Professional Documents
Culture Documents
ÔN TẬP CUỐI KỲ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH PDF
ÔN TẬP CUỐI KỲ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH PDF
Tư tưởng HCM về CMGPDT: Con đường CMVS Phải do ĐCS lãnh đạo Là sự
nghiệp đoàn kết toàn dân tộc Cần tiền hành chủ động sáng tạo Được thực
hiện bằng con đường bạo lực
2.1 Tính chất, nhiệm vụ và mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc.
Tính chất và nhiệm vụ
Bằng phương pháp lịch sử cụ thể, bám sát thực tiễn xã hội thuộc địa, HCM nhận
thấy sự phân hóa giai cấp ở các nước thuộc địa phương Đông không giống các nước
tư bản phương Tây. Do vậy, nó hình thành những mâu thuẫn chủ yếu khác nhau, dẫn
đến tính chất cuộc đấu tranh cách mạng ở các nước TBCN và các nước thuộc địa là
khác nhau. Mâu thuẫn chủ yếu ở các nước TBCN phương Tây là mâu thuẫn giai cấp
vô sản và tư sản, trong khi mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội thuộc địa phương Đông
là mâu thuẫn dân tộc, giữa dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa thực dân.
Nhận thức được thực tiễn xã hội thời điểm đó, trong tác phẩm Đường Cách
Mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã nhấn mạnh tính chất và nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
ở các nước thuộc địa nói chung và Việt Nam nói riêng là cuộc cách mạng, đấu tranh
giải phóng dân tộc không phải là cuộc đấu tranh giai cấp như ở các nước tư bản.
Trong tư duy chính trị của HCM, giải phóng dân tộc đã bao hàm một phần giải phóng
giai cấp và giải phóng con người.
Đối tượng của cách mạng thuộc địa không phải là giai cấp tư sản hay giai cấp
địa chủ nói chung mà là chủ nghĩa thực dân và tay sai phản động. Đế quốc và tay sai
là kẻ thù số một của nông dân, lực lượng đông đảo nhất và cũng là nạn nân chính
của các chính sách khai thác thuộc địa, bóc lột, cướp đoạt ruộng đất của bọn đế quốc
thực dân. Do đó, lật đổ chế độc thuộc địa, độc lập dân tộc là nguyện vọng hàng đầu
của nông dân.
Mục tiêu
Trong nhiều bài nói, bài viết, HCM luôn xác định rõ 3 mục tiêu cơ bản của cách
mạng giải phóng dân tộc là đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, giành độc
lập dân tộc, thiết lập chính quyền của nhân dân.
2.2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường CMVS
Rút ra bài học kinh nghiệm từ thực tiễn các con đường cứu nước ở VN trước
đó
Sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước đã bị biến thành thuộc địa, nhân dân
lầm than, HCM đã chứng kiến rất nhiều phong trào cứu nước của ông cha ta từ
đường lối cứu nước theo lập trường phong kiến đến nông dân, tư sản, tiểu tư sản,
song tất cả đều thất bại. Nguyên nhân thất bại đều do thiếu đi 1 đường lối, phương
pháp đấu tranh đúng đắn trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc đã trở thành một hệ
thống thế giới, đẫn đến CM Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng và bế tắc. Nhìn
nhận và rút ra bài học kinh nghiệm từ thực tiễn đó, HCM quyết tâm ra đi, tìm hiểu lý
luận và khảo sát thực tiễn ở 3 nước tư bản phát triển: Anh, Pháp, Mỹ.
Rút ra bài học từ thực tiễn các cuộc cách mạng trên thế giới: CM tư sản là không
triệt để
Trong vòng mười năm, đến với cần lao đang đấu tranh ở nhiều châu lục và quốc
gia trên thế giới, Người đã đọc được Tuyên ngôn độc lập Mỹ, tìm hiểu thực tiễn cuộc
cách mạng tư sản Mỹ cũng như đọc Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền CM Pháp,
tìm hiểu cuộc cách mạng Pháp. Từ 2 cuộc cách mạng đó, Người đã nhận thấy cách
mạng ở Pháp và Mỹ hay cách mạng tư sản nói chung đều là cách mạng không đến
nơi, “tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì
nó áp bức thuộc địa”. Vì vậy, Người nhận định cách mạng Việt Nam không thể đi
theo con đường này.
