đề án nghiên cứu khoa học,
dự án đầu tư; mua sắm trang thiết bị, vật tư y tế phục vụ công tác phòng, chống dịch
COVID-19; giải cứu đưa công dân về nước trong đại dịch COVID-19.
d) Sự chống phá điên cuồng trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, ý thức của các thế lực thù
địch
Hiện nay, trước những biến động chính trị phức tạp trên thế giới, một số người
dao động, hoài nghi về con đường xã hội chủ nghĩa, thậm chí phủ nhận thành quả của
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; phủ nhận lịch sử cách
mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sùng bái nước ngoài, coi thường những giá
trị văn hoá dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ,… đang gây hại đến
thuần phong mỹ tục của dân tộc. Các thế lực thù địch đang hằng ngày, hằng giờ sử dụng
con bài tư tưởng, văn hóa làm đòn tấn công phủ đầu, dọn đường thực hiện các thủ đoạn
khác để chống phá cách mạng nước ta. Chúng tuyên truyền, xâm nhập các loại văn hóa
độc hại, lối sống cơ hội, thực dụng, ích kỷ, hẹp hòi, vô cảm vào đời sống xã hội, với
mục đích hình thành lối sống tiêu cực, đi ngược lại thuần phong, mỹ tục của dân tộc,...
Tất cả những điều đó có tác động không nhỏ đến sự phát triển nền văn hóa Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng và đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân, sự đồng thuận
xã hội. Bởi vậy, cần phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng, nhất là
trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, báo chí, xuất bản,… đấu tranh với quan điểm sai trái
và mưu đồ đen tối của các thế lực thù địch lợi dụng văn hóa để chống Đảng và chế độ
ta.
Ví dụ: Một số tổ chức được thành lập, hoạt động hoàn toàn trên mạng và sử dụng
Internet tuyên truyền chống Việt Nam là mặt hoạt động chính. Điển hình trong số này
là tổ chức “Người Việt vì dân tộc Việt” do Nguyễn Xuân Châu ở Australia cầm đầu.
“Việt Tân” là một trong những tổ chức phản động lưu vong đã đề ra chủ trương, xây
dựng các kế hoạch, chiến dịch, đầu tư tài chính lớn cho hoạt động sử dụng Internet tuyên
truyền chống Việt Nam.
3.3. Giải pháp đề xuất
Giải pháp góp phần thúc đẩy xây dựng ý thức xã hội mới cho con người Việt Nam.

5
Một là, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH), xây
dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa (XHCN). Ý thức
xã hội là sự phản ánh và do tồn tại xã hội quyết định, do đó, để xây dựng ý thức xã hội
mới Việt Nam, trước hết cần phải tiếp tục đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH, xây dựng và
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Quá trình CNH, HĐH chính là
nhằm tạo nền tảng vật chất cho sự hình thành và phát triển của ý thức xã hội mới. Ở
nước ta, sự tồn tại của xã hội nông nghiệp cổ truyền theo phương thức sản xuất châu Á
đã kéo dài hàng nghìn năm. Đó là nền sản xuất mang tính chất tự cấp, tự túc được tiến
hành theo kinh nghiệm; công cụ thủ công, thô sơ, lạc hậu; có tính chất phân tán, khép
kín... Nền sản xuất với những đặc điểm như vậy đã trở thành cơ sở quan trọng nhất để
hình thành nên những quan điểm, tư tưởng, thói quen, phong tục... của con người Việt
Nam. Vì vậy, muốn xây dựng ý thức xã hội mới thì nhiệm vụ quan trọng có tính nền
tảng là cần phải xóa bỏ nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu.
Hai là, không ngừng hoàn thiện ý thức xã hội mới theo hướng khoa học, cách
mạng, tiến bộ, đáp ứng yêu cầu xây dựng xã hội mới, con người mới.
Ngày càng nâng cao ý thức chính trị, đạo đức, tôn giáo, giữ gìn và phát huy những giá
trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc, kiên quyết đấu tranh chống lại những ý
thức phản tiến bộ trong xã hội: Thứ nhất, phải chú ý kế thừa và phát huy các giá trị
truyền thống của dân tộc song song với việc tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân
loại phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Muốn hoàn thành tốt công việc này, chúng ta cần
phải biết phân biệt những giá trị tích cực và những yếu tố lạc hậu, không còn phù hợp
của truyền thống, của quá khứ; phải biết cải biến, chuyển hóa các yếu tố tích cực cũ để
phù hợp với điều kiện tồn tại mới… Ở nước ta hiện nay, sự tồn tại của những tư tưởng,
phong tục, tập quán lạc hậu vẫn còn khá phổ biến, với những biểu hiện như trọng nam
khinh nữ, gia trưởng...; là sự tồn tại của tâm lý tiểu nông với biểu hiện rất đa dạng như
thói tự do, tùy tiện, tâm lý “ăn xổi, ở thì”, thiếu nhìn xa, trông rộng...; của tâm lý làng
xã, biểu hiện ở thói cục bộ địa phương cũng như những tư tưởng, thói quen, tập quán
tiêu cực được hình thành trong thời kỳ tập trung bao cấp... Những tư tưởng, phong tục,
tập quán lạc hậu này vẫn đang tác động tới đời sống xã hội. Do vậy, một trong những
nhiệm vụ quan trọng của việc xây dựng đời sống tinh thần nói chung và ý thức xã hội
mới nói riêng hiện nay ở nước ta là tiến hành đấu tranh hạn chế và khắc phục các loại
hình tư tưởng, phong tục, tập quán cũ, lạc hậu đó. Nhận thức được tầm quan trọng của
vấn đề này, sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Chúng ta phải thay đổi
triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn
năm... chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hoá cao và đời
sống tươi vui hạnh phúc”.

