You are on page 1of 27

ÔN TẬP CUỐI KỲ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Chương 2: Tư tưởng HCM về cách mạng giải phóng dân tộc

Tư tưởng HCM về CMGPDT: Con đường CMVS  Phải do ĐCS lãnh đạo  Là sự
nghiệp đoàn kết toàn dân tộc  Cần tiền hành chủ động sáng tạo  Được thực
hiện bằng con đường bạo lực
2.1 Tính chất, nhiệm vụ và mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc.
 Tính chất và nhiệm vụ
Bằng phương pháp lịch sử cụ thể, bám sát thực tiễn xã hội thuộc địa, HCM nhận
thấy sự phân hóa giai cấp ở các nước thuộc địa phương Đông không giống các nước
tư bản phương Tây. Do vậy, nó hình thành những mâu thuẫn chủ yếu khác nhau, dẫn
đến tính chất cuộc đấu tranh cách mạng ở các nước TBCN và các nước thuộc địa là
khác nhau. Mâu thuẫn chủ yếu ở các nước TBCN phương Tây là mâu thuẫn giai cấp
vô sản và tư sản, trong khi mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội thuộc địa phương Đông
là mâu thuẫn dân tộc, giữa dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa thực dân.
Nhận thức được thực tiễn xã hội thời điểm đó, trong tác phẩm Đường Cách
Mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã nhấn mạnh tính chất và nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
ở các nước thuộc địa nói chung và Việt Nam nói riêng là cuộc cách mạng, đấu tranh
giải phóng dân tộc không phải là cuộc đấu tranh giai cấp như ở các nước tư bản.
Trong tư duy chính trị của HCM, giải phóng dân tộc đã bao hàm một phần giải phóng
giai cấp và giải phóng con người.
Đối tượng của cách mạng thuộc địa không phải là giai cấp tư sản hay giai cấp
địa chủ nói chung mà là chủ nghĩa thực dân và tay sai phản động. Đế quốc và tay sai
là kẻ thù số một của nông dân, lực lượng đông đảo nhất và cũng là nạn nân chính
của các chính sách khai thác thuộc địa, bóc lột, cướp đoạt ruộng đất của bọn đế quốc
thực dân. Do đó, lật đổ chế độc thuộc địa, độc lập dân tộc là nguyện vọng hàng đầu
của nông dân.
 Mục tiêu
Trong nhiều bài nói, bài viết, HCM luôn xác định rõ 3 mục tiêu cơ bản của cách
mạng giải phóng dân tộc là đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, giành độc
lập dân tộc, thiết lập chính quyền của nhân dân.
2.2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường CMVS
 Rút ra bài học kinh nghiệm từ thực tiễn các con đường cứu nước ở VN trước
đó
Sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước đã bị biến thành thuộc địa, nhân dân
lầm than, HCM đã chứng kiến rất nhiều phong trào cứu nước của ông cha ta từ
đường lối cứu nước theo lập trường phong kiến đến nông dân, tư sản, tiểu tư sản,
song tất cả đều thất bại. Nguyên nhân thất bại đều do thiếu đi 1 đường lối, phương
pháp đấu tranh đúng đắn trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc đã trở thành một hệ
thống thế giới, đẫn đến CM Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng và bế tắc. Nhìn
nhận và rút ra bài học kinh nghiệm từ thực tiễn đó, HCM quyết tâm ra đi, tìm hiểu lý
luận và khảo sát thực tiễn ở 3 nước tư bản phát triển: Anh, Pháp, Mỹ.
 Rút ra bài học từ thực tiễn các cuộc cách mạng trên thế giới: CM tư sản là không
triệt để
Trong vòng mười năm, đến với cần lao đang đấu tranh ở nhiều châu lục và quốc
gia trên thế giới, Người đã đọc được Tuyên ngôn độc lập Mỹ, tìm hiểu thực tiễn cuộc
cách mạng tư sản Mỹ cũng như đọc Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền CM Pháp,
tìm hiểu cuộc cách mạng Pháp. Từ 2 cuộc cách mạng đó, Người đã nhận thấy cách
mạng ở Pháp và Mỹ hay cách mạng tư sản nói chung đều là cách mạng không đến
nơi, “tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì
nó áp bức thuộc địa”. Vì vậy, Người nhận định cách mạng Việt Nam không thể đi
theo con đường này.
 Con đường giải phóng dân tộc
Từ chối đi theo con đường cách mạng tư sản, HCM cho rằng con đường giải
phóng dân tộc là con đường đi theo Chủ nghĩa Mác – Lênin.
Sự kiện thực tiễn và lý luận quan trọng đã tác động trực tiếp đến việc HCM tìm
ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc là việc HCM thấy được CM Tháng
Mười Nga năm 1917 và đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề
dân tộc và thuộc địa của Lênin (1920). Người nhận thấy CMT10 Nga không chỉ là một
cuộc CMVS mà còn là một cuộc CM giải phóng dân tộc và tìm thấy trong lý luận của
Lênin một phương hướng mới để giải phóng dân tộc: con đường CMVS. Người khẳng
định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường CMVS”. Và trong tư tưởng của Người, để thực hiện được điều đó cần tiến
hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc (lực lượng lãnh đạo là giai cấp công dân và
đội tiên phong của nó là ĐCS) và dần dần từng bước tiến tới xã hội cộng sản.
 Thực chất con đường giải phóng dân tộc của HCM
Con đường cứu nước mà Hồ Chí Minh tìm thấy là con đường giải phóng dân tộc
theo cách mạng vô sản. Thực chất đây là con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp và giải phóng con
người. Con đường này đã đáp ứng được đòi hỏi bức xúc của lịch sử dân tộc là phải
giải quyết triệt để mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp để đưa dân tộc thoát ra
khỏi xiềng xích nô lệ và đưa người lao động thoát ra khỏi mọi ách áp bức.
2.3 CM GPDT trong thời đại mới phải do ĐCS lãnh đạo
Từ trước đến nay, mọi phong trào yêu nước, các cuộc đấu tranh đều cần một
người hay một tổ chức trực tiếp tổ chức và lãnh đạo. Trước HCM, các bậc tiền bối
trong nước đã nhận ra sự cần thiết phải lập ra một chính đảng, các nhà lý luận Mác
– Lênin cũng nhấn mạnh sự tiên quyết, không thể thiếu của chính đảng cách mạng
trong một công cuộc cách mạng. Trên tinh thần đó, HCM đã khẳng định muốn làm
cách mạng trước hết phải có Đảng. Người viết:”Muốn làm cách mệnh, trước phải
làm cho dân giác ngộ…phải giảng lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu”, “Cách mệnh
phải hiểu phong trào thế giới, phải bày sách lược cho dân… Vậy nên sức cách mệnh
phải tập trung, muốn tập trung phải có đảng cách mệnh” đồng thời HCM cũng khẳng
định cách mạng muốn thành công “Trước hết phải có đảng cách mệnh để trong thì
vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai
cấp ở khắp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công cũng như người cầm
lái có vững thuyền mới chạy” – Đường cách mệnh, HCM. Thêm vào đó, HCM chỉ rõ
“chỉ có sự lãnh đạo của Đảng mới biết vận dụng một cách sáng tạo Chủ nghĩa Mác –
Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta thì mới đưa cách mạng giải phóng dân tộc
giành thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công”.
