Professional Documents
Culture Documents
I..... í
30058629
PGS. TS. Nguyễn Đăng Hùng là sinh viên Khóa I của Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội. Sau
khi tốt nghiệp, năm 1959 ông đã trở thành giảng viên đầu tiên xảy dựng Bộ môn Công nghệ vật liệu
Silicat tại chính ngôi trường ông theo học. PGS. TS. Nguyễn Đăng Hùng cũng là người thầy đầu tiên
dạy môn Công nghệ vật liệu chịu lừa từ niên học 1960 - 1961 và môn Lò Silicat từ niên học 1961 -
1962. Năm 1973, ông đã bảo vệ thành công Luận án Tiến sĩ tại Tiệp Khắc. Với nhiều thành tích đóng
góp trong quá trinh nghiên cứu và giảng dạy, ông đã được phong hàm Phó Giáo sư. Trong thời gian
công tác tại trường Đại học Bách Khoa Hà Nội, ông đã được cử đi dạy đại học ờ nước ngoài trong 7
năm bằng tiếng Pháp với các chuyên ngành Công nghệ Gốm sứ, Thủy tinh, Lò silicat, Hóa lý silicat.
Nhiều nghiên cứu sinh, học viên cao học và các thế hệ sinh viên đã được ông đào tạo và trường thành
trong lĩnh vực này.
Ngoài đam mê nghiên cứu khoa học, PGS. TS. Nguyễn Đăng Hùng còn rất tâm huyết với việc
biên soạn các cuốn sách thuộc chuyên ngành ông giảng dạy. Ông là người đầu tiên viết cuốn sách “Kỹ
thuật sản xuất vật liệu chịu lửa” in tại Nhà xuất bản Giáo dục nám 1967. Tiếp sau đó là các cuốn sách
khác như: “Lò silicat” (3 tập), năm 1976 và “Kỹ thuật hóa học vật liệu chịu lửa” (cùng biên soạn với
đồng nghiệp) được in tại Trường Đại học Bách Khoa năm 1978; “Công nghệ sản xuất vật liệu chịu lửa”,
Nhà xuất bản Bách Khoa Hà Nội, năm 2006 và được tái bàn vào năm 2013. Đến năm 2011, ông viết
cuốn sách chuyên đề “Lò quay nung clinke xi măng” cho Tổng Công ty Công nghiệp Xi măng Việt
Nam VICEM.
Cuốn sách “Lò nung Gốm sứ và Vật liệu chịu lửa; Lò nung clỉnke Xi mãng và Vôi; Lò nấu
Thủy tinh và Frit” là sự tổng hợp tất cả những kiến thức căn bản và thực tiễn về các loại lò nung từ
truyền thống đến hiện đại. Mặc dù tuồi đã cao nhưng tác giả đã cập nhật liên tục những thông tin khoa
học và sự phát triển công nghệ mới nhất của Thế giới nhằm giúp bạn đọc có cái nhìn toàn diện hơn. Với
hơn 50 năm kinh nghiệm nghiên cứu, giảng dạy và thông qua thực tế sàn xuất tác giả đã biên soạn cuốn
sách “Lò nung Gốm sứ và Vật liệu chịu lửa; Lò nung clinke Xi măng và Vôi; Lò nấu Thủy tinh và
Frit” với tâm nguyện truyền lại cho thế hệ sau những kiến thức, hiểu biết về lĩnh vực Lò Silicat.
3
. .,'■ . . w
* •. Ạ.w.-'.z b. ! .
■ ■ •• .
Kế K. / K- TjL ' ! ■ ■• ? ■
LỜI NÓI ĐẰU
Trước sự phát triển mạnh mẽ của Khoa học và Công nghệ, đòi hỏi các ngành công nghiệp cần
phải có sự thay đổi và cải tiến vượt bậc nhằm đáp ứng được những yêu cầu mới của thời đại. Ngành
công nghiệp Gốm sứ, Xi măng và Thủy tinh của nước ta cũng đang thay đổi mạnh về công nghệ, cách
thức cũng như mẫu mã và quy trinh sử dụng thực tế.
Từ những năm đầu của thập niên 60, khỉ giáng dạy về mòn học “Lò Siỉicat”, lác giả dã mong
muốn tích lũy kiến thức và kinh nghiệm để xuất bản cuốn sách chuyên về lò Silicat. Đến năm 1976, tác
giả biên soạn tài liệu “Lò Silicat” (ba tập) dành cho sinh viên của Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội và
các trường Đại học, Cao đẳng liên quan đến lĩnh vực này trên cả nước. Sau hom 50 năm đúc kết kinh
nghiệm giảng dạy và quá trinh thực tế tại các nhà máy, xí nghiệp; tác giả đã biên soạn và liên tục cập
nhật thông tin về khoa học công nghệ để xuất bàn cuốn sách với tên gọi mới là: “Lò nung Gốm sứ và
Vật liệu chịu lửa; Lò nung clinke Xi măng và Vôi; Lò nấu Thủy tinh và Frit”.
Nội dung cuốn sách đã khác nhiều so với ba tập “Lò silicat” in năm 1976 do tích hợp kinh
nghiệm giảng dạy hom 50 năm, thực tế sản xuất và tiếp cận được những tài liệu mới từ nguồn tiếng Anh
và tiếng Pháp. Bên cạnh đó, nền công nghiệp Gốm sứ, Xi măng và Thủy tinh của nước ta chính là
những minh họa thực tiễn đa dạng và phong phú giúp cho bạn đọc dễ tiếp cận và sử dụng. Két cấu của
cuốn sách gồm 13 chưomg, nội dung cuốn sách tập trung giới thiệu những kiến thức cơ bản về cấu tạo
và quy trình hoạt động của các loại lò cũng như những vấn đề đảm bảo môi trường khi sử dụng lò.
Mặc dù đã có thâm niên giảng dạy về môn học “Lò Silicat” ở trong nước cũng như ở nước ngoài
bằng tiếng Pháp nhưng tác giả cũng chưa thật thỏa mãn với những nội dung của cuốn sách này. Có thể
cuốn sách vẫn chưa thật hoàn chinh và chắc chắn còn có thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được ý kiến
đóng góp, trao đổi của các cá nhân và tập thể để cuốn sách được hoàn thiện hơn và ngày càng trờ thành
tài liệu bổ ích cho các sinh viên của các trường đại học và cao đăng nước ta cũng như những người làm
việc trong ngành Gốm sứ, Vật liệu chịu lửa, Xi măng, Vôi, Thủy tinh và bạn đọc trên toàn quốc.
Tác giả
5
MỤC LỤC
Giới thiệu tác giả................................................................................................................................................. 3
Lời nói đầu............................................................................................................................................................ 5
7
CHƯƠNG 2. TÍNH TOÁN QUÁ TRÌNH CHÁY NHIÊN LIỆU.................................................................. 64
2.1. Mục đích và quy ước trong tính toán............................................................................................... 64
2.1.1. Mục đích............................................................................................................................................ 64
2.1.2. Quy ước trong tính toán..................................................................................................................65
2.2. Nội dung tính toán quá trinh cháy hoàn toàn................................................................................. 65
2.2.1. Xác đinh nhiệt trị cùa nhiên liệu...................................................................................................... 65
2.2.2. Lượng không khí cần thiết để cháy nhiên liệu.............................................................................. 65
2.2.3. Lượng và thành phần sản phẩm cháy........................................................................................... 69
2.2.4. Nhiệt độ cháy nhiên liệu..................................................................................................................70
2.2.5. Nhiệt độ cần nung nóng (gia nhiệt) sơ bộ không khf................................................................... 75
2.2.6. Tinh toán quá trình cháy với không khí giàu oxy..........................................................................79
2.3. Nội dung tính quá trình cháy không hoàn toàn.............................................................................. 81
2.3.1. Cho biết lượng nhiệt tổn thất qx %................................................................................................. 81
2.3.2. Cho biết hàm lượng COc% trong sản phẩm cháy và hệ số a.................................................... 82
2.3.3. Cháy với glá trị không khí dư a < 1.............................................................................................. 83
2.4. Các tính toán khác................................................................................................................................. 83
2.4.1. Tính gần đúng quá trinh cháy......................................................................................................... 83
2.4.2. Tính lượng không khí bổ sung đề khí giảm đến nhiệt độ cho.................................................... 84
2.4.3. Tính lượng khói lò bổ sung để giảm nhiệt độ............................................................................... 85
2.4.4. Hồi lưu sản phẳm cháy để hạ nhiệt độ cháy của nhiên liệu...................................................... 85
2.4.5. Tính cân bằng vật chất của quá trình cháy................................................................................... 86
2.5. Các ví dụ tính toán quá trình cháy.................................................................................................... 87
8
3.4. Tính toán lò khí hóa.............................................................................................................................. 135
3.4.1. Tính toán mức độ chuẩn bị nhiên liệu.......................................................................................... 136
3.4.2. Thành phần và lượng sản phẩm zôn chưng khô..................... 138
3.4.3. Thành phần, lượng khí ờ zôn khí hóa, lượng tác nhân khí hỏa tiêu tốn.................................. 139
3.4.4. Thành phần, lượng và nhiệt độ hỗn hợp khí cuối cùng..............................................................141
3.4.5. Lượng hơi nước trong gió.............................................................................................................. 141
3.4.6. Chiều cao lớp nhiên liệu................................................................................................................. 142
3.4.7. Năng suất của lò khí hóa................................................................................................................ 143
3.4.8. Số lò khí hỏa..................................................................................................................................... 144
3.4.9. Hệ số tác dụng hữu ích của lò khí hóa......................................................................................... 145
9
CHƯƠNG 5. TRAO ĐỒI NHIỆT.................................................................................................................. 192
5.1. Truyền nhiệt bằng dẫn nhỉệt............................................................................................................. 192
5.1.1. Khải niệm chung................. ..........................................................................................................192
5.1.2. Truyền nhiệt qua tường phẳng một lớp và nhiều lớp................................................................ 194
5.1.3. Truyền nhiệt qua tường hình trụ một lớp và nhiều lớp.............................................................. 198
5.1.4. ứng dụng......................................................................................................................................... 199
5.2. Truyền nhiệt bằng đối lưu................................................................................................................ 200
5.2.1. Dòng nhiệt đối lưu......................................................................................................................... 200
5.2.2. Phương trình đồng dạng và hệ số ađ1......................................................................................... 202
5.2.3. Một số công thức thường dùng.................................................................................................... 207
5.2.4. ứng dụng......................................................................................................................................... 209
5.3. Truyền nhiệt bằng bức xạ................................................................................................................. 209
5.3.1. Những định luật cơ bản................................................................................................................ 209
5.3.2. Tính chất cùa dòng nhiệt bức xạ.................................................................................................. 213
5.3.3. Trao đổi nhiệt giữa hai vật thể...................................................................................................... 214
5.3.4. Bức xạ nhiệt qua lỗ, khe hờ.......................................................................................................... 217
5.3.5. Bức xạ nhiệt qua tấm chắn........................................................................................................... 217
5.3.6. Bức xạ của khl và hơi.................................................................................................................... 219
5.3.7. Liên hệ đến vấn đề môi trường.................................................................................................... 224
5.4. Trao đổi nhiệt trong lò lửa................................................................................................................ 224
5.4.1. Trao đổi nhiệt.................................................................................................................................. 224
5.4.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến trao đổi nhiệt................................................................................ 229
5.4.3. Tổn thát nhiệt ra môi trường xung quanh...................................................................................232
5.5. Nung nóng và làm nguội vật thể...................................................................................................... 234
5.5.1. Phương pháp tính toán................................................................................................................. 234
5.5.2. Nhiệt độ môi trường thay đổi........................................................................................................ 235
5.5.3. Nung nống trong môi trường có nhiệt độ không thay đổi.......................................................... 237
5.6. Tính toán nung nóng bằng phương pháp Schmidt..................................................................... 242
5.7. Trao đổi nhiệt trong lớp vật liệu dạng hạt, viên, cục..................................................................254
10
Chương 7. VẬT LIỆU CHỊU LỬA VÀ CÁU TẠO CÁC CHI TIẾT CỦA LÒ....................................... 285
7.1. Tính chất cơ bản cùa vật liệu chịu lửa........................................................................................... 285
7.1.1. Độ chịu lửa....................................................................................................................................... 285
7.1.2. Nhiệt độ biến dạng dưới tải trọng................................................................................................. 285
7.1.3. Độ bền sốc nhiệt.............................................................................................................................. 285
7.1.4. Độ bền hóa........................................................................................................................................ 286
7.1.5. Khối lượng thề tích, độ xốp, độ hút nước.................................................................................... 286
7.1.6. Cường độ cơ học............................................................................................................................. 286
7.1.7. Cường độ chống bào mòn cơ học................................................................................................ 286
7.2. Các loại vật liệu chịu lửa..................................................................................................................... 287
7.2.1. Samôt và bán axit............................................................................................................................ 287
7.2.2. Gạch cao alumin.............................................................................................................................. 287
7.2.3. Vật liệu chịu lửa Cordierit...............................................................................................................288
7.2.4. Gạch cao alumin chứa ZrO2 và SiC.............................................................................................. 290
7.2.5. Gạch chịu lửa Manhêdi-Crôm..................................................................................................... 290
7.2.6. Gạch chịu lửa Manhêdi - Spinel....................................................................................................291
7.2.7. Vật liệu chịu lửa chứa SiC..............................................................................................................292
7.2.8. Vật liệu chịu lửa điện chảy đơn khối (Monolythic)...................................................................... 293
7.2.9. Gạch nhẹ cách nhiệt....................................................................................................................... 293
7.2.10. Bông gốm (melt fiberized ceramic fiber).................................................................................... 294
7.2.11. Các cấp bông gốm........................................................................................................................ 294
7.2.12. Bê tông chịu lửa............................................................................................................................. 295
7.3. Cấu tạo các chi tiết của lò................................................................................................................... 298
7.3.1. ống dẫn khí...................................................................................................................................... 298
7.3.2. Các kiều van..................................................................................................................................... 299
7.4. Nền móng và vỏ của lò........................................................................................................................ 302
7.4.1. Nền móng lò................................................................................................................................... 302
7.4.2. Tường lò........................................................................................................................................... 302
7.4.3. Mạch xây.......................................................................................................................................... 304
7.4.4. Khe giãn nở nhiệt.......................................................................................................................... 305
7.4.5. Vòm lò hay trần lò............................................................................................................................ 305
7.4.6. Khung gông lò................................................................................................................................. 307
7.5. Thiết bị đo nhiệt độ lò......................................................................................................................... 310
7.5.1. Nhiệt kế nhiệt ngẫu......................................................................................................................... 311
7.5.2. Nhiệt kế nhiệt điện trờ..................................................................................................................... 315
7.5.3. Hỏa quang kế.................................................................................................................................. 316
7.6. Đo áp suất, hiệu áp suất và lưu tốc................................................................................................. 319
7.6.1. Cảm biến và biến đổi đo áp suất................................................................................................... 319
7.6.2. Cảm biến và biến đổi đo hiệu áp suất.......................................................................................... 321
11
7.6.3. Cảm biến hiệu áp suát đo lưu tốc................................................................................................ 322
7.6.4. Lưu tốc ké kiểu siêu âm............................................................................................................... 324
7.6.5. Đo mực bột liệu trong silô............................................................................................................ 326
12
9.2. Lò phòng gián đoạn............................................................................................................................ 392
9.2.1. Nguyên tắclàm việc.................................................................... 392
9.2.2. Cấu tạo............................................................................................................................................ 393
9.2.3. Xếp lò................................................................................................................................................394
9.2.4. ưu nhược điểm.............................................................................................................................. 395
9.3. Lỏ con thoi (SHUTLE KILN)...............................................................................................................395
9.3.1. Nguyên tắc làm việc.......................................................................................................................395
9.3.2. Chiều hướng của ngọn lửa............................................................................................................ 396
9.3.3. Cáu tạo lò....................................................................................................................................... 400
9.3.4. ưu nhược điểm của lò con thoi.................................................................................................... 402
9.4. Lò gián đoạn khác.............................................................................................................................. 403
9.4.1. Lò xe nâng (Elevator kiln)..............................................................................................................403
9.4.2. Lò BEN (bell kiln)............................................................................................................................ 404
9.4.3. Lò vỏ lò di động (Moving hood intermittent kiln)......................................................................... 405
9.4.4. Lò vỏ lò di động ngang.................................................................................................................. 406
9.4.5. Xác định kích thước cơ bản lò gián đoạn................................................................................... 409
9.5. Lò vòng................................................................................................................................................... 409
9.5.1. Nguyên tắc làm việc.......................................................................................................................409
9.5.2. Cấu tạo.............................................................................................................................................410
9.5.3. Đốt nhiên liệu trong lò.................................................................................................................... 413
9.5.4. ưu nhược điểm.............................................................................................................................. 413
9.6. Lò vòng không nóc.............................................................................................................................. 414
9.7. Lò liên phòng........................................................................................................................................ 416
9.7.1. Nguyên tắc làm việc.......................................................................................................................416
9.7.2. Cáu tạo............................................................................................................................................. 416
9.7.3. ưu nhược điểm cơ bản................................................................................................................. 417
9.8. Lò nung tuy nen....................................................................................................................................417
9.8.1. Cấu tạo các zôn của lò tuy nen.................................................................................................... 417
9.8.2. Sơ đồ nguyên tắc cùa lò tuy nen.................................................................................................. 418
9.8.3. Chuyển động khí trong lò tuy nen................................................................................................ 419
9.8.4. Quan hệ giữa khí động học và kết cáu của lò tuy nen............................................................. 421
9.8.5. Cấu tạo lò nung tuy nen................................................................................................................. 422
9.8.6. Hệ thống thông gió......................................................................................................................... 431
9.8.7. Phương pháp đốt nhiên liệu..........................................................................................................433
9.9. Lò thanh làn hay lò tuy nen thanh lăn............................................................................................ 438
9.9.1. Lò tuy nen trượt..............................................................................................................................446
9.9.2. Lò tuy nen điện............................................................................................................................... 447
9.9.3. Lò nung hoa hay hấp hoa.............................................................................................................. 447
9.9.4. Xác định kích thước cơ bản........................................................................................................... 448
13
Chương 10. LÒ NÁU THUỶ TINH VÀ FRIT........................................................................................... 451
10.1. Lò nồl náu thùy tinh....................................................................................................................... 453
10.1.1. Cấu tạo lò nồi.............................................................................................................................. 454
10.1.2. Buồng lò....................................................................................................................................... 455
10.1.3. Chiều hướng ngọn lửa.............................................................................................................. 456
10.1.4. Nồi nấu........................................................................................................................................ 457
10.1.5. Hình dạng lò nồi.......................................................................................................................... 457
10.1.6. Chế độ nấu của lò.......................................................................................................................458
10.1.7. Xác định kích thướccơ bản của lò nồi...................................................................................... 460
10.2. Lò bể nấu thủy tinh.......................................................................................................................... 462
10.2.1. Phân loại lò bể............................................................................................................................ 463
10.2.2. Phân bố zôn và nhiệt độ trong lò bể......................................................................................... 464
10.2.3. Chuyển động thủy tinh trong lò bể.............................................................................................466
10.2.4. Các loại lò bể.............................................................................................................................. 469
10.2.5. Lò kéo kính................................................................................................................................. 476
10.2.6. Chế độ làm việc của lò.............................................................................................................. 484
10.2.7. Cấu tạo chi tiết cùa lò bể........................................................................................................... 487
10.2.8. Đốt nhiên liệu bằng oxy - công nghệ nấu mới.........................................................................493
10.2.9. Lò bể dùng điện.......................................................................................................................... 499
10.2.10. Lò bể có thiết bị đảo trộn......................................................................................................... 504
10.2.11. Tính toán lò bể nấu thủy tinh................................................................................................... 504
10.3. Lò nấu FRIT....................................................................................................................................... 508
10.3.1. Lò náu Frit gián đoạn................................................................................................................. 509
10.3.2. Lò náu Frit liên tục...................................................................................................................... 511
14
11.4. Lò quay nung clinke xi măng................................................... 529
11.4.1. Phân loại lò quay và lịch sử phát triển lò................................................................................... 529
11.4.2. Cấu tạo lò quay.............................................................................................................................. 532
11.4.3. Thiết bị trao đổi nhiệt cho lò quay phương pháp ướt............................................................. 538
-Ị 1.4.4, Thiết bị trao đổi nhiệt lò quay phương pháp bán khô LEPOL.............................................. 541
11.4.5. Lò quay phương pháp khô thế hệ 1 hay lô SP......................................................................... 543
11.4.6. Lò quay phương pháp khô thế hệ 2 hay lò cổ Calciner NSP................................................. 547
11.4.7. Lò quay 2 bệ...................................................................................................................................558
11.4.8. Thiết bị làm nguội (làm lạnh, làm mát) clinke............................................................................ 562
11.4.9. Thiết bị đốt nhiên liệu hay vòi đốt cho lò quay........................................................................... 571
11.4.10. Một vài khái niệm và tinh toán................................................................................................... 574
11.4.11. Phương hướng tiết kiệm năng lượng và đốt phế thải........................................................... 578
11.5. Sử dụng nhiên liệu thay thế hay đốt rác và phế thải trong hộ lò quay nung
clinke xi mắng.................................................................................................................................... 580
11.5.1. Vai trò và ý nghĩa......................................................................................................................... 581
11.5.2. Tính chát và chất lượng khí......................................................................................................... 582
11.5.3. Yêu cầu đối với nhiên liệu thay thế..............................................................................................582
11.5.4. Yêu cầu cần cho đốt rác và phế thải.......................................................................................... 584
11.5.5. Những điểm có thể đốt nhiên liệu thay thế................................................................................ 585
11.5.6. Thiết bị đốt nhiên liệu thay thé ngoài lò quay............................................................................ 586
11.5.7. Thiết bị đốt nhiên liệu thay thế trong lò quay............................................................................. 593
11.5.8. Những ưu điềm của nhiên liệu thay thế...................................................................................... 595
11.5.9. Vật liệu chịu lửa xây lò.................................................................................................................. 596
15
Chương 13. LÒ NUNG VÀ VÂN ĐÈ MỒI TRƯỜNG........................................................................... 641
13.1. Tiêu thụ nhiên liệu và hiệu ứng nhà kính (Greenhouse effect)...................................... 641
13.1.1. Khái niệm về hiệu ứng nhà kính.............................................................................................. 641
13.1.2. Bản chất hiệu ứng nhà kính..................................................................................................... 642
13.1.3. Hậu quả của hiệu ứng nhà kính............................................................................................... 644
13.1.4. Biện pháp giảm hiệu ứng nhà kính...........................................................................................645
13.2. Định hướng phát triển xanh sạch trong lò nung gốm sứ....................................................... 646
13.2.1. Tiết kiệm năng lượng, nhiên liệu với hiệu ứng nhà kinh....................................................... 646
13.2.2. Lựa chọn nhiên liệu sạch.......................................................................................................... 647
13.2.3. Giảm tiêu thụ năng lượng......................................................................................................... 647
13.2.4. Tận dụng nhiệt cùa khói lò........................................................................................................ 647
13.2.5. Rút ngắn thời gian nung........................................................................................................... 648
13.2.6. Chuyển đổi lò nung thủ công sang lò liên tục..........................................................................648
13.2.7. Hãy sử dụng lò tuy nen............................................................................................................. 649
13.2.8. Tiến tới quy trình cháy hoàn toàn............................................................................................. 649
13.2.9. Sừ dụng phế thải gốm.............................................................................................................. 649
13.2.10. Thải khí Fluor độc hại............................................................................................................. 649
13.3. Lò vôi và clinke xi măng............................................................................................................... 651
13.3.1. Lò nung vôi................................................................................................................................. 651
13.3.2. Lò đứng nung clinke xi măng................................................................................................... 651
13.3.3. Lò quay nung clinke xi măng................................................................................................... 652
13.4. Lò nấu thủy tinh............................................................................................................................... 654
13.4.1. Tổng thẻ....................................................................................................................................... 654
13.4.2. Hàm lượng.................................................................................................................................. 655
13.4.3. Biện pháp.....................................................................................................................................656
PHỤ LỤC......................................................................................................................................................... 658
16
CHƯƠNG 1
Nhiên liệu là nguồn nhiệt chủ yếu trong các lò nung và sấy của công nghiệp vật liệu Silicat. Khi
cháy, nhiên liệu sẽ tôa một lượng nhiệt lớn cung cấp cho các sản phẩm nung hoặc sấy. Ngoài nguồn
nhiệt từ nhiên liệu hữu cơ, công nghiệp Silicat còn sử dụng năng lượng điện. Việc sử dụng năng lượng
điện đang được đẩy mạnh ờ một so nước công nghiệp. Trong khái niệm nhiên liệu, người ta còn có khái
niệm nhiên liệu hạt nhân, song người ta thường chuyển năng lượng hạt nhân thành năng lượng điện để
sử dụng trong công nghiệp. Trong chương này, chúng ta chi khảo sát nhiên liệu hữu cơ thông dụng nhất.
17
1.2. NHIÊN LIỆU RÁN
Tên thành phần Ký hiệu Thành phần nguyên tổ (%) Tồng cộng (%)
Thông thường các số liệu về nhiên liệu đều cho dưới dạng khô, vi độ ẩm của chúng thay đổi theo
thời tiết. Trong kỹ thuật lại cần đến thành phần làm việc, cho nên khi tính toán ta phải chuyển về thành
phần làm việc.
Khi chuyển đổi thành phần khô, thành phần cháy sang thành phần làm việc, ta áp dụng công
thức sau:
Từ thành phần khô (% khối lượng):
Khi đã biết thành phần làm việc của than, chẳng hạn cj, Hp ...Wj1 , song kiểm tra thực tế độ ẩm
không phải là Wj1 mà là W2 do mưa gió hoặc bảo quản hoặc sau khi sấy. Do đó thành phần nhiên liệu
sẽ thay đổi thành C2, H2... và thành phần mới tính theo công thức sau:
c* = cj 1°°"^ = c\. n % ; H
*2 = H1,. n%...
100-W,1
18
1.2.2. Tính chất của nhiên liệu
Từ các tính chất của nhiên liệu, không những ta biết được nhiệt lượng tòa ra khi cháy mà còn tìm
được điều kiện tốt nhất khi cháy cũng như tồ chức việc vận chuyển và bảo quản chúng trong kho. Ngoài
ra cũng căn cứ vào tính chất của nhiên liệu mà ta lựa chọn nhiên liệu thích hợp với mỗi loại sàn phẩm
cần gia công nhiệt và thích hợp với mỗi kiểu lò nung khác nhau.
729300 (1.3)
Trong đó: Qt1 là nhiệt trị nhiên liệu rắn hay lỏng (Kj/kg) hoặc nhiên liệu khí (Kj/Nm3). Nếu nhiệt
trị biểu thị bằng Kcal/kg thì:
K = Qt /7000 (1-4)
19
c) Hợp chất Sunphat như Sunphat CaSƠ4, FeS04.
Lưu huỳnh trong hợp chất hữu cơ, sunfua là thành phần cháy được của nhiên liệu: s + Ơ2 = SO2
và tỏa ra 2207 Kcal/kgS.
1.2.2.3. Tro xỉ
Tro xi là tạp chất của nhiên liệu và là cặn răn không cháy được khi đốt nhiên liệu. Hàm lượng tro
phụ thuộc vào loại nhiên liệu, vị trí khai thác, điều kiện vận chuyển và dao động từ 0% ở nhiên liệu khí,
vài phần nghìn ở nhiên liệu lỏng, 1 4- 2% ở củi gỗ cho đến 50 4- 60% ờ đá dầu (đá bitum).
20
Chúng ta phân biệt: tro liên kết là tro phân bố đồng đều trong nhiên liệu và không loại trừ được
khi làm giàu.
Tro xi có những ảnh hường có hại sau:
1) Hạ thấp nhiệt trị của nhiên liệu.
2) Tiêu tốn nhiệt để nóng chảy tro xi và phân hủy các hợp chất của tro xỉ.
Độ ẩm của nhiên liệu cũng hạ thấp nhiệt trị của chúng vì nó làm giảm thành phần cháy cùa nhiên
liệu. Ngoài ra khi cháy phải tiêu tốn nhiệt để hóa hơi và nung nóng hơi ẩm đến nhiệt độ khói lò. Vì vậy
việc cháy nhiên liệu ẩm rất khó khăn và đôi khi phải sấy nhiên liệu trước khi đốt.
Hơi ẩm trong nhiên liệu nằm trong trạng thái tự do, nó dễ loại trừ khi sấy trong không khí 2 4- 3
ngày và ở trạng thái độ ẩm hút, hơi ẩm này chỉ loại trừ khi sấy nhân tạo ở 105°C. Lượng hơi ầm tự do
phụ thuộc vào loại nhiên liệu, địa phương, thời gian khai thác, kích thước nhiên liệu, loại nhiên liệu và
điều kiện bào quản cũng như môi trường. Thông thường độ ẩm của nhiên liệu dao động trong khoảng
lớn như cho trong bảng l .2.
21
Bảng 1.2. Độ tro và độ ầm của nhiên liệu
Trong nhiên liệu còn có hơi ẩm nằm ờ dạng liên kết hóa học và được gọi là nước hóa học. Ví dụ
khoáng caolinit Al2O3.2SiO2.2H2O có lẫn trong than dưới dạng đất sét, trong đó có chứa nước hóa học.
Khi cháy than thì caolinit mất hết nước hóa học để trờ thành tro xỉ và hơi nước bay đi. Vì lượng nước
hóa học rất nhỏ nên trong kỹ thuật người ta không tính đến và không đưa vào thành phần làm việc của
nhiên liệu.
Trong nhiên liệu lỏng, nước nằm ờ dạng nhũ tương rất khó tách riêng. Độ ẩm nhiên liệu khí nói
chung là rất thấp và thông thường dưới 1% thề tích.
Nếu đốt nóng nhiên liệu rắn đến 850°C không có không khí thì chất bốc sẽ tách ra. Vậy chất bắc
là hỗn hợp khí khi phân hủy nhiên liệu ở 850°c trong điều kiện không có không khí. Trong thành
phần của nó có co, CO2, H2S, H2, N2, hydrocacbon hơi nước, nhựa than hay hắc ín... sau khi chất bốc
tách hết, cặn còn lại gọi là cốc hay cặn cacbon. Thực tế, chất bốc chứa đến khoảng ÌOO hợp chất khác
nhau và có đặc tính chung là rất độc hại và cháy tốt.
Lượng chất bốc nhiều hay ít phụ thuộc vào dạng và thành phần nhiên liệu (xem bảng 1.7). Nhiều
chất bốc nhất là củi gỗ (85% thành phần chấy), sâu đó là than bùn (75%), than nâu và vài loại than đá.
Antraxit chứa ít hydro và oxy do đó lượng chất bốc cũng ít nhất và thường < 9%.
Hàm lượng chất bốc là một đặc tính quan trọng, nó quyết định khả năng bắt lửa và những tính
chất khác của nhiên liệu. Vì vậy căn cứ vào hàm lượng chất bốc để lựa chọn phương pháp đốt cũng như
cấu trúc của thiết bị đốt nhiên liệu. Lượng chất bốc càng nhiều, nhiệt độ bắt cháy nhiên liệu càng thấp,
thể tích ngọn lửa càng lớn, ngọn lửa cháy càng dài khi đốt tại buồng đốt cố định.
Căn cứ vào độ già hay tuổi hình thành của nhiên liệu chúng ta thấy răng nhiên liệu càng non hàm
lượng chất bốc càng nhiều, việc đốt chúng càng dễ dàng hơn. Do chất bốc cháy tạo ngọn lửa dài với thể
tích lớn nên sử dụng than nhiều chất bốc trong lò nung gốm sứ thủy tinh có nhiều thuận lợi hơn. Tuy
nhiên, cũng có lò yêu cầu than phải cỏ ít hoặc không có chất bốc, ví dụ lò đứng nung vôi, nung samôt và
clinke xi măng.
Phần còn lại của nhiên liệu sau khi đẫ loại trừ chất bốc gọi là cốc (coke). Tùy thuộc loại than mà
cốc này có thể hoặc không kết lại với nhau thành khối. Than mà cỏ cốc kết khối tốt gọi là than luyện
cốc, còn cốc kết khối đó gọi là than cốc. Than cốc được sản xuất từ lò luyện cốc và dùng trong lò nấu
gang của công nghiệp luyện thép.
22
Than càng có nhiều cốc tức càng ít chất bốc thì càng khó cháy với ngọn lửa ngắn hoặc không có
ngọn lửa. Than antraxit là than già nhất, chứa ít chất bốc và nhiều cốc. Vì vậy nhiệt trị của nó cao,
nhưng khó cháy và cháy với ngọn lửa rất ngắn tại buồng đốt có ghi cố định.
12.3.1. Củi gỗ
Củi gỗ là một trong những dạng nhiên liệu đầu tiên được loài người sử dụng. Đen nay, việc sử
dụng cùi gỗ cho thiết bị nhiệt bị hạn ché vỉ đó là nguyên liệu giá trị đối với công nghiệp tơ sợi, giấy,
thực phẩm, xây dựng, đồ gỗ. Thành phần cháy của củi gỗ trung bình như sau: Cc = 51%, Hc = 0,6%,
oc = 42,3%. Nhiệt trị của củi gỗ khoảng 2700 -ỉ- 3178 Kcal/kg khi độ ẩm 25 -ỉ- 35%.
Ưu điểm của củi gỗ là:
a) Hàm lượng tro rất ít (1,5 4- 2%), đồng thời tro lại khó chảy (> 1200°C) không tạo thành cục xi.
b) Hàm lượng chất bốc rất cao và đạt tới 85% tính theo thành phần hữu cơ của củi gỗ, do vậy
ngọn lửa rất dài.
c) Dễ bắt cháy (gần 300°C).
d) Không chứa lưu huỳnh.
e) Độ ẩm cao: gỗ tươi 60%, để lâu ngoài trời độ ẩm hạ xuống còn 20 4- 25%.
Khối lượng lm3 củi gỗ phụ thuộc vào loại gỗ và độ ẩm của chúng. Khác với nhiên liệu khác, củi
gỗ thường được đo bằng m3 và thường gọi là Ste. Để chuyển đơn vị thể tích củi gỗ sang đơn vị khối
lượng, người ta dùng khối lượng 1 m3 củi gỗ khô tuyệt đối kg/m3. Ví dụ:
Gỗ sồi 405 kg/m3
Bạch dương 345 kg/m3
Gỗ thông 287 kg/m3
Phi lao 253 kg/m3
Nếu củi gỗ có độ ẩm wx% thì khối lượng 1 m3 củi gỗ ở độ ẩm đó tính theo công thức:
100
(1.5)
100-Wx
23
Bảng 1.3. Thành phần của trấu của một số vùng
Kaupp
* 41 5 37,6 0,6 - 15,5 3.700-3.800
Cruz
* 35,8 5,2 35,8 - - 23,5 3.340
Beagle
* 42,12 5,35 31,72 0,49 0,07 20,29 -
Mansaray 37,6 - 44,5 5,1-5,42 31,5-35,2 0,38-0,51 0,015-0,034 — 5.500-4.370
et Ghaly
A12O - 0,55; CaO - 2,02; Fe2O3 - 0,40; K2O - 3,25; MgO - 1,24; P2O5 - 1,36; TiO2 - 0,03;
S1O2 - 88,01; C- 0,09.
Trong tro trấu còn cỏ đến 28 vi lượng khác.
Theo Dany Blackbum khảo sát tại Việt Nam đã đưa ra số liệu trong bảng 1.4.
Bảng 1.4. Hàm lượng Silica và độ tro của phế thải nông nghiệp
(Agustin et: al 1990)
Lantanier Cây cứt lợn Tige du soc thân cây 11,24 23,28
Ẻscorce de riz Trấu - 22,15 93,00
24
Qua số liệu trên ta thấy, trong tro của củi hay phế thải nông nghiệp đều chứa hàm lượng SiO2
cao. Mặt khác chúng còn chứa một lượng kiềm khá lớn, vi vậy các nhà sản xuất gốm sứ hay đồ sành đều
muốn dùng củi gỗ đặc biệt trong giai đoạn cuối của nung, nếu dùng nứa khô để đốt thì ngọn lửa sẽ dài
và men trên sành sứ rất bóng đẹp do trong ngọn lửa chứa nhiều hơi kiềm.
Theo số liệu (TT 15/12/2013), nước ta có lượng trấu 8 triệu tấn, rơm rạ 40 triệu tấn, bã mía 6
triệu tấn và còn có 50 triệu tấn vỏ cà phê, vỏ đậu, phế thải gỗ... Đây là nguồn nhiên liệu có thề được tái
tạo cho công nghiệp dưới dạng khác nhau.
Bảng 1.5. Thành phần hữu cơ và nhiệt trị của than bùn
Than bùn là loại nhiên liệu địa phương, tùy theo tuồi của nó mà màu sắc thay đổi từ nâu, xám đến
đen. Độ ẩm của than bùn tươi rất cao và đạt tới 80 4- 85%, để lâu trong không khí nó hạ xuống 25 4- 30%.
Độ tro không lớn lắm ÌO 4- 12%, chất bốc đến 80% (tính theo thành phần cháy). Do vậy, than bùn là loại
than dài lửa ờ dạng khô bắt cháy rất nhanh. Nhiệt trị than bùn khô khoảng 3270 Kcal/kg, khi độ ẩm 40%
nó hạ xuống còn 2480 Kcal/kg.
Khi lưu kho thành đống, than bùn dễ tự oxy hóa và dẫn tới hiện tượng tự cháy. Vì vậy phải đề
phòng hỏa hoạn và có những nguyên tắc an toàn phòng hỏa.
Than bùn có thể sử dụng trong công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, Than vụn dùng trong lò
vòng, lò tuy nen nung gạch ngói, than cục cỏ thể dùng trong các buồng đốt hoàn toàn hoặc bán khí,
cũng có thể dùng than bùn để khí hóa than.
Bàng 1.6. Hàm lượng cacbon và oxy trong than bùn, than đá và than nẳu
25
Than nâu có màu nâu, không óng ánh như than đá, có dạng như đất. Trong dung dịch kiềm yếu
và sôi nó hòa tan chút ít và dung dịch có màu sắc. Đỏ là hai điểm khác than đá.
Than nâu có những đặc tính sau:
4- Hàm lượng tạp, ẩm cao như tro xi, đôi khi có cả lưu huỳnh.
+ Hàm lượng chất bốc cao và đạt đến 60% vì thể nó là loại than dài lửa và cốc của nó không kết khối.
+ Có khuynh hướng tự bốc cháy khi để lâu trong kho.
+ Bị vỡ vụn khi để lâu trong không khí nếu chứa nhiều FeS2, nên để càng lâu hay vận chuyển
càng xa chất lượng càng giảm.
Nhiệt trị của chúng dao động nhiều Qt1 = 1800 - 4350 Kcal/kg tùy theo độ ẩm. Than nâu dùng để
đốt trong lò vòng, lò quay (dạng cám), lò nung gốm sứ hoặc khí hóa để dùng trong công nghiệp vật liệu
silicat.
1.2.3.4. Than đá
Than đá là nhóm than rất khác nhau về tính chất. Sự chuyển hóa từ than nâu tới than đá kéo dài
rất nhiều năm, do vậy có loại than đá còn non, có loại già, tùy theo mức độ phân hủy mà hình dạng bên
ngoài, thành phần, tính chất của chúng bị thay đổi. Khác với than nâu, than đá có cấu trúc đặc hơn, độ
hút ẩm nhỏ hơn, màu đen hơn và có ánh kim gần như antraxit. Hàm lượng chất bốc của than đá dao
động trong một khoảng lớn, từ 9% ở than gầy tới 50% ờ than dài lửa. Thành phần nguyên tố và nhiệt trị
cũng bị thay đổi tương ứng. Hàm lượng oxy giảm theo tuổi hình thành của than, ngược lại hàm lượng
cacbon và nhiệt trị lại tăng lên, phân loại của than đá cho trong bảng l .7.
Than dài lửa >42 Không kết khối, tạo dạng bột.
Than khí 35 4-42 Kết khối, nóng chảy, đôi khi phồng.
26
Theo một số chuyên gia, vùng trũng Hà Nội (đồng bằng Bắc Bộ) nằm trong bể Sông Hồng (bao
gồm vùng trũng Hà Nội và vùng lớn Vịnh Bắc bộ) có trữ lượng than khoảng 200 tỷ tấn. Than ờ đây
thuộc đủ các loại và ở độ sâu từ vài trăm mét đến trên 1 km. Tuy nhiên việc thăm dò chính thức sẽ được
tiến hành đến năm 2015.
Than antraxit Việt Nam khai thác chủ yếu ở vùng Quảng Ninh với nhiều mỏ khác nhau như than
Hòn Gai, cẩm Phả, Uông Bí, Đèo Nai, Mạo Khê... Ngoài ra còn có những mỏ than tại vùng miền Bắc
nước ta như mỏ Khánh Hòa, Nông Som, Khe Bố. Trong so đó chỉ có than Khe Bố thuộc loại than có
lượng chất bốc v% «17% nhưng sàn lượng không lớn lắm.
Việc khai thác than tại nước ta do Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam đảm trách. Than
antraxit của nước ta được phân loại theo kích thước, độ tro và nhiệt trị. Hiện nay mới chi xác định trữ
lượng than của nước ta khoảng 50 tỷ tấn chủ yếu là than đá và 0,3 tỷ tấn là than bùn.
Tồng sản lượng khai thác của nước ta mới chi ở mức khoảng trên 40 triệu tấn vào năm 2007
(VTV1 21.01.2008) và khoảng 50 triệu tấn vào năm 2011, trong đó hom 50% được dùng cho xuất khẩu.
Tại các nhà máy tuyển, than được phân loại theo kích thước thành 6 loại than cục 6 4- 80 mm, 6 loại than
cám từ số 1 đến số 6. Theo TCVN 790:1999, than antraxit của nước ta được phân loại theo bảng 1.8.
Công nghệ vật liệu Silicat thường dùng than cám cho lò nung gạch đỏ xây dựng, clinke ximăng
Tại những nơi có lò khí hóa than thì phải dùng loại than cục 4a và 4b HG.
Thành phần nguyên tố của than dao động tùy theo mỏ và via. Trong tiêu chuẩn không cho thành
phần cơ bản c, H, o, N, s tuy nhiên có cho giới hạn của hàm lượng s% và nhiệt trị là tiêu chuẩn các
nhà sản xuất quan tâm.
Đá dầu hay đá bitum là loại đá được ngấm dầu mỏ. Theo thời gian, dầu mỏ bị phân hủy và các
chất hữu cơ được tách ra chi để lại bitum. Chúng là loại nhiên liệu dùng được trong các lò nhưng chứa
nhiều tro xi, hàm lượng tro xi đạt tới 40 4- 60%, nhưng độ ẩm không lớn lắm, chi khoảng 4 4- 5%.
Thành phần cháy của đá dầu trung bình như sau:
27
KJ
00
Bảng 1.8. Chất luợng than thuơng phẩm Hòn Gai - cầm Phả - Yêu cầu kỹ thuật TCVN 790:1999
Chất sổ tòa
Luu huỳnh
Độ tro khô, Độ ấm toàn phần, bốc nhiệt toàn
Ak °/o chung khô, phần khô,
Mã sản Loại khô,
Cỡ hạt mm &gr cal/g
phẩm than
Trung Trung Không Trung Trung Không lớn Không nhỏ
Giới hạn
bình bình lớn hơn bình bình hơn hơn
1. THAN CỤC
Cục 2a HG HG 02A 50-100 20 7,00 6,00-8,00 3,00 4,00 6,00 0,60 0,80 7800
Cục 2b HG HG02B 50-100 20 9,00 8,01 - 10,0 3,50 5,50 6,00 0,60 0,80 7650
Cục 3 HG HG 030 35-50 15 4,00 3,01-5,00 3,00 4,00 6,00 0,60 0,80 8100
Cục 4aHG HG 04A 15-35 15 5,00 4,01-6,00 3,50 4,50 6,00 0,60 0,80 8000
Cục 4b HG HG04B 15-35 15 9,00 6,01 - 12,00 3,50 5,50 6,00 0,60 0,80 7450
Cục 5a HG HG05A 6-18 15 6,00 5,00 - 7,00 3,50 5,00 6,00 0,60 0,80 7900
Cục 5bHG HG 05B 6-18 15 10,00 7,01-12,00 4,00 6,00 6,00 0,60 0,80 7450
2. THAN CÁM
Cám 1 HG HG 060 0-15 - 7,00 6,00 - 8,00 8,00 12,00 6,50 0,60 0,80 7800
Cám 2 HG HG070 0-15 - 9,00 8,01 - 10,00 8,00 12,00 6,50 0,60 0,80 7600
Cám 3a HG HG 08A 0-15 - 11,50 10,01- 13,00 8,00 12,00 6,50 0,60 0,80 7350
Cám 3b HG HG 08B 0-15 - 14,00 13,01-15,00 8,00 12,00 6,50 0,60 0,80 7050
Cám 3c HG HG 08C 0-15 - 16,50 15,01-18,00 8,00 12,00 6,50 0,60 0,80 6850
Cám 4a HG HG 09A 0-15 - 20,00 18,01-22,00 8,00 12,00 6,50 0,60 0,80 6500
Cám 4b HG HG09B 0-15 - 24,00 22,01-26,00 8,00 12,00 6,50 0,60 0,80 6050
Cám 5 HG HG 100 0-15 - 30,00 26,01 -33,00 8,00 12,00 6,50 0,60 0,80 5500
Cám 6a HG HG 11A 0-15 - 36,00 33,01-40,00 8,00 12,00 6,50 0,60 0,80 4850
Cám 6b HG HG 11B 0-15 - 42,00 40,01-45,00 8,00 12,00 6,50 0,60 0,80 4400
1.3. NHIÊN LIỆU LỎNG
d) Nhiệt trị của nhiên liệu lông thường rất cao và tùy theo thành phần mà dao động trong khoảng
9.000- 10.000 kcal/kg.
e) Trong nhiên liệu lỏng, đặc biệt dầu mazut hay FO thường chứa nước dưới dạng nhũ. Lượng
nước này nhiều hay ít tùy theo cách bào quản và vận chuyền và se cản trở quá trình đốt hoặc lắng đọng
xuống đáy bồn nếu để lâu.
1.3.2. Dầu mỏ
Nhiên liệu lỏng thiên nhiên là dầu mỏ. Đó là chất lỏng sánh, nâu thẫm, gần đen. Thành phần của
dầu mỏ rất phức tạp và tùy thuộc vào từng mỏ. Trong dầu mỏ cỏ chứa khoảng trên 400 hợp chất khác
nhau. Do đó không thể biểu thị dầu mỏ bằng một công thức hóa học nào. Song phân tử lượng của dầu
mỏ dao động trong khoáng M = 850 4- 900.
Dầu mỏ chứa hydrocacbon thuộc ba họ như sau:
Người ta còn phân loại dầu thô theo tỷ trọng của nỏ:
29
- Dầu trung bình, tỷ trọng 0,830 4- 0,884;
Trên thế giới khi dầu thô chứa dưới 0,5% s đã được coi là loại dầu ít lưu huỳnh và có giá trị cao
trên thị trường. Dầu thô Việt Nam chi chứa 0,03 4- 0,05% s (Bạch Hồ) và dưới 0,08% s (Đại Hùng).
Lưu huỳnh tồn tại trong dầu mỏ dưới nhiều dạng khác nhau như H2S, Mercaptan (R- SH), sunfua mạch
thẳng (R-S-R), Disunfua mạch thẳng (R-S-S-R) trong đó R gốc CnH2n+2, sunfua mạch vòng
(CH2)nS... Hàm lượng kim loại nặng rất ít và chỉ bằng 1% 4-10% lim loại nặng của dầu nhiều nước, đây
là ưu điểm lớn của dầu mỏ Việt Nam.
- Dầu thô Việt Nam không những tìm thấy ờ tầng trầm tích mà còn khai thác ở tầng nền móng
của núi lửa. Đây là điều đặc biệt có ở nước ta mà nhiều nhà nghiên cửu phải quan tâm.
Dầu thô có thể dùng trực tiếp đốt trong lò như các nhiên liệu lỏng khác nhưng như thế là quá lãng
phí vì từ dầu thô có thể chế biến ra nhiều loại sàn phẩm giá trị khác.
- Dầu hỏa, nhiên liệu phản lực (Cl 1 - C15) nhiệt độ sôi 180°C 4- 250°;
- Mazut hay FO hay Fuel Oil là cặn còn lại ( C20 4- C50), nếu đem chưng chân không ta được
các loại dầu nhớt cho động cơ (C20 4- C40).
FO và dầu cặn còn lại được dùng để đốt tại các lò công nghiệp.
30
Bảng 1.9. Tiêu chuẩn chất lượng Việt Nam đối với dầu FO
* centistốc = mm2/s
31
Bảng 1.11. Thành phẩn và nhiệt trị của Mazut hay F0
Thành phần %
ổ/
Tên nhiên liệu
c ư ■S" Al Kcal/kg
Để thu được nhiều xăng, dầu hỏa và những chất giá trị khác cho ngành hóa dầu người ta áp dụng
các biện pháp craking (bẻ gãy), craking xúc tác...
Trong công nghiệp vật liệu Silicat, nhiên liệu lỏng được sử dụng nhiều nhất là FO (dầu cặn) sau
đó là DO và cuối cùng là dầu hỏa. Chi tiêu kỹ thuật dầu FO theo tiêu chuẩn quy định của Việt Nam (sẽ
thay đổi) theo trong bảng 1.9.
32
Dầu cặn FO hay mazut là một hệ keo gồm nhựa (dạng polyme có khối lượng phân tử < 1000),
dầu (hydrocacbon) và asphanten (họ hydrocacbon thơm đa vòng có khối lượng phân tử 1000 - 10.000);
trong đó asphanten là pha phân tán trong dầu và nhựa. Neu hệ keo bị phá vỡ do một nguyên nhân nào
đó asphanten kết tủa và lắng xuống đáy bồn.
Hàm lượng tro của FO thường không quá 0,2%. Nếu trong đó có chứa Vanadi thì khi cháy sẽ tạo
ra vanadat sắt có điểm nóng chảy 625°c và vanadat natri nóng chày ờ 630 4- 640°C. Hợp chất vanadat
không có lợi cho lò công nghiệp.
Một số chỉ tiêu kỹ thuật tiêu biểu của nhiên liệu đốt lò FO do hãng Petrolimex nhập khẩu theo
phương pháp thử ASTM cho trong bảng 1.13.
Hàm lượng lưu huỳnh cao sể tạo ra khí SƠ2 gây khó khăn cho quá trình vận hành lò, chóng hỏng
lò, ảnh hường đến chất lượng sản phẩm và làm ô nhiễm môi trường sống. Qua phân tích trên, ta thấy rõ
FO Việt Nam thuộc loại tốt vì chứa ít lưu huỳnh, ít kim loại nặng.
Ở nhiều nước, người ta có thể sử dụng thẳng dầu thô để đốt trong các lò công nghiệp. Ví dụ Nhật
đã dùng dầu thô Việt Nam đốt trực tiếp trong lò trong thời kỳ giá dầu thõ giảm xuống còn khoảng
ÌO ƯSD/thùng. Tuy nhiên cũng cần lưu ý là trong dầu thô có chứa khá nhiều hydrocacbon nhẹ (phần
nhẹ) rất dễ bốc cháy hơn nhiều so với dầu cặn FO.
33
Thành phần nhiên liệu khí là % thể tích và thường ở dạng khô (không có % nước). Khi dùng thực
tế cũng phải tính toán lại thành phần làm việc vì bao giờ cũng có thêm thành phần hơi nước. Các nhiên
liệu khí nhân tạo đều chứa một lượng hơi ẩm và thường ứng với hàm lượng hơi nước bão hòa ở nhiệt độ
khí vào lò. Khí này thường gọi là gas lạnh sau khi đã làm nguội và lọc rừa bằng nước và nhiệt độ này
dao động trong khoảng 30 4- 50°C. Còn khí thiên nhiên thường chứa 0,5 4- 1,5% H2O.
co2 = co
-
* 100~^°% , H2 = H
* (1.6)
100 100
Trong đó:
co2, H2... là % khí co2, H2... trong thành phần làm việc;
H2O là hàm lượng % của hơi nước trong thành phần làm việc và được tính theo công thức sau:
H2O=
804 +w
w là hàm lượng hơi ẩm trong khí, g/m3 khí khô.
Thành phần làm việc của nhiên liệu khí cũng có thể tính theo công thức sau:
Nếu dùng bảng hbh kg/m3 (bàng 1.14) thì ta tính ngay ra được thể tích hơi nước trong 100 Nm3
theo công thức sau:
Vhơinước= lOOhbh: Y = 100hbh: 0,804 = hbh .124 m3/100m3
Thành phần % của khí mới sẽ xác định theo công thức sau:
H2%= 100H2/V%...
Bảng 1.14. Lượng hơi nước bão hòa hbh (kg/m3) và thể tích khí ứng với 1 kg hơi nước
khi khí bão hòa kbh (m3/kg)
°C hbh (kg/m3) kbh (m3/kg) °C hbh (kg/m3) kbh (m3/kg) °C hbh (kg/m3) kbh (m37kg)
34
1.4.2. Khí thiên nhiên
Khí thiên nhiên là nhiên liệu khí có giá trị nhất. Các mỏ khí thiên nhiên thường nằm gần mỏ dầu.
Thành phần của khí thiên nhiên đều thuộc họ hydrocacbon CnH2n+2... Song chủ yếu vẫn là metan CH4
khoảng 85 - 90%. Nước có trữ lượng khí thiên nhiên cao như nước Nga, Algieri và một sổ nước vùng
Trung cận đông, Trung Á...
Ờ Việt Nam, tiềm năng khí thiên nhiên tương đối khả quan. Theo tính toán của Công ty BP, trữ
lượng tiềm năng khí của Việt Nam khoảng 500 4- 700 tỷ m3 (* Trần Mạnh Trí, Dầu khí và Dầu khi Việt
Nam, NXB Khoa học và Kỹ thuật, 1996). Đầu tiên chúng ta khai thác khí thiên nhiên tại Tiền Hải, Thái
Binh, song tại những mũi khoan đó trữ lượng không lớn (- 2 tỷ m3) và nay đã gần cạn sau gần 20 năm
khai thác. Gần đây đã phát hiện mỏ khí tại lô Yên Tử cách bờ biển Thái Bình khoảng 40 km với trữ
lượng đánh giá sơ bộ khoảng 200 tỷ mét khối. Tại Lan Tây, Lan Đỏ (thuộc bể Nam Côn Sơn), theo
Công ty BP đánh giá thì trữ lượng khoảng 57 tỷ m3. Đường ống dẫn 399 km (370 km ngầm dưới biển)
để đưa khí thiên nhiên này vào bờ đã được xây dựng. Đường ống này sẽ cung cấp 6 - 7 tỳ m3 khí mỗi
năm cho nhà máy điện đạm Phú Mỹ để sản xuất khoảng 40% sản lượng điện toàn quốc hiện nay. Nhà
máy điện đạm Cà Mau đã được xây dựng và đưa vào sản xuất điện trong năm 2008. Khi hoàn thành sẽ
tiêu thụ khoảng nhiều tỷ m3 và được đưa từ mỏ về như trong hình 1.1.
Mới đây Petro Việt Nam đã chuẩn bị liên kết với EXXON MOBIL Mỹ để xây dựng giai đoạn
1 nhà máy nhiệt điện công suất 1,5 triệu KW tại miền Trung vào năm 2015. Nhiên liệu là mỏ khí thiên
nhiên ngoài khơi với trữ lượng 6.000 đến 8.000 tỷ m3 tương ứng với 2/3 trữ lượng khí thiên nhiên của
Thái Lan và Myanmar (nguon: VNEXPRESS, 22/8/2014).
Hình 1.1. Các bồn khí thiên nhiên đang được khai thác tại nước ta.
35
Tại bề Cửu Long nơi cỏ mỏ dầu Bạch Hồ, cũng tìm thấy khí thiên nhiên tại mỏ Rồng. Thành
phần khí thiên nhiên cho trong bảng 1.15.
Bảng 1.15. Thành phần khí thiên nhiên Việt Nam và Nga
Rồng Đôi 81,41 5,25 3,06 0,85 0,55 2,54 5,64 0,08 -
Mộc Tinh 89,02 4,04 1,71 0,85 0,36 1,20 2,72 0,10 -
Hải Thạch 84,13 5,80 3,36 1,51 0,41 0,17 4,50 0,12 -
Lan Tây 89,65 4,30 2,39 1,05 0,22 0,10 1,92 0,36 -
Bắc Ural 91,6 1,6 0,8 0,4 0.2 - 0,6 4,7 0.1
Việc tìm kiểm dầu khí tại nước ta vẫn đang tiếp tục. Không những tại bể phía Nam mà cả phía
Bắc (bể Sông Hồng ngoài khơi rộng lớn và vùng trũng Hà Nội). Có nhiều dấu hiệu ở bể Sông Hồng có
nhiều tiềm năng khí thiên nhiên lớn như đã phát hiện nêu trên. Năm 2006 chúng ta khai thác được
7,3 tỷ m3 khí trong đó khoảng l ,3 tỳ m3 khí đồng hành.
Trong dầu mỏ chứa một lượng khá lớn khí hydrocacbon từ C1 đến C5. Khi khai thác, dầu được
đưa lên và các khí trên được tách ra. Khí đỏ gọi là khí đồng hành. Tại các mỏ dầu, nếu không sử dụng
khí đó thì buộc phải đốt để giảm ô nhiễm môi trường. Mỗi tấn dầu chứa khoảng 180 4- 200 m3 khí vì thế
nhất thiết phải gom khí đó lại để phục vụ cho công nghiệp. Chất lượng khí đồng hành rất cao và rất giá
trị về kinh tế và kỹ thuật. Nước ta đã có hệ thống ống dẫn khí đồng hành từ mỏ Bạch Hổ với công suất
1,5 tỷ m3 khí/năm. Thành phần khí đồng hành của Việt Nam và một số nước thể hiện trong bảng 1.16.
Qua bảng này ta thấy khí đồng hành của nước ta tương đối sạch, chứa ít khí H2S.
Khí đồng hành có chứa nhiều Propan (C3H8) và Butan (C4H10), đây là khí quý vì có thể hóa
lỏng dễ dàng được. Do đỏ khí đồng hành thường được gọi là khí "ướt", sau khi tách Propan, Butan khí
còn lại được gọi là khí "khô". Hiếm khi người ta đốt trực tiếp khí ướt trong lò. Ở Việt Nam, khí khô được
sử dụng cho nhà máy phát điện cũng như sản xuất phân đạm tại Phú Mỹ, Bà Rịa - Vũng Tàu. Trong
tương lai khí này sẽ được sử dụng tại các lò công nghiệp khác trong đó có các lò công nghiệp vật liệu
silicat.
36
Bảng 1.16. Thành phần khí đồng hành của Việt Nam và một số quốc gia
STT Mỏ khí - Nước ch4 C2H6 C3HS C4ỈỈỊO C5Hl2 co2 H2S ^2
1 Việt Nam - Rồng 78,0 3,0 2,0 1,0 1,0 - 2,0 13,0
6 Nga-Tây Sibir
Tầng I 84,4 4,9 5,8 3,2 1,2 0,5 _ 0,5
Khi Mật độ, Nhiệt trị cao, Nhiệt trị thấp, Nhiệt trị thắp,
Do đó nểu gas lỏng chứa nhiều propan thì nhiệt trị cao hơn và có lợi hơn về nhiệt. Mặt khác áp
suất hơi ở 20°C của propan là 14 kg/cm2, của Butan 3,86 kg/cm2. Điều đó cũng có nghĩa là chai hay bồn
thép đựng Propan phải dày, đựng Butan không cần dày lắm. Song do áp suất hơi của Propan cao nên sử
dụng được triệt để, đốt cháy tốt. Hiện nay các hãng cung cấp gas lỏng đều là hỗn hợp của Propan và
Butan và các cơ sờ sản xuất sẽ lựa chọn theo yêu cầu riêng của mình.
37
Bảng 1.17. Đặc tính lý hóa của gas lỏng thương phẩm
Chỉ tiêu 100% Propan 100% Butan Propan/Butan 50/50 Saigon Petro
Mật độ kg/1 (ờ 15°C) 0,507 0,580 0,541
Áp suất hơi, kg/cm2 13,5 3,2 9,2
Hàm lượng, %
Etan C2H4 1,7 0,0 0,0
Propan C3H8 96,2 04 51,5
Butan C4H10 1,5 99,4 47,5
Pentan C5H12 0,0 0,2 1,0
Nhiệt trị Kcal/kg 11,070 10,920 10,980
Ở nhiều nước, gas lỏng có thể là 100% Propan hoặc 100% Butan. Loại 100% Butan dễ vận
chuyển do áp suất hơi của nó nhỏ và dễ tồn chứa trong bồn mỏng hơn nhẹ hơn.
Đặc tính gas lỏng LPG cho trong bảng 1.17. Qua bảng này ta thấy không có propan hay butan
tinh khiết mà chúng chi chiếm ưu thế hơn mà thôi. Do đó khi tính toán không nên coi chúng là 100%
khí tương ứng mà là hỗn hợp khí khác nhau.
Nước ta đã có nhà máy gas lỏng tại Dinh cố thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu do hãng Sam
Sung Hàn Quốc xây dựng. Gas lỏng này được tách ra từ khí đồng hành mỏ Bạch Hổ với công
suất 750 4- 900 tấn gas lỏng/ngày. Lượng khí đồng hành được xử lý 1,5 tỷ m3/năm. Gas lỏng này đã
cung cấp cho hãng Saigon Petro, Shell gas (Hải Phòng), Đài Hải (Hải Phòng)... Chuyến xuất khẩu gas
lỏng đầu tiên 1700 tấn cho Nhật được ghi nhận ngày 9/5/1999 (Báo Lao động số 91/99 ngày 7/6/1999).
Tuy nhiên nhu cầu gas lỏng trong nước rất lớn, với sản lượng hiện nay của nhà máy cũng chi đáp ứng
được một phần yêu cầu. Vi thế trong tương lai gas lỏng sẽ được sàn xuất nhiều hơn.
38
thô cả về mặt tài chính và tác động môi trường. Sự tích tụ đá phiến dầu diễn ra trên khắp giới, ban đầu
nhận định đa số là ở Hoa Kỳ.
vào
’ Hệ van
Phễu
Hình 1.2. Hệ chưng tách đá phiến dầu cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX.
4----------------------------------- 62.5 m
ống dẫn hơi ZonchayK^fhung Nạp đá
thu được 750°C tácb gọp đá Óng ểịa nhiệt Zôn nguội phiến dầu
Quá trình nhiệt phân (không cỏ không khí) đá phiến dầu bắt đầu ờ nhiệt độ tương đối thấp
(300°C/570°F), nhưng nhanh và hoàn toàn hơn ờ khoảng nhiệt độ từ 450°C (842°F) đến 500°C (932°F).
Nhiột phân có thể biến đổi kerogen trong đá phiến dầu thành thành khí và dầu thô tổng hợp. Dầu đá
phiến giống dầu mỏ và khí đá phiến dầu có thể đốt được (khí đả phiến sét cũng được dùng để chỉ các
khí xuất hiện tự nhiên trong đá phiến sét).
Hệ thống chưng tách đá phiến dầu ban đầu như trong hình 1.2. Cặn khoáng được loại đi bằng
dòng nước dẫn ờ dưới. Hơi khí chưng tách được tập trung vào ống dẫn đến nơi xử lý chúng. Hiện nay
người ta dùng lò quay như trong hình 1.3. Trong lò, đá phiến dầu được gia nhiệt trong các ống đạt
khoảng 250°C rồi tập trung vào khu chưng tách ở 500°C với dòng khí nóng bên ngoài là 750°C. Hơi khí
thu được sẽ dẫn ra ngoài bời đường ống trung tâm và đưa đến nơi xử lý để thu được dầu đá phiến và
khí. Cặn khoáng còn lại được dẫn vào đường ống vòng quanh vỏ lò để ra ngoài.
Dầu chiết tách từ đá phiến dầu tốt nhất là dùng để chưng cất ra các sản phẩm trung bình như
kerosene (dầu hỏa), nhiên liệu động cơ và diesel. Nhu cầu thế giới về nhiên liệu diesel tăng nhanh trong
thập niên 1990 và 2000. Tuy nhiên, các quá trình chưng cất thích hợp tương tự như cracking hydro có
thể chuyển đá phiến dầu thành các hydrocacbon nhẹ như xăng.
39
Dầu chiết tách từ đá phiến dầu chứa hàm lượng olefin, oxy và nitơ cao hom dầu thô truyền thống.
Một vài loại có hàm lượng lưu huỳnh hoặc asen cao, lưu huỳnh trong đá phiến dầu sông Green Mỹ
trung binh 0,76%, của Jordan có thề lên tới 9,5%. Asen cao sỗ là trở ngại lớn vì dầu phải trải qua các
công đoạn xử lý hiđrô trước khi đưa vào nhà mảy lọc dầu.
Đá phiến dầu khác với đá bitum. Trong khi bitum trong đá bitum được tạo ra từ phân rã sinh học
của dầu mỏ, còn trong đá phiến dầu kerogen chưa chuyển đổi thành dầu mỏ do yếu tố nhiệt và áp suất.
Đá phiến dầu chứa tỷ lệ chất hữu cơ thấp hơn trong than đá. Trong đá phiến dầu thương mại, tỷ lệ vật
chất hữu cơ so với các khoáng vật khác nằm trong khoảng 0,75:5 và 1,5:5, vật chất hữu cơ trong đá
phiến dầu có tỷ lệ hydro/cacbon (H/C) thấp hơn trong dầu thô khoảng 1,2 đến 1,8 lần và cao hơn trong
than đá khoảng 1,5 đến 3 lần.
Dựa trên các thành phần cơ bàn cấu tạo nên đá phiến dầu, các nhà địa chất có thể phân loại
chúng thành đá phiến giàu cacbonat và loại giàu silica.
Mặc dù tài nguyên đá phiến dầu có mặt ờ một số nước nhưng chỉ có 33 nước có thể khai thác
mang lại giá trị kinh tế. Các mỏ được thăm dò tốt, có khả năng xếp vào trữ lượng như các mỏ sông
Green miền tây Hoa Kỳ, ờ Queensland úc, Thụy Điển, Estonia, Jordan, Pháp, Đức, Brazil, Trung Quốc,
nam Mông cồ và Nga. Các mỏ này được đánh giá là có khả năng sản xuất ít nhất 40 lít dầu từ 1 tấn đá
phiến dầu.
Theo đánh giá năm 2005, tài nguyên đá phiến dầu trên toàn thế giới đạt khoảng 411 tỷ tấn - đủ
để sản xuất 2,8 đến 3,3 ngàn tỷ thùng (520 km3) dầu. Trữ lượng này hơn hẳn trữ lượng dầu truyền thống
trên toàn thế giới, ước tính khoảng 1,317 ngàn tỷ thùng (209,4 km3) dầu theo số liệu ngày 1 tháng 1 năm
2007. Các mô lớn nhất thế giới tập trung ở Hoa Kỳ trong hệ tầng sông Green và chiếm 62% các nguồn
tài nguyên trên thế giới, nếu tính cả Hoa Kỳ, Nga và Brazil thì con số này đạt 86%.
Nước Mỹ từng tự hào với mò đá phiến sét khổng lồ lớn nhất nước Mỹ (trữ lượng dầu tại mỏ đá
phiến sét Bakken là hơn 24 tỷ thùng), tại Bakken khai thác tăng từ 60.000 thùng lên 500.000 thùng dầu
mỗi ngày trong 5 năm từ 2008 - 2012. Nhưng theo phát hiện gần đây, thì mỏ đá phiến sét Bakken lại
chẳng là gì khi so sánh với trữ lượng mỏ đá phiến sét Bazhenov tại Nga. Theo Tập đoàn tư vấn Năng
lượng Sanford Bernstein Mỹ thì mỏ đá phiến sét tại vùng Bazhenov, Tây Siberia, Nga, mới thật sự là
khổng lồ với diện tích mò năm sâu dưới lòng đất lên tới 2,3 triệu kilômét vuông (tương đương 570 triệu
hécta), băng diện tích của cả bang Texas và vịnh Mexico của Mỹ cộng lại, gấp 80 lần so với diện tích
mỏ đá phiến sét Bakken, Mỹ. Mới vài điểm trong mỏ đá phiến sét Bazhenov đã có thể khai thác 400
thùng dầu mỗi ngày, ngang với sản lượng tại mấy điểm của mỏ đá phiến sét Bakken, Mỹ. Trong 6 tháng
đầu năm 2012, sàn lượng khai thác dầu cùa Nga đạt trung bình 10,2 triệu thùng/ngày, chi hơn Mỹ
900.000 thùng, giảm mạnh so với mức chênh lệch 3 triệu thùng cách đó vài năm nhờ có dầu đá phiến.
Ngày nay Mỹ vượt Àrậpxêut và Nga về sản lượng và cỏ thể xuất khẩu dầu thay vì nhập khẩu từ mấy
năm trước nhờ đá phiến dầu.
Theo Bộ Năng lượng Mỹ công bố 10/6/2014 thì trữ lượng dầu đá phiến quy đổi theo tỷ thùng như
sau: Nga 75, Mỹ 58, Trung Quốc 32, Argentina 27, Libya 26, Venezuela 13, Mexico 13, Pakistan 9,
Canada 9, Indonesia 8 tỷ thùng.
Con người đã sử dụng đá phiến dầu để làm nhiên liệu từ thời tiền sử, vì nó được đốt trực tiếp mà
không qua bất kỳ khâu xử lý nào. Công nghiệp khai khoáng đá phiến dầu hiện đại bắt đầu từ năm 1837
ở Autun, Pháp theo sau đó là Scotland năm 1850, úc năm 1865 và một sổ quốc gia khác. Hoạt động
khai thác trong suốt thế kỷ XIX chù yếu tập trung vào sản xuất dầu hòa, đèn dầu và parafin cung cấp
cho nhu cầu thắp sáng đang tăng mạnh trong suốt cuộc cách mạng công nghiệp. Dầu thô, dầu bôi trơn
40
và dầu nhờn, amoni sunfat cũng được sản xuất. Do bị hạn chế tiếp cận đến nguồn dầu mỏ truyền thống
nên cõng nghiệp đá phiến dấu phát triển nhanh chóng trước Thế chiến thứ nhất để sản xuất một lượng
lớn sàn phẩm sử dụng cho xe máy và xe tải, là những sản phẩm sừ dụng chung với xăng.
Năm 1900 New Zealand bắt đầu xây dựng nhà máy đá phiến dầu, tiếp theo 1915 là Thụy Điển, 1921
là Thụy Sĩ, Estonia năm 1921, Tây Ban Nha năm 1922, Trung Quốc năm 1929 và Nam Phi năm 1935.
Mặc dù các ngành công nghiệp đá phiến dầu của Trung Quốc và Estonia vẫn tiếp tục phát triển
sau Thế chiến thứ hai, nhưng vào khoảng thập niên 50 và 60, hầu hết các nước khác (Pháp, úc,
New Zealand, Tây Ban Nha, Scotland và Nam Phi) đã dừng các dự án của họ do chi phí xừ lý cao và
dầu mò giá rẻ horn đã có sẵn. Riêng nước Đức vẫn duy trì khai thác đá phiến dầu làm xi măng, năng
lượng và các sản phẩm nhiệt lượng khác bời tập đoàn xi màng Holcim.
Sau cuộc khủng hoảng dấu năm 1973, sàn lượng đá phiến dầu trên thế giới đạt đến đỉnh là
46 triệu tấn trong năm 1980 và sau đỏ giảm xuống còn 16 triệu tấn năm 2000, do dầu mỏ truyền thống
giá rẻ thập niên 1980. Năm 1986, Mỹ hủy bỏ chưorng trình tổng hợp nhiên liệu lỏng từ đá phiến dầu.
Năm 2005, Mỹ khời động lại việc khai thác đá phiến dầu cùng với nhiều nước khác như Brazil, Trung
Quốc, Estonia, Đức, Israel, Nga. Chính vì thế mà sản lượng dầu của Mỹ đã tăng lên để vượt Nga và
Arab Saoudi. Sử dụng đá phiến dầu như là nguồn nhiên liệu chính để phát điện chi có ờ Estonia, nhà
máy điện Narva ở đây sản xuất 95% sàn lượng điện của quốc gia này trong năm 2005. Các nhà máy
năng lượng đá phiến dầu cỡ lớn ở Estonia có công suất lắp đặt đạt 2,967 megawatt (MW), ở Israel là
12,5 MW, Trung Quốc là 12 MW và Đức là 9,9 MW.
41
Tổng trữ lượng khí đá phiến toàn cầu là 206.000 tỳ m3, chiếm 32% tổng trữ lượng khí đốt toàn
thể giới. Nga chi đứng thứ 9 thế giới về trữ lượng khí đốt đá phiến với 8.000 tỷ m3. Đứng đầu thế giới
về trữ lượng khí đá phiến là Trung Quốc, với trữ lượng gấp gần 4 lần Nga. Mỹ xép thứ 4 trong bàng xếp
hạng này, sau Argentina và Algeria. Việc khai thác khí đá phiến mạnh nhất là Mỹ, cụ thể Mỹ khai thác
(tỳ m3) khí đá phiến 2002 - 13 tỷ, 2005 - 23 tỷ, 2009 - 67 tỷ, dự kiến 2015 - 180 tỷ, 2020 - 900 tỳ,
2013 cung cấp 40% nhu cầu Mỹ. Hiện nay Mỹ đã thừa khí và cỏ thể xuất khẩu được.
Gần đây người ta cũng phát hiện khí đá phiến tại vùng Lugansk và Donbas thuộc đông nam
Ucraina với trữ lượng đến ngàn tỷ mét khối. Hiện nay họ cũng cỏ kế hoạch thăm dò và khai thác khí đá
phiến này với tập đoàn của Mỹ.
Do công nghệ khai thác khí đá phiến phức tạp nên giá thành khí đá phiến ờ Mỹ là khoảng
170 - 180 USD cho mỗi nghìn mét khối. Bời vậy, việc sử dụng khí này chỉ có lợi trong vùng lân cận
các mỏ này, vỉ cỏ thể tránh chi phí vận chuyển bồ sung. Trong khi đó, giá thành khí thiên nhiên truyền
thống khai thác ờ Siberia là khoảng 20 - 25 USD cho nghìn mét khối. Ngoài ra việc khai thác khí đá
phién gặp phải nhiều khó khăn về công nghệ, đặc biệt về môi trường nên khí thiên nhiên và dầu mỏ
truyền thống vẫn giữ vai trò thống trị hiện nay.
Băng Methane hay đá methane hay đá cháy băng cháy là loại khí thiên nhiên bị đóng băng với
nước ở nhiệt độ thấp và áp suất cao. Tên gọi chung là Methane hydrate để hiểu rằng Methane có chứa
nước. Thực chất đó là hợp chất của methane với nước có công thức CH4.5,75H2O hoặc (CH4)4(H2O)23
và tinh thế của nó gọi là Methane clathrate. Chúng tồn tại dưới dạng hỗn hợp rắn, trông bề ngoài giống
băng đá hoặc cồn khô, cỏ thể trong suốt hay mờ đục, dạng tinh thể màu trắng, xám hoặc vàng. Chúng
được phát hiện đầu tiên vào thập niên 60 tại vùng bắc Nga. Đỉều kiện hình thành chúng là ở áp suất cao
và nhiệt độ thấp nên thường có mặt dưới mực đáy biển khoảng 300 m như tại Mỳ, Nga (thềm lục địa
Sakhalin), Nhật... Tại Siberi, hồ Baican và nhiều vùng thềm lục địa khác cũng tìm thấy băng Methane.
Hiện nay băng Methane được đảnh giá là có mặt ở hầu hết thềm lục địa các châu lục như trong hình 1.5
Băng Methan ổn định ở áp suất 35 bar, o°c hoặc ở áp suất không khí nhưng nhiệt độ phải là âm -80°C.
Cứ 1 m3 băng Methane nặng 0,85 - 0,95 tấn ở điều kiện thường sẽ giải phóng 170 m3 CH4 và 0,8 m3
nước, khí thiên nhiên hóa lỏng LNG ờ nhiệt độ âm -162°c cứ 1 m3 nặng 0,42 - 0,47 tấn chứa 600 m3
CHị, bình gas lỏng (LPG) loại 13 kg chứa khoảng 5,4 m3 gas propan và butan (khối lượng riêng của
metan, propan và butan lần lượt là 0,717, 2,020, 2,840 kg/m3).
Trữ lượng sơ bộ được đánh giá từ 1 đến 5 X 1015 m3 ứng với 0,5 - 2,5 X 1012 tấn cacbon. số liệu
dự trừ đánh giá rất khác nhau, theo “China and India explore icy methane hydrate reserves”
17/12/2007” của Thomas de Maesschalck 17/12/2007 thì dự trữ tính theo đơn vị tỷ tấn cacbon để so
sánh như sau: (ba loại cuối đang khai thác).
42
Băng Methane: 3.000, Khí thiên nhiên: 96, Dầu mỏ: 160, Than: 675.
Trữ lượng băng tại lục địa còn chưa đánh giá được. Trong khi đó dự trữ dầu mỏ của thế giới được
đánh giá vào năm 2005 là 2 X 1011 m3. Chính vì vậy có nhà khoa học cho rằng trữ lượng băng Methane
đủ dùng cho thế giới gần 1.000 năm. Theo World Ocean Review thì lượng Methane này ứng với 1000 -
5000 tỷ tấn cacbon tức gấp 100 đến 500 lần lượng than, dầu và khí đốt hằng năm hiện nay. Việc khai
thác vận chuyển chúng có nhiều vấn đề đặt ra cho công nghệ vì ở nhiệt độ thường nó sẽ bốc hơi và dễ
gây ô nhiễm môi trường. Cường độ gây hiệu ứng nhà kính của Methane gấp khoảng 20 lần so với khí
CƠ2 nên cần phải cẩn thận khi khai thác. Vì vậy thực tế cho đến nay chưa có nơi nào khai thác băng
Methane. Hiện nay hơn 90 nước đã có ý định nghiên cửu khai thác loại nhicn liệu này. Cũng theo tính
toán của các nhà khoa học, toàn bộ khu vực Biền Đông (bao gồm quần đảo Hoàng Sa xuống dưới quần
đào Trường Sa của Việt Nam) đứng thứ 5 châu Á về băng cháy và Việt Nam được đánh giá là quốc gia
có trữ lượng băng cháy khá lớn như trong bản đồ phân bố băng methane hình 1.5. Bời vậy, trong những
năm gần đây, các nhà khoa học trong nước đã bắt đầu quan tâm đến vấn đề điều tra, nghiên cứu về băng
cháy tại thềm lục địa Việt Nam. Tuy có tiềm năng ở biển Đông theo bản đồ phân bố băng Methane
nhưng ta chưa thể nghiên cứu khai thác được do tài chính, công nghệ và cần được bảo vệ.
43
Khí lò cao là sàn phẩm thừa từ lò cao trong khu gang thép. Nhiệt trị của nó không cao, gần 1003
Kcal/Nm3. Khí lò cao đôi khi sử dụng một mình đôi khi sử dụng lẫn với khí lò cốc để đàm bảo nhiệt độ
trong lò.
Khí lò cốc cũng là sản phẩm dư của lò luyện cốc. Nó chứa tới 55% H2 và 25% CH4, vì vậy nhiệt
trị của nó khá lớn 3500 4- 4500 Kcal/Nm3.
Trong số ba loại nhiên liệu khí trên thì chi cỏ khí than là độc lập và có thể xây dựng riêng thành
hệ thống lò cung cấp khí than cho cả vùng công nghiệp. Hai khí còn lại chi gắn liền với khu công
nghiệp luyện thép với lò cao nấu gang kèm theo lò luyện than cốc.
Thành phần các khí này thể hiện trong bảng 1.18 như sau:
Khí lò cốc 7,0 57,0 23,0 2,0 0,5 2,0 7,5 1,0 4.000
Khí than lẫn từ 27,5 13,5 0,5 — 0,2 5,5 52,6 0,2 1.230
antraxit
Khí lò cao 28,0 2,7 0,3 - - 10,5 58,5 - 951
44
Từ bàng trên ta thấy rằng nhiên liệu giá trị và ưu việt nhất là khí thiên nhiên (bao gồm cả khí
đồng hành). Sau đó là LPG hay gas lỏng rất sạch và tiện dụng. Khí lò cốc hoặc hỗn hợp khí lò cốc với
khí lò cao cũng rất tót. Nếu nhà máy gần khu luyện thép và tại đấy có khả năng cung cấp, thì tốt nhất là
dùng hỗn hợp khí trên.
Nhiên liệu có giá trị và cao nhiệt là Mazut (FO), việc vận chuyển đến nhà máy hay trong nhà máy
đến chỗ dùng tương đối thuận tiện.
Việc sử dụng nhiên liệu rắn tốt nhất thông qua lò khí hóa, vì nhiên liệu khí có nhiều ưu việt hơn.
Song cũng cần chú ý đến hoàn cảnh cụ thể của từng nơi, từng sản phẩm và tùy theo điều kiện kinh tế kỹ
thuật mà dùng than hay khí than. Các nước công nghiệp hầu như bỏ hẳn lò khí hóa than từ những năm
60 của thé kỷ XX. Việc khí hóa than trờ nên rất đắt nếu xét về mặt tổng thể tại các nước phát triển
nhưng thực tế ờ nước ta việc khí hóa than lại có lợi để thay thế dầu DO quá đắt cho các lò nung gạch ốp
lát. Các nước châu Âu có lợi thế là được cung cấp khí thiên nhiên từ Nga, Algerie, Trung cận Đông...
với giá nhập từ Nga chỉ có 360 USD/ 1000 m3 hay 0,36 USD/m3 khí nên họ tích cực phát triền công
nghiệp với năng lượng rất rẻ so với nước ta.