Con đường giải phóng dân tộc
Từ chối đi theo con đường cách mạng tư sản, HCM cho rằng con đường giải
phóng dân tộc là con đường đi theo Chủ nghĩa Mác – Lênin.
Sự kiện thực tiễn và lý luận quan trọng đã tác động trực tiếp đến việc HCM tìm
ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc là việc HCM thấy được CM Tháng
Mười Nga năm 1917 và đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề
dân tộc và thuộc địa của Lênin (1920). Người nhận thấy CMT10 Nga không chỉ là một
cuộc CMVS mà còn là một cuộc CM giải phóng dân tộc và tìm thấy trong lý luận của
Lênin một phương hướng mới để giải phóng dân tộc: con đường CMVS. Người khẳng
định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường CMVS”. Và trong tư tưởng của Người, để thực hiện được điều đó cần tiến
hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc (lực lượng lãnh đạo là giai cấp công dân và
đội tiên phong của nó là ĐCS) và dần dần từng bước tiến tới xã hội cộng sản.
Thực chất con đường giải phóng dân tộc của HCM
Con đường cứu nước mà Hồ Chí Minh tìm thấy là con đường giải phóng dân tộc
theo cách mạng vô sản. Thực chất đây là con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp và giải phóng con
người. Con đường này đã đáp ứng được đòi hỏi bức xúc của lịch sử dân tộc là phải
giải quyết triệt để mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp để đưa dân tộc thoát ra
khỏi xiềng xích nô lệ và đưa người lao động thoát ra khỏi mọi ách áp bức.
2.3 CM GPDT trong thời đại mới phải do ĐCS lãnh đạo
Từ trước đến nay, mọi phong trào yêu nước, các cuộc đấu tranh đều cần một
người hay một tổ chức trực tiếp tổ chức và lãnh đạo. Trước HCM, các bậc tiền bối
trong nước đã nhận ra sự cần thiết phải lập ra một chính đảng, các nhà lý luận Mác
– Lênin cũng nhấn mạnh sự tiên quyết, không thể thiếu của chính đảng cách mạng
trong một công cuộc cách mạng. Trên tinh thần đó, HCM đã khẳng định muốn làm
cách mạng trước hết phải có Đảng. Người viết:”Muốn làm cách mệnh, trước phải
làm cho dân giác ngộ…phải giảng lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu”, “Cách mệnh
phải hiểu phong trào thế giới, phải bày sách lược cho dân… Vậy nên sức cách mệnh
phải tập trung, muốn tập trung phải có đảng cách mệnh” đồng thời HCM cũng khẳng
định cách mạng muốn thành công “Trước hết phải có đảng cách mệnh để trong thì
vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai
cấp ở khắp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công cũng như người cầm
lái có vững thuyền mới chạy” – Đường cách mệnh, HCM. Thêm vào đó, HCM chỉ rõ
“chỉ có sự lãnh đạo của Đảng mới biết vận dụng một cách sáng tạo Chủ nghĩa Mác –
Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta thì mới đưa cách mạng giải phóng dân tộc
giành thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công”.
Từ những điều trên, đầu 1930, Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một
chính đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam,
lấy chủ nghĩa Mác – Lênin “làm cốt”, mang bản chất của giai cấp công nhân, có tổ
chức, kỷ luật và mật thiết liên lạc với quần chúng. Và ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã
quy tụ được lực lượng và sức mạnh của toàn bộ giai cấp công nhân và cả dân tộc Việt
Nam, nhờ đó, Đảng đã nắm ngọn cờ lãnh đạo duy nhất đối với CMVN và trở thành
nhân tố hàng đầu bảo đảm cho mọi thắng lợi của cách mạng.