6
Bên cạnh đó, cần xây dựng con người có thế giới quan khoa học, hướng tới chân
– thiện – mỹ. Trong đó, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống
tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: Yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết,
cần cù, sáng tạo. Gắn xây dựng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức với thực hiện quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức đáp
ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa… Bên cạnh trí lực
cũng cần nâng cao thể lực, tầm vóc con người Việt Nam, gắn giáo dục thể chất với giáo
dục tri thức, đạo đức, kỹ năng sống, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Để hoàn thiện ý thức xã hội mới, song song với việc xây dựng các đặc điểm, yếu
tố, ý thức tích cực cho cá nhân, cộng đồng, cần đẩy mạnh việc đấu tranh phê phán các
biểu hiện chưa lành mạnh, sai trái của các cá nhân, nhóm người để góp phần định hướng
những chuẩn mực về lối sống, đạo đức, ý thức… mà mọi người cần hướng tới.
Ba là, phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, mở rộng dân chủ, khơi dậy tính chủ
động tự giác của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Để phát huy vai trò lãnh
đạo của mình, Đảng cần thường xuyên chỉ đạo uốn nắn những nhận thức lệch lạc, mơ
hồ, những biểu hiện dao động về tư tưởng, suy giảm niềm tin vào chủ nghĩa xã hội và
sự lãnh đạo của Đảng, đấu tranh không khoan nhượng chống chủ nghĩa cá nhân, những
biểu hiện cơ hội, thực dụng, bè phái, cục bộ, phê phán bác bỏ các quan điểm sai trái thù
địch, chủ động đối phó với các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực lợi dụng vấn đề tôn
giáo, dân tộc và nhân quyền chống phá cách mạng nước ta. Ngoài ra, để làm tốt vai trò
lãnh đạo, Đảng phải đổi mới, tự chỉnh đốn nhằm nâng cao năng lực, sức chiến đấu mà
trước hết là bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của Đảng. Để mở rộng dân chủ, khơi dậy
tính chủ động tự giác của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân cần khắc phục
những biểu hiện tâm lý vốn được coi là hậu quả của nền kinh tế tập trung, quan liêu,
bao cấp như tâm lý thụ động, trông chờ, ỷ lại, xin cho, đối phó; khắc phục tâm lý của
nền kinh tế tiểu nông, sản xuất nhỏ lâu dài của lịch sử và hiện nay vẫn còn tồn tại tâm
lý lạc hậu, kinh nghiệm chủ nghĩa, tuỳ tiện, đố kỵ, coi thường pháp luật và cả những
tâm lý vốn khá phổ biến ở những nước chịu nhiều ảnh hưởng của Nho giáo (như tâm lý
trọng nam khinh nữ, tâm lý gia trưởng…). Đặc biệt, trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý, những tâm lý này còn có nhiều biểu hiện, biến tướng và gây hậu quả nặng nề, biến
họ thành những kẻ cơ hội, cá nhân chủ nghĩa… Ngoài ra, còn cần phải tập trung chỉ đạo
thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi nhất
cho nhân dân tự do sản xuất, kinh doanh theo pháp luật, góp phần phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội, không ngừng nâng cao đời sống Nhân dân.
Bốn là, tăng cường công tác tư tưởng thông qua đẩy mạnh phát huy vai trò của các
phương tiện thông tin đại chúng trong quá trình tuyên truyền, giáo dục ý thức xã hội
mới. Công tác tuyên truyền, giáo dục được sử dụng thông qua nhiều phương thức khác