45
1.6. QUÁ TRÌNH CHÁY VÀ THIÉT BỊ ĐỐT NHIÊN LIỆU
Theo chiều cao của than trên ghi đốt chúng ta có thể chia thành các zôn như sau:
+ Zôn sấy;
+ Zôn tách và cháy chất bốc;
+ Zôn oxy hóa và khử;
+ Zôn tạo xi.
Tại zôn sấy hơi ẳm từ nhiên liệu được tách ra dưới tác dụng của dòng khí nóng đi từ dưới lên. Tại
zôn tiếp theo chất bốc được tách ra và chúng được cháy ngay trong dòng khí từ dưới đi lên do dòng khí
này còn chứa nhiều oxy. Nếu hàm lượng chất bốc v% càng nhiều thì quá trình cháy chất bốc càng
chậm. Điều đó có nghĩa là ngọn lửa càng kéo dài, khối lượng lửa càng lớn. Kết quả là ngọn lửa sẽ vượt
qua buồng đốt để đi vào lớp vật liệu bên trong lò và làm quá trình nung sản phẩm trong lò càng được
đồng đều. Than sau khi tách hết chất bốc còn lại là cốc, trong cốc này chi chứa cacbon và xỉ.
Tại zôn oxy hóa và khử sẽ tiến hành một loạt các phản ứng oxy hóa và khử do dòng không khí
nóng đi từ dưới lên. Không khí này thông thường đều chứa hơi ẩm và oxy nên các phản ứng chủ yếu
như sau:
46
Khí CO và H2 thoát ra khỏi than nung đỏ sẽ được cháy trong dòng khí giàu oxy thành co2 và
H2O kèm theo tỏa nhiệt. Càng lên trên nhiệt độ của zôn oxy hóa khử càng tăng cao, màu sắc của than
càng sáng chói và nhiệt độ của khí cũng tăng cao. Mặt khác hàm lượng oxy trong khí cũng giảm dần
theo chiều cao của zôn này. Khi đi vào zôn trên, nhiệt sẽ cung cấp cho quá trình tách chất bốc và chất
bốc này được cháy bời oxy còn dư trong dòng khí kèm theo tỏa rất nhiều nhiệt.
Ket quả là nhiệt độ tại zôn oxy hóa khử tăng lên rất nhiều và phản ứng oxy hóa tỏa nhiệt chiếm
ưu thế. Vì vậy ngọn lửa mãnh liệt sẽ bay vào trong lò và ngọn lửa càng dài khi hàm lượng chất bốc
càng cao.
Sau khi lượng cacbon cháy hết, phần còn lại là xi than. Xỉ than này sỗ bao quanh các hạt than gây
cản trở quá trình thâm nhập oxy vào bên trong để tác dụng với cacbon. Vì vậy trong quá trình chạy lò
nhất thiết phải chọc lò để phá lớp xi này nhằm tăng cường quá trình cháy. Trong nhiều trường hợp, do
nhiệt độ cao nên xỉ nóng chảy và kết tảng với nhau. Điều đỏ càng gây khó khăn cho quá trình cháy và
việc thông hay chọc lò càng phải tiến hành thường xuyên hơn nhằm duy trì nhiệt độ trong lò.
về nguyên tắc lớp xỉ tạo ra nằm ờ dưới cùng với nhiệt độ cao. Không khí lạnh đi qua lớp này sẽ
được nâng nhiệt trước khi đi vào zôn oxy hóa khử. Điều đó càng thúc đẩy các phản ứng tại zôn này.
Trên đây là quá trình cháy hoàn toàn của than trong các buồng đốt hay các thiết bị đốt tương tự.
Xi than khi ra khỏi buồng đốt rơi xuống dưới thường chứa một lượng cacbon dư lại chưa cháy hết.
Trong kỹ thuật thường gọi đó là tổn thất cơ học của nhiên liệu. Ngoài tổn thất cơ học còn có tổn thất
hóa học, đó là sản phẩm cháy được như khí co hay muội than bay ra cùng khói lò. Lượng này nhiều
hay ít hoặc không có tùy theo quy trình đốt lò.
ZÒ11 sây
Zôn tách chất bốc
Tháo xỉ
Ngoài buồng đốt cháy hoàn toàn còn có buồng đốt bán khí như trong hình l .7.
Tại đây không khí để cháy nhiên liệu được chia thành hai phần. Không khí l được thổi từ dưới
ghi đi lên cùng với hơi nước tạo thành do xỉ nóng rơi xuống ngăn nước. Ngăn nước này có nhiệm vụ
không cho không khí lọt ra ngoài và cung cấp hơi nước cho quá trình khử. Do thiếu oxy nên các
47
phản ứng xảy ra tại zôn oxy hóa khử sẽ không hoàn toàn. Vì vậy nhiệt độ của zôn này sẽ không cao và
dòng khí bay lên chứa nhiều khí cũng như chất bốc tách ra. Để cháy hoàn toàn phải thổi không khí 2
vào ờ phía trên và ngọn lửa tiếp tục đi sâu vào trong lò. Loại buồng đốt bán khí tốt nhất là dùng cho
những trường hợp nhiên liệu than chứa nhiều chất bốc. Buồng đốt bán khí có ưu điểm là hạ được nhiệt
độ zôn cháy nên giảm hiện tượng đóng tảng xỉ cũng như đưa ngọn lửa sâu vào trong lò làm nhiệt độ
trong lò đồng đều hơn. Đặc tính lò bán khí cho trong bảng 1.19.
48
Hình 1.8. Sơ đồ nguyên tắc buồng đốt ghi xích.
Việc điều chỉnh lượng không khí vào buồng đốt bằng cừa van hay áp suất của quạt. Kích thước
của ghi đốt có thể to nhò khác nhau tùy theo lượng than cần đốt.
Để đốt than kể cả phế thải, người ta có thể áp dụng ghi ru lô quay đặt nghiêng 20°C như trong
hình 1.9. Trong trường hợp đốt than nhiều chất bốc hay phế thải công nghiệp thì cần bổ sung không khí
trên mặt lửa để đốt cháy hoàn toàn chất bốc nhằm giảm tối thiểu khí co hay hợp chất hữu cơ khác thoát
ra khỏi lò.
49
1.6.1.5. Buồng đốt tằng SÔI
Than cám có thể đốt rất tốt ưong buồng đốt tầng sôi như trong sơ đồ hình 1.10. Trong buồng đốt
này, ghi được cấu tạo có những lỗ nhỏ. Không khí thổi vào buồng đốt với áp suất tương đối cao và đi từ
dưới lên. Trên mặt ghi là than cám được tiếp từ két than vào. Dưới tác dụng của áp suất không khí, than
cám sẽ được sấy tách chất bốc và cháy dưới dạng tầng sôi. Bụi xỉ được bay lên theo dòng khí và sỗ
được tách ra tại két bên cạnh hoặc đi thẳng vào hệ lò sấy chăng hạn nếu bụi xỉ không gây tác hại đến
vật liệu sấy.
Trong phần này chi đề cập đến buồng đốt có ghi đốt cố định hoặc ghi xích được phổ biến nhất mà
thôi. Đầu tiên ta phải xác định diện tích mặt ghi cần thiết cho một thiết bị nhiệt như lò nung hay lò sấy.
Diện tích này phụ thuộc vào lượng nhiên liệu cần đốt cháy B kg/h cũng như cường độ nhiệt hay “tải
trọng nhiệt” q kcal/m2h (KW/m2) theo công thức sau:
TT ? = bQ'
H = -— = —-=— m
1500000 1500000
Giá trị cường độ nhiệt của buồng đốt tham khảo trong bảng 1.20.
Dựa theo bảng này có thể tính được kích thước buồng đốt, ống dẫn và áp suất không khí. Nếu
là buồng đốt thủ công thì cường độ nhiệt chi lấy 50 - 70% giá trị trong bảng. Diện tích bề mặt của
buồng đốt thủ công không vượt quá 1,5-2 m2, tốc độ không khí trong ống dẫn 10-25 m/s. Trong
trường hợp dùng gió hút tự nhiên mà không dùng quạt thổi thì cường độ nhiệt chi lấy 50 - 70% giá trị
cho trong bảng.
50
Bảng 1.20. Cường độ nhiệt của buồng đốt than chứa < 55% hạt < 6 mm
Ghi xích
Chiều cao lớp nhiên liệu trên ghi đốt cháy hoàn toàn có thể lấy như sau:
Antraxit và than đá: 70 - 150 mm, nếu buồng đốt thủ công chiều cao tăng lên 2,5 - 3,5 lần. Củi
gỗ hay than bùn lấy chiều cao 300 - 600 mm.
Ncu là buồng đốt bán khí lấy tro xỉ thù công:
Than đá, antraxit: 300 - 700 ĩĩim
Củi gỗ, than bùn: 600 - 1000 mm.
Đặc tính buồng đốt bán khí cho trong bảng 1.20.
Ví dụ 1. Hãy tính toán buồng đốt thủ công dùng cho lò nung gốm với số liệu sau: Tổng lượng
nhiệt yêu cầu 1.400.000 Kcal/h (1,6 MW), nhiệt trị nhiên liệu ọ't = 6300 Kcal/kg (26,4 MJ/kg), lượng
không khí tiêu tốn 9 m3/kg than và lượng sản phẩm cháy tương ứng 9,5 m3/kg than, số buồng đốt 3.
Giải.
Lấy tồng tiêu tốn nhiệt của buồng đốt ra môi trường xung quanh và cháy không hoàn toàn bằng
20% lượng nhiệt của lò yêu cầu, do đó lượng nhiệt mà các buồng đốt phải cung cấp là:
51
Lấy chiều dài của ghi là l m và chiều rộng bằng 0,83 m. Lấy chiều cao của lớp nhiên liệu là 0,5 m
và chiều cao không gian trên mặt nhiên liệu 0,8 m. Như vậy chiều cao từ mặt ghi trở lên bằng 1,3 m.
Kiểm tra lại chiều cao không gian theo công thức trên:
Lượng không khí cần cung cấp cho mỗi buồng đốt:
L = 9 X 93 = 830 m3/h
Quạt gió cần áp suất 100 mmH20 (1000 N/m2) với tốc độ trong đường ống 10 m/s thì đường kính
ống dẫn băng:
d = I 2500-4 = 0,3 m
V 3600.10.3,14
Đường kính ống dẫn đến mỗi buồng với tốc độ 15 m/s:
Diện tích cửa dẫn lửa vào lò nung khi nhiệt độ khí 1450°C và tốc độ của chúng 5 m/s:
880.(1450 + 273) = 0 31 m2
3600.5.273
Từ đó ta lấy chiều rộng của cửa dẫn lửa bằng 700 mm (tưorng ứng chiều rộng buồng đốt) và chiều
cao bằng 460 mm.
1.6.1.7. Vòi đốt than bụi (xem thêm chường lò nung clinke xi măng)
Trong trường hợp đốt nhiên liệu dạng bụi như tại lò quay nung clinke xi măng chẳng hạn, quá
trình cháy cũng phải tiến hành các giai đoạn như trên. Cụ thể bụi than cũng được sấy, tách và cháy
chất bốc, oxy hóa và cuối cùng tạo thành hạt xi. Những hạt xi này sẽ nóng chảy do nhiệt độ trong lò
rất cao và chúng sẽ bay theo dòng khí và rơi vào phối liệu. Điểm khác cơ bản với buồng đốt thông
thường là thời gian cháy bụi than trong những lò quay này rất ngắn và chỉ chiếm khoảng chưa đến
0,24 - 0,48 giây.
52
Hình 1.11. Vòi đốt than bụi cho lò quay nung clinke xi măng của hãng Smidth.
Vòi đốt than bụi dùng cho lò quay nung clinke xi măng có nhiều kiểu do nhiều hãng sản xuất.
Cấu tạo chung của chúng thuôc loại đa kênh nghĩa là bao giờ cũng có ba kênh trụ chính đồng tâm. Kênh
giữa là than bụi được thổi bởi không khí dưới áp suất cao. Hai kênh ngoài và trong là kênh không khí
được thổi từ quạt áp suất cao. Hai dòng không khí này kẹp dòng than bụi ờ giữa nhằm tạo điều kiện để
trộn đều không khí vào dòng than đồng thời than dễ cháy hơn. Khác nhau cơ bản giữa các loại vòi đốt
than ở chỗ thoát ra của các dòng không khí cũng như than. Đẻ tham khảo, chúng ta hãy xem cấu tạo của
vòi đốt than bụi của hãng Smidth cho trong hình 1.11 và hãng KHD cho trong hình 1.12. Nhằm đốt
được than bụi thì nhiệt độ lò phải đạt được nhiệt độ nhất định để than bắt cháy. Do đó các vòi đốt than
bụi đều bố trí vòi đốt nhiên liệu lỏng tại tâm và chi sử dụng khi khời động lò nung.
Tại các vòi đốt này không khí ngoài đều chia thành hai phần, một phần nhỏ đi sát ngoài cùng
đề làm mát vỏ kim loại. Để điều chinh góc phun cả hai đều có thể điều chinh vòi đốt lên xuống hay
trái phải. Khác nhau cơ bản giữa hai loại này ờ cấu tạo cửa ra của không khí. Tại vòi đốt Smidth cửa
ra là vòng đồng tâm còn của Polysius cửa ra là những lỗ với góc nghiêng nhất định. Tốc độ không khí
tại vòi đốt Polysius là rất lớn và đạt tới 300 m/s. Lượng không khí đi theo vòi đốt được gọi là không
khí 1 hay gió 1 đều khoảng 7 - 8% lượng không khí cần thiết để cháy nhiên liệu trong lò. số lượng
không khí 2 hay gió 2 là không khí nóng lấy từ máy làm nguội clinke. Nhiệt độ không khí 2 này khá
cao và thường khoảng 800 - 1000°C. Nhờ vậy mà than bụi dễ dàng cháy và cháy với hệ số không khí
dư khá thấp a = 1,25. Còn nhiều loại vòi đốt than bụi khác có thể xem thêm tại chương “Lò nung
clinke xi mãng”.
53
Không khí 2 (gió 2)
Không khí làm nguội vỏ
khí ngoài
Dòng than bụi
khí trong
Hệ vòi đốt nhiên liệu lỏng
Hình 1.12. Đẩu vòi đốt than bụỉ Pyro-Jet cho lò quay nung clinke xỉ măng của hãng KHD.
Nhiệt độ °C
54
Độ nhớt của dầu đặc trưng bời hình 1.13. Việc hâm nóng dầu ờ các nhà máy lớn thường được
thực hiện bằng hơi nước quá nhiệt để đảm bảo an toàn chống cháy nổ. Nếu lượng dùng không nhiều lắm
thì có thể thực hiện bằng điện với hệ điều khiển tự động nhưng phài thật an toàn. Nhiệt độ hâm nóng
dầu tùy theo tính chất cùa dầu sử dụng vì thực tế có loại dầu rất nhớt phải hâm nóng đến nhiệt độ cao và
cũng có loại dầu tương đối loãng chỉ cần hâm nóng đến nhiệt độ tương đối thấp.
Tất cả các loại dầu đều được thực hiện quá trình cháy bằng các vòi đốt khác nhau. Tại đây dầu
được xé nhỏ hay sương mù hóa (Atomisation) thành những hạt nhỏ li ti dưới áp lực của không khí hoặc
của áp lực dầu. Nhờ vậy mà quá trình đốt cháy dầu tương đối thuận lợi do bề mặt tiếp xúc lớn cũng như
trộn lẫn với không khí được hoàn thiện hơn.
Các hạt dầu khi rời khỏi đầu phun sẽ khí hóa rất nhanh nhờ nhiệt bức xạ từ ngọn lửa ưong lò. Các
khí hình thành từ nhiên liệu lỏng rất khác nhau tùy theo bản chất nhiên liệu lỏng. Đối với dầu mazut hay
FO thì thông thường sẽ tạo thành khí hydrocacbon nhẹ, trung bình và nặng hay mạch dài. Hydrocacbon
nhẹ và trung bình dễ dàng cháy còn loại hydrocacbon nặng rất khó cháy và cần nhiều oxy. Vì thế nếu tổ
chức cháy không tốt hoặc nhiệt độ không cao thì có thể chúng bay đi và nhiều trường hợp chúng tạo
thành các hạt muội than trong dòng khí. Điều đó sẽ gây tổn thất hóa học rất lớn đồng thời gây ô nhiễm
môi trường nặng. Dòng khí có chứa hydro cacbon nặng còn có thể gây nổ lớn khi chúng gặp điều kiện
nhiệt độ cao và đủ oxy. Hiện tượng này đã từng xảy ra ở một số nơi nhất là khi đang trong giai đoạn
mới nhóm lò hay lúc nhiệt độ trong lò chưa cao.
Cuối cùng tại ống loa không khí và nhiên liệu khí hình thành được trộn lẫn đồng đều sẽ cháy rất
nhanh nếu nhiệt độ trong lò tương đối cao. Khoảng cách bắt lửa của hồn hợp này tùy thuộc vào độ mịn
của hạt dầu cũng như điều kiện trộn và nhiệt độ của lò.
Như vậy quá trình cháy nhiên liệu lỏng có thể tiến hành bởi những giai đoạn sau:
- Vòi đốt áp suất thấp với không khí từ quạt áp suất cao trẽn 300 mmH20.
- Vòi đốt áp suất cao với không khí nén tới vài atm.
- Vòi đốt cơ khí, dầu được bơm dưới áp lực trên 10 atm phun qua lỗ xoáy nhỏ với các dạng
khác nhau.
Các vòi đốt dầu hay nhiên liệu khí ngày nay hầu hết được điều khiển tự động theo chương trình
được cài đặt sẵn. Tất cà đường dẫn nhiên liệu và không khí được điều chinh tự động bằng các van tùy
theo nhiệt độ dự kiến nên chúng hoạt động rất ồn định, ở đây chi nêu vài kiểu vòi đốt để tham khảo
mà thôi (xem hình 1.14 đến 1.18).
55
Hình 1.14. Vòi đốt áp suất thấp.
1. Cảnh tạo dòng xoáy; 2. Lỗ phu dầu; 3. vỏ dầu phun; 4. Vít điều chỉnh;
5, 6. Thành vòi và ống dẫn không khí; 7. Cứa pha không khí; 8. Tay điều khiển;
9. Kim điều chỉnh lượng dẳu; 10. Tay vặn điều chỉnh; 11. ồng dẫn dằu.
Trong thực tế có rất nhiều kiểu vòi đốt khác nhau với các hãng khác nhau. Vì vậy khi lựa chọn
loại vòi đốt cần căn cứ theo yêu cầu kỹ thuật của từng lò sử dụng. Đối với lò lớn như lò quay nung
clinke xi măng chẳng hạn thì dùng loại vòi đốt kiểu cơ khí vì lưu lượng dầu cần đốt tương đối lớn.
Ngược lại, đối với lò nung gốm sứ hay lò nấu thủy tinh có thể dùng loại vòi đốt áp suất thấp hoặc cao
nhưng với lượng nhiên liệu thấp.
56
Mazut, FO
Hình 1.17. Vòi đốt cơ học, nhiên liệu lỏng bơm dưới áp suất cao.
1. Đàu vòi phun; 2. Hệ xoáy dòng dẳu. 3. Lỗ phun dầu; 4. Thân ống dẫn dằu.
57
nóng đến nhiệt độ cao khoảng 1000°C nên cấu tạo miệng lửa có hơi khác và có thể xem trong phần lò
nấu thủy tinh.
58
1.6.4. Tính toán vòi đốt
Viộc tính toán kích thước hình học của vòi đốt là vấn đề rất khó và có những tài liệu chuyên biệt
riêng. Quá trình tính toán đó dựa trên nhiều cơ sờ về khí động học, vật lý, cơ học nên nhiều khi chế tạo
được trên lý thuyết nhưng khi thực nghiệm lại phải chỉnh sửa theo thực tế. Vì vậy, các vòi đốt cho từng
loại nhiên liệu đã được các hãng sản xuất hàng loạt mà các hộ tiêu thụ chỉ việc lựa chọn đồng thời tự
hiệu chỉnh cho phù hợp với điều kiện của mình. Do đó trong phần này chỉ nêu vài ví dụ để tham khảo
mà thôi.
Vòi đốt nhiên liệu lỏng
Để đốt nhiên liệu lỏng có thể dùng vòi đốt áp suất cao hoặc vòi đốt cơ khí. Vòi đốt cơ khí hầu
như chỉ dùng cho lò nung clinke xi măng với lượng nhiên liệu đốt trong một giờ rất lớn. Các lò khác
trong công nghệ gốm sứ hay thủy tinh không có công suất cao thì dùng loại vòi đốt áp suất cao và đôi
khi dùng loại áp suất thấp.
Khi dùng không khí áp suất cao để tạo bụi dầu (atomisation), chiều dài của ngọn lửa dao
động 3 - 10 m. Lượng không khí tạo bụi dầu theo % lượng không khí lý thuyết dùng để đốt nhiên
liệu như sau:
Áp suất không khí: atm.......... 0,025 0,05 0,1 0,2 0,5 1 5
kN/m2 2,5 5 10 20 50 100 500
Lượng không khí %.......... 60 47 38 30 22 12 9
Phổ biến rộng rãi khi dùng vòi đốt áp suất cao với áp suất hơi nước 6 kg/cm2 (600 kN/m2) và
không khí 4 kg/cm2 (400 kN/m2) với chiều dài ngọn lửa 3 - 4 m. Như vậy khi dùng không khí áp suất
cao có thể tận dụng nhiều nhiệt của không khí nóng lò tuy nen hay lò bể nấu thủy tinh. Tuy nhiên cần
tiêu tốn năng lượng tạo không khí nén cho vòi đốt này.
Nếu dùng không khí với áp suất 200 - 3.000 mmH2Ơ (2000 - 30.000 N/m2) và chù yếu là
300 - 600 mmH2Ơ (3.000 - 6.000 N/m2), khi đó lượng không khí tạo bụi nhiên liệu lỏng chiếm
75 - 100% lượng không khí lý thuyết để cháy nhiên liệu.
Vòi đốt áp cao
về nguyên tắc khi tính toán thì phải tính kích thước ống dẫn dầu, không khí và miệng vòi đốt. Đẻ
đơn giàn, ta chỉ nêu phương pháp tính tiết diện lỗ thoát nhiên liệu lỏng/m2 của vòi đốt mà thôi.
Lượng nhiên liệu cần đốt theo tính toán cân bằng nhiột B kg/h. Tốc độ FO phụt qua lỗ phun bằng:
2gẠp _ VFO
C0fo - p mỉ s
Y f
59
Vậy tiết diện ngang của lỗ phun dầu:
/=——_mz
3600//ự2gA/ự
Đại lượng hệ số Ị1 thường trong lhoàng 0,2 - 0,3, đối với vòi đốt cơ học dùng trong lò quay bằng
0,6 - 0,9. Đại lượng Ỵ đối với FO bằng 0,95 - 1,00 và dầu hỏa 0,7 - 0,8.
Nếu thay giá trị p = 0,3 và Ỵ = 0,960 kg/m3 ta sẽ có:
/ = 0,068-^= mm2
Từ số liệu thu được ta sẽ chọn vòi đốt tương ứng do các hãng sản xuất hàng loạt.
Tốc độ của nhiên liệu lỏng đối với vòi đốt cơ khí nằm trong khoảng 40 - 60 m/s. Trên cơ sờ
lượng nhiên liệu cần đốt và tốc độ lựa chọn ta tính được tiết diện lỗ thoát của dầu để quyết định loại
vòi đốt.
Vòi đốt áp suất thấp
Tiết diện của đường nhiên liệu lỏng được tính toán như trên. Riêng đường không khí tạo bụi dầu
cần được xác định đầu ra của chúng.
44 273
íu+273
3600 m3/h
Pkkv- áp suất không khí trước khi vào vòi đốt, N/m2;
Pkkr- áp suất không khí thoát ra vòi đốt, N/m2;
Y - khối lượng riêng của không khí, kg/m3.
Ví dụ tính vòi đốt áp suất thấp cho nhiên liệu lỏng
Tính thông số làm việc của vòi đốt với điều kiện: áp suất không khí Ap = 500 mmH20
(4000 N/m2); tkk = 30°C; tiêu tốn không khí lý thuyết để cháy 1 kg nhiên liệu FO là 12 m3/kg; hệ
số không khí dư a = 1,15; kích thước đầu vòi đốt dcp = 32 mm và n = 12 mm (xem hình 1.22). Hãy
tính sự biến đổi công suất vòi đốt khi nhiệt độ không khí ở 300°C.
Cửa thoát không khí giống như hình vành khăn có đường kính trung bình bằng dcp và rộng bằng n
nên diện tích của chúng bằng:
60
Lấy giá trị pi = 0,66 theo kinh nghiệm ta sẽ có
500 273
K° = 0,00121.0,66J2.9,814^4 ■ ~ 3600 = 238 m3/h
u V 1,2 30 + 273
\G =
17.2-12.5
' W ' . 100 = 27,6%
17,2
61
*-!
k
m/s
Đại lượng k bằng: đối với không khí 1,4; hơi nước quá nhiệt 1,135; methan 1,31.
Đại lượng R bằng: đối với không khí 29,27; hơi nước 47,06; methan 52,85; butan 14,59;
propan 19,23 kgm/kg.°c.
Tiết diện lỗ phun:
n?
k Wto(ữk
Nếu ký hiệu f = Fhh/Fk với Fhh là tiết diện đầu ra của hỗn hợp khí với không khí và Fk là tiết diện
đầu ra của nhiên liệu khí thì ta có:
Pk-PQ
Hình 1.23. Vòi đốt loại injector khí phun kéo theo không khí.
Ví dụ. Hãy tính cấu tạo vòi đốt như hình 1.23 để đốt khí thiên nhiên với Q't = 6750 kcal/m3
(28.300 kJ/m3) với công suất đốt vk= 10 m3/h, hệ số không khí dư a = 1,05; áp suất khí trước đầu phun
Ap = 0,3 at (127,5 kN/m2), ỵ\ = 0,725 kg/m3, nhiệt độ khí 20°C. Tiêu tốn không khí khi a = 1 tương
ứng 1,1 m3/m3.
62
Giải.
Tốc độ của nhiên liệu khí:
= 235 m/s
11,8 _,Q___
Đường kính lỗ phun D| = ■ J — — 3,9 mm
0,785
Xác định f = Fhh/Fk
„_w
m - Vkk .• w - ___ = 7,82
Vk -
1000
Do pc - po = 0 nên ta còn:
p - p = 2<p2
±-^ t —1 --zm—1 - r 1 > 1 1 .................
„ , -1 J -— 14,9.8,22(1 0,475.0,8)
pt-po f2
f
0 = 4;-13,9.7,82-4 í 1 ,ì 1
,, _____ -1 -4-14,8.8,22(1 0,745.0,8)
/ /l
/’ 2(0,85) J f
r
í 562
= 26,8 mm
V 0,785 V 0,785
Đường kính D3 có thể xác định theo tổng thể tích hỗn hợp:
— 88,2 — on a
Cừhh = r-rrrTTT = 30,3 m/s
3600.810.10^
Các thông số của vòi đốt như sau:
h = 4D3 = 4.0.032 = 0,128 m
l4 = D3 = 0,037 m.
63
CHƯƠNG 2
64
2-1.2. Quy ước trong tính toán
Quá trình cháy được tính toán không phụ thuộc vào lượng nhiên liệu dùng vì lượng không khí
cần thiết và thề tích sàn phẩm cháy tạo ra khi cháy nhiên liệu được xác định theo một đom vị khối lượng
hoặc thể tích của nhiên liệu và biểu thị bằng Nm3/kg (mét khối tiêu chuẩn trên kilogam nhiên liệu) hoặc
Nm3/Nm3 (mét khối tiêu chuẩn trên mét khối tiêu chuẩn nhiên liệu). Từ đây ta quy ước đom vị mét khối
trong tính toán đều là mét khối chuẩn m3 (thay cho Nm3 viết dài).
Nhiệt độ cháy nhiên liệu - Nhiệt độ lý thuyết cực đại có thể có, được xác định theo toàn bộ hàm
nhiệt của khói lò. Nhiệt độ này cũng không phụ thuộc vào lượng nhiên liệu cháy trong một đom vị thời
gian và xác định với độ chính xác cao.
Mỗi trường hợp tính toán cần phải liên hệ đén những điều kiện thực tế cháy nhiên liệu và những
đặc điểm của thiết bị nhiệt. Trên cơ sờ thực tế đó chúng ta lấy hệ số không khí dư cho phù hợp để cháy
nhiên liệu. Nhiệt độ thực tế hay nhiệt độ tác dụng của khói lò phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố khác nhau
và rất khỏ tính toán.
Khi tính toán quá trình cháy nhiên liệu ta sử dụng đom vị chuẩn, tức thể tích khí ứng với o°c và
áp suất 1 atm và ký hiệu Nm3, thể tích Vo, tốc độ wo. Song để đơn giản các ký hiệu thể tích V, đơn vị m
hay m3 đều hiểu là ờ dạng chuẩn khi tính toán hoặc viết trong các công thức của chương này.
Nhiệm vụ đầu tiên khi tính toán quá trình cháy nhiên liệu là phải xác định thành phần làm việc
của nhiên liệu, sau đó xác định nhiệt trị của nó theo các công thức đã cho. Trong thành phần làm việc sẽ
có lượng hơi ẩm của nhiên liệu rắn hoặc lượng hơi ẩm ờ trạng thái cân bằng của nhiên liệu khí.
2.2. NỘI DUNG TÍNH TOÁN QUÁ TRÌNH CHÁY HOÀN TOÀN
Công thức này ứng với nhiệt trị thấp hay nhiệt trị thường được sử dụng trong tính toán nhiệt.
Trong thực tế còn có nhiệt trị cao, đó là nhiệt trị không tính đến nhiệt tiêu tốn để biến nước lỏng thành
hơi nước hay nhiệt hóa hơi của nước.
Đối với nhiên liệu khí các loại cỏ thể dùng công thức sau để tính nhiệt trị:
*t = 30,16 CO + 85,58 CH4 + 133,85 C2H2 +141,1 C2H4 + 152,31 C2H6
Q
Trong công thức các khí ứng với % thể tích của nhiên liệu khí ở điều kiện chuẩn. Điều đó có
nghĩa là m3 ờ đây là ứng với điều kiện chuẩn. Có thể nhiệt được đo bằng kJ và chuyển đổi sang kcal với
giá trị 1 kcal = 4,187 kJ.
65
Với nhiên liệu khí như khí than, khí lò cốc, khí lò cao, lượng không khí khô lý thuyết cần thiết để
cháy xác định bằng công thức:
Lo = 0,04762 (0,5 co + 0,5 H2 + 2 CIỈ4 + 3 C2H4 + 1,5 H2S - 02) m3/m3 (2.3)
CO, H2, CH4, C2H4, H2S, 02... Hàm lượng trong khí...% thể tích.
Lo = 0,04762 (2 CH4 + 3,5 C2H6 + 5 C3H8 + 6,5 C4HI0 + 8 C5H12) m3/m3 (2.4)
c1, H1, o1, s1 - hàm lượng của nhiên liệu làm việc.
Lượng không khí thực tế dùng thường cao horn so với lý thuyết vì để cháy hoàn toàn nhiên liệu
bao giờ cũng phải cung cấp lượng không khí hơi dư một chút. Do đó lượng không khí thực tế được xác
định bằng:
Lượng không khí khô dư so với lý thuyết được xác định bằng:
Trong thực tế chúng ta không cỏ không khí khô mà chỉ có không khí ẩm. Nói cách khác là trong
không khí đều chứa một lượng hơi nước nhiều hay ít tùy thuộc vào độ ẩm và nhiệt độ của không khí.
Lượng hơi nước này thông thường ký hiệu là d và đo bằng g hơi nước trên 1 kg không khí khô hay
g/kg kkk. Vì vậy lượng không khí ầm để cháy 1 đơn vị nhiên liệu khi đó sẽ bằng:
Lượng hơi nước từ không khí vào cháy nhiên liệu sẽ bằng:
Giá trị lượng không khí bão hoà hơi nước cho frong bảng 2.1. Từ bảng này ta tính được giá trị d
theo nhiệt độ và độ ẩm tương đối ọ của không khí như sau:
Giá trị <p ở nước ta dao động trong khoảng 70 - 90% nên giá trị d nằm trong khoảng 18-20
g/kg kkk.
Để tính lượng hơi nước trong không khí ẩm, chúng ta có thể sử dụng bảng 2.1 hoặc bảng 2.2,
bảng 2.3 và 2.4 lượng hơi nước bão hoà ưong 1 m3 không khí.
66
Đẻ chuyển đổi thể tích hơi nước trong 1 m3 khí, ta cỏ thể thực hiện phép tính sau khi biết khối
lượng riêng của hơi nước ờ điều kiện chuẩn Y= 0,804 kg/Nm3. Thể tích hơi nước của 1 m3 khí bão hoà
ví dụ ờ 30°C:
Nếu độ ẩm tương đối của không khí ọ = 80%, thể tích hơi ẩm tương ứng sể bằng:
Và lượng hơi nước cùng không khí để cháy 1 đơn vị nhiên liệu sỗ băng:
Nhiên liệu có thể cháy hoàn toàn với lượng không khí lý thuyết chi trong trường hợp nếu nhiên
liệu hoàn toàn trộn đều với không khí cần thiết để cháy và là hỗn hợp cháy dạng khí. Neu đó là nhiên
liệu lỏng thì ở thiết bị đốt hay vòi đốt phải được khí hóa sơ bộ chúng.
Trong thực tế sản xuất, rất khó đạt được điều kiện trên nên nhiên liệu đều cháy với hệ số không
khí dư nhất định. Hệ số không khí dư phụ thuộc vào loại nhiên liệu, phương pháp đốt, cấu trúc thiết bị
đốt và điều kiện thao tác. Thông thường nhiên liệu khí, mazut và than bụi cháy hoàn toàn với hệ số
không khí dư a = 1,05 4- 1,25. Hệ số không khí dư a còn phụ thuộc vào nhiệt độ trong lò. Nếu nhiệt độ
nung thấp mà dùng nhiên liệu có nhiệt trị cao thì hệ số không khí dư sẽ lớn và ngược lại.
Nhiên liệu khí dễ cháy do dễ trộn lẫn đồng đều với không khí cho nên thường cháy với hệ số
không khí dư nhỏ a = 1,0 -ỉ-1,1.
Nhiên liệu lỏng, nếu được khí hóa sơ bộ ờ vòi đốt và trộn tốt với không khí hệ số dư có thể giảm
xuống a = 1,00 -ỉ-1,05.
Khi cháy antraxit hay than bùn trong buồng đốt cơ khí, vào than và ra xi liên tục hệ số không
khí dư a = 1,3 -ỉ- 1,4. Ở buồng đốt thủ công, đối với antraxit a = 1,4; than đá a = 1,5 -ỉ- 1,6; than nâu
a = 1,6 4- 1,8.
67
Bảng 2.2. Lượng hơi nước bão hòa hbh g/Nm3 khí theo nhiệt độ
25 26,0
Ở buồng đốt bán khí đơn giản hệ số a giảm xuống 1,1 4-1,2.
Nếu cháy nhiên liệu rắn trong lò đứng nung samôt thì hệ số không khí dư ở zôn nung a = 1,2 4-1,3;
trong lò vòng a dao động nhiều từ 1,5 4- 2,50, không khí hút vào lò hay không khí lọt quá nhiều qua khe
hở nên a đến 4,0 4- 5,0 hoặc hơn.
68
2.2.3. Lưựng và thành phẩn sản phẩm cháy
Khi cháy nhiên liệu hoàn toàn thì những sản phẩm thu được đều ở dạng khí như CO2, H2O, N2,
02 và có thêm so2 nếu nhiên liệu có chứa lưu huỳnh. Vì sản phẩm cháy hay khói lò đều ờ nhiệt độ trên
1000°C cho nên hơi ẩm đều nằm ở trạng thái hơi.
The tích chung của sản phẩm khí hình thành khi cháy nhiên liệu với hệ số không khí dư a = 1
nghĩa là cháy lý thuyết bằng tổng thể tích các thành phần:
Với nhiên liệu khí như khí than, khí lò cốc, khí lò cao khi cháy với hệ số không khí dư a > 1 thì
thể tích khí tạo ra được tính theo công thức sau:
HiOkk = 0,16.d.La: Lượng hơi nước do không khí mang vào khi hàm ẩm của nó là d g/kg không
khí khô.
Đối với khí thiên nhiên:
VCOi = 0,01 (CO2 + CH4 + 2 C6H6 + 3 C3H8 + 4 C4H,0 + 5 C5H12) m3/m3 (2.21)
VH;0 = 0,01(2CH4 + 3 C2H6 + 4C3H8 + 5C4H1O + 6C5H12 + H2O) + H2Okk m3/m3 (2.22)
Lượng VNỉ và VƠ2 tính chung cho các nhiên liệu khí và khí thiên nhiên như sau:
Tồng hợp lượng sản phẩm cháy ứng với 1 m3 nhiên liệu khí bằng:
va = V
V VCO2 4- V
vH2O
4- V
vN2 vso2 + V
4- V VO2 (2.25)
69
VN2 = 0,79L„ + 0,008 N1 (2.29)
Tổng hợp thể tích sản phẩm cháy 1 kg nhiên liệu rắn hay lỏng băng:
c1 , H1, s1, W1, N° tương ứng thành phần làm việc % khối lượng:
Wh: Lượng hoi nước để xé nhiên liệu lỏng thành dạng bụi, hoặc mù hóa kg/kg nhiên liệu. Trong
trường hợp dùng không khí để mù hóa thì Wh = 0. Có thể dùng công thức (2.24) để tính va.
Nếu biết lượng khí riêng và chung va ta dễ xác định thành phần, phầm trăm của khí đó trong
khói lò theo công thức sau:
V V n
%co2 = 100% ; % H2O = 100% ... (2.32)
Va V’a
Lượng khói lò tổng trong một đơn vị thời gian xác định theo công thức sau: vk = BVa m3/h (2.33)
B - Lượng nhiên liệu tiêu tốn trong 1 giờ m3/h hay kg/h.
Nhiều trường hợp lượng khói lò tăng lên do không khí lọt vào lò qua khe hờ. Khi đó lượng không
khí dư tăng lên tới a = 4,0 -T- 4,5 và lượng khói lò thực tế thải qua thiết bị hút gió (ống khói, quạt hút) là:
aiô Hệ số dư của toàn bộ lò từ lúc đốt đến chân ống khói hay quạt hút;
Vo: Thể tích khí thải hay sản phẩm cháy khi a = 1 (m3/m3 hay m3/kg).
Ở một số lò, lượng khỏi lò còn phải kể đén lượng khí do phân hủy vật liệu nung như co2 khi
phân hủy đá vôi (CaCƠ3 -> CaO + co2) và hơi nước khi loại trừ ẩm và phân hủy caolinit hoặc
khoáng khác.
70
Bàng 2.3. Áp suất riêng phần của hoi nước bão hòa trong không khí ẳm N/m2
(Khl B = 99,4 KN/m2)
<P(%)
t°c
100 90 80 70 60 50 40
71
Bảng 2.4. Thể tích riêng cùa không khí ẩm trong 1kg kk khô
t0(°c)
100 90 80 70 60 50 40 30
Khi tính toán nhiệt độ cháy nhiên liệu, quan trọng hơn cả là phải xác định được nhiệt độ cháy
thực tế trong điều kiện cụ thể của lò và phương pháp đốt. Song có nhiều nhân tố khó xác định, nên chỉ
tính gần đúng mà thôi.
Người ta phân biệt ba nhiệt độ cháy nhiên liệu.
72
(2.35)
Trong đó:
Qt1: Nhiệt trị của nhiệt trị làm việc kcal/kg hay kcal/m3 (Kj/kg; Kj/m3);
cntn: Nhiệt dung riêng kcal/kg, độ hay kcal/m3độ (Kj/kg độ Kj/m3 độ) và nhiệt độ °C của nhiên
liệu vào để cháy;
Cicktck- Nhiệt dung riêng kcal/m3độ (Kj7m3 độ) và nhiệt độ (°C) của không khí vào để cháy;
va: Thể tích sản phẩm cháy khi cháy khi cháy 1 đom vị nhiên liệu m3/m3 .hoặc m3/kg;
Ck‘. Nhiệt dung riêng của sản phẩm cháy kcal/m3độ (Kj/m3 độ).
Neu a = 1, thì nhiệt độ calo đạt cực đại và chi phụ thuộc vào thành phần hóa học của nhiên liệu.
Vì vậy, ờ nhiệt độ cao việc cháy co và H2 không thực hiện đến cùng, và sản phẩm cháy vẫn
chứa CO và H2 mặc dù ờ nhiệt độ cao và có mặt oxy tự do. Khí co và H2 đó sẽ tiếp tục cháy nốt trong
lò ở nhiệt độ thấp hom. Người ta đã xác định, khi nhiệt độ cháy bằng 1600°C với hàm lượng CO2 trong
khói lò là 10% thì lượng co2 bị phân ly không quá 1,5% và mức độ phân ly của H2O khoảng gần 4 lần
nhò hom. Vì vậy sự phân ly khí CO2 và H2O chi kể đến nếu nhiệt độ cháy trên 1600°C. Mức độ phân ly khí
CO2 và H2O phụ thuộc vào nhiệt độ cháy và áp suất riêng phần của chúng cho trong giàn đồ hình 2.1.
Như vậy, ở nhiệt độ cháy cao (hom 1600°C) cần phải tiêu tốn một năng lượng Qt đề thực hiện
phản ứng phân hủy CO2 và H2O. Do đó nhiệt độ cháy lý thuyết có thể xác định bằng công thức sau:
(2.38)
Vậy nhiệt độ lý thuyết là nhiệt độ khi cháy hoàn toàn nhiên liệu, đồng thời toàn bộ nhiệt trị, nhiệt
lý học của nhiên liệu và không khí sau khi tiêu tốn một ít để phân ly sản phẩm cháy chi dùng để đốt
nóng sàn phẩm cháy.
ờ nhiệt độ dưới 1500 4- 1600°C, nhiệt độ lý thuyết sỗ không khác nhiệt độ calo, vì ờ nhiệt độ thấp
sẽ không có sự phân ly CO2 và H2O. Nhiệt độ calo và nhiệt độ lý thuyết có thể xác định theo hàm nhiệt
của sản phẩm cháy và thông thường người ta dùng bảng để tính.
73
Hình 2.1. Độ phân ly của co2 và H20 theo nhiệt độ và hệ số không khí dư a.
Trong thực tế lò công nghiệp, quá trình cháy thực hiện đồng thời giữa trộn không khí với nhiên
liệu. Cả hai quá trình này có ảnh hưởng đến nhiên liệu và tỏa ra nhiệt độ cháy của nhiên liệu. Vì vậy cần
phải kể đến đặc điểm của quá trình trộn và cháy hay việc cháy không hoàn toàn vì trộn không khí với
nhiên liệu chưa hoàn chinh. Kết quà mức độ tôa nhiệt phụ thuộc không chi vào độ phân ly sàn phẩm
cháy mà còn vào độ cháy không hoàn toàn về hỏa học nghĩa là có một số thành phần cháy được của
nhiên liệu đi theo khí thải.
Nguyên nhân chính gây nên tổn thất hay hiện tượng cháy không hoàn toàn hóa học là vì kết cấu
thiết bị đốt không hoàn chinh, nhiệt độ quá thấp, cấp nhiệt quá nhiều từ ngọn lửa cho vật liệu, tốc độ
chuyển động của khí quá lớn. Trong điều kiện như vậy, các phản ứng cháy không kịp hoặc không đủ
điều kiện thực hiện đến cùng. Cho nên cháy không hoàn toàn hóa học phụ thuộc nhiều vào sự tồ chức
quá trình cháy, chế độ nhiệt độ cháy và chế độ thông gió trong lò.
Việc tổ chức cháy nhiên liệu ở nhiệt độ thấp (900 4- 1000°C), mặc dù trộn không khí tốt, không
khí dư đạt yêu cầu vẫn có độ cháy không hoàn toàn lớn hom so với khi cháy ờ nhiệt độ cao. ờ nhiệt độ
cao tuy có sự phân ly sản phẩm cháy thành Hydro và co, nhưng đến đoạn nhiệt độ thấp 1500 4- 1600°C
chúng lại cháy và tỏa nhiệt.
Nếu cung cấp không khí đầy đủ, tổ chức cháy tốt thì sẽ hạ thấp mức độ cháy không hoàn toàn.
Nếu trong khí thải không được phép có mặt oxy tự do thì tổn thất do cháy không hoàn toàn là không thể
tránh được. Trường hợp này gọi là tổn thất hóa học của nhiên liệu.
74
Độ cháy không hoàn toàn cơ học cũng giảm lượng nhiệt tỏa ra vì khi đó một phần cháy của nhiên
liệu đọng lại trong xi và phải tiêu ton một phần nhiệt để đốt nóng chúng. Trường hợp này gọi là ton thất
cơ học cũa nhiên liệu.
Ngoài ra, khi cháy ngọn lửa sẽ cấp nhiệt cho vật liệu nung, tường lò Qf tổn thất nhiệt ra môi
trường xung quanh Qtt.
Vì những nguyên nhân trên, ngọn lửa có nhiệt độ cháy thực tế của nhiện liệu sẽ thấp hơn nhiều so
với nhiệt độ cháy lý thuyết nhưng nhiệt độ này cũng luôn luôn cao hơn nhiệt độ vật liệu nung và nhiệt
độ mặt trong của tường lò từ 50 100°C.
Khói lò trong lò nung có nhiệt độ không đồng đều theo thể tích, vì vậy khi tính toán xác định
nhiệt độ thực tế trung bình của khói lò ứng với zôn khảo sát theo công thức sau:
Các thông số Qt , Qf ,Qtt thực tế rất khó tính toán vì vậy người ta có thể xác định gần đúng qua
thực nghiệm bằng công thức sau:
tt = te . ĩ|p (2.40)
ĩ|p: Hệ số pyromet, hệ số này phụ thuộc vào dạng nhiên liệu, kết cấu lò và tìm trong bảng 2.5.
75
Vk< thể tích sản phẩm cháy m3/l đơn vị nhiên liệu;
CK: nhiệt dung riêng của sản phẩm cháy kcal/m3độ (Kj7m3 độ);
Lượng nhiệt lý học do không khí và nhiên liệu có khí cháy xác định bằng:
H/nh 2.2. Hàm nhiệt của khói lò theo nhiệt độ và hệ số không khí dư a.
Do đó, nhiệt độ của không khí và nhiên liệu (khí) trước khi vào cháy xác định theo phương trình:
t= °C (2.44)
La: thể tích không khí cần thiết để cháy một đơn vị nhiên liệu với hệ số dư a, m3/đv nhiên liệu;
Ckk.’ nhiệt dung riêng của không khí, Kj/m3 độ hay kcal/m3 độ;
cn: nhiệt dung riêng của nhiên liệu, Kj/m3 độ hoặc kcal/m3 độ.
Nếu nhiên liệu khí đã được đốt nóng sơ bộ hoặc ở lò khí hóa ra đã có nhiệt độ tn, thì nhiên liệu do
không khí mang vào phải có:
AQ, A
tick = °C (2.46)
Lackk
76
Bảng 2.6. Enthalpie hay hàm nhiệt của khí / = c.t (KJ/m~3) (Kcal/m3 = 4,187 KJ/m3)
77
Bảng 2.6. Enthalpìe hay hàm nhiệt của khí (tiếp)
Nhiệt độ tính toán ở trên là nhiệt độ tối thiểu mà không khí hoặc nhiên liệu khí phải đạt được.
Song trong thực tế nhiệt độ của không khí hay nhiên liệu khi được đốt nóng đến nhiệt độ cao hơn so với
tính toán. Kinh nghiệm đã chi rằng việc đốt nóng sơ bộ không khí và nhiên liệu khí không những đảm
bảo yêu cầu cần thiét của kỹ thuật mà còn tiết kiệm được nhiên liệu (xem chương 5). Có những nhiên
liệu nhiệt trị cao, thực tế không cần đốt nóng sơ bộ không khí vẫn đạt được nhiệt độ yêu cầu, nhưng vẫn
phải kiểm tra để đốt nóng sơ bộ không khí với ý thức tiết kiệm nhiệt của lò nung. Trong trường hợp đó
có thể điều chỉnh hệ số không khí dư cần thiết để lò không quá nhiệt.
78
Bảng 2.7. Enthalpie hay hàm nhỉệt của khí I = c.t kcal/m3
2.2.6. Tính toán quá trình cháy với không khí giàu oxy
Trong những năm gần đây việc sản xuất oxy lỏng hay khí đã giảm giá thành so với trước do công
nghệ đã khá hoàn thiện. Vì vậy trong một số lò nhất định, người ta đã dùng không khí giàu oxy để đốt
nhiên liệu. Như đã biết không khí thông thường chứa 21% oxy theo thể tích. Việc dùng không khí để
đốt nhiên liệu là việc bình thường. Tuy nhiên đi theo không khí là 79% khí nitơ và khí này đã không
mang lại lợi ích gì cho quá trình cháy mà còn gây khó khăn cho quá trình cháy. Mặt khác, khí nitơ còn
làm giảm hiệu suất sử dụng nhiên liệu vì khí nitơ mang nhiều nhiệt thải ra ống khói. Chính vì vậy,
79
người ta nghĩ đến việc sử dụng không khí giàu oxy nhằm nâng nhiệt độ lò lên dễ dàng, tăng trao đồi
nhiệt trong lò, tăng hiệu suất sử dụng nhiệt của lò, giảm tổn thất nhiệt do khói lò mang ra ngoài. Việc bổ
sung oxy vào không khí làm hàm lượng oxy có thể tăng lên đến 30% và hom thế nữa. Để tính toán quá
trình cháy với không khí giàu oxy, chúng ta vẫn sử dụng công thức tưomg tự như cháy hoàn toàn nhưng
với không khí có hàm lượng %Ơ2 tưomg ứng khi sử dụng để đốt nhiên liệu. Tuy nhiên phải dùng
phưomg pháp nội suy và coi rằng nhiên liệu được đốt băng hỗn hợp (không khí + O2). Sự khác biệt giữa
tính toán quá trình cháy với không khí giàu oxy thể hiện bằng các công thức dưới đây.
a) Lượng không khi giàu oxy lý thuyết với hàm lượng oxy trong không khí là oỉ % (> 2ỉ°/o)
(2.47)
CO, H2, CH4, C2H4, H2S, O2... Hàm lượng trong khí...% thể tích.
Ta vẫn áp dụng công thức như trường hợp cháy hoàn toàn như sau:
Lượng không khí khô dư so với lý thuyết được xác định bằng:
c) Lượng không khi ẩm ta vẫn dùng công thức bình thường nhu sau:
Lượng hơi nước cùng không khí giàu oxy để cháy 1 đơn vị nhiên liệu sẽ bằng:
Để tính lượng và thành phần sản phẩm cháy ta có thể sử dụng các công thức cho trường hợp
không khí thường. Điểm khác cơ bản ờ đây là lượng khí N2 và 02 sẽ xác định theo công thức sau:
80
VNz = 0,01(100 - O2z)La + 0,008 N1 m3/m3 hay m3/kg (2.54)
Tổng sản phẩm cháy va và thành phần của chúng tính tương tự như đối với không khí thường.
2.3. NỘI DUNG TÍNH QUÁ TRÌNH CHÁY KHÔNG HOÀN TOÀN
Trong thực tế lò công nghiệp có những trường họp xảy ra cháy nhiên liệu không hoàn toàn. Có
hai trường hợp cháy không hoàn toàn đó là cháy không hoàn toàn cơ học gây tổn thất cơ học và cháy
không hoàn toàn hóa học gây tổn thất hóa học đối với nhiên liệu. Việc cháy không hoàn toàn cơ học
thường xảy ra tại các buồng đốt than hay nhiên liệu rắn khác. Trong xi than hay tro trấu thậm chí trong
gạch trộn lẫn than thường còn một số than hoặc cacbon chưa cháy hết. Trong các lò đứng dùng than trộn
trực tiếp vào phối liệu để nung clinke xi măng, vôi, hay lò nung gạch đỏ sẽ có tổn thất hóa học nhiên
liệu do có rất nhiều khí co và khí cháy được hình thành bay ra ngoài cùng khói lò. Trong những điều
kiện đỏ việc tính toán quá trinh cháy sẽ phải thay đổi.
Trong phần này chỉ đề cập đến quá trình cháy không hoàn toàn nhiên liệu do có tổn thất hóa học
nghĩa là có khá nhiều khí co tạo thành. Sỗ có ba trường hợp cho như sau:
a) Cho lượng nhiệt tiêu tốn qx % so với nhiệt trị của nhiên liệu.
b) Cho hàm lượng % khí coz có trong sản phẩm cháy với hệ số không khí dư đã cho (đôi khi cho
co' + h2z).
c) Cho lượng không khí dư a < 1.
Q = qx.Q't (2.56)
Nhiệt trị của khí co bằng 3016 kcal/m3 nên thể tích khí co hình thành sẽ bằng:
Trong thực tế, khi cháy không hoàn toàn không phải chi có khí co mà còn có khí H2 kèm theo.
Thông thường tỷ lệ n = CO/H2 nằm trong khoảng 2-3.
81
Neu biết tỷ lệ n này thì lượng khí co và H2 tạo ra trong sản phẩm cháy được tính toán theo công
thức sau:
V = m3/m3 (2.63)
1 3016/1 + 2579
Trong trường hợp tổn thất qx là tổn thất cơ học nghĩa là than ra cùng xỉ và không có co hình
thành. Ta có thể xác định lượng cacbon tương ứng thoát ra cùng xi than theo công thức:
c’co = qxQ’t 10”2/ 8100 kg/kg nhiên liệu (2.64)
Các sản phẩm cháy khác được tính bình thường như quá trình cháy hoàn toàn.
2.3.2. Cho biết hàm lượng COc% trong sản phẩm cháy và hệ số a
Đầu tiên ta xác định lượng không khí lý thuyết để cháy nhiên liệu Lo, lượng sản phẩm cháy lý
thuyết và thực tế va theo các công thức ở trên đối với nhiên liệu khí và nhiên liệu rắn lỏng. Trong
trường hợp này, lượng sản phẩm cháy ở điều kiện cho được xác định theo công thức sau dưới đây.
Đối với nhiên liệu khí:
82
VN = 0,008 n'+ O,79aLo m3/kg (2.76)
VCO1 = 0,21 (a - 1) Lo + 0,5 Vco m3/kg (2.77)
Giá trị hệ số đặc trưng p đối với nhiên liệu rắn và lỏng:
83
Bảng 2.8. Công thức kỉnh nghiệm tính lượng không khí lý thuyết Lo m3/đơn ví nhiên liệu
và lượng sản phầm cháy Vi m3/đơn vị nhiên liệu
Nhiên liệu Không khí lý thuyết Lo Thể tích sản phẩm chảy Vj Ghi chú
Sử dụng các công thức trên kết hợp với nhiệt trị, Vị ta có thể tính nhanh nhiệt độ calo khi cháy
nhiên liệu với hệ số không khí dư a theo công thức sau:
tc = Q’t: [ViCk + Lo(a-l) ckk]
Giá trị nhiệt dung riêng kcal/m3 °C của khí ck và không khí Ckk như sau:
Nhiệt độ °C Ck Clck
1800-2100 0,40 0,35
1500- 1800 0,39 0,35
1200-1500 0,38 0,35
1000- 1200 0,37 0,34
700-1000 0,36 0,33
2.4.2. Tính lượng không khí bổ sung để khí giảm đến nhiệt độ cho
Trong điều kiện nhiệt độ ngọn lửa hay khí vào thiết bị nhiệt có nhiệt độ quá cao thì phải tìm cách
hạ nhiệt độ chúng xuống bằng cách pha thêm không khí lạnh vào. Điều này thường gặp trong các lò sấy
với ngọn lửa từ buồng đốt hay khí lấy từ lò nung sang có nhiệt độ tương đối cao so với yêu cầu.
Lượng không khí bổ sung được ký hiệu băng hệ số không khí ơbx và được xác định theo công
thức sau:
Trong đó:
T| - hệ số tác dụng hữu ích của buồng đốt và nằm trong khoảng 0,85 - 0,90. Đối với nhiên liệu
răn đốt trong ghi đốt hệ số này nhỏ hơn nhiều;
Lo - lượng không khí lý thuyết để cháy nhiên liệu;
a -- hệ số không khí dư tại buồng đốt;
va- lượng sản phẩm cháy ứng với a;
C2 - nhiệt dung riêng của sản phẩm cháy ứng với a tại nhiệt độ t2;
C2kk - nhiệt dung riêng của không khí ờ nhiệt độ t2;
t2 - nhiệt độ hỗn hợp khí.
84
Công thức trên có thể đơn giản hóa như sau:
(2.89)
C1 - nhiệt dung riêng của sản phẩm cháy ứng với nhiệt độ không khí;
ơ( = a + abx (2.90)
Trong trường hợp không dùng không khí lạnh mà dùng khói lò bổ sung để đảm bảo dòng khí có
nhiệt độ t2 như trên, ta sể cần X phần khói lò và được xác định theo công thức sau:
(2.91)
Neu a khi cháy cũng bằng a của khí hồi lưu thì tỷ lệ n = X + 1
Dùng khói lò hồi lưu để hạ nhiệt độ dòng khí sỗ cần lưu lượng khói lò nhiều hơn so với không
khí lạnh nhưng tổn thất nhiệt theo khói lò sỗ thấp hơn so với dùng không khí lạnh.
2.4.4. Hồi lưu sản phẩm cháy để hạ nhiệt độ cháy của nhiên liệu
Có nhiều lò nung ở nhiệt độ thấp nhưng nhiệt trị nhiên liệu lại quá cao, người ta cỏ thể dùng hệ
số không khí dư lớn. Tuy nhiên ngọn lừa cháy có thể còn quá cao và có thể ngọn lửa đó tiếp xúc trực
tiếp với sản phẩm nung và làm hỏng chúng. Trong trường hợp này, hợp lý hơn cả là hồi lưu một phần
sản phẩm cháy (khác với khói lò có nhiệt độ thấp) để vừa hạ nhiệt độ cháy vừa giảm tiêu tốn nhiên
liệu. Mặt khác, nếu là nhiên liệu lỏng thì quá trình khí hóa chúng cũng được tiến hành nhanh và dễ
dàng hơn, do đó quá trình cháy cũng dễ hợn. Khi hồi lưu một phần sản phẩm cháy sẽ làm tăng hệ số
85
pyromet hay hạ nhiệt độ calo xuống. Phần sản phẩm cháy cần thiết tính theo 1 đơn vị nhiên liệu để
trộn với nhiên liệu:
X= Q
* C^c ) (2.93)
Trong đó te là nhiệt độ calo yêu cầu được xác định theo công thức sau:
tc ( tnung + At ): TỊ (2.94)
At - khoảng nhiệt độ khí cao hơn nhiệt độ nung, thường bằng 40 - 50°C;
2.4.5. Tính cân bằng vật chất của quá trình cháy
Thiết lập cân bằng vật chất của quá trình cháy nhằm kiểm tra độ chính xác của các tính toán quá
trình cháy. Nói khác đi là kiểm fra các số liệu thu được về lượng không khí, lượng sản phẩm cháy sản
sinh ra trong tính toán. Nếu không xác lập được cân bằng thì có nghĩa là những tính toán về sản phẩm
cháy cũng như lượng không khí đưa vào ngọn lửa là không đúng và phải tính lại.
Để thiết lập cân bằng vật chất chúng ta dùng hệ thức sau:
Các giá trị Gn; Gkkỉ Gkỉ Gt là khối lượng 1 đơn vị nhiên liệu, không khí, sàn phẩm cháy và tro xỉ
tương ứng và được tính bằng kg/đơn vị nhiên liệu.
Nhiên liệu rắn hay lỏng 1 đơn vị thường dùng kg, với nhiên liệu khí cũng phải chuyển đổi thành
khối lượng kg. Lượng sản phẩm cháy khi tính toán là thể tích thì trong tính cân bằng vật chất cũng phải
đổi sang khối lượng kg. Để tính khối lượng khí, ta có thể dùng công thức tổng quát sau:
Ỵk- khối lượng riêng của hỗn hợp khí và nhiên liệu khí, kg/m3.
Yk = !><%’■
Yi - khối lượng riêng của khí i, kg/m3;
%i - % khí tương ứng trong hỗn hợp khí (xem bảng 2.9).
86
Bảng 2.9. Khối lượng riêng, nhiệt trị và phản ứng chảy của khí
CH
* =87,64%
C2Hk6 = 3,05%
CjH
* = 1,14%
C4Hk0 = 0,29%
C5HỊ2 = 1,46%
*
cơ =3,4%
* =3,02%
/V
87
Cách 1. Dùng công thức.
c2
2626
H'6
= c2H
* X1
100
2-2--
- = 3,05X1(tò 1 = 3,02%
100
CaH‘w = CAHk
w x10^-—-0,29 X122-1-= 0,28 %
4 10 4 10 100 100
5 12
* 2X
C5 w,'2 = C5W
5 12
122--
100
— = 1,46 X122-1
100
= 1,44 %
cơ' = cơ
2
*
2
x 2100
*2 = 3,4x122-1 = 3,37%
100
*!
up =L^ = 0,0016 X dX =0,0016 X d X a X Lq =0,0016 X 16 X 1,7 X 9,67 = 0,42 m3/m3
4. Tính lượng sản phẩm cháy tương ứng:
* Với a1=l,15
88
VCỠ2 = 0,01x(3,37 + 86,78 + 2x3,02 + 3x1,12 + 4x0,28 + 5x1,44) = 1,08 m3/m3
V„2Ỡ =0,01 x(2x86,78+ 3x3,02+ 4x1,12 +5x0,28+ 6x1,44 + 1)+ 0,285 = 2,266 m3/m3
v„2 = 0,01 XN2 +0,79xLa< =0,01x3 + 0,79x11,12 = 8,815 m3/m3
=>VƠ1 = VCO2 + VH2O + VN2 +Vo2 =1,08 + 2,266 + 8,815 + 0,305 = 12,466 m3/m3
Thành phần phần trăm của sản phẩm tương ửng là:
co, =
2 Vữi
X100% = -J’?8 ■
12,466
x 100% = 8,66%
89
1. Lượng không khí lý thuyết:
* Với ax =1,15
2. Lượng không khí khô thực tế:
vcoc
>
iẹ^z=l,08 m>
100
= 19 ~ + 0.285 = 2,265 m3
"2° 100
K = ị^ + 0,79x11,12 = 8,815 m3
2 100
%H22O = Ậ^xlOO
12,465
= 18,17%
90
* Với a = 1,7
Lượng không khí khô thực tế là:
107,87
= 1,08 m3
100
2 99
v„ = + 0,79x16,44 = 13,02 m3
100
%fLO
2
= Ậ^-x 100 = 13,4%;
17,922
%ơ2 = I’42* X100 = 7,93%
2 17,922
Cân bằng vật chất quá trình cháy để kiểm tra kết quả tính
* Với a = 1,15
Khối lượng của khí thiên nhiên:
91
1 on’251 = °’037 (kg):
G„"2 = 2,99,nl H20 = 1X^
G",0 ỵ nn = 0,008 (kg)
Gk = 0,622 + 0,041 + 0,023 + 0,008 + 0,046 + 0,067 + 0,037 + 0,008 = 0,852 (kg)
^g^Axl00J5.427-15.412xl0o= a
Gv. 15,412
* Với a = 1,7
Khối lượng không khí để đốt cháy là:
92
Tổng khối lượng đầu ra:
£=
Gr-Gv xioo = 22,386-22,37 x 100 = 0,07%
Gv 22,37
Ta có công thức:
Hl = Hc X
'\00-AL-ỈVL'
. ĩõõ .
SL 'ìQ0-AL-WL'
100
Thay số ta có:
CL = 82,195 (%)
HL = 11,0238 (%)
SL = 3,0944 (%)
93
Chọn thành phần thể tích của N2= 02
Nl =0,1934 (%)
Al = 0,3 (%)
WL = 3 (%)
2. Lượng không khí lý thuyết để đốt cháy nhiên liệu: Lo
Để tính lượng không khí cần thiết để đốt cháy nhiên liệu ta đưa vào phương trình cân bằng
vật chất của các phản ứng cháy. Khi tính toán ta lấy thành phần thể tích của không khí là: N2 = 79%
vàO2=21%.
Với nhiên liệu lỏng ta áp dụng công thức:
CL, Hl, Ol,Sl- Hàm lượng của nhiên liệu làm việc.
Thay số ta có:
3. Lượng không khí thực tế thường cao hơn so với lý thuyết vì dễ cháy hoàn toàn nhiên liệu
bao giờ cũng phải cung cấp lượng không khí hơi dư một chút. Do đó lượng không khí thực tế được
xác định bằng:
La=axL0
Với a là hệ số dư không khí.
Thay số ta có:
♦Với aỵ =1,15
* Với a2 = 1,7
£'=(l + O,OO16.ư)xLo
chọn d = 18 (g/kgkkk)
94
Thay số ta cỏ:
Lượng không khí ẩm thực tế để đốt cháy một đơn vị nhiên liệu bằng:
Thay số ta có:
J’... - ^a\
LDU\
/ 'ĩ ' ^01
Thay số ta cỏ:
Lượng hơi nước trong không khí vào cháy nhiên liệu sẽ bằng:
H2Okk=L'a-La
Thay số ta có:
b) Khi a2 = 1,7
Tương tự ta có:
Lượng không khí ầm lý thuyết đề đốt cháy 1 đơn vị nhiên liệu bằng:
Lượng không khí ẩm thực tế để đốt cháy một đơn vị nhiên liệu băng:
Thay số ta có:
7/, - 7/
ndu2 - L-‘a2
7'
- ^02
Thay số ta có:
Lượng hơi nước trong không khí vào cháy nhiên liệu sẽ bằng:
H = — La2
95
Thay số ta có:
4. Tính lượng sản phẩm cháy tương ứng với giá trị ax, a2
Khi cháy nhiên liệu hoàn toàn thì những sàn phẩm cháy thu được đều ở dạng khí như co2, H2O,
N2, O2, và còn thêm cả SO2 vì nhiên liệu lòng có chứa s.
Áp dụng công thức tính đối với nhiên liệu lỏng:
VCŨ2 = 0,01855 xơ
VSO2 =0,007x5'
VH2Ũ = 0,1 Ỉ2.H' +0,0124.ỢƠ + 100.17, ) + 772ơw
v„2 = 0,79.Ảo+0,008.V'
7O; =0,21.(a-l)A
ya=yCo2+ySo2+yH2o+^2^o2
Thay số ta có:
96
5. Tính thành phần sản phẩm cháy tương ứng:
97
2. Lượng không khí lý thuyết cần cho quá trình cháy:
1 kmol KK có thể tích là 22,4 m3, không khí chứa 21% O2:
9,69625 kmol O2 cần thiết thì cỏ thể tích không khí lý thuyết là:
La = a X Lo
Lượng không khí ẩm cần để cháy 1 đơn vị nhiên liệu là:
Chọn d = 18 ta có:
Thay số
♦Khi a,= 1,15:
Lượng hơi nước trong không khí vào cháy nhiên liệu:
Lượng hơi nước trong không khí vào cháy nhiên liệu:
4. Tính lượng sản phẩm cháy tương ứng với các giá trị Oi và 02 đã cho:
Thể tích sản phẩm cháy:
»/7,0
*22,4
+ H1Okk
100
98
* Khi d! = 1,15: n = -5’-91?,22-- + 0,3426 = 1,52778 (m3/kg)
H2° 100
* Khi a2= 1,7: ' * ’ + 0,50638 = 1,69156 (m,3/kg)
o = 5.291x22.4
"2° 100
x22,4 0.0967.22.4
Vss„°2 = H 100 100
_______
’ = 0,0217 (m3/kg)
Khi di = 1,15: va= 12,8075(m3/kg). Tính theo công thức va= 12,76 (m3/kg).
Khi Ct2 = 1,7: va= 18,65976 (m3/kg). Tính theo công thức va= 18,54 (m3/kg).
5. Tính thành phần sản phẩm cháy tương ứng:
Thay so ta CỎ:
* Với =1,15:
%ơ = °42---8-
= 0,0255.
12,8075
* Với a2 = 1,7:
%co2 = = 0,0822; °/0SO2 = ' °’0717 = 0,0012
18,65976 18,65976
99
%h2o = -J?g156. - = 0,0907; %Ky = 12,8918 = 0,7445
18,65976 2 18,65976
%o2= = 0,0814.
18,65976
Gni = 100(Kg)
1656,6024-1659,9441
= 0,2%
1656,6024
♦ Vớia= 1,7:
Tổng khối lượng đầu ra:
Gtro = 2 (kg)
=> Gỵ= 2402,6636 (kg)
100
Tổng khối lượng đầu vào:
G„1 = 100(kg)
2402,6636-2406,0185
ố% =
2402,6636
Ví dụ 3: Tính quá trình cháy khí thiên nhiên với không khí nhiệt độ cao.
Lấy hàm lượng hơi ẩm trong khí là 1 %, thành phần khí ẩm sẽ là:
Thành phần khí còn lại hầu như không thay đổi.
= 35485 (Kj/Nm3)
= 8477,07 (Kcal/Nm3)
101
- Xác định lượng không khí cần thiết
Lượng không khí khô (kkk) lý thuyết để cháy theo công thức:
VH2o = 0,01 X(2x 93 + 3 x 1,2+ 4 X 0,7 + 5 X 0,4+ 6 X 0,2+ 1,0 + 0,16 X 20 X 11,3)
= 2,328 Nm3/Nm3
8,953x100 0,396x100
= 3,12%
Nz= 12,68 12,68
Tổng: 100%
Thiết lập cân bằng vật chất quá trình cháy.
Để thiết lập cân bằng vật chất, ta hãy dùng khối lượng riêng cùa khí ở điều kiện chuẩn cho trong
bảng, để chuyển từ Nm3 sang Kg.
Cân bằng vật chất quá trình cháy 100 Nm3 khí thiên nhiên trên với hệ số không khí dư a = 1,2.
102
Bảng 2.11. Cân bằng vật chất quá trình cháy
Kào Kg Ra Kg
Khí thiên nhiên Sản phẩm cháy
CH4 = 93 X 0,717 66,58 co2= 1,003 X 100 X 1,977 198,5
C2H6= 1,2 X 1,356 1,63 H2O = 2,328 X 100 X 0,804 187,17
C3H8=0,7 X 2,02 1,41 N2= 8,953 X 100 X 1,251 1120,63
C4Hio = O,4 X 2,84 1,13 02 = 0,396 X 100 X 1,429 56,50
C5H12=O,2 X 3,218 0,64 Lệch -0,72
CO2=0,2 X 1,977 0,39
N2=3,3 X 1,251 4,13
H2O = 1 X 0,804 0,8
Không khí
02= 197,9 X 1,2 X 1,429 339,8
N2= 197,9 X 1,2 X 3,762 X 1,251 1116,5
H20 = 0,16 x 20x 11,3 x 0,804 29,07
í
Tổng 1562,08 Tông 1562,08
35485 11,66x1110
i = 12,68 + 12,68 = 3810 (Kj/Nm3)
= 910,18(Kcal/Nm3)
ỉ
Theo giản đồ -1 hình 2.2 ta tìm được nhiệt độ cháy lý thuyết ứng với a = 1,2 là khoảng t = 2200°C.
i
Đẻ xác định chính xác nhiệt độ này cần phải dựa vào Enthalpi hay hàm nhiệt của khí (bảng 2.6
ì i
và 2.7, = c.t) ờ nhiệt độ ti = 2200°C và t2 = 2300°C. Giá trị ở nhiệt độ độ ti = 2200°C và t2 = 2300°C
được tính theo bảng sau:
Khi t] = 2200 Khi t2 = 2300
co2= 0,0791 X 5387 = 426,1 co2= 0,0791 X 5658,7 = 447,6
H2O = 0,1836 X 4402,2 = 808,2 H2O = 0,1836 X 4643,8 = 852,6
N2= 0,7061 X 3289,3 = 2322,6 N2= 0,7061 X 3452,6 = 2437,9
103
ii = 3665,6 (Kj/Nm3) i2 = 3852,2 (Kj/Nm3)
Qt + ỉ‘tx L’a + *’k = zco2 x VCOj + ZH2O x ^h2o + zn2 x VNỉ + Íq2 X VO2 Kj/Nm3
Trong đó Vco2 > Vh2o> ^n2 > vo2 đo băng Nm3/Nm3 nhiên liệu.
Tuy nhiên phương pháp này cũng chưa tìm được nhiệt độ cháy thực tế mà chỉ tìm được nhiệt
độ calo. Đe xác định nhiệt độ cháy thực te, ta tính ngay hàm nhiệt của sản phẩm cháy với hệ số
pyromet r| = 0,8. Khi đó hàm nhiệt của sản phẩm cháy sẽ bằng:
Theo giàn đồ i -1 hình 2.2 ta xác định nhiệt độ cháy thực tế ứng với a = 1,2 như trên và cho kết
quảttt= 1840°C.
Ví dụ 4: Tính quá trình cháy than bụi
Thành phần cháy của nhiên liệu như sau:
Cc H® oc N° sc Tổng
Độ fro theo thành phần khô Ak = 24%, độ ẩm làm việc W1 = 2,0%, hệ số không khí dư a = 1,2.
Nhiệt độ của không khí 2 (gió 2 của lò quay là 70% lượng không khí cần để cháy than) bằng 400°C.
Lượng không khí 1 (theo vòi đốt hay ống phun than) chiếm 30% ở nhiệt độ thường.
Giải.
Xác định thành phần làm việc cùa than.
104
Thành phần làm việc của than:
c1 H' N1 o’ s1 A' w'
= 5669,37 (Kcal/Kg)
Lượng không khí khô lý thuyết:
105
Bảng 2.12. Căn bằng vật chất quá trình cháy 100 kg than với a = 1,2
122^1=0,057%
1073
23732 . n _ 7,65x535,9
i= + 0,7 X--- _ ---- = 3342 (Kj/Nm3)
7,959 7,959
= 798,37 (Kcal/Nm3)
= 598,78 (Kcal/Kg)
Theo giản đồ i-1 ta tìm được nhiệt độ cháy thực tế ttt = 1570 °C.
Ví dụ 5. Tính quá trình cháy của hỗn hợp nhiên liệu
Nhiên liệu cỏ thể đốt trong lò dưới dạng hỗn hợp hai khí hoặc hai trong ba dạng răn, lỏng và khí.
Việc cháy hỗn hợp này nhăm đảm bảo nhiệt cháy hoặc hàm lượng chất bốc hay độ tro xi... Vì vậy cần
phải biết cách tính quá trình cháy của hỗn hợp nhiên liệu.
Thành phần hỗn hợp hai nhiên liệu rắn cũng như khí xác định theo công thức sau:
C'CM =axC,'+(l-a)xC'%
Giá trị a =. . . - phần nhiên liệu B1 trong hỗn hợp
Bì+B2
106
Đề xác định B1 và B2 cần xuất phát từ lượng nhiệt cháy cần thiết hoặc hàm lượng tro xỉ cũng như
chất bốc cần có...
Ví dụ: Cần tính thành phần hỗn hợp 2 nhiên liệu làm sao để nhiệt trị của hỗn hợp này đạt 21.770
kj/kg khi nhiệt trị nhiên liệu 1 bằng 27.200 kj/kg và nhiên liệu 2 bằng 20.000 kj/kg.
Như vậy cần hỗn hợp than 1 bằng 24,6%; than 2 bằng 75,4%.
Lượng không khí cần thiết để cháy nhiên liệu có thể tính theo thành phần của hỗn hợp nhiên liệu
hoặc một của nhiên liệu khí một của nhiên liệu rắn.
Nhiệt độ cháy của nhiên liệu cũng tính theo nhiệt cháy của hỗn hợp.
Lượng không khí tiêu tốn, thể tích sản phẩm cháy cũng như hàm nhiệt của chúng có thể xác định
riêng rẽ cho từng loại nhiên liệu sau đó tính theo tỷ lệ hỗn hợp.
Ví dụ 6. Tính quá trình cháy hỗn hợp nhiên liệu lỏng và khí
Tính quá trình cháy cho vòi đốt hỗn họp khí than và mazut với hệ số không khí a = 1,2; lượng
mazut cần đốt 0,1 kg cho 1 Nm3 khí than; nhiệt độ không khí để đốt nhiên liệu là 400°C.
Các số liệu đâ tính toán như sau:
Nhiệt trị của khí than bằng Qtl = 5860 (Kj/Nm3) = 1399,9 (Kcal/ Nm3)
của mazut QtM = 40400 (Kj/ Nm3) = 9651,2 (Kcal/ Nm3)
Lượng không khí lý thuyết để cháy khí than - 1,22 Nm3 /Nm3; của mazut - 10,55 Nm3/kg.
Giải.
Lượng không khí lý thuyết để cháy hỗn hợp nhiên liệu xác định bằng công thức sau:
Nm3/Nm3
Thể tích sản phẩm cháy được tính cho mỗi loại khí như sau:
*
v
'= 2,265 Nm3/Nm3;V" = 13,33 Nm3/kg...
Thề tích sản phẩm cháy cùa hỗn hợp nhiên liệu:
107
Nhiệt của sản phẩm cháy khi hàm nhiệt của không khí bằng:
i kk’ = 535,9 (Kj/Nm3) = 128 (Kcal/ Nm3)
. CM .QỈ + g
*
Q? L
*
+i» CM
i a yCM (Kj/Nm)
Nhiệt độ khí than cốc t = 30° và nhiệt độ khí lò cao t = 25°c. Tính tỷ lệ hỗn hợp khí để đảm bảo
nhiệt độ cháy 1650°C với nhiệt độ không khí để cháy là 800°C.
Giải.
Đầu tiên phải tính thành phần làm việc của hai loại nhiên liệu khí này.
Nhiệt độ khí than lò cổc là 30°C nên lượng hơi nước bão hoà như bảng 2.2 đã chì sẽ bằng
W = 35,l&T4m3.
lOOxw _ 3510
H2O =
804 + 839,1
108
Thành phần làm việc khí than cốc, %
54,6 6,2 21,8 2,6 0,4 2,2 0,8 7,2 4,2 100
Tương tự nhiệt độ khí lò cốc 25°c nên hàm lượng hơi nước bão hoà bằng 26,0 g/Nm3 (bảng 2.2)
và thành phần khí lò cao ẩm sẽ bằng:
^ = 3,1%
H2O =
804 + 26
= 3841,4 (Kcal/Nm3)
Nhiệt trị của nhiên liệu khí ẩm từ lò cao:
_ + aì<LKaxỉKK+ạ-a)xLcaxiKK
axK/+(i-ữ)/ac
LKa : lượng không khí cần thiết để cháy khí than cốc khi a = 1,1; Nm3/Nm3;
L ca : như trên, đối với khí lò cao;
* : thể tích sản phẩm cháy ứng với khí lò cốc, Nm3/Nm3;
V
V ca : thể tích sản phẩm cháy ứng với khí lò cao, Nm3/Nm3;
109
Từ công thức trên ta sẽ tìm được giá trị a.
Chúng ta xác định lượng không khí cần thiết để cháy khí than cốc theo công thức đã cho:
L
=l,lx3,88
* = 4,27 Nm3/Nm3
Vh2o = 0,01 X (54,6 + 2 X 21,8 + 2 X 2,6 + 0,4 + 4,2 + 0,16 X 20 X 4,27) = 1,22 Nm3/Nm3;
110
fl X16080 4-(l-fl)x 3810 4- fl x4,27x1 106,6 + (l-fl)x 0,81x1106,6
fl X 5,1 + (1 — fl) X 1,687
Giải ra ta sẽ tìm được giá trị a = 0,185 nghĩa là 18,5 % trong hỗn hợp cần phải là khí lò cốc và
81,5% là khí lò cao.
Ví dụ 8. Tính toán quá trình cháy của khí thiên nhiên tại Mỏ Rồng
Thành phần (%) 84,77 7,22 3,46 1,76 1,30 0,79 0,70 -
- Hàm lượng % của hơi nước trong thành phần làm việc của nhiên liệu khí.
Ta có: HíO-100xW(%)
2 804 +w
- Chuyển từ thành phần khô sang thành phần làm việc của nhiên liệu khí ta có:
CH4' =ch/
100
- Tính tương tự với các thành phần khí khác ta có bảng thành phần làm việc của nhiên liệu khí tự
nhiên như sau:
111
Sản phẩm cháy
Phàn ứng cháy Ũ2Cần
Khí m3 (m3)
(m3)
co2 H2O n2
CHí 82,41 CH4+2O2 = CO2+2H2O 164,82 82,41 164,82
C2H6 7,02 C2H6+3,5O2 = 2CO2+3H2O 24,57 14,04 21,06
c3h8 3,36 C3H8+5O2= 3CO2+4H2O 16,80 10,08 13,44
C4H10 1,71 C4H10+6,5O2 = 4CO2+4H2O 11,12 6,84 8,55
n2 0,68 0,68
- Lượng không khí khô (kkk) lý thuyết cần thiết để đốt cháy 1 m3 nhiên liệu khí.
T 227,39x100 1AOO/ 3, 3.
Lo =—' — = 10,83 (m3/m3)
0 21x100
- Ở Việt Nam độ ẩm tương đối trung bình là ọ = 80% nên lượng hơi nước có trong không khí
khô thực tế là: X = w X 0,8 = 23,04 X 0,8 = 18,43 (g/m3kkk)
Ta cỏ khối lượng riêng của hơi nước là p = 0,804 (Kg/m3)
- Lượng hơi nước ứng với lượng không khí khô thực tế cần đốt cháy lm3 nhiên liệu là:
- Lượng sản phẩm cháy khi đốt lm3 nhiên liệu khí:
112
VN, = + L X 0,79 = 9,42 (m3/m3)
V vn
%VN = 4^ = 70,78 %; %vn.= 44-= 1,71 %
Vva °2 Vva
- Lượng hơi nước ứng với lượng kkk thực tế cần đốt cháy 1 m3 nhiên liệu là:
V V
% = 44^- =4,18 %; %v„ o = 44^ = 9,73 %
co2 ỵ H2U y
va va
V V
_ =74,25 %; %VO = 44 =11,84%
N2 V °2 V
a a
113
CHƯƠNG 3
Việc lựa chọn nhiên liệu để dùng trong lò công nghiệp phải căn cứ trên cơ sở kinh tế và kỹ thuật.