2.4. Lực lượng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc
Xuất phát từ truyền thống toàn dân đánh giặc của dân tộc VN cũng như nguyên
lý cách mạng là sự nghiệp của quần chúng của CN Mác – Lênin, HCM đã khẳng
định:”Cách mệnh là việc chung của dân chúng chứ không phải việc một hai người”,
Người nghiêm khắc phê phán việc lấy ám sát cá nhân và bạo động non làm phương
thức hành động. Để có thể thắng lợi trong cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương,
phải là một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải là một cuộc nổi loạn. Trong
tư tưởng HCM, toàn thể dân tộc là tất cả mọi giai cấp, tầng lớp trong đó nòng cốt là
liên minh giai cấp công nhân và nông dân.
Đối với HCM, Người khẳng định rõ động lực của cuộc CM là giai cấp công nhân
và nông dân với “Công nông là gốc cách mạng”. Đồng thời, Người cũng chỉ rõ, phải
lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh, “Có dân là có tất cả”, “Dễ trăm lần không dân
cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Đây cũng chính là quan điểm xuyên suốt
quá trình chỉ đạo chiến tranh của Người.
Trong công cuộc khởi nghĩa vũ trang, HCM đánh giá rất cao vai trò của quần
chúng nhân dân, Người xem sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo vô tận của quần
chúng là nhân tố then chốt bảo đảm thắng lợi.
Chiến lược tập hợp lực lượng cách mạng
Dưới chế độ cai trị của CNTB Pháp, Việt Nam bị biến thành một xã hội thuộc địa
với những tàn tích phong kiến nặng nề, các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và
giai cấp đều bị đặt trong quỹ đạo chuyển động của xã hội phong kiến thay vì xã hội
thuộc địa. Do đó, tuy giai cấp tư sản dân tộc và bộ phận địa chủ vừa và nhỏ có mặt
hạn chế trong quan hệ với quần chúng lao động nhưng trong quan hệ với thực dân
Pháp, họ vẫn là giai cấp bị trị, những người Việt Nam chịu nỗi nhục mất nước, đều
có khả năng tham gia phong trào giải phóng dân tộc. Vì thế, trong Cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng, Người xác định lực lượng cách mạng là bao gồm cả dân tộc:
“Đảng phải tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, giai cấp nông dân; lôi kéo tiểu
tư sản, trí thức, trong nông… đi vào phe vô sản giai cấp; đối với phú nông, trung, tiểu
địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu
mới (ít nhất cũng là) làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách
mạng (như Đảng Lập Hiến) thì phải đánh đổ”.
Trong lực lượng toàn dân tộc, HCM hết sức nhấn mạnh vai trò động lực cách
mạng của công nhân và nông dân, Người khẳng định: công nông “là gốc cách mệnh”,
nhưng cũng không xem nhẹ khả năng tham gia sự nghiệp giải phóng dân tộc của các
giai cấp và tầng lớp khác. Người coi tiểu tư sản, tư sản dân tộc và một bộ phận giai
cấp địa chủ là bạn đồng minh cách mạng.
2.5. Cách mạng giải phóng dân tộ cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả
năng giành thắng lợi trước CMVS ở chính quốc
Cách mạng giải phóng dân tộ cần được tiến hành chủ động, sáng tạo
Trong tư tưởng HCM, các nước thuộc địa là nơi cung cấp lương thực, quân lính
cho các cuộc đấu tranh phi nghĩa của CNTB khi chuyển sang CNĐQ. Và vì thế, các
nước thuộc địa trở thành một trong những nguồn sống của CNĐQ.
Trong cuộc đấu tranh chống CNĐQ, CNTD, cách mạng thuộc địa có tầm quan
trọng đặc biệt. Nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng cách mạng to lớn. Theo
HCM, phải “Làm cho các dân tộc thuộc địa từ trước đến nay vẫn tách biệt nhau, hiểu
biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương
lai, khối liên minh là một trong những cái cánh của CMVS”.