Từ những điều trên, đầu 1930, Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một
chính đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam,
lấy chủ nghĩa Mác – Lênin “làm cốt”, mang bản chất của giai cấp công nhân, có tổ
chức, kỷ luật và mật thiết liên lạc với quần chúng. Và ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã
quy tụ được lực lượng và sức mạnh của toàn bộ giai cấp công nhân và cả dân tộc Việt
Nam, nhờ đó, Đảng đã nắm ngọn cờ lãnh đạo duy nhất đối với CMVN và trở thành
nhân tố hàng đầu bảo đảm cho mọi thắng lợi của cách mạng.
2.4. Lực lượng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc
Xuất phát từ truyền thống toàn dân đánh giặc của dân tộc VN cũng như nguyên
lý cách mạng là sự nghiệp của quần chúng của CN Mác – Lênin, HCM đã khẳng
định:”Cách mệnh là việc chung của dân chúng chứ không phải việc một hai người”,
Người nghiêm khắc phê phán việc lấy ám sát cá nhân và bạo động non làm phương
thức hành động. Để có thể thắng lợi trong cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương,
phải là một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải là một cuộc nổi loạn. Trong
tư tưởng HCM, toàn thể dân tộc là tất cả mọi giai cấp, tầng lớp trong đó nòng cốt là
liên minh giai cấp công nhân và nông dân.
Đối với HCM, Người khẳng định rõ động lực của cuộc CM là giai cấp công nhân
và nông dân với “Công nông là gốc cách mạng”. Đồng thời, Người cũng chỉ rõ, phải
lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh, “Có dân là có tất cả”, “Dễ trăm lần không dân
cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Đây cũng chính là quan điểm xuyên suốt
quá trình chỉ đạo chiến tranh của Người.
Trong công cuộc khởi nghĩa vũ trang, HCM đánh giá rất cao vai trò của quần
chúng nhân dân, Người xem sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo vô tận của quần
chúng là nhân tố then chốt bảo đảm thắng lợi.
 Chiến lược tập hợp lực lượng cách mạng
Dưới chế độ cai trị của CNTB Pháp, Việt Nam bị biến thành một xã hội thuộc địa
với những tàn tích phong kiến nặng nề, các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và
giai cấp đều bị đặt trong quỹ đạo chuyển động của xã hội phong kiến thay vì xã hội
thuộc địa. Do đó, tuy giai cấp tư sản dân tộc và bộ phận địa chủ vừa và nhỏ có mặt
hạn chế trong quan hệ với quần chúng lao động nhưng trong quan hệ với thực dân
Pháp, họ vẫn là giai cấp bị trị, những người Việt Nam chịu nỗi nhục mất nước, đều
có khả năng tham gia phong trào giải phóng dân tộc. Vì thế, trong Cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng, Người xác định lực lượng cách mạng là bao gồm cả dân tộc:
“Đảng phải tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, giai cấp nông dân; lôi kéo tiểu
tư sản, trí thức, trong nông… đi vào phe vô sản giai cấp; đối với phú nông, trung, tiểu
địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu
mới (ít nhất cũng là) làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách
mạng (như Đảng Lập Hiến) thì phải đánh đổ”.
Trong lực lượng toàn dân tộc, HCM hết sức nhấn mạnh vai trò động lực cách
mạng của công nhân và nông dân, Người khẳng định: công nông “là gốc cách mệnh”,
nhưng cũng không xem nhẹ khả năng tham gia sự nghiệp giải phóng dân tộc của các
giai cấp và tầng lớp khác. Người coi tiểu tư sản, tư sản dân tộc và một bộ phận giai
cấp địa chủ là bạn đồng minh cách mạng.
2.5. Cách mạng giải phóng dân tộ cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả
năng giành thắng lợi trước CMVS ở chính quốc
 Cách mạng giải phóng dân tộ cần được tiến hành chủ động, sáng tạo
Trong tư tưởng HCM, các nước thuộc địa là nơi cung cấp lương thực, quân lính
cho các cuộc đấu tranh phi nghĩa của CNTB khi chuyển sang CNĐQ. Và vì thế, các
nước thuộc địa trở thành một trong những nguồn sống của CNĐQ.
Trong cuộc đấu tranh chống CNĐQ, CNTD, cách mạng thuộc địa có tầm quan
trọng đặc biệt. Nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng cách mạng to lớn. Theo
HCM, phải “Làm cho các dân tộc thuộc địa từ trước đến nay vẫn tách biệt nhau, hiểu
biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương
lai, khối liên minh là một trong những cái cánh của CMVS”.
Bên cạnh đó, HCM còn đề cao sự tự lực cánh sinh. Đối với Người, trong công
cuộc kháng chiến chống thực dân giành độc lập, “một dân tộc không tự lực cánh sinh
mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng độc lập”. Chính vì vậy, mặc
dù trong khi yêu cầu Quốc tế Cộng sản và các đảng cộng sản quan tâm đến CM thuộc
địa, HCM vẫn khẳng định công cuộc giải phóng nhân dân thuộc địa chỉ có thể thực
hiện được bằng sự nỗ lực giải phóng, “công cuộc giải phóng các thuộc địa chỉ có thể
thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân nhân dân các thuộc địa”.
Qua đó, ta thấy, độc lập, tự chủ, tự lực tự cường kết hợp với tranh thủ sự giúp
đỡ quốc tế là một quan điểm nhất quán trong tư tưởng HCM.
 Quan hệ của CMGPDT thuộc địa với CMVS ở chính quốc
Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi
của CM thuộc địa phụ thuộc vào thắng lợi của CMVS ở chính quốc. Quan điểm này,
vô tình đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của các phong trào CM ở thuộc địa.
Theo HCM, CM GPDT ở thuộc địa và CMVS ở chính quốc có mối quan hệ mật
thiết, bình đẳng, tác động qua lại lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung
là chủ nghĩa đế quốc chứ không phải là mối quan hệ lệ thuộc, chính – phụ.
Chính vì vậy, Nguyễn Ái Quốc cho rằng CM giải phóng dân tộc ở thuộc địa có
thể nổ ra và giành thắng lợi trước CMVS ở chính quốc. Sự thắng lợi của cuộc CM ở
thuộc địa có thể tác động đến cuộc CMVS ở chính quốc, qua đó, giúp CMVS ở chính
quốc sớm đi đến thành công.