Trong trường hợp nhiên liệu khí thiên nhiên không có, nhiên liệu lỏng khó cung cấp hoặc quá đắt, thì
phải sử dụng nhiên liệu rắn. Song nhiên liệu rắn không đảm bảo những yêu cầu kỹ thuật đối với những
sản phầm và kết cấu của lò thì phải biến nhiên liệu rắn thành nhiên liệu khí. Vậy quá trình khí hóa là quá
trình biến nhiên liệu rắn thành nhiên liệu khí. Quá trình này chỉ cần khi những sản phẩm nung hay nấu
của ta và thiết bị lò đòi hỏi phải đảm bảo những yêu cầu về mặt kỹ thuật. Lò khí hóa than đã có từ lâu và
phát triển mạnh ở châu Âu song các lò này đã được phế bỏ vào thập niên 60 của thế kỷ trước do nhiều
nguyên nhân trong đó có vấn đề môi trường và cháy nổ. Hiện nay các nước đang phát triển như Trung
Quốc đã xây dựng rất nhiều lò khí hóa than với kích cõ khác nhau và một số cơ sờ sản xuất của nước ta
cũng có lò khí hóa nhỏ nhằm thay thế gas lỏng LPG hay diesel DO.
Trên thế giới còn có khí hóa nhiên liệu lỏng nghĩa là biến nhiên liệu lỏng thành nhiên liệu khí.
Quá trinh này không được phổ biến lắm và chỉ dùng trong trường hợp đặc biệt mà thôi.
114
thành khí CO2 và co, hơi nước phản ửng với cacbon để thành khí co và hydro. Những khí co, H2O
mới tạo thành lại cháy trong dòng khí đề thành CO2 và H2O vì trong dòng khí vẫn còn oxy. Càng lên
phía trên lượng oxy càng giảm, cuối cùng không còn nữa. Vì vậy hàm lượng khí co và H2 ngày càng
tăng. Đen zôn khừ khí CO2 và H2O tác dụng với cacbon đỏ để tạo thành co và H2.
Như vậy ờ zôn khử, hàm lượng co và H2 khá cao. Các phản ứng oxy hóa đều tỏa nhiệt, nhiệt này
sẽ cung cấp cho các phản ứng khử và đốt nóng than cốc và khí. Tốc độ phản ứng trong zôn khử phụ
thuộc rất nhiều vào mức độ chuẩn bị nhiên liệu, nghĩa là mức độ trừ bỏ hoàn toàn hơi ẩm và chất bốc.
Nếu nhiên liệu càng ẩm, càng chứa nhiều chất bốc thì thời gian nằm ờ zôn khí hóa càng lâu. Ngoài ra,
các phản ứng trên phụ thuộc khá nhiều vào nhiệt độ, nhiệt độ càng cao, các phản ứng khử tiến hành
càng mạnh. Ờ nhiệt độ 1000°C thì hầu hét khí CO2 bị khử thành khí co, cho nên nhiệt độ ờ zôn khí hóa
phải duy trì ờ khoảng 1000°C.
Như vậy khí than nhận được là do các phản ứng xảy ra tại zôn khí hóa cộng thêm các khí nhận
được từ zôn chưng khô. Song thành phần của khí lúc đi ra khỏi zôn khí hóa có vài sự biến đồi. Một số
khí CO và H2 có tham dự vào việc tạo ra một số sản phẩm tổng hợp ờ dạng lỏng và CH4. Ngoài ra, ờ
phần trên của lớp nhiên liệu có thể tiến hành phản ứng 2CO -> CO2 + c. Những sự biến đồi này có ý
nghĩa lớn nếu ờ đó có chất xúc tác. Chất xúc tác có thể do từ bên ngoài vào lò hoặc có ngay trong tro
nhiên liệu và lớp gạch lót lò. Ví dụ oxit sắt là chất xúc tác cho phản ứng 2CO —> co2 + c. Trong điều
kiện thông thường của kỹ thuật, những sự biến đổi này có thể bỏ qua.
Khí than sản sinh ra sẽ chứa nhiều loại khí khác nhau đồng thời mang theo khá nhiều bụi xi và bồ
hóng. Cho nên trước khi dùng cần phải gia công khí than, tức là làm sạch khí.
Tùy theo tác nhân khí hóa mà chúng ta có thể có các loại khí than khác nhau. Chúng ta hãy khảo
sát những loại khí than đó.
115
a) Khí than khô
Khí than khô là khí nhận được khi tác nhân khí hóa là không khí. Tại zôn khí hóa sẽ tiến hành
các phản ứng sau: 4,187 kJ = 1 kcal.
Thành phần khí than nhận được theo phản ứng (3.2) như sau:
79
CO = —ẰỹặlOO = 34,7%; N 2 = -^ỹặioo = 65,3%
2 + tt 2 + ^-
21 21
Phản ứng (3.1) và (3.2) tiến hành đến tận cùng còn (3.3) và (3.4) tiến hành thuận nghịch. Đa số
những phàn ứng trên là phản ứng tỏa nhiệt, điều đó dẫn tới tăng nhiệt độ trong zôn khí hóa, kết quà các
mẩu than cốc bị mềm ra và xi nóng chảy để tạo thành những cục xi lớn. Vì vậy việc phân bố không khí
theo toàn bộ lớp nhiên liệu bị phá vỡ làm quá trình khí hóa trở nên kém đi.
Ở phần dưới zôn khí hóa frong phạm vi oxy hóa, nồng độ oxy cao hơn, nên tiến hành các phản
ứng oxy hóa hoàn toàn và một phần không toàn toàn, khí co tạo thành gặp oxy tự do sẽ cháy thành
co2. Đến zôn khử, co2 tác dụng với than cốc nung đỏ để tạo ra khí co là thành phần cháy chính của
khí than khô. Neu khả năng phản ứng của than cốc càng cao thì sự phân hủy co2 càng mạnh và khí
càng giàu khí co. Ngay cả trong trường hợp nhiệt độ zôn khử hạ thấp dưới 1000°C.
Khí than ướt là khí nhận được khi tác nhân khí hóa than là hơi nưức. Trong zôn khí hóa sẽ tiến
hành các phản ứng sau:
Phản ứng phân hủy hơi nước kèm theo thu nhiệt, cho nên nhiệt độ càng cao thì phản ứng phân
hủy hơi nước càng mãnh liệt và chủ yếu theo phản ứng (3.5). Sự phân hủy này còn phụ thuộc vào hoạt
tính của nhiên liệu. Khí co2 thu được ở các phản ứng (3.6) và (3.7) sẽ tác dụng với than cốc nung đỏ ở
zôn khử nằm phía trên zôn khí hóa để tạo thành khí co.
Phản ứng tạo thành khí than ướt đòi hỏi phải cung cấp nhiệt, vì vậy khi sàn xuất khí than ướt
người ta phải làm như sau: đầu tiên ta thổi không khí vào lò, ở zôn khí hóa thực hiện các phản ứng khí
than khô, do đó nhiệt độ tăng lên. Sau đó ta ngừng và thổi hơi nước vào lò, các phản ứng khử than ướt
116
tiến hành và nhiệt độ zôn khí hóa hạ thấp. Đen mức độ nào đó lại thổi không khí và lò và quá trình lại
lặp lại như trên. Trong giai đoạn thổi không khí vào lò, khí than khô nhận được có chất lượng rất kém,
cho nên người ta đưa khí đó dùng vào mục đích khác. Trong giai đoạn thổi hơi nước vào lò, chất lượng
khí than thay đổi theo thời gian vì nhiệt độ zồn khí hóa dần dần hạ thấp. Cho nên thành phần khí than
biến động nhiều và phụ thuộc vào hoạt tính cũng như nhiệt độ lớp nhiên liệu trong lò.
Khí than ướt chủ yếu chứa co và hydro, ngoài ra còn chứa một lượng không lớn CƠ2, N2, CH4.
Thành phần khí than ướt đi từ than cốc thực té như sau (%): CO2 = 7; co = 40,8; CH4 = 0,8; H2 = 48,5;
N2 = 2,9.
Nhiệt trị của khí than ướt thường cao hơn nhiều so với khí than khô và có giá trị trung bình gần
2543 kcal/m3.
c) Khí than lẫn hay khí than hỗn họp
Khí than lẫn là khí than nhận được khi tác nhân khí hóa là hỗn hợp không khí với hơi nước.
Chúng ta biết rằng khi sản xuất khí than khô, nhiệt độ zôn khí hóa tăng quá cao. Vì vậy xỉ dễ đóng tảng
và kết quả là làm quá trình khí hóa giảm chất lượng. Ngược lại khi sản xuất khí than ướt ta phải cung
cấp nhiệt cho lò để chúng thực hiện những phản ứng khừ. Đe dung hoà hai loại khí than trên, người ta
đồng thời cho không khí và hơi nước vào lò khí hỏa. Hơi nước đóng vai trò chất phụ gia cho không khí,
làm giảm nhiệt độ của zôn khí hóa. Vì vậy, bên cạnh việc tạo ra khí than khô, ta lại có được khí than
ướt. Hỗn hợp hai khí này sẽ có chất lượng cao hơn khí than khô, song lại kém khí than ướt.
Tại zôn khí hóa, lúc đầu cacbon cháy thành CO2 và co hơi nước tác dụng với cacbon để tạo
thành CO và H2. Trong dòng khí bao quanh cục than còn chứa nhiều oxy, nên co và H2 cháy thành co2
và H2O. Càng lên cao, nồng độ co và CO2 càng tăng, nhưng nồng độ oxy càng giảm. Cuối zôn oxy hóa,
nồng độ oxy trở nên vô cùng nhỏ, CO2 cao, co tăng vọt lên. Trong zôn khử CO2 và H2O lại khử thành
CO và H2.
Hơi nước vào zôn oxy hóa sẽ giảm nhiệt độ của zôn này bời các phản ứng thu nhiệt. Cho nên
nhiệt độ bề mặt của nhiên liệu thấp hơn nhiều so với nhiệt độ của khí, vì trong dòng khí có hiện tượng
cháy CO và H2. Ket quả tránh được việc đóng tảng của xỉ và làm quá trình khí hóa được thuận lợi hơn.
Nếu nhiệt độ zôn khí hóa ngày càng cao, sự bao phủ khí quanh hạt nhiên liệu càng đều và mãnh
liệt, bề mặt tiếp xúc giữa khí và nhiên liệu càng lớn thì sự phân hủy hơi nước và khí CO2 càng hoàn
toàn, khí tạp trong khí than càng ít, nhiệt trị của khí than và cường độ khí hóa càng cao.
Nhiệt độ khí lúc ra khỏi zôn khí hóa đối với than hoạt tính như than củi, than bùn, than nâu
khoảng 800 4- 900°C và đối với than kém hoạt tính như than đá, antraxit khoảng 1000 4- 1200°C. Nếu
hơi ẩm của nhiên liệu vào zôn khí hóa rất nhô, thì cần dùng 250 4- 300 g hơi nước cho 1 kg cacbon khí
hóa để hạ thấp nhiệt độ zôn này. Đẻ tránh tạo tảng xi từ tro xỉ dễ chảy, người ta thường dùng 400 4- 600 g
hơi nước cho 1 kg cacbon khí hóa. Nếu cho quá nhiều hơi nước thì nhiệt độ zôn khí hóa và mức độ phân
hủy hơi nước với co2 sẽ giảm. Thành phần của khí than lẫn trong khoảng sau (%): co = 25 -ỉ- 30; H2 =
13 4- 17; CmHn = 0,1 4- 0,4; CH4 = 0,3 4- 3; co2 = 2,5 4- 8; N2 = 44 4- 45; 02 = 0 4- 0,3. Nhiệt trị của khí
than lẫn dao động trong khoảng 1248 kcal/Nm3.
117
Biện pháp tốt hơn hết để tăng cao nhiệt trị của khí than là đốt nóng tác nhân khí hóa trước khi vào
lò đến 400 -ĩ- 600°C, tăng phụ gia hơi nước và dùng không khí giàu oxy. Bằng biện pháp trên, quá trình
khí hóa được tăng cường, đồng thời khí tạp sẽ giảm đi, chất lượng khí tăng lên.
Khí than khử là khí than nhận được khi tác nhân khí hóa là khí co2. Tác dụng của co2 tương
tự như hơi nước, nghĩa là khí CO2 sỗ khử thành khí co bởi cacbon của than. Phản ứng khử kèm theo
thu nhiệt, nên phải thực hiện quá trình sản xuất khí than này như khí than ướt nghĩa là thổi không khí
vào trước để nâng nhiệt độ sau đó ngừng không khí và thổi CO2 vào để phản ứng thu nhiệt tạo co được
tiến hành.
Ngoài ra sử dụng CO2 như hơi nước để làm phụ gia cho dòng khí oxy hoặc không khí. Do đó khí
nhận được sẽ giàu co hơn.
Khí CO2 có thể sử dụng bởi nguồn khói lò nung, ưu việt của nó là có thể sử dụng nhiệt lý học của
khói lò khi nó đi ra khỏi lò. Ngoài ra việc sử dụng khỏi lò sẽ không cần tiêu tốn nhiệt để nhận hơi nước.
Tuy nhiên do hàm lượng khí N2 trong khói lò quá cao, cho nên chất lượng khí không tăng lên bao nhiêu.
Hàm lượng khí N2 càng cao, nhiệt trị của khí càng giảm, hệ số tác dụng hữu ích của lò khí hóa càng nhỏ
do phải tiêu tốn nhiệt để đốt nóng khí N2.
3.1.3. Ảnh hưởng tính chất nhiên liệu đến quá trình khí hóa
a) Anh hưởng độ ầm nhiên liệu
Nếu khí hóa nhiên liệu có độ ẩm cao như củi gỗ, than bùn thì cần phải tạo điều kiện để sấy sơ bộ
chúng. Điều đó có thể thực hiện được néu ta tăng chiều cao của lò. Song nhiệt độ khí lúc ra khỏi lớp
nhiên liệu sẽ hạ quá thấp vì phải cấp nhiệt cho zôn sấy quá nhiều. Nếu nhiệt độ khí hạ thấp xuống dưới
điểm sương (80 4- 90°C) thì hơi nước và nhựa than sẽ ngưng tụ lại. Vì thế nếu độ ẩm của nhiên liệu
50 4- 58% thì phải sấy chúng trước khi đưa vào lò khí hóa.
Bây giờ ta hãy khảo sát ảnh hường độ ẩm nhiên liệu với chiều cao lớp nhiên liệu trong lò khí hóa
như trong hình 3.2. Neu chiều cao đạt yêu cầu và độ ẩm nhiên liệu không lớn thì khí sẽ nung nóng nhiên
liệu đến nhiệt độ gần bằng nhiệt độ của khí lúc ra khỏi zôn khí hóa và nhiệt độ của khí lúc ra khỏi lớp
nhiên liệu sê cao hơn điểm sương. Nghĩa là hơi nước trong khí sẽ nằm trong trạng thái quá nhiệt (3.2.a).
118
Cũng trong điều kiện đó, ta tăng chiều cao lên (3.2.b) thì nhiệt độ khí lúc ra khỏi lớp nhiên liệu hầu như
không hạ thấp mà zôn nhiệt độ cao chi bị kéo dài ra. Nếu chiều cao lớp nhiên liệu quá nhỏ (3.2.c) thi
nhiệt độ cùa khí lúc ra khỏi lớp nhiên liệu sể tăng cao, do nhiệt truyền cho nhiên liệu ở zôn sấy quá nhỏ.
Kết quả sẽ có nhiều hơi ẩm đi cùng nhiên liệu vào zôn khí hóa làm nhiệt độ zôn khí hóa hạ thấp. Điều đó
dẫn tới tăng hàm lượng CƠ2 và H2O trong khí than. Neu độ ẩm nhiên liệu quá lớn thì nhiệt của khí
không đủ đề chuẩn bị nhiên liệu. Trong trường hợp này nếu lại tăng chiều cao lớp nhiên liệu (3.2d) thì
nhiệt độ của khí lúc ra khỏi lớp nhiên liệu sẽ thấp hom điểm sương. Kết quả hơi nước sẽ ngưng tụ lại và
độ nhớt của nhựa than tăng lên.
Như vậy, nếu độ ẩm nhiên liệu cao thì chẳng những tiêu tốn nhiệt để bốc hơi, đốt nóng chúng đến
nhiệt độ khí, đồng thời giảm chất lượng khí than mà còn phải tổ chức chiều cao lớp nhiên liệu họp lý.
Vì vậy nếu độ ẩm quá nhiều thì cần phải sấy chúng trước khi khí hóa để tăng cao chất lượng khí than.
Nhựa than được tách ra ờ zôn chưng khô. Lượng nhựa than này nhiều nhất khoảng 7 4- 8% khi
khí hóa củi, than bùn, than nâu. Nhựa than có nhiệt trị khá cao, khoảng 31.400 kj/kg hay 7.500 kcal/kg,
nếu nó nằm ở trạng thái hơi thì sẽ tăng chất lượng của khí than. Vì vậy khí than sản xuất từ than non sẽ
có nhiệt trị cao hơn so với khí than từ than già (antraxit). Nếu nhựa than tách ra và ờ dạng lỏng thì toàn
hệ thống khí hóa sẽ gặp rất nhiều khỏ khăn. Trong trường hợp nhựa than lỏng nằm ngay trong lò khí
hóa, nhiên liệu sẽ bị dính kết lại, không dịch chuyển tự do trong lò. Neu nó tách ra trên đường ống dẫn
khí, thì nhựa than sỗ làm tắc đường ống, đặc biệt là tắc các van khí. Vi vậy khi chuyển khí đi xa, đề
tránh ngưng tụ nhựa than trên đường ống cần phải làm sạch khí, nghĩa là tách nó ra ờ thiết bị đặc biệt
trước khi chuyển đến nơi dùng.
Tro xi tách ra khỏi nhiên liệu sau khi khí hóa sê tập trung ở phần dưới của lò khí hóa. Tại đây
nhiệt độ khá cao làm xi nóng đỏ lên. Neu xi có nhiệt độ nóng chảy thấp, chúng sẽ liên kết với than thành
tảng xi lớn và bít kín lò. Kết quả là gió hay tác nhân khí hóa trờ nên phân bố không đều, gió sẽ không
119
thể đi qua những tảng xi mà tập trung đi vào những nơi thông gió. Tại nơi này lượng tác nhân khí hóa sẽ
vượt quá lượng yêu cầu cho nên hàm lượng CƠ2 và N2 của khí than sẽ tăng lên. Nếu cứ tiếp tục lâu, ờ
nhưng nơi gió tập trung sẽ tăng nhiệt độ do kết quả của các phản ứng tỏa nhiệt và xi lại dính két lại với
nhau. Cuối cùng quá trình khí hóa cỏ thể bị tê liệt và chất lượng khí giảm đi một cách nghiêm trọng. Đối
với nhiên liệu dễ tạo tảng xỉ cần phải có những biện pháp ngăn cản tạo tảng xỉ và phá những tảng xỉ đó.
Dùng bao nước quanh thân lò khí hóa sẽ ngăn cản sự dính kết xi với thành lò. Theo dõi quá trình khí hóa
nếu có hiện tượng kết tảng xỉ thì phải phá ngay bằng choòng hoặc thiết bị phá xi khác. Kết hợp với sử
dụng ghi quay có thể phá các tảng xỉ hữu hiệu hơn. Nếu xi nhiên liệu quá dễ chảy có thể dùng phương
pháp thải xi lỏng với thiết bị lò khí hóa tương ứng.
d) Anh hưởng sản phẩm chưng khô
Lượng sản phẩm chưng khô nhiều nhất khi khí hóa nhiên liệu non như củi, than bùn, than nâu và
vài loại than đá. Hàm lượng sản phẩm chưng khô càng cao, chất lượng khí than càng tốt.
Trong số những sản phẩm chưng khô, có sản phẩm giá trị được tách ra khỏi khí khi làm sạch
chúng, và được coi như là sản phẩm phụ của quá trình khí hóa. Ví dụ axit axetic, rượu phenol là những
sản phẩm được dùng nhiều trong hóa học hữu cơ.
e) Anh hưởng kích thước than và hạt cốc
Khả năng phản ứng của nhiên liệu và hạt cốc phụ thuộc rất nhiều vào kích thước của chúng. Kích
thước càng nhỏ thì tồng bề mặt phản ứng càng lớn, do đó hoạt tính của nhiên liệu càng cao. Tuy nhiên
nếu kích thước quá nhỏ thì trờ lực của lớp nhiên liệu càng tăng, đặc biệt ở những lớp có mặt hạt quá nhỏ
lẫn vào. Vì vậy nhiên liệu vào lò khí hóa cần phân loại cẩn thận, phải loại trừ các hạt vụn và đập nhỏ các
cục quá lớn.
Kích thước nhiên liệu và lò khí hóa đã được quy định theo kinh nghiệm đối với mỗi loại nhiên
liệu. Than nâu, than đá thường dùng loại kích thước 25 -ỉ- 50 mm, antraxit 13 -ỉ- 25 mm.
Nhiên liệu dễ kết khối hoặc nhiên liệu dễ tạo bột vụn cốc thì trờ lực càng cao. Vì vậy nên trộn hai
loại than này để cùng khí hóa thì tốt hơn. Nếu khí hóa than dễ két khối, người ta dùng lò khí hóa có ghi
quay, khi quay các tảng cốc sẽ bị đập vụn ra. Nếu khí hoa than bụi hoặc than vụn cám, tốt hơn cả là
dùng lò khí hóa tầng sôi.
Tùy theo tác nhân khí hóa ta có lò khí than khô, lò khí than ướt, lò khí than lẫn. Càn cứ theo
phương pháp đưa tác nhân khí hóa ta có lò khí hóa hút tự nhiên hay cưỡng bức. Chúng ta cũng có lò mà
khí và nhiên liệu chuyển động cùng chiều, ngược chiều và ngang chiều. Theo phương pháp thải xi ta có
lò khí hóa xi rắn hay lỏng, mặc dù loại lò khí hóa với xỉ lỏng hiếm khi dùng. Theo cấu trúc của lò, có lò
khí hóa với tháp đứng cao và thấp.
Người ta cũng phân biệt lò khí hóa cơ khí hình 3.3, bán cơ khí hình 3.4. Sự phân biệt này dựa trên
cơ sở nguyên tắc vận hành các thiết bị thải xi, nạp than, khuấy đảo nhiên liệu.
120
Hình 3.3. Sơ đồ lò khí hóa than lẫn với tiếp liệu than cơ khí hóa.
1. Tiếp liệu than cơ khí; 2. Nắp đậy; 3. Nóc lò; 4. Nồi hơi; 5. Vận chuyển xỉ; 6. Cánh gạt xỉ;
7. Động cơ quay mâm tháo xỉ; d. Gân ờ thành; 9. Mũ gió; 10. Nước tạo van thủy lực; 11. Hộp gió vào lò.
121
Hình 3.4. Lò khí hóa với tiếp liệu thủ công.
1. Hộp nạp than; 2. Cừa quan sát và đỏ lò; 3. Bao nước tạo hơi nước; 4. Mũ gió;
5. Mâm nước quay; 6. Động cơ và hệ truyền động cho mâm quay.
122
gạch với xỉ, mà dùng bao nước. Bao nước có nhiệm vụ làm nguội vò lò, đồng thời đóng vai trò như một
nồi hơi cỡ nhỏ để cung cấp hơi nước cho quá trinh khí hóa. Chiều cao của bao nước khoảng 1,2 4- 1,4 m,
chiều rộng 450 4- 500 mm, áp suất hơi có thể đạt 1,5 4- 5 atm. Hơi nước và nước sẽ theo ống dẫn đén
bình ngưng hình 3.5, tại đây hơi nước sẽ tách ra khỏi nhũ còn nước sẽ ngưng tụ và trờ lại bao nước. Nhũ
này chính là hơi nước và nước tạo thành khi nước sôi lên trong bao.
Hơi nước áp cao dẫn Bộ van điều chinh mực Bình ngưng
xuống đáy thồi vào lò
nước trong bình ngưng
khí hoá
Nước lạnh vào
Phía trên nóc thân lò đều có những vị trí để đặt những thiết bị nạp than, khuấy đảo và ống dẫn khí
ra. Ớ phía dưới thân lò được nhúng ngập trong mâm nước để tạo nên một van thủy lực đàm bảo kín lò.
Toàn thân lò được kê hay gắn chặt với 3 4- 4 bệ đỡ bằng thép.
Phần cuối cùng của vỏ lò còn gắn những tấm gang tạo thành những đường gân. Khi ghi quay gân
này góp phần tăng quá trinh đập nhỏ xỉ trước khi tháo ra ngoài.
Tại mặt lò hay sàn thao tác người ta bố trí các cửa dạng lỗ tròn quanh lò như hình 3.6. Các lỗ này
khi lò hoạt động bình thường sẽ được đậy nắp kín. Khi cần kiềm tra hay chọc xỉ thì phải mờ nắp ra. Đề
đảm bảo an toàn tránh khí than không lọt ra ngoài cần mờ van hơi nước để hơi nước phụt qua các lỗ
nhỏ từ ống vòng tạo màng khí. Mô hình cấu tạo lỗ quan sát chọc lò xem trong hình 3.6. Than antraxit
của nước ta có nhiệt độ nóng chảy tương đối thấp nên khi hoạt động chúng dễ tạo tảng gây phân bố tác
nhân khí hóa không đều. Vì vậy việc chọc lò phá tảng xi là không thể tránh được nên việc bố trí lỗ quan
sát là cần thiết. Ngược lại nếu khí hóa than mà xi của chúng có nhiệt độ nóng chảy cao thì khỏ tạo tảng
nên thao tác lò trờ nên nhẹ nhàng và hầu như không phải chọc lò phá xi.
Nắp đậy
Hình 3.6. Bố trí và cấu tạo các lỗ quan sát, chọc lò để khuấy đảo lớp than.
123
3.2.2. Ghi lò
Có hai loại ghi lò: ghi quay và ghi cố định. Ghi cố định bao gồm ghi ngang, ghi nghiêng, ghi bậc,
ghi mái nhà.
Ghi ngang dùng để khí hóa nhiên liệu kích thước lớn như củi gỗ, ghi bậc, ghi nghiêng và ghi mái
nhà để khí hóa than bùn, than nâu có kích thước nhỏ. Ghi kiểu mái nhà đàm bảo phân bố gió đồng đều
hơn so với ghi nghiêng.
Nhìn chung các loại ghi này có nhược điểm rất lớn là lúc loại tro xỉ bằng tay lại phải ngừng gió
vào lò. Như vậy chế độ làm việc của lò sẽ không đồng đều. Vì thế các kiểu này chỉ dùng cho những lò
khí hóa xây bằng gạch, làm việc thủ công, năng suất nhỏ, tiêu tốn công sức nhiều.
Sử dụng ghi quay cho phép ta cơ khí hóa hoàn toàn việc loại xỉ ra ngoài. Vì vậy ờ những lò khí
hóa có công suất lớn đều sử dụng ghi quay để thải xỉ, đồng thời đảm bảo loại xỉ hoàn toàn, phân bố gió
đồng đều, có khả năng đập nhỏ xi kết khối.
Cấu tạo ghi quay có thể xem trong hình 3.3 và 3.4. Ghi quay thường gồm mũ gió, mũ gió này
gắn liền với mâm quay chứa nước. Mũ gió có thể nằm chính tâm lò hoặc lệch một ít ~ 100 - 150 mm để
tăng khà năng đập nát xỉ khi ghi quay nhằm tăng khả năng nghiền đập xỉ người ta có thể bố trí các gân
tại thành lò như trong hình 3.4. Dưới mũ gió có hộp gió để đưa gió (tác nhân khí hóa) vào lò. Toàn bộ
mâm lò tạo với thân lò thành một van thủy lực nhăm không cho khí thoát ra khỏi lò qua chỗ tháo xỉ.
Ghi quay với tốc độ 1 -ỉ- 4 vòng/phút nhờ bộ phận cơ khí truyền quay trục vít vô tận (hình 3.7).
Trong mâm luôn luôn có đầy xi tro và nước. Khi lấy xỉ chi cần hạ dao gạt xỉ đặt ờ cạnh mâm, xỉ sẽ
hướng theo dao đi ra khỏi mâm. Bộ phận dao gạt xi được cố định song bản thân dao có thể nâng lên hay
hạ xuống bời vô lăng để điều khiển lượng xi thải ra ngoài. Khi thải xi thường có kèm theo loại một
lượng nước, vì vậy cần vòi bổ sung nước vào mâm để mực nước ưong mâm không thay đổi.
3.2.3. Mũ gió
Tâm của mũ gió thường lệch với tâm của lò 100 - 150 mm. Đinh mũ gió là nơi tác nhân khí hóa
như hỗn hợp không khí với hơi nước từ dưới đi lên qua các khe và tránh xỉ rơi vào đường dẫn hỗn hợp
khí. Các nước châu Âu thường dùng loại than có độ nóng chảy cao của xi nên mũ gió đơn giản hơn và
mâm quay có đường gân để hướng xi đi ra ngoài vành mâm. Than antraxit của ta với nhiệt độ nóng chảy
của xi tương đối thấp nên xỉ thường đóng tảng lớn. Vì vậy mũ ghi lò có phức tạp hơn, cấu tạo chắc chắn
hơn để đập vỡ tảng xi. cấu tạo của chúng rất khác nhau như trong hình 8, khi ghi quay tức mũ gió cũng
124
quay và hướng xỉ chuyển ra ngoài vành mâm quay. Chính vì vậy mũ gió cũng có cấu tạo hơi xoáy đề
khi quay mũ gió vừa phá vỡ tảng xỉ vừa hướng xỉ đi ra ngoài.
ABC
Hình 3.9. Thiết bị nạp than thủ công điều khiển vị trí nón chuông.
A. Nạp than vào trung tâm; B. Vào giữa; c. Vào thành lò.
Thiết bị nạp than vào lò khí hóa thường đặt trên đinh lò. Có hai loại thiết bị tiếp liệu nạp than: cơ
khí và thủ công. Yêu cầu cơ bản của thiết bị nạp than là phải nạp than liên tục trong giai đoạn nạp, phân
bố than trên mặt lò đồng đều và đảm bảo kín để khí trong lò không thoát ra, không khí ngoài không lọt
vào lò qua máy nạp than đó.
Loại thủ công thường gọi là hộp nạp than (hình 3.9). Khi than đổ đầy hộp thì nắp trên được đậy
kín lại, nhờ quà đối trọng nón chuông dưới nâng lên để đảm bảo kín lò. Khi nắp trên đã đậy kín thì nón
chuông dưới sỗ hạ xuống để than tụt vào lò. Tùy theo vị trí của nón chuông, ta có thể điều khiển than rơi
vào sát thành lò, tâm lò hoặc trung gian như hình 3.9. Việc sử dụng chuông hình nón để than rơi đều
trên mặt than sát với thành lò.
Loại cơ khí hóa có nhiều kiểu tùy theo kết cấu của lò và tính chất của nhiên liệu vào lò khí hóa.
Phổ biến hơn cả là loại nạp tự động ba nón chuông. Than từ bunke qua tấm điều chỉnh vào tiếp liệu
125
hộp quay. Sau đó than sẽ vào chuông thứ nhất. Khi đủ lượng than, nón chuông thứ nhất hạ xuống và
nón chuông thứ hai nâng lên. Khi trút hết than vào nón chuông thứ hai, nón chuông thứ nhất nâng lên
và nón chuông thứ hai hạ xuống để đưa than vào lò. Để điều chinh vị trí than rơi trên mặt lò ta điều
chinh nón chuông thứ ba. Tất cả quá trình làm việc hoàn toàn tự động và hiện nay nhiều lò khí hóa
đang dùng loại này.
Trong hình 3.10 cho ta biết tổng thể mặt cắt của lò khí hỏa đang sử dụng tại nước ta. Trên đỉnh là
hệ nạp than vào lò khí hỏa với hai nón chuông và nắp đậy. Khi bình thường các nón chuông đều được
đóng kín và than sỗ được đưa xuống đáy hộp trên sau đỏ nắp trên đậy kín. Tiếp theo nón chuông trên sẽ
hạ xuống để than rơi vào hộp dưới và tiếp sau đó nón chuông trên lại đậy kín. Cuối cùng nón chuông
dưới được hạ xuống để than rơi vào mặt lò rồi sau đó lại được nâng lên đậy kín. Quá trình đó cứ lặp đi
lặp lại theo điều khiển tự động của chương trinh. Lượng than vào lò được điều khiển bời nắp trên. Dù cố
gắng làm kín nhưng vẫn có một lượng khí than nhỏ vượt qua hệ nạp than nên người ta bố trí tại đỉnh của
hệ ống thoát khí này lên cao để thải ra ngoài.
Hình 3.10. Mặt cắt tổng thể của lò khí hóa với nón chuông.
1. Nơi nạp than; 2. Mâm quay và nơi thảo xỉ; 3. Bình ngưng tách hơi nước;
4. ồng thoát khí tại đĩnh nạp than; 5. Hệ nạp than nón chuông; 6. Bao nước quanh lò;
7. Mũ gió gắn với mâm quay; 8. Bánh răng quay mâm tháo xỉ.
126
Hình 3.11. Kiểu trống quay và hệ nạp than khác.
Ngoài ra tại châu Âu hay dùng kiểu hai trống quay (hình 3.11) có ngăn. Trống quay thứ nhất có
tác dụng điều tiết lượng than, trống quay thứ hai đưa than thẳng xuống dưới. Nhờ có hai trống quay này
nên thiết bị nạp than đảm bảo kín khí. Đẻ rắc than trên mặt lò có thể dùng nón chuông như hình 3.9 và
cũng có thể dùng máng xoay với góc độ khác nhau như hình 3.3.
Đẻ quá trinh khí hóa tiến hành binh thường, nhiên liệu cần phải phân bố đều trên mặt lò. Mặt
khác dòng khí từ dưới đi lên cũng phải đồng đều để quá trình khí hóa thuận lợi. Cũng cần đảm bào
thông thoáng nên kích thước than vào lò khí hóa tương đối đồng đều. Tuy nhiên ở nhiệt độ cao của zôn,
khí hóa xi than có thể nóng chảy và kết tảng, vì vậy việc phân bố gió trờ nên không đều và việc chọc xi
là cần thiết. Những thiết bị nạp than thô không đáp ứng hoàn toàn yêu cầu đó. Vì vậy đôi khi người ta
phải san nhiên liệu hoặc đánh xi thủ công băng choòng qua lỗ hay cửa tại đinh lò khí hóa. Tại cửa này
có phun hơi nước thành một màng mỏng để khí than không thoát ra ngoài lò như hình 3.6 và 3.20.
Ngoài ra trên thế giới cũng có lò dùng máy bừa hoặc các thanh đánh chọc lò bằng máy.
127
9\ _7
Hình 3.13. Sơ đồ sản xuất ga lạnh không dùng lọc tĩnh điện.
1. Lò khl hóa; 2. Lọc bụi khô; 3 và 4. Lọc bụi ướt; 5. Hệ ngưng hơi nước; 6. Quạt hút; 7. Tháp điều áp;
8. óng dẫn khí; 9. Quạt gió; 10. Bình ngưng (tách nước khỏi hơi nước).
Khi chuyển vận khí than thô (chưa làm sạch) theo ống dẫn đến khoảng cách quá lớn thì nhiệt độ
khí bị hạ thấp nhiều. Do đó nhựa than sẽ tách ra ở dạng lỏng, dính vào thành ống, tắc các van, bụi sẽ
lắng ở kênh làm giảm tiết diện của chúng. Tất cả những điều đó sẽ làm phức tạp rất nhiều cho quá trình
sản xuất. Vì vậy, nếu chuyển vận khí đi xa, nhất thiết phải làm sạch khí. Có hai phương pháp làm sạch
khí: phương pháp khô và phương pháp ướt.
128
Bình ngims
RHS!
Bơni nước 1 và
: ’ /1-11 ’I 11
Buồng láng bụi
i t . I-ò khí hóa Cyclòn Ịắng bụi
Quạt gió 1 và 2
Phòng lắng bụi có cấu tạo đơn giản như trong hình 3.14 hoặc hình 3.15. Tại đây khí bị thay đồi
tốc độ và chiều hướng chuyển động nên bụi lắng xuống đáy nhờ lực trọng trường. Có thể lấy bụi từ
phòng này gián đoạn hoặc có thể ngâm ống đáy vào máng nước chảy như hệ ướt. Máng nước vừa có tác
dụng chuyển vận bụi, vừa ngăn ngừa không khí lọt vào đường ống hay khí than rò ra ngoài.
Có thể sử dụng cyclone đơn như hình 3.14 hoặc cyclone chùm. Hiệu suất lắng bụi của nó cao hơn
so với phòng lắng bụi.
Trên bề mặt phòng lắng bụi và cyclone, người ta lót một lớp cách nhiệt, nhờ đó khí không bị hạ
nhiệt độ nhiều.
Phương pháp khô có đặc điểm là: cấu trúc đơn giản, khí giữ được nhiệt độ cao, cho phép sử dụng
nhựa than hay hắc ín ờ dạng khí, cho nên nhiệt độ cháy của khí này sỗ cao hơn. Tuy nhiên ga nóng chỉ
hoạt động cho lò nung liên tục để tránh hiện tượng tắc vòi đốt khi dừng lò do nhựa than đọng lại tại lỗ
phun khí. Ngoài ra ga nóng còn chứa nhiều bụi nên chi dùng cho những sản phẩm cấp thấp như gạch
129
ngói hay vật liệu chịu lửa thường. Tại các công ty sản xuất gạch ốp lát đã dùng kiểu ga nóng này phục
vụ cho tháp sấy phun để thu hồi phối liệu cho xương của gạch như hình 3.16.
Nhược điểm của phương pháp này là hiệu suất loại bụi không cao, ống dẫn khí phải lớn vi nhiệt
độ khí cao, trong và ngoài ống cần phải lót gạch chịu lửa cách nhiệt, tốn nhiều sắt thép để xây dựng. Vì
vậy, việc sử dụng phương pháp khô có bị hạn chế nhiều và chỉ dùng khi lò khí hóa than đặt gần lò nung
để giữ được nhiệt độ khí cũng như giảm chiều dài ống dẫn. Sơ đồ trạm khí hóa theo phương pháp này
xem trong hình 3.14.
130
quạt hút để bù trừ cho áp suất tổn thất ờ các thiết bị trên (xem hình 3.12 và 3.13). Trước khi đi đến nơi
dùng, khí cần loại trừ hơi ẩm ở thiết bị ngưng tụ. Thiết bị ngưng tụ cũng giống như tháp rửa có đệm
nhưng không phun nước. Khi qua tháp này, hơi nước sỗ ngưng tụ lại thành giọt. Tốt hơn cả là dùng lọc
tĩnh điện.
Phương pháp ướt sử dụng rộng rãi trong công nghiệp mặc dù thiết bị phức tạp và tổn thất nhiệt.
Song khí đã làm sạch bằng phương pháp ướt có độ sạch rất cao, có thể chuyển vận khí đi rất xa theo
đường ống nhỏ dưới áp suất lớn. Cũng cần lưu ý rằng nước rửa khí chứa rất nhiều độc tố nên cần phải
xử lý chúng trước khi thải ra cống thoát chung.
Hình 3.17. Hệ lò khí than lạnh của một hãng Trung Quốc.
Hình 3.18. Cấu tạo và nguyên tắc lọc tĩnh điện cho hắc in cũng như hoi nước.
I3l
Hệ thống sàn xuất ga lạnh có nhiều kiểu và nhiều sơ đồ khác nhau. Hình 3.17 giới thiệu một mô
hình mà tại đỏ có các công đoạn khác nhau. Đầu tiên khí than từ lò khí hóa được rửa đơn giản bằng
phun nước trên đinh tháp để làm nguội khí hoặc cho đi qua ống để không khí làm nguội như hình 3.12
và 3.19. Tiếp theo khí qua hệ lọc tĩnh điện để loại trừ hết hắc ín hay nhựa than. Cũng như các lọc tĩnh
điện khác là khí đi qua các ống như hình 3.18. Cực âm là dây treo tại tâm của ống, thành ống đóng vai
trò cực dương có điện thế cao. Khí, hơi nước đi qua sẽ bị ion hóa và tập trung tại cực âm, tại đó hắc ín
chảy xuống dưới đáy tháp. Đáy tháp nghiêng về phía có ống dẫn hắc ín ra ngoài. Sau khi loại trừ hắc ín,
khí than được rửa có thể nhiều tầng rồi chuyển đến tháp lọc tĩnh điện một lần nữa để loại trừ hết hơi
nước trước khí dẫn đến hệ điều áp và vào lò nung để cháy.
Nhằm phân bố khí đồng đều cho các ống của lọc tĩnh điện người ta bố trí ghi phía đáy tháp. Khi
khí đi qua ghi chúng sẽ lên đều hơn theo tiết diện ngang để đi vào các ống lọc tĩnh điện.
Hình 3.19. Hệ thống ống chùm làm nguội khí than bằng không khí.
132
Bảng 3.1. Thành phần nhiên liệu khí nhân tạo
Lượng Thành phần % (thể tích) Nhiên liệu ban đầu
Lượng
Tên khỉ khỉ,
nhựa QCh, ,
pH
m3/kg than,
g/m3
co2 h2s C2H< o2 CO ch4 h2 n2 Kcal/m3
ũf Ap
Kcal/kg
Khí lò cốc - 2,3 0,4 1,9 0,8 6,8 22,5 57,5 7,8 3924 - - -
- - 18,4 - 6,3 - 10,9 23,9 38,8 1,7 3900 - - -
Khí hóa dầu mò 0,6 - 2 0,1 6 - 5,3 40,4 41,4 4,8 5543 - - -
Khí than ướt từ cốc 1,75 - 7 - - - 40,8 0,8 48,5 2,9 2543 5 10 6850
Từ Antraxit - - 6 0,5 - oa 38,5 0,5 48 6,3 2464 - - -
Khí than lẫn đi từ:
Củi gỗ 1,08 75 6,9 0,4 0,4 29,3 3,2 15,2 44,6 1606 38,4 0,3 2519
Than bùn 0,49 26 9,4 - 0,6 0,2 23,6 2,9 15 48,3 1432 36,3 4,5 2879
Than nâu 2,14 14 4,5 0,2 0,2 0,2 28 2 15 49,9 1441 19,2 16,2 4166
Than dài lừa 1,38 29 5,6 0,9 0,4 oa 26 2,2 13,9 0,88 1438 32 18 2953
Than đá 3,27 10 6 0,4 0,3 oa 24 2,5 12,9 52,7 1358 5,5 12,4 6307
Antracit 4,16 - 5,5 0,2 - 0,2 27,5 0,5 13,5 52,6 1230 5 10,4 6720
Than côc 3,19 - 4 0,2 - 0,2 29 0,6 12 54 1248 16 16,8 5244
Khí than khô:
Từ than đá 2,6 10 7,3 0,4 21 2,2 9 60,1 1110 6,3 19,6 5288
Từ than bùn 1,64 29 6,6 - 0,5 0,3 27,3 1,7 10,1 53,5 1298 29,0 2,3 3225
Khí hơi nước oxy 0,86 - 25,61 2,62 0,46 0,44 26,3 2,6 37,71 4,26 2206 32,6 24,5 -
Như trên: — 7,3
ở áp suất 19 atm 0,85 31,1 1,6 0,7 0,3 15 (C2H6-2,4) 39,9 1,7 2635 29,7 30
10,6
Sau làm lạnh 0,56 78 2,1 - 1 0,3 21,8 58,5 2,5 3700 - - -
(C2H6-3.3)
3.3.3. An toàn lao động ở trạm khí hóa
Khí than chứa nhiều khí co nên rất độc đối với cơ thể con người và sinh vật. Vì vậy những công
nhân vận hành lò khí hóa phải hết sức cẩn thận đối với khí rò rỉ ra ngoài đặc biệt khi cần phải chọc lò
đánh xỉ lò. Tốt hơn cả là phải dùng mặt nạ phòng độc để bào vệ sức khoẻ của công nhân khi thao tác tại
mặt lò (hình 3.20). Khi hỗn hợp với không khí ở nồng độ 40 4- 80% khí than thì hỗn hợp này trở thành
hỗn hợp nồ. Đe đảm bảo an toàn cho trạm khí hóa, người ta thường bố trí các van an toàn như hình 3.21
để khi bị nổ van sẽ bật ra để thoát khí ra ngoài. Vì vậy khi điều khiển lò, hoặc làm việc tại trạm khí hóa,
cần phải tôn trọng nghiêm khắc những nguyên tắc an toàn lao động và nguyên tắc vận hành lò khí hóa.
Để tránh khí thoát ra ngoài, yêu cầu cơ bản là tất cả thiết bị, ống dẫn, van, vòi khí phải đảm bảo
kín. Đồng thời phải có những biện pháp kiểm tra độ kín của chúng, phát hiện kịp thời chỗ hờ để hàn
gắn.
134
Hỗn hợp nổ thường xảy ra khi bắt đầu chạy lò hoặc dừng lò, hoặc khi mất điện đột ngột.
Khi chạy lò thì chỉ mở van nối lò khí hóa với hệ thống ống dẫn khí, khi áp suất khí trong lò khí
hóa cao hơn áp suất khí ở ống dẫn. Vì vậy đầu tiên là mở quạt gió đưa không khí vào lò khí hóa trước
sau đó mới mờ quạt hút khí.
Khi dừng lò, không được dừng ngay gió vào lò, vì tránh tạo chân không trong lò. Cho nên cần
giảm lượng gió vào lò một cách từ từ, ngắt mạch ống dẫn, mở van ống thoát để khí đi ra ngoài trời, cuối
cùng mới ngừng hẳn.
Hiện tượng nổ nhẹ có thể làm tóe nước ờ van thủy lực, hiện tượng nổ mạnh có thề phá hủy toàn
lò khí hóa, ống dẫn và gây nên những tồn thất khác. Vì vậy song song với thiết bị bảo hộ khác như van
nồ trong hình 3.21 cần tuân thủ những nguyên tắc thao tác để tránh những tổn thất đáng tiếc.
Nước rửa khí chứa nhiều độc tố nên phải được sử lý để đàm bảo nguồn nước không bị ô nhiễm
gây nguy hiểm cho con người và sinh vật cũng như thực vật.
135
xác định chiều cao lớp nhiên liệu trên cơ sở mức độ chuẩn bị nhiên liệu đã chọn. Như vậy chiều cao zôn
chuẩn bị và mức độ chuẩn bị nhiên liệu cỏ quan hệ mật thiết với nhau:
Trong đó:
Qt - lượng nhiệt cần thiết để chuẩn bị hoàn toàn nhiên liệu, kcal/kg, đại lượng này có thể dùng
trong bảng 3.2;
0 - mức độ chuẩn bị nhiên liệu;
B - cường độ khí hóa, kg/m2h;
av - hệ số cấp nhiệt ứng với một đơn vị thể tích của lớp, kcal/m2h.độ;
H - chiều cao của lớp nhiên liệu, m;
At - chênh lệch nhiệt độ trung bình của khí và nhiên liệu, °C.
At = = (tS-t;)-(tĩ-tp
2,30318^- 2,303lg^ị
c tc to
*, t* - nhiệt độ của than vào lò khí hóa và đi vào zôn khí hóa, °C;
to
tdk, tck - nhiệt độ của khí đi vào zôn chuẩn bị nhiên liệu và đi ra khỏi lớp nhiên liệu, °C.
Đại lượng Qt lấy gần đúng theo bảng 3.2 và sau khi tính toán thành phần và lượng khí, ta điều
chinh lại ứng với giá trị 0 thu được bằng biểu thức sau:
Trong đó:
cdk, tđk, vdk - nhiệt dung (kcal/m3độ), nhiệt độ (°C) và thể tích (m3) của khí ứng với 1 kg nhiên
liệu làm việc đi từ zôn khí hóa vào zôn chuẩn bị;
qtt - nhiệt tổn thất ở zôn chuẩn bị ra môi trường xung quanh kj/100kg nhiên liệu làm việc;
(p - hệ số hiệu chinh kể đến sự biến đổi tỷ nhiệt khi thay đổi nhiệt độ.
Căn cứ theo D. B. Ginzburg, đại lượng av đối với lò khí hóa có thể xác định theo công thức sau:
Đối với củi gỗ: đường kính d = 0,08 - 0,16 m
136
av=0,29^- [W/m3 độ]
(3.13)
wo- tốc độ khí ứng với toàn tiết diện ngang của lò khí hóa, m/h.
Đối với nhiên liệu khác và kích thước khác cần tính đến sự phụ thuộc vào các nhân tố khác nhau
của hệ số cấp nhiệt tới bề mặt nhiên liệu a (W/m2độ hay kcal/m.h.độ) và nhiệt trờ của các hạt nhiên
liệu. Khi trị số Bio < 0,25 4- 0,75 thì nhiệt trờ hạt nhiên liệu có thể bỏ qua. Trong trường hợp này, có thể
dùng những công thức đối với vật thể nhỏ và đốt nóng ngược chiều. Những công thức này cũng có thể
Bảng 3.2. Đặc tính khí hóa một số loại than điển hình
Hơi
Nhiên liệu nước Khỉ đì vào zôn chuẩn bị Khí đi ra khỏi zôn chuẩn bị
vào
W1
Ak Q, h2ơ' to
V0;
r ám Co
Ho-!ơ6
yo ‘1 r'.
r á C/ M(T3 ụ.KT6 y/
ớ
Ỉ(T3
Loại 12-
kcaưm.h.độ
kcaưm.h.độ
’ạ
ì
1
kcal/kg
í ì
$ í ^5
1 1
°/o % °C 3 °C
-8
Củi gỗ 1 10 1 2520 0,15 0,05 900 1,55 0,343 107 4,20 1,15 420 2,19 0,332 73,4 2,88 1,06
Củi gỗ 2 30 1 3050 0,05 0,10 900 1,20 0,339 102 4,20 1,15 190 1,94 0,334 47,9 2,13 1,04
Củi gỗ 3 50 1 4250 0,00 0,25 900 1,17 0,335 111 4,20 1,15 120 1,85 0,340 38,1 1,73 1,02
Than bùn 1 10 6 3530 0,15 0,05 900 1,72 0,340 104 4,20 1,15 360 2,33 0,329 70,3 2,65 1,06
Than bùn 2 40 6 4150 0,05 0,15 900 1,27 0,343 108 4,20 1,15 140 2,00 0,343 45,8 1,92 1,03
Than đá r 18 23,5 3320 0,20 0,03 900 1,74 0,340 110 4,23 1,15 300 2,29 0,334 66,6 2,51 1,04
Than đá 2 29 16,5 3820 0,10 0,03 900 1,67 0,340 105 4,25 1,15 190 2,35 0,330 52,4 2,17 1,04
Than đá 3 32 28,5 4260 0,15 0,15 900 1,38 0,340 120 4,18 1,15 88 1,93 0,330 44,2 1,76 1,02
Than khí dài lửa 5,5 13,0 4540 0,34 0,03 1000 3,09 0,345 114 4,48 1,15 550 3,54 0,340 90,0 3,32 1,08
Than antraxit 5,0 11,0 4550 0,50 0,05 1000 4,32 0,345 115 4,40 1,15 680 4,54 0,338 98,3 3,75 1,12
Than luyện cốc 20 20,0 6280 0,30 0,03 1000 3,14 0,345 110 4,44 1,15 400 3,53 0,327 70,2 2,95 1,10
* Hàm lượng chất bốc của than 1, 2, 3 tương ứng 44%, 46%, 47% và của than khí dài lửa 30%.
137
Bảng 3.3. Các chỉ tiêu khi khí hóa
- Nhiệt độ ban đầu tdk, °C 900 900 900 1000 1000 1000
-Thể tích khívdk, m3/kg 1,2 1,27 1,74 3,09 4,32 3,14
- Nhiệt dung khí cdk, kj/m3độ 1,41 1,43 1,42 1,44 1,44 1,44
- Độ dẫn nhiệt xdk, w/mđộ 0,118 0,125 0,127 0,132 0,133 0,127
- Độ nhớt ix/.lO^Ns/m2 41,2 41,2 41,49 43,49 43,16 43,55
- Khối lượng thể tích Ỵdk, kg/m3 1,15 1,15 1,15 1,15 1,15 1,15
1. Hơi nước. Tất cả nước liên kết cơ học và ở dạng keo đều biến thành hơi nước. Ngoài ra
khoảng 50% oxy và lượng hydro tương ứng của nhiên liệu biến thành hơi nước trong khí.
2. Khí CƠ2. Oxy biến thành khí CƠ2 đối với các loại nhiên liệu như sau: than bùn 30 4- 35%, củi
gỗ 20 -ĩ- 25%, than nâu 30%, than đá 20%, antraxit và cốc 10%.
3. Khí metan. Lượng hydro biến thành metan của các nhiêu liệu: củi gỗ và than bùn 20%, than
nâu 30%, than đá, than antraxit và cốc 25% toàn bộ lượng hydro trong nhiên liệu.
4. Etylen. khoảng 3 4- 5% lượng hydrro có trong nhiên liệu chuyển thành etylen.
138
5. Nhựa than. Tăng kích thước nhiên liệu hay đốt nóng quá nhanh, lượng nhựa than bay ra giảm
đi. Lượng nhựa than thu được gần cực đại khi lớp than có chiều cao lớn ở lò khí hóa có tháp sấy. Chuẩn
bị nhiên liệu kém thì lượng nhựa than giảm đi. Lượng nhựa than gần đúng khi chuẩn bị hoàn toàn nhiên
liệu như sau: (bảng 3.4).
Bảng 3.4. Thành phần và lượng nhựa than khi khí hóa
Than đá 6 4-7 80 8 11 - 5
6. Axit axetic. Axit axetic, rượu metylic, formaldehyd và một số sản phẩm khác tách ra khi
chưng khô cùi gỗ, than bùn, lượng này chiếm khoảng 4,4% đối với củi gỗ và 2,5% đối với than bùn (tính
bằng % thành phần cháy của nhiên liệu). Thành phần axit axetic: c - 40,8%, H - 8,8%, o - 50,4%.
7. Azôt hay nitơ. Trong điều kiện khí hóa bình thường có thể bò qua lượng azôt biến thành
amôniăc và coi toàn bộ azôt biến thành N2 ờ dạng khí
8. Lưu huỳnh. Khoảng 20% lưu huỳnh còn lại trong tro xi, 60 4- 80% chuyển thành H2S.
9. Bụi. Trong điều kiện thông thường của lò khí hóa, bụi bay ra có kích thước 0,5 -ỉ- 1 mm. Neu
tăng cường độ khí hóa, kích thước bụi tăng đến 1,5 mm. Ngoài ra còn bay theo khí một ít cặn tro xi và
cốc. Neu không có số liệu chính xác về hàm lượng bụi và cường độ nhiên liệu, ta có thể lấy số liệu bụi
bay sau: củi gỗ đến 0,5% (thường 0 -ỉ- 0,2%), than bùn - 1% (thường 0,2 4- 0,5%), than đá, antraxit và
cốc đến 2% (thường 0,3 4- 1%). Thành phần bụi cùa củi gỗ và than bùn gần giống thành phần nhiên liệu
ban đầu, còn của các nhiên liệu còn lại có thành phần gần đúng c - 70%, A - 30%.
10. Hydro. Hydro còn lại sau khi tính toán các khoản trên sể nằm ờ dạng hydro tự do.
11. Oxit cacbon. Oxy còn lại sau khi tính toán các khoản trên sẽ tạo thành khí co.
12. Chất cháy được trong cặn xỉ. Chất cháy được trong cặn coi như chi có cacbon. Hàm lượng
của nó trong cặn khi điều kiện khí hóa và tính chất của nhiên liệu thích hợp khoảng 5 -ĩ- 12%, khi không
thích hợp khoảng 25 -ỉ- 30%
13. Nhiên liệu đi vào zôn khí hóa. Khi chưng khô hoàn toàn, nhiên liệu chi gồm cacbon, tro xi
và cấu từ thài với xỉ (ví dụ một phần lưu huỳnh) và không chứa chất bốc. Nếu chuẩn bị không hoàn toàn
thì sẽ có một phần chất bốc và hơi ẩm đi vào zôn khí hóa cùng nhiên liệu.
3.4.3. Thành phần, lưựng khí ờ zôn khí hóa, lưựng tác nhân khí hỏa tiêu tốn
Thành phần và lượng khí ờ zôn khí hóa được xác định trên cơ sở phương trình cân bằng vật chất
của cacbon, hydro, oxy, cân bằng nhiệt và số liệu thực nghiệm về tỷ số.
139
CQ.H2O _
H2.CO2
Chúng ta đưa tính toán về 1 OOkg nhiên liệu làm việc hay 100 kg khối lượng cháy của nhiên liệu
1) Cân bằng cacbon:
co2 + CO = c (3.15)
2) Cân bằng oxy:
* + H2On
H2 + H2O = H2’ + H2O (3.17)
4) Giá trị K:
CO.H2O
(3.18)
h2.co2
(Cco-CO + CIÍ2 eH2 + CCƠ2 ,CƠ2 + Cn2 .N2 + C||20 .H2O) + Qtt + Gxtxcx + Qx (3.19)
140
CO28 - lượng CO2 đi theo gió, kmol/lOOkg nllv;
CCO2, Cco, CN2> ^h20’ CN2 - nhiệt dung của khí tương ứng ở nhiệt độ tđk, kcal/m3độ;
3.4.4. Thành phần, lượng và nhiệt độ hỗn hựp khí cuối cùng
Trong điều kiện khí hóa bình thường có thể coi khí đi ra khỏi lò khí hóa là hỗn hợp sàn phẩm của
zôn chưng khô và zôn khí hóa. Nhiệt độ của hỗn hợp khí cuối cùng này được xác định trên cơ sờ cân
bằng nhiệt của zôn chuẩn bị:
*th
Q VVd k = CcVVcc + qtt”.Qk (1 - 0) + Qcc + Qb + CcVv? + CnGnt?
+ Cd* (3.21)
Trong đó:
Q\h - thế nhiệt (hay nhiệt trị của 100 kg nllv) nhiên liệu, kcal/100kg nllv;
cdk, tdk, vdk - nhiệt dung riêng (kcal/m3độ), nhiệt độ (°C) và thể tích (m3/100kg nllv) của khí đi từ
zôn khí hóa vào zôn chuẩn bị;
qtt” - tổn thất nhiệt ra môi trường xung quanh ờ zôn chuẩn bị kcal/100kg nhiên liệu làm viộc;
Qk - thế nhiệt của sản phẩm chưng khô nhận được khi chuẩn bị hoàn toàn nhiên liệu, kcal/100kg
nllv;
Qb - thế nhiệt của bụi bay theo khí, kj/lOOkg nllv;
Cck, tck, vck - nhiệt dung riêng (kcal/m3độ), nhiệt độ (°C) và thể tích (m3/100kg nllv) lúc khí ra
khỏi lò khí hóa;
cn, Gn- nhiệt dung riêng (kcal/kgđộ) và khối lượng nhựa than, axit axetic (kg/100kg nhiên liệu
làm việc) lúc ra khỏi lò khí hóa.
141
b) Hơi nước theo nhiên liệu và gió không kịp phản ứng ờ zôn oxy hóa mà chúng chỉ tác dụng ờ
zôn khử.
c) Hơi ẩm và các cấu tử của cặn cốc, trừ cacbon, tách ra ờ zôn khử và oxy hóa với một lượng tỳ lệ
với lượng cacbon phản ứng
d) Tỷ lệ lượng CO/CƠ2 gần đúng được tạo ra ờ zôn oxy hóa như sau: nếu nhiệt độ cao, kích
thước than nhỏ thi với nhiên liệu hoạt động (củi gỗ, than bùn, than nâu) tỷ lệ trên bằng 2, đối với nhiên
liệu kém hoạt động (than đá, than antraxit, than cốc) bằng 1,5. Nếu nhiệt độ thấp, kích thước than lớn
đối với nhiên liệu hoạt động tỷ lệ trên bằng 1,5; với nhiên liệu kém hoạt động là 1.
Với nhiên liệu hoạt động, gọi là nhiệt độ cao khi 1300°C và với nhiên liệu kém hoạt động khi
1500°C. Nếu kích thước nhiên liệu > 15 mm ta gọi là kích thước lớn.
Áp suất gió vào lò khí hóa thông thường khoảng 980 4- 2900 N/m2. Hơi nước thường lấy từ
thùng ngưng hơi cỏ áp suất đến 0,5.105 N/m2. Thùng này nối liền với bao nước ờ lò khí hóa, năng suất
bao này khoảng 10 4- 30 kg/m2h bề mặt bao.
Thực tế lượng hơi nước và khí dùng khí hóa cho trong bảng 3.5.
Lượng gió,
Cường độ khí Lượng khi than, Nhiệt độ khí
Loại nhiên liệu kg/kg nhiên liệu
hóa, kg/m2 h kg/kg nhiên liệu than, °C
Không khí Hơi nước
Nếu biết mức độ chuẩn bị nhiên liệu thì có thể xác định được chiều cao của zôn chuẩn bị nhiên
liệu theo điều kiện trao đổi nhiệt của zôn này.
Thực tế chiều cao lớp nhiên liệu trong lò khí hỏa cho trong bảng 3.6.
142
Bảng 3.6. Chièu cao lớp nhiên liệu trong lò khí hóa
Chiều cao bên trong của lò khí hóa được xác định bời chiều cao lớp nhiên liệu, khoảng không tự
do để rơi nhiên liệu vào lò, kích thước của ống thoát khí và chiều cao vòm lò.
Chiều cao bên ngoài của lò khí hóa phụ thuộc chiều cao bên trong và kết cấu của lò.
Trong đó:
dt - đường kính hạt nhiên liệu;
Pt - khối lượng riêng của hạt, kg/m3;
Po - khối lượng riêng của khí ờ điều kiện chuẩn, kg/m3;
T-nhiệt độ khí, °C;
p - áp suất khí, kG/cm2;
c - hệ số trờ lực.
Khi Re = 0 4- 1000 đối với hạt cầu thì:
C1=2£+ 4 (3.23)
Với các loại nhiên liệu c = (5 4- 1O)C1, các loại than thường lấy giá trị nhỏ (~ 5C1) còn than bùn
lấy giá trị lớn ~ 10C1.
Trị số Reynolds tới hạn xác định theo:
143
JI - độ nhớt của khí.
Khi tính toán, sử dụng khối lượng riêng của nhiên liệu khô tuyệt đối pk và độ dẫn nhiệt có kề đến
chuẩn bị không hoàn toàn nhiên liệu trong bảng 3.7.
Bảng 3.7. Khối lượng riêng và độ dẫn nhiệt của nhiên liệu
Củi gỗ 500 -
Nếu nhiên liệu có độ ẩm w (%) thì khối lượng riêng của nhiên liệu ẩm là:
(3.24)
100
(3.25)
ĩiQt
Trong đó:
ZQ - tổng lượng nhiệt yêu cầu, kj/h hoặc Kcal/h;
Q’t - nhiệt sinh của nhiên liệu làm việc, kj/kg hoặc Kcal.kg;
T| - hệ số cung cấp nhiệt đến nơi dùng, tính bằng % thế nhiệt cùa nhiên liệu mang vào lò khí hóa.
Trị số T| nhỏ nhất đối với lò có buồng hồi nhiệt gián đoạn 0,3, còn các lò khác nếu sử dụng khí đã
làm sạch thì T| = 0,65 4- 0,8. Khi sử dụng khí sạch thì r| = r| hh - hệ số tác dụng hữu ích hóa học, đó là
đặc trưng sự chuyển thế nhiệt của nhiên liệu thành thế nhiệt của khí nhận được.
Hiện nay các lò khí hóa có ghi quay được sản xuất hàng loạt có đường kính 1,0; 1,6; 2,0; 2,6; 3,0;
3,6 m. Lò khí hóa tròn không có ghi quay có đường kính đến 2,6 m.
Tiết diện ngang của lò khí hóa có hình chữ nhật với việc loại xỉ thù công: rộng đến 1,5 -í- 2 m, dài
đến 2,5 m.
144
SỐ lò khí hóa N xác định theo công thức:
N = fè + n (3.26)
BF
Trong đó:
F - tiết diện ngang của lò khí hóa tính theo đường kính trên, m2;
B - cường độ khí hóa, tính bằng kg nhiên liệu trên lm2 trong 1 giờ, kg/m2h (xem bảng 3.8);
n - số lò dự trữ, khi N đến 7 thì n = 1, N đến 15 thì n = 2.
Than nâu
Than
Kiều lò khí hóa Củi gỗ Than bùn Than nâu đóng Than đá Than cốc
antraxit
bánh
thủ công
Thông gió cưỡng
150-300 100 4-200 75 + 150 80+120 60 + 120 60 + 120 60+120
bức, ghi cố định
Ghi quay 400 + 700 200 + 600 200 + 500 150 + 250 150 + 250 150 + 300 150 + 300
Khuấy đào tự động - - - - 250 + 450 - -
Thài xỉ lỏng - 1000 + 2000 - - 300+ 1000 300 + 1000 -
VkO!:
nhh=-^Moo% (3.27)
Vt
v-(Q:+QL)+Qh+Q^Q;100O/o (3.28)
Ql+Qg
145
Trong đó:
Qk1 - nhiệt lý học của khí than, kj7m3;
Gh - hàm nhiệt của hơi nước nhận được khi khí hóa 1 kg nhiên liệu;
Qn - thế nhiệt của nhựa than, kj/kg nhiên liệu;
Qn1 - nhiệt lý học của nhựa than, kj/kg nhiên liệu;
Qg - hàm nhiệt của gió vào lò khí hóa, kj/kg nhiên liệu.
Trị số ĩ|n thường bằng 90 4- 95%
Ví dụ:
•
Xác định thành phần của khí than lẫn từ antraxit. Thành phần cháy của antraxit: Cc - 93,5; FT- 1,8;
Nc - 1,2; oc - 1,7; sc - 1,8; Ac - 11,0. Độ ẩm làm việc W1 - 5%. Nhiệt trị Qt1 - 6710 kcal/kg. Lượng hơi
nước trong gió vào lò 0,5 kg/kg nhiên liệu làm việc, độ chuẩn bị không hoàn toàn 0 = 0,05. Tổn thất
cacbon với cặn xi 1,4 kg và bụi bay 1 kg trong 100kg nhiên liệu ứng với thành phần cháy
Giải:
1) Thành phần nhiên liệu làm việc, %:
^=1,5; O1=l,4; N
* = l,0; s1 = 1,5;
2) Căn cứ theo lượng sản phẩm chưng khô ta lấy 50% oxy chuyển thành H2O, 10% oxy chuyển
thành CO2, 25% hydro chuyển thành CH4, 60% lưu huỳnh chuyển thành H2S. Lượng sản phẩm chưng
khô, bụi và cặn ưong 100 kg nhiên liệu làm việc cho trong bảng 3.9.
Lượng
Thành phần và phân giải
Lg m3
146
Bàng 3.9. Lượng sản phẩm chưng khô (tiếp)
Sunfua hydro 60% lượng lưu huỳnh chuyển thành H2S 0,90
Lượng hydro tương ứng 2.0,9 : 32 0,06
Tổng cộng 0,96 0,7
Bụi Cacbon chuyển thành bụi 0,84
Tro chuyền thành bụi 0,36
Tổng cộng 1,20
Căn xỉ Cacbon trong cặn xỉ 1,18
Lưu huỳnh trong cặn xỉ 0,60
Tro trong cặn xỉ 10,04
Tổng cộng 11,82
Oxit cacbon Lượng oxy chuyển thành CO: 1,4 - (0,7 + 0,14) 0,56
Lượng cacbon tương ứng 12.0,56 : 16 0,42
Tổng cộng 0,98 0,8
H = 0,05.1,5 = 0,075 kg
0 = 0,05.1,4 = 0,07 kg
Tổn thất nhiệt ở zôn khí hóa lấy bằng 5000 kcal cho 1 kmol cacbon khí hóa.
Ta sẽ lập thành 5 phương trình để tính thành phần và lượng sản phẩm ở zôn khí hóa ứng với 100
kg nhiên liệu làm việc, những lượng này biểu thị bằng mol.
147
- Phương trình cân băng oxy:
_ Kĩ CO.H2O _
— Gĩá tặ K =---- —-— = 2
co2.h2
- Phương trình cân bằng nhiệt:
tcc Ccc Gcc = 1000. 0,350. 87,695. 0,95 = ch ,18.H2Og. t8 = 0,444. 50. 58 = 1287,6
8100. 75,48 + 24 600. 0,075 - 2,600. 0,07 - 600. 0,25 +58. 0,31N2.22,4: 0,79 +
+ 1000. 22,4. 0,5258 co2 + 1000. 22,4. 0,4115. H2O + 5000. 6,29 + 600. 0,2. 11,82
Giải hệ phương trình trên, các số liệu đưa vào bảng 3.10, tại bảng này có cả lượng sản phẩm
chưng khô, lượng tổng và thành phần của khí than.
Lượng không khí để khí hóa: 22 : 0,79 = 289 Nm3/100kg nhiên liệu làm việc
Lượng khí than khô: 453,8 - 25,1 = 428,7 Nm3/100kg nhiên liệu làm việc. Nhiệt trị của khí than:
khô - 1205 kcal/Nm3, ẩm - 1139 kcal/Nm3. Nhiệt độ hỗn hợp không khí và hơi nước vào lò khí hóa
58°c. Lượng khí khô ra lò sẽ bằng: 453,8 - 25,1 = 428,7 Nm3/100 kg.
Bảng ~ 0. Lượng và thành phần khí than ứng với 1OO kg antraxit
148
4) Xác định nhiệt độ khí than:
Để xác định nhiệt độ hỗn hợp khí than lúc ra khỏi lò khí hóa ta thành lập cân bằng nhiệt ở zôn
chuẩn bị. Khi thành lập ta lấy tổn thất nhiệt ra môi trường xung quanh ờ zôn này bằng 1% thế nhiệt của
nhiên liệu và lấy nhiệt dung riêng của khí bằng 0,338 kcal/m3.độ ta sẽ có:
671 000 + 432,3. 1000. 0,346 = 0,350. 87,695. 950 + 6710 + 3018. 0,8 +
Khi thành lập cân bằng nhiệt này, Qb được tính theo hàm lượng cacbon ở bụi và cặn của bảng
3.9. Khi tính toán Qk ta sử dụng hàm lượng khí ờ zôn chuẩn bị bảng 3.10, các số đầu ứng với nhiệt trị
của khí tương ứng. Qcc đã được tính ở phương trình cân bằng nhiệt ờ zôn khí hóa.
Giải phương trình này ta được tck = 687°c
5. Thành lập cân bằng nhiệt của lò khí hóa.
Sau khi đã tính đủ số liệu trên ta tiến hành thành lập cân bằng nhiệt của lò khí hóa. Kết quả cân
bằng cho trong bảng 3.11.
Bảng 3.11. Cân bằng nhiệt của lò khí hóa ứng với 100 kg antraxỉt
kcal % kcal %
Thế nhiệt của nhiên liệu Thế nhiệt của khí than
(nhiệt trị 100 kg nllv) 671.000 99 428,7. 1205 516.200 76,3
Nhiệt lý học của khí than
0,338. 453,8. 687 105.300 15,5
Nhiệt lý học của hơi nước và Thế nhiệt của bụi
không khí vào lò khí hóa 8.100. 0,84 6.800 1,0
0,444.50.58 + 58.0,31.1.289 Nhiệt lý học của xỉ
6.500 1 11,82.0,2.600 1400 0,2
Tổn thất nhiệt ra môi trường
xung quanh
5.000. 6,29 + 6.710 38.200 5,6
Thế nhiệt của xi
149
CHƯƠNG 4
150
Khối lượng riêng của khí p khi áp suất không đổi sẽ biến đồi tỷ lệ nghịch với nhiệt độ của nó.
V, = m/p, ^p2 = T,
V2 m/p2 P] T2
Khi tính toán ta thường gặp và phải tính thể tích khí với khối lượng riêng của khí ở nhiệt độ t°c
khi biết thể tích và khối lượng riêng ở nhiệt độ chuẩn o°c.
vt T _ 273 + t
vò “ To ■ 273
1
(4.4)
—1— - hệ số giãn nờ thể tích, đại lượng này hầu như không đổi đối với tất cả các loại khí.
273
r 273
p. =Po (4.5)
,273 + t
Nếu biết tốc độ khí ở nhiệt độ chuẩn (hoặc nhiệt độ nào đó) ta có thể xác định được tốc độ khí ở
nhiệt độ t khảo sát:
(4.6)
Pt = Po 1 + -- (4.8)
l 273
PV = n R T (4.9)
P+ựr(V-b) = RT (4.10)
151
4.1.5. Định luật Dalton
Áp suất chung của hỗn hợp khí băng tổng áp suất riêng phần cùa các khí thành phần:
Suy ra:
(4.13)
Trong cơ học các chất khí, áp suất tĩnh học được coi là dự trữ năng lượng, năng lượng này sẽ tiêu
tốn khi khí chuyển động. Vì vậy áp suất tĩnh học là thể năng của 1 m3 khí và được đo bằng N.m/m3 =
N/m2.
Nếu áp suất trong bình quá lớn như nồi hơi chẳng hạn, thì nó được đo bằng đơn vị kỹ thuật là ata.
Chênh lệch áp suất trong bình với áp suất ngoài trời được đo bằng ati.
Trong đơn vị kỹ thuật, 1 atm là áp suất của 1 kg lực trên 1 cm2 bề mặt hay 735,56 mm cột thủy
ngân hay 10.000 mm cột nước. Atmotphe vật lý ứng với 760 mm Hg hay 10.333 mm H2O.
Trong công nghiệp lò, áp suất tĩnh học thường chi có giá trị khoảng vài chục mm H2O và thường
được đo bằng manomet (hình 4.1A). Đó là ống thủy tinh hình chữ u, một đầu hở, đầu kia nối thẳng góc
với đường ống. Khi mực nước ờ đầu hở cao hơn, áp suất tĩnh học trong đường ống có giá trị dương,
ngược lại mực nước đầu hở thấp hơn ta nói rằng áp suất trong đường ống có trị số âm hay chân không.
Để đo áp suất động học, người ta hay dùng ống Pitô cho ưong hình 4.2.
152
Hình 4.1. Sơ đồ đo áp suất tĩnh học A, áp suất tổng B và áp suất động học c.
Hình 4.2. Đo áp suất tĩnh học và ống Pitô đo áp suất động học.
Trong hệ đơn vị mới áp suất được đo bằng N/m2. Liên hệ của chúng như sau:
Hình 4.3. Do áp suất tĩnh học nhỏ với ống đặt nghiêng.
153
4.2.2. Áp suất hình học
Khí nóng có khối lượng nhẹ hơn không khí bao quanh, lại nằm ở một chiều cao nào đó, nên
chúng tạo ra một áp suất hình học. Sức hút của ống khói chính là áp suất hình học và bằng chênh lệch
khối lượng giữa hai cột khí và không khí như trong mô hình 4.4. Biểu thị áp suất hình học có thể bằng
Phh hoặc hhh và đơn vị của chúng có thể là N/m2 hoặc mm H2O
= h(Pkk -pK)mmH2O
H - Chiều cao của ống khói, m;
G - gia tốc trọng trường;
Pkk PK- khối lượng riêng hay mật độ không khí và khí. Kg/m3.
“1
--------------- *
Pkk Pk Pkk Pk
I --------------
tKK tK
1
—Lr
Hình 4.4. Mô hình áp suất hình học.
Hình 4.5. Áp suất hình học thiết lập ưong ống khói và kênh khí.
Như vậy áp suất hình học tạo ra phụ thuộc vào độ cao H và khối lượng riêng của khí. Neu chiều
cao H càng lớn, nhiệt độ khí càng cao tức pK càng nhỏ thì áp suất hình học hay sức hút do ống khói tạo
nên càng lớn.
Giữa hai tiết diện kênh hay ống dẫn cũng có thể có áp suất hình học nếu có chênh lệch độ cao của
hai tiết diện này và có khí pK * Pjy, chuyển động trong ống kênh đó (hình 4.5). Trường hợp này áp
suất hình học xác định bằng:
154
hhh - Phh — (H2- Hi)g (pKK Pk )
Giá trị áp suất hình học có thể dương (+) hoặc âm (-). Nểu khí nhẹ chuyển động theo hướng lên
phía trên ta có dấu (+), nếu đi xuống phía dưới ta có dấu (-). Trường hợp PK > PKK quan hệ đó có dấu
ngược lại.
155
Kênh hình chữ nhật cạnh a, b.
2ab
(4.19)
a+b
Nếu Re < 2200 ta có chuyển động dòng.
Re > 2200 ta có chuyền động xoáy hay rối.
Re = 2200 ta có chuyển động quá độ từ dòng sang xoáy.
(4.20)
Trở lực được biểu thị bằng N/m2 hoặc mm H2O hoặc mbar.
Áp suất tĩnh học là năng lượng của dòng khí chuyển động. Nếu đo áp suất tĩnh học ở đầu và cuối
một bộ phận thiết bị nhiệt sẽ thấy chúng giảm đi. Một số nhà máy hay dùng từ sụt áp và điều này có
nghĩa là tổng trở lực cùa bộ phận đó.
156
(4.21)
Trong đó:
p - hệ số ma sát, nó phụ thuộc vào trạng thái bề mặt của kênh dẫn và chế độ chuyển động của khí;
p= 64
Re
(4.22)
V
d-ỂE
c
F - tiết diện ngang của kênh dẫn, m2;
Khi chuyển động xoáy, sự phân bố trờ nên không đều đặn. Do có dòng xoáy mà trở lực tăng.
Ngoài ra ờ tường gồ ghề còn tạo ra trở lực phụ do các dòng xoáy riêng biệt gặp nhau.
Nếu tốc độ chuyển động của khí càng cao, độ xoáy càng lớn thì độ gồ ghề của mặt tường càng có
ảnh hường nhiều đến trở lực. Lớp khí chuyển động dòng ngay sát mặt tường dần dần biến mất do độ
xoáy tăng lên và trở lực sẽ đạt tới giá trị cực đại.
Khi khí chuyển động xoáy trong ống kim loại nhăn, hệ số trờ lực do ma sát không phụ thuộc vào
loại khí chuyển động. Nếu Re < 100.000 hệ số này xác định băng:
„ 0,3164
(4.23)
Re0’25
(4.24)
Re0'12
p= 0,175 (4.25)
’ — n 10
157
Khi độ xoáy của dòng tăng cao, độ gồ ghề của tường cỏ ảnh hưởng rất nhiều đến hệ số trờ lực.
Khi đó hệ số trở lực không phụ thuộc vào chuẩn số Re nữa mà chỉ phụ thuộc vào độ gồ ghề của tường.
P = 0,19 Vẽ
(4.26)
vv02
W t w?
vv0
~ Po S - (4.27)
2g 2g
t-nhiệt độ khí của °C;
- hệ số trở lực địa phương.
158
Vì hệ số trờ lực của địa phương có quan hệ đến áp suất động học nên khi xác định nó
cần phải biết tính áp suất động học theo tốc độ nào. Trong hình 4.6A ta có kênh mở rộng, tốc độ khí
trước lúc mờ rộng là W1 sau khi mờ rộng giảm xuống w2, hình 4.6B, tốc độ khí trước khi thu hẹp là w2
sau khi thu hẹp tốc độ tăng đến W1.
A B
Hình 4.6. Sơ đồ dòng khí qua kênh mở rộng (A) và thu hẹp (B).
Nếu kênh mờ rộng áp suất tổn thất tính theo tốc độ trước lúc kênh mờ rộng nghĩa là theo W|.
(4.28)
Khi co hẹp, áp suất tồn thất tính theo tốc độ ờ đoạn kênh dài thu hẹp, nghĩa là theo Wj.
(4.30)
Trong điều kiện thực tế, sự phân bố tốc độ khí theo tiết diện ngang không đều. Neu là chuyển
động dòng thì sự phân bô đó có dạng đường parabol nghĩa là tỷ lệ tb = 0,5. Trong trường hợp khí
wmax
__
phụt ra từ ống dẫn ra ngoài trời I Jjl = 0 I hệ số trờ lực đối với ống tròn £ = 2,0, đối với tiết diện phẳng
u )
159
Khi chuyển động xoáy, ở phần thẳng của ống ưòn hay chữ nhật với tỷ lệ tốc độ W'b =0,84, hệ
Wm„
~y.tb = 0,9 thì £ = 1,06. Nếu phân bố tốc độ không đối xứng, như khi ngoặt đường ống hay góc mờ của
” max
ống loa quá lớn khi đó cỏ hiện tượng tách dòng khí khỏi tường ống, thì £, = 3,7.
Khi đường ống co hẹp đột ngột, hệ số cản phụ thuộc vào tỷ lện F2/F1 và hình dáng của khu vực
thoát khí như trong trường hợp hình vẽ frên, hệ số càn xác định theo công thức:
£ = 0,5 (4.31)
Nếu cạnh mép của lỗ ống thu hẹp được gia công tròn đi, không sắc như hình trên, thì dòng khí sẽ
đều đặn hơn, giảm được khu vực cắt dòng, xoáy dòng và hệ số càn giảm xuống còn £ = 0,1
Trong trường hợp thay đổi chiều của dòng (hình 4.7) áp suất tổn thất cũng tính theo công thức:
Hệ số £, phụ thuộc vào góc quay a°, bán kính cong cùa mép r, tỷ lệ tiết diện ống dẫn F2/F1, hình
dạng tiết diện ống dẫn chữ nhật (h/b) vị trí quay, mức độ gồ ghề của kênh khí và chuẩn số Re. Ví dụ góc
h
quay a = 90°, mép sắc đối với tiết diện chữ nhật nhưng tỷ lệ chiều cao với chiều rộng — = 0,25 , tường
160
Hình 4.8. Dòng khí hình z và u.