Bên cạnh đó, HCM còn đề cao sự tự lực cánh sinh. Đối với Người, trong công
cuộc kháng chiến chống thực dân giành độc lập, “một dân tộc không tự lực cánh sinh
mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng độc lập”. Chính vì vậy, mặc
dù trong khi yêu cầu Quốc tế Cộng sản và các đảng cộng sản quan tâm đến CM thuộc
địa, HCM vẫn khẳng định công cuộc giải phóng nhân dân thuộc địa chỉ có thể thực
hiện được bằng sự nỗ lực giải phóng, “công cuộc giải phóng các thuộc địa chỉ có thể
thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân nhân dân các thuộc địa”.
Qua đó, ta thấy, độc lập, tự chủ, tự lực tự cường kết hợp với tranh thủ sự giúp
đỡ quốc tế là một quan điểm nhất quán trong tư tưởng HCM.
Quan hệ của CMGPDT thuộc địa với CMVS ở chính quốc
Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi
của CM thuộc địa phụ thuộc vào thắng lợi của CMVS ở chính quốc. Quan điểm này,
vô tình đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của các phong trào CM ở thuộc địa.
Theo HCM, CM GPDT ở thuộc địa và CMVS ở chính quốc có mối quan hệ mật
thiết, bình đẳng, tác động qua lại lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung
là chủ nghĩa đế quốc chứ không phải là mối quan hệ lệ thuộc, chính – phụ.
Chính vì vậy, Nguyễn Ái Quốc cho rằng CM giải phóng dân tộc ở thuộc địa có
thể nổ ra và giành thắng lợi trước CMVS ở chính quốc. Sự thắng lợi của cuộc CM ở
thuộc địa có thể tác động đến cuộc CMVS ở chính quốc, qua đó, giúp CMVS ở chính
quốc sớm đi đến thành công.
2.6. CMGPDT phải được tiến hành bằng con đường bạo lực cách mạng
Tính tất yếu của bạo lực cách mạng
HCM đã khẳng định muốn giải phóng dân tộc phải thực hiện bằng con đường
bạo lực, “độc lập không thể cầu xin”. Bởi lẽ, ”Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là
một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”, chúng sử dụng bạo lực để
xâm lược và thống trị thuộc địa, đàn áp các phong trào yêu nước. Vì thế, con đường
để giành và giữ độc lập chỉ có thể là con đường cách mạng bạo lực. HCM đã vạch rõ
tính tất yếu của bạo lực cách mạng: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù
của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản
cách mạng, giành lấy chình quyền và bảo vệ chính quyền”.
Quán triệt quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin coi sự nghiệp cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng, HCM cho rằng bạo lực cách mạng là bạo lực quần chúng,
toàn dân.
Bạo lực cách mạng bao gồm 2 lực lượng: lực lượng chính trị quần chúng và lực
lượng vũ trang nhân dân. Hình thức của bạo lực cách mạng bao gồm cả đấu tranh
chính trị và đấu tranh vũ trang nhưng phải “Tùy tình hình cụ thể mà quyết định ….,
sử dụng đúng và khéo kết hợp hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị
để giành thắng lợi cho cách mạng”
Tư tưởng bạo lực cách mạng gắn bó hữu cơ với tư tưởng nhân đạo, hòa bình
Tư tưởng HCM về bạo lực cách mạng khác hẳn tư tưởng hiếu chiến của các thế
lực đế quốc xâm lược. Xuất phát từ tình yêu thương, quý trọng sinh mạng con người,
Người luôn tranh thủ giành, giữ chính quyền ít đổ máu. Người tìm mọi cách ngăn
chặn xung đột vũ trang, tận dụng mọi khả năng giải quyết xung đột bằng biện pháp
hòa bình, chủ động đàm phán, thương lượng, chấp nhận những nhượng bộ có
nguyên tắc. Việc tiến hành chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc cuối cùng khi kẻ thù
quyết giành thắng lợi bằng quân sự.