2.6. CMGPDT phải được tiến hành bằng con đường bạo lực cách mạng
 Tính tất yếu của bạo lực cách mạng
HCM đã khẳng định muốn giải phóng dân tộc phải thực hiện bằng con đường
bạo lực, “độc lập không thể cầu xin”. Bởi lẽ, ”Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là
một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”, chúng sử dụng bạo lực để
xâm lược và thống trị thuộc địa, đàn áp các phong trào yêu nước. Vì thế, con đường
để giành và giữ độc lập chỉ có thể là con đường cách mạng bạo lực. HCM đã vạch rõ
tính tất yếu của bạo lực cách mạng: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù
của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản
cách mạng, giành lấy chình quyền và bảo vệ chính quyền”.
Quán triệt quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin coi sự nghiệp cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng, HCM cho rằng bạo lực cách mạng là bạo lực quần chúng,
toàn dân.
Bạo lực cách mạng bao gồm 2 lực lượng: lực lượng chính trị quần chúng và lực
lượng vũ trang nhân dân. Hình thức của bạo lực cách mạng bao gồm cả đấu tranh
chính trị và đấu tranh vũ trang nhưng phải “Tùy tình hình cụ thể mà quyết định ….,
sử dụng đúng và khéo kết hợp hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị
để giành thắng lợi cho cách mạng”
 Tư tưởng bạo lực cách mạng gắn bó hữu cơ với tư tưởng nhân đạo, hòa bình
Tư tưởng HCM về bạo lực cách mạng khác hẳn tư tưởng hiếu chiến của các thế
lực đế quốc xâm lược. Xuất phát từ tình yêu thương, quý trọng sinh mạng con người,
Người luôn tranh thủ giành, giữ chính quyền ít đổ máu. Người tìm mọi cách ngăn
chặn xung đột vũ trang, tận dụng mọi khả năng giải quyết xung đột bằng biện pháp
hòa bình, chủ động đàm phán, thương lượng, chấp nhận những nhượng bộ có
nguyên tắc. Việc tiến hành chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc cuối cùng khi kẻ thù
quyết giành thắng lợi bằng quân sự.
Theo HCM, đánh giặc không phải là tiêu diệt hết lực lượng, chủ yếu là đánh bại
ý chí xâm lược của chúng, giành thắng lợi về quân sự với giải pháp ngoại giao để kết
thúc chiến tranh.
 Hình thái bạo lực cách mạng
Khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân là 2 hình thái bạo lực cách mạng
đặc sắc trong tư tưởng HCM. HCM cho rằng: “Không dùng toàn lực của nhân dân về
đủ mọi mặt để ứng phó, không thể nào thắng lợi được”. Vì thế, Người chủ trương
phát động chiến tranh nhân dân, đấu tranh trong mọi mặt trận quân sự, chính trị,
kinh tế, văn hóa, ngoại giao… với phương châm chiến lược đánh lâu dài.
2.7 Kết luận chung
Tư tưởng HCM về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc có những
luận điểm sáng tạo, đặc sắc, có giá trị lý luận và thực tiễn lớn:
 Làm phong phú học thuyết Mác – Lênin về cách mạng thuộc địa về Lý luận
cách mạng giải phóng dân tộc và Phương pháp tiến hành CM GPDT
 Soi đường thắng lợi cho cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Chương 3: Tư tưởng HCM về Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

3.1 Tính tất yếu của CNXH ở Việt Nam


 HCM lựa chọn CNXH cho VN là một sự lựa chọn tất yếu, bởi vì:
Khi nước nhà giành được độc lập theo con đường CMVS thì tiến lên CNXH là
một kết quả, là một sự tất yếu của lịch sử.
Trong lý luận về hình thái kinh tế - xã hội của CN Mác – Lênin đã chỉ ra sự phát
triển tất yếu của xã hội loài người: xã hội sau tiến bộ hơn xã hội trước, đó là một quy
luật tất yếu, không thể tránh khỏi.
Vậy nên, kết quả thắng lợi khi con đường cách mạng giải phóng dân tộc VN đi
theo con đường CMVS chính là bước khởi đầu trong công cuộc xây dựng CNXH.
Trong lịch sử cận đại và hiện đại, sự phát triển của dân tộc VN đã được trải
nghiệm qua các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc như cuộc đấu tranh để xây
dựng lại một chế độ phong kiến (Cần Vương), hoặc chế độ cộng hòa đại nghị tư sản,
nhưng tất cả đều bị bế tắc. Chính vì vậy, trong điều kiện lịch sử mới, HCM đã lựa
chọn con đường phát triển của dân tộc VN là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, con
đường đúng đắn, phù hợp với điều kiện VN và xu thế tất yếu của thời đại. Người xác
định rõ, chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới đem lại cho mọi người cuộc sống tự do, bình
đẳng, ấm no…
Trong quá trình nghiên cứu, khảo sát các cuộc CM, các kiểu Nhà nước trên thế
giới hay những cuộc đấu tranh, phong trào ở VN, HCM thấy rõ chỉ có CNXH mới giải
phóng con người một cách triệt để, mới đem lại cho con người cuộc sống ấm no,
hạnh phúc nên sự lựa chọn xây dựng CNXH của Người chính là nguyện vọng của Nhân
dân Việt Nam.
Vậy độc lập dân tộc là tiền đề cho CNXH và CNXH là mục tiêu làm cho độc lập
dân tộc được vững chắc. Chính những lý do đó, HCM đã khẳng định: VN tiến lên
CNXH là tất yếu của lịch sử.
3.2 Quan niệm cảu HCM về đặc trưng bản chất của CNXH ở Việt Nam
 Cách tiếp cận của HCM về CNXH
HCM tiếp cận CNXH theo quan điểm Mác – Lênin từ lập trường một người yêu
nước đi tìm con đường giải phóng dân tộc để xây dựng một xã hội mới, nhân dân có
cuộc sống tốt đẹp.
HCM tiếp thu lý luận về CNXH khoa học của lý luận Mác – Lênin trước hết là
từ yêu cầu tất yếu của công cuộc giải phóng dân tộc VN. Người tìm thấy trong lý
luận Mác – Lênin sự thống nhất biện chứng giữa GPDT, GPXH (GPGC) và GP con
người.
HCM tiếp cận CNXH ở phương diện đạo đức, hướng tới giá trị nhân đạo,
nhân văn mácxit. Sự phát triển tự do của mỗi con người là điều kiện cho sự phát
triển tự do của mọi người.