Trường hợp dòng khí có hình chữ z trong hình 4.8, tường nhẵn thì £ có giá trị khác nhau khi
khoảng cách ngoặt khác nhau. Nêu — nhỏ có giá trị nhỏ và tăng đên ệ = 4,22 khi —=1,8. Sau đó
b b
Neu quay theo hình chữ u với tiết diện như nhau, giá trị S, phụ thuộc vào tỷ lệ —. Khí — = 0 thì
b b
£, = 3,6. Tăng tỷ lệ 1/b đến l-ĩ-1,2 ta nhận được điều kiện quay tốt nhất = 1,2. Neu tăng tiếp — thì trị số
b
Nếu lưu lượng vs, VD và VTÍại các nhánh thi hệ số trở lực được tính theo:
161
( EY
vs rT
( V.Y
vs -ka.ạ fvvs
Y
^s=l + -2 k 1 V-rJ (4.35)
V E a Es k T 7
k VT rs 7
r 1--^-
vY -k.Ậ fvvs Y
$0=1- (4.36)
k
vj •p. lvTJ
a 15° 30° 45° 60°
2
^S = A. 1+
(vss RÌ
T
-2 1--^-
r (4.37)
<VT Fs> 1 VTJ
^d=1,55Ặ- (4.38)
V
VT k”
VT 7
£s=l +
(V- E
vs rT -2^ r veY -k i vs
fvV
(4.39)
1-TT-
kV
VT E
rs 7 fd k V VT 7 • F.s k V
VT 7
V
vs Y -2S- V F
-kaẬ fv vs
Y
+K (4.40)
V
VT 7 F„ “ Es k VT J
k 7
L, d: chiều dài và đường kính thủy lực đoạn kênh tính, m;
t: nhiệt độ của khí °C;
Tt Tk: nhiệt độ tường kênh (ống dẫn) và cùa khí °K.
162
Neu khí có nhiều bụi, thì khi tính toán áp suất tổn thất ta dùng hệ số cản như sau:
^df=ạ(l+0,8ụ) (4.43)
Po - Pok + G Kg/m3
Pok- khối lượng thể tích của khí ở điều kiện chuẩn Kg/m3;
G: nồng độ bụi trong khí, Kg/m3.
Do lắng bụi ờ những phần đặc biệt của đường ống, cho nên khi tính toán áp suất tổn thất để lựa
chọn quạt cần phải lấy dự trữ áp suất 20%.
Áp suất tồn thất của lớp sản phẩm xép trên goòng lò nung tuy nen được xác định theo công thức:
(4.44)
(4.45)
Po (4.46)
Khi xác định trờ lực của lớp vật liệu dạng hạt như lớp than trong lò khí hóa, lớp clinke, dolomit
hay vôi trong lò đứng ta dùng công thức sau:
(4.48)
- hệ số cản của lớp vật liệu, nó phụ thuộc vào dạng vật liệu và chuẩn số Re xem hình 4.10.
163
Hình 4.10. Hệ số trờ lực của lóp vật liệu theo Re.
1,53 r 75 15
(4.49)
p4-2 VRe + VrĨ + 1
7
F - hệ số rỗng của lớp (xem bảng 4.1);
f— p
* Pọ
Pvỉ
PvỊ- khối lượng thể tích trung bình của vật liệu (bằng khối lượng chia cho thể tích của nó), Kg/m3;
Po- khối lượng thể tích vật liệu tơi rời (bằng khối lượng tơi rời chia cho thể tích chiếm chồ).
164
Bảng 4.1. Hệ số rỗng cùa lóp vật liệu khác nhau
Ps _ 0,45 w,ddl
(4.50)
(l-f)Vf V,
<273 + tV,
wt = wo — — m/s
l 273 J
dđi - m (4.51)
G1, G2... Gn - khối lượng các phần hạt (Kg) ứng với đường kính của các hạt di Ú2-.. dn (m);
vt- độ nhớt động học m2/s...
ip-ty
AỈÍ1 = 2 (4.52)
273 + ttb
tr- ty- hiệu số nhiệt độ của khí lúc ra và vào °C;
ttb- nhiệt độ trung bình của khí °C.
Áp suất tổn thất của lớp vật liệu có thể xác định bằng công thức sau:
"273 + t
N/m2 (4.53)
. 273
Wo - tốc độ khí ở o°c ứng với toàn tiết diện của lò đứng m/s.
t = 2056 H
(4.54)
' Re dd,
y. _ 1800 , 46
Re + Re0,08 (4.55)
165
Công thức trên ứng với f = 0,4 (thông thường f = 0,4 - 0,6).
Đẻ xác định hệ số cản của lớp vật liệu dạng hạt cũng có thể dùng công thức khác, ví dụ:
H
£>1 = 15,2 fl,8dl,2
(4.56)
(4.58)
a, n - hệ số phụ thuộc vào kích thước trung bình của hạt (bảng 4.2).
Bảng 4.2. Giá trỊavà n đối với vật liệu có hình dạng không đều
Trở lực của lớp than ưong lò khí hóa được xác định tùy theo kiểu ghi lò, cường độ khí hóa và
thường có giá trị như sau: than đá, antraxit, cốc khi cường độ khí hỏa:
150Kg/m2.h 800-1500 N/m2
Trở lực của lớp than trên ghi đốt phăng khi đổt antracit không phân loại 1000 N/m2, có phân loại
800N/m2, than đá và nâu 500 N/m2. Có thể dùng công thức sau để tính:
166
^+2 t,-tđ (4.60)
t - í.
273 + —'đ
2
tđ, tc - nhiệt độ đầu và cuối của khí °C.
Trờ lực của cyclone cỏ thể tính theo tốc độ của ống vào hoặc tốc độ ứng với toàn tiết diện của
cyclone:
Ds= 222W,m
vt- lưu lượng khí ờ nhiệt độ t, m3/;
wt- tốc độ khí ở ống thoát 18 + 22 m/s.
Trở lực của cyclone tính theo công thức:
hs = ^s^-Pt(l+p) N/m2
(4.62)
p - hàm lượng bụi trong dòng khí lúc vào cyclone Kg/Kg;
- hệ số cản của cyclone.
Kiểu SI0T Ss = 4,2
L10T 2,8
NllOgas 2,7 -4,8
Tiêu chuẩn 7,0
Áp suất tổn thất của thiết bị làm lạnh kiểu vệ tinh, và thùng quay ở lò quay khoảng chừng
20 - 80 N/m2.
Áp suất tổn thất của tầng sôi xác định theo công thức:
167
Hl - chiều cao của lớp;
f- Hệ số rỗng ở trạng thái không chuyển động.
Áp suất tổn thất trong lò sấy tháp tháp liên tục khi nâng vật liệu lên một đoạn H (chiều cao của
ống) có thể xác định theo công thức sau:
Nồng độ trung bình Ptb của vật liệu trong lò sấy tháp xác định theo công thức:
Gj-OjSm
(4.65)
Mlb_ GK+0,5(1^+^
£hn=M4
(4.67)
tfd
Khi xếp theo kiểu chồng chéo (kiểu Siemens quân cờ);
J. - 1’57
*■" Vđ (4.68)
d = 2 T7T
a+b
a, b - ngang và rộng của kênh nhỏ trong buồng;
Wo- xác định ứng với tiết diện sổng của đệm khi khối lượng thể tích cùa nó là Po.
Áp suất tổn thất của lớp đệm có thể dùng công thức:
.
hhn "° p0
c
= _ 0,171 W02 _ 273 + tì KT/ 2
n N/m (4.69)
d0,25 2 273 J
168
b - chiều cao của gạch đệm, m;
H - chiều cao của lớp đệm.
Trong lò nung đồ gốm, áp suất tổn thất của chúng có thể xác định bằng công thức sau:
11/7,
£=( ’ 5 )2 (4.71)
V—
Fs- tiết diện sống của toàn lớp vật liệu xếp trong lò, m2;
n, F - số kênh và tiết diện ngang của mỗi kênh, m2;
a - hệ trở lực của kênh 0,012 4- 0,015;
K - hệ số kinh nghiệm K = 0,75 + 2,4.
169
ở mực 2 ta có:
Áp suất trong binh Pk = Pa - Hg . Pk . N/m2
Áp suất ngoài không khí Pkk = Pa - Hg Pkk N/m2
Do đó:
Ap = pk - Pkk = Hg (Pkk - pk)N/m2 (4.72)
Pk = Pa + Hg Pk
Pkk ~ ?a + Hg Pkk
= -H(pkk- pk)mmH2O
Trong trường hợp đầu, áp suất khí trong bình lớn hơn áp suất ngoài trời, trị số AP càng lớn nếu H
càng lớn và Ap càng lớn. Nếu ta mở vòi nối khí với không khí, trong bỉnh sẽ theo đường ống đó đi ra
ngoài ười.
ở trường hợp thứ hai, áp suất khí trong bình nhỏ hơn áp suất không khí. Cho nên nếu ta mở cửa ở
dưới, không khí sẽ ùa vào bình và đẩy khí ra khỏi bình lên phía frên.
Vậy ta có kết luận: Neu khí frong bình nằm ờ trạng thái tĩnh và nhẹ hơn không khí bao quanh thì
áp suất khí sẽ tăng lên theo chiều cao nếu bình hở đáy và giảm xuống nếu bình hở miệng. Nếu khí nặng
hơn không khí thì quan hệ đó ngược lại.
M = Fl W1 Pl = F2 w2 p2 = const (4.73)
Dođỏ: w= X
F
Nếu T1 = T2 và F1= F2 thì:
170
T
Do đó: W2 = W1 TT (4.76)
A1
Neu trên đường ống không kín, khí trong ống rò ra ngoài hoặc không khí lọt vào đường ống qua
lỗ hờ đó, thì phương trình liên tục của dòng có dạng sau:
Phh- khối lượng thể tích của hỗn hợp khí Kg/m3;
p2- khối lượng thể tích của khí lọt Kg/m3;
AV - lượng khí lọt vào có dấu (+) và rò ra ngoài cỏ dấu (-), m3/s.
„
H,+, — . W2 „
p, += P2 +, -T
H2+, — W222-___
= constt (4-78)
Pg 2g Pg 2g
Đối với lm3 khí sẽ có:
. ~ . w2
H Pg + p +----- p = const (4.79)
^+ía+dR=o
2 p
R - công ma sát hay áp suất tổn thất.
Tốc độ khí w phụ thuộc vào tiết diện của ống kênh và nhiệt độ. Nếu kênh mở rộng, đồng thời áp
suất động học không đổi thì áp suất tổn thất chi để thăng trờ lực do ma sát.
Trong ống kênh nằm ngang với tiết diện không đổi, quan hệ giữa sự biến đổi nhiệt độ và áp suất
có thể viết dưới dạng:
171
Giả thiết không có ma sát dR = 0
-dP = pWdW
Lấy tích phân:
/
P1-P2 = P2 W22-p1W12=2
X
Nếu ống kênh không nằm ngang, chiều cao của tiết diện 1 là H], của tiết diện 2 là H2 và H2 > H1
ta sẽ có phương trình:
(273 T.
P>-P2=2 -^--p2-^P1 +Po_fZ£_g(H2-H1)lni+R (4.82)
k 2 2 2 a2 - >1 M
Những phương trình trên sử dụng khi nhiệt độ thay đổi nhiều như ương buồng hồi nhiệt.
Hình 4.12. Sự chuyển áp suất tĩnh học thành áp suất động học.
172
Dự trữ năng lượng của khí là áp suất tĩnh học, nhờ đó mà khí chuyển động. Trong dòng khí
chuyển động lại xuất hiện áp suất tổn thất. Như vậy, ngay cả khi chuyển động khí theo đường ống có
tiết diện không đổi, áp suất tĩnh học dần dần chuyển thành áp suất động học và áp suất động học lại liên
tục chuyển thành áp suất tổn thất mặc dù chi là một phần.
bđh —htt
bhh —hth
173
Khi khí chuyển động ngang từ tiết diện 1 - 1 qua 2 - 2 tới tiết diện 3-3, tổng áp suất sẽ là:
Giả thiết rằng khi chuyển động qua tiết diện 2-2 đường kính ống giảm đi 2 lần (di = 2d2); diện
tích tiết diện giảm đi 4 lần và áp suất động học khi đó tăng lên 16 lần. Sự tăng quá mạnh áp suất động
học ở cồ ống Venturi sẽ dẫn tới hiện tượng là đại lượng áp suất động học lớn hơn nhiều so với tổng áp
suất. Do đó áp suất tĩnh học phải là trị số âm nghĩa là ờ cồ ống Venturi là chân không.
Tiếp tục chuyển đến tiết diện 3 - 3, do tiết diện ống mở rộng (ống loa) áp suất động học lại
chuyển thành áp suất tĩnh học. Khi di = d3 áp suất động học hđhi = hđh3 vì tiết diện như nhau nên áp suất
động học như nhau. Áp suất tổn thất sẽ bằng hiệu số của hai áp suất tĩnh học htt = hthi - hth3 và có thể đo
được bằng các ống thủy. Khi biến đổi tiết diện ống một cách đều đặn thì áp suất tổn thất tương đối
không lớn. Vì vậy có thể cho phép sử dụng một cách hiệu quả nhất áp suất tĩnh học của khí để nhận tốc
độ của khí cao ờ cổ ống Venturi. Nhờ vậy người ta đã sử dụng thành tựu này để đo lưu lượng khí hay
lỏng trong các ống dẫn và thiết kế các vòi phun, mò đốt, cho phép biến nhiên liệu lỏng như mazut FO
thành dạng bụi.
Khi đo lưu lượng khí bằng ống Venturi, người ta đo chênh lệch áp suất tĩnh học:
(4.84)
Xuất phát từ tính liên tục của dòng và W1F1 = W2F2 ta có thể biến đổi tốc độ:
Áp suất tổn thất cỏ thể biểu thị qua áp suất động học:
W-2
h«=^p N/m2
Khi đó:
(4.85)
174
Do đó lưu lượng khí:
2Ahlh m3/h
V = 3600 W2F2 = 3600 F2
p(l-a2+^)
c - hằng số đối với mỗi loại khí chuyển động trong điều kiện cụ thể của kích thước ống dẫn.
Ví dụ: Hãy tính toán sự biến đồi áp suất tĩnh học thành áp suất động học đối với ống Venturi có
đường kính di = 80 mm, d2 = 25 mm áp suất tĩnh học hthi = 500 mm H2O, tiêu tốn không khí Vkk = 200
m3/h, Ykk= 1,2 Kg/m3.
Giải
1. Tốc độ không khí ờ tiết diện 1 - 1 (hình 4.13):
3. Tổng áp suất:
200-4
w2 = = 113,3 m/s
3600.71-0,252
133.32
hđh2 - -77-77-• 1,2 = 786,0 mmH20
19,62
6. Áp suất tổn thất khi hệ số = 0,15
175
Khi đó chênh lệch áp suất tĩnh học sẽ bằng:
Lò có thể làm việc dưới áp suất âm bởi thiết bị hút gió (quạt hút hay ống khói) với đường phân
bố áp suất ờ hình 4.14B. Làm việc dưới áp suất âm, đặc biệt lò dài như lò tuy nen chẳng hạn, trị số áp
suất âm càng phải cao hơn ở zôn đốt nóng. Kết quả không khí lạnh sẽ lọt vào lò qua các khe hờ, lỗ quan
sát, cửa đốt. Đặc biệt ở lò tuy nen, độ kín của lò tương đối kém, không khí lọt vào càng nhiều làm nhiệt
độ phân bố trong lò càng không đều.
176
Tốt hơn cả là lò làm việc kết hợp cả quạt đẩy và quạt hút theo hình 4.14C. Ở đầu vào có quạt đẩy
ta có áp suất dương, ờ đầu ra có quạt hút và ta có áp suất âm. Giao điểm áp suất ±0 khi chuyển áp suất
dương sang âm nằm ở zôn nung. Với sơ đồ này, áp suất dương có trị số không lớn nên khí lọt ra ngoài
cũng ít đi nhiều. Áp suất ờ cuối lò cũng nhỏ đi nhiều nên không khí lọt vào lò giảm đi. Đặc biệt ở zôn
nung, áp suất gần bằng áp suất ngoài trời, vì vậy chế độ nhiệt trong lò ổn định, điều kiện làm việc tốt hơn.
Đối với các lò khác cũng vậy, phải bố trí làm sao để zôn nung ờ nhiệt độ cao nằm trong phạm vi
áp suất ±2 mm H2O (±20 N/m2). Vi vậy ờ các lò nung gốm sứ, thủy tinh, xi măng việc tính toán quạt gió
phải đảm bảo zôn nung nằm trong phạm vi áp suất trên.
đồng thời phải dự trữ 20 4- 40% áp suất, cho nên áp suất tính toán sẽ bằng:
Chiều cao của ống khói xác định theo phương trình:
h,' = Hg(p™
5^/ H 2 /-0V 273 2 ° 273
(N/m2) (4.91)
P,K, pf - khối lượng riêng của không khí và khói lò ờ nhiệt độ t, Kg/m3;
p - hệ số ma sát của khí vào thành ống khói.
ống gạch p = 0,035 4- 0,05
ống kim loại p = 0,025 4- 0,03
Dtb - đường kính trung bình của ống khói hay đường kính của ống khói ờ chiều cao H/2.
(m) (4.92)
Dn 1,5 Dm (4.93)
Wotb, Wom - tốc độ trung bình và tốc độ khí ờ miệng ống khói trong điều kiện chuẩn, m/s và được
xác định theo Dtb, Dm;
t tb, tm- nhiệt độ khí trung bình ở miệng ống khói, °C;
177
£ - hệ số cản địa phương, kể đến tổn thất áp suất khi khí thoát khỏi miệng ống khói £ = 1,06 -ỉ- 1,15
(tốc độ nhỏ lấy = 1,15).
Đẻ xác định đường kính miệng ống khỏi Dm, ta chọn Wom trong khoảng 4 4-5 m/s. Tốc độ không
được nhỏ hơn 2 m/s, vì nếu nhỏ hơn thì không khí dễ lọt qua miệng ống khói vào lò. Cũng không được
vượt quá 6 m/s, vì khi đó sức cản của bản thân ống khỏi tăng lên.
Ờ công thức trên chúng ta thấy, số hạng thứ nhất là áp suất hình học do ống khói tạo nện, số hạng
thứ hai là áp suất tổn thất do ma sát, số hạng thứ ba là sức cản địa phương do khí qua miệng ống khói ra
ngoài.
Nếu biết lưu lượng khí Vok ở điều kiện chuẩn m3/s thì ta dễ dàng xác định đường kính miệng ống
khỏi theo công thức sau:
(4.94)
Đường kính ống khói thường không được nhỏ hơn 0,8 m. Nhiệt độ khí ở nền ống khói tính
theo độ hạ nhiệt độ trong kênh lò. Nhiệt độ khí ở miệng ống khói tm xác định trên cơ sờ nhiệt độ
khí ờ nền ống khỏi và cứ 1 m chiều cao của ống khói bằng gạch hạ đi 1 4- 1,5°c/m và ống khói kim
loại hạ đi 2 4- 3°c/m.
Vì chưa biết chiều cao H của ống khói nên ta phải giả thiết, rồi sau đó ta kiểm ưa lại. Có thể lấy
gần đúng chiều cao H băng giản đồ hình 4.15 và 4.16.
Hình 4.15. Chiều cao ổng khói phụ thuộc vào chân không
178
600
500
i too
ỉ
I 300
i
iS 200
5
8
100
Theo yêu cầu vệ sinh và phòng hóa chiều cao ống khói không được nhỏ hom 16 m và phải cao
hom mái nhà cao nhất ờ phạm vi bán kính 100 m là 5 m. Neu khí thải hay khỏi lò có chứa nhiều khí độc
hại như NOX, SƠ2... thi chiều cao của ống khói phải cao hom 100 m. Chiều cao lớn nhất cùa ống có thể
đạt tới 200 m.
Nếu nhiên liệu tiêu tốn khoảng 5 tấn/giờ thì chiều cao ống khói chừng khoảng 30 m, nếu tăng đến
ÌOO - 200 tấn/giờ thì chiều cao ống khói phải lớn hom ÌOO m. Nếu ống khói dùng chung cho hai lò thì
chiều cao ống khói ứng với lò nào có sức cản lớn nhất và lưu lượng khí bằng tổng lưu lượng của hai lò.
Dưới chân ong khỏi phải có tường ngăn cao ít nhất 2 -5- 4 m để khói lò của lò này không chạy sang lò kia.
Trên miệng ống khói phải có chống sét, đèn đỏ ban đêm. Thành ống khói cao phải được som phản
quang vòng trắng vòng đỏ liên tiếp và đôi khi có cả đèn đỏ nếu ống khói rất cao.
Ví dụ.
Xác định kích thước của ống khói để đưa khói lò ra với số liệu sau: Lượng khí thải Vo = 4500
m3/h, nhiệt độ khí ờ nền ống khói tn = 350°C, nhiệt độ môi trường xung quanh 20°C, đại lượng sức cản
tính toán kể cả chân không dự trữ là ht = 200 N/m2 (IO N/m2 = l mmF^O).
Giải.
Đầu tiên căn cứ vào giản đồ hình 15 ta chọn chiều cao gần đúng H = 30 m.
Nhiệt độ khí ở miệng ống khói xác định theo mức hạ nhiệt độ đối với ống khói gạch At = l ,5°c/m,
do đó:
179
Tm = tn -30 At = 350 - 30.1,5 = 305°C
350^305 = 32?.c
Xác định khối lượng riêng của khí và không khí, lấy khối lượng riêng của khí ở điều kiện tiêu
chuẩn pk0 =1,3 Kg/m3
273
Chọn tốc độ khí ở miệng ống khói là 4 m/s, từ đây ta tìm được đường kính miệng ống khỏi như
sau:
Dm
4500
= 2,5 m/s
Om 3600.0,785.0,8
Đường kính nền ống khói sẽ băng:
0,8 +1,2
% = 2 = 1,0 m
Thay các trị số vào công thức với p = 0,035 và £ = 1,06 để tìm chiều cao H của ống khói:
180
350 + 296 _ 323oc
tlb =
2
= 0,597 Kg/™3
273
Tiếp tục tính toán như trên ta được chiều cao H = 36,1 m
Chiều cao xây dựng ống khói lấy bằng H = 36 m
181
Ĩ400
2200
E ĨGŨO
z fMn
I
•<«**
i
ạ.
8000
24000 B £
ÍOỔỮŨ .«
88000 1
Hình 4.17. Giàn đồ lựa chọn quạt gió (10 N/m2 = 1mmH2O).
n = —■ vòng/phút
(4.95)
vt- lưu lượng khí cần phải thổi hay hút ờ nhịêt độ cho, m3/h;
Ht- áp suất toàn bộ mà quạt phải thành lập ở nhiệt độ cho, N/m2;
Tịq — hệ số tác dụng hữu ích của quạt;
T|c- hẹ sô truyên trục, tùy theo dạng truyền trục và dao động trong khoảng 0,90 4- 0,98
182
Hình 4.18. Giản đồ lựa chọn quạt gió ảp suất cao (10 N/m2 = 1 mmH2O).
Khi thiết lập các thông số quạt, áp suất của quạt được xác định đối với không khí ở 20°C
(p = 1,2). Khi sử dụng quạt để hút khói lò chẳng hạn, khối lượng riêng của khí Pk khác nhiều với khối
lượng riêng của không khí. Do đó áp suất để tính toán và lựa chọn quạt sẽ bằng:
= VU N/m2 (4.97)
Pk
htt - toàn bộ sức cản thủy lực đã kể đến dự trữ 20 -í- 40%.
Nếu sử dụng quạt hút thì phải thổi ra ống khói có độ cao không được nhỏ hơn 16 m với tốc
độ 10 + 20 m/s. Nhiệt độ khí thải phải trên 100°c để tránh ngưng tụ hơi nước.
Công suất động cơ điện thực tế dùng:
N = K . Nđc (4.98)
183
K - hệ số dự trữ, kể đến công suất khởi động. Hệ số này phụ thuộc vào công suất ở trục động
cơ Nđc.
Công suất ở trục động cơ đến 0,5 kw........... K. = 1,5
- - 14-2 1,2
- - 24-5 1,15
— — >5 1,1
Khi thay đổi số vòng quay của quạt thì năng suất, áp suất và công suất sẽ thay đổi theo định
luật sau:
n\
(4.99)
K2 n2 *2 2
ỉĩ2 N2 ■ n3
2
Phương pháp đặt quạt
Trong công nghiệp, ta thường gặp một quạt phục vụ cho hai hoặc nhiều hệ thống lò. Trong
trường hợp đó quạt gió phải có thông số như thế nào cho thích hợp. Chúng ta hãy khảo sát sơ đồ một
quạt dùng cho bốn lò như nhau (hình 4.19).
A B
ht = hi + hĩ + hỉ
Như vậy áp suất yêu cầu của quạt bằng áp suất một trong bốn mạch đó vì trở lực bốn mạch bằng
nhau. Nếu lò không giống nhau, trờ lực khác nhau, thì áp suất yêu cầu của quạt phải chọn ứng với mạch
có trở lực lớn nhất. Lưu lượng khí cần thiết của quạt sẽ bằng tổng lưu lượng của các mạch (tức bốn lò ở
sơ đồ trên).
Trường hợp dùng quạt hút, ừong lò tạo nên chân không lớn. Vì vậy không khí bên ngoài lọt vào
lò khá nhiều qua các khe hở, lỗ quan sát, cửa lò làm hệ số tiêu tốn không khí tăng lên đôi khi tới a = 5
hoặc hơn.
184
Gọi lượng khí vận chuyển theo tính toán vt m3/h, vì lượng không khí lọt vào nên lưu lượng khí
thực là Vthực m3/h.
Do đó tốc độ khí tăng lên TỊ lần:
(4.100)
' ? 1 * 1 A 1A 2 1i
và trở lực của hệ tăng lên r| lân.
hthực = ht.ĩ|2 N/m2 (4.101)
20A: hai quạt hút khí từ hai nguồn và cùng đưa vào lò sấy.
20B: hai quạt cùng hút khí từ một nguồn và thổi vào một hệ thống lò.
20C: hai quạt cùng hút khí từ một nguồn và thổi vào hai hệ thống lò.
20D: mắc quạt nối tiếp, quạt thứ nhất hút khí thổi vào quạt thứ hai, sau đó quạt thứ hai thổi vào
hệ thống lò.
Đặc tính của mạng gồm hai quạt như nhau mắc song song được khảo sát trong hình 4.21. Đường l
đặc trưng của một quạt làm việc, đường 2 đặc trưng của hai quạt đồng thời làm việc, đường 3 là đường
đặc trưng của mạng. Khi áp suất không đồi hl = const thì rõ ràng năng suất của hai quạt đồng thời làm
việc sẽ tăng lên gấp hai lần năng suất của một quạt (2V1).
185
Hình 4.21. Giản đồ mắc quạt song song.
Tuy nhiên nếu tăng lưu lượng của mạng thì tổn thất áp suất của mạng cũng biến đổi và biến đồi
theo đường parabol (đường 3). Vì vậy năng suất của mạng phụ thuộc vào điểm cắt a2 của đường 2 và
đường 3. Điểm a2 chi rằng năng suất của mạng tăng lên n = ỈLiỉk lần và áp suất của mạng tăng từ hi
đến h2. Trong điều kiện đó mỗi quạt sẽ có năng suất Ĩ-LLỊÍ và áp suất là 112. Hệ số tác dụng hữu ích
2
của mỗi quạt sẽ nhỏ hơn hệ số tác dụng hữu ích cực đại.
Nếu thay đổi trờ lực của mạng tức hl = const thì điểm a2 sẽ chuyển đến a’2, năng suất của mạng
sẽ tăng gấp đôi.
186
Trong trường hợp cần tăng áp suất của mạng và duy trì năng suất không đổi thì có thể dùng cách
mắc nối tiếp hai hoặc nhiều quạt. Khi lựa chọn quạt cần căn cứ theo giản đồ hình 4.22. Mắc nối tiếp hai
quạt thì mỗi quạt sẽ làm việc ờ áp suất bktJh- và năng suất mỗi quạt chính là năng suất của cả mạng
2
(điểm a2). Như vậy tức là ở mạng nối tiếp mỗi quạt sẽ làm việc với lưu lượng cao hơn và áp suất thấp
hơn so với trường hợp nó làm việc độc lập. Còn ờ trường họp mắc song song thì quan hệ đó lại ngược
lại. Trong trường họp trờ lực của hệ thay đổi thi hệ của mạng có thể làm việc với lưu lượng như một
quạt thì áp suất của mạng sẽ tăng gấp đôi nghĩa là bằng 2hi.
Néu hai quạt có đặc tính khác nhau, cùng làm việc trong một mạng song song hoặc nối tiếp có
thề dẫn tới hạ thấp các chỉ tiêu của quạt, lưu lượng tổng và áp suất tổng có thể nhỏ hơn so với một quạt.
Vì vậy cần khảo sát kỹ càng những đặc tính của chúng khi cho chạy trong cùng một mạng.
Khin
Khí
Trên cơ sở nguyên tắc này người ta chế tạo những vòi phun hay xả khí để thải khói lò ra ngoài
trời (Ejector) và vòi phun vào trong như vòi đốt nhiên liệu khí hay vòi đốt nhiên liệu khí ờ các lò nung
(Injector). Cũng dựa nguyên tắc đó người ta chuyển khói lò hay khí độc hại hoặc không khí ờ nhiệt độ
cao mà quạt không chịu nồi đến vị trí cần thiết. Ví dụ hút không khí nóng từ zôn làm nguội của lò nung
tuynel đưa sang lò sấy hay sang zôn khác của lò. Cũng với nguyên tắc này người ta có thể phối hợp hai
loại khí khác nhau để chúng thực hiện phản ứng hóa học tạo sản phẩm mới.
Vòi phun này thường có dạng như trong hình 4.24. Để tiện tính toán ta gọi khí I là khí phun và
khí II là khí hút theo. Trong công nghiệp lò, khí I thường là không khí từ quạt hoặc máy nén khí hoặc
hơi nước quá nhiệt, khí II thường là khói lò.
Tính toán vòi phụ được tiến hành trên cơ sở phương trình vật chất chuyển động.
Trong đó:
mi - khối lượng khí phun I với lưu lượng V1 m3/s và khối lượng riêng P! kg/m3.
m2 - khối lượng khí hút theo II với lưu lượng v2 m3/s và khối lượng riêng p2 kg/m3.
m2 = v2.p2 Kg/s
187
W1 - tốc độ khí phun I, m/s;
W2 - tốc độ khí hút theo II, m/s;
w3 - tốc độ hỗn hợp khí, m/s;
Từ phương trình trên ta rút ra:
Tốc độ khí phun W1 xác định theo áp suất động học của khí phun I. Nếu áp suất tĩnh học trong ống
khí phun là hi, áp suất tĩnh học ở cổ ống loa là h3 thì áp suất động học sẽ tương ứng với phương trình:
2 P1 N/m2 (4.105)
(4.106)
W2
h. = pỵ + h2 N/m2 (4.107)
1 2^ ' 3
188
Áp suất tĩnh học ờ cổ loa h2 xác định theo thông số của khí hút II, đó chính là chân không cần
thiết để thải khí trong lò ra ngoài và thường có giá trị âm. Vì vậy h2 = htt. Tốc độ của khí hút II đi vào cổ
ống lấy trong khoảng w2 = 8-12 m/s.
Như vậy áp suất của khí hút II bằng chênh lệch áp suất tĩnh học của khí hút II với cổ ống.
Từ đây áp suất tĩnh học của hỗn hợp khí ở cổ ống sẽ bằng:
N/m2 (4.110)
D4 = 2,4D3 m (4.112)
Chiều dài cổ ống 12 và khoảng cách từ miệng ống phun đến cổ ống 1ị thường lấy như sau:
Chiều dài ống loa L3 = (7 4-10) D3 hoặc tính theo góc mở của ống:
(4.113)
Ở đây £=44-8°
2
Khi khí chuyển động từ dưới lên, bản thân vòi phun tạo ra một áp suất hình học, vì vậy sẽ làm
tăng áp suất chung của vòi phun. Những tính toán trên đây không kể đến giãn đẳng nhiệt của khí phun I.
Cho nên với sai số không lớn lăm 1 4- 3%, có thể dùng để tính toán với áp suất khí không quá 10.000
N/m2.
Với vòi phun lò nung tuy nen có thể tính toán theo công thức Baulin:
N/m2 (4.114)
189
Trong đó:
htt - trờ lực trên đường đi của không khí theo II và hỗn hợp sau khi trộn đến cửa đốt, N/m2;
htd - áp suất động học của không khí phun I ống phun không khí, N/m2;
X - tỷ lệ tiết diện cổ loa và miệng ống phun khí I;
X tư - tỷ lệ tối ưu của hai tiết diện trên ứng với hệ số tác dụng hữu ích lớn nhất của vòi phun.
TỊ - hệ Số tác dụng hữu ích của ống loa khi góc mờ a = 10°, T| = 0,75;
<p — tỷ lệ khối lượng không khí hút theo II với khối lượng không khí phụ I hoặc tỳ lệ thể tích của
chúng ở 0°;
p - tỷ lệ mật độ (khối lượng riêng) của khí hút theo II và không khí phun I.
Ví dụ:
Xác định tach thước vòi phun để thải khói lò với các thông số sau: lưu lượng khói lò V2 = 2,33 m3/s,
nhiệt độ khói lò 567°c, khối lượng riêng p°2 = 1,293 Kg/m3, áp suất cần thành lập 112 = 392 N/m2
(40 mm H2O). Khí phun là không khí có áp suất hi = 4900 N/m2 (500 mm H2O), P°1 = 1,26 Kg/m3, áp
suất ở miệng ống loa 114 = 196,2 N/m2 (20 mm H2O).
Giải:
Đầu tiên ta xác định khối lượng riêng của khí thải:
Lấy tốc độ của khói lò w2 = 10 m/s, khi đó áp suất tốc độ của khói lò là:
190
Đưa số liệu về phương trình cơ bàn ta có:
h4 - h3 = n (Ị/|P|W| ~r2p2^2)2
7‘2(K,p1 + K2p2)(K1+r2)
0,96 2
= ’ =0.0123 m
78
D1 = 0,125 m
f.=^
Wi = ^^
47,8
= 0,069 m2
D3 = 0,30 m
Đường kính miệng ống lấy bằng: D4 = 2,4D3 = 2,4.0,3 = 0,72 m
Chiều dài ống loa: L3 = 7.D3 = 7.0,3 = 2,1 m
191
CHƯƠNG 5
Trao đổi nhiệt là hiện tượng vận chuyển nhiệt tự nhiên từ vật thể có nhiệt độ cao đến vật thể có
nhiệt độ thấp hơn, hoặc xảy ra ngay bên trong một vật thể do sự phân bố nhiệt độ trong vật thể đó không
đồng đều.
Từ định luật thứ hai về nhiệt động học cho phép ta giải thích việc chuyển vận nhiệt từ vật thể
nhiệt độ cao tới vật thể có nhiệt độ thấp hơn. Sự xuất hiện trao đổi nhiệt gắn liền với sự tồn tại chuyển
động nhiệt phân tử, do chuyển động đó mà giữa các phân tử tiến hành trao đổi động năng cho nhau.
Trao đổi nhiệt giữa hai vật thể tiếp xúc với nhau là do sự biến đổi tương hỗ của năng lượng nhiệt và
năng lượng bức xạ. Chúng ta biết có ba dạng trao đổi nhiệt: dẫn nhiệt, đối lưu và bức xạ. Ở nhiệt độ
thấp hơn 500 - 600°C trao đổi nhiệt chù yếu là đối lưu, khi tăng quá 1000°C thi bức xạ chiếm vai trò
chủ yếu. Song trong đa số trường hợp cả ba dạng trao đổi nhiệt đều tham dự đồng thời.
Trao đồi nhiệt bằng dẫn nhiệt xảy ra không những ờ các vật thể rắn mà ngay cả trong lớp mỏng
của chất lỏng và khí đứng im. Vật thể có cấu tạo phân tử khác nhau thì truyền nhiệt bằng dẫn nhiệt và
đối lưu cũng không giống nhau.
Ý nghĩa trao đổi nhiệt trong công nghiệp lò rất lớn cả vì phương diện kỹ thuật lẫn kinh tế. Vì vậy
khảo sát những định luật về trao đồi nhiệt là vô cùng cần thiết và những kiến thức cơ bản về truyền
nhiệt là không thể thiếu khi nghiên cửu lò công nghiệp. Trong thực tế đã có khá nhiều phần lý thuyết
truyền nhiệt được nghiên cứu tại các giáo trình khác nên ở chương này chỉ nhắc lại những lý thuyết
chung nhăm ứng dụng trong lò công nghiệp vật liệu silicat mà thôi.
Đơn vị nhiệt dùng trong tài liệu này gồm: w và Kj
Khi đổi đơn vị: w = J/s; kw= Kj/s; 1 calo = 4,187 j; 1 Kcal/h = 1,163 w.
1 Kcal/Kg.°C = 4,187 Kj/Kg°C; 1 Kcal/m.h.°C = 1,163 w/m.°c.
Khu vực trong vật thể ở mọi điểm frong thời điểm cho có nhiệt độ như nhau tạo thành trường
nhiệt độ. Gọi là trường nhiệt độ ổn định khi nhiệt độ của nó trong thời gian cho không bị thay đổi. Nếu
nhiệt độ của nó bién đổi theo thời gian thi ta gọi nỏ là trường nhiệt độ không ổn định.
192
Vị trí hình học của các điểm có nhiệt độ như nhau sỗ tạo ra mặt đẳng nhiệt. Dòng nhiệt sẽ đi từ
mặt đẳng nhiệt có nhiệt độ cao tới mặt đẳng nhiệt có nhiệt độ thấp hom.
Gọi khoảng cách giữa mặt đăng nhiệt thứ nhất tới mặt đăng nhiệt thứ hai là n, chênh lệch nhiệt độ
giữa hai mặt này là Aí thì gradian nhiệt độ của nỏ sẽ là:
Lượng nhiệt Q tính bằng w (hoặc jun đi qua vật thể sau 1 giây) đi qua vật thể gọi là công suất
dòng nhiệt (hoặc biểu thị bằng 1 Kcal/h; 1 Kcal = 4,187 Kj; 1 Kcal/h =1,163 W).
Dòng nhiệt ứng với một đơn vị bề mặt gọi là dòng nhiệt riêng hay tải trọng nhiệt diện tích hoặc
cường độ dòng nhiệt:
Lượng nhiệt truyền đi băng dẫn nhiệt của lớp mỏng vô hạn xác định theo định lụât của Fourier:
Đối với tường có chiều dày 3 và nhiệt độ bề mặt là tị và t2, sau khi lấy tích phân và đổi dấu ta sẽ
có phương trình truyền nhiệt sau:
Nếu ổ = lm, ti -12 = 1 °C; F = lm2 thì Q = 2 . Từ đây ta có định nghĩa sau: độ dẫn nhiệt chính là
cường độ của dòng nhiệt w đi qua lm2 bề mặt khi chênh lệch nhiệt độ là l°c trên 1 m đường đi của nó
và được biểu thị bằng w/m.°c (Kcal/m.h.°C). cần lưu ý trong nhiều tài liệu đều ghi đơn vị chính thức
là W/m.°K hoặc Kcal/m.h. °K, tuy nhiên khi tính toán ta vẫn dùng °C vi hiệu của °K vẫn là °C.
Đại lượng độ dẫn nhiệt phụ thuộc vào bản chất của vật thể và vào nhiệt độ. Độ dẫn nhiệt của một
số vật liệu cho trong bảng 5.1 và 5.2.
Độ dẫn nhiệt của vật liệu cách nhiệt giảm đi nếu giảm mật độ thể tích của nó vì số lượng lỗ xốp
tăng lên mà trong lỗ xốp này có không khí chuyển động và dẫn nhiệt kém (X = 0,023 w/m.độ). Mặt
khác các lỗ xốp này đóng vai trò như vách ngăn làm hạn chế dòng dẫn nhiệt đi qua.
193
Bảng 5.1. Tính chất của một số vật liệu
Độ dẫn nhiệt của vật liệu xây dựng tăng lên rất nhiều nếu tăng độ ẩm của chúng. Ví dụ cát khô có
X = 0,32 w/m.độ khi độ ẩm l i% X = 1,15 w/m.độ (Xnước = 0,58 w/m.độ).
5.1.2. Truyền nhiệt qua tường phẳng một lớp và nhiều lớp
Trong công nghiệp lò chúng ta thường gặp tường lò có một lớp vật liệu và tường gồm nhiều lớp
vật liệu khác nhau. Việc lựa chọn vật liệu để xây lò có ỷ nghĩa lớn nhằm bảo vệ lò đồng thời giảm tổn
thất nhiệt ra môi trường xung quanh. Trên cơ sở đó, đối với lò sấy ờ nhiệt độ không quá 200 - 250°C
chúng ta chi cần xây tường một lớp. Tường lò nung hay các thiết bị nhiệt khác làm việc ở nhiệt độ cao
thường có ba lớp. Lớp trong cùng là gạch chịu lửa, lớp giữa là vật liệu cách nhiệt, lớp ngoài cùng
thường xây băng gạch đỏ. Ngày nay có những lò làm việc ở nhiệt độ tương đối cao nhưng vẫn dùng
tường lò có một lớp bông gốm chịu lửa vì độ cách nhiệt của chúng tương đoi cao.
194
Bảng 5.2. Nhiệt dung riêng, độ dẫn nhiệt của một số vật liệu chịu lừa*
195
Bảng 5.2. Nhiệt dung riêng, độ dẫn nhiệt của một số vật liệu chịu lửa* (tiếp)
* Có giá trị dùng cho thiết kế, tính toán *♦ 1 Kcal/Kg.°C = 4,187 Kj/Kg.°c
Đối với tường . lớp, ta có thể áp dụng một cách đơn giản định luật Fourier. Nếu coi mặt đẳng
nhiệt bên trong có nhiệt độ ti, bên ngoài có nhiệt độ t2, chiều dày của tường s, bề mặt F m2 ta sê có công
suất dòng nhiệt:
»-2-4«.-',)
' F ỏ
w/m2 <5-5)
tỵ~t, 1
Hay q = -3—-^ w/m2
Ờ
Ằ
£
Giá trị — được gọi là nhiệt trở (nội) của vật liệu. Đại lượng q và Q tăng khi nhiệt trở nội giảm đi
Ẵ
mà vẫn giữ nguyên chênh lệch nhiệt độ. Khi độ dẫn nhiệt X giảm đi mà 8 không giảm thì nhiệt trở nội sẽ
tăng lên rất nhiều và đại lượng q hay Q sẽ giảm đi.
196
Đối với tường gồm ba lớp vật liệu khác nhau có chiều dày S|, Ô2, 83 với độ dẫn nhiệt tương ứng
X|, ^2, X3 như trong hình 5.1, dòng nhiệt q có chiều đi từ mặt có nhiệt độ ti tới mặt có nhiệt độ t4
khi ti > tị. Với chế độ nhiệt ổn định, lượng nhiệt đi qua ba lớp đều bằng nhau tức là:
<2
Í3
51 52 83
A.1 X2 À3
Suy ra phương trình xác định sự biến đồi nhiệt độ của các lớp:
(5.9)
Al
(5.10)
A
(5.11)
Tổng quát đối với tường cỏ n lớp cường độ dòng nhiệt có dạng:
197
(5.14)
Giá trị E—— gọi là tổng nhiệt trở nội của các lớp vật liệu xây lò. Muốn giảm lượng nhiệt truyền
bằng dẫn nhiệt ra ngoài thì phải giảm tổng nhiệt trờ nội. Cũng giống như đối với tường một lớp, muốn
giảm lượng nhiệt này thì cần phải sử dụng vật liệu cách nhiệt với giá trị X thấp.
5.1.3. Truyền nhiệt qua tường hình trụ một lớp và nhiều lớp
Nguyên tắc truyền nhiệt qua tường hình trụ cũng giống như tường phẳng. Điểm khác nhau cơ bàn
là cường độ dòng nhiệt giảm từ trung tâm ống trụ tới mặt ngoài, do đòng nhiệt liên tiếp đi qua bề mặt
mở rộng của ống.
Ĩ2
Nếu trong tường hình trụ bán kính trong là ri và bán kính ngoài là (hình 5.2), ta chia chiều dày
nó ra thành những đoạn dr với chênh lệch nhiệt độ dt, theo định luật Fourier cường độ dòng nhiệt qua
lớp dr biểu thị bằng phương trình:
Q = -Ả^-F w (5.16)
dr
Dấu ầm trong phương trình thể hiện sự giảm nhiệt độ theo chiều của dòng nhiệt.
198
(5.17)
Q.dr
Từ đây: (5.18)
Dòng nhiệt đi qua tường từ ri đến r2 trong khoảng nhiệt độ từ ti đến t2 được xác định bằng phương
ưình tích phân:
(5.19)
„Q , r,
Rút ra: =-^—In — (5.20)
1 2 2tĩẢ r}
Q
(5.21)
2ĩĩẢ
„ g=ơl \)22r2W
Suy ra: (5.22)
ln-r-
4
Đối với tường trụ có n lớp với nhịêt độ bề mặt là ti và tn+1 °C, số đường kính tương ứng của các
lóp dn thì phương trình dẫn nhiệt sẽ có dạng:
(5.23)
199
1) Nếu tốc độ nâng nhiệt nhanh trong lò thì có thể dẫn tới hiện tượng ngoài chín mà bên trong
chưa chín hay chưa đạt yêu cầu kỹ thuật đối với sản phẩm. Hiện tượng này có thể thấy ờ sản phẩm sứ
với men chảy bóng láng nhưng xương sứ chưa kết khối nên tiếng gõ không thanh và dễ vỡ vì cường độ
kém. Cũng có thể gặp một số viên clinke xi măng của lò đứng có vỏ ngoài đen bóng nhưng lại nhẹ và
bên trong là bột liệu chưa kết khối. Hiện tượng này thường gọi là cháy lướt vì ngọn lửa nhiệt độ cao
chùm quá nhanh viên phối liệu nên bên ngoài clinke đã hình thành nhưng bên trong vẫn chưa đến điềm
tạo clinke.
2) Nếu sản phẩm tương đối dày thì tốc độ nâng nhiệt trong lò phải chậm để phân bố nhiệt theo
tiết diện ngang tương đối đồng đều hơn. Nói cách khác là tốc độ nâng nhiệt độ trong lò phụ thuộc vào
độ dày của sản phẩm nung. Nếu nung nhanh thì sẽ có hiện tượng bên trong sản phẩm vẫn còn chưa đạt
yêu cầu và cường độ cơ học sẽ thấp. Một số gạch xây dựng có lỗ to không những giảm khối lượng của
gạch (25 đến 40%) mà còn giảm chiều dày truyền nhiệt cho nên có thể nung nhanh hơn rất nhiều so với
gạch đặc mà lại còn tiết kiệm được nhiên liệu (khoảng 40%).
tn tf tn
3) Tất cả các sản phẩm đều có độ dày nhất định vỉ vậy đều có chênh lệch nhiệt độ ngoài và bên
trong. Vì vậy khi nr ệt độ đạt đến nhiệt độ nung tối đa cần phải duy tri nhiệt độ này một thời gian nhất
định và gọi là thời gian lưu hay kìm nhiệt. Thời gian lưu phụ thuộc vào chiều dày của sản phẩm, bản
chất vật liệu nung, tốc độ nâng nhiệt trong lò, phương pháp xép sản phẩm frong lò. Nhin chung nếu
chiều dày càng lớn, tốc độ nâng nhiệt nhanh, xếp sản phẩm càng dày thì thời gian lưu càng phải kéo dài.
Sàn phẩm mòng như sứ chăng hạn thì thời gian lưu gần như không có nhưng đôi khi người ta nâng nhiệt
độ vượt cực đại vài chục độ thật nhanh và hạ nhiệt độ cũng nhanh để đảm bảo men bóng láng hơn và
chất lượng sứ sẽ cao hơn.
200
Vì vậy phân tử nào có năng lượng lớn chuyển động sẽ nhanh hơn, khi chúng va chạm vào phân tử có
năng lượng nhỏ chuyển động chậm hơn sẽ truyền năng lượng tức nhiệt lượng cho những phân tử này.
Trong phòng, không khí nóng hơn sẽ có khối lượng thể tích nhẹ hơn, chúng có khuynh hướng đi
lên phía trên. Ngược lại không khí lạnh hơn, nặng hơn sẽ đi xuống phía dưới. Như vậy sẽ tạo ra dòng
đối lưu liên tục và dẫn tới làm đồng đều nhiệt độ theo toàn bộ thể tích của phòng. Dạng trao đồi nhiệt
như vậy gọi là đối lưu tự nhiên.
Ngoài dạng đối lưu tự nhiên ra còn có dạng đối lưu cưỡng bức. Nhờ bơm, quạt gió hay máy nén
mà chất lỏng hay khí chuyển động. Hiệu ứng trao đổi nhiệt bằng đối lưu cưỡng bức cao hơn nhiều so
với đối lưu tự nhiên. Vì vậy nó thường được sử dụng trong các thiết bị nhiệt, lò công nghiệp.
Nếu dòng khí bị giới hạn bời tường lò, tốc độ của nó càng gần tường càng giảm. Ở ranh giới giữa
khí và bề mặt tường có một lớp khí mỏng gọi là lớp giới hạn đôi khi gọi là phim khí hay màng khí với ý
nghĩa là rất mòng. Ở đây khí chuyền động với tốc độ nhỏ hoặc ờ trạng thái tĩnh. Vì vậy chiều dày của
lớp này và độ dẫn nhiệt của nó có ý nghĩa rất lớn đến truyền nhiệt bằng đối lưu. Khi phân tử khí va đập
vào chất rắn thực chất là va đập vào phim khí đó. Năng lượng của các phân tử khí sẽ truyền bằng dẫn
nhiệt qua lớp phim khí đó tới bề mặt chất rắn. Nếu tốc độ khí rất lớn hay có năng lượng lớn thì khi va
đập vào phim khí sẽ làm phim khí mỏng đi và chiều dày dẫn nhiệt sẽ giảm đi hay trao đổi nhiệt bằng đối
lưu tăng lên.Vì vậy để tăng truyền nhiệt bằng đối lưu tốc độ khí cần phải lớn (hình 5.4).
Hình 5.4. Mô hình truyền nhiệt bằng đối lưu tăng khi tốc độ khí lớn do ổi > #2-
Hiện tượng truyền nhiệt băng đối lưu khi tiếp xúc chất lỏng hay khí nóng với bề mặt chất rắn có
nhiệt độ thấp hơn hay ngược lại gọi là cấp nhiệt. Lượng nhiệt trao đổi đi từ vật thể nóng tới vật thể lạnh
bằng cấp nhiệt đối lưu xác định bằng công thức của Newton:
w (5.27)
* 1
adl
201
Tương tự như phương trình truyền nhiệt bằng dẫn nhiệt, ở đây -í— gọi là nhiệt trờ ngoại khi
V = — m2/s
p
Chế độ chuyển động được quyết định bời kích thước ống dẫn khí, tốc độ chuyển động và thông
số vật lý của nó và đặc trưng bằng chuẩn số Reynolds:
Re = — (5.29)
V
Dòng khi có tốc độ mà số Re < 2320 thì ta có chuyển động dòng. Nếu trị số Re > 2320 ta có dòng
quá độ.
Chế độ chuyển động của khí (hoặc lỏng) có ảnh hưởng nhiều đến cường độ trao đổi nhiệt. Tốc độ
khí càng lớn, bề mặt tường càng nhăn thì chiều dày lớp giới hạn càng mỏng và cường độ trao đổi nhiệt
càng lớn. Vì vậy ở các thiết bị nhiệt cần cường độ trao đổi nhiệt lớn thì cần phải có chế độ chuyển động
xoáy.
202
Khi nghiên cứu thiết bị nhiệt người ta thường gặp hai loại đồng dạng: thủy động và nhiệt.
Điều kiện đồng dạng thủy động là đồng dạng truờng tốc độ và áp suất. Điều đó có nghĩa là hai
hiện tượng chuyển vận chất lỏng, ví dụ nước chẳng hạn, trong mô hình và khí trong thiết bị nghiên cứu
sẽ đồng dạng chỉ trong trường hợp nếu chúng chảy trong khoảng đồng dạng hình học, có cùng một tỷ lệ
tốc độ và chệnh lệch áp suất ở những điểm tương xứng. Ngoài ra ở mô hình và thiết bị cùng có những
chuẩn số như nhau, đó là tỷ lệ lực tác động lên dòng chất lỏng chuyển động hoặc lực gây lên trao đổi
nhiệt. Ví dụ tỷ lệ gây chuyển động và lực nhớt. Điều kiện đồng dạng nhiệt là đồng dạng trường nhiệt độ,
nghĩa là nhiệt độ các điểm tương ứng của mô hình và thiết bị cần phải có tỷ lệ như nhau. Điều kiện thứ
hai của đồng dạng phải bằng nhau.
Trên cơ sờ thực nghiệm thấy rằng: nếu mô hình đồng dạng hình học hoàn toàn với thiết bị thì
điều kiện đồng dạng của chắt lỏng đặc trưng bằng chuẩn số Re cũng đồng dạng.
Những chuẩn số đồng dạng thủy động là:
- Chuẩn số Reynolds là tỷ số giữa lực chuyển động khí và lực ma sát nội:
Re = ^ (5.31)
- Chuẩn số Grashof là tích số giữa chuẩn số Re với tỳ lệ lực nâng và lực ma sát nội:
d\x
Gr = —^flAt (5.32)
V
Eu = (5.33)
Pe.^í (5.34)
a
203
- Chuẩn số Prandt là tỷ lệ giữa chuẩn số Pekle và Reynolds, tức là tỷ lệ giữa những đại lượng xác
định đồng dạng trường tốc độ và nhiệt độ:
w.d
Pr = a =v (5.35)
w.d a
V
- Chuẩn số Nusselt là tỷ lệ giữa dòng nhiệt truyền đến tường bằng đối lim qđi và dòng nhiệt
truyền qua lớp giới hạn bằng dẫn nhiệt qdn:
^=^Ơ1-Í2) w/m2
(5.36)
2
*
<ìdl = adl ƠI - ) w/m2 (5.37)
Nu = qdl = a“‘-d
(5.38)
am.dm al.dl
(5.40)
A
Rút ra hệ số cấp nhiệt đối lưu của lò <X1:
dm d,
a, =am.—.— (5.41)
Phương trinh cấp nhiệt băng đối lưu thường nằm trong dạng chuẩn số.
Nu = f (Re, Pr)
Những nghiên cứu đặc biệt trong phạm vi cấp nhiệt cho ta những công thức tính toán hệ số cấp
nhiệt bằng đối lưu.
Với chế độ chuyển động xoáy:
Khi chuyển động xoáy khí và lỏng theo ống dài, cấp nhiệt bằng đối lưu biểu thị bằng phương
. ,.........~.............. 1
trình chuẩn số (khi Re > 10.000 và Ạ > 50).
d
204
Nu = 0,021 Re0’8 PrK0’43 (^)0,25
(5.42)
Pr,
PrK - giá trị chuẩn số Prandt ở nhiệt độ khí trung bình tức bằng nửa tồng số nhiệt độ khí lúc
vào và ra.
Prt - chuẩn số Prandt ứng với nhiệt độ khí bằng nhiệt độ tường.
Đối với không khí và khói lò, chuẩn số Pr cỏ thể lấy bằng 0,72. Vì vậy phưomg trình (5.42) cỏ thể
có dạng đơn giản:
Nu = 0,018. Re0’8 (5.43)
Hoặc ^ = 0,018(—)0’8
(5.44)
Ấ V
Từ phương trình trên rút ra:
^0,8
adi = (5.45)
Như vậy không những chi tốc độ khí mà đường kính ống dẫn cũng ảnh hưởng đến hệ số cấp nhiệt
đối lưu. Nếu giảm đường kính ống dẫn trong khi tốc độ khí vẫn giữ nguyên thì trị số <Xđi tăng lên.
Theo số liệu thực nghiệm, hệ số cấp nhiệt đối lưu khi đốt nóng khí lại không bằng hệ số cấp nhiệt
đối lưu khi làm nguội khí. Khi làm nguội không khí (hoặc khỏi lò), ơđi lớn hơn khoảng 1,3 lần khi đốt
nóng. Ví dụ khi đốt nóng không khí có nhiệt độ trung bình o°c.
Ấ PT0,8 MZ0’8
adi = 0,018.-^.^- = 3,489.^- w/m2.độ (5.46)
205
Bảng 5.3. Đặc tính vật lý của không khí và khói lò có thành phần trung bình
Nhiệt độ Hệ sổ độ nhớt động khi 107 KN/m2 (760mm Hg) Độ dẫn nhiệt Ả
(°C) (v.106 m2/s)
(W/m, độ)
Hệ số cấp nhiệt đối lưu dđi trong ống ngắn (— < 50) có trị số lớn hơn so với ống dài. Ta có thể
d
dùng công thức chung nhưng có thêm hệ số hiệu chỉnh ọ bảng 5.4.
Trị sô Tỷ lệ l/d
Re 2 5 10 20 40 50
1.104 1,65 1,34 1,23 1,13 1,03 1,00
2.104 1,51 1,27 1,18 1,10 1,02 1,00
5.104 1,34 1,18 1,13 1,08 1,02 1,00
1.105 1,28 1,15 1,10 1,06 1,02 1,00
1.106 1,14 1,08 1,05 1,05 1,01 1,00
206
Khi làm lạnh không khí và khói lò:
Nu = 0,0235. Re0’8. <p (5.53)
Trong khoảng quá độ Re = 2.200 - 10.000 việc nghiên cứu còn ít không có công thức chính xác
nào để xác định nó.
Wo - tốc độ khí ở phòng làm việc cùa lò (khu nung) ở 0<)C, m/s.
b) Cấp nhiệt trong kênh gạch kích thước từ 40 X 40 - 90 X 90 mm khi chuyển động không khí và
khói lò:
rrr0,80
207
r MA
Khi Re >200: a.. = 0,713-^-(-9°’67 w/m2.độ (5.60)
d ’ vt
wt - tốc độ khí ứng với toàn tiết diện ngang của lớp, m/s;
vt - độ nhớt động của khí, m2/s;
d- kích thước của hạt vật liệu;
X - độ dẫn nhiệt của khí, w/m.độ.
e) Khi khí chuyển động dọc lớp gạch xếp trong lò nung ta dùng công thức của K. A. Nokhratian:
ỈV0,5
ad,= 0,35^ w/m2.độ (5.61)
Wo - tốc độ khí trong kênh ứng với điều kiện chuẩn, m/s;
d - đường kính kênh.
2ab-
d, =--- m (5.62)
a +b
a, b - kích thước của kênh.
í) Trong đệm buồng hồi nhiệt:
IF0’5
a<" = A^ w/m2-độ (5-63)
d '
Khi gạch xếp tạo kênh thẳng: A = 8,8.
Khi gạch xếp không tạo kênh thẳng: A = 9,65.
g) Trong lò để nung sản phẩm, nếu trị số Re không cao có thể dùng công thức gần đúng sau:
T=Tv' + Tk ok
2
Trong công nghiệp lò khi đốt nóng và làm nguội không khí, trị số ctđi trong khoảng 18-58
w/m2.độ (15-50 Kcal/m2.h.độ). Nếu tốc độ không khí hay khói lò Wo = 8 m/s (d = 0,1 m) nhiệt độ
trung bình ttb = 100 °C, ađ, = 23 w/m2.độ (« 20 Kcal/m2.h.độ).
Khi đốt nóng và làm lạnh nước otđi dao động trong khoảng 2340 - 11.700 w/m2.độ và khi sôi
nước thì trong khoảng 580 - 5200 w/m2.độ (500 - 4500 Kcal/m2.h.độ).
208
5.2.4. ứng dụng
Truyền nhiệt bằng đối lưu chủ yếu tiến hành ở nhiệt độ thấp hơn 600 -700°C. Điều này có nghĩa
là trong lò sấy, giai đoạn đầu của lò nung gián đoạn, giai đoạn nâng nhiệt của lò nung tuy nen làm việc
liên tục vai trò đối lưu chiếm vị trí rất quan trọng.
Trong các lò nung cao nhiệt trao đổi nhiệt bằng đối lưu chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ khoảng 15% còn
lại là bức xạ nhiệt. Tuy vậy người ta vẫn phải cố găng làm sao tăng được lượng nhiệt truyền bằng đối
lưu mặc dù chi vài phần trăm. Để tăng lượng nhiệt truyền bằng đối lưu cho vật liệu thì nhất thiết phải
thực hiện các biện pháp sau.
a) Tăng tốc độ khí trong lò
Như trên đã trình bày tốc độ khí đóng vai trò rất quan trọng đối với truyền nhiệt bằng đối lưu.
Chính vì vậy tốc độ khí càng cao càng tăng truyền nhiệt cho vật liệu. Việc tăng tốc độ khí đến mức nào
còn phải dựa vào khả năng của lò cũng như tính chất của vật liệu nung.
Nếu vật liệu xếp quá dày trong lò thì sẽ hạn chế việc lưu thông dòng khí và do đó sẽ giảm trao
đồi nhiệt bằng đối lưu cho vật liệu. Nếu xếp sản phẩm quá thưa cũng sỗ giảm truyền nhiệt bằng đối lưu
do giảm tốc độ dòng khí giữa vật liệu. Chính vì vậy mà phải lựa chọn mức độ xếp vật liệu hợp lý để vật
liệu nhận được nhiều nhiệt nhất trong điều kiện của lò sử dụng.
c) Chiều hướng khí họp lý
về nguyên tắc nếu dòng khí đập mạnh và thẳng góc với vật liệu nung thì truyền nhiệt bằng đối
lưu sẽ tăng lên. Tuy nhiên trở lực của lớp vật liệu xếp trong lò sẽ tăng lên và đương nhiên phải tăng
công suất và áp suất của quạt. Do đó cần bố trí sao cho dòng khí hướng vào vật liệu dưới một góc nào
đó nhằm tăng truyền nhiệt bằng đối lưu.
d) Chiều của ngọn lửa
Nếu ngọn lừa phun vào lò chi đi lướt trên bề mặt vật liệu thì truyền nhiệt bằng đối lưu cho chúng
sẽ rất nhô. Chính vì vậy người ta thường bố trí sao cho ngọn lừa phải đập vào bề mặt vật liệu dưới một
góc nhất định. Điều đó giải thích kết cấu của miệng lửa lò nấu thủy tinh sao cho ngọn lửa thường hướng
vào bề mặt gương của thủy tinh một góc khoảng 30°. Trong lò quay nung clinke xi măng, người ta cũng
hướng ngọn lửa vào lớp clinke dưới một góc nhăm tăng truyền nhiệt bằng đối lưu mặc dù tỷ lệ nhiệt
truyền bằng đối lưu không cao so với bức xạ.
209
Hình 5.5. Sơ đồ dòng nhiệt tới, phản xạ, thấu qua và hấp thụ.
Những định luật xác định năng lượng của chùm tia sáng trông thấy có thể dùng đối với tia nhiệt.
Tia nhiệt truyền ra không gian với tốc độ như tốc độ ánh sáng. Truyền nhiệt bằng bức xạ là một dãy quá
trình tiến hành liên tiếp.
Năng lượng của vật thể đầu tiên biến thành năng lượng tia nhiệt, nó truyền ra khoảng không theo
chiều hướng khác nhau. Khi gặp các vật thể khác nhau thì một phần năng lượng bị hấp thụ, một phần đi
qua vật thể đó, còn một phần phản xạ lại. Phần hấp thụ sẽ chuyển thành dạng nhiệt và kết quả làm vật
thể đó bị đốt nóng lên.
Nếu ta kỷ hiệu lượng năng lượng truyền đến vật thể là Qo, lượng nhiệt hấp thụ QAj lượng nhiệt
phản xạ lại Qr và lượng nhiệt đi qua vật thể đó Qd như sơ đồ hình 5.5 khi đó ta có:
Qo - Qa + Qr + Qd (5.66)
Từ đây ta cỏ:
A + R + D=l (5.70)
Đối với vật thể đen, độ thẩm thấu của nó D quá nhỏ nên có thể bỏ qua và:
A + R=l (5.71)
Đổi với vật thể khí thực tế độ phản xạ quá nhỏ, ta cũng có thể bỏ qua được, khi đó:
A+D= 1 (5.72)
210
Trong thực tế, vật thể tự bức xạ đi một năng lượng Eị. Cũng vật thể đỏ lại nhận bức xạ tới E2, tức
là năng lượng của vật thể thứ hai bức xạ tới vật thể thứ nhất. Song vật thể không hấp thụ hoàn toàn năng
lượng bức xạ tới mà chi hấp thụ một phần E2A, còn một phần phản xạ đi E2 (1-A).
Tổng của dòng tự bức xạ và phản xạ gọi là bức xạ hiệu quả.
Đối với vật thể xám có cường độ bức xạ nhỏ hơn so với vật thể đen tuyệt đối, Định luật Stefan -
Boltzzman có dạng sau:
E = C(T/100)4 w/m2 (5.77)
c - hệ số bức xạ của vật thể xám, nó phụ thuộc vào trạng thái bề mặt, bản chất vật thể và phụ
thuộc ít vào nhiệt độ.
Cũng có thể viết:
(5.79)
Độ đen của vật thể là tỷ lệ giữa hệ số bức xạ của vật thể xám và của vật thể đen tuyệt đối. Vật thể
có độ đen càng gần 1, tức càng gần vật thể đen tuyệt đối thì cường độ bức xạ càng cao. Độ đen vật liệu
dùng cho lò nung cho trong bảng 5.5.
211
5.3.1.2. Định luật Kirchhoff
Tỷ lệ giữa khả năng bức xạ của vật thể và khả năng hấp thụ của vật thể là một đại lượng không
đổi và chi phụ thuộc vào nhiệt độ mà thôi.
Eo
—= const (5.80)
4 <4 4 4)
E1, Eỉ, E3.... cường độ bức xạ của vật thể
A1, A2) A3.... hệ số hấp thụ của vật thể
Eo, Ao cường độ bức xạ và hệ số hấp thụ của vật thể đen tuyệt đối.
Đối với vật thể đen tuyệt đối Ao = 1, Co = 5,07.
Từ phương trình trên ta có:
(5.81)
Như vậy tức là độ hấp thụ và độ đen bằng nhau về trị số. Cũng từ định luật Kirchoff ta thấy rằng
vật thể có cường độ bức xạ cao thì cũng có khà năng hấp thụ lớn.
Sự biến đổi năng lượng của dòng bức xạ theo góc (p được xác định bằng định luật Lambert,
Neu biết dòng nhiệt từ bề mặt phân tố dFi theo hướng chuẩn n là dQn(Wat) thì dòng nhiệt theo góc <P1
sẽ bằng:
212
dQn = EndF| (5.83)
En - cường độ bức xạ của mặt dFi theo hướng chuẩn w/m2.
Cường độ bức xạ tổng của E1 của bề mặt vật thể dFi theo mọi hướng sẽ lớn hơn so với một
hướng chuẩn En và giữa chúng có liên hệ:
(5.84)
(5.85)
(5.86)
Do đó lượng năng lượng bức xạ băng tông lượng nhiệt xác định theo định luật Stefan - Boltzman
1 A ..x: 1.—_____ dũ).COS(pỵ
nhân với đại lượng góc —
Đại lượng góc này chi rằng: bao nhiêu phần năng lượng bức xạ đi theo hướng cho dưới góc
không gian deo từ mặt dFi đối với lượng năng lượng chung bức xạ theo mọi hướng cũng từ mặt dFi.
Vật thể bức xạ đi một năng lượng Q1 theo hình bán cầu, rơi đến vật thể 2 lượng nhiệt Q12 thì hệ
số góc giữa mặt 1 đối với mặt 2 sẽ là:
(5.87)
Tính tương hỗ
Hai vật thể đen tuyệt đối 1 và 2 năm trong trạng thái trao đổi nhiệt thì khi cân băng nhiệt độ, cũng
cần bằng dòng bức xạ và không phụ thuộc vào hình dạng hay vị trí của chúng.
(5.89a)
(5.89b)
Tính chắt trùng hay phối hợp của dòng
213
Qi2 = (p12.Fi.Ei=E1.Fi2
Q13 = (P13.F1.E1=E1.F13
Nếu vật thề 1 bị bao bọc bởi m vật thể trên mặt bán cầu thì:
Neu trên đường đi của dòng bức xạ từ vật thể 1 đến vật thể 2 bị chăn bời vật thể không trong suốt
thì dòng bức xạ sỗ băng 0:
Gọi bức xạ hiệu quả của mặt 1 là EIhq với hệ số hấp thụ A] và của mặt 2 E2hq và A2, ta có:
214
Ejhq - El + (1 - Ai)E2hq (5.94)
E] và E2: năng lượng tự bức xạ của mặt 1 và 2. Dòng bức xạ thực tế từ mặt 1 sang 2 là:
£• — ^1 + -^2 ~~ ^1-^2
1A’ AỊ+A2-AiA2
A,E, -AỵE
Từ đây ta có: q = —- (5.97)
Aỵ + 7^2 ~ Aị A2
Căn cứ theo định luật Kirchoff ta thay Al = C1/C0, A2 = C2/Co và từ định luật Stefan - Boltzman
(5.78) ta được:
(5.98)
w/ní (5.99)
c. + (L
^2 cVzn0
Cl, c2 - hệ số bức xạ của mặt 1 và 2.
5’67 W/m2.°K4
(5.100)
—+
£ì e2
Nếu mặt F1 bị bọc kín bời mặt F2 theo dạng ống trụ lồng trong ống trụ hoặc cầu trong cầu thì:
5,67 (5.101)
?2 £2
Cq = 5,67 . £1 = C1
215
Bảng 5.5. Đặc tính một số vật liệu
Vật liệu r c Ả
°C
£
216
5.3.4. Bức xạ nhiệt qua lỗ, khe hở
Ở tường lò thường có lỗ quan sát, cửa đốt, cửa cho liệu qua lỗ hay khe hở đó có dòng nhiệt bức
xạ từ lò ra môi trường xung quanh. Lượng nhiệt này có thể xác định theo định luật Stefan - Boltzman.
~)4]F w (5.102)
100
Lỗ ờ tường lò thường không lớn cho nên có thể coi nó như vật thể đen tuyệt đối nghĩa là độ đen
của nó 8 = 1. Hệ số <p phụ thuộc vào góc mở và tia bức xạ phỏng qua lỗ ra môi trường xung quanh.
Từ hình 5.8 ta thấy rằng, nếu kích thước lỗ bằng nhau thì lượng năng lượng qua lỗ càng nhiều
nếu chiều dày tường càng nhỏ do tỷ lệ x/s càng nhỏ. Nếu chiều dày tường quá nhò thì giá trị (p gần bằng 1.
10 —1--------
1
i
2
"X
0.0
*
- *
04 »
ỉ
G-
04
1 y *
XA
-9
i
U
ŨA
ề
X X
04
/ 1
X
r A
(U
fl 7
—I—
1
1
X X
Oỉ Ị if 1
1
ĩ
------ 11--------
X
04
0.1
1
1
1
A
1
0 i-------
04 04 04 04 IjO Í4 4j0 4J0 ềO
ĨỶIỆH/S
Hai mặt song song với nhau, dòng nhiệt bức xạ từ mặt 1 sang mặt 2 xác định theo công thức:
(5.103)
217
tc Í2
81 ec S2
Nếu giữa hai mặt này ta đặt tấm chắn là lá thép mỏng, thì trong điều kiện cân bằng nhiệt và khi
81 = 82 = 8c (độ đen của tấm chắn) cũng như Fl = F2 = Fc, dòng nhiệt truyền từ mặt 1 lên tấm chắn rồi từ
tấm chắn lên mặt 2 (hình 5.9).
* 4]F‘
c.«ìẫí)4 -(ẳ)4’F' ■ c<Kẳ)4 -<ẳ
Hoặc: (2L)« = 1 (A-)4 4-1 (A-)4]
k100 2 100 2 100
Lượng nhiệt mà mặt 1 truyền cho mặt 2 bằng lượng nhiệt mà mặt 1 truyền cho tấm chắn rồi tiếp
tục truyền cho mặt 2.
So sảnh (5.104) với (5.103) ta thấy rằng khi cỏ một tấm chắn, trao đổi nhiệt giữa hai mặt giảm đi
2 lần. Nếu có n tấm chắn ở giữa khi độ đen của tấm chắn ec = £2 = £1 thì lượng nhiệt trao đổi sẽ giảm đi
(n + 1) lần:
(5'05)
Nếu độ đen của tấm chắn thay đổi thì:
«+ic,12 (5106)
Cqic - hệ số bức xạ khi có mặt tấm chắn Cic = Cc = Cc2Ỉ
Cq!2 - hệ số bức xạ khi không có tấm chắn, W/m2.°K4.
Nếu sử dụng một tấm chắn mạ Nikel không bị oxy hóa £ = 0,11 để che lỗ ờ tường lò, tổn thất
nhiệt ra môi trường xung quanh băng bức xạ giảm đi 18 lần.
218
5.3.6. Bức xạ của khí và hơi
Tất cả các khí và hơi đều cỏ khả năng bức xạ và hấp thụ năng lượng ờ dạng tia nhiệt. Khả năng
bức xạ của những khí mà phân tử của nó gồm một hoặc hai nguyên tử quá nhỏ đến nỗi trong tính toán
nhiệt kỹ thuật người ta coi nó như vật thể trong suốt đối với tia nhiệt. Khí có 3 hay 4 nguyên tử trở lên
mới có khả năng bức xạ và hấp thụ năng lượng dạng sóng. Đáng chú ý hơn cả là CO2 và H2O thường có
trong khí thải (khói lò). Chúng khác vật thể xám ờ chỗ là hấp thụ và bức xạ năng lượng trong khoảng
nhất định của chiều dài sóng, tức theo phổ vạch. Chỉ trong những đoạn sóng nhất định, chúng mới có
khả năng hấp thụ và bức xạ năng lượng. Trong những khoảng đó độ đen của khí khác nhau, ngoài
những khoảng này khí trờ lên trong suốt và năng lượng bức xạ hay hấp thụ coi bằng 0.
Cũng khác với vật thề rắn, khí bức xạ hay hấp thụ năng lượng không phải trên bề mặt mà là toàn
thể tích hay theo chiều dày của lớp khí. Nếu tăng chiều dày của lớp khí lên thì bức xạ của khí tăng lên
và độ đen của nó cũng tăng lên. Điều đó có nghĩa là khả năng bức xạ và hấp thụ năng lượng của khí phụ
thuộc vào kích thước và hình dạng của thể tích chứa khí đó (vỏ lò). Chính vì vậy ta không thể sử dụng
định luật Stefan - Boltzman đối với khí được.
Chúng ta hãy khảo sát bức xạ của khí theo hình bán cầu (hình 5.10).
Mật độ chùm tia bức xạ tới tiết diện dF càng lớn nếu bán kính R càng lớn. Chiều dài chùm tia
hay chiều dày lớp khí s ờ mọi phía đều bằng nhau và s = R. Trong thực tế công nghiệp ta hiếm gặp thề
tích khí có hình dạng như vậy mà hình thù khác nhiều. Do đó chiều dài s hay chiều dài của chùm tia
không phải luôn luôn băng nhau. Đe tính toán người ta dùng chiều dài đương lượng nghĩa là bán kính
đương lượng của hình bán cầu. Chiều dài s đương lượng xác định bằng:
5=^
F
V - thể tích chứa khí, m3;
F - bề mặt của thể tích chứa khí đó, m2.
Tuy nhiên không phải tất cả năng lượng bức xạ của khí đều đi tới dF, mà một phần năng lượng bi
hấp thụ bời ngay chính thể tích khí đó. Độ hấp thụ càng lớn nếu độ đen của khí càng lớn. Trong thực té,
tính toán cường độ bức xạ giảm đi 10 - 15%, vì vậy ta dùng hệ số hiệu ứng bức xạ q = 0,9 - 0,85.
(5.107)
Chiều dày đương lượng của một số thể tích có hình dạng khác nhau khi q = 0,9 cho trong
bảng 5.6.
219
Bảng 5.6. Chiều dài chùm tía bức xạ
Cường độ bức xạ cùa khí phụ thuộc vào loại khí, chiều dày s, áp suất p và nhiệt độ t. Đôi với
chiều dài sóng cho X, cường độ bức xạ là hàm số của các đại lượng: A = f(S, p, t).
Đối với hỗn hợp khí như khí thải chẳng hạn, cường độ bức xạ và hấp thụ năng lượng phụ thuộc
vào hàm lượng CƠ2 và H2O tức áp suất riêng phần của khí.
220
Hình 5.12. Giản đồ xác định độ đen cùa hơi nước H20.
Năng lượng do co2 bức xạ đi, thực tế phụ thuộc vào T3’5 và H2O phụ thuộc vào T3. Để nguyên số
mũ như vậy sẽ có nhiều khó khăn trong tính toán vi vậy người ta vẫn coi nó phụ thuộc vào T4 nhưng độ
đen của khí sỗ thay đôi đi cho phù hợp. Do đó lượng nhiệt bức xạ bời khí xác định bằng công thức:
(5.108)
221
Đối với hỗn hợp khí như khói lò chứa CƠ2 và H2O thì độ đen của hỗn hợp khí xác định theo công
Eco-Í >£h2o~ độ đen của khí CO2 vàH2Ơ xác định theo p, s, t ở giản đồ hình 5.11 và hình 5.12.
p - hệ số hiệu chinh, kể đến sự không đồng nhất của chiều dày s và áp suất riêng phần của hơi
nước p (tìm trong giàn đồ 5.13).
*■ Ph2o
Hình 5.13. Giản đồ xác định hệ số p.
ỈS.S - hệ sổ hiệu chỉnh khi bức xạ đồng thời co2 và H2O trong tính toán kỹ thuật có thể bỏ qua vì
giá trị rất nhỏ.
Đối với ngọn lửa thì độ đen của nó xác định theo công thức sau:
E1 = Ek + Emh — Ae (5.110)
222
8t - độ đen của tường;
£^ , £lK - độ đen của khí ở nhiệt độ khí và nhiệt độ tường lò.
Để đơn giản tính toán có thể coi £^ - £K khi sai số không quá 5% thì:
T . T . w (5.113)
_L
11+ _^_1L 100 100 J
e, £k
Nếu biết lượng nhiệt trao đổi giữa hai vật thể có thể xác định hệ số cấp nhiệt bằng bức xạ:
a = _—w/m2.độ (5.114)
Q - lượng nhiệt truyền đi bằng bức xạ từ mặt 1 sang 2 hoặc từ khí tới tường, w.
Ví dụ:
Khói lò có nhiệt độ 800°C, chứa CƠ2 = 8%, H2O = 16% chuyển động trong ống dài có đường
kính 0,6 m với tốc độ 2,5 m/s. Độ đen thành ống £t = 0,8; nhiệt độ thành ống tt = 600°C. Hãy xác định
lượng nhiệt truyền bằng bức xạ và đối lưu từ khí tới thành ống.
Giải:
Chiều dài chùm bức xạ: s = 0,9d = 0,9.0,6 = 0,54 m
Theo giản đồ 5.11, 5.12 và 5.13, ở 800°C giá trị ^co, = 0,087; ^H,o = 0,11; hệ số p = 1,11.
Thay các giá trị vào công thức trên ta có thể xác định lượng nhiệt bức xạ:
4 4"
5,7
Ô=^_1L = 8430 w/m2
1
0,8 0,209
Ổ 8430 , „,,2 ..
ctbx = - -- ■ = = 42,1 w/m .độ
tK-t, 800-600
Tìm chuẩn số Reynolds khi độ nhớt động cùa khói lò ở 800°C bằng V = 0,000138 (xem bàng
wJ _ 2,5.0,6
e_~_ 0,0001318 = 11380
Dùng công thức 5.52 khi đường ống có tỷ lệ 1/d > 50 với <p = 1 ta có:
0,0915 là độ dẫn nhiệt của khói lò lấy theo bảng 5.3 và 5.4.
224
Việc tính toán này tương đối phức tạp. Độ đen, nhiệt độ của ngọn lửa, nhiệt độ của tường lò
không đồng đều. Ngọn lửa lại không có hình dáng nhất định. Vai trò của lớp khí nằm giữa ngọn lửa, vật
liệu và vỏ lò, các nhân tố hình học rất khó tính toán. Vì vậy khi tính toán ta sỗ đơn giản nhiều và sử
dụng những giá trị có hiệu quả của các thông số vật lý chủ yếu trong công thức trao đổi nhiệt. Những
kết quả cho sẽ tương ứng với thực nghiệm.
Khi tính toán thực tế thường sử dụng những giá trị trung bình như nhiệt độ và độ đen của khí.
Cũng coi khoảng cháy của lò được lấp đầy hoặc một phần bời khí (ngọn lửa), ngọn lửa có hình dáng
nhất định, độ đen đồng đều. Nhiệt độ tường lò và những phần khác của nó đôi khi thay đổi, ví dụ lò
quay có nhiệt độ biến đổi và cấp nhiệt cho vật liệu phụ thuộc vào vị trí của nó.
Phương pháp tính toán trao đổi nhiệt trong lò lửa trong điều kiện các dòng bức xạ phân bố đồng
đều từ ngọn lừa đã được V. N. Timofeev đề ra đầu tiên. Ở phương pháp này, ta sẽ thành lập cân băng
nhiệt của mỗi mặt tham dự trao đổi nhiệt: Vật liệu, vỏ lò, tường lò. Do đó người ta thường gọi nó là
phương pháp phân tích.
Ở đây chúng ta sử dụng những công thức đơn giản hơn để dễ dàng tính toán.
Dòng nhiệt tồng từ khí và bề mặt trong của lò (tường lò) cho vật liệu nung xác định băng công thức:
T T T T. . T.. T'. .