Theo HCM, đánh giặc không phải là tiêu diệt hết lực lượng, chủ yếu là đánh bại
ý chí xâm lược của chúng, giành thắng lợi về quân sự với giải pháp ngoại giao để kết
thúc chiến tranh.
Hình thái bạo lực cách mạng
Khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân là 2 hình thái bạo lực cách mạng
đặc sắc trong tư tưởng HCM. HCM cho rằng: “Không dùng toàn lực của nhân dân về
đủ mọi mặt để ứng phó, không thể nào thắng lợi được”. Vì thế, Người chủ trương
phát động chiến tranh nhân dân, đấu tranh trong mọi mặt trận quân sự, chính trị,
kinh tế, văn hóa, ngoại giao… với phương châm chiến lược đánh lâu dài.
2.7 Kết luận chung
Tư tưởng HCM về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc có những
luận điểm sáng tạo, đặc sắc, có giá trị lý luận và thực tiễn lớn:
Làm phong phú học thuyết Mác – Lênin về cách mạng thuộc địa về Lý luận
cách mạng giải phóng dân tộc và Phương pháp tiến hành CM GPDT
Soi đường thắng lợi cho cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Chương 3: Tư tưởng HCM về Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
5.1 Vị trí, vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp CM
Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của
CM
Đại đoàn kết dân tộc là một chiến lược lâu dài, quyết định thành công của CM
Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, trong thời đại mới, để đánh bại các thế lực đế quốc
thực dân nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người,
nếu chỉ có tinh thần yêu nước chưa đủ, cách mạng muốn thành công và thành
công đến nơi, phải tập hợp được tất cả mọi lực lượng có thể tập hợp, xây
dựng được khối đại đoàn kết dân tộc bền vững.
Đại đoàn kết dân tộc nhằm tập hợp mọi lực lượng
Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được nhằm hình thành
sức mạnh to lớn của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh với kẻ thù dân tộc. HCM
đã từng khẳng định “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành công,
đại thành công”.
Đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng HCM luôn luôn được khẳng định là vấn đề
sống còn
HCM cho rằng, Đại đoàn kết là vấn đề sống còn của dân tộc, là một chiến lược
cách mạng - chiến lược huy động, tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được,
hình thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc đấu tranh trong kẻ thù xâm lược.
Người khẳng định: “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”; “Đoàn kết
là điểm mẹ: Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt”.
Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của CM – Đại đoàn kết dân
tộc phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực
Đại đoàn kết dân tộc phải được khẳng định là nhiệm vụ hàng đầu của mọi giai
đoạn CM
Đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, đồng thời cũng là
nhiệm vụ hàng đầu của mọi giai đoạn cách mạng. Nhấn mạnh vấn đề này là
nhấn mạnh tới vai trò của thực lực cách mạng. Bởi cách mạng muốn thành công
nếu chỉ có đường lối đúng chưa đủ mà trên cơ sở của đường lối đúng, Đảng
phải cụ thể hoá thành những mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng
phù hợp với từng giai đoạn lịch sử để lôi kéo, tập hợp quần chúng, tạo sức mạnh
cho cách mạng.
Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc
Hồ Chí Minh còn chỉ ra rằng, đại đoàn kết dân tộc không phải chỉ là mục tiêu
của Đảng, mà còn là nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Bởi vì, cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng, phải do quần chúng, vì quần chúng.
5.2. Lực lượng đại đoàn kết dân tộc
Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân – Nòng cốt của khối đại đoàn kết
dân tộc là liên minh công – nông
Khái niệm dân, nhân dân và đại đoàn kết dân tộc – đại đoàn kết toàn dân trong tư
tưởng HCM, chiếm vai trò quan trọng
Đối với khái niệm dân, nhân dân: Khái niệm này có nội hàm rất rộng, vừa là
một tập hợp đông đảo quần chúng vừa là mỗi con người Việt Nam cụ thể, cả hai
đều là chủ thể của đại đoàn kết dân tộc. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết
toàn dân, được hiểu rằng, đó là “mọi con dân nước Việt”, “mỗi một người con
rồng cháu Tiên”, không phân biệt dân tộc đa số hay thiểu số, có tín
ngưỡng hay không có tín ngưỡng, không phân biệt “già, trẻ, gái, trai, giàu
nghèo, quý tiện”.