Bao trùm lên tất cả, là sự tiếp cận CNXH của HCM ở góc độ văn hóa biện
chứng với chính trị, kinh tế và con người Việt Nam. Văn hóa, chính trị, kinh tế có mối
quan hệ biện chứng với nhau trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam cũng chính là
quá trình xây dựng nền văn hóa mới, có tính kế thừa truyền thống văn hóa tốt đẹp ngàn
năm của dân tộc VN, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới.
Như vậy, quan niệm của HCM về CNXH là một sự thống nhất biện chứng giữa các
nhân tố kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội
 Đặc trưng bản chất tổng quát của CNXH ở VN
Theo HCM, cũng trên cơ sở của lý luận Mác – Lênin, đặc trưng bản chất tổng
quát của CNXH ở VN, nghĩa là trên những mặt về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Về cụ thể, HCM nhấn mạnh chủ yếu trên những điều sau đây:
 CNXH là một chế độ chính trị do nhân dân làm chủ, con người được phát
triển toàn diện, tự do.
 Chế độ dân chủ tức dân là chủ và dân làm chủ. Nhà nước là nhà nước
của dân, do dân và vì dân; lấy liên minh công-nông-tri thức làm nòng cốt
do ĐCS lãnh đạo.
 CNXH chính là sự nghiệp của chính bản thân nhân dân, dựa vào sức
mạnh của toàn dân để đưa lại quyền lợi cho nhân dân.
 CNXH là một chế độ xã hội có nền kinh tế phát triển dựa theo LLSX hiện đại
và khoa học kỹ thuật tiên tiến, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có
phúc lợi xã hội.
 Kinh tế phát triển dựa trên cơ sở năng suất lao động xã hội cao, sức sản
xuất luôn luôn phát triển với nền tảng phát triển khoa học – kỹ thuật
 Ứng dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học – kỹ thuật của nhân
loại.
 CNXH là chế độ xã hội không còn người bóc lột người
 Là một chế độ hoàn chỉnh, đạt tới chín muồi.
 Không còn áp bức, bóc lột, bất công, thực hiện nguyên tắc phân phối
theo lao động. Đó là một xã hội được xây dựng trên nguyên tắc công
bằng, hợp lý.
 CNXH là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, nghĩa là một xã hội
có hệ thống quan hệ xã hội lành mạnh công bằng, không còn áp bức, bóc lột,
bất công, không còn sự phân biệt đối xử, con người được giải phóng và được
phát triển toàn diện, hài hòa.
Như vậy, nhìn chung, chúng ta có thể thấy được, một xã hội chủ nghĩa cần thể
hiện các đặc trưng, bản chất từ các khía cạnh chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Các
đặc trưng trên là một hình thức thể hiện một hệ thống giá trị vừa kế thừa di sản quá
khứ vừa được sáng tạo trong quá trình xây dựng CNXH. CNXH là hiện thân đỉnh cao
của tiến trình tiến hóa lịch sử nhân loại.
3.3. Quan điểm HCM về mục tiêu, động lực của CNXH ở Việt Nam
 Mục tiêu
Ở HCM, mục tiêu chung của CNXH và mục tiêu phấn đấu của Người là một, đó
là: độc lập, tự do cho dân tộc; hạnh phúc cho nhân dân; đồng bào ai cũng có cơm ăn,
áo mặc, ai cũng được học hành.
 Nói một cách khái quát, xây dựng CNXH ở VN thực chất là xây dựng một đất
nước VN hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, góp phần xứng
đáng vào sự nghiệp của cuộc cách mạng thế giới.
Như vậy, những mục tiêu trên chính là những mục tiêu chung nhất, khái quát
nhất về CNXH ở VN.
HCM xác định các mục tiêu cụ thể của CNXH trên tất cả lĩnh vực của đời sống
xã hội
Mục tiêu chính trị: Theo tư tưởng HCM, chế độ chính trị phải do nhân dân lao
động làm chủ. Nhà nước là của dân, do dân và vì dân.
 Nhà nước có 2 chức năng không tách rời, luôn đi đôi với nhau: dân chủ với
nhân dân, chuyên chính với kẻ thù của nhân dân
Mục tiêu kinh tế: Theo HCM, chể độ chính trị chỉ được bảo đảm khi đứng vững
trên cơ sở một nền kinh tế vững mạnh. Nền kinh tế đó là:
 Nền kinh tế phát triển cao với công – nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật
tiên tiến, đời sống vật chất của nhân dân ngày càng cải thiện
 Nền kinh tế phát triển toàn diện các ngành, trong đó “công nghiệp và nông
nghiệp là 2 chân của nền kinh tế nước nhà”.
Mục tiêu văn hóa – xã hội: Theo HCM, văn hóa là một mục tiêu cơ bản của
CMXHCNVN. HCM mong muốn, một nền văn hóa thể hiện trong mọi sinh hoạt của xã
hội; xây dựng một nền văn hóa mới, mang bản chất dân tộc, khoa học và đại chúng.
 Vì thế, trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, thì mục tiêu đầu tiên về văn hóa –
xã hội, đó là xóa nạn mù chữ, xây dựng, phát triển giáo dục, nâng cao trình độ
dân trí cho nhân dân, phát triển văn hóa nghệ thuật, thực hiện nếp sống mới.
Mục tiêu con người: Trong tư tưởng HCM, mục tiêu cao nhất, xuyên suốt cuộc
đời của Người chính là giải phóng con người. Vì vậy, để xây dựng CNXH, thì cần phải
đạt được mục tiêu giải phóng con người, phát triển con người một cách toàn diện và
xây dựng con người có đủ “đức” và “tài”, vừa “hồng” vừa “chuyên”.
 Động lực
Để thực hiện những mục tiêu đó cần phát hiện những động lực và những điều kiện
đảm bảo cho động lực đó trở thành sức mạnh thúc đẩy công cuộc xây dựng CNXH.
o Động lực bên trong (nội sinh)
Động lực con người: Theo HCM, động lực quan trọng, quyết định nhất là con
người, là nhân dân lao động, nòng cốt là công – nông – trí thức. Động lực con người,
phải được phát huy trên 2 phương diện: cộng đồng và cá nhân. Bởi lẽ, HCM nhận thấy
ở động lực này có sự kết hợp giữa sức mạnh cá nhân với sức mạng cộng đồng.
 Trên phương cộng đồng: Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc -
động lực chủ yếu để phát triển đất nước.
 Trên phương diện cá nhân: Phát huy sức mạnh con người với tư cách cá nhân
người lao động bằng cách: tác động vào nhu cầu, lợi ích chính đáng của người
lao động, giải quyết tốt 3 mqh lợi ích: cá nhân, tập thể và xã hội.
Như vậy, mới phát huy được sức mạnh của con người.