é)4 -&)4 = [&)4 -(t7t)4] (5.116)
100 100 100 100 100 100
225
Tc - nhiệt độ cháy lý thuyết của nhiên liệu, nếu nhiên liệu cháy ờ khoảng làm việc của lò, °K;
Tvi ,TV1 - nhiệt độ đầu và cuối của vật liệu, °K;
Tkt — nhiệt độ khí lúc ra khỏi zôn làm việc của lò, °K.
Hệ số bức xạ chung Cc từ khí và tường lò cho vật liệu nung xác định theo công thức của
V. N. Timofeev:
Trong đó:
=------------ ■■ ■ 1 g ị-
** <p
1 p ................
— = ứ) = - độ phát triên của tường lò.
p $
Ỵ + (5.119)
p~--- — + O)
Giá trị hệ số nhân K. có thể tìm trong biểu đồ của Budrin (hình 5.15).
K
Í,Õ
o.s
0,6
0,4
0,2
226
Neu vật liệu không xép kín nền lò thì giá trị evi ở công thức 5.119 ta thay bằng:
________________ £vi_____________
v/
1-(1-^)(1-^)
Fvl
(p(\-- £K ) 4" 1 + Kỵ + K^
w/m2.độ4 (5.120)
<p(\-£K)[£vl + £K(\-£vl}] + £K
K| - hệ số, kể đến dòng nhiệt đối lưu, qđi (W/m2) từ khí tới tường trừ đi tồn thất nhiệt qtt (W/m2)
ra môi trường xung quanh qua tường:
K2 - hộ số, kề đến dòng nhiệt đối lưu từ khí tới bề mặt vật liệu:
qtt - tồn thất nhiệt ra môi trường xung quanh qua tường lò:
= C -- , (>! - ) w/m2
4 + -L
Ấ a2
qđv - dòng nhiệt đối lưu từ khí tới vật liệu nung:
Cấp nhiệt bằng đối lưu sỗ tăng lượng nhiệt đi từ khí tới vật liệu nhưng tồn thất nhiệt ra môi
trường xung quanh sẽ giảm lượng nhiệt đi từ khí tới vật liệu. Với sai số không lớn lắm có the coi
Kị + K2 ~ 0 và bài toán sỗ giản đom hom.
Đẻ xác định nhiệt độ bề mặt trong của tường lò tại zôn nhiệt độ cao, nhiệt độ này cần phài biết để
tính tổn thất bằng dẫn nhiệt ra môi trường xung quanh, có thể sử dụng công thức:
T,=^+Ị>ịT<-T‘) °K <5.123)
227
Hệ số nhân theo Budrin:
Đại lượng \|/ nằm trong khoảng 0,85 - 0,95 nếu đã biết nhiệt độ TV1 và Tt thì nhiệt độ khí xác định
theo công thức sau:
(5.124)
Ví dụ:
Xác định lượng nhiệt nhận được bởi thủy tinh trong lò với các điều kiện sau:
Nhiệt độ trung bình của khí tk = 1650°C + 273 = 1923 °K.
Nhiệt độ của thủy tinh ttt =1400°C + 273 = 1673°K.
Độ đen của khí £k = 0,22; tường lò E t = 0,8; thủy tinh E tt = 0,82.
Lò có kích thước 6 X 12,6 m; chiều cao thành lò 1,75 m; lò xây bằng gạch đi nát.
Hệ số cấp nhiệt băng đối lưu từ khí tới tường akdi = 7 w/m2.độ và từ khí tới thủy tinh Odit = 15
w/m2.độ
Giải:
Áp dụng công thức 5.115:
(p = — = 0,538
(ữ
Khi đó:
ũữk 0,22
Căn cứ theo hình 5.15 ta cũng có thể tìm được giá trị K
Dùng công thức 5.118 ta tính được hệ sổ bức xạ chung:
a, =0,001.2,51 75 = 11000 kw
228
Xác định nhiệt độ mặt trong của tường lò:
V= = 0,408
0—e+ + (0 0,86.^4-1,86
£k 0,22
Xác định dòng nhiệt từ khí và tường lò bằng đối lưu và bức xạ có kể đến tổn thất nhiệt qua
tường lò.
Dòng nhiệt đối lưu từ khí tới tường lò:
229
Mặc dù các hạt nhỏ 0,05 - 0,3 micron có độ đen nhỏ, nhưng khả năng bức xạ chung của cà khối
khí đó lại lớn. Độ đen của những hạt lớn (20 - 30micron) khá lớn (gần bằng 1) nhưng số lượng hạt lại ít,
nên khả năng bức xạ của ngọn lửa lại không cao. Vì vậy ngọn lửa cháy than bụi (hạt 50 - 100 micron)
có khả năng bức xạ nhỏ.
Ngọn lửa có nhiều hạt bồ hóng hay muội than 1 - 4 micron có cường độ bức xạ cực đại. Ở nhiệt
độ như nhau, ngọn lửa sáng hay có độ đen lớn bức xạ tốt hơn ngọn lửa không sáng. Nhưng néu tiêu tốn
nhiên liệu khí như nhau thì cần phải xét cẩn thận.
Kinh nghiệm của Serman chi rằng, khi cháy khí thiên nhiên ngọn lửa sáng có độ đen lớn và khả
năng bức xạ lớn hơn ngọn lửa không sáng. Nhưng bức xạ chung của khí và vỏ lò cho vật liệu ờ ngọn lừa
sáng lại kém hơn ngọn lửa không sáng.
N. A. Zakharikov chi răng, tăng độ sáng của ngọn lửa khi tiêu tốn khí như nhau ở lò thí nghiệm
sẽ dẫn tới giảm cấp nhiệt cho đáy lò so với ngọn lửa ngăn không sáng. Nhiệt độ lò càng thấp, ngọn lửa
không sáng càng có hiệu ứng cao hơn so với ngọn lửa sáng.
ở lò thủy tinh người ta lại có kết quả khác.
Dòng nhiệt bức xạ đến mặt nhận nhiệt trong lò:
q = ơ.T4 (5.125)
Nếu tăng độ sáng hay độ đen ngọn lửa hệ số ơ tăng lên và nhiệt độ T hạ xuống. So sánh hai dòng
nhiệt sáng qs và không sáng qK có thể viết:
= ■ ~£^(]_4ẺL) (5.126)
Qk ơkT ơk T
(1-4^1) «1
T
Và ơs luôn lớn hơn ƠK, cấp nhiệt của ngọn lửa sáng sẽ lớn hơn ngọn lửa không sáng. Nếu ở
nhiệt độ thấp thì ngược lại, số nhân (1 - 4.-2-) nhỏ hơn 1 nhiều và cấp nhiệt của ngọn lửa không
T
= + 4^1) (5.127)
ơkT ơk T
Cả hai đều biến thiên theo một hướng do đỏ cacbon hóa dòng khí do pha thêm nhiên liệu lỏng có
ý nghĩa rất cao. Đặc biệt khí than chứa chủ yếu là khí co và H2 nên độ đen của ngọn lửa không cao do
khó tạo ra các hạt muội than cacbon đã nêu ở trên.
230
Ớ ngọn lửa sáng, tổn thất nhiệt ra môi trường xung quanh không ảnh hường đến cấp nhiệt cho vật
liệu. Neu ngọn lửa hoàn toàn trong suốt (độ đen rất nhỏ), nhiệt độ tường lò bị hạ thấp, tổn thất nhiệt ra
môi trường xung quanh có ảnh hường nhiều đến cấp nhiệt cho vật liệu. Tường lò sẽ trao cho vật liệu tất
cả nhiệt nhận được từ khí sau khi đã trừ phần tổn thất ra môi trường xung quanh và tích luỹ bời tường
lò. Trường hợp đầu £k = 1 nên Tk » Tt, giữa tường lò và vật liệu không cỏ sự trao đổi nhiệt. Trường hợp
sau £K = 0, tường lò và vật liệu có trao đổi nhiệt nên nhiệt độ của tường lò có ảnh hưởng đến cấp nhiệt
cho vật liệu.
Nếu tăng kích thước của ngọn lửa thì lượng nhiệt truyền cho vật liệu lúc đầu tăng nhanh đến
d/B = 0,5 (d: đường kính ngọn lửa, B: chiều rộng lò hình 5.16) sau đó tăng chậm. Tại một so lò,
người ta cũng cần tránh góc chết và nếu có thì cũng phải chú ý để khắc phục. Khi ngọn lửa phun từ
vòi đốt đặt ờ tường lò vào trong lò, gỏc của buồng nung có xếp sản phẩm dễ trờ thành góc chết vì
ngọn lửa không bức xạ tới hay đối lưu cũng khó tới. Trong trường hợp này cần bố trí lỗ thoát lửa rộng
hon và nhiều hom nhằm đưa ngọn lửa tới góc chết này. Như vậy việc phân bo nhiệt trong lò sẽ trờ nên
tốt hơn, sản phẩm chín đều hơn.
Chiều dài của ngọn lửa phụ thuộc vào tốc độ cháy nhiên liệu. Nếu cháy nhanh, ngọn lửa sỗ ngắn
nhưng nhiệt độ ngọn lửa lại cao. Nếu cháy chậm, ngọn lửa kéo dài ra, song nhiệt độ của ngọn lửa lại
thấp hơn. Vì vậy tùy theo điều kiện cụ thể mà duy trì ngọn lửa dài hay ngắn. Ví dụ ờ lò nấu thủy tinh
cần đảm bảo nhiệt độ phân bố đồng đều trên đường đi của khí, ngọn lửa cần dài nhưng nhiệt độ của
ngọn lửa vẫn phải duy trì ờ phạm vi cho phép. Nếu để ngọn lửa quá dài, một phần ngọn lửa vượt khỏi
khu nung hay nấu rồi chui vào buồng hồi nhiệt sẽ gây tổn thất nhiệt. Trong trường hợp lò quay nung
clinke xi măng thì chiều dài của ngọn lửa phải đảm bảo sao cho clinke nằm ở zôn nhiệt độ cao 10 phút.
Điều đó có nghĩa là nếu tốc độ quay của lò càng nhanh thì chiều dài ngọn lửa càng dài và ngược lại.
Việc khống chế sao cho có ngọn lửa dài hay ngắn tùy thuộc vào tốc độ thổi nhiên liệu và không khí
cũng như nhiệt độ của không khí.
Nếu hướng ngọn lửa dưới một góc vào vật liệu, đồng thời điều chinh để khu vực nhiệt độ và tốc
độ lớn nhất trên mặt vật liệu, giảm sự xáo ưộn ngọn lửa với môi trường xung quanh ở phía trên và dưới
ngọn lửa, thì cấp nhiệt cho vật liệu sẽ tăng lên đồng thời gạch chịu lừa xây vỏ lò lại bền hơn.
Trong thực tế lò công nghiệp, người ta duy trì ngọn lửa sáng chăng những có ưu thế về truyền
nhiệt mà còn dễ quan sát, theo dõi quá trinh cháy và chuyển động của ngọn lửa. Đẻ giảm tổn thất nhiệt
ra môi trường xung quanh tức giảm tiêu tốn nhiên liệu, cần phải cách nhiệt tường lò cho tốt, che kín các
lỗ hay khe hở. Điều khiển ngọn lửa với tốc độ lớn và hướng nó vào mặt vật liệu dưới một góc sẽ tăng
tốc độ nung nấu.
231
5.4.3. Tổn thất nhiệt ra môi trường xung quanh
Tất cả các lò nung lò sấy đều có tổn thất nhiệt ra môi trường xung quanh do truyền nhiệt qua
tường lò, vòm lò và cả đáy lò.
Dòng nhiệt tổn thất ở đây là tổng hợp của cả ba dạng truyền nhiệt: dẫn nhiệt, đối lưu và bức xạ.
Để xác định lượng nhiệt tổn thất qua tường hay vòm lò ta dùng công thức tồng quát:
hoặc: o = °>QO1Ơ
* KW (5.129)
1 .1
—+ S-7 + —
ữị Ẵ a2
ÍK - ÍKK - chênh lệch nhiệt độ của khí trong lò và không khí, °C;
F - bề mặt truyền nhiệt của tường hay vòm lò, m2;
<X1 - hệ số cấp nhiệt từ khí tới tường lò, w/m2.độ;
CC2 - hệ số cấp nhiệt từ mặt tường ngoài tới không khí bao quanh, w/m2.độ;
Hệ số ai có thể xác định theo những công thức ở phần trên khi biết các thông số của khí và tường
lò. Tại nhiệt độ cao:
Đổi với không khí khô w/m2.độ
Đối với hỗn hợp không khí và hơi nước dị = 20 - 200 w/m2.độ
5,7.
fi[(^-) 4-(Ặ)4]
a2=Kịỉĩ~^ +--- Ị00- 1Q0- w/m2.độ (5.131)
*01 tkk
K = 2,6 đối với tường thẳng đứng;
K = 3,3 đối với tường ngang và cấp nhiệt lên phía trên;
K = 1,6 đối với tường ngang cấp nhiệt xuống dưới (nền lò);
232
8 - độ đen tường lò, tường gạch 8 = 0,8 - 0,9;
Vỏ thép 8 = 0,8, vò phủ nhũ sáng 8 = 0,2;
ttn, ĨKK - nhiệt độ mặt tường ngoài và không khí, °C.
Nếu ttn = 100 - 400°C có thể xác định a2 theo công thức đơn giản sau:
Hình 5.174. Giản đồ xác định hệ số cấp nhiệt của mặt ngoài tường lò theo đơn vị
At = (tt - tkfc) °C
Hình 5.17B. Giàn đồ xắc định hệ số cấp nhiệt của mặt ngoài tường lò theo đơn vị kcal.
233
Nhiệt độ bề mặt trong ti của lò xác định theo công thức 5.122 hoặc để đơn giản có thể xác định
theo đường cong nung sản phẩm đối với các zôn khác nhau. Khi đó tổn thất nhiệt xác định theo:
0,001(1,-tu)F KW (5.133)
4 + -L
Ằ a2
Q = 0,001a2(ttn- WF KW (5.134)
Trị số a2 có thể dùng bảng để fra hoặc dùng giản đồ để tìm (hình 5.17).
Đẻ xác định lượng nhiệt tổn thất ra không khí xung quanh có thể dùng giản đồ để tính (hình
5.17). Căn cứ vào nhiệt độ mặt trong của tường và nhiệt ưở nội E-y, ta xác định được nhiệt độ mặt
2
ngoài và lượng nhiệt tổn thất ra môi trường xung quanh.
234
Độ dẫn nhiệt: (5.138)
PỵSị + p^l
Mật độ: (5.140)
Pd‘ s\+S2
xb Cl, P1, S1 - độ dẫn nhiệt, tỷ nhiệt, mật độ, chiều dày nung nóng lớp vật liệu thứ nhất.
x2, c2, p2, s2 - độ dẫn nhiệt, tỷ nhiệt, mật độ, chiều dày nung nóng lớp vật liệu thứ hai.
Nung nóng và làm nguội vật thể trong trạng thái nhiệt không ổn định được giải bằng phương
trinh vi phân dẫn nhiệt. Khi giải các phương trình này ta sẽ gặp các nhóm số và được gọi là chuẩn số
đồng dạng. Với dòng nhiệt một chiều ta sẽ sử dụng những chuẩn số đồng dạng sau:
—chuẩn số Fourier
s2 °
“ - L chuân sô đông dạng hình học
ỏ
Trong đó:
s - chiều dày tấm, đường kính hình cầu và trụ;
a - độ dẫn nhiệt độ;
z - thời gian;
X - khoảng cách từ mặt nung nóng đến mặt khảo sát;
Atđ - chênh lệch nhiệt độ ban đầu;
Atc - chênh lệch nhiệt độ ban cuối.
Trong công nghiệp silicat, quan trọng nhất là quá trình nung nóng và làm nguội khi nhiệt độ môi
trường không thay đổi và khi môi trường thay đổi nhưng nhiệt độ bề mặt vật thể biến đổi nhiều lần.
(5.141)
X
e 4“
(5.142)
235
1
ổ2 — ) (5.143)
a=22(/,-<,)JỊ
(5.144)
V an
t - nhiệt độ ờ khoảng cách bề mặt là X sau z giờ;
Q1 - lượng nhiệt qua mặt song song với bề mặt của tấm ở cách bề mặt này X mét sau thời
gian z giờ;
Q2 - lượng nhiệt qua mặt song song với bề mặt của tấm ở cách bề mặt này X = 0 mét sau thời
gian z giờ;
Q3 - lượng nhiệt qua mặt song song với bề mặt của tấm ở cách bề mặt này X mét trước thời gian
Zgiơ.
Phương trình trên đáng tin cậy khi chiều dày sản phẩm thoả mãn điều kiện sau:
^>0’6
Giá trị của hàm số f (—^=) = f (5) xem trong bảng 5.7.
2VaZ
236
Giải: Để giải bài này ta đơn giản bớt và coi như tính toán đối với tường dày có nhiệt độ bề mặt
không đồi. Những đơn giản này là:
1. Nhiệt độ bề mặt coi như không đổi và bằng nhiệt độ trung bình toàn khối. Theo công thức
5.134 ta được tm= 1250°C.
2. Tường nhiều lớp thay bằng tường một lớp có thông số đương lượng.
3. Bỏ qua giai đoạn nung nóng ban đầu (khoảng 200 - 250 giờ) vì thời gian cùa giai đoạn này chỉ
chiếm < 10%.
Theo công thức 5.141 ta phải xác định trị số a^i tức xác định Xđi, Cđi, Pđi- Lấy nhiệt độ trung bình
của samôt = 1200°C và gạch đỏ = 1000°C để tính các trị số X và c.
Samôt À.1 = 1,04 4- 0,00015.1200 = 1,22 w/m.độ.
Gạch đỏ À,2 = 0,47 + 0,00051.1000 = 0,98 w/m.độ.
w/mđộ'
1,22 + 0,98
1,15.0,6 + 1,1.0,8
= 1,15 Kj/Kg.độ
0,6 + 0,8
P^ 18500,0+1?00^.790 K^
d' 0,6+ 0,8
3,6.1,13
‘1- = wTĨ5 = 0,0024 mí/h
X 1,4
= 0,286
2y[ãz ~ 2^0,0024.2500
Tra bàng 5.7 ta được fi(B) = 0,314
Nhiệt độ mặt tiếp xúc giữa gạch đỏ và móng lò:
Nhiệt độ này quá cao, kết cấu của nền lò cần thay đổi.
5.5.3. Nung nóng trong môi trường có nhiệt độ không thay đổi
Nhiệt độ ờ bề mặt, khoảng giữa và tâm các sản phẩm dạng tấm, trụ, cầu vô hạn cỏ đường kính
tính toán d hay chiều dày s. Với nhiệt độ đồng đều ban đầu tđ đưa vào trong lò có nhiệt độ thay đổi tị
xác định theo phương trình:
237
<1 _ f(4aZ aS (5.145)
t,-td J s2 2Ẵ
Tùy thuộc vào xuất phát điểm mà tx có thể là nhiệt độ bề mặt, trung tâm hay ở khoảng cách X
mét so với mặt ngoài. Với mỗi dạng vật liệu ta có giản đồ để tìm giá trị 0, Fo và BiO. Nếu biết hai
chuẩn số trên ta xác định được chuẩn số thứ ba. Nếu biết BiO và Fo ta xác định được nhiệt độ đạt
được sau z giờ, ngược lại khi 0 và BiO đã biết, ta xác định được thời gian cần thiết để đạt nhiệt
độ mong muốn (tm, t( hoặc tx).
Giản đồ cỏ nhiều, với mỗi điều kiện, mỗi hình dáng sản phẩm đều có một giản đồ tưorng ứng.
Hình 5.18. Giản đồ 9 của vật thể dạng tấm BiO và Fo khi Fo có giá trị nhỏ.
Hình 5.19. Giản đồ 9 của vật thể dạng trụ BiO và Fo khi Fo có giá trị nhỏ.
238
01
Hình 5.20. Giản đồ 0 của tắm (trái) vật thể dạng trụ và tâm dạng tấm (phải)
£
"S
5
£
o
Hình 5.21. Giản đồ hàm Fo theo BiO và e khi Fo có giá trị lớn.
239
If
Hình 5.22. Giàn đồ tính toán biến đổi nhiệt độ vật thể hàm Fo theo Bio và 0.
Liên hệ giữa nhiệt độ bề mặt tm, nhiệt độ tâm t( và nhiệt độ khối có thể xác định theo phương
trình:
240
Sản phẩm dạng tấm m = 1/3, trụ m = 1/2, cầu m = 2/3.
Trong trường hợp nhiệt độ là không đổi, nhiệt độ bề mặt vật liệu thường biến đổi theo đường
ParaboL Khi đó nhiệt độ bề mặt trung bình xác định theo công thức:
ttb = tđ + 2.(tc - tđ)/3 °C (5.147)
Trường hợp vật thể được khảo sát có hình dáng vừa là tấm vừa là trụ hoặc vừa là cầu thì ờ điểm
tương ứng của tiết diện chuẩn số nhiệt độ xác định bằng:
0 = 0’. 0” (5.148)
Nếu hình dạng lại giống cả ba loại trên thì:
0 = 0’.0”.e’” (5.149)
0’. 0”. 0’” là giá trị 0 ứng với tấm, trụ và cầu.
Đối với vật thể nếu BiO < 4 thì phải kể đến nhiệt trờ nội và khi đó hệ số cấp nhiệt xác định bằng
hiệu ứng:
a
ữhu “ 1 ( BiO
(5.150)
1 + ——
m
= 1,293 dm
241
abx=% = ~ ] = 94’2
w/m2.độ
bx \t 1000-610 100 100
Thực tế trao đổi nhiệt bằng đối lưu không có cho nên Ođi = 0 và a = ađi + abx = 94,2 w/m2.độ.
Từ đây ta xác định chuẩn số với Ả = 1,97 w/m.độ
a.r = 94,2,0,081 = 3 85
Ả 1,97 : 3
aZ 0,00267 ,z = 0,405Z
° “ r2 ~ 0,0812
a= = 361,91 = 0,00267
c.p 0,837.2650
Vì cần thiết phải đốt nóng đến tt = 850°C thì chuẩn số nhiệt độ cần phải bằng:
= 0,153
' 1000-20
Căn cứ vào chuẩn số Bi và 0 đã biết, trên giản đồ 19 đến 22 ta tìm được Fo = 0,45. Từ đó ta tìm ra
thời gian cần thiết để đạt nhiệt độ trên là:
0(1 = 0,073
242
kỹ thuật, người ta không cần biết nhiệt độ tại một điềm nào đó quá chính xác mà chỉ cần gần đúng là đù
mặc dù sai số có thể đạt một ít độ. Điều đó có nghĩa là phân bố nhiệt độ không phải là đường Parabol
nữa mà là đường gày khúc bám gẩn sát với đường Parabol.
Để giải bài toán này, đầu tiên chúng ta phải coi rằng:
1 Vật the được coi như là đống nhất và đắng hướng.
2. Các thông số vật lý như độ dẫn nhiệt độ, tỷ nhiệt, khối lượng riêng là không đồi.
3. Trạng thái tổ hợp của nó không thay đổi.
Thực chất của phương pháp này do Smidth đề xướng là thay những đoạn vô cùng nhỏ dt, dx, dĩ
của phương trình vi phân bằng những đoạn At, AS, At lớn hơn.
dt d t At At
—- -ÍỈTT_> = (5.151)
dr dx At as
At - độ tăng nhiệt độ của lớp có chiều dày AS sau thời gian At giờ;
a - độ dẫn nhiệt độ.
3,6/1 m2/h
ứ = - ■■■ (5.152)
p.c
À. - độ dẫn nhiệt, w/m.độ;
p - mật độ, Kg/m3;
c - tỷ nhiệt hay nhiệt dung riêng, Kj/Kg.độ.
Sự thay the như vậy sỗ đơn giản bài toán rất nhiều, đường phân bố nhiột độ sẽ là đường gẫy khúc
chứ không phải là đường cong đều ở phương trình vi phân truyền nhiệt hình 5.23.
Lượng nhiệt đi qua lớp 1 vào lớp 2 sau thời gian At sể bằng:
3,6Ầ(tị -t2)
= q,AT = Ar Kj/m2
AS
Qua lớp 2 vào lớp 3 cũng sau thời gian At, lượng nhiệt truyền đi:
243
Lượng nhiệt dư AQ = Q1 - Q2 dùng để tăng nhiệt độ lớp đó lên At. Hàm nhiệt của 1 m2 lớp tăng
lên một đại lượng AI = AS . p.C.At, về trị số chính bằng AQ.
Do đỏ:
(5.154)
(5.155)
2a
Vì trị số:
2<aAr
AS2"
Khi đó ta được một nhịêt độ mới t’2 (hình 5.23) và
(5.156)
Từ đây ỉa có định nghĩa: nhiệt độ của lớp ở thời điểm nào đó bằng trung bình cộng của hai lớp
cạnh nó trước đó một đoạn thời gian.
Bằng phương pháp này, nếu biết nhiệt độ cùa lớp bên phải và trái, ta dễ dàng xác định nhiệt độ
mới đối với lớp giữa sau đoạn thời gian ÁT bằng biểu đồ hay bảng tính. Tuy nhiên, vẫn chưa thể xác
định được nhiệt độ mặt ưong và mặt ngoài của tường, nhiệt độ mặt trong của tường có thể xác định theo
tốc độ nâng nhiệt độ đã cho hoặc theo dòng nhiệt cho đến tường. Đơn giàn nhất, ta lấy nhiệt độ này theo
đường cong nâng nhiệt độ hay làm nguội của lò.
Nhiệt độ mặt ngoài của tường trong những thời gian nhất định vẫn duy trì không đổi. Sau một
thời gian nó được hâm nóng lên. Từ lúc đó nhiệt độ tường ngoài xác định như sau:
244
Nếu biết nhiệt độ tại điểm cách mặt ngoài của tường một đoạn AS là t . thì dòng nhiệt truyền
bằng dẫn nhiệt đén mặt ngoài là:
Cũng lượng nhiệt này, mặt ngoài trao cho môi trường xung quanh (không khí).
= a2(tn-tKK)
Rút ra:
(5.157)
n~ Ấ + ư2AS
Chứng minh tương tự ta cũng có thể xác định nhiệt độ mặt trong của tường:
(5.158)
- nhiệt độ ờ điểm cách mặt tường một đoạn AS trong đoạn thời gian cho.
Nếu tường lò xây bằng nhiều loại vật liệu khác nhau ví dụ trong là gạch chịu lửa, lớp ngoài là
gạch cách nhiệt, thì hệ số X và a cũng khác nhau. Để tính toán, đầu tiên ta phải chọn lớp chính (thường
là lớp trong cùng) rồi chia nó thành những đoạn chiều dày AS. Thời gian để nâng lớp đó lên nhiệt độ At
phải thoà mãn điều kiện:
AS2
Ar =
2a
Lớp vật liệu thứ hai và những lớp tiếp theo, ta chia thành những lớp mỏng cỏ chiều dày AS’ và
cũng phải thoả mãn điều kiện At = At’ có nghĩa là:
Do đó:
(5.160)
245
Biến đổi nhiệt độ trong lớp gạch đầu tiên xác định như đối với tường một lớp.
Nhiệt độ ờ mặt tiếp xúc giữa hai loại gạch khác nhau ta sẽ xác định như sau:
Lượng nhiệt đi đến mặt chung cũng băng lượng nhiệt đi từ mặt chung đó đi vào lớp gạch thứ hai,
nên ta có thể viết:
.. dt. .... dt .
s =0 (5.161)
Nếu biết nhiệt độ cách mặt chung này một đoạn AS ở phía trái là ^A$và về phía phải AS’ là
tAS' thì ta sỗ có:
c r + r'
(5.162)
Nhiệt độ tiếp theo trong lớp gạch thứ hai được xác định như đối với tường một lớp.
Ở những đoạn thời gian nhất định, nhiệt độ trung bình của mỗi lớp gạch có thể xác định theo
công thức đom giản sau:
('lÌAíl)+,ĩ+ Ij
<.=-----í-------- ------------------- (5.163)
n
V - thể tích gạch tích nhiệt, ứng với 1 m2 tường lò, m3/m2;
p - mật độ gạch, Kg/m3;
Cc, Cđ - nhiệt dung riêng cuối và đầu, Kj/Kg.độ;
tc, tđ - nhiệt độ cuối và đầu, °C.
Khi tính toán đối với tường hình trụ đầu tiên, ta chia chiều dày tường thành n lớp có chiều dày AS
(hình 5.24) sau đỏ ta xác định ngay chiều dày đương lượng theo công thức:
246
2£>„AS . 20 AS . (5.165)
ỡ,+ỡ, ’ D\ + D1
Nếu trong lò có chứa vật liệu nung ta có thể xác định chiều dày đương lượng của lớp này như
sau:
Kj/kg.độ (5.167)
qhh - nhiệt tiêu tốn cho quá trình biến đổi hóa lý của vật liệu, Kj/Kg.
Có hai phương pháp để thể hiện kết quả: Phương pháp bảng và phương pháp biểu đồ. Để minh
hoạ điều này ta hãy xét bài toán ví dụ cụ thể dưới đây:
Phương pháp bảng:
Ví dụ: Hãy tìm sự phân bố nhiệt độ khi đốt nóng và làm nguội tường lò với tốc độ trong hình
5.25. Biết rằng tường lò gồm samôt dày 345 mm, gạch cách nhiệt 115 mm, nhiệt độ ban đầu đồng đều
20°C, nhiệt độ không khí bao quanh 20°C.
247
Hình 5.25. Sơ đồ blén đổl nhiệt độ lò.
Giải: Đầu tiên ta chia gạch chịu lửa samôt làm 6 lớp.
Xi = l,08W/m.độ
C1 = 0,997 Kj/Kg.độ
P1 = 1900 Kg/m3
x2 = 0,17W/m.độ
c2 = 0,89 Kj /Kg.độ
p2 = 700 Kg/m3
a2 = = 0,00098 m2/h
2 700.0,89
n = 0,115/0,04 «3
Cứ sau một đoạn thời gian At = 0,815h, nhiệt độ mặt trong tmt tăng lên:
Atmt = 0,815.78,5 = 64°c
248
Như vậy, trong cột tmt (0 AS) ta có thể tính được nhiệt độ ứng với mọi đoạn ÁT (từ OAt - 27At).
Nhiệt độ ở các cột (trừ cột tc.6AS và tm,n.3AS’) tính theo công thức 5.156.
Bảng 5.8. Tính toán phản bố nhiệt độ trong tường nhiều lóp
OAt 0,000 20 20 20 20 20 20 20 20 20 20
1 At 0,815 84 20 20 20 20 20 20 20 20 20
2At 1,630 148 52 20 20 20 20 20 20 20 20
3At 2,445 212 84 36 20 20 20 20 20 20 20
4At 3,260 276 124 52 28 20 20 20 20 20 20
5 At 4,075 340 164 76 36 24 20 20 20 20 20
6At 4,890 404 208 100 50 28 22 20 20 20 20
7At 5,705 468 252 129 64 36 24 23 20 20 20
8At 6,520 532 299 158 83 44 30 29 22 20 20
9At 7,335 596 345 191 101 57 37 35 25 21 20
10 At 8,150 660 394 223 124 69 46 43 28 23 21
11 At 8,965 724 442 259 146 85 56 52 33 25 22
12 At 9,780 788 488 294 172 101 69 64 39 28 23
13 At 10,595 852 541 330 192 112 82 75 46 31 24
14At 11,410 916 591 367 226 137 98 90 53 35 25
15At 12,225 980 642 409 252 162 114 104 63 39 27
16 At 13,040 1044 695 447 286 183 133 122 72 45 29
17 At 13,855 1108 746 491 315 210 153 140 83 51 31
18At 14,670 1172 800 531 351 234 175 160 96 57 33
19 At 15,485 1200 852 576 383 263 197 180 109 65 36
20At 16,300 1200 888 618 420 290 222 203 123 73 36
21 At 17,115 1200 909 654 454 321 247 227 138 80 38
22At 17,930 1200 927 682 488 357 274 252 154 88 40
23At 18,745 1126 941 708 517 381 302 296 170 97 43
24At 19,560 1044 917 729 545 410 339 311 197 107 46
25At 20,375 963 887 731 540 442 361 333 209 122 50
26At 21,190 881 847 729 587 466 388 358 228 130 53
27At 22,005 805 717 598 488 412 380 244 141 56 36
249
^OAS.lAr + ^OAS.lAr 84 + 20 =52°C
2 2
Ví dụ ở đoạn 7At:
0,235.24 + 0,0536.530 = 23 oc
- ^6AS,7Ar ~
0,0536 + 0,235
_ «2 AS"/^ + ẤtAS'
m" " 22+a2AS"
fjAS'.llAr
8.0,04.20 + 0,17.25 0^
0,17 + 8.0,04
Từ đoạn thời gian 10At trở đi ta phải tính theo phương pháp trên và kết quả sẽ điền vào cột tmn.
Khi nhiệt độ mặt ngoài đạt đến 36°c, ta tính lại giá trị Ơ2 theo công thức:
„,309.. ,293 .
______ 5,7.0.8[(^)4 -(^r)4]
a22 = 2,16^36 -20 +----------- „36-20
—-10Q------------ = 10,1 w/m2.độ
_ 10,1,04.20 +0,17.73 _
3AS’,20Ar 0,17 + 10,1.0,04
Nhiệt độ trung bình mỗi loại gạch ở đoạn thời gian khảo sát xác định theo công thức 5.163.
Đối với samôt sau giai đoạn đốt nóng đến 1200°C ở đoạn 19At:
250
( * +G+ •• - + ^
=------ "------n- -------------
Q = G(C2t2-Citi)
Giá trị của G được tính ứng với lm2 tường lò.
Tổn thất nhiệt ra môi trường xung quanh xác định theo công thức:
q = a2(tn - íkk). t
Trị số cc2 xác định theo giản đồ hình 5.17 hoặc theo công thức 5.131. Kết quả tính toán được đưa
vào bảng 5.10.
Giai Thời gian Nhiệt tích lũy Kj/m2, giai đoạn Nhiệt tổn thất ra môi trường xung
đoạn quanh Kj/m2, giai đoạn
(h) Gạch samôt Gạch cách nhiệt
Tồng nhiệt tổn thất ra môi trường xung quanh và tích luỹ bởi vỏ lò bởi l m2 tường trong giai
đoạn đốt nóng (I) và hãm nhiệt (II) là:
Qtt = 302.218 + 58.669 + 5.301 + 2.507 + 1.548 + 10.206 = 380.500 Kj7m2, giai đoạn.
Chủ ỷ: Giá trị X, c lấy trung bình ờ trên nếu không phù hợp thì phải tìm giá trị khác tương xứng.
Muốn chính xác hơn thì cứ sau mỗi đoạn thời gian ta lại tính toán X và c ứng với nhiệt độ tìm ra.
251
Phương pháp giản đồ với tường một lớp:
Phương pháp giản đồ có nhiều thuận tiện hơn. Ờ đây ta sể tìm được đường phân bố nhiệt độ
trong trục toạ độ: Nhiệt độ - nhiệt trở. Chúng ta hãy khảo sát ví dụ đối với tường một lớp samôt dày
0,24m với À. = 1,0 w/m.độ, c = 0,9 Kj/Kg.độ, p = 1,850 Kg/m3.
a = 3^ = 0.00216 m2/h
Cp
0.24
A5 = -^7—= 0,08 m
3
0,082
Ar = = 1,48 h
2.0,00216
Nhiệt độ mặt thay đổi với tốc độ 50°C/h, nhiệt độ ban đầu của toàn khối gạch là 40°C, hệ số cấp
nhiệt từ tường ra môi trường xung quanh 0.2 = 8 w/m2.độ, nhiệt độ không khí 20°C.
Ar4 = — = ị = 0,125
a2 8
Trên trục toạ độ hình 5.26 ta lấy những đoạn có độ dài tỷ lệ tương ứng tới Ari đến Ar4. Theo trục
tung ta có nhiệt độ tương ứng sau mỗi đoạn At = 1,48 h.
Nhiệt độ bề mặt trong sau:
252
IAt t,’ = 40 +50.1,48 = 114°c
Sau 1 At nhiệt độ mặt trong tăng 74 °C và cứ tiếp tục như vậy cho đến khi đạt nhiệt độ dừng hay
nhiệt độ tối đa mong muốn.
Sau IAt đường phân bố nhiệt độ là đường 1 At.
Sau 2At đường phân bố nhiệt độ là đường 2At, điểm gẫy khúc Í2” chính là giao điềm của đường
thẳng góc ờ Í2 với đường nối 114°c với t3 = 40°C (đường nét đứt).
Sau 3At, điểm gẫy t2”’ và t3’” xác định tưomg tự như trên, đó là giao điểm của đường thẳng góc
và nét đứt tị’.
Sau 4At, nhiệt độ tị bắt đầu tăng lên. Điểm này tị’ là giao điềm của đường thẳng góc với đường
Sau 5At, điểm U” là giao điểm của đường thẳng góc với đường t3”” - tfcK-
Tiếp tục vẽ cho đến nAT, ta sẽ được đường phân bố nhiệt độ ờ tường ứng với thời gian cần xác
định.
Phương pháp giản đồ với tường nhiều lớp:
Ví dụ tường có hai loại gạch, gạch thứ nhất chia làm ba lớp AS. Gạch thứ 2 có chiều dày lớp
tưomg ứng theo công thức 5.158 là AS’, ví dụ cỏ hai lớp.
Xác định ri và r2 tưorng ứng từ Ari đến Ar2 trên trục toạ độ ta vẽ với tỷ lệ chính xác (hình 5.27).
Cách xác định như ở tường một lớp gạch. Nhiệt độ ttc là điểm cắt của đường thẳng góc với đường
/A51 ^2- Nhiệt độ mặt ngoài ửng với giao điểm của đường thăng góc với đường — tKK .
Sau một thời gian nhất định, ta tìm trên biểu đồ đường phân bố nhiệt độ ứng với thời gian cho.
Từ đỏ ta tính được nhiệt độ trung bình của mỗi loại gạch và lượng nhiệt tích luỹ bởi tường lò. Từ nhiệt
độ bề mặt gạch ta tính được nhiệt độ tổn thất ra môi trường xung quanh.
Nhiệt đô h t2 t3 t4 = tc t5 tổ-tn
253
5.7. TRAO ĐỔI NHIỆT TRONG LỚP VẬT LIỆU DẠNG HẠT, VIÊN, cục
Vật liệu trong lò được dòng khí có nhiệt độ cao thổi vào, tùy theo tốc độ của dòng khí và kích
thước của vật liệu mà vật liệu có thể nằm ở một trong ba trạng thái: vật liệu đứng im hay chuyển dịch
rất chậm so với khí gọi là tầng chặt hay tầng tĩnh, vật liệu chuyển động đến chiều cao nào đó - tầng sôi,
vật liệu bay theo dòng khí hay ở trạng thái cân bằng trong dòng khí đôi khi gọi là huyền phù
(suspension). Dạng tầng sôi và huyền phù được ứng dụng trong nhiều ngành công nghiệp nói chung và
rõ nhất trong công nghiệp vật liệu silicat là hệ lò nung clinke xi măng.
Việc nung nóng các vật liệu dạng cục ờ tầng chặt hay tầng tĩnh thường tiến hành trong lò đứng
như lò đứng nung vôi, đôlômit, clinke ximăng... Ớ đây dòng khí và vật liệu đi ngược chiều nhau, khí
cấp nhiệt cho bề mặt vật liệu sau đó bằng dẫn nhiệt mà toàn thể tích của vật liệu được nung nóng lên,
hàm nhiệt vật liệu tăng lên.
Dòng nhiệt đi từ khí được đặc trưng bằng chi số nước.
nF
L = (5.171)
CyLPn
tyL - nhiệt độ ban đầu của vật liệu, °C;
K - nhiệt độ ban đầu của khí, °C;
td
aY - hệ số cấp nhiệt tổng có kể đến nhiệt cản nội của cục vật liệu, w/m2.độ;
Fvl - bề mặt đốt nóng của 1 m3 lớp vật liệu, m2/m3;
254
Nhiệt độ khí lúc ra khỏi lớp xác định theo phương trình:
độc (5.172)
Hệ số cấp nhiệt tồng có thể xác định bằng công thức của Kitaev.
a a
aT =
1 + 0,28 aR / ẢM ỉ + 0,2Bio
a a
(5.174)
1 + 0,286ỡ7? / ẢM 1 + 0,286óz5fơ
Việc sử dụng hệ số cấp nhiệt ứng với một đơn vị bề mặt vật liệu az trong tính toán trao đổi nhiệt
không thuận tiện bằng ứng với một đơn vị thể tích ƠVE-
Nếu ký hiệu Vvl là thể tích của vật liệu ứng với lm3 lớp, Kr là hệ số rỗng hay độ rỗng của lớp thi
thể tích của 1 m3 lớp phối liệu sẽ bằng:
K, = VyL
(5.175)
L 1 - Kr
Do đó:
W
VL
L = 3,6------ ' (1 - (5.178)
cVLptVLịỵ-Kr) \WK’
Nếu thay thế mật độ vật liệu Pvl băng mật độ tơi ptvL ta nhận được:
255
(5.179)
zy w.„
£'=10,8 -■ (5.181)
C^P^R WK
R - bán kính trung bình cùa cục vật liệu, m;
X - độ dẫn nhiệt của vật liệu, w/m.độ.
Đe xác định hệ số cấp nhiệt ngoại trong lớp cục vật liệu tự nhiên ứng với nhiệt độ bề mặt có thể
sử dụng công thức:
w/m3.độ (5.182)
Hệ số cấp nhiệt thể tích a V w/ m3.độ. Tốc độ khí ứng với tiết diện tự do ở o°c, m/s
Hình 5.28. Giản đồ xác định hệ số cấp nhiệt thể tích theo tốc độ
và nhiệt độ khí tùy thuộc vào đường kính của viên liệu.
256
Trị số ccv có thề tỉm ở giản đồ hình 5.28 khi M = 0,5 và giá trị trung bình A = 186. Hệ số cấp
nhiệt tồng a VI kể cả nhiệt cản nội và ngoại của cục vật liệu xác định theo công thức:
1 1 z?2
— = —+ (5.183)
Cốy 9Ấ
Chiều cao cần thiết của lớp vật liệu để hoàn thành quá trình trao đổi nhiệt đến tvL = 0,95 tfc xác
định theo phưorng trinh:
H = 0,83k, -^Pl'i-V~-Kr)
’ r 117
m (5.184)
Vp - cường độ tiết diện theo thể tích của lớp vật liệu, m3/m2.h, đó chính là tốc độ ra lò của lò
đứng, m/h.
giờ (5.185)
VF
Khi tính toán lò, người ta chia chiều cao của nó thành những đoạn, mỗi đoạn có nhiệt độ khí
trung bình. Trong trường hợp này thời gian để đốt nóng vật liệu ờ đoạn từ nhiệt độ tyL ưđến ÍCVL xác
định bằng công thức:
ờ zôn nung, nếu tiêu tốn nhiều nhiệt để phân hủy vật liệu thì thường WK < WVL, vì vậy trao đổi
nhiệt ít phụ thuộc vào độ dẫn nhiệt của vật liệu và trong tính toán có thể aVE = otv.
Trong trường hợp khi WK < Wvl, nhiệt độ khí và vật liệu xác định theo những công thức sau:
độ (5.187)
— 4 c (4 1 4 \ wK
~^VL VK rrr giờ (5.189)
”VL
Đối với tầng sôi, thời hạn gia công nhiệt vật liệu có thể xác định bằng công thức:
257
f- độ rỗng của tầng sôi;
Pvl - mật độ của các hạt vật liệu, Kg/m3;
Go - lượng vật liệu đưa vào tầng sôi, Kg/h;
Kv - hệ số kể đến sự biến đổi thể tích của hạt vật liệu khi gia công nhiệt.
Do đường kính của hạt nhỏ (0,5 - 4,0 mm) và khí bao bọc chúng rất mạnh nên hệ số cấp nhiệt
bằng đối lưu từ khí tới mặt vật liệu ở tầng sôi đạt tới 600 - 800 w/m2. độ.
Thời hạn đốt nóng các hạt nằm ờ trạng thái bay lơ lửng theo dòng khí xác định bởi công thức:
Vtb - tốc độ trung bình của khí theo chiều cao của ống hay tháp, m/s;
Pk, vk - mật độ Kg/m3 và độ nhớt động của khí, m2/h;
WVL = 0,92
WK 1,525
Hệ số cấp nhiệt ngoại ở nhiệt độ khí trung bình 425°c tìm ở giàn đồ hình 5.28, av = 4900
w/m2.độ.
Đối với vật liệu ta lấy Xvl = 1,67 w/m.độ ta tìm hệ số cấp nhiệt tổng theo công thức 5.183:
258
1 1 0 0252
—= _ = 0,0002436, a„ =4110 w/m2.độ
4900 9.1,67
Xác định chiều cao zôn trao đổi nhiệt (đốt nóng) theo công thức 5.184:
4.110(1-0,603)
__H _ 0,92 ..
VF 1,8
Bây giờ ta xác định chênh lệch nhiệt độ ở bề mặt và trung tâm của cục vật liệu nung ở cuối giai
đoạn đốt nóng.
Hệ số cấp nhiệt ứng với bề mặt của cục vật liệu xác định theo 5.177:
= 4110—= 55 w/m2.độ
7,5(1-0,5)
^=ự(l-e-£) độ
36 4110
(l-0,603).0,51 = 2,97
’ 0,42.2200(1-0,5)
Nhiệt độ khí lúc ra khỏi zôn xác định theo công thức 5.172:
850 = //+0,603.807
=850-487 = 363° c.
259
Chương 6
Khói lò hay khí thải từ lò nung ra chứa một lượng nhiệt rất lớn. Ở một số lò nung như lò tuy nen,
lò vòng để nung gốm sứ, nhiệt của khí thải từ zôn cháy được sử dụng để nung nóng và sấy sàn phẩm
trước khi chúng đi vào zôn nung. Tại lò quay để nung clinke ximăng khí nóng từ lò quay được tận dụng
để phân hủy khoáng sét và đá vôi của nguyên liệu trước khi chúng đi vào lò quay. Vì vậy, khi thải ra
không khí khói lò có nhiệt độ thấp và hệ số sử dụng nhiệt của những lò này tưomg đối cao. Ngược lại ở
một số lò như lò gián đoạn (lò phòng lửa đảo, lò con thoi) hay lò nấu thủy tinh, nhiệt của khí thải nếu
không được sử dụng thì sẽ tăng tiêu tốn nhiên liệu lên một đơn vị sản phẩm và có thề sẽ không đảm bảo
nhiệt độ trong lò. Cho nên vì yêu cầu của kỹ thuật và kinh tế cần phải nghiên cứu những biện pháp để sử
dụng nhiệt của khí thải đỏ.
Trong các lò lửa, người ta phải cung cấp nhiên liệu và không khí vào lò. Tại lò nung, nhiên liệu
cháy và cung cấp nhiệt cho vật liệu gia công nhiệt. Nhiều trường hợp nhiên liệu không đảm bảo nhiệt độ
cháy cần thiét, cho nên không khí phải được nung nóng sơ bộ. Đôi khi cả không khí và nhiên liệu nhiệt
trị thấp đều được nung nóng sơ bộ trước khi vào cháy trong lò. Sừ dụng nhiệt của khí thài để nung nóng
sơ bộ không khí và nhiên liệu khí đỏ cho phép ta đảm bào yêu cầu kỹ thuật của lò đồng thời tiết kiệm
được nhiên liệu, giảm khí CƠ2 gây hiệu ứng nhà kính.
Có trường hợp chế độ nhiệt độ vẫn đảm bảo khi nhiên liệu cháy bằng không khí lạnh. Ở điều
kiện đó, nếu không sử dụng nhiệt của khí thải để nung nóng không khí thì sử dụng chúng để cung cấp
cho lò sấy, nồi hơi. Muốn vậy người ta đặt nồi hơi trên đường đi của khí tới ống khói, hơi nước sản
xuất ra sẽ được dùng ưong toàn nhà máy hoặc bổ sung vào nồi hơi chính của nhà máy hoặc dùng sản
xuất điện năng.
Nếu nhiệt độ của khí thải ra tương đối thấp, có thể sử dụng chúng để đun nóng nước. Nước
nóng không chi rất cần thiết cho sinh hoạt và sưởi ấm trong mùa đông mà còn cần thiết cho sản xuất,
ví dụ phối liệu gốm trộn bằng nước nóng sỗ tăng độ dẻo, chóng khô khi sấy, tăng cường độ cơ học
của sản phẩm.
Trong những biện pháp trên thì biện pháp sử dụng nhiệt của khí thải để nung nóng không khí và
nhiên liệu khí trước khi cháy trong lò là biện pháp tốt nhất, có ý nghĩa lớn nhất. Vì vậy trong công
nghiệp, bên cạnh lò nung thường có buồng hồi nhiệt liên tục (recuperator) hay buồng hồi nhiệt gián
đoạn (regenerator), trong đỏ không khí hoặc nhiên liệu khí được nung nóng sơ bộ trước khi vào lò.
Nhiệt độ không khí này tùy theo phương pháp nung nóng mà cỏ thể đạt đến khoảng 1000°C. Trong điều
kiện như vậy, nhiên liệu có thể cháy với hệ số không khí dư nhỏ và nhiệt độ trong lò dễ đạt được cao
theo yêu cầu.
Đối với lò quay nung clinke xi măng khói lò có nhiệt độ cao ở cuối lò. Khói lò này được sử dụng
để nung sơ bộ bột liệu trước khi chúng đi vào lò quay. Đối với lò tuy nen nung gốm sứ hay vật liệu chịu
lửa sản phẩm cháy được sử dụng để nung nóng vật liệu đi vào lò. Cả hai trường họp trên về cơ bản
260
nhiệt của khói lò đã được tận dụng cơ bàn. Tuy nhiên khói đi ra khỏi lò còn có nhiệt độ tương đối cao
200 — 350°C nên việc tận dụng triệt để khói này vẫn đang được nghiên cửu sử dụng ví dụ cho sấy thậm
chí còn phát điện.
Trong buồng liên tục, không khí và khí thải có thể đi cùng chiều, ngang chiều hay ngược chiều.
Cũng như những thiết bị trao đổi nhiệt khác, nếu đi cùng chiều thì không khí không thể được nung nóng
đến nhiệt độ cao hơn nhiệt độ khí thải lúc đi vào buồng. Chi khi đi ngược chiều thì điều đó mới có thể
thực hiện được.
Nhiệt độ thành ống (hay kênh) có thể lấy bằng trung bình nhiệt độ khí thải và không khí. Trong
trường hợp đi ngược chiều, rõ ràng nhiệt độ cực đại của thành ống sẽ cao hơn nhiều. Vì vậy để xây
dựng buồng hồi nhiệt cần phải dùng vật liệu bền vững. Nếu làm việc cùng chiều, chênh lệch nhiệt độ
mặt trong và ngoài của kênh ống sẽ khá cao. Trong điều kiện đó, ống gốm (ống chịu lửa hoặc xây bằng
gạch chịu lửa) sỗ không chịu nổi, vì độ bền sốc nhiệt của chúng thấp, ngược lại buồng hồi nhiệt kim loại
có thể làm việc tốt được. Tất nhiên buồng hồi nhiệt kim loại làm việc cùng chiều chi có thề nung nóng
không khí đến nhiệt độ thấp mà thôi.
Khi khí thải và không khí đi ngang chiều, do hoàn cảnh sắp đặt thiết bị, chênh lệch nhiệt độ giữa
khí thải và không khí không giống nhau mà chúng phụ thuộc vào vị trí khảo sát.
Đặc điểm trao đổi nhiệt trong buồng liên tục là trao đổi nhiệt qua thành ống. Chế độ trao đổi
nhiệt trong buồng tương đối ồn định và liên tục. Nếu các thông số của khói lò thay đồi không đáng kể
thì nhiệt độ của không khí vào lò để cháy nhiên liệu coi như không đổi. Vì vậy chế độ nhiệt của lò nung
coi như ổn định.
261
6.1.2. Cấu tạo của buồng hồi nhiệt gốm
Đẻ xây dựng buồng hồi nhiệt gốm người ta sử dụng vật liệu chịu lửa samôt cacborun (SiC) và
cao alumin. Nhiệt độ cho phép cực đại ờ tường gạch samôt 1400°C, ờ gạch cacborun và cao alumin
1500°C, nhiệt độ không khí được nung nóng đến 800 4- 1000°C. Ờ khu vực nhiệt độ không khí trên
900°C (nhiệt độ khí trên 1300°C) phải xây băng vật liệu cacborun SiC và cao alumin. Hiện nay việc sản
xuất ống SiC cao cấp mật độ cao đã phát triển tốt nên có thể dùng ống này cho buồng hồi nhiệt liên tục
ờ nhiệt độ cao.
Buồng gốm thường được xây bằng gạch ống dị hình có tiết diện ngang là vuông, lục lăng hay bát
giác. Đôi khi được xây bằng gạch thông có hai hoặc bốn lỗ thông. Vì những viên gạch này không thể
quá dài, cho nên người ta xây ghép chúng lại để tạo thành kênh hoặc ống dài, trong đó khí chuyển động.
Đặc tính của các loại buồng gốm cho trong bảng 6.1.
Bảng 6.1. Đặc tính của gạch xảy buồng hồi nhiệt liên tục
• ?
Kiêu gạch ông
Các chi tiêu
Óng vuông Óng bát giác I Ông bát giác II
262
Những viên gạch này khi nung nóng nó sẽ giãn nở và chuyển dịch hoặc nâng đội lên. Khi làm
nguội chúng co lại và chiếm vị trí ban đầu. Nhưng những viên gạch bị chuyển dịch khi nung nóng thì
chúng không quay lại vị trí cũ khi làm nguội. Tiếp tục nung nóng lần thứ hai, khe hở đó không kín lại
mà cỏ thể lại mở rộng thêm. Vì vậy khi xây buồng liên tục gốm cần phải tránh những mạch thẳng góc.
Những viên gạch xây buồng hồi nhiệt cần có khớp định vị, tại khớp này dùng vữa đặc biệt để xây kín.
Hiện nay người ta hay dùng vữa samôt - boxit có pha lẫn thủy tinh lỏng. Vữa này đảm bảo kín, chắc
chắn khi làm việc ờ nhiệt độ cao. Sơ đồ kết cấu của buồng gốm cho trong hình 6.1.
Gạch ống được định vị bời những gạch tấm dị hình để tạo thành kênh thăng đứng với kênh
ngang. Bề mặt riêng của buồng gốm có thể đạt 6 4-12 m2/m3 buồng. Ở buồng gốm, khí thải chuyển
đồng ngược chiều với không khí cho nên nhiệt độ cực đại của tường ống là chỗ khí thải vào (không
khí ra).
Thông thường buồng gốm không kín, không khí lọt sang phía khói lò với một lượng 20 4- 40% so
với lượng khí thải ban đầu. Để giảm lượng không khí lọt sang phía khói lò, cần phải giảm áp suất của
không khí. Muốn vậy người ta hút không khí qua buồng hồi nhiệt bằng vòi phun (injector). Kết quả
không khí cũng như khói lò đều có áp suất âm và chênh lệch áp suất giữa không khí và khói lò rất nhỏ.
Để tránh hở gạch khi nung nóng, phía trên buồng người ta dùng cát để lấp các khe. Do đó gạch nở hay
co vẫn đảm bảo kín.
Hình 6.2. Nung nóng không khí bằng ống bao ngoài và ống chùm Thermobloc.
Buồng hồi nhiệt kim loại thường chế tạo bằng thép hoặc gang. Với mục đích tăng cao độ chịu
nhiệt của chúng, người ta sử dụng những hợp kim đặc biệt: thép crôm, thép crôm - niken, thép chứa
silic, gang chứa crôm - silic (silan). Đôi khi trên bề mặt người ta phủ nhũ nhôm để giảm độ oxy hóa.
Nhiệr. độ cho phép cực đại ờ thành ống gang xám là 400°C, gang chịu nhiệt là 600 4- I100°C, thép
cacton là 400°C, inox chịu nhiệt đến 1100°C. Độ chịu nhiệt phụ thuộc hàm lượng crôm trong hợp kim,
khi chứa 1,5%, 5%, 10%, 18%, 25% crôm ứng với nhiệt độ cực đại cho phép 600°C, 700°C, 750°C,
900c2, 1100°C. Thép crôm - niken không thể dùng được nếu khí chứa hợp chất của lưu huỳnh.
263
Neu ống khói nhỏ có thể đùng ống bọc ngoài như trong hình 6.2. Không khí cũng đi ngược chiều
với khói lò và cỏ thể nâng đến nhiệt độ ~ 200°C. Nhiệt từ khói lò truyền cho không khí bằng đối ưu và
bức xạ qua vỏ ống trong. Không khí và khói lò có thể chuyển động cùng chiều hoặc ngược chiều. Thông
thường người ta chế tạo từ lá thép (tôn) dạng sóng để chúng có thể co giãn dễ.
Ở loại bloc ống (Thermobloc) hình 6.2 không khí chuyển động trong ống thép đường kính
12 -ỉ- 19 mm, khói lò đi trong kênh hình chữ nhật và đi bên ngoài ống thép. Người ta cũng có thể cho
khói lò đi trong ống kích thước lởn. Các khối này cỏ thể xếp loại thành ngăn, số ngăn phụ thuộc vào
nhiệt độ nung nóng không khí. Loại khối nhỏ, người ta đúc liền chứ không phải hàn ống như loai lớn.
Loại bằng thép có thể làm việc theo nguyên tắc cùng chiều.
Một dạng khác sử dụng nhiệt của khói lò là đặt hệ ống chùm treo như trong hình 6.3. Các ống
thép này có dạng chữ u được treo nên việc giãn nở của ống không ảnh hưởng nhiều đến các vết hàn như
blôc ờ hình 6.2. Để đảm bảo tốc độ khí không thay đổi nên đáy kênh được nâng cao ờ phía cuối. Không
khí cũng được đi ngược chiều với khỏi lò như các buồng thu hồi nhiệt liên tục khác.
Loại bằng thép thường là những ống, hiếm khi người ta dùng dạng tấm, nhiệt độ nung nóng
không khí đạt 250 4- 350°C nếu sử dụng ống thép chịu nhiệt 600 4- 700°C.
Trước buồng hồi nhiệt cần cỏ phòng lăng bụi nhằm giảm bụi bám vào buồng hồi nhiệt gây bẩn
hoặc cháy ống.
Trong loại buồng kim loại, phổ biến nhất một thời là các ống gang có kim ở một hoặc hai phía
(hình 6.4 và 6.5). Các ống kim này làm tăng hệ số cấp nhiệt so với loại không có kim. Muốn nung nóng
không khí đến 200°C, có thể sử dụng gang xám, khi đó nhiệt độ khói lò không vượt quá 800°C. Sử dụng
gang chịu nhiệt có thể nung nóng không khí đến 400 4- 500°C. Nếu khói lò quá bẩn (nhiều bụi), hoặc
nhiệt độ cao hơn thì có thể dùng ống không có kim phía khói lò. Đặc tính của buồng kim loại xem trong
bảng 6.2, kích thước của các ống gang và kim loại cho trong bảng 6.3.
264
Khói lò thường đi ngoài ống, không khí đi trong ống. Việc lựa chọn đường đi của khói lò còn phụ
thuộc vào chất lượng của khói lò, lượng bụi xỉ trong khói lò. Khi sử dụng ống gang thì không khí và
khói lò không được đi cùng chiều vì ống gang tương đối dày cho nên chênh lệch nhiệt độ lớn sể gây nên
ứng suất và nứt ống. Trong thực tế việc chế tạo ống gang kim khó khăn và dễ động bụi xỉ dẫn đến chóng
hỏng. Nhà máy sứ Hải Dương lúc đầu cũng dùng ống gang kim, nhưng do chóng hỏng, khó chế tạo nên
đã bỏ đi từ lâu.
B r— B-B
265
Bảng 6.2. Đặc tính buồng hồi nhiệt kìm loại
Kiểu buồng
266
Chiều dài các ống gang kim không có kim ben ngoài và ống thép đều tương tự loại ống 17,5 cho
trong bàng 6.3. Chúng khác nhau ờ tiết diện ngang đề không khí và khói lò chuyển động. Bề mặt riêng
của loại ống 12 4- 25, loại tấm 40 4- 50 loại ống kim 20 4- 30 m2/m3.
(6.1)
Nhiệt độ khí thải lúc ra xác định theo phương trinh cân bằng nhiệt sau:
Lượng nhiệt truyền cho không khí xác định theo công thức:
(6.3)
'"rong đó:
k - hệ số truyền nhiệt;
Àtịb - chênh lệch nhiệt độ trung bình giữa khí và không khí;
7^, Cịkk, t]kk, v2kk, c2kk, t2kk - ứng với thể tích (m3 tiêu chuẩn), nhiệt dung riêng (kcal/kg.độ) và
nhiệt đ) (°C) của không khí vào và ra;
7jk, C|k, tjk, v2k, c2k, t2k- ứng với thể tích (m3tiêu chuẩn), nhiệt dung riêng (kcal/kg.độ) và nhiệt
độ (°C của khí thải vào và ra;
5 - hệ số kể đen tồn thất nhiệt ra môi trường xung quanh (thông thường p = 0,9);
3Ờ dĩ có sự biến đổi vkk và vk trong buồng lò vì có khe hờ nên không khí chạy sang phía khói lò.
Neu gậ V1 là thể tích không khí lọt sang phía khói lò thi:
V2kk=V1kk-V1 (6.4)
267
V!k = V2k = Vk
Q = Vkk(C2kk.t2kk-C1kk.t1kk) (6.6)
Hệ số truyền nhiệt K xác định tùy theo cấu trúc của buồng hoặc dùng công thức truyền nhiệt qua
tường ống hoặc qua tường phăng:
K= 1 [kcaVm2h.độ] (6.7)
1,5.1
——- + 1——
a, À. a2
aja2
K=
aỴ -a2
Trong mọi trường hợp a là tổng hệ số cấp nhiệt bằng đối lưu và bức xạ.
Hệ số truyền nhiệt của buồng gốm dao động ưong khoảng 2,3 -5- 8,1 w/m2.độ khi tốc độ của
không khí và khói lò 0,5 4- 2 m/s. Hệ số truyền nhiệt của buồng kim loại cho trong bảng 6.2. Hệ số cấp
nhiệt có thể xác định bằng các công thức ở chương 4.
Khi tính toán buồng gốm cần phải kiểm tra độ bền sốc nhiệt của gạch. Đối với gạch samôt, ta
dùng công thức kiểm tra sau:
[°C] (6.9)
«1
về phía không khí:
[°C] (6.10)
«2
268
Nếu nhiột độ vượt quá giới hạn cho phép thì phải tim cách hạ nhiệt độ bằng cách tăng cấp nhiệt
từ tường tới không khí (tăng a2) hoặc giảm cấp nhiệt từ khí tới thường ống (giảm 0,1), hoặc pha không
khí lạnh vào khí thải trước khi vào buồng (giảm tk) hoặc cho chúng đi cùng chiều.
Khi đã biết bề mặt nung nóng cần thiết F (m2) có thề xác định được số ống cần có để xây lắp theo
ticu chuẩn ở bảng 6.2. và 6.3.
Sức cản thủy lực hay trờ lực của ống kim và ống khối (thermoblok) tkk về phía không khí xác
định theo biểu đồ hoặc bằng công thức sau:
Tong đó:
n - số ống theo chiều chuyển động cùa khói lò;
TỊ - số ngăn theo chiều chuyển động của khói lò;
269
0,9 - hệ số kể đến tổn thất ra môi trường xung quanh;
ik - hàm nhiệt của khí thải.
Có thể dùng bảng để ưa trị số tỷ nhiệt hoặc hàm nhiệt:
4) Xác định hệ số truyền nhiệt cho ống kim loại ứng với điều kiện tốc độ không khí 5 -ỉ- 6 m/s,
khói lò 1 4- 2 m/s.
K_ aia2
“1 +a2
p _ 594000.0,278 _ 24 2
75.420
0,278 - hệ số chuyển (kj/h) sang w.
chọn loại ống dài 1135 mm, bề mặt truyền nhiệt của ống f0 = 0,33 m2. Do đó số ống cần có là:
= 15,8 « 16 [ống]
0,33
Ta bố trí thành hai ngăn, mỗi ngăn có 4 ống X 2.
Tiết diện thực tế để không khí chuyển động:
270
Trong điều kiện tốc độ đó, tra biểu đồ ứng với ống không có kim bên ngoài ờ hình 6.5 ta
được a 1 = 151 w/m2.độ, a2 = 308 w/m2.độ. Ta tính lại hệ số cấp nhiệt.
F= 165- °92
= 518 [m2]
74.420
Lượng ống là 16, nghĩa là không khác với lượng tính sơ bộ phía trên.
6) Xác định nhiệt độ cực đại ờ tường ống:
Nếu coi nhiệt độ kim cao hơn 100 130°C thì nhiệt độ cực đại của kim tkim = 482 + 110 = 592°c
Nhiệt độ này có thể cho phép đối với loại ống gang đơn giản.
271
vào buồng không khí 2 và buồng nung nóng nhiên liệu khí 3, sau đỏ theo ống 4 và 5 qua van đổi chiều 6
và 7 cuối cùng theo ống 8 đi ra ống khói. Khi khí đi qua buồng 2 và 3 khí thải sẽ cung cấp nhiệt cho
gạch đệm ở trong buồng (xem hình 6.6), gạch đệm được nung nóng đến nhiệt độ khá cao và đến lúc nào
đó thì người ta ngừng lại và đổi chiều. Không khí sỗ qua ống 9, van đổi chiều 15 qua đường ống 10 vào
buồng 12 và đi vào lò 1 để cháy nhiên liệu. Nhiên liệu khí đi vào bằng ống qua van đổi chiều 14 theo
ống 11 vào buồng 13 và vào lò 1.
Khi đổi chiều, nhiên liệu khí đi theo ống qua van đổi chiều 14 theo ống 5 vào buồng 3 và cuối
cùng vào lò 1. Không khí qua ống 9 và van đổi chiều 15, theo ống 4 vào buồng 2 rồi vào lò nung 1. Khi
qua buồng 2 và 3 không khí và nhiên liệu khí được nung nóng lên, gạch đệm trong buồng nguội đi. Do
/
Đường làm nguội >>
Theo chieu dày gạch Thời gian nung nóng
Hình 6.7. Phẳn bố nhiệt độ theo chiều dày gạch đệm, biến thiên nhiệt độ bề mặt theo quy ưình
nung nóng và làm nguội (không khí đi qua).
Khí thải sẽ đi tương tự qua buồng 12, 13 và van đổi chiều 14 và 15 rồi theo đường ống 6, ống 7
ống 8 ra ống khói. Khi qua buồng 12, 13 gạch đệm trong buồng này lại được nung nóng lên. Sau một
khoảng thời gian nhất định người ta lại đổi chiều và đường đi cùa khí với không khí sẽ lặp lại như cũ.
272
Xết quá trình làm việc của buồng như vậy ta thấy rõ ràng là: buồng không làm việc liên tục mà
làm việc gián đoạn tuần hoàn. Ché độ nhiệt độ trong buồng không ồn định mà thay đổi theo thời gian và
chu trình., trao đổi nhiệt ờ đây khác hoàn toàn với buồng liên tục mà là trao đổi nhiệt bằng đệm.
Tr ên đây là khảo sát chung đối với buồng hồi nhiệt dùng cho nhiên liệu khí như khí than có nhiệt
trị thấp. Trong trường hợp dùng nhiên liệu có nhiệt trị cao như khí thiên nhiên hay nhiên liệu lỏng thì sể
không cố buồng cho khí nữa và chỉ còn buồng cho không khí. Trong trường hợp này nhiệt độ không khí
sẽ được nung nóng đến nhiệt độ khá cao và có thể trên 1000°C.
Chúng ta hãy khảo sát sự biến đổi nhiệt độ của viên gạch đệm đặt trong buồng. Đầu tiên gạch
đệm được tích luỹ nhiệt trong giai đoạn nung nóng. Đường phân bố nhiệt độ theo tiết diện ngang của
gạch là đường 0 phút (hình 6.7). Khi đồi chiều sang giai đoạn làm nguội, ở phút đầu tiên nhiệt độ bề mặt
hạ đi tương đối nhanh. Cách bề mặt một đoạn, nhiệt độ cao hơn cả trung tâm gạch lẫn bề mặt gạch cho
nên nhiệt sẽ truyền từ bề mặt đó ra bề mặt và vào trung tâm gạch. Chênh lệch nhiệt độ ngày càng giảm
theo thời gian. Sau đó nhiệt trung tâm cao hơn bề mặt và chỉ có dòng nhiệt truyền từ trung tâm ra bề
mặt. Đường phân bố nhiệt độ theo chiều dày của gạch ứng với thời gian khác nhau cho trong hình 6.7 và
sự biến thiên nhiệt độ bề mặt của gạch đệm qua các giai đoạn nung nóng và làm nguội cho trong hình 6.7.
Qua sự phân tích ở trên, chúng ta thấy rằng nếu chiều dày gạch đệm quá lớn thì một phần của
gạch đệm ờ khu trung tâm sẽ không tham dự hoặc ít tham dự trao đổi nhiệt.
Ngược lại, nếu chiều dày quá mỏng thì nhiệt độ trung bình của gạch đệm sẽ dao động quá nhiều,
tức nhiệt độ của khí và không khí dao động quá nhiều. Sự biến đổi nhiệt độ ờ đầu giai đoạn nung nóng
và đầu giai đoạn làm nguội thường nhanh hơn cuối giai đoạn, cấp nhiệt từ khí thải tới đệm và từ đệm
tới không khí, nhiên liệu khí phụ thuộc vào điều kiện trao đồi nhiệt bằng bức xạ và đối lưu. Việc xếp
gạch đệm như thế nào để tăng độ xoáy cùa dòng, tăng chiều dày lớp khí đều dẫn đến tăng cấp nhiệt
bằng đối lưu và bức xạ. Cho nên nếu giảm khoảng cách các gạch đệm trong buồng, tốc độ khí sẽ tăng
lên và cấp nhiệt bằng đối lưu tăng lên. Song giảm khoảng cách tức là giảm chiều dày bức xạ của khí, tức
là giảm cấp nhiệt bằng bức xạ. Vì vậy khoảng cách phải vừa phải giữa các gạch đệm trong buồng hồi
nhiệt kiểu đứng là 60 4- 200 mm, trong buồng hồi nhiệt kiểu nằm là 100 -ỉ- 200 mm.
273
Hình 6.8. Cấu tạo buồng hồi nhiệt.
1. Khung thép gong; 2. Cửa kiểm tra; 3. Kênh khí; 4. Gạch đệm.
Kích thước cùa gạch đệm thường dùng (400 X 13 X 65) mm và (500 X 50 X 75) mm, đôi khi dùng
gạch chuẩn (230 X 115 X 65) mm. Khoảng cách giữa các viên gạch 70 -í-150 mm. Tiết diện hay thể tích
tự do (không chiếm chỗ bời gạch) khoảng 50 4- 70%, thường bằng 55 + 60%. Người ta cũng nghĩ đến
việc sử dụng gạch dị hình nhàm tăng bề mặt truyền nhiệt, giảm độ bám bẩn của xỉ đối với gạch và tăng
điều kiện trao đổi nhiệt.
Loại buồng hồi nhiệt kiểu nằm ngang hay dùng gạch có kích thước (300 X 150 X 80) mm
và (350 X 150 X 65) mm, kích thước kênh dẫn khí trong buồng (150 X 220) mm.
Gạch đệm được xếp trong buồng theo nhiều kiểu khác nhau (hình 6.9). Yêu cầu cơ bản của gạch
đệm là bền vững, bề mặt nung nóng cao, tạo được dòng khí xoáy.
Kiểu A ở hình 6.9, gạch đệm tạo ra những kênh thẳng và đặc, bề mặt trao đổi nhiệt kém hơn loại
B. Kiểu c cũng tạo kênh thẳng từ trên xuống, còn kiểu D cũng xếp tương tự nhưng có gạch chắn ngang
kênh thẳng đó. Như vậy kiểu có bề mặt truyền nhiệt lớn hơn, chi có một số lớp trên bị bám bần (không
phải thay toàn bộ) và lớp xếp bền vững hơn. Ngoài ra, vì có gạch đệm chăn ngang kênh dẫn cho nên
chiều hướng và tốc độ của khí bị thay đổi và hệ số truyền nhiệt tăng lên.
Đặc tính của đệm buồng hồi nhiệt cho trong bảng 6.4.
Ở những lò nhỏ, phần gạch của đệm và tường lò tham dự trao đổi nhiệt tương đối cao, do đó việc
sử dụng gạch đệm tốt hơn. Neu tăng chiều cao của buồng hồi nhiệt thì sự phân bố khí tốt hơn, tăng được
áp suất hình học. Trong lò nồi nấu thủy tinh, chiều cao cùa buồng hồi nhiệt gián đoạn kiểu đứng thường
2 -ỉ- 3 m, của lò bể nấu thủy tinh 4 -ỉ- 7 m. Ngược lại, nếu dùng buồng kiểu nằm thì không nên cỏ chiều
cao lớn để tránh sự phân bố khí không đều theo chiều cao. Người ta xếp gạch thành các kênh kín và
những kênh này không thông với nhau.
Khí thải từ lò ra thường theo đường kênh riêng đi vào buồng hồi nhiệt. Nếu khí chứa nhiều bụi
hoặc mang theo phối liệu nấu trong lò, thì phải có phòng lắng bụi, để giảm bụi bay vào buồng hồi nhiệt.
Ngoài bụi phối liệu ra còn có hơi kiềm bốc lên từ phối liệu theo dòng khí đi vào đệm và ăn mòn cũng
như phá hoại đệm rất nhanh. Vì vậy lớp đệm trên cùng thường dùng gạch chịu lửa kiềm tính để tăng độ
bền vững của lớp gạch đệm. Đặc tính của các loại gạch đệm trong buồng hồi nhiệt cho trong bảng 6.4.
274
Bảng 6.4. Đặc tính của các kiểu gạch đệm ưong buồng hồi nhiệt
Kiểu đệm
Ày Lichte đều Buồng nằm
Chi tiêu Kauper Siemens Lichte xen kẽ Mỹ — Kênh khi axb
hiệu
Hĩnh 5.10 Hình 5.11 Hình 5.13 Hình 5.14 Hình 5.15 Hình 5.16
Bề mặt
nung 2ễ + a + b S(a + b) Sa + 2b + ô — l ứ+ 7+ 25 5 7 + a-35 / + a + 25 2(1-5) 2(2đ-Z-ô)ố 2 311
a +b À(fl + Ố)(6 + Ố) ' (a + 5)(ờ + 5) A(a + Ô)(6 + Ô) 1 (fl + ô)(ố + 5) (a + ÕÝ 1 (ứ + 8)2/i
nóng Fn (a + ỗ)(ò 4- Ố) a(a +■ <ỹ)(b + (ỹ) (a + 5)(h + ô)
(a + ố)(6 + ố)
m2/m3
buồng *
Mật độ
1- 311
gạch 8 28 4- ữ 4- b 8 a4-/4-ỗ 8 a4-14-8 lõ
trong 1 ab (a + ô)(h + 5
Vg 2(a + 8)(b + 8) (a + S)2
(a + ố)(ò + ố) a (ứ + 8)(ố 4- 8) 2(ứ + 8)(ò + 3)
buồng,
m3/m
Diện
ah
tích tiết ab ab ab aè - 8(/- (è - 28) a2
diện tự (0 (a 4- ổ)(h 4- 8)
(a + 8)(b + S) (a + 8)(b + 8) (a + 8)(b + 8) (a + 8)(b + ố)2 (a + 8)2
do
m2/m2
Đường
kính 2 ab 2 ab ^ab-ỏự-(b + 2ỗ) 2 *
d
2 “b a
thuỷ lực, a+b a+b a 4- b l + a-28 a+h
m
Ghi chú: * Trong mọi trường hợp chiều đày đương lượng của gạch
a - khoảng cách giữa các viên gạch; h - chiều cao của gạch; s - chiều dày gạch đệm; 1 - chiều dài của gạch,
b - khoảng cách giữa các viên gạch theo chiều thứ hai.
(nọ _n El n n )
11 Uv fri V L1 r
TmrnrSSr?
Off
4W
rn. . n
r
ị \
I
Lỉ ! 'á 1 I 1
A B
Hình 6.9. Các kiểu xép gạch đệm trong buồng hồi nhiệt gián đoạn.
Gạch đệm tương đối dày và chiếm nhiều thể tích, hơn nữa hiệu quả trao đổi nhiệt tương đối kém.
Hiện nay lớp gạch đệm này đã được thay thế bởi hệ gạch mới, đó là gạch đệm được sản xuất bằng
phương pháp điện nóng chảy và đúc thành viên hình chữ thập như trong hình 6.10. Việc xếp gạch này
trong buồng được trình bày bằng mô hình 6.11.
Kích thước gạch đệm thường dài 650 mm, cao 175 mm, dày 30 mm và như vậy mỗi cạnh dài
310 mm. Mật độ xếp gạch này dao động trong khoảng 450 - 680 kg/m3 cùa buồng hồi nhiệt. Để tăng bề
mặt truyền nhiệt người ta chế tạo gạch chữ thập có gờ hoặc gân như ttong hình 6.10.
Hin/1 6.10. Gạch chữ thập cho các vì trí và gạch chữ thập có găn.
Các gạch này chủ yếu chứa gần 100% AI2O3 và một ít S1O2. Tốt hơn cà là loại gạch chứa Z1C2 +
AI2O3 + S1O2 hay ZAS với hàm lượng ZrO2 33% và 45%. Tùy theo mức độ kiềm đi vào đệm mà lựa
chọn loại gạch tương ứng. Với sự phát triển loại gạch điện nóng chảy mà tuổi thọ cùa gạch đệm cũng
như lò bể nấu thủy tinh có thể kéo dài đến > 10 năm chạy liên tục so với 2 năm nếu dùng gạch chịu lửa
thông thường.
Hình 6.11. Cách xép gạch đệm trong buồng hồi nhiệt.
276
Hình 6.12. Gạch đệm hình chữ thập trong buồng hồl nhiệt lò nấu thủy tinh.
Việc lựa chọn loại gạch chữ thập cho từng khu vực phụ thuộc vào loại thủy tinh sản xuất như
trong hình 6.12. Thông thường gạch phía trên sẽ tiếp xúc với bụi phối liệu và hơi kiềm nên dùng loại
chứa ZrO2 đề đảm bảo độ bền vững của gạch đệm. Lớp trung gian có thể chi cần dùng loại không chứa
ZrO2, còn lớp dưới cùng có thể chi dùng loại thường do nhiệt độ thấp và hàm lượng kiềm trong khí đã
giảm rất nhiều rồi.
Lượng gạch chữ thập xếp trong buồng hồi nhiệt dao động từ 480 đển 560 kg/m3. Với gạch có gân
khối lượng có thể tăng đến 600 kg/m3.
Ngày nay buồng hồi nhiệt hiện đại kết hợp với vật liệu xây bể nấu có tuồi thọ như nhau và kéo
dài đến trên 10 năm (đến 15 năm) mới hỏng. Không thề để tình trạng buồng hồi nhiệt hỏng phải thay
hay ngừng lò và điều đó tổn hại rất nhiều về nhiệt cũng như về kinh tế. Do đó các thiết kế hiện đại phải
dùng gạch cho các bộ phận có chất lượng cao và có tuổi thọ gần như nhau.
Nhiệt độ khí thải lúc đi vào kênh dẫn khí tới buồng hồi nhiệt thường cao hơn nhiệt độ tường lò
nấu khoảng 50°C, do đó nhiệt độ khí thải thường bằng 1300 4- l600°C. Khi đi qua kênh dẩn khí nó hạ
mất 100 4- 200°C do truyền nhiệt cho thành kênh dẫn. Khí và không khí được nung nóng trong buồng
đến 800 4- iooo°c. Nếu chỉ nung nóng không khí thì có thề đạt 900 4- 1150°C. Trên đường đi từ
277
buồng đến lò nấu, nhiệt độ của nhiên liệu khí và không khí tăng lên 50 4- 100°C do nung nóng phụ bởi
kênh dẫn.
Nhiệt độ không khí và nhiên liệu khí lúc đi vào đệm thường có nhiệt độ cao horn lúc vào van đổi
chiều khoảng 50 4- 75°c do nung nóng phụ ở kênh dẫn. Như vậy nhiệt độ không khí và nhiên liệu khí
sạch lúc vào đệm là 50 4- 100°C. Nếu dùng khí không sạch với nhiệt độ t*, thì lúc vào đệm nhiệt độ
nhiên liệu khí sẽ bằng tk + 50 + 100°C.
Nhiệt độ khí thải lúc ra khỏi đệm khi nung nóng cả không khí và nhiên liệu khí là 300 4- 500°C,
nếu chỉ nung nóng không khí 450 4- 600°C. Nếu là nhiên liệu khí không sạch, thì nhiệt độ khí thải lúc ra
khỏi đệm của buồng khí sẽ cao hom nhiệt độ nhiên liệu khí vào buồng là 150 4- 250°C. Trong kênh dẫn
đến van đổi chiều, nhiệt độ khói lò hạ đi 75 4- 100°C.
Nhiệt độ của khí thải lúc ra khỏi buồng hồi nhiệt xác định bởi phưomg trình cân bằng nhiệt của
buồng hồi nhiệt.
Lượng nhiệt do không khí lấy đi:
Trong đó:
vkk, vk - thể tích không khí và nhiên liệu khí qua buồng hồi nhiệt m3/s (mét khối tiêu chuẩn);
Cikk, tikk,C2kk, 12^ - nhiệt dung riêng (J/m3độ) và nhiệt độ (°C) của không khí lúc vào và ra khỏi
buồng hồi nhiệt;
Cjk, tik,C2k, t2k - nhiệt dung riêng và nhiệt độ của nhiên liệu khí lúc vào và ra khỏi buồng hồi nhiệt;
Vị1*, Cjkt, tikt- thể tích (m3/s), nhiệt dung riêng và nhiệt độ khí thải đi vào buồng hồi nhiệt;
vkkkt, Ck?, tkkkt - thể tích, nhiệt dung riêng và nhiệt độ khí thải lúc ra khỏi buồng nung nóng
không khí;
vkkt, C1A tfckt - thể tích nhiệt dung riêng và nhiệt độ khí thải lúc ra khỏi buồng nung nóng nhiên
liệu khí;
278
TỊ - hệ số, kể đến lượng không khí lọt vào buồng khí và không khí. Với buồng tương đối kín
T| = 1 -ỉ- 1,05, với buồng hở nhiều (quá cũ) r| cỏ thể tới 1,5 hoặc hơn.