7
nhau. Trong đó, với đặc điểm thông tin nhanh, độ lan toả rộng, các phương tiện truyền
thông xã hội đóng vai trò ngày càng quan trọng trong tuyên truyền các quan điểm, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và ý thức xã hội mới. Trong bối
cảnh hiện nay, tuyên truyền chính trị ở nước ta tập trung chủ yếu vào các nội dung:
tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, chủ trương,
đường lối của Đảng; chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”; tuyên truyền các sự kiện
chính trị trong nước và quốc tế. Các nội dung tuyên truyền và giáo dục đó giúp các tầng
lớp nhân dân hiểu rõ hơn về đường lối, quan điểm , chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, kể cả những chính sách đang thực hiện và những mục tiêu
hướng tới. Nếu người dân hiểu và nhận thức rõ các chủ trương, đường lối, chính sách
đó thì sẽ tin tưởng, ủng hộ, qua đó tạo sự thống nhất cao trong hành động, góp phần
thực hiện thành công các mục tiêu phát triển đất nước theo quan điểm, chủ trương,
đường lối của Đảng. Hiện nay có thể sử dụng nhiều hình thức, biện pháp khác nhau,
như tuyên truyền miệng, tuyên truyền qua sách, báo… Ngoài ra, trong bối cảnh cách
mạng công nghiệp lần thứ tư, kỷ nguyên số, việc sử dụng các phương tiện truyền thông
xã hội là một hình thức tuyên truyền cần thiết phải sử dụng. Các phương tiện truyền
thông xã hội kết nối các thành viên tham gia với nhau trên môi trường không gian mạng
với nhiều mục đích khác nhau, không phân biệt không gian và thời gian; qua đó đổi mới
hoàn toàn cách cư dân mạng liên kết với nhau và trở thành một phần của cuộc sống
hằng ngày của hàng tỷ người trên thế giới. Ở nước ta, các phương tiện truyền thông xã
hội nổi tiếng ngoài nước và trong nước đang được nhiều người sử dụng như Facebook,
Instagram, Twitter, Tiktok,… với đặc tính dễ kết nối, dễ chia sẻ, dễ tương tác, ẩn danh
và nhiều người sử dụng, nên sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội trong tuyên
truyền và giáo dục ý thức, chính trị đem đến cả khía cạnh tích cực và tiêu cực. Nhờ đặc
điểm thông tin nhanh chóng, thuận tiện hơn so với cách thức tuyên truyền truyền thống,
phù hợp với các tầng lớp nhân dân, kể cả người dân vùng sâu, vùng xa, trong thời gian
qua, các phương tiện truyền thông xã hội góp phần tuyên truyền các quan điểm, chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những anh hùng giải
phóng dân tộc, danh nhân văn hoá đất nước, các phong trào thi đua yêu nước,… Qua
đó, thấy rõ được những thành tựu trong phát triển kinh tế- xã hội của đất nước; đồng
tình, ủng hộ đường lối đổi mới đất nước. Góp phần tập hợp quần chúng, tạo nên những
phong trào chính trị rộng khắp. Hơn nữa, với đặc điểm là có sự tương tác giữa chủ thể
truyền tin và công chúng tiếp nhận, đo lường được những vấn đề mà công chúng quan
tâm, các phương tiện truyền thông xã hội dễ nắm bắt được xu hướng, nhu cầu thông tin
của các tầng lớp nhân dân, qua đó, góp phần định hướng dư luận xã hội, đặc biệt là
những vấn đề mang tính nhạy cảm, cần thông tin kịp thời. Để tăng cường trau dồi thêm
ý thức xã hội mới cho người dân Việt Nam thì các phương tiện truyền thông xã hội cần