Động lực về kinh tế: Trên cơ sở động lực con người, HCM khẳng định cần phải
phát huy động lực kinh tế. Người xác định đây là động lực đóng vai trò đòn bẩy trong
xây dựng CNXH. Phát triển kinh tế, sản xuất, kinh doanh, giải phóng mọi lực lượng
sản xuất, làm cho mọi người, mọi nhà trở nên giàu có, ích quốc, lợi dân, gắn liền kinh
tế với kỹ thuật, kinh tế với xã hội.
Động lực chính trị - tinh thần: Phát huy quyền làm chủ và ý thức làm chủ của
người lao động, thực hiện công bằng, quan tâm tới văn hóa, khoa học, giáo dục, coi
đó là động lực tinh thần không thể thiếu của chủ nghĩa xã hội.
 Xét đến cùng, các động lực muốn phát huy được tác dụng đều phải thông qua
con người. Sự lãnh đạo của Đảng có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của
CNXH - là hạt nhân trong hệ thống các động lực của CNXH.
o Động lực bên ngoài (ngoại sinh)
Ngoài phát huy động lực bên trong, trong CNXH, HCM quan niệm cần phải phát
huy các động lực bên ngoài: Đó là kết hợp được sức mạnh của thời đại, tăng cường đoàn
kết quốc tế, sử dụng tốt những thành quả khoa học - kỹ thuật trên thế giới.
o Nhân tố dẫn đến kìm hãm, triệt tiêu nguồn lực của xã hội
Bên cạnh phát huy các động lực bên trong, bên ngoài, Hồ Chí Minh còn lưu
ý, cảnh báo, ngăn ngừa các nhân tố kìm hãm, triệt tiêu nguồn lực của CNXH như: Chủ
nghĩa cá nhân; tham ô, lãng phí, quan liêu, chủ quan, bảo thủ, giáo điều; Chống chia
rẽ, bè phái, mất đoàn kết, vô kỷ luật; lười biếng, đánh mất vai trò làm chủ của người
lao động… Và Người xem những điều này chính là giặc nội xâm cần phải đẩy lùi.
Chương 4 - I: Quan niệm của HCM về vai trò và bản chất của ĐCS VN

4.1. Về sự ra đời của ĐCS Việt Nam


 Nguyên lý ra đời một ĐCS
Theo quan niệm của CN Mác – Lênin, một ĐCS để có thể ra đời cần 2 yếu tố: CN
Mác – Lênin, cơ sở lý luận cho sự ra đời của Đảng và phong trào công nhân, yếu tố thuộc
về cơ sở thực tiễn cho sự ra đời của ĐCS.
Sự kết hợp CN Mác – Lênin với phong trào công nhân thể hiện rõ ở vai trò của công
nhân: Giai cấp công nhân là giai cấp giữ vai trò lãnh đạo. Vì đây là giai cấp kiên quyết,
triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật, có thể thấm nhuần tư tưởng CM nhất. Đồng thời,
tinh thần đấu tranh của họ có thể ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp CM khác.
Thế nhưng, theo quan điểm HCM, sự hình thành ĐCS VN, bên cạnh 2 yếu tố CN
Mác – Lênin và phong trào công nhân còn kể đến yếu tố thứ 3 là phong trào yêu nước.
Đây là một quan điểm quan trọng của HCM về sự hình thành ĐCS VN, là sự phát triển
sáng tạo CN Mác – Lênin trên cơ sở tổng kết thực tiễn VN.
Ngoài nhận thức rõ vai trò, vị trí to lớn của CN Mác – Lênin và giai cấp công nhân
trong quá trình hình thành ĐCS VN, Người thêm yếu tố phong trào yêu nước, xem nó là
một trong 3 yếu tố kết hợp dẫn đến việc hình thành ĐCS VN vì những lý do sau đây:
 Một là, phong trào yêu nước có vị trí, vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình phát
triển của dân tộc VN: Chủ nghĩa yêu nước là giá trị tinh thần trường tồn trong
lịch sử dân tộc và là nhân tố chủ đạo quyết định sự nghệp chống ngoại xâm
của dân tộc ta. Nó đã liên tục và bền bỉ trong hàng ngàn năm dựng nước và
giữ nước.
 Hai là, phong trào công nhân kết hợp được với phong trào yêu nước bởi vì hai
phong trào đó đều có mục tiêu chung: giải phóng dân tộc, làm cho VN được
hoàn toàn độc lập, xây dựng đất nước hùng cường
 Ba là, phong trào nông dân kết hợp với phong trào công nhân, bởi giai cấp nông
dân và công nhân là bạn đồng minh tự nhiên và hợp thành đội quân chủ lực của
CM
 Bốn là, phong trào yêu nước của trí thức VN là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự
kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của ĐCS VN: Vai trò của trí thức tuy số lượng
không nhiều nhưng lại là “ngòi nổ” cho phong trào yêu nước bùng lên, thúc đẩy
sự canh tân và chấn hưng đất nước.
4.2 Vai trò của ĐCS VN
HCM khẳng định, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân nhưng quần
chúng nhân dân phải được giác ngộ, được lãnh đạo theo một đường lối đúng đắn thì
mới trở thành lực lượng với sức mạnh to lớn. Để có thể làm được điều đó cần phải có
Đảng lãnh đạo.
Ngay từ rất sớm, trong cuốn sách Đường cách mệnh (1927), HCM đã đặt vấn
đề:”Cách mệnh trước hết phải có cái gì?”, Người khẳng định “Trước hết phải có đảng
cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị
áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như
người cầm lái có vững thuyền mới chạy”
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của ĐCS VN phù hợp với quy luật phát triển của xã
hội, đáp ứng lợi ích, nguyện vọng của nhân dân và toàn dân tộc. Từ khi ra đời, ĐCS VN
đã chứng minh vai trò lãnh đạo trong quá trình đấu tranh CM, đưa CMVN đi từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác, có thể kể đến các thắng lợi tiêu biểu như: Thắng lợi của CMT8
1945 với sự ra đời của Nhà nước VN Dân chủ Cộng hòa hay Chiến thắng Điện Biên Phủ
(1954), Chiến thắng Chiến dịch HCM (1975) thống nhất non sông, đất nước và đặc biệt
những thành tựu của công cuộc đổi mới bắt đầu từ Đại hội VI năm 1986 đến tận ngày
hôm nay.
Chính vì vậy, với những lý do đó, ĐCS VN giữ vai trò hết sức quan trọng, là lực
lượng duy nhất giúp CM VN giành thắng lợi.
4.3. Bản chất của ĐCS VN
HCM khẳng định: ĐCS VN là Đảng của giai cấp công nhân, đội tiên phong của giai
cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân.
Xuất phát từ quan điểm sự ra đời của ĐCS VN, HCM đã đi đến luận điểm sáng tạo
vào năm 1951, rằng: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động VN là Đảng của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc VN”. Tư tưởng này
của HCM hoàn toàn đúng đắn vì trên thực tế các tầng lớp nhân dân đều công nhận Đảng
là bộ phận lãnh đạo của cả dân tộc, nên nhân dân ta thường nói: Đảng là Đảng ta là
Đảng của nhân dân ta.