Khái niệm đại đoàn kết dân tộc – đại đoàn kết toàn dân: Đối với HCM, đại đoàn
kết dân tộc thực chất là đại đoàn kết toàn dân. Đại đoàn kết dân tộc là một chiến
lược của Đảng.
Trong đại đoàn kết dân tộc, HCM xem liên minh công - nông là gốc, nòng cốt của
khối đại đoàn kết. Người khẳng định lực lượng chủ yếu trong khối đại đoàn kết
dân tộc là công – nông, nên liên minh công – nông là nền tảng của mặt trận dân
tộc thống nhất.
Điều kiện để thực hiện khối đại đoàn kết dân tộc
Theo HCM, để đại đoàn kết dân tộc, cần phải kế thừa truyền thống yêu nước –
nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc.
Truyền thống này được hình thành, củng cố và phát triển trong suốt quá trình
dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm của dân tộc, trở thành giá trị bền vững,
thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người VN yêu nước.
Truyền thống đó là cội nguồn sức mạnh vô địch để cả dân tộc chiến đấu và chiến
thắng mọi thiên tai, địch họa, làm cho đất nước được trường tồn, bản sắc dân
tộc được giữ vững.
Phải có lòng khoan dung, độ lượng với con người.
HCM chỉ rõ, trong mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng đều có những ưu điểm,
khuyết điểm, mặt tốt, mặt xấu… Cho nên, vì lợi ích của CM cần phải có lòng khoan
dung độ lượng, rân trọng cái phần thiện dù nhỏ nhất ở mỗi con người mới có thể
tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng
Lòng khoan dung, độ lượng ở HCM không phải là một sách lược nhất thời, một
thủ đoạn chính trị mà là sự tiếp nối và phát triển truyền thống nhân ái, bao dung
của dân tộc, từ chính mục tiêu của cuộc CM mà Người suốt đời theo đuổi.
Để thực hành đoàn kết rộng rãi cần có niềm tin vào Nhân dân.
Với HCM, yêu dân, tin dân, dựa vào dân. sống, đấu tranh vì hạnh phúc của Nhân
dân là nguyên tắc tối cao. Theo Người, DÂN là chỗ dựa vững chắc của Đảng, là
cội nguồn sức mạnh vô tận và vô địch của khối đại đoàn kết dân tộc, quyết định
mọi thắng lợi của CMVN.
Phải có lập trường giai cấp rõ ràng - Đại đoàn kết dân tộc phải dựa trên nền tảng
khối liên minh công – nông.
Đây là quan điểm cơ bản của HCM đã xác định trong việc xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân: Không có liên minh công - nông vững mạnh thì không thể xây
dựng được khối đại đoàn kết toàn dân vững chắc bởi liên minh công - nông là
cơ sở, là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân. Hồ Chí Minh viết: “lực lượng
chủ yếu trong khối đại đoàn kết dân tộc là công - nông, cho nên liên minh công
- nông là nền tảng của mặt trận dân tộc thống nhất”.
5.3. Hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc
Hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết dân tộc là Mặt trận dân tộc thống nhất
Trong tư tưởng HCM, đại đoàn kết dân tộc không chỉ dừng lại ở quan niệm, những
lời kêu gọi mà phải trở thành một chiến lược CM, khẩu hiệu hành động của toàn Đảng
và dân tộc. Nó phải biến sức mạnh vật chất, trở thành lực lượng vật chất có tổ chức. Tổ
chức đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất.