8
tạo ra những hiệu ứng lan toả tích cực trong xã hội; đồng thời, phản bác các quan điểm
sai trái, âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch; ngăn chặn các thông tin
xấu, độc, mang tính thất thiệt, tin giả; qua đó củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh
đạo của Đảng, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; góp phần nâng cao
nhận thức, hành vi chính trị cho các tầng lớp nhân dân.
Năm là, tăng cường giáo dục truyền thống lịch sử và truyền thống cách mạng của
dân tộc cho các thế hệ trẻ. Cần khẳng định những giá trị tốt đẹp trong truyền thống văn
hoá dân tộc, đặc biệt là truyền thống yêu nước và đại đoàn kết dân tộc, tinh thần độc
lập, tự cường, lòng tự hào dân tộc thể hiện ở văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể.
Một thực tế không thể phủ nhận là với sự phát triển mạnh mẽ của cá phương tiện thông
tin đại chúng hiện đại như hiện nay, với sự không kiểm soát nổi nhiều nội dung mà các
phương tiện đó chuyển tải đó ảnh hưởng đến việc nhận thức các giá trị truyền thống của
dân tộc. Không ít người đã bị những lợi ích vật chất cám dỗ, chạy theo lối sống hưởng
thụ, không quan tâm hoặc coi thường các giá trị văn hoá truyền thống dân tộc, cho đó
là những cái xưa cũ, lỗi thời. Do vậy, cần tuyên truyền giáo dục truyền thống cách mạng,
truyền thống lịch sử nhằm vun đắp và phát huy niềm tự hào dân tộc, đặc biệt là cho lớp
trẻ – những người chủ tương lai của đất nước, hướng họ đến với các giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc – cội nguồn tạo nên bản sắc văn hoá, cốt cách và sức mạnh của con
người Việt Nam. Lớp trẻ hiện nay thường có xu thế hướng sự chú ý vào các ngôi sao
màn bạc hay những ca sỹ nổi tiếng mà ít quan tâm đến các sự kiện lịch sử trọng đại và
truyền thống văn hoá dân tộc. Do vậy, cần khai thác lợi thế do các phương tiện truyền
thông hiện đại đem lại để giáo dục truyền thống lịch sử và truyền thống cách mạng cho
thế hệ trẻ.
Sáu là, xác lập bản lĩnh văn hóa dân tộc Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc
tế. Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, chúng ta đang có những cơ hội, điều kiện thuận
lợi để tiếp nhận các giá trị, tinh hoa văn hoá nhân loại nhằm làm giàu thêm, phong phú
thêm các giá trị văn hoá của dân tộc mình. Nhưng, như đã phân tích ở trên, toàn cầu hoá
không những tạo ra những cơ hội, điều kiện thuận lợi mà còn đặt ra vô vàn thách thức,
khó khăn đối với mọi quốc gia, dân tộc. Để tồn tại và phát triển trong bối cảnh toàn cầu
hoá, trên phương diện ý thức tinh thần, chúng ta cân tiếp cận các giá trị văn hoá của
nhân loại để hiện đại hoá nền văn hoá dân tộc, song cũng cần giữ gìn, phát huy các giá
trị truyền thống để không bị hoà tan, không đánh mất bản thân mình. Hơn nữa, phải
biến các giá trị đó thành sức mạnh nội sinh để nâng đất nước ta lên tầm cao mới. Chính
vì vậy, chúng ta cần phải xác lập được bản lĩnh văn hoá Việt Nam, khẳng định được
nhũng giá trị tốt đẹp trong ý thức truyền thống dân tộc, làm phong phú thêm nội dung
các giá trị truyền thống đó, tạo nền tảng văn hoá tinh thần cho sự phát triển bền vũng
của đất nước. Việc bảo vệ, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc không có nghĩa