Khi nói Đảng là của giai cấp công nhân đồng thời là của dân tộc hoàn toàn không
có nghĩa không thấy rõ bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Bản chất giai cấp công
nhân của Đảng đã được thể hiện ở: Nền tảng tư tưởng của Đảng là CN Mác – Lênin;
Mục tiêu, đường lối của Đảng thực sự vì độc lập, tự do và CNXH, vì sự nghiệp giải phóng
dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người; Đảng tuân thủ nghiêm túc những
nguyên tắc tổ chức của Đảng kiểu mới, của giai cấp công nhân.
Sức mạnh của Đảng không chỉ bắt nguồn từ giai cấp công nhân mà còn bắt nguồn
từ các tầng lớp nhân dân lao động khác nên quan niệm Đảng không những là Đảng của
giai cấp công nhân mà còn là Đảng của nhân dân lao động và của toàn dân tộc có ý nghĩa
lớn đối với CM VN. HCM luôn luôn chú trọng tính thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu
tố dân tộc. Vì thế, để bảo đảm và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, Đảng luôn
luôn gắn bó mật thiết với giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc.
Tóm lại về bản chất giai cấp của Đảng là Đảng ta mang bản chất giai cấp công
nhân. Mà bản chất giai cấp công nhân dựa trên cơ sở thấy rõ sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân Việt Nam
4.4. Quan niệm về ĐCS VN cầm quyền
 Đảng lãnh đạo nhân dân giành chính quyền, trở thành Đảng cầm quyền
ĐCS VN cầm quyền, trước hết là Đảng lãnh đạo nhân dân giành chính quyền, trở
thành Đảng cầm quyền.
ĐCS VN ra đời 3/2/1930, Đảng cầm quyền không phải ra đời bằng con đường tranh
cử, mà bằng lãnh đạo cuộc đấu tranh của nhân dân lật đổ chế độ phát xít, thực dân
giành chính quyền thông quan cuộc CMT8 1945, trở thành Đảng cầm quyền.
Phương thức lãnh đạo, công tác chủ yếu của Đảng là giáo dục, thuyết phục, vận
động tổ chức quần chúng vào đấu tranh giành chính quyền. Và khi có được chính quyền,
Đảng sử dụng Nhà nước như một công cụ quyền lực để xây dựng CNXH đem lại ấm no,
hạnh phúc cho Nhân dân
 Quan niệm của HCM về Đảng cầm quyền
Phổ biến tại các nước TBCN, Đảng cầm quyền là chỉ một đảng chính trị đại diện
cho một giai cấp đang nắm giữ và lãnh đạo chính quyền để điều hành, quản lý đất nước
nhằm thực hiện lợi ích giai cấp mình. Nhưng trong tư tưởng HCM, Đảng cầm quyền là
Đảng tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp CM trong điều kiện Đảng đã lãnh đạo quần chúng
nhân dân giành được quyền lực nhà nước và Đảng trực tiếp lãnh đạo bộ máy nhà nước
đó để tiếp tục hoàn thành sự nghiệp độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH.
 Khi chưa có chính quyền: Đảng lãnh đạo nhân dân lật đổ chính quyền bè lũ
thực dân và phong kiến, thiết lập chính quyền nhân dân.
 Khi có chính quyền: Đảng phải toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. “Độc lập –
Tự Do – Hạnh phúc” là bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Mục đích, lý tưởng của Đảng cầm quyền: Đảng không có lợi ích nào khác ngoài
lợi ích nào khác ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân
 Đảng không phải là một tổ chức tự thân, vì vậy, mục đích, tôn chỉ của Đảng là
“tận tâm”, “tận lực”, “phụng sự”, “trung thành” với lợi ích của dân tộc Việt Nam
Vận dụng, phát triển hết sức lý luận Mác – Lênin về Đảng vô sản kiểu mới, HCM đã
cho thấy một quan điểm mới, sáng tạo về Đảng cầm quyền: Đảng cầm quyền vừa là
người lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung thành của Nhân dân
 Là người lãnh đạo, Đảng phải sâu sát, gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe
ý kiến của dân, khiêm tốn học hỏi nhân dân và chịu sự kiểm soát của Nhân dân.
Theo HCM, với tư cách người lãnh đạo, Đảng phải thực hiện đầy đủ chức năng
lãnh đạo và bảo đảm nó trên tất cả các mặt, các lĩnh vực đời sống xã hội, quan
tâm chăm lo đời sống nhân dân. Bên cạnh đó, Đảng phải thực hiện chế độ kiểm
tra và phát huy vai trò tiên phong của đội ngũ đảng viên, cán bộ của Đảng.
 “Là người đầy tớ”, Đảng phải tận tâm, tận lực phụng sự nhân dân nhằm đem lại
quyền và lợi ích cho nhân dân. Người nhấn mạnh: “Đã phụng sự nhân dân thì
phải phụng sự cho ra trò. Nghĩa là việc gì có lợi cho dân, thì phải làm cho kỳ được.
Việc gì hại cho dân, thì phải hết sức tránh”
Đảng cầm quyền, dân là chủ, mọi quyền hành đều ở nơi dân. Khi Đảng cầm quyền,
đảng viên được giao quyền nhưng không được xa rời nhân dân, không được tha hóa.
Kết luận: Đảng cầm quyền đang đứng trước những thách thức nặng nề với
nhiệm vụ xây dựng xã hội mới, đưa cuộc sống của nhân dân lên tầm cao mới, ngày
càng ấm no, hạnh phúc.
Chương 5: Tư tưởng HCM về đại đoàn kết dân tộc

5.1 Vị trí, vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp CM
 Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của
CM
Đại đoàn kết dân tộc là một chiến lược lâu dài, quyết định thành công của CM
 Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, trong thời đại mới, để đánh bại các thế lực đế quốc
thực dân nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người,
nếu chỉ có tinh thần yêu nước chưa đủ, cách mạng muốn thành công và thành
công đến nơi, phải tập hợp được tất cả mọi lực lượng có thể tập hợp, xây
dựng được khối đại đoàn kết dân tộc bền vững.
Đại đoàn kết dân tộc nhằm tập hợp mọi lực lượng
 Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được nhằm hình thành
sức mạnh to lớn của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh với kẻ thù dân tộc. HCM
đã từng khẳng định “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành công,
đại thành công”.
Đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng HCM luôn luôn được khẳng định là vấn đề
sống còn
 HCM cho rằng, Đại đoàn kết là vấn đề sống còn của dân tộc, là một chiến lược
cách mạng - chiến lược huy động, tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được,
hình thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc đấu tranh trong kẻ thù xâm lược.