Tùy theo từng thời kì mà tên gọi của mặt trận dân tộc thống nhất cũng khác nhau:
1930 “Hội phản đế đồng minh”; 1936 “Mặt trận Dân chủ” đấu tranh đòi quyền dân chủ;
1937 “Mặt trận dân chủ Đông Dương” đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, chống CN phát
xít và bọn phản động thuộc địa; 1939 ”Mặt trận nhân dân phản đế”, 1941 “Mặt trận
Việt Minh”; 1946 “Mặt trận Liên Việt”, củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc
đáp ứng yêu cầu kháng chiến chống TD Pháp; 1955 “Mặt trận Tổ quốc VN” ở miền Bắc;
1960 “Mặt trận giải phóng miền Nam VN”; 1968 “Liên minh các lực lượng dân tộc, dân
chủ, hòa bình VN”; 1977 “Mặt trận Tổ quốc VN” cho đến nay. Tuy có nhiều tên gọi khác
nhau, nhưng thực chất chỉ là một, đó là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của Nhân dân
VN, nơi quy tụ, tập hợp đông đảo mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, mọi con dân nước
Việt, không chỉ ở trong nước mà còn bao gồm cả những người VN định cư ở nước ngoài,
phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc, thống nhất của Tổ quốc, tự do và hạnh
phúc của Nhân dân.
Kết luận: Vậy theo tư tưởng HCM, hình thức của khối đại đoàn kết dân tộc chính
là Mặt trận dân tộc thống nhất. Đại đoàn kết dân tộc phải được thực hiện bằng sức
mạnh của quần chúng nhân dân có tổ chức, có lãnh đạo. Vì thế, nên Người rất chú ý,
quan tâm đưa quần chúng nhân dân vào các tổ chức yêu nước, mà bao trùm lên tất cả
là Mặt trận dân tộc thống nhất.
Một số nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt đồn của mặt trận dân tộc thống
nhất
Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng khối liên minh
công – nông - trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi quy tụ mọi con dân nước Việt, nhưng đó
không phải là một tập hợp ngẫu nhiên, tự phát của quần chúng nhân dân, mà
là một khối đoàn kết chặt chẽ, có tổ chức trên nền tảng khối liên minh công-
nông- trí thức, do Đảng cộng sản lãnh đạo.
Đảng vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, vừa là lực lượng lãnh
đạo Mặt trận.
Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao
của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân.
Mục đích chung của Mặt trận dân tộc thống nhất được Hồ Chí Minh xác định
cụ thể phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, nhằm tập hợp tới mức cao
nhất lực lượng dân tộc vào khối đại đoàn kết. Nhưng độc lập, tự do là nguyên tắc
bất di bất dịch, ngọn cờ đoàn kết, mẫu số chung để quy tụ các tầng lớp, giai cấp,
đảng phải dân tộc, tôn giáo vào trong mặt trận.
Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ
bảo đảm đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững.
Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của cả dân tộc,
nó bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo khác
nhau, với nhiều lợi ích khác nhau. Do vậy, hoạt động của Mặt trận dân tộc
thống nhất phải theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
Nguyên tắc hiệp thương dân chủ đòi hỏi tất cả mọi vấn đề của Mặt trận đều phải
được đem ra để tất cả các thành viên cùng nhau bàn bạc công khai, để đi
đến nhất trí, loại trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức.
Để thực hiện nguyên tắc hiệp thương dân chủ phải đứng vững trên lập
trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc
và lợi ích giai cấp, lợi ích chung và lợi ích riêng, lợi ích lâu dài và lợi ích trước
mắt.
Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đoàn kết chặt chẽ, lâu dài, thật sự, chân
thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Là một tập hợp nhiều giai tầng, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, bên cạnh
những điểm tương đồng, giữa các thành viên của Mặt trận vẫn có những
điểm khác nhau cần phải bàn bạc, hiệp thương dân chủ để thu hẹp những
nhân tố khác biệt, cục bộ, nhân lên những nhân tố tích cực, nhân tố chung để
đi đến thống nhất, đoàn kết.
Để giải quyết vấn đề này, một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương
châm “cầu đồng tồn dị” lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt. Mặt
khác, Người nêu rõ: “Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng
cường đoàn kết ”
Chương 6 - I: Tư tưởng HCM về xây dựng nhà nước thể hiện quyền là chủ và làm
chủ của Nhân dân