Neu nhiệt độ khí thài lúc ra khỏi buồng hồi nhiệt có nhiệt độ như nhau hoặc chi có một buồng
nung nóng không khí thì nhiệt độ khí thải xác định trực tiếp bằng phương trình cân bằng nhiệt. Thông
thường nhiệt độ khí thải lúc ra khỏi buồng nung nóng nhiên liệu khí sạch thấp hơn (nung nóng nhiên
bệu khí không sạch có thề cao hơn) nhiệt độ khí thài lúc ra khỏi buồng không khí.
Khi nung nóng, thành phẩn và nhiệt trị của nhiên liệu khi bị thay đổi do có không khí lọt vào.
Cũng có thề bỏ qua điều đó.
Qkkt = V/tÝV
* - akvkktckkltkkl = - akckkttkkt) [W] (6.21)
Qk' Qk
(6.22)
QÌ ~Qu
Thay trị số vào ta cỏ:
Vkt(Ck,tkt-akCkltkl) _ vk (C1^-cktk)
(6.23)
Vk‘(Ckttk‘ -bkkC“t£) ” Vkk(Ckktkk -ckktkk)
279
Nếu lấy hệ số truyền nhiệt của buồng không khí là Kkk và buồng nhiên liệu khí là Kk thì điều kiện
cân bằng tải nhiệt sẽ là:
Kk = (t?4<)-(t2tt+t}
*
)
(tkt+0-^+1
*
)
Trong đó, để đơn giản tính toán ta lấy trung bình nhiệt độ là trung bình số học.
Nếu phải tính toán sự cháy và phân hủy một phần nhiên liệu khí hoặc cháy nốt khí thải trong
buồng hồi nhiệt do không khí lọt vào buồng thì theo D.B. Ginzburg ta thay phương trình sau:
Qk _ ^kQkX^Qkl^Qk
(6.26)
Qkk VkkQu\~Qkk2+Qkk
TỊk, 'Hkk - hệ số kể đến tổn thất nhiệt ra môi trường xung quanh của buồng không khí và buồng
nhiên liệu khí.
Qkikt, Qk2kt - lượng nhiệt do khí thải mang vào và mang ra khỏi buồng nhiên liệu khí;
Qicki
* Qkk2kt - lượng nhiệt do khí thải mang vào và mang ra khỏi buồng không khí;
Qkkt, Qkkkt - lượng nhiệt tỏa ra do cháy nốt sản phẩm cháy ở buồng nhiên liệu khí và buồng
không khí.
(6.27)
Qti - lượng nhiệt tích luỹ bời đệm trong giai đoạn nung nóng và ưao đi trong giai đoạn làm nguội;
At - chênh lệch nhiệt độ trung bình.
Thường thi thời gian nung nóng đệm bằng thời gian làm nguội và tổn thất nhiệt ra môi trường
xung quanh của hai giai đoạn cũng băng nhau. Vì vậy ta có thể xác định lượng nhiệt tích luỹ theo
phương trinh sau:
Ở buồng không khí:
Vu - Vkk T- - 2 (6.28)
280
Trong đó:
K - hệ số truyền nhiệt toàn chu trình, w/m2độ;
a 1 - hệ số cấp nhiệt từ khí thài tới đệm, w/m2độ;
a 2 - hệ số cấp nhiệt từ đệm tới không khí hoặc nhiên liệu khí trong giai đoạn làm nguội, w/m2độ;
z - thời gian nung nóng hoặc làm nguội đệm, h;
ỗ - chiều dày đưomg lượng của gạch đệm, m;
c - tỳ nhiệt của gạch đệm ở nhiệt độ trung binh tại tiết diện cho, j/kgđộ;
p - mật độ gạch đệm, kg/m3;
X - độ dẫn nhiệt của gạch đệm, w/mđộ.
Hoặc có thể xác định bằng công thức sau:
(6.31)
Trong đó:
Tj, Tn - thời gian nung nóng và làm nguội đệm, h;
To - thời gian toàn chu trình To = Tđ + Tn;
r - chiều dày phần gạch tham dự trao đổi nhiệt, thường lấy bằng nửa chiều dày của gạch, r = 0,0325 m;
(p - hệ số kể đến phần khối lượng gạch tham dự hao đổi nhiệt, khoảng bằng 1/4;
Hệ số cấp nhiệt bằng đối lưu trong đệm buồng hồi nhiệt xác định theo công thức ờ Chưomg 5
hoặc sử dụng công thức sau:
w 0.5y0,25
adl = 5>77 —----- [W/m2độ] (6.32)
d ’
wo - tốc độ khí ứng với điều kiện chuẩn về tiết diện;
T - nhiệt độ tuyệt đối của khí, °K;
d - đường kính thủy lực của kênh khí trong đệm, m.
Cũng có thể dùng công thức sau:
281
wtd
Re = ——
t
wt - tốc độ thực tế của khí;
Trị số A và n tìm được trong bảng 6.5.
Hệ số cấp nhiệt bằng bức xạ tính theo các công thức ở Chương 5 hoặc có thề dùng giàn đồ để
tìm.
Vì buồng hồi nhiệt tưomg đối cao (hoặc dài đối với buồng nằm), cho nên khi tính giá trị K phải
tính ờ phía trên Kl và phía dưới Kd, sau đó lấy giá trị trung bình Ktb.
k1 +kd
Với buồng không khí: Ktb =—-— (6.34)
k‘ +nkd
Với buồng nhiên liệu khí: Ktb =------- --— (6.35)
n+1
Giá trị n = 1,25 4-1,75, dùng n trị số cao khi K lớn và buồng hồi nhiệt lớn.
Nhiệt độ của khí thải lúc ra khỏi buồng hồi nhiệt ngày càng tăng theo thời gian nung nóng và đạt
cực đại khi đồi chiều. Ngược lại nhiệt độ không khí và nhiên liệu khí càng giảm theo thời gian đi qua
buồng, và đạt cực tiểu khi đồi chiều. Sự biến đổi nhiệt độ đó có ảnh hường đến nhiệt độ trong lò nấu
thủy tinh. Vì vậy cần phải tính giới hạn biến đồi nhiệt độ khi không khí và nhiên liệu khí đi qua buồng
hồi nhiệt. Có nhiều phương pháp tính trên cơ sở sử dụng chuẩn số Fo và BiO. Song cũng có thể sử dụng
công thức đơn giản sau:
Trong đỏ:
Qtb - cường độ nhiệt trung bình của bề mặt nung nóng ở điểm khảo sát, kw/m2;
8, c, p - chiều dày đương lượng, nhiệt dung riêng, mật độ gạch đệm;
T| - hệ số sử dụng gạch đệm (bảng 6.6);
vk, ck - thể tích khí đi qua (m3/giai đoạn) và nhiệt dung riêng của khí (kj/m3độ) (chuẩn);
a - hệ số cấp nhiệt;
F - bề mặt nung nóng của đệm, m2.
282
Bàng 6.6. Giả trị hệ số rĩ và ỉ của đệm
■
í
rỉ
Trên Dưới Trên Dưới
Cường độ nhiệt độ bề mặt nung nóng trong giai đoạn không khí đi qua buồng qkk ở chỗ không
khí nóng đi ra:
(6 37)
k?.
n _ /4-kt _fkk\
Qkt — ^kk tị ) (6.38)
Trong đó:
Kick, Kkkd - hệ số truyền nhiệt ở đầu nóng và đầu nguội buồng hồi nhiệt, w /m2độ;
zkk, zkí - thời gian để không khí và khí thải đi qua buồng hồi nhiệt.
Từ đây ta xác định được độ hạ nhiệt độ không khí trong giai đoạn nung nóng:
A/?u . ạ
-'?)
* ,
_ X [độ/giai đoạn] (6.39)
và độ tăng nhiệt độ khí thải trong giai đoạn nung nóng đệm:
Trong đó:
vkk, vkt - thể tích không khí và khí thải đi qua đệm NmVgiai đoạn;
ckk, ckt - nhiệt dung riêng của không khí và khí thải trong khoảng từ 0 đến nhiệt độ tương ứng;
Cl, C2 - nhiệt dung riêng của gạch ở đầu nóng và đầu nguội của buồng hồi nhiệt.
283
6.2.3.6. Kích thước buồng hổi nhiệt
Sau khi lựa chọn kiểu đệm, căn cứ vào bảng 6.4, ta biết bề mặt riêng của đệm Fr (m2/m3), ta có
thể xác định được thể tích của buồng theo bề mặt nung nóng F.
(6.41)
Tốc độ không khí Wfck°, tốc độ nhiên liệu khí Wk° ờ điều kiện chuẩn đối với lò nấu thủy tinh lửa
ngang trong khoảng 0,25 -ỉ- 0,45 m/s, đối với lò lửa hình chữ u và buồng hồi nhiệt nằm ngang trong
khoảng 0,4 -r 0,8 m/s. Tốc độ khí thải xác định theo:
(6.42)
Từ tốc độ và lưu lượng có thể xác định được tiết điện ngang của buồng:
(6.43)
g •X 1•A 1 2/ 3 * a •X 1• A 9 1 Ằ
Căn cứ theo bảng 6.4 ta tìm được tiet diện tự do m /m và tìm được tiêt diện ngang của buông:
r* _F (6.44)
n <0 wk>
F v.°
Fk = -* = Ịk (6.45)
n Cù wk°cù
Chiều cao của buồng không khí và buồng nhiên liệu khí:
Hkk = V, : Fn^
Hk = V2:Fnk
V1, v2 - thể tích của buồng không khí và nhiên liệu khí và tính theo công thức trên.
Ví dụ tính toán có thể xem tại chương 12 “Tính cân bằng vật chất và nhiệt của lò” nấu thủy tinh.
284
Chương 7
Vật liệu chịu lửa dùng trong lò nung gốm, clinke xi măng và nấu thủy tinh cũng như Frit có rất
nhiều loại khác nhau. Kích thước gạch tiêu chuẩn cho trong hình 7.1. Nhìn chung chúng thuộc loại gạch
Alumosilicat và gạch kiềm tính. Ngoài các loại định hình dưới dạng viên còn có loại đom khối
(monolythic) dùng cho lò nấu thủy tinh và loại không định hình dưới dạng vữa, bê tông chịu lửa và
bông gốm. Hệ lò nấu thủy tinh hoạt động liên tục và cho năng suất rất cao nên gạch chịu lửa cũng phải
dùng những loại chất lượng cao, và ồn định. Dưới đây là những yêu cầu cơ bản của vật liệu chịu lửa.
285
bị dao động nhiệt độ mạnh khi nung nóng và làm nguội lò. Nếu gạch chịu lửa không có độ bền sốc nhiệt
cao thì sẽ chóng bị nứt vỡ và giảm tuổi thọ của gạch xây.
Để xác định độ bền sốc nhiệt ờ nước ta dùng phương pháp nung póng đến 1000°C rồi cho chịu
uốn ngoài không khí với lực quy định. Sau khi uốn lại nung đến 1000°C và tiếp tục làm như trên, số lần
chịu uốn được coi là độ bền sốc nhiệt và nếu chịu uốn 40 lần thì coi độ bền sốc nhiệt > 40. Một số nước
khác dùng phương pháp nung nóng đến 1000 hay 1300°C rồi làm nguội đột ngột bằng không khí hay
nước lạnh 20°C cho đến khí mất 20 hoặc 40% khối lượng gạch, số chu trinh nung làm nguội được coi là
độ bền sốc nhiệt và được ghi cụ thể điều kiện thử ngiệm.
Nhìn chung độ bền sốc nhiệt của gạch chịu lừa càng cao sỗ làm tuổi thọ của gạch chịu lửa càng
tăng lên.
Độ bền hóa phải cao, chịu được tác dụng hóa học của hơi kiềm ưong sản phẩm khói lò hay thủy
tinh chảy lỏng ờ nhiệt độ cao. Trong lò nung hay lò nấu thủy tinh mỗi vị trí cần loại vật liệu chịu lửa
tương ứng. Chính vì vậy mà phải lựa chọn loại gạch chịu lửa phù hợp cho mỗi zôn của lò và theo chiều
dài của lò phải dùng vật liệu chịu lửa khác nhau. Đặc biệt trong lò nấu thủy tinh, vấn đề ăn mòn hóa học
rất mạnh vật liệu chịu lửa bời thủy tinh lỏng ờ nhiệt độ rất cao đối với thành bể nấu và ăn mòn bời hơi
kiềm, đặc biệt ăn mòn rất mạnh của hơi chứa fluo, chì, phospho... ờ nhiệt độ cao.
Khối lượng thể tích của gạch chịu lửa phải cao, độ xốp nhỏ, cấu trúc phải chặt chẽ. Có như vậy
mới bảo đảm cho gạch có cường độ cơ học cao, cường độ chống bào mòn cao cũng như độ bền hóa cao.
Đặc biệt tại lò nấu thủy tinh vật liệu chịu lửa phài chịu tác động trực tiếp bời dòng thủy tinh lỏng và hơi
kiềm ờ nhiệt độ cao. Nếu vật liệu chịu lửa cỏ độ xốp lớn thì tốc độ phá hủy gạch rất nhanh chóng và
đương nhiên tuổi thọ của chúng rất ngắn kèm theo nhiều tồn thất khác gây nên hiệu quả kinh tế kém.
286
7.2. CÁC LOẠI VẬT LIỆU CHỊU LỬA
Vật liệu chịu lửa Alumosilicat là vật liệu chủ yếu chứa hai cấu tử đó là AI2O3 và S1O2. Trong hệ
này có khá nhiều loại gạch chịu lừa trên cơ sờ hàm lượng AI2O3 của chúng. Theo TCVN 4710:1998 thì
gọi là gạch chịu lửa samỏt, hàm lượng AI2O3 > 28%. Nếu hàm lượng càng < 28% thì đó gọi là gạch chịu
lừa bán axit. Tuy nhiên theo TCVN 5441:2004 thì samôt phải có AI2O3 > 30%. Vì vậy có thể phân chia
như sau:
Vật liệu chịu lửa bán axit AI2O3 + T1O2 < 30%
Vật liệu chịu lửa Cao Alumin AI2O3 + T1O2 > 45%
Bảng 7.1. Tính chất cơ lý của sản phẩm samôt theo TCVN 4710:1998
287
Tùy theo nước mà có sự khác nhau về phân loại. Hiện nay nước ta phân loại theo các cấp cho
ưong bàng 7.2 (TCVN 5441:2004)
Bảng 7.2. Phân loại vật liệu chịu lừa Cao Alumln theo TCVN 5441:2004
Nhỏm Cao Alumin cấp III tương ứng với khoáng Silimanit AI2O3SÌO2 đôi khi gọi là Mullit giàu
S1O2. Nhóm cấp II tương ứng với Mullit 3AI2O3.2SÌO2, nhóm cấp I tương ứng Mullite + Corun hay
3AI2O3.2SÌO2 + AI2O3.
Ờ nước ta có một số Công ty sản xuất gạch Cao Alumin như Công ty cổ phần Vật liệu chịu lửa
Viglacera cầu Đuống, Công ty cổ phần Tập đoàn Vật liệu chịu lửa Thái Nguyên. Gạch Cao Alumin
được sử dụng cho các lò có nhiệt độ cao trên 1300°C như lò nung gốm sứ, clinke xi măng, vật liệu chịu
lửa, thủy tinh...
Độ giãn nờ nhiệt của Cordireit rất nhỏ và chi trong khoảng 1 - 2.10“6/°C trong khi đó của gạch
samôt là 4,5 - 6.10“*/°C. Điều đó nói lên rằng độ bền sốc nhiệt của sản phẩm Cordierit rất cao, chịu
nóng lạnh đột ngột và được chửng minh trong thực tế sử dụng chúng trong các lò nung gốm sứ.
Nguyên liệu để sản xuất sản phẩm chứa Cordierit có thể dưới nhiều dạng khác nhau xuất phát từ
sét trắng hay cao lanh trăng với hàm lượng AI2O3 cao và oxit màu thấp với MgO nằm trong Talc hoặc
dạng hydroxid hay MgO hoạt tính.
Cùng họ sản phẩm này người ta còn sản xuất loại vật liệu Cordierite - Mullite hoặc Mullite -
Cordierite. Đây là loại tương đối đặc biệt vì có thêm mullite thì độ chịu lửa thực tế của chúng được tăng
lên. Sản phẩm Mullite - Cordierite được dùng trong sản xuất thanh lăn của lò nung gạch ốp lát, đầu vòi
đốt nhiên liệu... Quy trình sản xuất Cordierite giống như samôt, nhiệt độ nung không quá 1350°C. Ngoài
loại gạch đặc còn có gạch nhẹ để làm trần phăng của lò tuy nen hay lò con thoi.
Thành phần hóa học % của vật liệu cordierite thường MgO: 3-6; SiO2: 50 - 55; A12O3: 30 - 40.
Độ chịu lửa ứng với côn Seger cs 30 ( > 1600°C).
Sản phẩm Cordierite được sử dụng rộng rãi làm tấm kê, trụ đỡ dưới nhiều dạng khác nhau như
tấm kê liền hoặc có các lỗ để đối lưu ngọn lửa trong lò. Các tấm kê này có độ bền hay tuổi thọ rất lâu do
288
chúng có độ bền sốc nhiệt rất cao. Trong sản xuất ngói hay sàn phẩm dạng tấm, người ta dùng giá đỡ
(cassete) chữ u để xếp sản phẩm nung (các nước còn có dạng chữ H) như trong hình 7.2, 7.3 và 7.4.
289
7.2.4. Gạch cao alumin chứa ZrO2 và SiC
Đẻ nâng cao độ chống bào mòn của gạch Cao Alumin, người ta pha thêm vào phối liệu một ít ZrO2
dưới dạng Silicat Zircon. Loại gạch này thường được dùng tại các miệng lửa của đầu đốt tại các lò.
Trong thực tế sử dụng đã chứng tỏ độ bền của loại gạch này đã tăng lên khá nhiều và tăng được
tuổi thọ của chúng trong các lò quay cỡ lớn, các miệng lửa của lò nung gốm sứ, lò nấu thủy tinh và frit.
Sở dĩ ZrƠ2 làm tăng độ bền chống được bào mòn vi độ cứng của chúng theo thang Mohs băng 7-8
(của AI2O3 có thể bằng 9) nhưng mô đun đàn hồi của Zr€>2 lại vô cùng lớn.
Loại gạch cao alumin với hàm lượng AI2O3 > 45% này thường được sản xuất từ đất sét chịu lửa
chất lượng cao với oxit nhôm kỹ thuật hay bán thành phẩm đã nung từ khoáng chứa nhiều AI2O3 khác
như bôxit, diaspor, disten... Nếu cần có thể thêm silicat zircon hoặc SiC để tăng độ chống bào mòn.
Bảng 7.3. Khoáng chủ yếu trong gạch Manhêdi - Crôm và Crôm - Manhêdi
Hệ sắ nở dài
Thế tích Nhiệt độ nóng chảy,
Tên khoảng Công thức trung bình
phản tử °C
xior5
290
Bảng 7.4. Tính chắt gạch Manhêdi- Crôm của một số hãng
Khối lượng thể tích, g/cm3 2,9-3,0 3,05-3,15 2,9-3,0 2,9 - 3,0 3 - 3,02 3,05
SK 42 42 - 42 - -
Các công ty sản xuất gạch manhêdi - spinel với hàm lượng AI2O3 từ 3 - 7% đến loại trên 10%.
Mặt khác, loại gạch này không chứa crôm (Free chrome) nên không gây độc hại cho môi trường. Trong
quá trình sử dụng hơi kiềm trong lò nung không tương tác với gạch như trường hợp của Mg - Cr và do
đó độ bền của gạch cao hơn. Gạch này được sử dụng xây zôn nung lò tuy nen sản xuất gạch chịu lửa
kiềm tính hay lớp trên của buồng hồi nhiệt gián đoạn của lò nấu thủy tinh.
291
Tính chất của gạch MgO - Spinel do nước ta và vài loại nhập khẩu cho trong bảng 7.5.
Bảng 7.5. Tính chắt một vài loại gạch chịu lửa Manhêdi - Spinel
Kiềm tính
Refra
Việt Nam Radex Mino Yogyo
Chi tiêu technik
các loại các loại
Vimag S80 Vimag S85 Magpur 93
Khối lượng thể tích, g/ cm3 2,85 - 3,00 2,82-3,00 2,80-2,95 2,90 - 2,93 2,91-2,97
Độ xốp biểu kiến, % 17-19 17-20 16-18 <20 < 19
Cường độ chịu nén, KG/cm2 500 500 500 >300 >500
Cường độ uốn , KG/ cm2
Ở 20°C 50 50
ở 1260°C 50 60 - - -
Nhiệt độ biến dạng dưới
tải trọng 2 kg/cm2, °C 1700 1700 >1700 >1650 1700
Độ bền sốc nhiệt (1200°C
(950°C/khôngkhí), lần 100 100 100 _ KK)>30
292
7.2.8. Vật liệu chịu lửa điện chảy đơn khối (Monolythic)
Đây là loại vật liệu chịu lừa đặc biệt không sản xuất theo phương pháp nung kết khối thông
thường mà băng phương pháp điện nóng chảy trong lò hồ quang rồi đúc thành viên khối lớn nặng đến
một vài trăm kg. Sở dĩ phải dùng khối lớn vì yêu cầu của bể nấu thủy tinh nên thường gọi là đơn khối.
Ban đầu bể nấu thủy tinh xây bằng gạch chịu lửa samôt, cao alumin kết khối nhưng bể bị ăn mòn
nhanh chóng nên ngay thập niên 40 người ta đã dùng Mullit điện nóng chày. Tuy nhiên độ án mòn của
thủy tinh đối với Mullit điện chảy vẫn còn lớn. Vì vậy người ta phải dùng đến Corun điện chảy thì độ
bền vững tăng cao như trong bảng 7.6 đã chỉ rõ.
Qua thực tế thấy rằng khối corun điện chảy (trước kia nhập của Nga với tên gọi là Corvisit) vẫn
còn bị ăn mòn nên ngay từ những năm 50 người ta đã thêm vào phối liệu ZrƠ2 thì kết quả đã nâng cao
chất lượng của sản phẩm lên rất nhiều. Vì vậy ngày nay người ta thường sản xuất hai loại 33% và 45%
Z1O2 dùng cho lò nấu thủy tinh và frit. Như vậy ta có loại sản phẩm hệ ZrƠ2 - AI2O3 - S1O2 và hãng
SEPR (Societé Européen des Produits Refractaires) của Pháp thường gọi tên là ZAS còn Nga gọi là
Bacor. cấu trúc tinh thể cũng như sự đan xen giữa các tinh thể corun, baddaleite rất tốt và tạo ra cấu
trúc cùa sản phẩm trờ nên bền chắc, dai, bền sốc nhiệt cao,...
Bàng 7.6. Độ bèn đối vớỉ thủy tình monoslllcat Natrl ờ 145(fc trong 36 giờ của các
loại vật liệu chịu lừa
Ngoài ra người ta còn sản xuất loại gạch chịu lửa Cordierite đặc hoặc nhẹ, loại nhẹ dùng làm vật
liệu cách nhiệt rất bền và dùng phổ biến cho lò nung ờ nhiệt độ khoảng 1200°C. Loại đặc dùng làm tấm
kê bao nung cho ngành gốm sứ.
293
7.2.10. Bông gốm (melt fiberized ceramic fiber)
Bông gốm được sàn xuất từ nguyên liệu hệ AI2O3 - S1O2 nóng chảy ở nhiệt độ cao sau đó tạo sợi.
Chúng bao gồm các loại từ sản phẩm tiêu chuẩn 1260°C đến các loại sản phẩm có hàm lượng AI2O3 cao
cũng như loại có thêm thành phần thứ ba ngoài AI2O3 và S1O2. Sản phẩm điển hình được trình bày trong
bảng 7.7.
Phần lớn bông gốm thuộc loại này và chúng có hình dạng khác nhau. Thành phần chủ yếu
khoảng 47 - 51% AI2O3 và 49 - 53% S1O2. Tỷ lệ AI2O3/SÌO2 nằm trong giới hạn này ít ảnh hưởng tới
độ bền sốc nhiệt. Tuy nhiên nhà sản xuất luôn quan tâm đến đường kính của sợi, hàm lượng hạt sạn
(không phải là sợi) và các yếu tố khác vì chúng có ảnh hường trực tiếp đến tính chất của sàn phẩm tạo ra
từ bông gốm đó như mức độ cách nhiệt.
Tính chất A B c D E F G H I
Nhiệt độ sử dụng cực đại °C 1260 1300 1260 1300 1260 1400 1430 1427 1500
Điểm nóng chày °C 1760 >1760 1760 1760 1760 >1760 1930 >1760 -
Đường kính sợi (pm) 2,8 2,64-3,0 2-3 2,1 3,5 2,8 2-3 3,5 2,6
Khối lượng riêng của sợi (g/cm3) 2,6 2,7 2,6 2,7 2,65 2,8 2,6 2,65 2,65
Thành phần hóa
Mặt khác, tạp chất như kiềm chẳng hạn ảnh hường không nhỏ đến độ chịu lửa. Nhật sản xuất từ
nguyên liệu tổng hợp tưomg đối tinh khiết trong khi đó châu Âu và Mỹ sản xuất từ kaolin thiên nhiên.
Chính vi thế nên sản phẩm tiêu chuẩn 1260°C đôi khi có loại đạt 1300°C. Tuy nhiên theo tiêu chuẩn
Nhật (JIS R.3311) tất cả đều thuộc cấp tiêu chuẩn.
Dùng thành phần thứ ba là Cr2Ơ3 hoặc ZrƠ2 trong thành phần chất nóng chảy AI2O3 - S1O2 ta có
được bông sợi cấp 1400 - 1500°C. Bông gốm loại này được sử dụng rộng rãi tại zôn nung mà tại đó cấp
1260°C không chịu được.
7.2.11.2. Sản phẩm cấp 140(fC
Bằng cách tăng hàm lượng AI2O3 ta sẽ thu được sàn phẩm bông sợi loại 1400°C. Nhật có thể
nâng được nhiệt độ sử dụng đến 1430°C song châu Âu và Mỹ đều coi loại đỏ thuộc cấp l400°C. Khi
tăng hàm lượng AI2O3, việc tạo sợi trở nên khó do độ nhớt và sức căng bề mặt lớn. Chính vì vậy, hàm
lượng hạt sạn trong sợi tăng lên và đưomg nhiên khối lượng thể tích của chúng cao hom cấp 1260°C.
294
7.2.11.3. Sàn phầm cấp nhiệt độ cao
Dùng thành phần thứ 3 là Cr2Ơ3 hoặc ZrO2 trong thành phần chất nóng chảy Al2Ơ3 - SiO2 ta có
được bông sợi cấp 1500°C. Bông gốm loại này được sử dụng rộng rãi tại zôn nung của lò mà tại đó cấp
1260°C không chịu được.
Trong họ này cũng có loại với hàm lượng A12Ơ3 cao mà nhiệt độ sử dụng đến 1600°C. Tuy nhiên
hiện nay chỉ có Mỹ sản xuất và bán trên thị trường loại này.
7.2.11.4. Sàn phẩm cấp 1000°C
Ngoài Al2O3, SiO2, người ta cho thêm CaO, MgO và một chút kiềm, nên hỗn hợp hạ thấp nhiệt
độ nóng chày. Tuy nhiên công nghệ sản xuất rất dễ dàng và giá thành thấp nên sản phẩm này thay thế
cho bông xi, bông khoáng vẫn dùng cách nhiệt cho lò. Mặc dù vậy bông gốm này còn dùng được đến
1000°C trong khi đó bông xi, bông khoáng chi dùng đến nhiệt độ tối đa 600 - 700°C.
Trong công nghiệp gốm sứ và thủy tinh chỉ dùng bông gốm vào những vị trí cần thiết như tường,
vòm, wagon, khe giãn nờ nhiệt để đảm bảo kín hệ thống lò. Tùy theo nhiệt độ mà lựa chọn loại bông
gốm cho thích hợp vừa đảm bảo yêu cầu kỹ thuật vừa đảm bảo yêu cầu kinh tế.
Việc phân loại bê tông chịu lửa căn cứ vào hàm lượng % CaO thì theo ASTM C402-91 (soát xét lại
1995) có các loại sau:
1) Bê tông chịu lừa loại thường với hàm lượng CaO > 2,5%
2) Bê tông chịu lửa ít ximăng với hàm lượng CaO = 1,0 4-2,5%
3) Bê tông chịu lửa siêu ít ximăng với hàm lượng CaO = 0,2-ỉ- 1,0%
295
Bảng 7.8. Các chỉ tiêu kỹ thuật của hỗn hợp bê tông chju lừa samôt và cao alumin
Thành phần xi măng cao Alumin tinh khiết của một số nước cho trong bảng 7.10.
296
Trong bảng này hầu hết là loại ximăng cao alumin tinh sạch, chi có một loại thuộc ximăng
alumin thường.
Các loại ximăng cao alumin tinh sạch thường có cường độ bền nén > 10 MPa sau một ngày và
> 50 MPa sau bảy ngày.
Điều đó nói lên rằng cường độ của ximăng cao alumin rất cao và vì vậy có thể sản xuất bẽ tông
chịu lửa với hàm lượng ximăng thấp mà vẫn đảm bảo cường độ cơ học của chúng.
b) Cốt liệu
Cốt liệu sử dụng cho bê tỏng chịu lửa rất khác nhau tùy theo yêu cầu. Các cốt liệu thường dùng
có thể là samôt, samôt cao alumin, corun, alumin - spinel, corun điện nóng chảy, sản phẩm điện nóng
chày hệ ZrƠ2 - AI2O3 - S1O2,... Đa số các loại bê tông chịu lửa đều có hạt lớn nhất là 5 mm và hạt mịn
nhất không có giới hạn. Thông thường thành phần hạt của bê tông chịu lửa như dưới đây.
Bảng 7.10. Thành phẩn một số loại xìmảng cao alumln tinh khiết
Nước, hãng SiO2 AIĩOị CaO Fe2O3 MgO Độ chịu lửa, °C Ghi chú
Nga 0,8 4-1 73 4-75 20-ỉ-23 0,2 -5- 0,5 0,5 - Secar 80
Hungari 1 -í- 1,5 75-ỉ-82 14-5-21 0,14-0,3 0,12 -
Thành phần hạt của một số bê tông chịu lửa sản xuất tại một số hẫng cho trong bảng 7.11.
297
Bảng 7.11. Thành phần hạt bê tông chịu lừa của một số hăng
5+1 41 40 53 39
1 + 0,08 31 30 21 33
<0,08 28 30 26 28
Khi nâng nhiệt trong lò, hơi nước trong bê tông sẽ thoát ra ngoài. Nếu bê tông có cấu tạo chặt
chẽ, hơi nước khó thoát ra ngoài và sẽ gây nên nổ bê tông chịu lửa khi nâng nhiệt nhanh. Để khắc phục
điều đỏ, trong bê tông phải cỏ thêm 0,1% phụ gia cháy dạng sợi do tạo ra các mao quàn thoát hơi nước
khi chúng bị phân hủy hoặc cháy đi. Đây là những sợi hữu cơ như sợi đay hay sợi thực vật hoặc sợi hữu
cơ khác có đường kính khoảng 0,2 mm và dài khoảng 5-6 mm. Mặt khác, khi cỏ mặt phụ gia sợi hữu
cơ, cường độ liên kết của bê tông lại tăng lên và bảo đảm hình thể của khối bê tông.
Nhiên liệu khí sạch và nguội có thể chuyển vận trong ống thép. Các ống này có thể treo hoặc đặt
trên các cột bê tông hay thép, đôi khi đặt trên tường hay mái nhà hoặc trên các tầng hay hành lang.
Nhiên liệu khí cao nhiệt thường đặt ngầm dưới đất. Đẻ ngắt một phần ống dẫn có thể dùng các mặt bích
xiết chặt bằng bulông. Tiết diện ngang của ống dẫn khí sạch được tính toán với tốc độ 6 4- 12 m/s, khí
cao nhiệt 20 4- 70 m/s.
Khí than không sạch có nhiệt độ cao hơn 300°C được vận chuyển trong ống thép nối, trong lót
gạch chịu lửa. Các ống này phải có phòng lắng bụi và cửa tháo cặn. Khi có nhiệt độ thấp có thể vận
298
chuyển trong ống thép không lót và đặt trên mặt đất, chất ngưng tụ theo ống nhánh nhúng vào van thủy
lực. Dòng nước có thể đưa cặn đi nơi khác (xem chương 3). Ờ lò có buồng hồi nhiệt gián đoạn, ống dẫn
khí giữa van đổi chiều và buồng hồi nhiệt phải làm ngầm dưới đất. Khí có chứa nhựa than nằm dưới áp
suất dương nhỏ có thể dùng óng dẫn ngầm bằng gạch. Dưới tác dụng của áp suất, khí thấm qua mạch và
nhựa than sẽ chét kín các khe hờ. Trong các ống dẫn băng kim loại khí không sạch chuyển vận với tốc
độ 1 -ỉ- 2 m/s, ống dẫn bằng gạch 0,5 4- 1 m/s.
7.3.1.2. óng dẫn không khí
Để dẫn không khí thường dùng ống bằng tôn thép. Tốc độ không khí ữong ống lấy bằng 5 4-15 m/s.
Néu không khí có nhiệt độ không cao lắm cần phải cách nhiệt bên ngoài ống. Nếu nhiệt độ trên 400°C
thì cần phải lót và cách nhiệt bên ngoài ống. Nếu nhiệt độ trên 400°C thì cần phải lót và cách nhiệt bên
trong ống. Nếu ống dẫn có đường kính nhỏ có thể dùng ống bằng inox cách nhiệt bên ngoài bởi bông
khoáng hay bông gốm. Để chuyển vận khí, thường dùng quạt gió hay máy nén khí.
7.3.1.3. Dần khói lò
Khói lò thường vận chuyển trong kênh gạch. Nếu nhiệt độ thấp thì xây bằng gạch đỏ, khi nhiệt
độ cao thì phải xây gạch samôt bên trong. Trong trường hợp dẫn khói lò nổi trên cao có thể dùng ống
thép và tùy theo nhiệt độ mà có thể lót bên trong bằng bê tông chịu lửa hay gạch chịu lửa cách nhiệt.
Đối với các lò nhỏ, người ta có thể dùng ống dẫn bằng inox với bông khoáng hay bông gốm cách
nhiệt bên ngoài.
Để chuyển vận khói lò thường dùng quạt gió hay nhờ sức hút của ống khói. Ống dẫn nhiên liệu
lỏng thường là ống thép hàn và ghép băng mặt bích.
Mâm nước
•— Nước ra
Nắp_,
Khl đốt vào
299
7.3.2.2. Tấm chắn
Đẻ điều chinh lưu lượng khói lò người ta thường dùng tấm chắn bằng thép nếu nhiệt độ thấp,
hoặc gang néu nhiệt độ cao. Các tấm chắn này thường trượt theo rãnh của khung thép đặt hơi nghiêng.
Với kết cấu như vậy việc kéo tấm chắn sỗ nhẹ nhàng hơn (xem hình 7.6). Khi nhiệt độ khí cao hơn
500°C thì các tấm chắn phải làm nguội băng nước. Đôi khi ở nhiệt độ cao, người ta chế tạo tấm chắn
bằng gạch samôt hoặc bê tông chịu lửa. Tùy theo khối lượng của tấm chắn, có thể nâng hay hạ tấm chắn
bằng tay hay tời quay tay hoặc bằng tời điện. Hiện nay các tấm chắn cho các lò con thoi nhỏ thường
dùng tấm kê SiC vữa bền và nhẹ.
Đẻ ngăn ngừa sự phá hủy ống dẫn khí do áp suất tăng đột ngột người ta đặt các van bảo hiểm. Có
hai loại van bảo hiểm: van nổ và van ngắt mạch.
Van nổ thường đặt ở đầu ống dẫn khí hoặc tháp chứa khí để chịu lực nổ. Khi nổ van cần phải
mở ra để loại hỗn hợp bắt cháy ra ngoài và khi áp suất hạ thấp nó cần phải được đóng lại. cấu tạo cùa
van nổ xem trong hỉnh 7.7 và 7.8. Trong điều kiện binh thường, nắp được đậy thật kín vào khung nhờ
quả đối trọng. Khi áp suất tăng đột ngột, nắp bị đẩy ra như trong hình vẽ. Mấu cỏ nhiệm vụ giữ nắp
không bị bật quá xa.
300
Đối với khí sạch, người ta còn bịt đầu ống bằng tấm chì hoặc nhôm mỏng. Khi nổ thì đầu tiên
tấm nhồm hay chì đó bị phá rách, sau đó nắp sể bật ra để loại khí ra ngoài. Nhờ quả đối trọng hoặc độ
nặng của nắp nên nắp này lại đậy lại ngay sau khi khí thoát ra.
Van thủy lực như hình 7.5 cũng có tác dụng như van chống nổ. Mâm nước luôn ờ mức quy định,
nếu cỏ nồ thì áp suất đột ngột tăng cao, nước ở mâm sẽ té ra do khí nén phụt qua. Nước lại tiếp tục chảy
vào để giữ mực không đổi và ngăn cách với không khí bên ngoài.
Van ngắt mạch dùng để cắt dòng khí khi áp suất đột ngột hạ thấp (hình 7.9). Trong điều kiện bình
thường, áp suất khí cao sẽ đẩy mực nước ờ cột bên cạnh xuống, và nước tràn qua vòi ra ngoài. Nếu đột
nhiên áp suất hạ thấp thì nước ở cột bên dâng lên và tràn vào buồng ống. Kết quả nước sẽ ngập miệng
ống khí và ngắt hoàn toàn dòng khí.
Khí ra
Trong lò nấu thủy tinh có buồng hồi nhiệt gián đoạn cần phải đổi chiều dòng khí một cách tuần
hoàn. Nhăm mục đích đó người ta dùng van đổi chiều. Đây là một hệ thống gồm nhiều van và tấm chắn
(xem hình 7.10).
Không khí sẽ đi qua van 2 và kênh 1 vào buồng hồi nhiệt không khí 12. Trong khi đó khói lò từ
buồng hồi nhiệt 11 qua kênh 8 ra kênh khói 9.
Điều chinh sức hút ống khói bằng tấm chắn 10.
Khi đổi chiều, van 2 đóng lại, nâng tấm chăn 3 lên mờ van 7 và hạ tấm chăn 6 và không khí sẽ
qua kênh 8 vào buồng hồi nhiệt 11, khói lò từ buồng hồi nhiệt 12 qua kênh 1 vào kênh khói 9.
Điều khiển vị trí của van và tấm chắn bởi hệ thống điện qua các ru lô 4 và cáp cũng như cáp treo 5.
Trong thực tế còn có thể gặp nhiều kiểu van đồi chiều khác.
Các tấm chắn có kích thước và khối lượng khá lớn. Đôi trường hợp khối lượng của chúng tính
bằng tấn và được chế tạo đặc biệt. Việc đổi chiều được tự động tiến hành và thông thường cứ khoảng 15
phút lại đồi chiều một lần.
301
A-A
7.4.2. Tường lò
Tường lò thường được xây bằng gạch chịu lửa, gạch cách nhiệt và gạch xây dựng (gạch đỏ). Đa
so trường hợp tường lò gồm nhiều lớp vật liệu khác nhau. Song cũng có trường hợp chi dùng một loại
302
vật liệu, ví dụ ờ lò nấu thủy tinh người ta xây tường lò bằng khối gạch (blok) có kích thước lớn. Việc
lựa chọn gạch chịu lửa để xây lò tùy thuộc vào nhiệt độ làm việc của lò và tính chất vật liệu gia công
trong lò. Nhiệt độ làm việc cho phép của các vật liệu như sau:
Samôt loại A đến 1450°C
Samôt loại B 1300°C
Samôt loại c 1250°C
Samôt nhẹ 125O°C
Dinat hay Silice 1650°C
Manhêdi 1650°C
Crôm - manhêdi 1700°C
Manhêdi crôm 1750°C
Gạch đỏ xây dựng 700°C
Gạch diatomit 700°C
Chiều dày của tường lò cần đàm bảo cường độ cơ học đồng thời ít tổn thất nhiệt ra môi trường
xung quanh khi tiêu tốn vật liệu xây dựng nhỏ nhất. Chiều dày tường lò cũng cần đảm bào để nhiệt độ
mặt ngoài cực đại khoảng 80 4- 100°C đối với lò gián đoạn. Chiều dày tối ưu của tường các lò khác
thường được lựa chọn theo kinh nghiệm của các lò đã xây dựng. Cho nên khi thiết kế có thể dùng những
số liệu thực tế ờ các lò tại nhà máy.
Chiều dày của tường cũng như vòm lò phải tương ứng với kích thước của gạch. Gạch chuẩn sản
xuất ra có kích thước (230 X 114 X 65) mm. Vì vậy tường lò lấy theo chiều dài của gạch sẽ là —, 1, 1 —, 2,...
2 2
viên hay bội số của 115 mm.
303
Chiều dày thực té của gạch phải kể theo chiều dày của mạch xây. Khi xây, các mạch của gạch
không được phép trùng nhau (trùng mạch) đề lớp trên và dưới giằng nhau chặt chẽ. Đồng thời theo chiều
dày của tường, gạch cũng phải đổi chiều để chống lại ứng lực dọc theo tường lò (xem hình vẽ 7.11).
Nếu tường lò xây bằng nhiều lớp gạch khác nhau thì phải có gạch cầu để giăng lớp nọ với lớp kia
chặt chẽ.
Một số lò tường của nó được ghép lại từ các mô đun đúc sẵn bằng bê tông chịu lừa. Vì vậy việc
thi công xây lò rất nhanh chóng như trong hình 7.12.
Hình 7.12. Thành lò nung được ghép bởi các mô đun đúc sẵn từ bê tông chịu lửa.
Ngày nay bông gốm chịu lửa đã phát triển rất mạnh và phổ biến tương đối rộng rãi. Bông gốm có
rat nhiều ưu việt như rất nhẹ (tỷ trọng 0,2), độ cách nhiệt cao, dễ lắp đặt, dễ mô đun hóa hệ lò nung,
khối lượng vận chuyển nhỏ, chiều dày lót lò rất mỏng khoảng 0,2 - 0,3 m vẫn đảm bảo cách nhiệt tốt.
Vì vậy các lò nung gốm sứ, vật liệu chịu lửa có thể dùng bông gốm chịu lửa để lót lò. Tùy theo nhiệt độ
và nhiên liệu sử dụng mà có thể lựa chọn loại bông gốm thích hợp từ 1000 đến 1700°C. Nhờ có bông
gốm nên các loại lò được xây dựng rất nhanh và mang lại nhiều hiệu quả về năng lượng và kinh tế.
304
Lò quay: zôn nung 2 mm
các zôn khác 3 mm
Lò đứng: zôn nung 2 mm
các zôn khác 2 mm
Tường gạch đỏ và gạch khác: chịu tác dụng của khí nóng 5 mm
xây ngoài gạch chịu lửa 8-4-10 mm
Ờ lò thủy tinh, tường lò xây băng các xếp các khối gạch mài nhằn lên nhau và gọi là "xây khô".
Chiều dày mạch xây khi đó nhỏ nhất.
305
Vòm cung và vòm bán nguyệt được xây bằng gạch nêm, kích thước gạch nẽm xác định theo bán
kính cung lò. Phổ biến nhất ưong công nghiệp là vòm cung (hình 7.13) với chiều cao vòm lò là f, chiều
rộng lò hay cung lò là B và góc tâm a. Có thể có góc tâm bất kỳ với mỗi giá trị sẽ có một loại gạch
tương ứng. Như vậy sẽ phải sản xuất nhiều loại gạch để xây vòm lò. Đẻ tránh lãng phí, người ta chỉ sản
xuất với một số góc tâm nhất định. Cho nên khi thiết kế phải lựa chọn góc tâm trong tiêu chuẩn đỏ. Phổ
biến nhất là vòm lò có góc tâm a = 60° tức R = B. Chiều cao vòm lò tuy nen thường lấy f = — B
7,5
hoặc f = 1B. Ở lò nấu tuỷ tinh thường lấy f = 4 B (vòm dinat). Nếu là vòm bán nguyệt thi f = 1B.
6 8 2
Hình 7.14. Phương pháp tạo trần phẳng của lò có ống đặt vòi đốt trên mặt lò.
Hình 7.15. Dùng móc chéo để treo gạch tạo trần phẳng.
306
Hình 7.16. Trần phằng treo từng viên bằng thanh treo chữ T.
Trần phẳng sẽ không có lực đẩy ngang nên không cần cột và dầm chắn lực này ở chân. Tuy nhiên
lại phải dùng loại gạch đặc biệt về hình dạng và có hệ cột với dầm để treo gạch phức tạp như trong hình
7.14, 7.15 và 7.16. Ở ưần phăng hay vòm treo người ta dùng gạch dị hình treo hay móc lên khung thép.
Có trường hợp người ta treo từng viên. Có trường hợp người ta treo một viên cách một số gạch. Loại
lò này thường dùng cho lò làm việc ờ nhiệt độ cao 1600 - 1800°C. Neu lò làm việc ờ nhiệt độ thấp
hơn 1300 - 1350°C thì có thể dùng bông gốm rất thuận lợi. Lò với trần phằng có nhiều ưu việt hơn
nhiều so với vòm cung về mặt phân bố nhiệt độ trong lò. Đặc biệt lò dùng bông gốm chẳng những làm
nhiệt độ đồng đều mà còn dễ xây dựng lắp ráp do chúng rất nhẹ và chiều dày lại giảm đi rất nhiều. Hiện
nay đa số lò nung gốm với nhiệt độ nung dưới 1300°C đều dùng bông gốm.
Tại một số lò người ta không dùng trần phẩng mà dùng vòm ưeo như trong hình 7.17A. Khi nhiệt
độ nâng cao chúng sẽ giãn nở như hình 7.17B hoặc 7.17C. Để đảm bảo bền vững dầm chắn chân vòm
cũng được treo và có hệ bu lông với lò so mạnh nhăm giữ dầm luôn luôn áp sát chân vòm.
Lò thường được kẹp chặt bời khung và gông lò bằng thép. Khung này có nhiệm vụ nhận lực đẩy
ngang của vòm lò, áp lực của vật liệu, lực nở do ứng suất nội của trường và lực tác dụng bên ngoài.
Khung lò gồm cột lò được dựng bời thép chữ I hay chữ u đặt hai bên thành lò và được nối với nhau
bằng thanh gông lò. Nhờ đai ốc mà cột lò được áp chặt vào tường lò cũng như dầm chăn lực đẩy ngang
của vòm lò.
Các kiểu khung lò cho trong hình 7.18.
307
Loại khung kín có giá trị như là vỏ thép bằng tôn thép cuốn và hàn lại. Ví dụ lò giỏ nóng, lò đứng
và lò quay nung clinke ximăng có khung kiểu này. vỏ thép không những chịu tải ưọng của lò mà còn
đảm bào kín lò nghĩa là khí không thông với bên ngoài nên không thoát ra bên ngoài cũng như không
khí không lọt vào lò được..
Thanh giồng (gông)
Thép chữ u n
Bi_ ỉ
Dằm cliẳik hl
Gạch chân vôm
0
Thanh gông
vòm cung
H/nh 7.18. Mô hình khung gông lò.
Khung lò thông thường gồm cột lò, thanh giằng hay gông lò. Cột lò đặt dọc theo hai bên lò, giữa
những cột lò có các thanh nối. Có hai kiểu khung: khung cứng và khung rời. Ở loại khung cứng, thanh
giăng lò được hàn chặt với cột lò. Do đó khung lò không điều chỉnh được theo độ giãn nờ của lò mà chỉ
hướng độ giãn nờ đó vào khe giãn nở nhiệt của lò. Ngoài ra khi giãn nở vòm lò người ta dùng cách như
trong hình 7.17. Ờ khung rời, thanh giăng lò như là những bu lông cỡ lớn ghép chặt với cột lò. Nhờ đó
chúng ta có thể điều chỉnh khung lò theo độ giãn nở của lò. Loại khung rời có nhiều ưu việt hom cho nên
ta thường gặp trong công nghiệp.
Cột lò và thanh gông lò được ghép với nhau theo hình 7.18. Chân cột lò cũng được ghép chặt với
tường lò băng bulông hoặc chôn vào bê tông móng (nếu là khung cứng).
Cột lò thường làm bằng thép CT3 hoặc thép khác với lực uốn cho phép 12000 4- 13000 N/cm2 và
thanh gông 8000 4- 8500 N/cm2.
ĩ.4.6.2. Tính toán
Quan hệ giữa các thông so của vòm lò như sau:
f=R(l-cos-^) (7.1)
2
R= B (7.2)
2sin^
2
Khi xây vòm cung thì phải có gạch chân vòm. Chiều dày vòm lò phụ thuộc vào cung lò. Nếu
cung lò dài đến 3 m thỉ chiều dày vòm lò 230 mm, cung lò đến 5,5 m vòm lò dày 245 mm, cung lò đến
7,25 m vòm lò dày đến 460 mm.
Dưới tác dụng của tải trọng vòm lò sẽ đè lên gạch chân vòm một lực. Lực này phân thành hai lực
thành phần: Ft - lực đẩy ngang và Fn - lực thẳng góc (hình 7.18). Lực thẳng góc bị triệt tiêu bời phản
lực của tường lò. Nếu không chống lực đẩy ngang thì vòm lò sẽ bị sập. Lực đẩy ngang tính theo công
thức sau:
308
Fn = RmiỊL=ĩíc,«Pịx
(7.3)
2 2 2 2
Trong đó:
p - khối lượng phần vòm giữa hai cột lò cỏ chiều dài L, kg;
Qua bàng trên chúng ta thấy rằng góc tâm càng nhỏ thì chiều cao vòm lò càng nhỏ và lực đẩy
ngang càng lớn.
Lò còn phải làm việc ở nhiệt độ cao và lực đẩy ngang sẽ tăng theo nhiệt độ. Vì vậy lực đẩy ngang
tính toán ờ trên phải nhân với hệ số K.
Nhiệt độ lò, °C K
Đại lượng lực đẩy ngang này rất cần tính toán để lựa chọn khung giằng lò, gong lò, cột lò và
thanh chăn gạch chân vòm.
Tính toán kích thước của cột lò và thanh gông cũng giống như tính toán cơ khí thông thường. Với
thanh chăn gạch chân vòm, mômen uốn cực đại xác định theo công thức:
.. _AtL
[N.cm] (7.4)
W= [cm3] (7.5)
ơ
Trong đó: At - lực đẩy ngang của vòm At = Fn.K;
ơ - cường độ uốn cho phép, N/cm2;
309
Đối với cột lò, mômen uốn cực đại phải chịu:
Mômen kháng của cột lò w cũng xác định như ưên. Trong đó trị số hi và Iì2 xem trong hình 7.18,
hệ số nhân c phụ thuộc vào chiều cao vòm lò f và tỷ lệ f/s (S là chiều dày vòm lò) cho trong bảng 7.12.
Lực kéo của thanh gông xác định theo công thức:
Thanh gông trên:
d= [cm] (7.9)
V ơn
Khung lò thường không được vượt quá 50 -ỉ- 150°C, nếu trên 200 -ỉ- 300°C cường độ thép sẽ bị hạ
đi. Trong trường hợp quá nóng, thanh gông bị giãn dài ra và sẽ không kẹp chặt cột lò với tường lò.
Vỉ vậy, ở khung rời có xiết chặt bu lông lại được nhưng cũng không được phép vượt quá nhiệt độ hên.
1,5 1,47
1 1,89
3 1,20
1
2 1,32
2
1 1,93
310
- Nhiệt kế nhiệt điện trờ, transmitter nhiệt điện trở.
- Transmitter thông minh đo nhiệt độ.
- Các hỏa quang kế.
7.5.1. Nhiệt kế nhiệt ngẫu (chủ yếu theo tài liệu tham khảo số 108)
7.5.1.1. Nguyên lý của nhiệt ngẫu
Hai dây dẫn bằng vật liệu khác nhau hàn với nhau khi nung nóng sẽ xuất hiện một điện thế hay
còn gọi là sức điện động. Lợi dụng tính chất này người ta đặt hai dây dẫn đó có cách điện bời các hạt sứ
hay ống sứ nhỏ nằm trong một ống bảo vệ bằng sứ chịu lửa hoặc bằng thép không gi để tạo ra thiết bị
hay dụng cụ đo nhiệt độ. Nguyên tắc và cấu tạo của cặp nhiệt ké hay cặp nhiệt điện như hình 7.19.
Đầu dụng cụ đo
Đàu ra của dây dẫn
Một dây trong vâ một dây ngoái Ị—
_ Đầu nối
Dây dẫn trong ổng sứ
a Ế cu
_ ống bào vệ
Cặp nhiệt ngẫu
VỊ,- Cặp nhiệt ngẫu
(b)
Hình 7.19. (a) Nguyên tắc của cặp nhiệt; (b) cấu tạo dụng cụ cặp nhiệt ké.
Cặp nhiệt được chế tạo từ các vật liệu trong bảng 7.13.
Bảng 7.13. Sức điện động nhiệt điện của vật liệu so với thủy ngân
Vật liệu Sức điện động, m v/l 00°c Vật liệu Sức điện động, mV/100°C
Si 44,8 Cu 0,76
Fe 1,8 Ir 0,65
Copel -4,5
311
7.5.1.2. Các nhiệt ké nhiệt ngẫu và ký hiệu
Căn cứ vào chất liệu của kim loại sử dụng mà có nhiều loại nhiệt kế nhiệt ngẫu được bán trên thị
trường với các ký hiệu cho trong bảng 7.14. Kích thước các dây cũng như ống bảo vệ và phạm vi sử
dụng của các loại nhiệt kế nhiệt ngẫu cho trong bảng trong bảng 7.15. cần lưu ý rằng các dụng cụ đo
bao giờ cũng có sai số nhất định và sai số này sỗ thay đổi theo thời gian sử dụng tùy từng loại.
Ký hiệu Kỷ hiệu Vật liệu cấu thành Đặc điểm lưu tâm
hình thức
B Platin Rhodium 30 Dây dương như là hợp kim 70% Pt, 30% Rh. Dây âm là
hợp kim 94% Pt, 6% Rh. Loại B bền hơn loại R, đo nhiệt
Platin.Rhodium 6
độ đến 1800 °C, còn các đặc tính khác thì như loại R.
R PtRh 13-Pt Dây dương là loại hợp kim 87% Pt, 13% Rh. Dây âm là
Pt nguyên chất. Cặp này rất chính xác, bền với nhiệt và
ổn định. Không nên dùng ờ những môi trường cỏ hơi kim
loại.
s — PtRh 10-Pt Dây dương là hợp kim 90% Pt, 10% Rh. Dây âm là Pt
nguyên chất. Các đặc tính khác như loại R.
K CA Cromel-Alumel Dây dương là hợp kim gồm chủ yếu là Ni và Cr. Dây âm
là hợp kim chủ yếu là Ni. Dùng rộng rãi cho Công
nghiệp, bền với môi trường oxy hóa. Không được dùng
trong môi trường có co, so 2 hay khí s có H.
E CRC Cromel-Constantan Dây dương như loại K, dây âm như loại J. Có sức điện
động nhiệt điện cao và thường dùng ờ môi trường acid.
J IC Sắt-Constantan Dây dương là đồng. Dây âm là hợp kim chủ yếu của Ni
và Cu. Nhiệt ngẫu này bền ở trong môi trường ăn mòn Fe
và dùng ờ nhiệt độ trung bình.
T cc Đồng-Constantan Dầy dương là Cu. Dây âm cũng là Cu và Ni. Độ chính
xác cao khi làm việc ở dưới 300 °C (-200 °C - 1000 °C)
dùng cả với môi trường khí và oxy hóa.
W/W- Wolfram- Dây dương băng Tungsten và dây âm 74% tungsten và
26E Wolfram-Rhenium 26% rhenium. Phù hợp đo nhiệt độ cao, tính bền giảm
26 với các khí trơ frong không khí, không chống được oxy
(Mỹ dùng từ hóa, không sử dụng được trong không khí.
Tungsten thay
Wolfram)
312
Bảng 7.15. Giới hạn nhiệt độ đo với các ống bảo vệ khác nhau
Dạng của cặp nhiệt Đường kính cùa Giới hạn nhiệt độ làm Ông bảo vệ
dây việc D ngoài X D trong
PtRh 6%
RPtRh 13%-Pt L 0,5 1400 °C 1600 °C - 15 X 11
Chứng nhận kiểm định của nhiệt kế nhiệt ngẫu trên thị trường.
Các nhiệt ngẫu lúc xuất xưởng, đưa vào hoạt động trên thị trường phải kèm theo giấy chứng nhận
đã được kiểm định, gồm một giấy kiềm định ờ xường sản xuất hoặc ở cơ quan quản lý đo lường kèm
theo một bảng quan hệ giữa nhiệt độ và sức điện động như ở bâng 7.16. Đồng thời được lấy làm cơ sở
cho việc kiểm định của nhiệt kế.
Căn cứ vào bảng 7.16, ta có thể:
- Tiến hành khắc độ thiết bị đo với cặp nhiệt ấy.
- Kiểm tra nhiệt kế trước khi cho phép lưu hành.
313
Bảng 7.16. Quan hệ giữa nhiệt độ và sức điện động của nhiệt ngẫu (Cromel Alumel)
°C 0 5 10 15 20 25 30 35 40 45
-150 —4,81 -A,92 -5,03 -5,14 -5,24 -5,34 -5,43 -5,52 -5,60 -5,68
-100 -3,49 -3,64 -3,78 -3,92 —4,06 -4,19 —4,32 -4,45 —4,58 -4,70
-50 -1,86 -2,03 -2,20 -2,37 -2,54 -2,71 -2,87 -3,03 -3,19 -3,34
-0 0,00 -0,19 -0,39 -0,58 -0,77 -0,95 -1,14 -1,32 -1,50 -1,68
+0 0,00 0,20 0,40 0,60 0,80 1,00 1,20 1,40 1,61 1,81
50 2,02 2,23 2,43 2,64 2,85 3,05 3,26 3,47 3,68 3,89
100 4,10 4,31 4,51 4,72 4,92 5,13 5,33 5,53 5,73 5,93
150 6,13 6,33 6,53 6,73 5,93 7,13 7,33 7,53 7,73 7,93
200 8,13 8,33 8,54 8,74 8,94 9,14 9,34 9,54 9,75 9,95
250 10,16 10,36 10,57 10,77 10,98 11,18 11,39 11,59 11,80 12,01
300 12,21 12,42 12,63 12,83 13,04 13,25 13,46 13,67 13,88 14,09
350 14,29 14,50 14,71 14,92 15,13 15,34 15,55 15,76 15,98 16,19
400 16,40 16,61 16,82 17,03 17,24 17,46 17,67 17,88 18,09 18,30
450 18,51 18,73 18,94 19,15 19,36 19,58 19,79 20,01 20,22 20,43
500 20,65 20,86 21,07 21,28 21,50 21,71 21,92 22,14 22,35 22,56
550 22,78 22,99 23,20 23,42 23,63 23,84 24,06 24,27 24,49 24,70
600 24,91 25,12 25,34 25,55 25,76 25,98 26,19 26,40 26,61 26,82
650 27,03 27,24 27,45 27,66 27,87 28,08 28,29 28,50 28,72 28,93
700 29,14 29,35 29,56 29,77 29,97 30,18 30,39 30,60 30,81 31,02
750 31,23 31,44 31,65 31,85 32,06 32,27 32,48 32,68 32,89 33,09
800 33,30 33,50 33,71 33,91 34,12 34,32 34,53 34,73 34,93 35,14
850 35,34 35,54 35,75 35,95 36,15 36,35 36,55 36,76 39,96 37,16
900 37,36 37,56 37,76 37,96 38,16 38,36 38,56 38,76 38,95 39,15
950 39,35 39,55 39,75 39,94 40,14 40,34 40,53 40,73 40,92 41,12
1000 41,31 41,51 41,70 41,90 42,09 42,29 42,48 42,67 42,87 43,06
1050 43,25 43,44 43,63 43,83 44,02 44,21 44,40 44,59 44,78 44,94
1100 45,16 45,35 45,54 45,73 45,92 46,11 46,29 46,48 46,67 46,85
314
7.5.2. Nhiệt kế nhiệt đỉện trở
Nguyên lý và cấu tạo
Kim loại hay hợp kim có điện trờ thay đổi theo nhiệt độ, dựa theo tính chất đó người ta ứng dụng
chế tạo nhiệt kế nhiệt điện trở để đo nhiệt độ trong lò công nghiệp. Các kim loại này thường được chế
tạo bằng Pt, dây đồng, dây Ni và có ký hiệu là: Pt-100, Cu-100, Ni-100. Điều đó có nghĩa là: Platin
100Q ở 0 °C, đồng 100Q ở 0 °C, Nikel 100ÍÌ ở 0 °C. Dưới dạng màng mỏng người ta còn chế ra Pt
Rt = R0(l + a.t)
Đối với Pt-100 điện trờ o°c là 100Í1 còn ở 100°C là 138,5Q. Như vậy a trong khoảng
0 - 100°C là 0.385%/ °C ờ °C.
Cấu tạo của nhiệt kế nhiệt điện trở được trình bày ờ hình 7.20:
Nủt đậy
..“5
Ống cách nhiệt
Mối hàn
/ỏng sảo vệ
(a) (b)
Hình 7.20. (a) Hình dáng các nhiệt ké nhiệt điện trở thương phẩm;
(b) Cấu tạo của nhiệt ké nhiệt điện trờ.
315
Tuy nhiên khi xuất xưởng mọi nhiệt kế đều được kèm theo chứng nhận kiểm định trong ấy, có
bảng quan hệ giữa nhiệt độ và điện trở của nhiệt điện trở như ờ bảng 7.17.
Bảng này được sử dụng lúc khắc độ nhiệt kế.
Bảng 7.17. Quan hệ giữa nhiệt độ và điện trờ của nhiệt điện trờ Pt 100
-200 18,52 0 100 0,39 200 175,86 0,37 400 247,09 0,35
-190 22,83 0,43 10 103,90 0,39 210 179,53 0,37 410 250,53 0,35
-180 27,10 0,43 20 107,79 0,39 220 183,19 0,37 420 253,96 0,34
-170 31,34 0,42 30 111,67 0,39 230 186,84 0,37 430 257,38 0,34
-160 35,54 0,42 40 115,54 0,39 240 190,47 0,36 440 260,78 0,34
-150 39,72 0,41 50 119,40 0,39 250 194,10 0,36 450 264,18 0,34
-140 43,88 0,42 60 123,24 0,38 260 197,71 0,36 460 267,56 0,34
-130 48,00 0,41 70 127,08 0,38 270 201,31 0,36 470 270,93 0,34
-120 52,11 0,41 80 130,90 0,39 280 204,90 0,36 480 274,29 0,34
-110 56,19 0,41 90 134,71 0,38 290 208,48 0,35 490 277,64 0,33
-100 60,26 0,41 100 138,51 0,38 300 212,05 0,36 500 280,98 0,34
-90 64,30 0,39 110 142,29 0,38 310 215,61 0,35 510 284,30 0,33
-80 68,33 0,41 120 146,07 0,38 320 219,15 0,35 520 287,62 0,33
-70 72,33 0,40 130 149,83 0,37 330 222,68 0,36 530 290,92 0,33
-60 76,33 0,40 140 153,58 0,37 340 226,21 0,36 540 291,21 0,32
-50 80,31 0,40 150 157,33 0,38 350 229,72 0,34 550 297,49 0,33
-40 84,27 0,39 160 161,05 0,37 360 233,21 0,35 560 300,75 0,32
-30 88,22 0,39 170 164,77 0,37 370 236,70 0,35 570 304,01 0,33
-20 92,16 0,39 180 168,48 0,37 380 240,18 0,35 580 307,25 0,33
-10 96,09 0,40 190 172,17 0,37 390 243,64 0,35 590 310,48 0,33
Khi nhiệt độ đo cao (trên 1600°C) ta dùng hỏa quang kế. Hỏa quang kế chia làm ba loại là:
- Hỏa quang kế bức xạ;
- Hỏa quang kế cường độ ánh sáng;
- Hỏa quang kế màu sắc.
316
7.5.3.1. Hỏa quang ké bức xạ
Hỏa quang kế bức xạ gồm một bộ cặp nhiệt kích thước nhỏ gồm ÌO cập nhiệt bố trí nối tiếp nhau
thành hình rẻ quạt. Ánh sáng hồng ngoại bức xạ, được thấu kính hoặc gưorng lõm tập trung vào đúng
đầu này của bộ biến đồi. Năng lượng ấy làm nóng cặp nhiệt và phát ra sức điện động nhiệt điện. Từ đây
ta có thể biết được nhiệt độ nori cần đo.
Cấu tạo của bộ thu hỏa quang kế bức xạ cho trong hình 7.21.
(a) (b)
Hình 7.21. (a) cấu tạo của hòa quang ké bức xạ; (b) Cặp nhiệt hình rẻ quạt Cromel- Copel.
1. Thân dụng cụ; 2. Vít chỉnh vật kính; 3. Vật kính; 4. Rãnh đặt cặp nhiệt thu;
5. Thân cặp nhiệt; 6. Tỏa nhiệt đẩu tự do; 7. Đàu ra của bộ thu; 8. Giá dở vật kính; 9. Vặt kỉnh;
10. Lọc ánh sáng; 11. Đẳu dây cáp ra; 12. ồng dẫn cáp ra; 13. Tai để gá thiết bị; 14. Chĩnh tiêu điểm.
7.5.3.2. Hỏa quang ké cường độ sáng
a)
317
Ảnh thật của đối tượng đo nhiệt độ được một hệ thống quang học (vật kính) tập trung về tiêu cự,
trùng với dây đốt của một đèn sợi đốt như hình 7.22. Nhiệt độ của đèn sợi đốt có thể điều chỉnh được
nhờ thay đổi dòng điện đi qua dây đốt. Đo dòng điện này có thể xác định nhiệt độ đèn sợi đốt. So sánh
nhiệt đèn sợi đốt với nhiệt độ vật cần đo nhiệt độ (lò) ta thấy:
Hiện nay cũng cỏ những photo điốt hồng ngoại thay thế cho bộ thu của hỏa quang nói trên. Trong
các hỏa quang kế, trước kia người ta phải bố trí hệ thống máy ngắm để cho ảnh thật của đối tượng trùng
với tiêu điểm của bộ thu. Ngày nay người ta đặt một điốt lazer phát ra một chùm tia hẹp song song với
trục của hỏa quang kế. Vòng tròn sáng của bộ phát lazer chính và vùng ta đo nhiệt độ như hình 7.23.
Dây đeo
ổng nhìr
Nút cổng tắc
Đèn mẫu
tham chiề
Chiết áp
Thang đo í
318
Hỏa quang kế quang học như hình 7.24 là thiết bị được sử dụng đo nhiệt độ của lò nung gốm sứ,
vật liệu chịu lừa, lò đúc, nấu thép... với các phương pháp khắc độ.
Bảng 7.18. Loại và phạm vi sử dụng của Hỏa quang kổ quang học Pyrometer
81Fhoặc81C Một thang đo .090" (2,2 mm) 1400°F - 2500°F 760°C - 1400°C
82F hoặc 82C Một thang đo .090" (2,2 mm) 1800°F - 3400°F 1 ooo°c — 1900°C
83F hoặc 83C Hai thang đo .055" (1,39 mm) 1400°F - 2200°F 760°C- 1200°C
1800°F - 3400°F 1000°C- 1900°C
84F hoặc 84C Hai thang đo .055" (1,39 mm) 1800°F - 3400°F 1000°C- 1900°C
2200°F - 3700°F 1200°C - 2000°C
85F hoặc 85C Ba thang đo .055" (1,39 mm) 1400°F - 2200°F 760°C- 1200°C
1800°F - 3400°F 1000°C- 1900°C
2200°F - 3700°F 1200°C - 2000°C
87F hoặc 87C Ba thang đo .055" (1,39 mm) 1400°F - 2200°F 760°C - 1200°C
1800°F - 3400°F 1000°C- 1900°C
3200°F - 5200°F 1800°C - 3200°C
319
t ft
a) b)
Hình 7.25. (a) cấu tạo cảm biến và sơ đồ khối của bộ biến đổi đo áp suất;
(b) Hình dáng bên ngoài cùa transmitter áp suất p loại DS III của Siemens.
IA, UH : Tín hiệu vào và nguồn cung cấp; 6: Chuyển đổi áp tàn;
3 : Chắt lỗng đẻ truyèn áp suắt; 9: Mạch điót và két nổi với ampemet bôn
4 : Cảm bién điện trở lực căng màng Silic; ngoài.
Áp suất đo tác động vào một màng vừa đề ngăn cách 2, vừa để truyền áp suất qua một chất
truyền áp suất. Áp suất được truyền lên một màng đo. Màng đo là một màng biến dạng, trên đó có một
cầu đo bằng 4 điện trở lực căng bán dẫn.
Trên màng biến dạng này, biến dạng 6 được tính:
320
/////Ạ . K
m
"1
p
Biến dạng này làm biến đổi điện trở lực căng bán dẫn:
u AR u rr - . , , AU
AU = ———— = ——ke; Thay £ vào ta có:------ = Kd •
2 R 2 ucc
AU này được đưa vào khuếch đại, qua bộ biến đổi vào vi điều khiển và một mặt sẽ truyền đi bằng
số, một mặt biến thành dòng 4-20 mA truyền lên các thiết bị thu thập số đo.
Áp kế, bộ biển đồi và chỉ thị được chế tạo thành nhiều cấp:
- 0,16 bar - 1 bar B.
- 0,63 bar - 4 bar c.
- 2,5 bar - 16 bar D.
- 10 bar - 63 bar E.
- 25 bar - 160 bar F.
321
12
raw
00 7
11 13
8 9 10
> -Ồ --- Ia,Uh
5 6 7
(a) (b)
Hình 7.27(a). Sơ đồ khối của bộ biến đổi; (b) Cảm biến hiệu áp suất của Siemens.
6 : Màng an toàn; 13 : Mạch điốt và két nối với ampemet bổn ngoài.
7 : Cảm biển điện trở lực cồng Silic;
Hình dáng bên ngoài của cảm biến hiệu áp suất của Siemens cho ờ hình 7.27b.
Các thang đo được bố trí như sau:
-2-60 mbar loại c.
- 8.3 - 250 mbar loại D.
- 20 - 600 mbar loại E.
- 53 - 1600 mbar loại F.
- 160 - 5000 mbar loại G.
322
Công thức:
qv = k|iS - ; q = kqsựhp
VP
(Công thức này giống như Chương 4. Chuyển động khí trong lò).
qv: lưu tốc tính bằng thể tích của chất lỏng hoặc khí;
qgĩ lưu tốc tính bằng khối lượng cùa chất lỏng hoặc khí;
k: hệ số phụ thuộc vào hình dáng và hệ số biến đổi kích thước giữa ống và lỗ chăn,...
p: độ nhớt của chất lỏng hoặc khí;
S: diện tích của ống dẫn đường kính D;
h: hiệu áp suất trước và sau lỗ chắn;
p: khối lượng riêng của chất lỏng hoặc khí.
Quan hệ giữa Ap và q được biểu thị trong hình 7.29.
323
q (%) 0 1 3 5 8 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100
Ap 0 0,01 0,09 0,25 0,64 1 4 9 16 35 36 49 64 81 100
Hình dáng một số lỗ chắn dùng trong công nghiệp cho ờ hình 7.30.
Hình 7.30. Một số dạng ống dùng đo hiệu áp suất trong công nghiệp.
Với quan hệ như vậy, ta thấy phần gia công số liệu rất lớn. Đại lượng đo được Ap được sừ dụng
để tính lưu lượng khí hay chất lòng như đã trình bày tại chưomg 4 hoặc theo công thức ờ trên. Nếu đã cài
sẵn trong thiết bị đo các số liệu trên thì đều được thực hiện băng một vi điều khiển.
Toàn bộ cảm biến và bộ biến đổi đo lưu tốc này được gọi là một hệ thống cảm biến thông minh
(đó là tên mà Honeywell đặt cho cảm biến của minh).
Hình 7.31. (a) Hiệu ứng Doppler trong đo lưu tốc bằng siêu âm;
(b) Nguyên lý máy đo lưu tốc bằng siêu ẳm.
324
Siôu âm truyền trong chất lỏng (nước hoặc khí) với tốc độ c. Khi âm truyền trong chất khí hay
ỉỏng chuyển động cùng chiều với chiều chuyền động cùa chất lỏng ta có tốc độ truyền là (C + V) và khi
âm truyền ngược chiều với chiều chuyển động của chất lỏng ta có tốc độ truyền là (C - V).
C: tốc độ truyền siêu âm (hàng nghìn m/s trong chất lỏng và khoảng 300 m/s trong không khí);
Nếu bộ phát siêu âm và bộ phận thu đặt cách nhau một khoảng D, ta cỏ thời gian truyền của sóng
siêu âm từ đầu phát đến đầu thu là:
-f2)
F1 và F2 tưomg ứng 1/T1 và 1/T2. Đo T1 , T2 tức thời gian phát nhận bằng phưomg pháp đếm xung,
ta tính được V và biết tiết diện ta tính được lưu lượng.
Tuy nhiên, người ta không bố trí hai đầu phát và thu siêu âm về một phía của ống mà bố trí đối
diện nhau xuyên qua tâm ống dẫn như hình 7.32A với đầu phát 7.32 B.
Hình 7.32. (A) Cách đo lưu tốc bằng siêu âm; (B) cấu tạo đầu đo lưu tốc.
Đầu phát vùng phát và cấu tạo đầu phát siêu âm cho trong hình 7.33.
325
Nón côn Màng ngăn kim loại
Hộp
Gốm áp điện
Piezoceramic
Dây dẫn
Dây dẫn
c
Hình 7.33. A: Đầu phát siêu ăm; B: Vùng phát siêu ăm trong không khí;
C: Cấu tạo đầu phát siêu ảm.
T = 2d/C
326
Phương pháp mới là dùng Rada phát, khi gặp mực vật liệu thì sóng Rada phản xạ lại như trong
hình 7.35. Đo thời gian từ lúc phát đến lúc nhận ta sỗ biết được khoảng cách khi biết tốc độ của sóng
Rada. Phương pháp này tốt hơn là siêu âm do bụi cản trở cũng như tốc độ siêu âm rất lớn.
327
Chương 8
SẤY VÀ LÒ SÁY
328
Sá> v.ii liệu va sản phẩm có the thực hiện bằng phương pháp sấy tự nhiên và nhân tạo. sấy tự
nhiên là quá trình hong khô ngoài trời, trong nhà với động lực sấy là không khí tự nhiên, sấy nhân tạo
được tiến hành trong các lò sấy với động lực sấy là không khí nóng hoặc hỗn hợp không khí với khỏi lò.
Trong công nghiệp, phổ biến nhất là sấy nhân tạo vi năng suất lớn, chất lượng cao, tiến độ nhịp nhàng.
Vì vậy tỷ trọng sấy nhân tạo trong ngành silicat vượt quá 80 -ỉ- 90%.
Nước hấp thụ có được là do trên bề mặt pha rắn còn năng lượng dư, nhờ đó pha rắn hấp thụ
những phân tử hơi nước ở môi trường xung quanh. Đồng thời với quá trình hấp thụ hơi nước trên bề mặt
pha rắn lại có quá trình xâm nhập hay khuếch tán hơi ẩm vào trong khối thể của pha rắn. Điển hình nhất
về nước hấp thụ là phụ gia như trepen, diatomit. Diatomit có thề dùng như là chất hấp thụ nước, hơi
và khí. Nước thẩm thấu trong vật liệu có được là do áp suất thẩm thấu gây nên. Áp suất này xuất hiện
nhờ sự hoà tan các chất trong dung dịch. Nước dạng này thường đặc trưng cho những vật liệu hữu cơ
nhiều hơn.
Nước cấu trúc gắn với vật liệu rắn có thể do làm sít đặc (ép) hay đóng rắn những mao mạch tạo
ra sớm hơn. Vì vậy nước đó sẽ nằm ờ các lỗ hở trong cấu trúc của khoáng, nước cấu trúc đặc trưng nhất
cho đất sét mịn là bcntonit.
Hơi ẩm liên kết cơ lý nằm ờ các mao quản do lực mao quản và sức căng bề mặt. Tại mao quản,
áp suảt hơi nước thấp hơn nhiều so với áp suất hơi cùa môi trường hoặc áp suất hơi ờ mặt lồi vì thế hơi
nước sẽ ngưng tụ trong mao quàn do hơi nước truyền từ ngoài vào. Ở những lỗ lớn (r > 10~5 cm) không
xảy Va việc ngưng tụ hơi nước vì áp suất hơi trong đỏ gần bằng áp suất ngoài trời. Nếu nhúng vào nước,
các lẽ lớn cũng bị lấp đầy nước. Nhưng nước này không liên kết với vật liệu, vì vậy nước đó gọi là nước
thấm rớt hay nước tự do.
Khi sấy, có thề loại trừ nước liên kết cơ lý và hóa lý. Song không thể loại trừ nước liên kết hóa
học. Khi sấy chúng ta chi cỏ thể hạ độ ẩm vật liệu đến độ ẩm cân bằng với độ ẩm và nhiệt độ môi
trường. Tuy nhiên trong thực tế sản xuất, các vật liệu thường sấy đến độ ẩm cuối cùng và độ ẩm đó tùy
thuộc vào yêu cầu của sản xuất.
329
mặt, nước lại chuyển từ trong tâm ra bề mặt dưới tác dụng của độ chênh lệch độ ẩm giữa bề mặt và
trong tâm vật liệu.
Quá trình sấy thường kèm theo biến đổi khối lượng vật liệu sấy do hơi ẩm bị loại trừ. Nếu biết độ
ẩm và khối lượng ban đầu của vật liệu có thể vẽ được đường cong biến đổi độ ẩm theo thời gian
w = f(z) tức là đường cong sấy (hình 8.1). Theo đường cong sấy có thể thành lập đường cong biến đổi
độ ẩm trong một đơn vị thời gian dw/dz = f(z) tức là tốc độ sấy.
Quá trình sấy có thể chia thành ba giai đoạn:
8.2.1.1. Giai đoạn năng nhiệt
Giai đoạn này đặc trưng bằng độ tăng nhiệt độ vật liệu và sự biến đổi độ ẩm không lớn lắm. Tốc
độ sấy khi đó tăng rất nhanh đến đại lượng không đổi - điểm A hình 8.1. Cuối giai đoạn này nhiệt độ bề
mặt vật liệu duy trì không đổi và có cân bằng giữa lượng nhiệt hấp thụ bởi vật liệu và lượng nhiệt tiêu
tốn để bốc hơi.
8.2.1.2. Giai đoạn tốc độ sấy không đổi hay đẳng tốc
Trong giai đoạn này tốc độ sấy duy trì không đổi và về trị số bằng tốc độ bốc hơi từ bề mặt hờ.
Vì bốc hơi nước từ bề mặt vật liệu cho nên hơi ẩm từ trong đi ra và ở bề mặt vật liệu vẫn có độ ẩm.
Nhiệt độ bề mặt vật liệu tm gần bằng nhiệt độ bầu ướt và duy trì không đổi suốt trong giai đoạn này
(hình 8.1). Áp suất hơi nước trên bề mặt vật liệu bằng áp suất riêng phần của hơi nước bão hoà ờ nhiệt
độ bề mặt tm và không phụ thuộc vào độ ẩm vật liệu.
Lớp mỏng
haỵ phim khí
bao hòa
330
Chúng ta hãy xem mô hinh quá trình sấy ờ hình 8.2. Vật liệu được đặt trong môi trường sấy cỏ
nhiệt độ t = const và độ ẩm ọ = const. Trên bề mặt vật liệu luôn tạo ra một màng phim mỏng khí có
<p = 100% trong giai đoạn đằng tốc. Do chênh lệch độ ẩm Aọ = const giữa màng phim này với môi
trường nên hơi nước sẽ khuếch tán từ màng phim này ra môi trường. Vi A<p = const nên dòng hơi âm ra
môi trường cũng không đổi. Khi hơi nước bốc đi từ bề mặt thì nước từ trong lòng vật liệu sẽ thoát ra
ngoài để đảm bảo phim khí luôn luôn có độ ẩm cp = 100%. Đây chính là lý do tạo ra giai đoạn đẳng tốc
của quá trình sấy.
Lượng nhiệt cung cấp cho vật liệu là không đồi do nhiệt độ môi trường không đổi nên lượng
nhiệt này chỉ cung cấp cho quá trình bay hơi. Đây cũng là nguyên nhân chủ yếu để nhiệt độ bề mặt vật
liệu tm không đổi trong suốt giai đoạn này và bằng nhiệt độ bầu ướt tức nhiệt độ ờ (p = 100% ứng với
nhiệt độ môi trưởng khí xung quanh.
Giai đoạn này là giai đoạn quan trọng và cũng nguy hiểm bậc nhất vì trong giai đoạn này nước từ
sản phẩm mất đi kèm theo co vài dây nên ứng suất co. Tốc độ duy trì không đổi đến khi độ ẩm của vật
thể hạ đến độ ẩm tới hạn Wth và trên bề mặt vật thể độ ẩm hạ tới độ ẩm hút wh. Độ ẩm hút là độ ẩm cân
bằng của vật liệu đặt trong môi trường có áp suất hơi hoàn toàn bão hoà, nghĩa là cỏ độ ẩm môi trường
cp = 100%. Trên bề mặt vật liệu, giá trị độ ẩm lớp phim khí bắt đầu giảm từ (p = 100% xuống giá trị ngày
càng thấp hơn. Từ lúc này quá trình sấy bước sang giai đoạn tốc độ sấy hạ thấp.