Người khẳng định: “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”; “Đoàn kết
là điểm mẹ: Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt”.
 Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của CM – Đại đoàn kết dân
tộc phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực
Đại đoàn kết dân tộc phải được khẳng định là nhiệm vụ hàng đầu của mọi giai
đoạn CM
 Đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, đồng thời cũng là
nhiệm vụ hàng đầu của mọi giai đoạn cách mạng. Nhấn mạnh vấn đề này là
nhấn mạnh tới vai trò của thực lực cách mạng. Bởi cách mạng muốn thành công
nếu chỉ có đường lối đúng chưa đủ mà trên cơ sở của đường lối đúng, Đảng
phải cụ thể hoá thành những mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng
phù hợp với từng giai đoạn lịch sử để lôi kéo, tập hợp quần chúng, tạo sức mạnh
cho cách mạng.
Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc
 Hồ Chí Minh còn chỉ ra rằng, đại đoàn kết dân tộc không phải chỉ là mục tiêu
của Đảng, mà còn là nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Bởi vì, cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng, phải do quần chúng, vì quần chúng.
5.2. Lực lượng đại đoàn kết dân tộc
 Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân – Nòng cốt của khối đại đoàn kết
dân tộc là liên minh công – nông
Khái niệm dân, nhân dân và đại đoàn kết dân tộc – đại đoàn kết toàn dân trong tư
tưởng HCM, chiếm vai trò quan trọng
 Đối với khái niệm dân, nhân dân: Khái niệm này có nội hàm rất rộng, vừa là
một tập hợp đông đảo quần chúng vừa là mỗi con người Việt Nam cụ thể, cả hai
đều là chủ thể của đại đoàn kết dân tộc. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết
toàn dân, được hiểu rằng, đó là “mọi con dân nước Việt”, “mỗi một người con
rồng cháu Tiên”, không phân biệt dân tộc đa số hay thiểu số, có tín
ngưỡng hay không có tín ngưỡng, không phân biệt “già, trẻ, gái, trai, giàu
nghèo, quý tiện”.
 Khái niệm đại đoàn kết dân tộc – đại đoàn kết toàn dân: Đối với HCM, đại đoàn
kết dân tộc thực chất là đại đoàn kết toàn dân. Đại đoàn kết dân tộc là một chiến
lược của Đảng.
 Trong đại đoàn kết dân tộc, HCM xem liên minh công - nông là gốc, nòng cốt của
khối đại đoàn kết. Người khẳng định lực lượng chủ yếu trong khối đại đoàn kết
dân tộc là công – nông, nên liên minh công – nông là nền tảng của mặt trận dân
tộc thống nhất.
 Điều kiện để thực hiện khối đại đoàn kết dân tộc
Theo HCM, để đại đoàn kết dân tộc, cần phải kế thừa truyền thống yêu nước –
nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc.
 Truyền thống này được hình thành, củng cố và phát triển trong suốt quá trình
dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm của dân tộc, trở thành giá trị bền vững,
thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người VN yêu nước.
Truyền thống đó là cội nguồn sức mạnh vô địch để cả dân tộc chiến đấu và chiến
thắng mọi thiên tai, địch họa, làm cho đất nước được trường tồn, bản sắc dân
tộc được giữ vững.
Phải có lòng khoan dung, độ lượng với con người.
 HCM chỉ rõ, trong mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng đều có những ưu điểm,
khuyết điểm, mặt tốt, mặt xấu… Cho nên, vì lợi ích của CM cần phải có lòng khoan
dung độ lượng, rân trọng cái phần thiện dù nhỏ nhất ở mỗi con người mới có thể
tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng
 Lòng khoan dung, độ lượng ở HCM không phải là một sách lược nhất thời, một
thủ đoạn chính trị mà là sự tiếp nối và phát triển truyền thống nhân ái, bao dung
của dân tộc, từ chính mục tiêu của cuộc CM mà Người suốt đời theo đuổi.
Để thực hành đoàn kết rộng rãi cần có niềm tin vào Nhân dân.
 Với HCM, yêu dân, tin dân, dựa vào dân. sống, đấu tranh vì hạnh phúc của Nhân
dân là nguyên tắc tối cao. Theo Người, DÂN là chỗ dựa vững chắc của Đảng, là
cội nguồn sức mạnh vô tận và vô địch của khối đại đoàn kết dân tộc, quyết định
mọi thắng lợi của CMVN.
Phải có lập trường giai cấp rõ ràng - Đại đoàn kết dân tộc phải dựa trên nền tảng
khối liên minh công – nông.
 Đây là quan điểm cơ bản của HCM đã xác định trong việc xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân: Không có liên minh công - nông vững mạnh thì không thể xây
dựng được khối đại đoàn kết toàn dân vững chắc bởi liên minh công - nông là
cơ sở, là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân. Hồ Chí Minh viết: “lực lượng
chủ yếu trong khối đại đoàn kết dân tộc là công - nông, cho nên liên minh công
- nông là nền tảng của mặt trận dân tộc thống nhất”.
5.3. Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc
 Hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết dân tộc là Mặt trận dân tộc thống nhất
Trong tư tưởng HCM, đại đoàn kết dân tộc không chỉ dừng lại ở quan niệm, những
lời kêu gọi mà phải trở thành một chiến lược CM, khẩu hiệu hành động của toàn Đảng
và dân tộc. Nó phải biến sức mạnh vật chất, trở thành lực lượng vật chất có tổ chức. Tổ
chức đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất.
Tùy theo từng thời kì mà tên gọi của mặt trận dân tộc thống nhất cũng khác nhau:
1930 “Hội phản đế đồng minh”; 1936 “Mặt trận Dân chủ” đấu tranh đòi quyền dân chủ;
1937 “Mặt trận dân chủ Đông Dương” đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, chống CN phát
xít và bọn phản động thuộc địa; 1939 ”Mặt trận nhân dân phản đế”, 1941 “Mặt trận
Việt Minh”; 1946 “Mặt trận Liên Việt”, củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc
đáp ứng yêu cầu kháng chiến chống TD Pháp; 1955 “Mặt trận Tổ quốc VN” ở miền Bắc;
1960 “Mặt trận giải phóng miền Nam VN”; 1968 “Liên minh các lực lượng dân tộc, dân
chủ, hòa bình VN”; 1977 “Mặt trận Tổ quốc VN” cho đến nay. Tuy có nhiều tên gọi khác
nhau, nhưng thực chất chỉ là một, đó là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của Nhân dân
VN, nơi quy tụ, tập hợp đông đảo mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, mọi con dân nước
Việt, không chỉ ở trong nước mà còn bao gồm cả những người VN định cư ở nước ngoài,
phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc, thống nhất của Tổ quốc, tự do và hạnh
phúc của Nhân dân.