9
là chỉ quay về bảo vệ các giá trị văn hoá đó có trong lịch sử mà điều cốt lõi là phải sáng
tạo các giá trị văn hoá mới phản ánh bản lĩnh, cốt cách, lối sống của dân tộc. Một trong
những trọng tâm để bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc hiện nay là phải sáng tạo các giá trị
văn hoá mới khẳng định tầm vóc, sức sống và truyền thống bất diệt của dân tộc.
Bảy là, tăng cường mở rộng quá trình giao lưu hợp tác quốc tế về văn hóa. Trong
xu thế toàn cầu hoá hiện nay, chủ động giao lưu hợp tác quốc tế về văn hoá là yêu cầu
cấp thiết để vừa có thể giới thiệu những thành tựu văn hoá của Việt Nam với cộng đồng
quốc tế, vừa có thể tiếp nhận những thành tựu tiến bộ và tích cực của văn hoá thế giới,
làm giàu cho nền văn hoá dân tộc. Bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc không
có nghĩa là biến văn hoá dân tộc thành “bảo tàng”, “cố định hoá”, “khép kín”, mà phải
“năng động hoá”, tạo cho nó một nguồn lực mới có khả năng thích nghi với sự biến đổi
của thời đại để phát triển liên tục. Đó là một thách thức lớn đối với nền văn hoá Việt
Nam hiện nay.
Quá trình giao lưu văn hoá quốc tế hiện nay cũng diễn ra hết sức phong phú và đa
dạng bằng nhiều con đường khác nhau. Đặc biệt, sự phát triển của công nghệ thông tin
đó làm biến đổi cách thức giao lưu văn hoá giữa các dân tộc khác nhau. Vì vậy, cần
phải lưu ý tới sự biến đổi của các hình thức giao lưu văn hoá trong xu thế toàn cầu hoá
để có thể xử lý một cách khoa học các tình huống xảy ra nhằm đảm bảo giữ vững định
hướng phát triển và bảo tồn nhũng giá trị tinh thần truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

10
KẾT LUẬN
Văn hoá và kinh tế là hai yếu tố không thể tách rời nhau. Bỡi vì văn hoá là tổng
hoà các giá trị vật chất và tinh thần theo tính chân, thiện, mỹ, do hoạt động của con
người sáng tạo ra, thông qua các phương thức sinh tồn của đời sống xã hội và ngày càng
phát triển. Văn hoá là sự phát triển, tiến bộ và phát triển, tiến bộ là văn hoá. Các hoạt
động văn hóa chỉ có trong đời sống con người và đạt được chất chất lương, hiệu quả khi
nó đáp ứng được nguyện vọng của con người; nó thấm sâu vào mỗi gia đình, cộng đồng
dân cư, tạo nên sự chuyển biến sâu sắc và trở thành thước đo giá trị về chất lượng cuộc
sống, về sự phát triển nhân cách con người, về nét đẹp trong mỗi gia đình, dòng họ và
cộng đồng dân cư; góp phần xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, ổn định, tạo đà
cho sự gia tăng phát triển kinh tế ở mỗi địa phương.
Đại hội lần thứ XII của Đảng có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống chính trị
của đất nước. Nhân dân đặt nhiều kỳ vọng vào những quyết sách đúng đắn, mạnh mẽ,
phù hợp của Đảng để phát huy thuận lợi, vượt qua mọi khó khăn, tiếp tục đưa đất nước
ta phát triển nhanh, bền vững. Đại hội lần này đã có những nội dung thể hiện tư duy đổi
mới mạnh mẽ, đúng đắn của Đảng. Sự thay đổi ấy là sự thay đổi có tính kế thừa, vận
dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện
thực tế của đất nước.

11
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb
Chính trị quốc gia.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb
Chính trị quốc gia.
4. Giáo trình Đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam - Học viện chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh - Nhà xuất bản Lý luận chính trị.
5. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin - Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia.
6. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H.2016, tr.123.
7. TS. Trần Sỹ Dương, Tạp chí điện tử Lý Luận Chính Trị, “Quan điểm của triết học
Mác - Lênin về ý thức xã hội và ý nghĩa đối với việc xây dựng ý thức xã hội mới hiện
nay”, <http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/4056-quan-
diem-cua-triet-hoc-mac-lenin-ve-y-thuc-xa-hoi-va-y-nghia-doi-voi-viec-xay-dung-y-
thuc-xa-hoi-moi-hien-nay.html>, truy cập ngày 25/04/2023.

12

You might also like