Trong thực tế sản xuất, điểm chuyển từ giai đoạn 2 sang giai đoạn 3 hơi khó xác định. Vì điều
kiện bốc hơi không giống nhau, cho nên có chỗ trên bề mặt độ ẩm vật thể nhỏ hơn độ ẩm hút, có chỗ
còn lớn hơn độ ẩm hút. Vì vậy độ ẩm tới hạn là độ ẩm trung binh của toàn vật phẩm và độ ẩm tới hạn
phụ thuộc vào chế độ sấy, chiều dày sàn phẩm và hệ số dẫn ẩm. Khi sàn phẩm đạt đến độ ẩm tới hạn thì
nó kết thúc quá trình co và quá trình sấy tiếp theo chỉ làm tăng độ xốp của vật thể mà thôi.
8.2.1.3. Giai đoạn tốc độ sắy hạ thấp
Trong giai đoạn này tốc độ sấy dần hạ thấp và khi độ ẩm đạt đến độ ẩm cân băng thi tốc độ sấy
trờ nên bằng 0, nghĩa là không có hiện tượng gảm độ ẩm nữa. Do giảm lượng nhiệt tiêu tốn cho quá
trình bốc hơi cho nên một phần nhiệt dùng để làm nóng sản phẩm lên. Vì vậy nhiệt độ vật thể dần dần
tăng lên và chênh lệch nhiệt độ giữa môi trường (động lực sấy) với sàn phẩm ngày càng giảm.
Việc giảm tốc độ sấy trong giai đoạn này là do áp suất riêng phần của hơi nước ở trên bề mặt vật
liệu hạ xuống và trờ nên nhỏ hơn áp suất riêng phần cùa hơi nước bão hoà ờ nhiệt độ bề mật. Trong giai
đoạn này nước bốc đi chỉ đề lại lỗ xốp trong sản phẩm mà không bị co nữa. Chính vì vậy mà trong thực
tế có thể tăng nhiệt độ của tác nhân sấy lên được.
Đại lượng độ ẩm cân bằng phụ thuộc vào tính chất của vật liệu và thông số của môi trường xung
quanh, nghĩa là nhiệt độ và độ ẩm của môi trường.
Các giai đoạn sấy kề trẽn thấy rõ ràng nhất ở vật liệu có độ ẩm cao. Quá trình sấy thực tế có thể
khác ít nhiều vì khi sấy nhiệt độ môi trường và độ ẩm cũng thay đồi, bề mặt bốc hơi bị thay đổi do vết
nứt làm xuất hiện bề mặt bốc hơi mới. Nhiệm vụ chủ yếu của chúng ta là phải lựa chọn điều kiện tối ưu
về nhiệt độ, độ ẩm tương đối của động lực sấy và thời gian sấy nhằm đảm bảo sấy nhanh mà không có
phế phẩm.
Qua phân tích ở trên, chúng ta thấy gian đoạn ứng suất có thề gây phế phẩm là giai đoạn thứ hai.
Vì vậy cần phải khống chế điều kiện sấy thích hợp để không gây vỡ, vênh, nứt. Còn trong giai đoạn tốc
độ sắp hạ thấp có thể sử dụng động lực sấy có nhiệt độ cao và độ ẩm hạ thấp vì giai đoạn này không có
ứng suất co.
331
8c2.2. Sự chuyền hơi ẩm bên trong vật thể
Khi sấy sàn phẩm gốm, hơi ẩm được bốc hơi đi từ bể mặt của chúng, do đó nồng độ hơi ẩm ở
trung tâm trở nên lớn hơn so với bề mặt. Kết quả hơi ẩm lại chuyển từ tâm ra bề mặt dưới tác dụng của
chênh lệch (gradient) độ ẩm hay nồng độ hơi ẩm giữa trung tâm và bề mặt của nó.
Khi các thông số động lực sấy như nhau thì cơ cấu và tốc độ chuyển hơi ẩm phụ thuộc vào cấu
tạo, độ xốp, nhiệt độ, độ ẩm của vật liệu, dạng liên kết của hơi ẩm trong vật liệu, và các tính chất khác
của vật liệu. Hơi ẩm có thể vận chuyển ở dạng lỏng hoặc dạng hơi.
Hiện tượng chuyển hơi ẩm ở dạng lông dưới tác dụng của lực mao dần và lực khuếch tán thẩm
thấu. A.v. Lưkov gọi là độ dẫn ẩm. Khi đó sự chuyển hơi ẩm tỷ lệ với gradient độ ẩm của vật thề. Hơi
ẩm chuyển vận ở dạng lòng khi độ ẩm của vật thể lớn hơn độ ẩm hút nghĩa là trong giai đoạn đẳng tốc.
Hiện tượng chuyển hơi hoặc chuyển vận bằng khuếch tán gọi là độ dẫn hơi. Hiện tượng này chi
xảy ra khi độ ẩm của vật liệu nhỏ hơn độ ẩm hút và các mao quản thường không bị chiếm chỗ bởi chất
lỏng nữa.
Khi có mặt gradient nhiệt độ bên trong vật thể, do dòng nhiệt xuất hiện mà hơi ẩm chuyển từ chỗ
nhiệt độ cao đến chỗ nhiệt độ thấp hơn. Trường hợp này Lưkov gọi là nhiệt dẫn ẩm. Hơi ẩm vận chuyển
ở đây cũng ở dạng lỏng chỉ khi nhiệt độ gần hoặc lớn hơn 100°C thỉ mới ở dạng hơi.
Toàn bộ dòng hơi ẩm hay lượng hơi ẩm chuyển đi trong một đơn vị thời gian qua một đơn vị bề
mặt bên trong vật thể m được xác định bằng phương trình sau:
- gradient độ ẩm, nhiệt độ và áp suất hơi xuất hiện trong vật thể.
ổx ổx ổx
Số hạng đầu tiên của phương trình trên biểu thị sự chuyển hơi ẩm ờ dạng hơi và lỏng do tác dụng
của gradient độ ẩm và K. Dấu (-) có nghĩa là độ ẩm hay nồng độ ẩm giảm dần theo chiều chuyển động
của nó.
Với đất sét và các vật liệu khác, khi độ ẩm nhỏ hơn độ ẩm hút (điểm tới hạn) thì trị số K phụ
thuộc vào độ ẩm và nhiệt độ của vật thể. K giảm nếu giảm độ ẩm và nhiệt độ. Nếu độ ẩm lớn hơn độ ẩm
hút thì K chi phụ thuộc vào nhiệt độ của vật thề và tăng nếu tăng nhiệt độ. Ví dụ, ờ một loại đất sét
K = 11,3.10"5 m2/h khi t = 35°c và chênh lệch độ ẩm của đất sét từ 21,4% đến 8,9%.
Số hạng thứ hai biểu thị sự chuyển hơi ẩm dưới tác dụng của gradient nhiệt độ và 5.
Nếu nhiệt độ bề mặt vật liệu tm lớn hơn nhiệt độ trung tâm thì hơi ẩm sẽ chuyển từ bề mặt vào
trung tâm vật thể (khi sấy bức xạ và đối lưu), hoặc kìm hãm ngăn trở sự chuyển hơi ẩm từ trong ra
ngoài. Khi sấy cao tần hoặc dẫn điện nhiệt độ bên trong vật thể lớn hơn nhiệt độ bề mặt, hơi ẩm sẽ
332
chuyển từ trong ra mặt ngoài vật thể làm quá trình sấy tăng nhanh (dấu -). Trị số ỗ đối vói đất sét
(và các vật thể có mao quản khác) phụ thuộc vào độ ẩm của chúng. 8 có trị số lớn nhất ờ điểm tới hạn,
nó sẽ giảm nếu càng xa điểm này tức là tăng hay giảm độ ẩm. Ví dụ ở một loại đất sét 8 = 0,0006K_1 khi
w = 5%, 8 = 0,00125K-1 khi w = 10%, 8 = 0,00076K_1 khi w = 20%.
Số hạng thứ ba biểu thị sự chuyển hơi ẩm ở dạng hơi dưới ảnh hưởng của gradient áp suất dư
vả D. Hiện tượng này xày ra khi sấy bức xạ và tẩn số cao, do nhiệt độ tăng nhanh đến 100°C. Hệ số
chuyền ẩm D phụ thuộc vào độ ẩm và nhiệt độ tương tự như K, nghĩa là tăng nhiệt độ thi D tăng.
Khi độ ẩm vượt quá điểm tới hạn thì D không phụ thuộc vào độ ẩm nữa, nếu dưới điểm tới hạn thì
D giảm theo độ ẩm vật thể. Khi t = 115 4- 120°C và độ ẩm lớn hơn độ ẩm tới hạn thi giá trị D ờ loại
đất sét D = 1.1 O’4 m2/h.atm.
Thực tế chi rằng, nhiệt độ, độ ẩm và áp suất bên trong vật thể này càng cao thì tốc độ sấy
càng lớn.
Trong giai đoạn tốc độ sấy không đổi tức là độ ẩm vật thể lớn hơn độ ẩm hút (tới hạn), đối với
các tấm vật liệu đất sét, hơi ẩm được loại trừ khỏi vật liệu ờ dạng lỏng. Vì là tấm mỏng nên chênh lệch
nhiệt độ theo chiểu dày coi như bằng 0 (At = 0). Do hơi ẩm phân bố theo chiều dày sản phẩm s là đường
parabol như trong hình 8.3 nên lượng hơi ẩm chuyển từ trong tới mặt vật liệu luôn luôn không đồi và
bằng lượng hơi ẩm tách ra từ bề mặt vật liệu ra môi trường xung quanh. Lượng hơi ẩm này tỳ lệ với
gradient độ ẩm bề mặt:
ỠW^ 4(Wt-Wm)
ỡx Jm 100S (8.2)
w tâm
w mặt
Trong giai đoạn tốc độ sấy không đổi, trị số của K chỉ phụ thuộc vào nhiệt độ và bàn chất của vật
thể va có thề xác định được.
333
Ví dụ: Miniovis nghiên cứu phối liệu gồm 40 4- 45% đất sét và 55 -ĩ- 60% sa môt. Khi độ ẩm
w > whút, K chi phụ thuộc vào nhiệt độ.
' T y,8.10~5
I290J y0 [cm/s] (8.4)
>14r 2,8.ĨO~5>
tí_+ 0,3
[cm2/s] (8.5)
373 -T 13 -0,00246 -T-W\29ữ; < Yo >
Trong đó:
T - nhiệt độ vật liệu, °C;
Ỵo - khối lượng vật liệu khô trong một đơn vị thể tích vật liệu ẩm, g/cm3;
w - độ ẩm vật thể, %.
Giả thiết hệ số dẫn ẩm K phụ thuộc vào độ nhớt của nước thì giá trị K trong giai đoạn tốc độ sấy
không đổi có thể xác định gần đúng theo công thức sau (chi đúng khi nhiệt độ từ 30 -ỉ- 60°C).
Kh - hằng số đối với mỗi loại vật liệu. Ví dụ, đất sét làm gạch có Kh = 0,659.104 cm2/s, đất sét
làm ngói có K.h = 0,515.104 cm2/s;
tđ - nhiệt độ đất sét, °C.
AL = L-L,[cm] (8.8)
8W = Lj Lj
[cm] hoặc âw = Lị
100 [%] (8.9)
334
(8.10)
=aĂW_W}
L\ Lj
Bây giờ chúng ta hãy khảo sát sản phẩm sấy trong hình 8.4. Sản phẩm ban đầu có kích thước theo
đường 1, sau khi sấy chúng có kích thước ứng với đường 4.
Độ phân bố hơi ẩm không đều theo chiều dày sản phẩm có hình dạng đơn giản (tấm, cầu, trụ) lớp
bên ngoài được sấy khô sớm nên phải bị co lại theo đường 2, nhưng thực tế lại ờ đường 4. Như vậy lớp
nên ngoài bị kéo căng bời lớp bên trong từ đường 2 lên đường 4. Còn lớp bên trong chưa được sấy hay
sấy chậm hơn nên kích thước phải lả đường 3 nhưng thực té nó lại ờ đường 4, như vậy lớp bên trong bị
ép từ đường 3 xuống đường 4 do lớp ngoài bị co và ép lớp bên trong. Điều đó dẫn tới nứt nẻ hoặc cong
vênh sản phẩm.
Trong giai đoạn tốc độ sấy không đổi, hơi ẩm phân bố theo chiều dày s theo đường parabol. Bề
mặt của tấm có ứng suất kéo, ứng suất này giảm dần vào phía trong vật thể và bằng không ờ bề mặt
trung gian, ở đây độ ẩm của lớp băng độ ẩm trong bình của vật thể. Sau đó ứng suất kéo (-) chuyền
sang ứng suất nén (4-) và ứng suất nén tăng dần lên giá trị cực đại ở trung tâm vật thể.
Đại lượng ứng suất xuất hiện phụ thuộc vào chênh lệch nồng độ ẩm (AC = Ctâm - cmặt) hoặc
chênh lệch độ ẩm (AW = Wtâm“ Wmịt) giữa tâm và bề mặt vật thể và hệ số co dài a mà không phụ thuộc
vào chiều dày sản phẩm. Nói cách khác, ứng suất xuất hiện khi sấy phụ thuộc vào đại lượng co và chiều
dày sàn phẩm.
Qua kết quả kiểm tra thực nghiệm những giả định trên, người ta xác định được rằng thông số hay
chuẩn số tạo kẽ nửt quyết định chế độ sấy và khả năng xuất hiện ứng suất nguy hiểm và kẽ nứt trong vật
liệu gốm ẩm là chênh lệch độ ẩm cho phép cực đại giữa độ ẩm trung bình của vật thể và độ ẩm trên bề
mặt của nó wm tức là:
335
Đối với mỗi loại đất sét thì chuẩn số tạo kẽ nứt này được xác định bằng thực nghiệm chứ không
phải bằng phưomg pháp tính toán. Trị số AWm và AWmax không phụ thuộc vào chiều dày vật thể, mà chi
phụ thuộc vào loại đất sét vì cường độ đất sét khi đó tăng lên.
vết nứt cạnh thường xuất phát từ cạnh sản phẩm trong giai đoạn đầu của quá trinh sấy. Sự biến
đổi độ ẩm ờ cạnh, góc sản phẩm nhanh hom ở trung tâm do đó ở cạnh góc sẽ co nhiều hom và nhanh hom.
Neu chênh lệch độ ẩm ờ cạnh góc và trung tâm vượt quá giới hạn cực đại cho phép thì vét nứt sẽ mờ ra
từ cạnh của chúng.
Nứt tâm là vết nứt ờ phần giữa mặt sản phẩm. Ở khu vực gần cạnh góc đã kết thúc quá trình co,
tức là đã bước sang giai đoạn sấy thứ ba, trong khi đó phần giữa sản phẩm vẫn đang co tức là vẫn đang
ờ giai đoạn sấy thứ hai. Lớp ngoài đã vững chắc sẽ kéo căng lớp trong, cuối cùng lớp trong bị đứt thành
dạng nứt tâm.
Đẻ tránh nứt cạnh và nứt tâm cần phải tránh tạo ra chênh lệch độ ẩm giữa cạnh góc và phần giữa
của sản phẩm. M. N. Dobrokhotov và A. F. Trizkili đã chứng minh điều đó bằng thực nghiệm như sau:
lấy dầu mazut, dầu máy hoặc khác bôi lên góc cạnh của tấm lát, ngói. Những chất trên cản trở bốc hcri
nước ở cạnh góc làm giảm chênh lệch độ ẩm giữa cạnh góc với phần giữa sản phẩm. Cho nên phế phẩm
ờ dạng này không xuất hiện khi sấy.
Khi xếp sản phẩm lên khung sấy, khung sấy sỗ giữ sản phẩm lại. Do sản phẩm co, cho nên đoạn
giữa hai khung phải có kích thước nhỏ hom khoảng cách của khung. Vì vậy trên sản phẩm sẽ có vết nứt
ở một hoặc hai chỗ ứng với cạnh của khung sấy. Trường hợp này gọi là nứt khung. Để tránh nứt khung
cần phải lót trên mặt khung cát min hoặc tro để sản phẩm có thể trượt trên khung khi co.
Kẽ nứt có thể xuất hiện ở ngay cả sản phẩm đã sấy khô. Song kích thước kẽ nứt rất nhỏ và gọi là
nứt vi ti. Nguyên nhân cơ bản là do sản phẩm sấy quá khô, khi ra ngoài sản phẩm sẽ hút hơi nước từ
không khí bên ngoài. Kết quả mạch liên kết giữa các hạt đất sét bị phá võ bởi nước hap thụ đỏ.
336
cỏ thể ngăn ngừa nứt li ti bằng cách không được sấy quá khô đến độ ẩm thấp hơn độ ẩm cân
bằng trong không khí ngoài trời, không đặt sản phẩm sấy khô trong môi trường quá ẩm, nên bố trí sấy
và nung liên hợp để không phải bốc dỡ từ sấy sang nung qua môi trường bên ngoài.
mav
AWmax
= 0,04Kyo [kg/m2h] (8.14)
max
s
K - hệ số dẫn ẩm, m2/h, nó phụ thuộc vào loại vật liệu sấy.
Ỵ o - trọng lượng thể tích của đất sét khô 1600 4- 1800° kg/cm3.
A wmax = (Wb - Wnjmax - chênh lệch độ ẩm cho phéo cực đại theo chiều dày sản phẩm giữa tâm
và bề mặt của chúng, %. Đại lượng này phụ thuộc vào loại và cường độ của đất sét.
Từ phương trình trên ta thấy răng Mmax tỷ lệ nghịch với chiều dày s, nếu tăng nhiệt độ và giảm
độ ẩm thì Mmax có thể tăng lên vi trị số K tăng lên và A Wmax tăng lên.
A.F.Triziski đã nghiên cứu sự phụ thuộc A Wmax vào độ ẩm ban đầu Wđ và nhiệt độ đất sét.
Giá trị của hệ số K và AWmax đối với một vài loại đất sét cho trong bảng 8.1 và 8.2.
Bảng 8.1. Giả trl AWmax cùa vàl loại đất sét
25 12,0
Đất Spondilov
30 9,0 A. F. Trizski
25 4,5
Đất Poltavsk
30 3,6
14 1,3
Đất Beskudnikov A.v. Lưkov
20 3
337
Bàng 8.2. Độ ầm, nhiệt độ và giá trl Kỵo của vàl loại đất
Qua nghiên cứu với hai bảng trên ta thấy rõ nếu tăng chiều dày của tấm thì tốc độ sẩy cho phép
cực đại giảm đi. Ngược lại nếu tăng nhiệt độ đất sét thì tốc độ sấy cho phép cực đại tăng lên.
Đổi với sản phẩm phức tạp, V. N. Zimin đề nghị dùng chiều dày đương lượng:
_ V100 r .
8 = —r— [cml
F
V - thể tích sàn phẩm, m3;
F - bề mặt bốc hơi, m2.
Nếu 8 càng lớn, tốc độ sấy cho phép cực đại càng nhỏ.
Từ phân tích trên, muốn tăng tốc độ sấy vật liệu từ đất sét thì phải tăng nhiệt độ của chúng. Để
thực hiện điều này nhiều nhà khoa học đã đề nghị làm ẩm đất sét khi nhào trộn bằng nước nóng hay hơi
nước nóng. Nhờ tăng nhiệt độ đất sét, nên hệ số dẫn ẩm tăng lên, rút ngắn thời gian sấy tới vài lần, hạ
thấp phế phẩm do nứt nẻ.
Trong giai đoạn tốc độ sấy hạ thấp, sản phẩm không co, không có ứng suất co, cho nên có thể
tăng tốc độ sấy lên băng cách điều chinh thông số động lực sấy.
Biết tốc độ sấy Mmax có thể xác định được thông số động lực sấy theo công thức sau:
p - hệ số chuyển khối.
338
8.2.6. Độ ẩm tới hạn và độ ẩm cuối cùng
Độ ầm tới hạn Wth (%) là độ ẩm khi đỏ sản phẩm két thúc giai đoạn tốc độ sấy không đổi và kết
thúc co. Nó phụ thuộc vào một loạt nhân tố: chế độ sấy, chiều dày sản phẩm s, tốc độ sấy M (kg/m2h),
độ ẩm hút Wh (%) và hệ số dẫn ẩm K (m2/h)o
Khi độ ẩm phân bố theo chiều dày sàn phẩm thành đường parabol thì sự phụ thuộc vào nhân tố
trên có thể xác định theo công thức cùa A. V. Lưkov.
. 100MS (8.17)
- W. +" —
AKYo
A - hệ số hình dạng sản phẩm, sản phẩm hình tấm A = 2, sản phẩm hình trụ A = 4, sản phẩm
hình cầu A = 6.
Từ phương trình trên ta thấy rằng Wth luôn luôn lớn hơn wh. Nếu tăng tốc độ sấy M và chiều dày
sấy sản phẩm s thì Wth tăng lên. Ngược lại tăng K và Ỵo trị số Wth giảm đi. Ở mỗi sản phẩm, s là hăng
số cho nên Wth càng lớn khi M càng lớn.
K
Nếu tăng độ ẩm tương đối ọ và nhiệt độ của động lực sấy không thay đổi, thi đại lượng Wth sẽ
giảm đi rất nhiều do giảm M và tăng K, vì nhiệt độ bầu ướt sẽ tăng lên, tức Wth tăng lên do đó M > 0.
K
Độ ẩm cuối cùng wc có một ý nghĩa lớn, vì khi sản phẩm đạt được wc, sản phẩm sẽ kết thúc quá
trình sấy: chỉ tiêu này quyết định thời hạn sấy cuối cùng và cường độ cơ học. Theo A. I. Augustinik, khi
wc của phối liệu sứ 26 và 18%, cường độ nén của nó đạt 0,1 và 4,8 kg/cm2. Theo A. V. Lưkov, cường
độ nén thay đổi từ 0,4 đến 11 kg/cm2 khi độ ẩm của đất sét từ 28 đến 4%.
V (8.18)
-G
-1)
-V
339
Đất sét cỏ độ nhạy cao Kn > 2.
A. F. Trizski đề ra công thức độ nhạy:
wd
K= (8.19)
wa
Wđ - độ ẩm ban đầu;
Wth - độ ẩm tới hạn, khi đó sản phẩm kết thúc co. Độ ẩm này xác định theo đại lượng co dài của
mẫu phăng trong điều kiện sấy tự nhiên. Trong bảng 8.4 biểu thị kết quả đo độ nhạy của một số đất sét
và phối liệu. Tuy nhiên, việc xác định trực tiếp độ nhạy không đáp ứng được vấn đề tốc độ sấy an toàn
cực đại hay thời hạn sấy an toàn nhỏ nhất với các loại đất sét.
Độ nhạy của đất sét xác định đúng nhất theo:
1 = 25
(8.20)
Mmaxs ■ KAWmax
Kd, Kc càng lớn tốc độ nhạy đất sét càng lớn. Giá trị Kđ của các phối liệu khác nhau cần phải xác
định khi nhiệt độ đất sét như nhau. Xác định Kc sau để xác định Kd theo công thức sau:
1 0,09A (8.21)
K ra“WK’+l
A - hệ số, phụ thuộc vào nhiệt độ bề mặt sản phẩm (trong bảng 8.3);
Kc - độ nhạy của đất sét khi sấy (bảng 8.4).
tm,°c 60 55 50 45 40 35 30
A 1,01 0,89 0,8 0,75 0,70 0,62 0,53
340
8.2.8. Thời gian sấy
Thời gian sấy an toàn ngắn nhất trong giai đoạn tốc độ sấy không đổi xác định theo công thức:
_S2(Wd-WJ
(8.22)
lmin SKAW_
M5Sy0
*
(W -wcb)lg (8.23)
100M wc-wcb
wcb - độ ầm cân băng;
Trong giai đoạn tốc độ sấy hạ thấp, tốc độ sấy không bị giới hạn bởi ứng suất co, nên có thể tăng
nhiệt độ động lực sấy lên cao vì thời gian Z2 có thể giảm đi.
Vì trong thực tế quá trình sấy không tiến hành đồng đều, nên thời gian sấy thực tế phải nhân lẻn
với hệ số Kfc. Lò tuy nen Kfc = 1,2 -T-1,5, lò sấy phòng Kk = 1,5 4- 3.
Khi sấy vật liệu chịu lửa samôt thời hạn sấy có thể xác định theo công thức của A. A. Samilin:
S = ^100 (8.26)
F
341
8.3.1. Sấy đối lưu
Hơi ẩm bốc đi do truyền nhiệt cho sản phẩm bằng cách tiếp xúc chất tải nhiệt hay động lực sấy
(khói lò hoặc không khí nóng) với sản phẩm đó. Nhiệt trao đổi băng đối lưu càng lớn, tốc độ sấy càng
nhanh. Do đó theo chiều day của sản phẩm có chênh lệch độ ẩm giữa bề mặt và trung tâm, kết quả hơi
ẩm sẽ truyền từ lớp bên trong ra bề mặt sản phẩm.
Trong giai đoạn đầu, nhiệt độ bề mặt cao hơn bên trong, do đó dòng nhiệt dẫn ẩm dưới tác dụng
của gradient nhiệt độ, hướng vào ưong lòng sản phẩm, làm chênh lệch ẩm theo chiều dày sản phẩm
càng lớn và đó là nguyên nhân xuất hiện kẽ nứt. Tuy nhiên phương pháp sấy đối lưu vẫn là phương
pháp phổ biến nhất trong công nghiệp do tính đơn giản của nó.
342
sấy cao tần dùng rất tốt đối với sản phẩm dày to ví dụ khi sấy sản phẩm nặng 100 kg từ độ
ầm 29 4- 30% xuống 23 4- 24% khi chênh lệch độ ẩm cho phép theo tiết diện < 1% có thể thực hiện sau
45 phút.
8.4. LÒ SÁY
343
+ Cường độ thể tích (lượng hơi ẩm bốc hơi từ lm3 thể tích lò sấy) lớn.
+ Dễ điều chỉnh thông số động lực sấy.
+ Cơ khí hóa được việc xếp, dỡ và vận chuyển sản phẩm.
+ Có các thiết bị kiểm tra và thoả mân tiêu chuẩn vệ sinh.
Một ưong những yêu cầu cơ bản là sấy đồng đều theo toàn bộ thể tích của lò sấy. Độ không đồng
đều đặc trưng bằng độ ẩm khác nhau của vật liệu sấy cùng đặt trong một lò sấy (lò sấy phòng) hoặc
trong một xe goòng (lò tuy nen) và xác định bằng hệ số không đều Kk, hệ số này bằng tỳ lệ giữa hai độ
ẩm cực đại wmax và cực tiểu Wmin của sản phẩm sấy trong cùng một phòng sấy hay cùng một xe goòng,
khi chúng cùng có độ ẩm ban đầu như nhau wđ.
(8.27)
wm,n
344
không bị quá nhiệt. Thông thường nhiệt độ khói ra khỏi lò sấy 110 4- 120°C và vật liệu đất sét ra khỏi lò
70 4- 80°C. Chế độ sấy đối với các vật liệu khác nhau cho trong bảng 8.5.
A B c D E
F G H I K
L M o p Q
Hình 8.7. Cảc kiểu cấu tạo đệm bên trong lò sắy thùng quay.
Để tăng cường trao đổi nhiệt, nguyên liệu sấy cần được đập vụn hoặc nguyên liệu cần phân thành
những vật liệu nhỏ trong lò để tăng mặt tiếp xúc giữa vật liệu với dòng khí. Với mục đích đó trong lò
người ta đặt các bộ phận gọi là đệm. Các kiểu đệm cho trong hình 8.7. Khi sấy vật liệu hạt thô, người ta
dùng lò sấy và các cánh xới đặt dọc theo lò. Với vật liệu nhỏ hơn, ta dùng đệm kiểu ô hờ. Với vật liệu
345
liệu rất mịn, tốt nhất là dùng đệm kiểu ô kín, mỗi ô này là một kênh nhỏ chạy dọc theo lò. Khi lò quay,
chiều cao rơi của vật liệu tương đối nhỏ.
Để tăng độ đồng đều của quá trinh sấy, năng suất của lò và kết hợp một phần nào giữa nghiền và
sấy người ta mắc xích ở một phần đầu lò. Khi lò quay, xích đập sơ bộ các cục đất to nhưng lại tăng
lượng bụi bay theo dòng khí. Độ đầy của vật liệu trong thùng quay dao động trong khoáng 0,15 4- 0,20.
Độ dày cao nhất ở lò quay có đệm kiểu ô bên trong.
Vật liệu Kích £>(5 £>0 Nhiệt độ khi Nhiệt độ khí Cường Khối Kiểu
thước, ẩm ầm vào, °C ra, °C độ bốc lượng đệm
mm đầu, cuối, hơi ẩm, vật liệu nên
% % kg/m3h tơi, dùng
kg/m3
Đất sét đến 40 22 5 600 4-700 80 4-100 50 4-60 1800 Cánh
xới
Cao lanh đến 40 25 0,5 800 100 36 1800 Ô đệm
346
=360000 [m] (8.29)
(100 —Wd)(100 —Wc)L0Voqw
G k - năng suất lò sấy theo vật liệu khô tuyệt đối, kg/h;
wđ, wc - độ ẩm đầu và độ ầm cuối của vật liệu sấy, % độ ẩm tương đối;
qw - cường độ bốc hơi kg/m3h, đất sét = 50-60 kg/m3h (bảng 8.5).
Chiều dài thùng quay có thể xác định gần đúng theo lượng hơi ẩm bốc hơi từ vật liệu n (kg/h),
cường độ bốc hơi qw.
L
q
J s
^qw.0,785D^
[m] (8.30)
(8.31)
Q (8.32)
avAttb
Ktq - hệ số kể đến phần thể tích của thùng quay bị chiếm chỗ bời đệm Ktq = 1,1, 4- 1,2;
Q - lượng nhiệt truyền từ khí cho vật liệu say, W;
Attb - hiệu số nhiệt độ trung bình logarit giữa khí và vật liệu ờ đầu và cuối lò sấy, °C;
av - hệ số cấp nhiệt thể tích, ứng với một đơn vị thể tích tự do của thùng quay không bị chiếm
chỗ bời đệm.
Khi Yk -V = 2,5 kg/m2.s, giá trị a V cực đại bằng 290 w/m3độ.
Nếu sấy đất sét có đệm cánh xới với tốc độ quay trung bình 3 4-5 vòng/phút và độ ẩm 15 -ỉ- 2,5%
thì a V = 70 4- 82 w/m3độ. Khi sấy cát có hạt 0 4- 3,5 mm, a V = 90 4- 106 w/m3độ. Với than 0 4-12 mm,
độ ẩm 14 4- 3,5%, a V = 140.Ỵ .v°55 w/m3độ.
Lượng nhiệt truyền từ khí cho vật liệu cũng như tiêu tốn để bốc hơi ẩm và đốt nóng vật liệu có
thể xác định theo phương trình:
347
Dtq = 0,0133Vk[m] (8.35)
Trong thực tế, lò sấy thùng quay được sàn xuất hàng loạt theo tiêu chuẩn (bàng 8.6). Khi đó ta có
thể chọn gần đúng, rồi sau khi tính toán nhiệt, ta xác định kích thước của nó theo các công thức trên và
điều chinh tốc độ cũng như nhiệt độ khí lúc vào ra lò.
Hình 8.8. Giản đồ xác định lò sấy càn chọn của Nokhratlan.
Để lựa chọn lò hợp lý có thể dùng giản đồ của Nokhratian cho ưong hình 8.8. Xuất phát từ công
suất lò sấy cần theo kg/h tại điểm A, ta dóng đường thẳng lên. Từ điểm B ứng với lượng hơi ẩm cần bốc
hơi % hay hiệu của độ ẩm ban đầu % với độ ẩm cuối khi ra lò %, ta kẻ đường B-C. Điểm c nằm trên
giao tuyến của cường độ bốc hơi lựa chọn 50 kg/m3 (thông thường đối với đất sét). Từ c kẻ ngang và
gặp đường dóng lên từ A tại điểm D’ và điểm D’ này năm frong khoảng hai lò sấy: 30,8 m3 (2,0 X 10 m)
và 37,1 m3 (2,2 X 10 m). Đương nhiên lò cần lựa chọn là lò 37,1 m3 (2,2 X 10 m) mới đảm bảo công suất
yêu cầu và D không phải là điểm lựa chọn mà là D’. Kẻ ngang ngược lại ta sẽ có điểm C’ và C’ sẽ ứng
với lượng hơi ẩm cần bốc hơi nhỏ hơn 50 kg/m3 như dự tính và phải chấp nhận.
Thời hạn sấy thùng quay (thời gian lưu lại của vật liệu trong thùng quay) xác định từ công thức sau:
*
0P[h]
T=y (8.36)
Gtb
348
n _ K. f 100 _ 100
(8.37)
qw'qwự00-Wd 100-wc/
w. + w
p - mật độ vật liệu tơi trong thùng quay khi độ ẩm trung bình (—---- - )đối với cát
2
p = 1 200 4- 1300 kg/m3, đối với đất sét p = 1500 4-1600 kg/m3.
Gtb - năng suất trung bình của thùng quay.
Gk - năng suất lò sấy theo vật liệu khô tuyệt đối và xác định theo công thức (8.29) của
A. p. Vorosilov.
Thời gian sấy mà vật liệu lưu lại trong lò sấy có thể xác định theo phương trình:
ALtó
no = — ■■ [vòng/phút] (8.40)
*Dtqtga
A - hệ số, khi sấy ngược chiều đối với cát và đất sét có thề lấy bằng 0,4 4- 0,65;
Số của lò
Chi tiêu
l 2 3 4 5 6
Đường kính trong Dqt, m 1,5 1,8 2,2 2,2 2,8 2,8
Chiều dài thùng Ltư, m 8,0 12,0 12,0 14,0 12,0 14,0
Thể tích thùng vtq, m3 14,2 35,0 45,5 53,2 74 86,2
Tỷ lệ L/D 5,3 6,7 5,5 6,4 4,3 5,0
SỐ ô đệm 25 28 28 28 51 51
Chiều dày vỏ thép s, mm 10 12 14 14 14 14
Khối lượng G, tấn 13,6 24 42 45,7 65 70
Công suất điện, kW 6,0 10 12,5 15 20 26
349
Bảng 8.7. Giá trỊ hệ số công suất ơ
Hệ số đày p
Kiểu đệm trong thùng quay
0,1 0,15 0,20 0,25
Hệ cánh xới 0,038 0,053 0,063 0,071
Hệôhờ 0,013 0,026 0,038 0,044
Hệ cánh chắn 0,0125 0,018 0,020 0,022
Hệ ô kín 0,006 0,008 0,01 0,011
Thời gian vật liệu lưu trong lò hay thời gian đi từ đầu nguội đến lúc ra khỏi lò được xác định theo
công thức của u. s. Bureau of Mines (8.42). Công thức này được ứng dụng cho lò sấy thùng quay và
dạng tương tự như lò quay nung clinke xi măng, samôt, manhêdi...
t = ỉ,77.L.yfỡ p (8.42)
a.D.n
Trong đó:
t - thời gian vật liệu đi trong lò, phút;
D, L - đường kính và chiều dài lò, m;
n - số vòng quay, vòng/phút;
0 - góc rơi tự nhiên của vật liệu đối với phối liệu clinke góc này bằng 40°, khi dùng cho lò sấy
thùng quay trong điều kiện khô đối với đá vôi và vật liệu sét góc này băng 36° do đó 736 = 6;
Cyclone
Máy đập
Buồng đốt
1
Máy nghiền
350
Quá trình sấy và nghiền đồng thời trong một hệ thống nhất phổ biến rộng rãi trong nhiều ngành
công nghiệp ờ nhiều nước châu Ảu. Trong công nghiệp gốm nó dùng đề sấy thạch cao, đất sét, cao lanh
và các vật liệu dạng hạt khác.
Đây là một ống sấy đứng hay tháp sấy đường kính có thề đến 1 m, trong đó sấy các vật liệu với
kích thước hạt không quá 20 mm (hình 8.9 và 8.10). Nguyên tắc làm việc như sau: đầu tiên nguyên
liệu được đập sơ bộ trong máy đập, sau đó nhờ máy tiếp liệu đưa nguyên liệu từ kích thước vào máy
nghiền. Đây là một loại máy nghiền đặc biệt, ngoài tác dụng nghiền nó còn có tác dụng đưa các hạt
nhỏ bay theo dòng khí, động lực sấy đồng thời là tác nhân chuyển vận vật liệu sấy là không khí nóng
hoặc khói lò từ buồng đốt.
Chế độ làm việc của lò sấy nghiền cho trong bảng 8.7.
351
Bảng 8.7. Thông số của lò sấy nghiền liên họp
Than cám antraxit 04-15 8 4-14 34-5 240 4-380 150 4-280 16 4-23
Than bùn 04-10 100 4- 140 18 4-57 400 4- 700 100 4-320 19 4-23
Sunphat manhê 04-8 92 4-97 11 4-25 610 4-720 270 4- 350 30 4-42
Vật liệu nhỏ bay theo dòng khí nóng theo tháp đứng tức vật liệu nằm ở trạng thái cân băng trong
dòng khí. Cuối cùng vật liệu được lắng tụ lại ờ cyclone và nhờ vít ruột gà đưa ra ngoài. Lực chuyền
động khí ở đây do quạt hút thành lập. Nếu vật liệu đã mịn, đôi khi không cần đến máy nghiền (quạt
nghiền) và ta chi còn hệ thống ống. Ngược lại khi sấy nghiền đồng thời, động lực sấy cho thẳng vào
máy nghiền. Khi đỏ cường độ sấy tàng lên do bề mặt vật liệu sấy liên tục bị đập vỡ và do vật liệu được
làm nóng phụ bời công cơ học của quả nghiền hay bi nghiền biến thành nhiệt (80% năng lượng chuyển
thành nhiệt năng).
Cường độ sấy theo lượng hơi ẩm ở lò sấy nghiền liên hợp rất cao qw = 300 4- 350 kg/m3h, động
lực sấy đi vào ống có nhiệt độ 300 4- 800°C và tốc độ 10 4- 35 m/s.
Hạt vật liệu càng nhỏ hàm lượng hơi ẩm tự do càng cao, lò sấy càng kinh té hơn. Hợp lý hơn cả
khi sấy trong ống sấy này kích thước hạt không quá 10 mm, nhiệt độ ban đầu không nhỏ hơn 600°C và
cuối cùng 100 4- 150°C, mật độ vật liệu 0,5 4-1,5 kg/kg khí.
Trong lò sấy thùng quay khoảng 60% vật liệu năm ở trạng thái cân bằng còn ở đây 100%. Vì tốc
độ vận chuyển nhanh và bề mặt bốc hơi cao, do đỏ cường độ bốc hơi lớn hơn và thời gian sấy chỉ kéo
dài khoảng 1,5 4- 2,5 giây. Vật liệu sấy được tách ra trong cyclone.
Tiết diện ngang của ống sấy được xác định theo tốc độ và lượng động lực sấy:
(8.43)
352
Từ đây đường kính trong của ống sấy bằng:
[m]
Vk - lượng động lực sấy đi vào ống sấy ờ nhiệt độ ban đầu, m3/s;
Tốc độ tới hạn được xác định bởi cân băng giữa lực trọng trường và áp suất tốc độ của khí.
- hệ số cán;
vỉ, „ _ Vp„g
[N/m2] (8.45)
2Pl‘ ijF
(8.47)
V 3 ệ pk 7$ V Pk [m/si
Hệ số cản phụ thuộc vào dạng hạt vật liệu và đặc tính chuyển động của dòng khí tức chuẩn số
Re. Khi Re > 1000, hệ số cản = 0,28 4- 0,32 và công thức để xác định tốc độ tới hạn đối với hạt tròn
có dạng:
353
Vth = (6,46,85) ®L [m/s]
(8.48)
V Pk
Trong thực tế sấy, nếu không phải hạt có hình dạng tròn thì hệ số cản thường cao hơn 0,32,
vi vậy có thể lấy Ẹ, = 0,48. Khi đó tốc dộ dòng khí tăng 10% so với tốc độ tới hạn của hạt, và:
pd = pc + wa [kg/m3] (8.50)
Pd“ mật độ vật liệu ẩm (ứng với độ ẩm ban đầu Wđ), kg/m3;
[kg/m3] (8.51)
[kg/m3] (8.52)
Pd
Từ đây ta có:
100
Pd = Pr ... [kg/m 1 (8.53)
Hd Hc100-W
Nếu không sấy đến khô tuyệt đối, mà chỉ từ Wđđến wc thỉ:
100-Wd [kg/m3]
Pd _Pc 100 -w“ (8.54)
354
Chiếu dài của ống xác định theo cường độ bốc hơi thề tích qv/ kg/m3h và lượng hơi ẩm cần loại
trừ khỏi vật liệu (kg/h).
Thời gian sấy thực tế trong ống sấy phụ thuộc vào chiều dài cùa ống và tốc độ chuyển động của
hạt. Khi chuyển động đều, tốc độ chuyền vận các hạt xác định theo hiệu so V = Vk - Vth. Khi đó thì thời
gian sấy sẽ bằng:
(8.55)
Thông thường tốc độ chuyển động của hạt V tìm bằng thực nghiệm, vì bằng tính toán lý thuyết rất
khó tìm sự biến đổi vk và Vth trong quá trình sấy như giai đoạn đầu ống đen lúc chuyển động ổn định
trong ống. Công thức (8.55) chỉ cho ta giá trị gần đúng và giá trị này thường nhỏ hơn thực tế . Nồng độ
vật chất c trong dòng khí có ảnh hường nhiều đến thời hạn sấy và xác định bằng tỷ lệ lượng vật chất Gvi
(kg/h) với lượng động lực sấy Gk (kg/h);
Khi chuyển vận vật chất dạng khí nén, nồng độ vật chất có thể 5 4-15 kg/kg khí, còn ờ trường
hợp ống sấy ờ trạng thái cân bằng nồng độ chỉ 0,3 4- 3 kg/kg khí. Nồng độ này phụ thuộc vào mức độ
sấy của vật liệu, độ ẩm, nhiệt độ của động lực sấy. Nếu tăng nồng độ thì sẽ giảm mức độ sấy và tăng
thời gian hạn sấy.
Trong trường hợp sấy nghiền liên hợp, dưới ống sấy là máy nghiền, động lực sấy trực tiếp đưa
vào máy nghiền đó làm tăng năng suất của máy nghiền. Năng suất của lò sấy nghiền liên hợp phụ thuộc
chủ yếu vào năng suất của máy nghiền. Thiết bị sấy nghiền liên hợp cỏ công suất không lớn 0,6 4- 1,2
tấn/giờ, chủ yếu dùng cho công nghiệp gốm và vật liệu chịu lửa.
Thiết bị sấy nghiền liên hợp phối liệu lớn nhất thuộc về công nghiệp xi măng. Trong công nghiệp
xi măng, việc sấy nghiền liên hợp bột phối liệu và than bụi là phổ biến và đòi hòi công suất rất lớn. Ví
dụ, để phục vụ cho lò quay công suất 6000 tấn/ngày cần phải sấy nghiền phối liệu đến 10.000 tấn/ngày
và hơn 700 tấn than/ngày.
Hiện nay thiết bị này với công suất 450 tấn phối liệu/giờ đang hoạt động tại nhà máy xi măng
Nghi Sơn và Bỉm Sơn phục vụ lò quay nung clinke xi măng công suất 5500 tan/ngày. Nhà máy xi măng
Công Thanh đang xây dựng có công suất lò 10.000 tấn clinke/ngày đã lắp đặt thiết bị sấy nghiền liên
hợp năng suất đén 850 tấn phối liệu/giờ.
Trong công nghiệp xi măng ngoài sấy nghiền phối liệu với thiết bị lớn nhất còn có sấy nghiền
than để đốt trong lò quay nung clinke xi măng. Có rất nhiều hãng đưa ra kiểu của mình nhưng giống
nhau về nguyên tắc nên ờ đây chỉ giới thiệu loại sấy nghiền cùa hãng Smidth với tên gọi là ATOX mô tả
trong hình 8.11 và kích thước của chúng trong hình 8.12.
Than vào máy 100% được nghiền'nhỏ bời quà nghiền rất nặng trên bàn nghiền dạng mâm quay.
Gió nóng được thổi qua khe hẹp giữa bàn nghiền và vỏ máy, than mịn được thổi lên cao với lượng
200 - 300% qua máy phân ly. Tại đây hạt thô đập vào cánh và rơi xuống phễu để tuần hoàn trờ lại máy
nghiền 100 - 200%. Còn 100% hạt mịn được đưa đến cyclone lắng bụi than. Tại quả nghiền lượng tuần
hoàn đến 1.500 - 3.000% được tuần hoàn do mâm quay nhanh và quà nghiền rất nặng.
355
1C0%
3C0C%
Khe vòng
phun khí
50 - 6D iTi'S
Hình 8.11. Sấy nghiền liên hợp dùng cho than để nung cllnke xl măng.
356
8.4.4. Lò sấy phun (hồ)
Trong công nghiệp silicat, đặc biệt trong công nghiệp gốm sứ đôi khi cần chuyển nguyên liệu
hoặc phối liệu đã nghiền mịn thành dạng hồ hay huyền phù trong dung dịch nước thành dạng hạt. Ví dụ
caolanh, đất sét sau khi lọc ờ dạng hồ, ta cần phải loại trừ nước để có bột, sau đó chuẩn bị phối liệu để
nén bán khô hoặc đóng bao chuyển đi xa. Cũng như phối liệu cho gạch ốp lát, gạch granit sau khi
nghiền mịn thành hồ phải được khử nước trong máy sấy phun đến độ ẩm tạo hình. Phương pháp tạo bột
bằng cách phun trong dòng khí nóng đã được sử dụng từ lâu không những cho ngành gốm sứ mà còn
cho nhiều nhành khác như dược phẩm, chất tẩy giặt (bột giặt), sữa bột...
Có ba phương pháp tạo bụi (atomisation):
1) Phương pháp cơ khí, ở đây hồ được phun qua vòi phun có kết cấu đặc biệt với áp suất lớn,
khoảng 5 4-7 atm. Phương pháp này đang phổ biến hiện nay tại các kiểu tháp sấy phun.
2) Phương pháp khí nén, dùng không khí nén đi song song với dòng hồ và chất lỏng hay hồ đó bị
toé thành bụi dưới áp suất cao đến 20 atm (giống vòi đốt nhiên liệu lỏng).
3) Phân bụi bằng đĩa quay ly tâm.
Việc sấy phun ban đầu sử dụng đĩa ly tâm như trong hình 8.13. Phương pháp đĩa quay ly tâm đã
phổ biến một thời. Đĩa này thường quay với tốc độ 7000 4- 20.000 vòng/phút. Tốc độ ở vòng ngoài đĩa
180 m/s. Nhờ vậy hồ phân thành hạt 0,2 4- 1 mm và rơi theo chiều khí nóng cung cấp từ trên xuống. Các
hạt hồ co lại khi rơi và ưở thành hạt cầu nhỏ, nhờ vậy mà phối liệu có độ chảy tỏa rất nhanh khi nạp vào
khuôn. Điều này rất quan trọng vì tạo mật độ đồng đều của viên mộc theo chiều ngang mặc dù gạch ốp
lát có độ dày không lớn.
4>Trụcjquay Dĩa phun
ổng dẵn hổ >/ Khí nóng vào
mnií ă
Ổng dẫn hỏ vdl'l khl quay
LỖ phun L-^-í-1 I I Ị—Q
Sau này công suất lò nâng cao nên kiểu đĩa ly tâm hầu như không dùng nữa. Mặt khác, phối liệu
chứa nhiều hạt SÌƠ2 làm mòn khá nhanh các lỗ ly tâm nên tuổi thọ của chúng bị hạn chế. Ngày nay, lò
sấy phun hoạt động theo phương pháp mới mà các nhà máy gạch ốp lát của ta đang dùng.
Sơ đồ cấu tạo của lò sấy phun hồ cho trong hình 8.14. Đây là mẫu tháp sấy phun thời kỳ đầu có ờ
nước ta. Hồ được bơm áp lực cao theo ống quanh tháp và từ đó có các ống dẫn và trong tháp. Trên ống
này có đặt các vòi phun biến hồ thành giọt bụi. Khí nóng từ trên đỉnh di xuống cùng bụi hồ và hồ bốc
hơi thành các hạt dạng cầu rơi xuống dưới. Khí thải được đưa ra ngoài qua lăng bụi trước khi thài ra
không khí.
357
Vít tồi hạt phổi liệu dạng cẩu
Thời gian sau khí nóng được phân bố theo kênh vòng và xả khí đồng đều theo tiết diện ngang
như hình 8.15. Hệ phun hồ đã khác nghĩa là tập trung gần đáy để phun thẳng lên cao. Các giọt hồ được
lưu lâu hơn trong dòng khí nóng nên hiệu suất sấy tăng lên.
14—n 12
358
Hồ được đưa từ bể khuấy qua bơm vào buồng sấy hay tháp sấy 4 và qua bộ phận phun hồ thành
giọt bụi 3 nằm ở trung tâm tháp. Do tác dụng của khí nóng cho qua ống 12, các hạt bụi này được sấy
khô nhờ bề mặt bốc hơi lớn cho nên cường độ bốc hơi tương đối cao và các hạt vật liệu này sau khi khô
có dạng hình cầu Vật liệu khô rơi xuống đáy tháp, qua van điều chinh tháo liệu để đưa ra ngoài. Khí
nóng được quạt 10 qua 9 và 11 rồi 12 từ trẽn xuống gặp dòng giọt bụi hồ phun lên sẽ cấp nhiệt cho
chúng. Khói lò được hút bởi quạt hút 13 qua cyclone lắng 6 thổi qua tháp rửa 15 rồi qua ống khói 14.
Tương tự như vậy nhưng chỉ khác ở chỗ hồ được nhiều ống đặt từ thành tháp dẫn vào bên trong
và vòi phun đặt tại đầu cuối ống sẽ phun hồ theo hình chéo như trong hình 8.16.
Gần đây nhất khí nóng được đưa vào tháp theo đường tiếp tuyến như trong hình 8.17. Kích thước
của chúng phụ thuộc vào năng suất yêu cầu và độ ẩm của hồ cho trong hình.
Nhờ phương pháp tiếp tuyến nẽn bụi hồ được xoáy trong tháp và kéo dài thời gian bụi hồ lưu
trong khí nóng. Nhờ vậy hiệu quả bốc hơi nhanh hơn và tận dụng trong nhiệt cho bốc hơi lớn hơn.
Kích thước của tháp sấy loại này cho trong hình 8.17 và 8.18. Hình dạng thực của tháp sấy phun
tiếp tuyến cho trong hình 8.19. Muốn tìm công suất tháp sấy phun ta có thể căn cứ vào hình 8.20 và 8.21
để có tháp sấy với công suất tương ứng.
359
2 3 1
Hình 8.17. Lò sấy phun kiểu khí nóng vào buồng sấy theo tiếp tuyến.
1. Lan can; 2. cầu thang; 3. Cửa quan sát; 4. Quạt; 5 và 6. Hệ bơm và lọc;
7. ồng dẫn khí tiếp tuyển; 8. ồng dẫn từ quạt; 9. ồng dẫn khí thải đến quạt hút.
ATM 140
ATM 12 ATM 180 n B
ATM 36
ATM 52
ATM 65
ATM 90
A A B c D E
•Ể
ATM 12 14130 15130 5100 6650 9690 5400
ATM 36 16800 18300 7340 8400 13400 7440 A A B c D E F
ATM 52 17960 19450 8050 8060 14160 8040 •it UểíXi
ATM 65 18800 20100 8740 9960 15120 8900 ATM 140 22290 23250 11030 12810 20065 10600 4660
ATM 90 19960 21060 9600 10380 16860 9250 ATM 180 24100 25100 12390 14160 22100 11760 5470
360
Hình 8.19. Tháp sấy phun tiếp tuyến.
30%
14.000
32%
13.000
12.000 34%
11.000 36%
10.000 38%
9.000 40%
C
□
-C
42%
Q. Ỗ.000
44%
>%
7.000 46%
ớ)
48%
5 6.000 50%
ơ)
ơ) 5.000
c
KX3
Z 4.000
3.000
2.000
1.000
Hình 8.20. Giản đồ tìm loại tháp sấy phun năng suất thắp.
361
Hình 8.21. Giản đồ tìm loại tháp sấy phun năng suất cao.
Động lực sấy có thể là khói lò từ buồng đốt hoặc không khí nóng. Nhiệt độ khí vào tháp sấy trong
khoảng 150 4- 650°C. Nhiệt độ thấp ứng với không khí nóng từ thiết bị đốt nóng không khí (calorifer).
Càng tăng nhiệt độ thì năng suất và hệ số tác dụng hữu ích của lò càng cao.
Tốc độ động lực sấy 0,2 4- 0,4 m/s, sở dĩ nhỏ như vậy là để giảm bớt lượng bụi bay ra ngoài.
362
Kích thước cùa phòng: dài 8 4- 12 m rộng 2 - m, chứa 3000 3500 viên gạch hoặc vài trăm sứ vệ
sinh. Thông thường người ta ghcp nhiều lò sấy thành một khối, số phòng sấy trong khối tùy theo công
suất cùa lò nung. Động lực sấy đi từ ống chính trên lò và dẫn khí nóng xuống buồng sấy. Ống dẫn khí
nóng này có thể quay được và các cửa xả khí đến sản phẩm sẽ đồng đều hơn. Khí nóng sể nguội và độ
ẩm dần tăng lên do hơi ẩm từ vật liệu bốc ra và phài đốt nóng sản phẩm sấy. Sau đó theo các cửa của
phòng sấy nó được loại trừ ra ngoài. Nhờ một phần khí hồi lưu nên nhiệt độ ở phần trên và phần dưới
đồng đều nhau.
Phương pháp sấy nhanh ờ lò này là cho lượng động lực sấy vào lò ổn định cỏ nhiệt độ và độ ẩm
tương dối cao ngay từ đầu quá trình sấy. Nếu tăng lượng động lực sấy thì quá trình sấy tiến hành đồng
đều do tăng tốc độ khí ở lớp xép đến 2,5 -ỉ- 3,5 m/s.
Ờ đầu quá trình sấy nhiệt độ trong phòng 40 4- 45°c, cuối giai đoạn sấy nhiệt độ đạt đến 55 4- 60°C,
nhiệt độ khí ờ kênh giữ ở 120 4- 180°C. Với chế độ sấy như vậy các cửa van ờ kênh khí được mờ hoàn
toàn, thời hạn sấy kéo dài 40 4- 60 giờ.
Số lò sấy phòng xác định theo năng suất của nhà máy và thời hạn sấy. Nếu ký hiệu năng suất
hàng ngày n (viên (chiếc)/ngày), thời gian sấy z (giờ) thì dung tích của tổng các lò sấy phòng sẽ bằng:
N= [viên] (8.57)
24
Lấy dung tích của một lò sấy phòng là Np viên, số lò sấy phòng xác đinh theo công thức:
Cứ 9 4- 10 phòng thì phải dự trữ 2 4- 3 phòng để sửa chữa, quét dọn, xếp dỡ sản phẩm. Do đó số
lò sấy phòng tồng cộng nhà máy phải có là:
Nếu sấy sản phẩm kích thước lớn thì dung tích lò sấy xác định trên cơ sờ các thông số về thời
gian sấy và đặt sản phẩm trong phòng sấy. Hiện nay công việc sấy gạch đỏ hầu như không dùng loại lò
sấy phòng này nữa.
363
8.4.6. Lò sấy tuy nen
30000- 360QQ
Lò sấy tuy nen là lò sấy phổ biến rộng rãi trong công nghiệp sản xuất gốm xây dựng, vật liệu chịu
lửa, và một số sàn phẩm sứ khác từ nhừng năm trước. Những sản phẩm này cho phép tốc độ sấy trong
các giai đoạn đầu nhỏ và nghiêm khắc, còn ưong giai đoạn cuối có thể lớn được.
Đây là lò sấy làm việc liên tục và hiện đại hơn nhiều so với lò sấy phòng. Động lực sấy thường
là khói lò hay không khí nóng. Việc lựa chọn động lực sấy hoàn toàn tùy theo điều kiện cụ thể của
nhà máy.
Cấu tạo của lò sấy tuy nen như hình 25 gồm đường hầm dài 24 -ỉ- 36 m, rộng 1,1 4- 1,6 m và cao
(từ đường ra đến trần lò) 1,65 4-1,75 m.
Ở nền hầm có đường ray, trên đỏ goòng cùng sản phẩm sấy chuyển động. Đôi khi người ta dùng
goòng treo trên đường ray ở trần lò. Ở hai đầu có cửa đưa động lực sấy vào và thải khí thải ra cửa này
cách cửa lò khoảng 1 -ỉ- 2 goòng. Động lực sấy thường ngược chiều với hướng chuyển động của xe
goòng nhưng cũng cỏ thể làm việc cùng chiều hoặc hỗn hợp, cùng chiều dùng để sấy sản phẩm thạch
cao vì nhiệt độ thạch cao không được quá 60 4- 70°C.
Nếu xếp sản phẩm mộc trên xe goòng thì lớp dưới chịu tải ưọng của lớp trên và sấy khỏ đều. Vì
vậy goòng sấy phải tạo thành ngăn và trên đó xếp sản phẩm (hình 8.23).
Nhiều lò sấy tuy nen gộp lại thành một khối và có hệ thống kênh dẫn khí, đường ray, bộ tời đẩy
chung.
Ngày nay lò sấy tuy nen kiểu cũ này hầu như không dùng trong các nhà máy lớn nữa. Chỉ những
cơ sở sản xuất nhỏ vẫn còn dùng lò sấy này do năng suất thấp. Gạch ngói hay vật liệu chịu lửa đã dùng
chính xe goòng lò nung tuy nen đẩy qua lò sấy có kích thước tương tự như của lò nung. Khỏi lò nung
cộng với không khí nóng được chuyển sang lò sấy. Sản phẩm đã sấy khô được vận chuyển thẳng vào lò
nung tuy nen hoặc chờ bên ngoài. Việc xây lò sấy bên cạnh lò nung tuy nen đã tỏ rõ nhiều ưu việt và từ
nay không còn lò sấy tuy nen kiểu cũ nữa.
Nhà máy sứ vệ sinh Viglacera Thanh Trì cũng dùng lò sấy tuy nen bên cạnh lò nung tuy nen để
sẩy mộc đã tráng men (hình 8.24). Khi ra khỏi lò sấy xe goòng này được đưa vào lò nung tuy nen.
364
Các sản phẩm gạch ốp lát ngày nay thường dùng lò sấy tuy nen thanh lăn được trình bày tại phan
dưới.
Hình 8.24. Xe goòng sứ vệ sinh (mộc sau tráng men) vào và ra khỏi lò sấy (Sứ vệ sinh Thanh Trì).
Hệ lò sấy này cung cấp cho lò nung có sản lượng 40 triệu viên lớn cho một năm hay khoảng 120
triệu viên gạch hai lỗ tiêu chuẩn cùa ta. Tiêu tốn nhiệt cho sấy rất thấp vi tận dụng hầu hết nhiệt từ lò
nung tuy nen có bồ sung lò đốt phụ để cấp nhiệt.
365
được vận chuyển kiểu đứng như hình 8.26. Gạch khô sỗ được đưa ra khói hệ và dẫn đến dây chuyền
tráng men in hình lưới, cuối cùng gạch được đưa đến lò nung thanh lăn.
Sau này hệ sấy gạch ốp lát đã thay đổi bằng hệ lò sấy thanh lăn nhiều tầng như mô tả trong hình
8.29 đến 8.33. Lò sấy này cũng phục vụ cho gạch sét đỏ mà ta gọi là gạch Cotto được tạo hình theo
phương pháp đùn ép dẻo như tại Công ty Viglacera Hạ Long.
HI
366
Hình 8.28. Mặt bằng sấy đứng gạch ốp lát.
ị
U.•i,->JwirjuwuvưưưuuvJUwđiíiãSrjú>A'a.--J-'Áỉiírữíỉ
Quạt hút khí ra
Hình 8.29. Phân bố khí trong lò sấy thanh lăn cho gạch ốp lát.
367
Hình 8.31. Phân bố khí nóng trong lò sấy thanh lăn nhiều tầng.
Hình 8.32. VÒI đốt phụ cho lò sấy thanh lăn gạch ốp lát.
368
8.4.9. Lò giá treo
Lò giá treo được phổ bién rộng rãi trong các nhà máy sản xuất gốm tinh với khối lượng sản xuất
lớn. Nó cũng được sừ dụng trong công nghiệp gốm xây dựng (nếu công suất không lớn lắm) để sấy các
sàn phẩm như tấm lát nền, gạch tráng men, ống dẫn,... về nguyên tấc làm việc, lò sấy này là một xích
khép kín và chuyền động liên tục, trên xích đó có giá đặt sàn phẩm sấy. Xích dài ngắn khác nhau nên có
nhiều sơ đồ chuyển động khác nhau. Vì cấu tạo của lò sấy như vậy cho nên có khả năng cơ khí hóa hoàn
toàn việc vận chuyển sản phẩm từ chỗ tạo hình đến chỗ xếp lên goòng nung.
Sơ đồ sấy giá treo với chiều chuyển động ngang cho trong hình 8.34. Sản phẩm xếp trên các giá
treo (hay khung treo) ờ xích. Xích này được chuyển động từ nơi đặt các bàn tua hình 8.35 và 8.36, nơi
tạo hình bát, đĩa, ấm, chén (hay ép viên các tấm lát) đến đầu lò sấy ờ nhà máy sứ Hải Dương.
Một kiểu khác của lò sấy xích là không có khu lật khuôn và xích chạy về trên nóc lò (hình 8.37).
Lò này dài 47,7 m, rộng 2,7 m, cao 4,7 m. Cuối lò sấy giá treo chạy bên ngoài và có thể ra lò, xích này
lại chạy lên cao rồi chuyển đen đầu lò để vào lò hay đặt sản phẩm ẩm vào giá freo. Chiều cao của lò sấy
sẽ giảm xuống còn 3,2 m, trên nóc đặt quạt gió. Giá treo dài 2,1 m, rộng 0,33 m, có hai tầng. Tổng số
tầng hay ngăn là 372. Trên mỗi ngăn xếp 6 khuôn thạch cao với đĩa hay bát tạo hình bên trong.
ũ_____ u
Khuôn và <J_____
___ n o
Sản phẳm
sản phẩm ___ L) ---------- o
ầm vào lò u_____
___ 0 n ----------
---------- nr
khô ra lò
---------------- te-
h. ú_____
o
Lặt khuôn
n -------
ISị B□ CO— __
X 1 /----------------------------------- .. z...
Cưa thoát khi Cừa thoát khi Xich và giá treo
ra lỏ ra lò
Hình 8.34. Lò giả treo sắy sứ trong khuôn thạch cao kiểu Hải Dương.
Hình 8.35. Đầu vào lò sấy tạỉ nhà mảy sứ Hải Dương.
369
Hình 8.36. Đẩu lò sấy giá treo.
Hình 8.37. Lò sấy kiểu giá trẹo không có khu lật khuôn và giá chạy ngoài ờ vòng cuối.
1. Đo nhiệt độ; 2. Điều chinh hút khl thải.
Tốc độ vận chuyển của xích nhỏ 7,41 mm/s nên công suất động cơ để truyền động cho xích
tương đối nhỏ, cỡ 1,85 kw. Không khí nóng nhờ quạt có công suất động cơ 4,5 kw đưa vào ngược
chiều với chiều cùa xích. Sản phẩm trong khuôn thạch cao khô dẫn đến cuối lò. Để điều chinh thông số
động lực sấy, người ta điều khiển lượng khí hồi lưu và lượng không khí lạnh pha thêm vào ở quạt gió.
Gần đây việc sử dụng phương thức sấy bức xạ và sấy bức xạ - đối lưu được phổ biến rộng rãi.
Với phương thức này thời gian sấy rút ngắn 10 4-12 lần so với đối lưu. Công suất dòng nhiệt khi nhiệt
độ bề mặt bức xạ 600 -ỉ- 800°C gấp 30 4- 70 lần so với đối lưu. Áp dụng vào thực tể, người ta tạo ra các
panen, bên ữong được đốt nóng bằng khí hoặc dầu. Mặt panen có nhiệt độ 600 -ỉ- 800°C sẽ phát ra nhiệt
bức xạ khá mạnh. Người ta bố trí các panen bức xạ đó giữa các băng xích. Hợp lý hơn cả là đặt sản
phẩm trên băng thành một dài, như vậy nhiệt bức xạ đồng đều trên bề mặt sàn phẩm.
370
Đặc tính kỹ thuật của lò sấy như sau:
Năng suất 600 Chiếc/h
Kích thước sản phẩm, đường kính 295 mm
cao 85 mm
Kích thước ngăn tầng, dài 2100
rộng 330
Lượng đĩa trên một ngăn 8
Số ngăn trong một giá treo 2
Khoảng cách giữa các điểm treo giá 500
Tồng chiểu dài của xích 93 m
Chiều dài hữu ích của xích 75 m
Thời gian sấy 3 h
Trọng lượng đĩa khô 0,63 kg
Độ ẩm tương đối của đĩa, trước khi sấy 23 %
sau khi sấy 4 kg
Trọng lượng khuôn thạch cao khô 2,7
Tốc độ di chuyển của xích 7,416 mm/s
Nhiệt độ động lực sấy, vào 70 °C
ra 30 °C
Nhiệt tiêu tốn 10.700 kj/kg hơi ẩm bốc hơi
Dung tích của lò sấy xác định tương tự như lò sấy tuy nen:
371
Neu là băng chuyền thì chiều dài làm việc của nó bằng:
Lb = — [mJ (8.62)
m
m - lượng sản phẩm xếp được trên 1 m chiều dài băng.
Chiều dài lò xích có 3 -ỉ- 5 tầng xích không quá 8 -ỉ-10 m.
Lò sấy băng chi có một tầng hoặc hai tầng xích có bộ phận treo sản phẩm như ống dẫn nước
chăng hạn làm việc độc lập.
Để sấy ống dẫn với năng suất 30.000 tấn/năm dùng lò sấy có kích thước sau: dài 61,4 m, rộng
41,79 m, cao 3,04 m, nếu ống cỏ o = 350 4- 500 mm, điểm treo ống cách nhau 960 mm, nếu o = 600 mm
thì điểm treo ống cách nhau 920 mm trong lò sấy có 31 băng song song.
ĩ í W‘
Độ ẩm tương đối của vật liệu (D = -^“.100%. (8.64)
Gâ
Độ ẩm tương đối luôn < 100%, độ ẩm tuyệt đối cỏ thể > 100%. Liên hệ giữa hai độ ẩm như sau:
100 + (8.65)
(8.66)
100- ũ)
Gọi năng suất giờ của lò sấy theo khối lượng vật liệu sấy khô Pit kg/h, độ ẩm tuyệt đối ban đầu là
(ùá và sau sấy là a>a/z% thì lượng hơi ẩm bốc hơi sẽ bằng hiệu của lượng ẩm đầu Wâđ và cuối wâc.
Nếu biết năng suất giờ của lò sấy theo vật liệu đã sấy ps kg/h và độ ẩm tương đối vật liệu vào lò
sấy ®đ và ra khỏi lò sấy <oc thì:
(8.69)
372
Lượng hơi ẩm trong vật liệu đã sấy khô (độ ẩm dư sau sấy):
kg/h (8.70)
- ứ/a
ứXa______
n = ps kg/h (8.73)
100-«;
Ps = Pâ
ioo-fi>:_pioo-fi>; kg/h (8.74)
100-ứ/ * 100
100
™
-Cứ
đ
_
pk 100
Ps = Pâ kg/h (8.75)
100-«c k 100-«c
Khi làm nguội không khí đến nhiệt độ nào đó thì cỏ hiện tượng ngưng tụ hơi nước hay sương mù.
Tại nhiệt độ đó gọi là điểm sương và độ ẩm cùa không khí tại điểm đó ứng với (p = 100%.
Hàm ẩm d của không khí
Hàm ẩm d là lượng hơi nước tính bằng gram trong hỗn hợp ứng với 1 kg không khí khô:
373
Trong đó: Ghn- khối lượng hơi nước, kg;
Gkk- khối lượng không khí khô, kg;
Phkk- áp suất riêng phần hơi nước trong không khí ẩm, kN/m2;
B - áp suất baromet, kN/m2.
Áp suất baromet biến đổi không nhiều nên ảnh hường sự biến đổi của chúng lên hàm ầm không
nhiều. Néu áp suất baromet biến đồi từ 99,4 lên 102 kN/m2 khi cùng nhiệt độ và độ ẩm tương đối thì chi
giảm hàm ẩm 2%. Vì vậy trong tính toán có thể lấy B = 99,4 kN/m2 (745 mm Hg).
Vì Phkk=^Lp nên:
100 M
(8.80)
Hàm ẩm d xác định theo hai giàn đồ I - d trong hình 8.38 và 8.39.
Mật độ của không khí ẩm sẽ băng tổng khối lượng mật độ không khí khô và hơi nước trong 1 m3
được xác định theo công thức sau:
353-0,0013PWi
Phh= 7 kg/m (8.81)
804KWjơ
d = 1,977rcƠ2 +1,25^ +1,429^ (8-82)
Vh2o > VCO2, VN2, V02 _ lượng thành phần khói lò, Nm3/ Nm3 nhiên liệu khí, Nm3/kg nhiên liệu
rắn và lỏng hoặc % thể tích.
Sự có mặt N2 và O2 là do cỏ không khí dư hay không khí lọt vào đường dẫn khói lò. Riêng khí
SO2 có hàm lượng nhỏ và có thể bỏ qua.
374
Hàm nhiệt của khói lò được xác định theo công thức sau:
a'7+M+y-£.
1 “ 1,977^+1,25^,+1,429^, “s khl hoặc u/kg nhiên liệu (8-83)
1= ỹ — kJ/Nm3 (8.84)
va - thể tích khói lò ẩm khi hệ số không khí dư là a, Nm3/Nm3 hay Nm3/kg nhiên liệu. Hàm
nhiệt cùa khỏi lò khi pha loãng bởi nhiều không khí sẽ chênh lệch rất ít nếu ở cùng nhiệt độ và cùng
hàm ẩm. Chính vỉ vậy mà với sai số không lớn, có thể coi hàm nhiệt của chúng như là của không khí.
375
Hình 8.39. Giản đồ l-d nhiệt độ thấp.
376
Các công thức cho đã không tính đến nhiệt tồn thất của hệ lò sấy. Để xác định lượng nhiên liệu
tiêu tốn để nung nóng không khí cần phải biết nhiệt trị của nhiên liệu Q’t và hệ số tác dụng hữu ích r| của
hệ nung nóng không khí. Tiêu tốn nhiên liệu sẽ băng:
Tiêu tốn không khí để sấy phụ thuộc vào lượng hơi ẩm chuyển từ vật liệu sấy sang không khí. Để
tính toán lượng không khí cần thiết này Vkk m3/h hoặc hỗn hợp sản phẩm cháy (khói lò) với không khí
Vhh thì đầu tiên phải xác định lượng hơi ẩm bốc hơi n. Lượng hơi này sẽ thoát ra khỏi lò sấy cùng với
không khí hay tác nhân sấy.
Lượng không khí khô kg/h cần thiết để sấy được xác định như sau:
Để tiện việc tính toán theo đơn vị thể tích m3/h ta có thể dùng công thức sau với thể tích riêng
Vkkr trong bàng:
= VkkrGkk m3/h (8.90)
Tại địa phương đặt lò sấy cần biết thông số khí tượng trung bình của không khí tkk và Ọkk. Theo
đó ta cỏ điểm A trên giản đồ I - d biểu thị như trong hình và ta sẽ có giá trị dđ và Ikk. Không khí được
nung nóng đến to mà hàm ẩm không thay đồi nên đường nung nóng sể là AB. Tại điểm B hàm nhiệt ứng
với In, dd, tđ, Ọkk (dđ = dkk).
Sấy lý thuyết sẽ theo đường BC nghĩa là không tính đến tổn thất nhiệt của lò sấy cũng như tiêu tốn
nhiệt khác. Điểm c là giao điểm của đường I const và te. Lượng không khí lý thuyết tiêu tốn sẽ bằng:
_ _ 1000/1 , _ Z1,1.
Git = kg/h (kkk)
dc~dđ
Nhưng thực tế I bị giảm đi một đại lượng tổn thất Itt ứng với đoạn CD nên đường BD sẽ cắt
đường te tại E và BE sẽ là đường sấy thực tế. Điểm E sẽ có các thông số te, <pc.
Đe tìm được điểm D cần phải tính tồng tổn thất:
377
qvi = PviCvi (te - tđ) kJ/h (8.92)
Pvi - năng suất vật liệu sấy, kg/h;
Cvi- nhiệt dung riêng vật liệu sấy khi độ ẩm cuối cùng Cùc xác định theo:
100-ứi 4,2ứ>
^.độ (8-93)
Ck - nhiệt dung riêng của vật liệu khô tuyệt đối, kJ/kg.độ;
tđ, te - nhiệt độ đầu và cuối (ra lò) của vật liệu sấy, độ;
qv - tổn thất nhiệt do thiết bị vận chuyển (như xe goòng):
1 . . ..................... , _
K= s—ị- thường bằng 1,0-2,3 w/m2.độ
Ẵ a2
Hãy tính lò sấy tuy nen goòng ừeo để sấy gốm xây Hình 8.40. Minh họa sử dụng
dựng với năng suất hàng năm cùa nhà máy là 5600 tấn/năm giàn đồ i - d.
từ độ ẩm ban đầu wđ = 16%, đến độ ẩm cuối wc = 1,0%. động lực sấy là không khí nóng lấy từ zôn làm
nguội của lò nung tuy nen, nhiệt độ không khí lúc đi vào lò sấy là 80°C.
Giải:
1) Để xác định năng suất giờ của lò sấy ta lấy các thông số sau: số ngày làm việc trong một năm
350, phế phẩm khi sấy và nung là 5%.
5600000.100
= 702 [kg/h]
350.24(100-5)
378
Neu lượng mất đi khi nung là 10% thì năng suất giờ sể bằng:
n.1000
G =---------- == 140 1000 = 7780 [kgkkkhô/h]
d2-dd 27-9
4. Tồn thất hàm nhiệt khi sấy do phải đốt nóng vật
liệu, thiết bị vận chuyển và tồn thất nhiệt ra môi trường
xung quanh.
Xác định sơ bộ kích thước lò sấy với thời gian sấy
36 giờ. Goòng treo trong lò sấy có kích thước: dài 170 mm,
rộng 800 mm, mỗi goòng chứa được 248 kg tính theo sản
phẩm đã nung. Như vậy lượng xe goòng cỏ trong lò sấy:
Pt =^r
n-=ễ: 702.36 =102
1An [8°ò"gI
379
Chiều rộng lò sấy tuy nen:
100-W 4.2W
CV1 = Ck ■ r..c.. + [kj/kg.độ] (8.95)
100 100
Ck - nhiệt dung riêng của vật liệu khô tuyệt đối (bảng 8.8).
Bàng 8.8. Nhiệt dung riêng trung bình của vật liệu trong khoảng nhiệt độo + 100(fC
380
Cvl =0,921^ + ^.0,956 [kj/kgđộ]
V1 100 100
X 102
Mỗi giờ số goòng vào lò sấy —— = 2,84 chiếc. Khi đó:
36
qg= 202,4.2,84.0,47(80 - 10) + 24,6.2,84.1,13 (60 - 10) = 23.200 [kj/h]
Tổn thất nhiệt ra môi trường xungquanh qua tường, trần, cửa lò,...
4=^=58rc]
Nhiệt độ không khí bên ngoài lấy băng 17°c.
Hệ số cấp nhiệt bên trong lò sấy với tốc độ động lực sấy 2m/s xác định theo công thức chương 5.
Hệ số cấp nhiệt từ tường ra không khí xung quanh với At = 15°c ta dùng giản đồ chương 5.
Độ dẫn nhiệt của gạch đỏ X = 0,48 w/mđộ. Cuối cùng xác định K:
Độ dẫn nhiệt của bê tông cốt sắt Xb = 1,55 w/mđộ và của xỉ xs = 0,12 w/mđộ. Theo biểu đồ hình
5.17 tìm được a 2 = 11,3 w/m2 độ.
381
Hệ số cấp nhiệt băng:
Tổn thất nhiệt qua đáy lò lấy 10 w/m2 khi đó tổn thất qua đáy lò:
Tổn thất nhiệt qua cửa lò sấy với chiều dày của cửa 50 mm với độ dẫn nhiệt của gỗ X = 0,16 w/m độ.
Hệ số truyền nhiệt:
K= 1 +O,Ỏ5+ 1
5. Lượng không khí tiêu tốn thực tế xác định trên biểu đồ I - d. Từ điểm c ta đặt một đoạn CD
bằng Itt = 16,3 kj/kg kk khô.
Quá trình sấy thực tế là đường BE (trên đường BD) với nhiệt độ cuối cùng te = 32°c, (p = 80%,
dc = 23 g/kg kk khô (thấp hơn 3° so với sấy lý thuyết).
Tiêu tốn không khí thực tế băng:
Hay
10000 c . A
gw = -777- = 71’5 hơi
140
382
Lượng không khí đi vào lò sấy khi tkk = 17°c và V = 0,85 m3/kg bằng:
Lượng không khí loại ra khỏi lò sấy ở nhiệt độ tc = 32°c xác định theo công thức sau:
(1+ 0,001^)0^
+ (8.96)
Po
Trong đó:
dd - hàm ẩm ban đầu, g/m3, dd = 9;
_ 353-00013.3470 , [kg/m3]
273
(1 + 0,001.9)10000 + 32 ' = 9600 [m3/h]
273,
6. Tiêu tốn nhiệt lên quá trình sấy không kể tổn thất nhiệt ở bộ phận đốt nóng không khí xác định
theo công thức:
Trong đó:
Id - hàm nhiệt không khí vào lò sấy (140 kj/kg kk khô);
Ikk - hàm nhiệt không khí ngoài trời (40 kj/kg kk khô);
4,2 - tỷ nhiệt vật liệu vào lò sấy, trong điều kiện lạnh nhất của ta 10°C.
Q =—
qw = — 634120 X,
—— = 4520 [kj/kg hơi ấm]
n 140
383
7. Thành lập cân bằng nhiệt.
Lượng nhiệt
Các khoản nhiệt chi
Kj/h Kj/kg hori ẩm %
1) Đốt nóng vật liệu 41.000 292 6,5
2) Đốt nóng goòng 23.200 265 3,7
3) Tổn thất ra môi trường xung quanh 62.300 444 9,8
4) Bốc hơi và đốt nóng hơi ẩm của vật liệu (theo công thức 8.33) 352.000 2513 55,5
5) Nhiệt mang theo khí thải ra ngoài 152.660 1085 24,0
6) Các khoản khác không tính toán 2.960 21 0,5
Tổng 643.120 4520 100,0
Nhiệt cung cấp là nhiệt do không khí nóng vào lò sấy. Không khí này lấy từ zôn làm nguội của lò
nung tuy nen. Tại đó không khí được đốt nóng từ 17°c đến 80°C với lượng nhiệt tổng cộng là 634.120
kj/h và tiêu tốn nhiệt riêng 4520 kj/kg hơi.
Neu dùng khí từ buồng đốt nhiên liệu thì lượng nhiên liệu tiêu tốn khi nhiệt trị của nhiên liệu Qt1
(kj/kg hoặc kj/m3) kể cả hệ số tác dụng hữu ích của buồng đốt ĩ|:
B = Ậ[kg/h] (8.98)
Q!
và tiêu tốn nhiệt lên quá trình sấy:
qw [kj/kghơiẩm] (8.99)
384
Chương 9
Gốm sứ và vật liệu chịu lửa là loại vật liệu rất quen thuộc song cũng cực kỳ đa dạng và phong
phú. Mỗi loại có những yêu cầu riêng và phạm vi sử dụng riêng. Đom giản nhất trong họ gốm sứ phải kể
đến gạch ngói, đồ sành, các loại gạch ốp lát, gạch granit, sứ dân dụng, sứ vệ sinh, sứ điện, các loại vật
liệu chịu lửa.... Ngoài ra còn cỏ các loại gốm kỹ thuật dùng trong ngành điện từ, năng lượng, cơ khí, vũ
trụ, nguyên tử... Ngày nay, do yêu cầu của kỹ thuật mới đối với công nghệ hiện đại, vật liệu gốm cũng
ngày càng phát triền về số lượng cũng như chủng loại nhằm thoả mãn những công nghệ mới đó.
Bước vào thời kỳ mới, công nghệ gốm sứ đặc biệt là gốm sứ xây dựng của nước ta đã phát triển
tương đối nhanh chóng. Năm 2007, công suất thiết kế gạch ceramic của nước ta đạt trên 200 triệu
m2/năm và gạch granit 30 triệu m2/năm. Sản xuất thực tế đạt 180 triệu m2/năm cao hơn 35 triệu m2 so
với 2006. Năm 2008 sản xuất đến 300 triệu m2 do một số tập đoàn và liên doanh mờ rộng xây dựng mới
và hiện nay công suất thiết kế cỏ thể trên 450 triệu m2/năm. Trong số tập đoàn lớn phải kể đến Prime
Group Vĩnh Phúc đã sàn xuất 45 triệu m2/năm (2006) và đưa công suất hiện nay của tập đoàn lên
khoảng 90 triệu m2 /năm đồng thời sẽ đứng vị trí Top 10 thế giới. Theo thống kê thì Việt Nam là nước
trong Top 10 về sản lượng gạch ceramic trên thế giới như trong bảng 9.1 và 9.2 (Tạp chí Gốm sứ Xây
dựng số 80. 2013, Hiệp hội Gốm sứ Xây dựng Việt Nam).