Kết luận: Vậy theo tư tưởng HCM, hình thức của khối đại đoàn kết dân tộc chính
là Mặt trận dân tộc thống nhất. Đại đoàn kết dân tộc phải được thực hiện bằng sức
mạnh của quần chúng nhân dân có tổ chức, có lãnh đạo. Vì thế, nên Người rất chú ý,
quan tâm đưa quần chúng nhân dân vào các tổ chức yêu nước, mà bao trùm lên tất cả
là Mặt trận dân tộc thống nhất.
 Một số nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt đồn của mặt trận dân tộc thống
nhất
Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng khối liên minh
công – nông - trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
 Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi quy tụ mọi con dân nước Việt, nhưng đó
không phải là một tập hợp ngẫu nhiên, tự phát của quần chúng nhân dân, mà
là một khối đoàn kết chặt chẽ, có tổ chức trên nền tảng khối liên minh công-
nông- trí thức, do Đảng cộng sản lãnh đạo.
 Đảng vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, vừa là lực lượng lãnh
đạo Mặt trận.
Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao
của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân.
 Mục đích chung của Mặt trận dân tộc thống nhất được Hồ Chí Minh xác định
cụ thể phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, nhằm tập hợp tới mức cao
nhất lực lượng dân tộc vào khối đại đoàn kết. Nhưng độc lập, tự do là nguyên tắc
bất di bất dịch, ngọn cờ đoàn kết, mẫu số chung để quy tụ các tầng lớp, giai cấp,
đảng phải dân tộc, tôn giáo vào trong mặt trận.
Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ
bảo đảm đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững.
 Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của cả dân tộc,
nó bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo khác
nhau, với nhiều lợi ích khác nhau. Do vậy, hoạt động của Mặt trận dân tộc
thống nhất phải theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
 Nguyên tắc hiệp thương dân chủ đòi hỏi tất cả mọi vấn đề của Mặt trận đều phải
được đem ra để tất cả các thành viên cùng nhau bàn bạc công khai, để đi
đến nhất trí, loại trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức.
 Để thực hiện nguyên tắc hiệp thương dân chủ phải đứng vững trên lập
trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc
và lợi ích giai cấp, lợi ích chung và lợi ích riêng, lợi ích lâu dài và lợi ích trước
mắt.
Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đoàn kết chặt chẽ, lâu dài, thật sự, chân
thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
 Là một tập hợp nhiều giai tầng, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, bên cạnh
những điểm tương đồng, giữa các thành viên của Mặt trận vẫn có những
điểm khác nhau cần phải bàn bạc, hiệp thương dân chủ để thu hẹp những
nhân tố khác biệt, cục bộ, nhân lên những nhân tố tích cực, nhân tố chung để
đi đến thống nhất, đoàn kết.
 Để giải quyết vấn đề này, một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương
châm “cầu đồng tồn dị” lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt. Mặt
khác, Người nêu rõ: “Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng
cường đoàn kết ”
Chương 6 - I: Tư tưởng HCM về xây dựng nhà nước thể hiện quyền là chủ và làm
chủ của Nhân dân

6.1. Nhà nước của dân


Nhà nước là yếu tố quan trọng nhất, quyết định sự tồn tại của một quốc gia dân
tộc nên sau khi CM thành công, vấn đề Nhà nước luôn là vấn đề cốt lõi của bất kỳ quốc
gia nào. Vì vậy, sau khi CMT8 thành công, HCM đã tập trung quan tâm xây dựng một
nhà nước mới với một bản hiến pháp của nó.
Trong Điều 1, Hiến pháp đầu tiên (1946), đã khẳng định: “Nước Việt Nam là một
nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt
Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Hay tại điều
32 trong Hiến pháp 1946, cũng đã chỉ rõ: “Những việc liên quan đến vận mệnh quốc
gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết...” thực chất đó là chế độ trưng cầu dân ý, một
hình thức dân chủ đề ra khá sớm ở nước ta. “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu
Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng
đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”. Như vậy, Hiến pháp năm 1946 đã xác lập mọi
quyền lực trong Nhà nước và trong xã hội đều thuộc về Nhân dân.
Trong tác phẩm Thường thức chính trị, HCM đã khẳng định :” Nước ta là một nước
dân chủ. Ở nước ta chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ...Nhân dân là
ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra dại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền
ấy. Thế là dân chủ”
Nhà nước của dân thì mọi người dân là chủ, người dân có quyền làm bất cứ
việc gì mà pháp luật không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước của
dân phải bằng mọi nỗ lực, hình thành thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ
của người dân. Những vị đại diện cho nhân dân phải được nhân dân ủy quyền và họ
chỉ là công bộc của dân.
HCM còn cho rằng, Nhà nước là của dân thì Nhân dân có quyền kiểm soát Nhà
nước. Người khẳng định rằng: “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi
chính phủ”,”Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND nếu
những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”.
Như vậy, ta có thể khẳng định rằng, tất cả mọi quyền lực trong Nhà nước cao
nhất chính là Nhân dân: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là
chủ”
6.2. Nhà nước do dân
Là Nhà nước do dân lập nên, do nhân dân ủng hộ, do nhân dân làm chủ.
Toàn bộ công dân bầu ra Quốc hội – cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước,
cơ quan duy nhất có quyền lập pháp. HCM đã từng khẳng định: “ Trong nhà nước đó,
Nhân dân lập nên, cao nhất là Nhân dân, những người cán bộ là công bộc của dân,
đầy tớ của dân. Dân dùng đầy tớ làm việc cho mình thì phải giúp đỡ Chính phủ. Nếu
Chính phủ sai thì phải phê bình, phê bình chứ không phải chửi”. Ở đây, HCM đã nêu
lên một quan điếm sâu sắc về văn hóa trong chính trị của quần chúng nhân dân.
6.3. Nhà nước vì dân
Nhà nước lấy lợi ích chính đảng của Nhân dân làm mục tiêu, tất cả đều vì lợi ích
của Nhân dân, ngoài ra không còn bất cứ lợi ích nào khác.
Nhà nước kết hợp các lợi ích khác nhau của nhân dân thành mục tiêu, chính
sách của mình. HCM nhấn mạnh: Mọi đường lối, chính sách đều chỉ nhằm mang lại
lợi ích, quyền lợi cho nhân dân. Đó là Nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng chính
đáng của Nhân dân
Một nhà nước vì dân, theo quan điểm của HCM, là từ Chủ tịch nước đến công
chức bình thường đều phải làm công bộc, làm đầy tớ cho nhân dân, không có đặc
quyền, đặc lợi, thực sự là những con người trong sạch, cần kiệm liêm chính, với tư
cách “Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm - Việc gì có hại đến dân ta phải hết
sức tránh”

You might also like