Chỉ khoảng 10 năm kề từ 1993 nước ta đã xây dựng được hơn 130 lò nung tuy nen nung gạch
ngói với công suất khoảng 20-35 triệu viên/năm cho mỗi lò. số lò tuy nen nung gạch ngói hiện nay đã
trên 500 và sàn xuất khoảng 10 tỳ viên tức trên 50% trong số gạch sản xuất ra.
Sứ vệ sinh sàn xuất trong năm 2007 đạt khoảng trên 6 triệu sản phẩm và đã đạt được 9,8 triệu sản
phẩm vào năm 2013. Ngoài ra với gốm sứ dân dụng, chúng ta đã sản xuất hàng trăm triệu sứ dân
dụng/năm và hàng ngàn tắn sứ điện/năm tại các vùng Hải Dương, Yên Bái, Bát Tràng - Hà Nội,
Tiền Hải - Thái Bình, Quảng Ninh, Bình Dương, Đồng Nai... Cũng cần phài kề đến gốm đất nung được
phát triển mạnh tại nhiều địa phương mà điển hình nhất là gốm Phủ Lạng mà dân ta đều biết.
Công suất thiết kế Sản xuất thực tế Tiêu thụ nội địa
Sản phẩm (triệu m2) (triệu m2) (triệu m2)
385
Bảng 9.2. xếp hạng sản xuất gạch ốp lát trên thế giới
5 TÂY BAN NHA 495 324 366 392 404 3,6 3,1
17 ẢRẬPXÊUT 40 55 56 78 85 0,8 9
20 MỸ 59 53 60 67 69 0,6 3
22 MOROCCO 51 54 56 60 60 0,5 0
386
Bàng 9.2. xêp hạng sản xuẳt gạch ồp lát trên thế giới (tiếp)
Sau gốm xây dựng phải kể đến Vật liệu chịu lửa. Nước ta hiện nay có ba công ty chuyên sản xuất
vật liệu chịu lừa, đó là Công ty Vật liệu chịu lửa cầu Đuống, Công ty cồ phần Tập đoàn Vật liệu chịu
lửa Thái Nguyên và Công ty Vật liệu chịu lửa Trúc Thôn.
Năm 2000, chúng ta đã đưa vào sản xuất nhà máy Vật liệu chịu lửa kiềm tính Việt Nam với công
suất 16.500 tấn/năm. Đây là nhà máy thuộc loại hiện đại nhất với hệ thống tự động hoàn chỉnh và lò
nung tuy nen tự động đến 1800°C. Sản phẩm sản xuất ra có thể cung cấp cho công nghiệp xi măng và
luyện kim. Năm 2003, nhà máy này đẫ thuộc sờ hữu của Công ty Xi măng Vicem Hoàng Thạch để tiện
quản lý và tiêu thụ sản phẩm. Năm 2001, Công ty Vật liệu chịu lửa cầu Đuống đã thay đổi thiết bị hiện
đại trên dây chuyền sàn xuất và đưa vào hoạt động lò con thoi 1600°C. Nhờ vậy gạch chịu lửa cao
Alumin sàn xuất ra có chất lượng tương đương với các hãng nước ngoài. Công ty Cổ phần Tập đoàn Vật
liệu chịu lửa Thái Nguyên đã tự xây dựng 2 lò tuy nen nung gạch chịu lửa samôt và cao alumin, 1 lò tuy
nen nung gạch chịu lừa samôt nhẹ cách nhiệt và xây lò tuy nen 50m để tăng sản lượng. Mới đây, công ty
này đã có lò tuy nen lớn trên 1700°C với sản lượng khá cao và hoạt động tốt nên đã tăng được sản lượng
lên nhiều. Sản phẩm từ công ty này rất đa dạng bao gồm samôt, cao alumin, gạch chứa ZrƠ2, Manhêdi -
Cacbon, gạch kiềm tính, tấm cách nhiệt cho thùng nước thép... Hiện nay, tổng sản lượng của công ty đạt
đến trên 30 ngàn tấn/năm. Tồng công ty Vật liệu xây dựng số 1 (TP. HCM) đã xây dựng nhà máy sản
xuất Vật liệu chịu lửa 12.000 tấn/năm tại Biên Hoà vào năm 2005 và nay thuộc sờ hữu của Công ty cồ
phần Tập đoàn Vật liệu chịu lửa Thái Nguyên. Công ty đang mờ rộng sản xuất trong khu vực Hà Nam
nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của khu vực này.
Với sự phát triển mạnh mẽ của ngành Gốm sứ và Vật liệu chịu lửa đương nhiên là cần đến lò
nung. Cho đến nay, các lò nung của các công ty đều thuộc loại hiện đại và tiên tiến. Tuy nhiên, ờ một số
địa phương vẫn còn sử dụng lò cổ truyền. Do đó trong chương này, ngoài lò hiện đại cũng đề cập đến lò
cồ truyền đề chúng ta có một khái niệm tồng quát hơn về lò nung gốm ở trong nước.
387
CO, co21 so2> H2O
Hắc ín, Hydrocacbon...
Không khí
Lò gốm có thành lò, đáy lò và các buồng đốt. Đáy lò có các rãnh lửa với chiều rộng ứng với
chiều dài viên gạch. Trên rãnh lửa gạch mộc khô được xếp nghiêng kèm than bánh. Lên cao hơn gạch
mộc vẫn xếp nghiêng cho đầy lò nhưng lượng than bánh kèm theo với tỷ lệ mộc/than từ 3 - 4/1
hoặc 5 - 9/2 tùy theo vị trí. Lớp ưên cùng dùng gạch phế xếp kín mặt ngang của lò rồi dùng bùn trát
kín. Mỗi buồng đốt ứng với 1 - 3 rãnh lửa.
Khi nhổm lò phài dùng củi, rơm rạ hoặc than để nhiệt độ trong lò nâng lên từ từ và thoát hơi ẩm
ra ngoài dưới dạng khói trắng. Khi hơi nước thoát đã hết thì thốc lừa để than bánh bén lửa cho đều khắp
đáy lò. Từ lúc này đậy bớt cửa buồng đốt và để lửa cháy tự nhiên từ đáy lò cho đến khi kết thúc. Thời
gian nhóm lò cho đến khi kết thúc kéo dài khoảng 7 ngày. Thời gian vào và ra lò khoảng 7 ngày đối với
lò có dung tích 10 vạn viên. Với những lò có dung tích nhỏ hơn thì tổng thời gian sấy nung và ra vào lò
có thể ngắn hơn.
Nhược điểm cơ bản của lò này là: cực nhọc khi xếp và dõ sản phẩm khỏi lò, chất lượng sản phẩm
không cao, tiêu tốn nhiều nhiên liệu, khói lò rất độc gây ô nhiễm môi trường nặng nề. Để giảm ô nhiễm,
người ta phải làm ống khói cao để dẫn khói lò và xả ra trên cao như nhiều nơi đã làm. Mặc dù vậy, hiện
nay nhiều địa phương phải hạn chế hoặc xoá bỏ những lò này và thay bằng lò đứng liên tục.
388
Hình 9.2. Lò thủ công nung gạch tại Vĩnh Long.
Khói lò này ngoài CO2, co, hydrocacbon còn chứa nhiều HF nên ô nhiễm bởi HF gấp 4 đến 8
lần mức cho phép. Ngoài ra tiêu tốn nhiệt khá cao và khoảng 500 gr trấu cho 1 viên gạch thẻ. Hiện nay
họ đang chuyển đổi sang lò vòng liên tục Hofmann. Đây cũng là điều đáng tiếc vì ờ nước ta đã phá đi
hầu hết lò vòng và đang thay thế bằng lò tuy nen cho công suất lớn với tiêu hao nhiên liệu thấp.
389
Lò đứng liên tục
Lò đứng liên tục mới được phát triển gần đây. Gạch co, co2, so2, H2O
Hắc ỉn, Hydrocacbon
mộc được xếp phía trên cùng với than. Không khí được đưa
vào lò đốt phía dưới và qua lớp vật liệu nung, không khí này
được nóng lên và đi vào zôn nung để đốt nhiên liệu. Khói lò
sẽ đi qua lớp vật liệu phía trên và nung nóng chúng. Cuối
cùng khói lò được hai ống khỏi đặt tại hai bên thài ra ngoài
như trong hình 9.4. Cũng như lò đứng thủ công khói lò được
thải ra ờ độ cao nhất định nên độ ô nhiễm giảm đi. Tuy
nhiên, cả hai kiểu lò đều có lượng khí độc hại cao do chất
bốc không được cháy bay ra và một lượng khí co thải ra
cùng CƠ2 trong khói lò. Tuy nhiên, lò đứng liên tục có ưu
điểm hơn so với lò thủ công do lượng nhiên liệu tiêu tốn
giảm đi nhưng sản lượng và chất lượng gạch tương đối thấp.
9.1.2. Lò chuyền
Đây là loại lò dùng để nung các loại sản phẩm sành
dạng đá như chum vại tiểu hũ cũng như một số sản phẩm
gốm mỹ nghệ khác. Điển hình là các lò đang hoạt động tại
vùng gốm Phú Lạng. Hình 9.4. Lò đứng liên tục nung gạch.
Cấu tạo lò này như trong hình 9.5 gồm một vài buồng
nung nối liền nhau và khí có thể đi từ buồng đầu tới buồng cuối giống như lò bầu nung sứ. Đầu lò có
buồng đốt chính và cuối lò có ống khói cao khoảng 8 - 10 m. Mỗi buồng nung có cửa để ra vào lò và
các lỗ tiếp lửa trên nóc lò. Sau khi xếp đầy sản phẩm mộc khô trong lò, cửa ra vào lò sỗ được xây kín
lại. Lúc này buồng đốt chính sẽ được nhóm bằng củi gỗ và than. Việc nâng nhiệt độ trong lò phải rất
chậm chạp ưong giai đoạn đầu để hơi nước thoát ra khỏi sản phẩm từ từ và do đó tránh được phế phẩm.
Khi nhiệt độ lớp sản phẩm đầu lò đạt khoảng 500 - 600°C thì có thể nâng nhanh nhiệt độ. Nếu đầu lò
đạt khoảng 1000°C thì có thể tiếp lửa băng cách lao thêm củi gỗ vào trong lò qua các lỗ gần chân vòm
lò. Quá trình đốt cứ tiếp diễn từ hàng lồ này sang hàng lỗ khác cho đến hết buồng lò. Khói lò sẽ được
chuyển từ buồng này sang buồng khác và cung cấp nhiệt cho các sản phẩm xếp phía sau. Nhờ vậy việc
tận dụng nhiệt của khói lò tương đối tốt. Từ buồng thứ hai củi gỗ sẽ được lao ngang qua cửa buồng đốt
ờ đầu lò sau đó sẽ tiếp lửa qua lỗ ờ vòm lò. Quá trình nung được tiến hành cho đến cuối lò.
390
Kích thước mỗi buồng hay khoang lò như sau: dài L = 6 - 10 m, rộng B = 3 - 5 m, cao H = 1,5 - 2 m.
Độ nghiêng của lò khoảng 5 - 10 độ.
Hiện nay kiểu lò này vẫn còn hoạt động ở một vài nơi để nung sản phẩm gốm, sành sứ. Chúng có
nhiều nhược điểm như tiêu tốn nhiều nhiên liệu, phải dùng nhiều củi gỗ, ra vào lò nặng nhọc, điều khiển
lò phức tạp, đòi hòi trình độ lành nghề của công nhân, năng suất lò thấp... Vì vậy số lò này đang bị thu
hẹp dần và nhường chỗ cho các lò hiện đại hơn. Tuy nhiên, lò này thích hợp với những vùng sâu vùng
xa có nhiều rừng, giao thông bị hạn che.
Hình 9.7. Lò bầu Việt Nam và Nhật theo tài liệu Pháp.
Kiểu lò này thích hợp cho những vùng trung du đồi núi vì lò có thể xây dựa trên sườn đồi và sử
dụng nhiên liệu, nguyên liệu địa phương với sản lượng nhò. Hiện nay kiểu lò này còn có mặt tại một vài
địa phương để nung sứ và gốm. Các vùng gốm nổi tiếng như Bát Tràng, Móng Cái, Lái Thiêu,
Biên Hòa... đã và đang xoá bò kiều lò này và thay thế bằng các lò hiện đại hơn. Hiện nay tại Lái Thiêu,
391
Bình Dương vẫn còn một số lò này đang hoạt động do nguồn củi gỗ tương đối nhiều vì một số trang trại
cây công nghiệp đã già cỗi cần phải chặt để trồng lứa mới.
Miền Bắc không có nguồn củi gỗ nên các lò bầu ngừng hoạt động và dân Bát Tràng đã dùng lò
hộp để nung sứ như trong hình 9.8. Sản phẩm được đặt trong bao nung chịu lửa và xếp thành chồng
bên cạnh gài than bánh. Phương pháp đốt như trong lò đứng nung gạch thủ công nhưng cần khống
chế tốc độ nâng nhiệt. Vùng Bát Tràng có khoảng 800 lò hộp, ô nhiễm môi trường rất cao vì vậy đang
thay thế đần bằng lò con thoi lót bông gốm đốt bằng ga lỏng LPG. Tuy nhiên, hiện nay các hộ gia
đình vẫn còn khoảng gần 300 lò hộp hoạt động mặc dù lò đốt bằng ga lỏng đem lại nhiều lợi ích về
kinh tế và môi trường. Nhà nước đang có chủ trương giúp đỡ các hộ nghèo chuyển đổi từ lò hộp sang
lò nung gốm tiết kiệm năng lượng nhằm giảm tiêu tốn nhiên liệu, không gây ô nhiễm môi trường và
tăng chất lượng sản phẩm.
392
Lò phòng sau này là loại lò làm việc gián đoạn và
tưorng đối phồ biến trong công nghiệp gốm sứ vật liệu chịu
lửa (VLCL). Nó gồm có một phòng hay buồng lò có cửa
để ra vào sản phẩm, hệ thống đốt nhiên liệu với hệ thống
Dây kéo
thông gió. Ngọn lửa đi trong lò từ dưới đi lên sau đó vòng điều chỉnh nắp
xuống dưới rồi đi qua các lỗ ở nền lò. Cuối cùng khói lò
tập trung vảo kênh chính phía dưới rồi dẫn qua ống khói.
Do đường đi của khói như vặy nên đôi khi người ta gọi lò
này là lò lửa đảo (hình 9.10).
Qua cừa ở tường lò người ta có thề xếp mộc vào lò,
sau đó xây bịt kín cửa lò lại và bắt đầu đốt nhiên liệu
theo chế độ dự định. Khi quá trình nung và làm nguội kết
thúc, cửa lò được đập và dỡ sàn phẩm khỏi lò. Sau khi
làm vệ sinh hay sửa chữa, mộc lại được xếp vào lò và quá
trình nung lại tiếp tục. Như vậy trong lò phòng, quá trình
ra vào sàn phẩm, sấy, nung và làm nguội đều tiến hành
trong một thề tích. Quá trình đó cứ được lặp đi lặp lại
nhiều lần, vì vậy lò này được gọi là lò gián đoạn hay lò Hình 9.9. Lò gián đoạn hai tầng của
chu kỳ hoặc lò mẻ. Sèvres (Pháp).
Do làm việc gián đoạn nên tiêu tốn nhiên liệu rất cao
do khói lò mang nhiệt ra ngoài đến 60 - 70%, tích nhiệt bời vỏ lò và sàn phẩm 20 - 30%. Vì vậy lò này
chi sử dụng đối với những sản phẩm có sản lượng thấp hoặc với sàn phẩm đặc biệt về kích thước, hình
dáng với ché độ nung phức tạp.
Cấu tạo của lò phòng gián đoạn cho trong hình 9.10. Ngọn lừa từ buồng cháy nhiên liệu đi lên
sau đó đảo chiều quay xuống dưới đi qua lớp liệu xếp trong buồng lò. Vì thế nên đôi khi người ta gọi là
lò lửa đảo. Cuối cùng ngọn lửa đi qua các lỗ ờ nền lò rồi tập trung vào kênh khói đặt ngầm dưới lò.
393
Thể tích lò phòng dao động trong khoảng lớn từ 0,01 đến 400 - 500 m3. Sứ kỹ thuật phổ biến
nhất là dùng lò có dung tích 50- 100 m3, sứ dân dụng và gốm sành từ 50 đến 200 m3. Lò có dung tích
đến 400 - 500 m3 chỉ dùng cho vật liệu chịu lửa. Các lò nhỏ 4 - 20 m3 dùng để nung các sản phẩm gốm
tinh vi đặc biệt. Trước kia nhả máy sứ Hải Dương có 8 lò tròn dung tích khoảng 100 m3 để nung sứ, các
lỏ này đã hủy bỏ gần hai chục năm nay do có nhiều bất lợi. Công ty cổ phần Tập đoàn Vật liệu chịu lửa
Thái Nguyên cũng từng có 4 lò nung gián đoạn 98 m3 nay không còn nữa.
Tăng thể tích lò sẽ giảm tiêu tốn nhiệt riêng của một đơn vị sản phẩm, nhưng kết cấu của lò phức
tạp thêm. Thể tích của lò không phải do năng suất quyết định mà còn do yêu cầu đồng đều nhiệt độ
trong lò quyết định. Lò càng lớn thì bề mặt riêng của tường lò ứng với một đơn vị sản phẩm sẽ tương
đối nhỏ hơn so với lò nhỏ do giảm nhiệt bởi vỏ lò. Tuy nhiên, nếu tăng thể tích của lò thi nhiệt độ phân
bố trong lò không đều. Điều đó lại tăng nhiệt tiêu tốn do phải tăng thời gian nung. Vì vậy dung tích lò
cần phải cân nhắc trên cơ sờ yêu cầu kỹ thuật của loại vật liệu nung.
Hình dạng của lò có thể tròn hoặc chữ nhật, song người ta hay dùng lò chữ nhật do đơn giản quá
trình xây và sử dụng gạch chịu lửa kích thước chuẩn. Chiều cao của buồng lò phụ thuộc vào tính chất
của vật liệu nung cũng như yêu cầu về độ đồng đều nhiệt độ frong lò. Vì vậy, chiều cao H của buồng lò
dao động trong khoảng rất lớn từ 1 m đến 5 m. Tỷ lệ dài/rộng của lò chữ nhật L/B trong khoảng 1 - 2,4
và chiều rộng tối đa là 4 - 5 m.
Chiều dày tường và vòm lò dao động trong khoảng 0,5 - 1 m tùy theo nhiệt độ nung và vật liệu
xây lò. Nói chung nếu dùng vật liệu cách nhiệt tốt thì chiều dày giảm đi. Tại tường lò có cửa để ra vào
sản phẩm, cửa này thường rộng 0,8 m và cao 1,8 m tùy theo dung tích của lò. Sau khi đã xép mộc đầy lò
thì dùng gạch chịu lửa xây bịt kín lại và trát bên ngoài bằng đất sét chịu lửa. Sau khi kết thúc nung và
làm nguội, cửa này sẽ được đập bỏ để có thể đưa sản phẩm ra lò cũng như xếp mộc mới vào lò và chu
kỳ nung lại được tiếp tục. Trên tường và cửa lò đều bố trí các lỗ quan sát và đật can đo nhiệt độ.
Nền lò cỏ nhiều lỗ thoát khí phân bố tương đối đồng đều song có chú ý đến các góc để khí đi
trong lò đều hơn. Tổng diện tích các lồ trên diện tích chung của nền lò gọi là “tiết diện sống” khoảng
3 - 4%. Dưới nền lò là hệ thống kênh dẫn khỏi lò đến tận quạt hút hay ống khói.
Buồng đốt nhiên liệu thường được bố trí đối xứng dọc theo chiều dài của lò. Có thể sử dụng các
loại nhiên liệu rắn lỏng hay khí. Để lừa hướng đi lên phải có tường chắn trước ngọn lừa cao khoáng
0,6 - 0,8 m. Việc sừ dụng nhiên liệu rắn hiện nay đang giảm dần do có nhiều bất lợi về công nghệ cũng
như về vấn đề môi trường. Xi than làm bẩn vật liệu nung, phá hoại tường lò, gây nhiều bụi trong khói lò
và nhất là bụi đọng lại trên sản phẩm gây độc hại cho công nhân dỡ sản phẩm lúc ra lò.
9.2.3. Xếp lò
Sản phẩm được xếp trong lò cần đảm bảo vững chắc với mật độ cao nhất cho phép nhưng vẫn
phài bảo đảm khí đi qua toàn tiết diện ngang và không được bịt kín lỗ nền thông gió. Nếu xếp quá dày,
khí sẽ khó đi qua và sẽ tăng chênh lệch nhiệt độ theo chiều cao. Trong trường hợp này, muốn nhiệt độ
đồng đều thì phải tăng thời gian nung và như thế lại tăng tiêu tốn nhiên liệu. Vì vậy ưong công nghiệp
lò người ta dùng chỉ số mật độ xếp tính bằng tấn, kg hay m2/m3 lò để khống chế lượng sàn phẩm xếp
trong lò.
Sản phẩm sứ tráng men thường được xếp trong bao nung chịu lửa samôt. Bao này sẽ bảo vệ sản
phẩm không bị tác dụng trực tiếp của ngọn lửa cũng như bụi xỉ. Mặt khác có thể xếp bao nung cao lên
được. Trong trường hợp dùng khí thiên nhiên hay ga lỏng, dầu hoà, dầu diesel để nung sứ dân dụng hay
sứ xây dựng thì không cần bao nung mà dùng các tấm kê và trụ đỡ. Với phương pháp này, thể tích hữu
ích để nung sản phẩm sẽ tăng lên rất nhiều mà lại giảm tiêu tốn nhiệt riêng cũng như thời gian nung.
394
9.2.4. ưu nhược điểm
Lò phòng có những ưu nhược điểm như sau:
+ Tiêu tốn nhiệt riêng rất cao do khói lò mang ra ngoài.
+ Tích luỹ nhiệt do vỏ lò rất lớn do tường lò rất dày.
+ Điều kiện lao động rắt nặng nhọc khi ra vào sản phẩm thủ công ở nhiệt độ cao.
+ Không thể cơ khí hóa việc xếp dỡ sản phẩm.
+ Cấu trúc lò cồng kềnh, chóng hư hỏng do nung nóng lại làm nguội.
+ Có thể nung các sản phẩm với chế độ nhiệt độ, môi trường, thời gian lưu khác nhau. Vì vậy
trong nhà máy có thể sàn xuất các sản phẩm khác nhau với lò này.
Do những đặc điểm đỏ mà lò phòng giảm hẳn vai trò của nó trong công nghiệp và hiện nay nó
được thay thế bằng kiểu lò khác là lò con thoi.
Bưó'c1 Ị T^lzil I Ị
11_X___
x
Bước 2 □ZZZ-ZZZ iẺjp~p
1 ray
ỊHmMpMẸỂaaạ
d
Bước 3E:Z~:.7qx|x|xI®
—BI
Sản phẩm mộc
395
Lò con thoi là loại lò làm việc gián đoạn. Buồng lò gồm tường, trần lò, hệ thống vòi đốt nhiên
liệu cố định. Mỗi buồng lò có một, hai thậm chí ba đường ray để xe goòng ra và vào lò như minh hoạ
trong hình 9.11 và 9.12.
Khi vào lò cửa lò được mở ra và xe lò với sản phẩm mộc được đẩy vào buồng rồi đóng cửa lò
lại. Từ lúc này chế độ nung bắt đầu băng việc cho các vòi đốt hoạt động. Nhiệt độ trong lò nâng dần cho
đến khi nhiệt độ trong lò đạt yêu cầu.
Khi làm nguội cửa ống khói đóng bớt lại, các vòi đốt được tắt và sản phẩm được làm nguội tự
nhiên trong lò. Khi nhiệt độ trong lò đạt khoảng 100 - 200°C thì mờ cửa lò để kéo xe sản phẩm đã nung
chín ra ngoài và đẩy xe mới đã xếp sản phẩm mộc vào buồng lò. Nhờ vỏ lò còn nóng nên sản mộc cũng
được say nóng một phần và chế độ nung lại tiếp tục. Tại những lò có hai cửa ờ hai đầu lò, các xe lò ra
vào như những con thoi và vì vậy nó được gọi là lò con thoi. Nếu hoạt động như lò hai cửa thì không
cần đến xe phà. Ngược lại nếu chi có một cửa thì bắt buộc phài có xe phà để thay xe vào lò như minh
họa trên hình 9.12.
396
Hình 9.13. Lò con thoi ngọn lứa đl lên.
Việc bố trí cửa hút cũng như điều chỉnh cửa hút tùy theo từng loại lò và vật liệu nung. Nhờ vậy
mà ngọn lửa trong lò sẽ thay đổi chiều và sản phẩm được nung chín đều hơn. Với loại cửa thoát khí trên
trần lò như trong hình 9.13, người ta cũng bố trí tương tự nhằm đảo chiều ngọn lửa. Loại này có ưu
điểm lớn như sau:
- Diện tích chiếm chỗ nhỏ hơn do ống hút khói đặt trên nóc lò.
- Không cần phải xây ống dẫn khói lò ngầm dưới mặt đất.
- Lò có thề làm việc không cần quạt hút khói lò.
Loại lò này dùng để nung các sản phẩm có mật độ xép nhò như sứ vệ sinh, sứ dân dụng và các
loại gốm khác.
Hình 9.14. Bố trí cửa hút khói lò và điều chỉnh lửa trong lò.
397
9.3.2.2. Ngọn lửa đi xuống (lửa xuống)
Tại lò này ngọn lửa từ vòi đốt đặt ờ thành lò thổi vào khe giữa khối vật liệu xếp trên xe như hình
9.15 và 9.16. Ngọn lửa sẽ đi qua lớp xếp rồi chui xuống kênh dẫn khói lò đặt ngầm dưới đất qua cửa
thoát khí ở ngay giữa xe lò. Khi ngọn lửa phun mạnh vào lò với tốc độ lớn, ngọn lửa sẽ đập mạnh vào
tường lò đối diện và tỏa ra hai bên. Nhờ vậy mà phân bố nhiệt độ trong lò đồng đều hơn. Khói lò sẽ
được thoát ra cửa nằm giữa xe và đi xuống kênh thoát chính để ra ống khói. Mặc dù có khe hờ hẹp giữa
kênh của xe goòng với kênh ngầm dẫn đến ống khói nhưng không ảnh hưởng đến hoạt động của lò vì
qua khe đỏ không khí lạnh sẽ hút vào và làm giảm bớt nhiệt độ khói lò.
CỪADẢNKHỔiLÒ
XUỐNG KÊNH NGẤM
H/nh 9.16. Mặt cắt ngang của lò con thoi ngọn lửa đl xuống.
Kiểu lò này thích hợp với các sản phẩm chịu lửa có nhiệt độ nung cao, các loại gốm kỹ thuật và
các loại sản phẩm khác. Lò này đã được xây dựng tại Công ty Vật liệu chịu lửa cầu Đuống với nhiệt độ
nung đạt 1600°C. Nhờ lò này mà công ty đã sản xuất được vật liệu cao alumin với hàm lượng ôxit nhôm
khá cao với chất lượng tốt. Công ty Sứ điện Yên Bái cũng dùng lò kiểu này để nung sứ điện ờ nhiệt độ
1300-1350°C.
398
9.3.2.3. Ngọn lửa đảo (lửa đảo)
Khác với hai loại trên, ờ lò này, ngọn lửa đi lên từ hàng vòi đốt đặt hai bên thành lò. Sau đó ngọn
lừa đảo chiều và đi từ trên xuống dưới qua lớp sản phẩm xếp trên xe lò. Cuối cùng lửa sẽ chui qua các
lỗ ờ mặt goòng rồi tập trung vào kênh chính đặt ngay tại xe goòng. Kênh chính này sẽ dẫn khói lò đi
qua suốt 1, 2 hay 3 xe tới ống khói sau lò như trong hình 9.17, 9.18 và 9.19.
Loại lỏ này thường sử dụng ga lỏng hay khí thiên nhiên với vòi đốt và sức hút tự nhiên của ống
khói. Vì vậy hầu như lò không cần đến quạt gió tức là không cần đến điện. Do đó kiểu lò này hiện nay
đang được sử dụng rộng rãi trong các làng nghề gốm như Bát Tràng, Đồng Nai, Lái Thiêu... cũng như
tại các cơ sờ sản xuất nhỏ. Nhà nước cũng có chủ trương phát triển lò này tại các làng nghề, ví dụ Hội
Gốm Sứ Bát Tràng Hà Nội đang cỏ kế hoạch phát triển lò này nhằm thay thế các lò kiểu cũ (khoảng 800 lò)
trong các hộ gia đình và giảm thiểu ô nhiễm do đốt than của các lò hộp kiểu cũ gây nên.
399
Hình 9.19. Lò con thoi lừa đảo đang hoạt động.
400
cửa so. -một hoặc hai cánh cửa kéo lên xuống ở hai đầu. Loại kéo lên xuống được thực hiện bằng tời
quay tay hoặc bằng hệ thống điện hay máy thủy lực trên khung trượt.
Cửa lò đều chế tạo từ vỏ inox kết hợp thép, bên trong lót vật liệu chịu lửa cách nhiệt hoặc bông
gốm. Cấu tạo của chúng sao cho lớp vật liệu của cửa phải tạo với tường và vòm lò thành đường zích zăc
để đàm bào kín khí. Khi cửa lò đã đóng, các vít me với tay quay sỗ ép chặt cừa lò vào tường lò. Lớp
bông gốm của cửa sẽ áp chặt với lớp bông gốm đầu tường lò và nhờ vậy mà lò đảm bảo kín khí.
9.3.3.3. Xe lò (xe goòng hay wagon)
Hình 9.20. Xe goòng sản phẩm với kênh dằn lừa không dùng van cát.
Cấu tạo xe lò tương tự như xe lò tuy nen. Nó gồm cỏ bộ phận khung thép, 4 bánh xe, phía trên lót
vật liệu chịu lửa cách nhiệt và lớp gạch chịu lửa đặc nếu cần. Đôi khi có thề dùng hoàn toàn bông gốm
đề xe lò nhẹ nhàng. Tuy nhiên trong trường hợp này các trụ chống phải đặt từ chân gạch chịu lửa đặc đề
chịu lực. Phía trên trụ chống là các tấm kê để xép sàn phẩm nung. Trên mặt bông của xe lò không xếp
sản phẩm vì chúng không chịu lực. Phần tiếp xúc giữa xe với xe, xe với tường lò cũng làm zichzăc để
khí không thể lọt qua được. Nhằm tránh không khí lọt vào lò qua khe hở giữa xe lò và tường lò, đôi khi
người ta lắp them một máng cát phía dưới tại tường lò. Mặt khác, dưới gầm xe có bố trí một tấm tôn
hàn vào khung thép, khi di chuyển xe lò tấm tôn này sẽ sục vào máng cát. Nhờ vậy mà không khí khó
có thề đi qua máng cát để vào lò. Hệ này thường được gọi là van cát. Nếu dùng bông gốm chịu lửa thì
cỏ thê bò qua van cát vì bông gốm tiếp xúc với gạch hay với bông gốm cũng đảm bảo kín khí như
trong hình 9.20.
Trong lớp vật liệu xây trên mặt xe lò có thể có các kênh dẫn khí hoặc không tùy theo kiểu lửa đi
trong lò.
9.3.3.4. Hệ thống vòi đốt
Lò con thoi chỉ hoạt động bằng nhiên liệu khí như khí thiên nhiên, ga lỏng LPG, hoặc băng nhiên
liệu lòng như dầu mazut hay FO, dầu hoả, dầu diesel hay DO. Sừ dụng nhiên liệu khí có nhiều ưu vỉệt
hơn do sạch, dễ điều khiển và có thể đốt từ vài phần trăm đén 100% công suất của vòi đốt. Vì vậy, đối
với lò con thoi làm việc gián đoạn, giai đoạn sấy phải nâng nhiệt độ chậm và nhiên liệu khí rất thích hợp
401
cho lò này. Gần đây cũng có lò sử dụng khí than cho lò con thoi do giá LPG tăng cao. Tuy nhiên, bên
cạnh độ ô nhiễm cao đối với môi trường của lò khí hóa than, việc sừ dụng khí than cho lò con thoi có bị
hạn chế về chất lượng sản phẩm vì trong thành phần khí than có chứa H2S nên ảnh hưởng tới màu sắc
cũng như độ trắng của sứ.
Việc sử dụng nhiên liệu lỏng như dầu hoả, DO cần có vòi đốt riêng với áp lực cần thiết. Đốt dầu
FO có phức tạp hom do cần phài hâm nóng, lọc và bơm dầu. Để đạt nhiệt độ bắt cháy FO, phải bố trí
ngọn lửa ga lỏng nhỏ cố định như là mồi lửa để nhiên liệu phun vào có thể bắt cháy được. Đối với dầu
DO hay dầu hoả có thể bố trí bu gi đánh lửa khi phun nhiên liệu. Do nhiệt trị của nhiên liệu lỏng rất cao
nên không thể phun dầu liên tục vào lò trong giai đoạn sấy, mặt khác vòi đốt nhiên liệu lỏng không thể
hoạt động dưới 10 - 15% công suất tối đa. Trong trường hợp đó, người ta dùng phương pháp đốt xung.
Với phương pháp này, vòi đốt chi phun dầu vào lò khoảng 3 giây với gần 100% công suất yêu cầu, sau
đó ngừng 45 giây với tổng chu kỳ ví dụ là 48 giây. Sau một thời gian nhất định, thời gian phun dầu tăng
lên ví dụ 6 giây và ngừng 42 giây. Trong thời gian ngừng, khí trong lò có thể đối lưu và truyền nhiệt cho
vật liệu. Cứ tiến hành như vậy mà tăng thời gian phun dầu vào lò và giảm thời gian ngừng cho đến khi
có thể phun dầu liên tục vào lò. Chế độ phun xung được xác định tùy theo loại vật liệu nung và kích
thước của lò. Việc điều khiển tần suất phun nhiên liệu được xử lý tại hệ tự động điều khiển trung tâm.
Sử dụng nhiên liệu lỏng này hay khác cần căn cứ vào loại sản phẩm nung. Dầu FO có chứa nhiều lưu
huỳnh nên không thuận tiện cho sàn phẩm sử trăng mịn, tráng men trắng đặc biệt có men màu.
Sử dụng khí thiên nhiên hay ga lỏng LPG có nhiều ưu thế hơn do nhiệt trị của chúng cao, sạch, ít
tạp chất, hầu như không chứa lưu huỳnh, áp suất khí lại tương đối cao, dễ bắt lửa, dễ trộn lẫn với không
khí và cỏ thể đốt với lưu lượng từ rất nhỏ đến lớn. Việc điều chinh nhiệt độ hay tốc độ nâng nhiệt độ
trong lò tương đối đơn giản băng điều chinh áp lực của khí. Rất nhiều lò đã cỏ lập trình về tốc độ nâng
áp suất khí hay nhiệt độ lò. Đây cũng là cơ sờ để có thể tự động hóa quy trình nung. Chính vi vậy mà
các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang phát triển loại lò lửa đảo này với nhiên liệu khí hay LPG dùng sức
hút tự nhiên. Một vài nơi đã thử nghiệm đốt cưỡng bức nhiên liệu khí ưong các lò này. Tuy nhiên kết
quả không như mong muốn, đầu tư lại tăng cũng như ảnh hường đến chất lượng sản phẩm, đặc biệt đối
với sứ có men màu.
402
+ Nen cùa lò phòng phải sừa chữa luôn trong điều kiện nóng. Nhưng trong lò con thoi ít phải sửa
chữa và nếu có thì tiến hành ờ nhiệt độ thường.
+ Việc xây dựng và lắp đặt lò con thoi tương đối đơn giản và nhanh chóng. Đặc biệt đối với lò
dùng bông gốm thời gian xây dựng cỏn nhanh hơn và không đòi hòi nền lò vững chắc như các lò khác.
+ Phân bố nhiệt độ trong lò con thoi tương đối đồng đều hơn. Vì vậy thời gian nung một mẻ lò
nhanh hơn và do đó cho năng suất cao hơn cũng như tiêu tốn nhiên liệu thấp hơn.
+ Lò có thề hoạt động thủ công hoặc theo chế độ tự động hoàn toàn. Những lò chạy tự động sỗ có
chương trình cài đặt hiển thị trên màn hình hoặc trên các thiết bị đo nhiệt độ tùy theo mức độ.
Tuy nhiên lò con thoi vẫn còn những nhược điểm sau:
+ Tiêu tốn nhiên liệu nhiều hơn so với lò làm việc liên tục do tổn thất nhiệt bời khói lò và tích
nhiệt của sàn phẩm nung cũng như của vỏ lò.
+ Nàng suất chung cùa lò thấp hơn so với lò liên tục.
+ Do làm việc gián đoạn nên chế độ nhiệt không ổn định, điều đó dẫn tới co nờ tường và trần lò
cho mỗi mẻ lò. Vì vậy, sau một thời gian phải sửa chữa vỏ lò mặc dù việc sửa chữa này tương đối dễ
dàng. Đối với lò lót bông gốm có tuổi thọ lâu hơn và dễ dàng sửa chữa hơn so với lò lót gạch chịu lửa.
Do những ưu điểm trên, lò con thoi có một vai trò lớn trong sự phát triển ngành gốm sứ ờ nước ta
hiện nay. Trên thế giới vẫn cần đến lò gián đoạn đề nung những sản phẩm, đặc biệt ví dụ lò nung các
ống dùng cho lò thanh lăn. Trong nhà máy sản xuất sứ điện, thông thường phải có lò nung gián đoạn để
nung một vài sứ lớn đến trên 1 m. Trong nhà máy sàn xuất vật liệu chịu axit cần phải nung một vài tháp
phản ứng hay cô đặc hóa chất có dung tích đến 5 m3 thì cần có lò gián đoạn riêng.
Vỏ lò cố định
403
Cùng họ lò này có lò với đế được xếp sản phẩm sau đó được nâng lên ghép chặt với vỏ lò ờ vị trí
cao hơn như trong hình 9.22. Đương nhiên lò này có dung tích nhỏ và được dùng cho lượng sàn phẩm
không lớn trong sàn xuất.
Kiểu lò này thường có dung tích nhỏ khoảng một vài mét khối và chi dùng đề nung những sản
phẩm đặc biệt với khối lượng sản xuất nhỏ. Đôi khi có thể dùng lò này frong điều kiện có môi trường
bảo vệ như khí trơ, hydro...
Lò ben có nguyên tắc ngược với lò xe nâng như trong hình 9.23 và 9.24. Sau khi kết thúc quá
trình nung, toàn bộ vỏ lò bao gồm tường, trần và hệ thống vòi đốt được máy thủy lực đẩy lên cao. Xe lò
với sản phẩm đã chín được đẩy đi và thay vào đỏ là xe lò khác với sản phẩm mộc xếp ờ trên. Khi đã
đúng vị trí, vỏ lò lại được hạ xuống và quá trình nung lại được lặp lại. Tồng thời gian thay xe lò và
chuẩn bị chạy lò khoảng 30 phút.
Khi nâng hay hạ vỏ lò, hệ thống cung cấp nhiên liệu và không khí cho vòi đốt sẽ bị cong. Do đó
hệ thống này phải cỏ điểm nối để khi ngừng lò là tháo khớp nối ra và lắp khớp nối khi chạy mẻ mới.
Cũng có thể sử dụng những ống dẫn mềm dễ cong hay hạ theo vỏ lò.
404
Hình 9.24. Hình ảnh hoạt động của lò ben.
Dung tích kiều lò này có thể đạt tới 50 m3. Do dùng vật liệu cách nhiệt rất nhẹ nên đôi khi khối
lượng vò lò còn nhẹ hơn khối lượng sản phẩm xếp trên xe lò. Kiểu lò này có ưu điểm lớn là không có
cửa ra vào sản phẩm như lò con thoi. Việc loại trừ cửa lò cũng rất quan trọng đối với lò làm việc ở nhiệt
độ cao trên 1500°C vì cửa lò dễ xảy ra nhiều sự cố bất lợi.
So sánh với lò phòng gián đoạn, các kiểu lò trên đã cải thiện được điều kiện làm việc của
người lao động vì việc ra vào lò đều được thực hiện bên ngoài lò ờ nhiệt độ trong phòng. Mặt khác,
lò không cần cửa cũng không cần đường ziczăc giữa xe và tường lò nên cấu tạo đơn giàn hơn
nhiều. Tuy nhiên kiểu lò này không được phồ biến rộng rãi trong công nghiệp gốm sứ và chi ứng
dụng cho các lò nhỏ mà thôi.
405
9.4.4. Lò vỏ lò di động ngang
Mới đây tại nước ta đã có hai lò với vỏ lò di động ngang được xây dựng trong năm 2013 với
kích thước lớn 120 - 130 m3 được mô tả trong hình 9.26. Người ta xây dựng hai nền lò cố định với hai
đuôi lò và kênh dẫn khói lò đến ống khỏi riêng, vỏ lò lót bông gốm dày 0,25 m, có thể di động theo
chiều ngang ưên đường ray. Bên dưới lắp cố định sẵn các vòi đốt nối với ống dẫn LPG cố định ngang
vỏ lò. Khi đốt lửa sẽ đi theo kiểu lửa đảo và thoát khí qua các kênh ở nền lò rồi đến ống khói. Két thúc
quá trình nung và làm nguội tại nền lò thứ nhất, các van nhiên liệu LPG được khóa lại, ống nối dẫn
nhiên liệu LPG chính bên ngoài được tháo ra, cửa lò được mở hết cỡ. vỏ lò được di chuyển sang nền lò
cố định thứ hai khi trên nền lò này đã xếp chồng đủ gốm mộc. Việc di chuyển này tương đối nhẹ nhàng
do có các bánh xe lăn trên đường ray nhờ bộ cơ. Thời gian di chuyển 12 phút với đoạn đường 22 m. Vít
chặt vỏ lò vào đuôi lò thứ hai để đảm bảo kín lò. Tiếp theo là đóng cửa thứ hai và vít chặt vào đầu lò.
Sau đó nối các ống dẫn nhiên liệu LPG vào ống dẫn LPG chính chờ săn, đóng cửa lò thứ hai và có thể
khời động quy trình đốt lò theo loại sản phẩm cần nung. Có thể tại nền lò thứ hai sản phẩm nung khác
với loại xếp trên nền lò số một và cổ yêu cầu riêng.
Kích thước thông thủy của lò 1: dài 13 m, rộng 3,6 m, cao 2,0 m (120 m3).
Kích thước thông thủy của lò 2: dài 15 m, rộng 3,8 m, cao 2,3 m (130 m3).
Lớp lỏt lò 0,25 m bông gốm.
Lượng sản phẩm nung 70 - 80 tắn (lò 1 và lò 2).
Nhiệt độ nung 1135°c.
Thời gian nung 30 - 35 giờ làm nguội 30 - 36 giờ.
Tồng lượng LPG cần đốt 3.000 - 3.500 kg tương ứng 58,4 kg LPG/tấn sản phẩm.
Hai lò này nung các loại chậu lớn, dày thuộc loại gốm trang trí nội ngoại thất nên thời gian nung
có dài hơn so với các sản phẩm mỏng khác. Tuy nhiên, mức tiêu hao nhiên liệu chi dưới 30 kg/tấn sản
phẩm được coi là rất thấp và mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp.
Hình ảnh lò có thể xem các hình 9.27, 9.28,9.29, 9.30.
-1 Ong khói
Đầu lò cố đinh
óng dẫn LPG vỏ lò di chuvển
Hàng mộc
\ 1J / k A JK ỉ
\/ / Ị
Ả
J
n
L_
s
Kênh ngầm dẫn khí Hàng vòi đốt dưới đáy Bánh xe
406
Hình 9.27. Sản phẩm chín trên nền cố định thứ nhất
của lò (15 X 3,8 X 2,3) m tạì Công ty Klm Phát Bình Dương.
2) Đây cũng là loại “lò có vỏ lò di động” đầu tiên hoạt động tốt tại nước ta. Trước đó đã có lò
tưomg tự với dung tích 100 m3 nhưng xây xong thì lò không hoạt động được và đã thay thế bằng lò 120 m3
hoạt động tốt.
3) Tiêu tốn nhiên liệu 58,4 kg LPG/tấn sản phẩm là cực kỳ thấp so với bất cứ lò nung gián đoạn
nào hiện có với cùng loại sản phẩm.
4) Do tiêu tốn nhiên liệu thấp nên đã giàm khí thải co2 gây hiệu ứng nhà kính, góp phần vào
chương trình cài thiện môi trường của nhà nước và thế giới.
5) Tỷ lệ chín sản phẩm rất cao, tỳ lệ này đạt đến 95% và hơn do phân bố nhiệt độ tương đối đồng
đều trong lò.
6) Điều khiển lò rất nhẹ nhàng do có bố trí hệ đo nhiệt độ và áp suất của khí LPG trên đường dẫn
vào lò.
7) Cần dùng ít thợ chạy lò nên năng suất riêng cùa lao động đốt lò rất cao.
8) Giá thành sản phẩm sản xuất ra giảm nhiều đã đem lại nhiều lợi ích thực sự cho doanh nghiệp,
tăng được sản lượng cũng như khả năng cạnh tranh và xuất khẩu.
Hiệp hội Gốm sứ Binh Dương đánh giá cao kết quả của hai lò và đang có chiều hướng nhân rộng
cũng như áp dụng cho toàn quốc.
Tuy nhiên đây là loại lò gián đoạn nên cũng có nhược điềm chung là không tận dụng hết nhiệt
của khói lò mà nhiệt này chiếm đến 60% tồng năng lượng tiêu tốn.
407
Hình 9.28. Chuẩn bị nhóm lò và đóng cửa lò.
Hình 9.30. Sản phẩm chín với men bóng láng từ trên xuống dưới.
408
9.4.5. Xác định kích thước cơ bản lò gián đoạn
Thề tích hữu ích của lò đảm bảo năng suất hàng năm được xác định theo công thức:
V-
r.g.(lOO-m)
Trong đó: Gn - năng suất hằng năm, tấn/năm (có thể tính theo kg, cái, m2/năm);
z - thời gian toàn chu trình nung kề cả thời gian ra vào lò, h;
T - số giờ làm việc trong 1 năm 7200 - 8000 giờ;
g - mật độ xếp sản phẩm, tấn/m3 hoặc kg, cái, m2/m3;
m - % phế phầm kể từ lúc vào lò đến lúc nhập kho.
Chọn thể tích của 1 lò theo yêu cầu hoặc theo tính chất vật liệu nung hay khả năng, số lò được
xây sẽ là:
N = v/ Vi.p
p - hệ số đầy của lò thường bằng 0,6 - 0,8; lò rất nhò có thể lấy 0,5;
Vị - thể tích một lò, trong công nghiệp thể tích này thường lấy 5-50 m3.
9.5. LÒ VÒNG
LÒ vòng được Hoffmann (người Đức) xây dựng đầu tiên vào năm 1858 nên gọi là lò
Hoffmann. Đây là lò liên tục đầu tiên trên thế giới để nung gạch ngói và các đồ gốm khác. Từ khi
xuất hiện lò này, vật liệu gốm được phát triền mạnh mể nhờ những ưu việt của chúng. Hiện nay lò
này vẫn còn hoạt động tại nhiều nước, kể cả một số nước công nghiệp mặc dù chúng có những nhược
điểm lớn so với lò tuy nen.
409
làm việc như vậy nhiệt tích luỹ bời sàn phẩm nung cũng như của khí thải được tận dụng tương đối triệt
để. Vi vậy, tiêu tốn nhiệt riêng cho sản phẩm rất thấp đồng thời năng suất lò lại tăng lên.
899
_ọ 9°
O p_
*I \ 7*1
ịI •// »1<
Các lò vòng khác nhau về chi tiết song nguyên tắc về cấu trúc thì không đổi và có thể xem trong
hình 9.31. Kênh chính của lò có tiết diện gần như nhau, sau này đã cải tiến như hình 9.32 và được xếp
sản phẩm như trong hỉnh 9.33, dài từ 60 đến 200 m. Khi chiều dài kênh nung hom 100 m, thi lò có thể
làm việc bằng hai lửa. Điều đó có nghĩa là frên kênh nung tồn tại hai khu, mỗi khu có 1 zôn làm nguội,
1 zôn nung, 1 zôn tiền nung. Hai lửa này cứ chạy đối xứng quanh lò. Chiều cao của kênh 1,5- 2,5 m,
chiều rộng 2,5 - 5 m.
410
I
Trong lò, các zôn được chia thành từng khoang dài 0,9 - 1,04 m. Mỗi khoang có 4 - 6 ống
qua vòm và thẳng góc với đáy lò, đó chính là cửa tiếp nhiên liệu. Khoảng cách giữa các ống này là
0,8 - 1,04 m. Phần trên của ống được chế tạo bằng gang với nắp đậy cũng băng gang. Cứ 3 - 7 khoang
có 1 cửa ra vào và 1 - 2 cửa thoát khí. Cửa ra vào sẽ được xây bịt lại nếu đoạn lò đó đang hoạt động, khi
cần ra lò thì có thể phả đi. Cửa thoát khí nối liền với kênh khói chính và dẫn đến ống khói.
411
Mặt cắt chung của nhà lò và hình ảnh bên ngoài cùa lò Hoffmann cho trong hình 9.34. Nếu nhìn
bên trong kênh nung và thao tác xếp sản phẩm trong lò ta có hình 9.35. Hình lò vòng đang xây tại nước
ta cho trong hình 9.36.
Hình 9.36. Lò vòng đang xây dựng tại một số địa phương phía Nam.
1. Vỏ hộp; 2. ồng xem lửa; 3. Tay vặn; 4. cằn gạt than; 5. Mặt lưới để rơi than;
6. Cửa than vào lò; 7. Lỗ quan sát lửa trong lò.
412
Tường lò rất dày và thông thường bằng 1,2 - 2 m. Vòm lò thường là hình bán nguyệt do đó
cường độ xây dựng sẽ cao. Tuy nhiên khi mới xây người ta phải xây lệch tâm khoảng a = 0,3 m để khi
lò hoạt động vòm sẽ trở thành bán nguyệt như hình 9.37. Khi zôn nung chạy đến vùng nào thì vòm lò bị
nâng lên do giãn nở nhiệt. Tại một số lò người ta xây dựng vòm kép nghĩa là có hai vòm cách nhau
khoảng 200 mm như hình 9.31. Không khí nóng có thề chuyền động trong khe giữa hai vòm đó và đóng
vai trò như khe cách nhiệt. Vòm dưới tiếp xúc với lửa nên giãn nờ và nâng vòm lò lên, vòm trên có
nhiệt độ thấp nên giãn nở nhiệt không đáng kể. Vì vậy mặt trên của lò tưong đối ổn định và vòm dưới
bền vững hơn. Nhìn chung lò vòng có thể tích rất lớn và thể tích kênh nung chỉ chiếm khoảng 25 - 40%
thề tích bên ngoài của lò.
413
Tuy nhiên lò vòng có những nhược điểm sau:
+ Việc ra vào sản phẩm nung rất nặng nhọc và phải làm việc ờ nhiệt độ tương đối cao.
4- Khi ra vào lò công nhân phải tiếp xúc với bụi xi và nóng nên phải dùng quạt làm mát công
nhân do đó nguy cơ nhiễm bệnh silicô rất cao.
4- Tuy lò làm việc liên tục nhưng từng điểm của lò lại làm việc gián đoạn, cho nên việc tận dụng
nhiệt của tường và vòm lò cũng chưa triệt để.
4- Do zôn nung di chuyển cũng như từng điềm lò làm việc gián đoạn nên tường và vòm lò được
nung nóng sau đó lại làm nguội, vì vậy tường và vòm lò hay bị hỏng và phải thường xuyên sửa chữa lớp
gạch chịu lửa.
4- Độ ổn định trên mặt lò rất kém vì khi zôn nung đến, mặt lò sẽ bị nâng lên và hạ xuống khi nó
trờ thành zôn nguội nếu không dùng vòm kép.
4- LÒ bị hờ rất nhiều do đó không khí lọt vào lò tăng lên. Vì vậy thực tế lò phải làm việc với hệ số
không khí dư rất lớn và đạt đến 5 - 7 khi lò đã cũ. Do đó khói lò bị hạ nhiệt độ và chiều cao của ống
khói phải nâng lên.
4- Lò chi thích hợp với chế độ nung là oxy hóa mà khỏ có thể duy trì môi trường khử trong lò. Vì
vậy việc sử dụng lò này bị hạn chế rất nhiều. Đẻ khắc phục điều này, một số nước đã biến lò vòng thành
lò liên phòng và nguyên tắc làm việc như lò vòng.
4- Lò không thể cơ khí hóa được. Một số nước đã cố gắng cơ khí hóa bằng cách đưa sản phẩm vào
lò trên xe cải tiến, nhưng kết quả cũng rất hạn chế. Một số nước đã cắt bớt hai đầu và làm thành bốn cửa
tại hai đầu lò. Qua các cửa này xe nâng sẽ kẹp các hàng gạch từ bên ngoài chạy vào lò để xếp cũng như
để dỡ lò. Tuy vậy số gạch vỡ do kẹp hay đặt gạch trong lò tăng lên cao.
4- Kích thước bên ngoài của lò rất lớn, điều đó có nghĩa là lò chiếm diện tích xây dựng lớn và lò
cồng kềnh về cấu tạo.
Mặc dù có những ưu nhược điểm trên nhưng lò vòng đã đóng vai ưò tích cực ữong hơn 1 thế kỷ
qua đề nâng cao năng suất cũng như chất lượng sản phẩm gốm xây dựng trên thế giới. Các nước công
nghiệp đã loại bỏ lò này từ thập niên 60 của thé kỷ trước do đòi hỏi về chất lượng sản phẩm cũng như
về môi trường làm việc mà lò vòng không thể đáp ứng được nữa và bị thay thế bởi lò tuy nen chất lượng
cao hơn. Miền Bắc nước ta hầu như đã phá hết lò vòng nung gạch ngói và vật liệu chịu lửa do nhiều
nhược điểm của chúng. Đặc biệt là điều kiện làm việc của công nhân quá kém cũng như độ chín không
đồng đều của sản phẩm. Rất tiếc là một số nơi lại nhen nhóm xây lò vòng tại miền Bắc và đặc biệt tại
đồng bằng Nam Bộ đã chuyển lò thủ công sang nhiều lò vòng.
Tuy nhiên kiểu lò này vẫn còn sử dụng tại các nước nghèo hay những vùng xa xôi hẻo lánh.
Một số nơi đã biến lò vòng thành lò tuy nen kép nghĩa là hai kênh biến thành hai lò tuy nen hoạt
động liên tục.
414
Kiểu lò vòng không nóc được mô tả trong hình 9.38 và 9.39.
Kiểu lò này được phát triển mạnh tại Ấn Độ, Bangladesh, Pakistan và Myanmar là những thuộc
địa cũ của Anh sau đó nó được truyền tới Trung Quốc. Đây là những nước thuộc địa rất nghèo từ cuối
thế kỷ XIX cho đến gần cuối thế kỳ XX nên việc chấp nhận lò này cũng là bình thường do nó có lợi hom
những lò đứng địa phương nung gạch. Mặt khác các chủ lò là những người có vốn ít nên dễ dàng đầu tư
xây dựng.
Lò vòng không nóc có quá nhiều nhược điểm về nhiều mặt nên các nước châu Âu đã không chấp
nhận và chi dùng lò Hoffmann. Đen nay lò Hoffmann cũng đã bị loại khỏi các nước công nghiệp kể cả ờ
nước ta nên lò vòng không nóc càng không thể chấp nhận được. Tuy nhiên, lác đác có vài lò vòng
không nóc du nhập từ Trung Quốc vào nước ta và bị phê phán mạnh.
415
9.7. LÒ LIÊN PHÔNG
Khi hoạt động, các van khói của các phòng đều đóng hết và chỉ có van khói của phòng số 5 là mờ
để dẫn khỏi vào kênh khói chính. Các van liên phòng từ phòng số 8 đến số 6 được mở hết nhưng van
liên phòng giữa phòng 5 và 6 phải đóng lại.
4 3 2 1
Hình 9.40. Sơ đồ lò Hên phòng nung gốm và vật liệu chịu lửa.
Khi phòng số 3 đã đạt nhiệt độ và thời gian lưu, nhiên liệu được dừng cho phòng này để làm
nguội và bắt đầu đốt nhiên liệu tại phòng số 4. Phòng số 6 trở thành zôn tiền nung, các van liên phòng
nối giữa phòng 5 và 6 được mở ra đồng thời mở van khói của phòng số 6, đóng van khói của phòng số 5
và van liên phòng giữa 6 và 7. Phòng số 7 là nơi xếp mộc vào lò để chờ và phòng số 2 chuẩn bị ra lò.
Quy trình cứ tiếp tục và phòng zôn nung lần lượt đi vòng qua các phòng.
416
9.7.3. ưu nhưực điểm cơ bản
- Lò làm việc liên tục nên cho năng suất cao hơn nhiều so với lò gián đoạn.
- Lò có thể nung các vật liệu khác nhau với chế độ khác nhau mà lò vòng không thể thực hiện được.
- Mỗi phòng lò có thể nung vật liệu khác với yêu cầu nhiệt độ, môi trường nung cũng như thời
gian nung. Ví dụ phòng này nung gạch ngói đỏ, phòng khác nung vật liệu chịu lửa...
- Nhược điểm cơ bản là tiêu tốn năng lượng cao như lò vòng vì nhiệt nung nóng vỏ lò không tận
dụng hết.
- Kết cấu phức tạp nhất là nền lò được nung nóng rồi làm nguội nên chóng hỏng và phải sửa
chữa luôn.
417
Zôn nung thường đặt ờ giữa lò. Tại đây nhiên liệu được cháy bời các vòi đốt đặc biệt. Không khí
để cháy nhiên liệu được lấy một phần hoặc toàn bộ từ zôn làm nguội nung sang. Tùy theo mức khống
chế mà nhiệt độ có thể khác nhau. Sàn phẩm cháy nhiên liệu sẽ đi qua zôn tiền nung để cấp nhiệt cho
sản phẩm mộc vào lò. Chiều dài zôn nung phụ thuộc vào loại sản phẩm cũng như nhiệt độ nung.
Zôn làm nguội cỏ nhiệm vụ làm nguội sản phẩm nung đến nhiệt độ 60 - 80°C trước khi ra
khỏi lò. Mặt khác không khí lạnh vào lò sẽ được nung nóng lên đến nhiệt độ cao. Không khí này sẽ
được dùng để cháy nhiên liệu hoặc đưa đi đến lò sấy. Chiều dài zôn làm nguội phụ thuộc vào loại
vật liệu nung.
Trong thực tế thiết kế, chiều dài của từng zôn không xác định chính xác được. Vì vậy nhiều
trường hợp cho phép ta tăng chiều dài zôn nung lên một ít nghĩa là tăng số vòi đốt lên. Khi làm việc
thực tế có thể điều chỉnh cho phù hợp với đường cong nung. Cũng có những trường hợp người ta bố trí
vài vòi đốt phụ để đảm bảo nhiệt độ đồng đều theo chiều cao của lò. Như vậy chiều dài zôn tiền nung
không phải được tính đến vòi đốt phụ đầu tiên.
418
Lò tuy nen có thể xây theo sơ đồ đơn giàn như trong hình 9.41. Sơ đồ thứ nhất A và thứ hai B
không khí lạnh vào zôn làm nguội tư nhiên và cuối lò có quạt hút khói lò. Không khí lạnh qua zôn làm
nguội sẽ được nóng lên và đi vào đốt cháy nhiên liệu tại zôn nung. Khói lò được quạt hút qua 1 hoặc
nhiêu đôi cừa ra khỏi lò. Loại thứ hai có khá hơn vì có nhiều cửa hút hơn và không khí nóng được rút
bớt ra ngoài. Tuy nhiên toàn bộ lò làm việc dưới chân không hay áp suất âm (-). Vì vậy không khí lạnh
dễ lọt vào lò đặc biệt là tại zôn tiền nung và zôn nung. Hệ quả là nhiệt độ trong lò không đồng đều theo
chiều cao. Mặt khác là toàn bộ không khí vào làm nguội sản phẩm ờ sơ đồ thứ nhất đều qua zôn nung.
Như vậy nhiệt độ zõn nung không thể cao được. Tại sơ đồ thứ hai, tuy hủt khói lò qua nhiều cửa để tạo
điều kiện làm đồng đều nhiệt độ nhưng chênh lệch nhiệt độ còn quá lớn. Vì vậy kiểu lò đơn giản này chỉ
ứng dụng cho các sản phẩm không đòi hòi chế độ nung đặc biệt như gạch ngói...
Sơ đồ thứ ba c có tiến bộ hơn. Không khí nóng được đưa đi đến lò sấy hoặc dẫn đến đầu lò để
tăng cường sấy sàn phẩm mộc. Mặt khác một phần không khí nóng được hút và dẫn đến từng vòi đốt
nhiên liệu. Sơ đồ này đã tiến bộ hơn nhưng không khắc phục được hiện tượng phân lớp dòng khí trong
lò và chân không trong lò. Do đó chênh lệch nhiệt độ theo chiều cao của lò vẫn còn lớn và cũng chi sử
dụng lò này đối với một số loại sản phẩm gốm mà thôi.
Hoàn chinh hơn cả là sơ đồ thứ tư D. Không khí lạnh để làm nguội sản phẩm được quạt gió thổi
vào và khói lò được hút qua nhiều cửa bời quạt hút. Để phân bố nhiệt độ đồng đều hơn một phần khỏi lò
được tuần hoàn qua cửa ở đầu lò. Theo sơ đồ này, zôn làm nguội làm việc dưới áp suất dương (+) còn
zôn tiền nung làm việc dưới áp suất âm (-). Song trị số áp suất dương cũng như âm đều gíàm gần một
nửa và như vậy không khí lọt vào zôn tiền nung giảm đi rất nhiều do đó nhiệt độ trên dưới của lò tương
đối đồng đều hơn. Đặc biệt tại zôn nung, áp suất trong lò chi ờ +2 đến -2 mm H2O nghĩa là không khác
gì áp suất ngoài trời, do đó không có hiện tượng không khí lọt vào trong lò từ dưới gầm xe lên. Điều đó
giúp cho lò hoạt động được tốt hơn.
419
WTÌ ri iiií—
I
ị ì 1 i -—■
1111 * « 4
Cl ±0 <M
Bây giờ chúng ta cho hai quạt hoạt động, dòng khí bây giờ chỉ đi một chiều từ zôn làm nguội cho
đến hết zôn tiền nung, điều đó có nghĩa là áp suất khí tại cuối zôn làm nguội lớn hơn zôn nung và áp
suất khí tại zôn nung lớn hơn zôn tiền nung. Áp suất khí tại zôn tiền nung là âm (-) còn tại zôn làm
nguội là dương (+) như minh họa trong hình 9.42III. Mặc dù dòng khí đi một chiều nhưng tốc độ của
chúng không giống nhau. Khi cho quạt chạy tức là chúng ta đã cung cấp thêm cho mỗi zôn một đoạn áp
suất và phân bố áp suất bây giờ là đường A’, B’, C’. Neu ta chập đường B’ lên C’ chúng ta thấy C’ luôn
luôn lớn hơn B’. Tuy nhiên ở sát vòm lò chênh lệch áp suất bằng d, còn ở sát mặt goòng là dl và dl > d.
Điều đỏ chứng tỏ tốc độ khí ở sát mặt goòng lớn hơn rất nhiều so với sát vòm lò. Do đỏ vật liệu ờ dưới
bao giờ cũng được làm nguội nhanh hơn ở phía trên.
Tương tự như vậy ta lại chập B’ lên A’ và ta có chênh lệch áp suất của zôn nung lớn hơn zôn tiền
nung ở sát vòm lò là c, và sát mặt goòng là cl. Giá trị c > cl có nghĩa là tốc độ khí nóng đi mạnh ở sát
vòm lò và vật liệu ở sát vòm lò sẽ được nung nóng nhanh hơn. Đây là điều rất quan trọng để thấy
rằng trong lò nung tuy nen cỏ hiện tượng phân lớp dòng khí và hiện tượng này là bản chất của lò nung
tuy nen cũng như kênh dẫn khí nóng.
Phân bố tốc độ của khí được minh họa bời đường cong cho ưong hình 9.42III. Chiều của tốc độ
này đều cùng hướng từ cuối zôn làm nguội đến đầu zôn tiền nung tức nơi vào lò của xe goòng. So với
đường cong tốc độ mô tả ở hình thứ hai ta thấy mặt tốc độ băng 0 được đưa lên vòm lò tại zôn làm
nguội và đưa xuống sát mặt xe tại zôn tiền nung tương ứng với phân bố áp suất trong hình 9.42IV.
Từ những phân tích ở trên chúng ta có thể khăng định răng:
1) Chuyển động của khí trong lò không phải chỉ do ảnh hưởng của lực bên ngoài tức quạt gió mà
còn chịu ảnh hường của áp suất tĩnh học được thành lập trong lò.
2) Hiện tượng phân lớp dòng khí như hình 9.42III và 9.43 là bản chất của lò nung tuy nen và
quan trọng nhất là tại zôn tiền nung khí nóng chủ yếu đi sát vòm lò hay trần lò. Do đó vật liệu ở trên
được nuixg nhanh hơn, có nhiệt độ cao hơn. Đây chính là nguyên nhân gây nên hiện tượng chênh lệch
nhiệt độ theo chiều cao lớp vật liệu xếp trên xe goòng. Lớp vật liệu xếp càng cao, chênh lệch nhiệt độ
càng lớn và phải tìm cách khắc phục chênh lệch nhiệt độ trong zôn này.
420
3) Sản phẩm khi ra khỏi lò bao giờ ở dưới cũng được làm nguội nhanh hơn phía trên. Muốn làm
nguội đồng đều thì kết cấu của lò phải phù hợp.
Hình 9.43. Sự phân lóp dòng khí trong lò nung tuy nen.
9.8.4. Quan hệ giữa khí động học và kết cấu của lò tuy nen
Trong thực tế lò tuy nen không được kín mặc dù đã có rất nhiều biện pháp để ngăn không cho
không khí lọt vào lò. Tuy nhiên cũng không thề tránh được hiện tượng không khí lạnh chui từ dưới gầm
xe đi lên. Như trên đã trình bày, do nhiệt độ của lớp vật liệu ở sát mặt goòng thấp hơn so với lớp trên
bây giờ càng hạ thấp do không khí lạnh từ dưới goòng chui lên. Điều đó đòi hỏi phải có kết cấu phù hợp
nhằm giảm chênh lệch nhiệt độ trong zôn tiền nung. Các biện pháp đó như sau:
1) Cửa thổi không khí lạnh vào lò để làm nguội sản phẩm phải đặt sát vòm lò. Có như vậy mới bù
trừ được chênh lệch tốc độ khí trong zôn này và làm nguội đồng đều hơn (xem hình 9.421).
2) Cửa hút khói lò bắt buộc phải đặt sát mặt xe goòng và phải bố trí nhiều cửa để khí nóng
chui xuống phía dưới. Làm như vậy vật liệu sỗ được nung nóng đều hơn theo chiều cao (xem hình
9.421 và 9.43).
3) Khe giữa vật liệu chịu lửa lót trên xe goòng với tường lò cũng như giữa goòng và goòng
phải là đường ziczăc. Như vậy sẽ giảm được không khí lạnh chui lên do trờ lực của khí tăng lên. Để
tăng trờ lực người ta còn lót bông gốm hoặc amiăng tại khe ở vị trí nhất định giữa goòng và goòng.
Như vậy độ kín của khe giữa xe và xe sỗ tăng lên và giảm rất nhiều không khí lạnh lọt vào lò (xem
phần cấu tạo xe goòng).
4) Đẻ đàm bảo kín khí hơn, người ta phải tạo van cát giữa xe goòng với tường lò. Tuy nhiên ở lò
tuy nen cấu tạo van cát to lớn và chắc chắn hơn nhiều vì lò phải làm việc liên tục. Mặt khác phải bố trí
cửa tiếp cát trên chiều dài của lò tuy nen.
5) Biện pháp phổ biến hơn cả là cho tuần hoàn khí như trong hình 9.44 và 9.45. Người ta đặt
quạt hút không khí nóng từ zôn làm nguội hoặc khói lò tại vị trí trước đó một đoạn rồi thổi vào lò qua
một khe hẹp từ vòm lò. Khi màng khí thổi vào lò, dòng khí nóng sẽ phải chúi xuống và như vậy vật
liệu phía dưới của lò sỗ được nung nóng. Tuy nhiên sau đó khí nóng lại hướng lên trên và để khí phải
đi xuống ta lại đặt quạt tuần hoàn nữa. Tùy theo chiều dài của zôn tiền nung mà có thể đặt đén ba quạt
tuần hoàn khí.
421
Hình 9.45. Sơ đồ nguyên tắc đặt quạt tuần hoàn khóỉ lò.
6) Để giảm chênh lệch nhiệt độ theo chiều cao vật liệu xếp trên xe lò thì cần phải giảm chiều cao
của lò tính từ mặt goòng đến đinh trần lò. Chính vì thế mà chiều cao của lò hiện nay đang có chiều
hướng giảm đi, kể cả những lò nung gạch ngói xuống còn dưới 1,4 m. Trong trường hợp đó việc tuần
hoàn khí có thể không cần nữa.
7) Tốc độ khí phải bảo đảm đủ lớn 1-1,5 m/s. Khi đó các dòng khí sẽ phân bố đồng đều hơn
theo tiết diện ngang của lò và có nghĩa là nhiệt độ phân bố đều hơn. Nếu tốc độ quá lớn có nghĩa là sức
hút của quạt phải tăng lên và chân không trong lò cũng tăng lên. Điều đó dẫn tới tăng không khí lọt vào
lò và tăng chênh lệch nhiệt độ ưong lò.
8) Có thể thiết lập chế độ áp suất dưới gầm xe goòng như trong lò. Như vậy không có chênh lệch
áp suất và không khí lạnh sẽ không lọt vào lò nừa. Việc thiết lập như vậy bằng quạt hút và đẩy như thế
sẽ phức tạp nhưng dưới gầm xe goòng sẽ được làm mát bởi không khí lạnh thổi vào.
9) xếp sản phẩm trên xe goòng dày ở trên và thưa ở dưới để tăng trở lực ở trên tạo điều kiện để
khí đi ờ dưới. Đôi khi người ta còn tạo ra các kênh thoáng ngay dưới chân lớp xếp để khí nóng đi dễ
dàng. Tại một số lò nung sứ dân dụng và sứ vệ sinh, sản phẩm được xếp từ tầng thứ nhất kể từ mặt xe
trờ lên và giữa mặt xe goòng với tầng thứ nhất gần như rỗng hoàn toàn. Điều đó sỗ tạo điều kiện để khí
nóng đi ở dưới và sản phẩm chín đều hơn. Ở một số lò nung, trên mặt xe người ta dùng gạch thông để
lát đã tạo điều kiện để khí đi sát mặt xe goòng.
10) Bố trí vòi đốt phài để gần sát mặt sàn xe để giảm chênh lệch nhiệt độ trong zôn nung theo
chiều cao. Nếu tại zôn tiền nung nhiệt độ phân bố không đều thì có thề bố trí vòi đốt phụ sát mặt sàn xe
gần đầu zôn nung để giảm chênh lệch nhiệt độ của zôn này.
422
ngoài được bọc phủ lớp vật liệu cách nhiệt dạng tấm hay bông gốm. Đẻ đảm bảo kín lò, người ta dùng
lớp tôn thép bọc bên ngoài. Như vậy việc xây lò được tiến hành nhanh chóng và đảm bảo chất lượng.
Hình 9.46. Tường lò được ghép bởi các mô đun bỗ tông chịu lửa đúc sẵn.
Trần lò xây theo kiểu vòm cung với chiều cao của cung 1/5 - 1/6 chiều rộng của lò. Khi nhiệt độ
cao, nếu dùng gạch cao alumin thì chiều cao vòm lò phải cao hơn so với gạch dinat vì gạch dinat có độ
giãn nờ lớn hơn gạch cao alumin. Việc sử dụng gạch chịu lửa dinat phải chú ý vì khi giãn nờ nhiệt, vòm
lò sẽ nâng cao lên nên dễ hở và khí nóng thoát ra ngoài. Đó cũng là nguyên nhân khí chuyển động ở ưên
và như thế nhiệt độ phía trên càng cao hơn phía dưới. Trong trường hợp đó phải cỏ lớp gạch thứ hai phủ
lên trên để ngăn ngừa khí trong lò lọt ra ngoài như trong hình 9.47.
2645 5650 *
Hình 9.47. Mặt cắt của lò tuy nen vòm cung và hệ hút không khí nóng.
1. Cầu thang xuống hành lang dưới lò; 2 và 3. Cửa và ống dẫn không khỉ nóng; 4. cổ ống tuy e;
5. Đầu phun không khí; 6. Dẫn không khí nén.
423
Chiều dày vòm lò thường từ 230 - 300 mm, trên đó là gạch cách nhiệt với lớp xi 100 - 250 mm.
Khi sử dụng vòm cung thì khe hờ giữa vật liệu xếp trong lò và vòm thường lớn và khí nóng càng dễ đi
nghĩa là càng dễ tăng chênh lệch nhiệt độ. Vì vậy tốt hơn cả là dùng trần phăng với gạch treo như trong
hình 9.48. Gạch treo có hình dạng riêng khác nhau tùy theo yêu cầu của lò cũng như phương pháp treo.
Trong trường hợp này, vật liệu rất dễ xếp trên xe lò và khe hở này sẽ giảm đi. Tuy nhiên việc lựa chọn
kiểu trần lò còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế và kỹ thuật.
Hình 9.48. Trần phẳng bằng gạch treo và phương pháp treo.
Cả tường và trần lò đều phải chừa khe giãn nở nhiệt khi xây chúng và chiều rộng của khe này phụ
thuộc vào loại vật liệu sử dụng cũng như nhiệt độ làm việc. Đe minh họa điều này ta hãy xem hình 9.49.
Đưửng ray
Hình 9.49. cấu trúc lớp gạch xẳy tường lò tràn phằng.
424
Lò tuy nen trần phăng hiện đại nhất, nhiệt độ nung cao nhất nước ta hiện nay nằm tại nhà máy
gạch chịu lửa kiềm tính Việt Nam thuộc Công ty xi măng Hoàng Thạch. Lò này được nhập từ Cộng hòa
liên bang Đức, trần phẳng bằng gạch MgO - Cr, điều khiển tự động, nhiệt độ nung đạt tới 1800°C, đốt
bằng dầu diezel với hình ảnh trong hình 9.50 và 9.51. Lò tuy nen cũng dùng cho nung sứ vệ sinh như
trong hình 9.52 và 9.53.
Hình 9.50. Lò nung tuy nen 180(fC hiện đại nhất nước ta tại
Nhà máy Vật liệu chịu lửa klèm tính việt Nam.
Hình 9.51. Xe goòng lò tuy nen nung vật liệu chịu lửa kiềm tính.
425
Hình 9.53. Lò tuy nen nung sứ vệ sình.
Đặc biệt việc sử dụng bông gốm chịu lừa đã trở nên rộng rãi với hàm lượng AI2O3 34 - 97% và
nhiệt độ sử dụng 1250°C đến 1750°C. Khối lượng thể tích của bông này dưới dạng cuộn, mền chi
0,1 - 0,2 tấn/m3 (trong khi khối lượng riêng 2,6 đến > 3,3 tấn/m3), độ dẫn nhiệt chi bằng 1/2 - 1/3 so
với gạch nhẹ. Ngày nay nhiều lò tuy nen đã sử dụng bông gốm để lót tường và trần lò như trong lò con
thoi. Nhờ vậy mà toàn bộ lò trở nên nhẹ nhàng, dễ xây lắp, dễ môđun hóa, dễ vận chuyển và lắp ghép
nhanh chóng tại nơi xây lò. Tuy nhiên, bông gốm chi sử dụng khi nhiên liệu là khí sạch hay dầu DO mà
không dùng cho loại nhiên liệu rắn.
Ngày nay, người ta đã sản xuất được gạch chịu lửa cao alumin nhẹ cách nhiệt có hàm lượng
AI2O3 từ 78% đến trên 90%. Nhiệt độ sử dụng đến 1750°C, khối lượng thể tích từ 0,5 đến 1,2 tấn/m3
với độ dẫn nhiệt từ 0,2 đến 0,6 w/m.độ ttong khi gạch samôt và cao alumin đặc thông thường có độ
dẫn nhiệt 1,1-2 w/m.độ. Nhờ vật liệu nhẹ, độ chịu lửa cao, cường độ cơ học bảo đảm nên có thể dùng
trực tiếp xây tường và trần treo dễ dàng với chiều dày giảm đi rất nhiều. Với nhiệt độ nung thấp như
gạch ngói, gốm sứ có nhiệt độ nung < 1300°C có thể dùng gạch Cordierite nhẹ vì chúng có độ bền sốc
nhiệt rất cao.
426
Sổ gạch Sỏn lượng
ChíÃu dài lổ Sổ xe trong lô Chu trình
5330 mỗi xe nung, giờ gạch/24 giở
14
*15 Kg
iM
,50.800 min ; 16 h ‘ ;vi260<
65.100 mm 45 21 16 h 1415
71400 mm 49 21 16-14 h 1545-1765
77.700mm - 1670-1.900
84.000 mm 21 16-12 h 1825-2.435
90.300 mm 62 21 16-12 h 1950-2.600
96.600 mm •■•«66 ,2.375-3.025
102.900 mm 71 21 14-11 h 2550-3.250
109.200 mm 75 21 14-11 h 2700-3.435
115.500 mm .79 21' 2845-3.620
121800 mm 84 21 14-11 h 3.025-3.850
128.100 mm 88 21 14-11 h 3.170-4.030
Hình 9.54. Mặt cắt ngang của lò tuy nen nung gạch 14 -15 kg/vlên và bảng kích thước lò.
427
Hệ quạt hút đảy
Hình 9.57. Bố trí quạt đào khí để nhiệt độ đồng đều khl nung sứ vệ sinh.
Hình 9.58. Xe lò nung sứ Hải Dương VỚI bao đã thay bằng tắm kồ tại lò tuy nen.
Trong trường hợp nhiên liệu chứa nhiều bụi gây nguy hại đến sản phẩm như sứ chẳng hạn, người
ta phải dùng bao nung (hộp nung). Sản phẩm đặt trong bao và không tiếp xúc với dòng khí chứa bụi nên
bề mặt men không bị bám bẩn. Đây là trường hợp cũ của nhà máy sứ Hải Dương như trong hình 9.58.
Nóc lò này dạng vòm nên chiều cao xếp sản phẩm không phăng và xe lò trước khi vào lò phải qua
khung kiểm Ưa đề sản phẩm không bị chạm vào nóc lò.
Ngày nay nhà máy sứ Hải Dương đã không dùng nhiên liệu cũ mà dùng ga lỏng nên không cần
dùng bao nung như trước nữa mà dùng tấm kê trụ đỡ để xếp sản phẩm như hình 9.58. Nhờ thế mà khói
lò sạch, tiêu tốn ít nhiệt hơn, năng suất lò tăng lên, ô nhiễm môi trường giảm đi.
Kích thước bánh xe dao động trong khoảng 300 - 500 mm được chạy trên ổ trượt hay ổ bi với
mỡ bôi trơn chịu được nhiệt đến 150°C. Xe goòng lăn ưên đường ray với chiều rộng của đường ray
thông thường là 600 - 1200 mm. Với những lò năng suất cao chiều rộng này có thể lên tới 3 - 6 m.
Công ty Gốm xây dựng Đồng Nai có lò tuy nen với kênh nung rộng 5800 mm, chiều rộng đường ray
tương ứng là 3300 mm. Khi kích thước xe lớn như vậy, thông thường người ta đổ bê tông một lớp dưới
sau đó là lớp gạch cách nhiệt và ưên cùng là lóp gạch đặc chịu lực. Những lò tuy nen nung gạch đỏ có
chiều rộng kênh nung lên đến hơn 9 m và mới đây cỏ lò với chiều rộng đến 11 m (thông thủy). Trong
trường hợp quá rộng này xe lò được chạy trên hai cặp đường ray. Neu nung ngói hay gạch lát có thể
428
dùng vật kê dạng chữ ư như trong hình 9.59. Nung vật liêu khác cũng dùng phương pháp bố trí thông
thoáng dưới mặt xe lò như trong hỉnh 9.60 và 9.61.
429
Ngày nay có nhiều nơi dùng loại bê tông chịu lửa trên cơ sở xi măng alumin để tạo mặt goòng và
có thể làm việc đến 1400°C. Lò làm việc liên tục nên ưong khi chạy lò cỏ thể có mảnh vỡ rơi xuống sàn
lò, do đó khe giữa lớp lót trên xe với tường lò cần đàm bảo nguyên tắc trên hẹp dưới rộng. Có như vậy
mới thoát được dễ dàng mảnh vỡ khi nó rơi vào khe. Thông thường khe này có chiều rộng 20 - 50 mm.
Vật liệu chịu lửa dùng để xây trên xe lò rất khác nhau tùy theo nhiệt độ cũng như loại vật liệu
nung. Cần hiểu rằng lò làm việc liên tục nhưng vật liệu chịu lửa trên xe lò lại làm việc gián đoạn, vì vậy
gạch chịu lửa ở đây có những yêu cầu riêng. Để nung gạch ngói với nhiệt độ thấp cỏ thể xây như ưên,
đối với các vật liệu khác cần phải dùng vật liệu tương ứng.
Người ta có thể dùng hoàn toàn gạch nhẹ hay bông gốm để cách nhiệt trên xe lò. Các trụ chống
chịu lực phải đặt ưên lớp bê tông hoặc gạch chịu lửa ờ đáy xe mà không được đặt trên lớp bông hay
gạch nhẹ. Trên trụ chống là các thanh dầm để đặt tấm kê với sàn phẩm nung ở trên. Tùy theo kích thước
sản phẩm mà số tầng có thể là 2 hoặc nhiều hơn. Thanh dầm hiện nay là loại vật liệu đặc biệt được chế
tạo từ SiC với c cho thấm hơi kim loại Silice ờ nhiệt độ cao trên 1500°C bằng công nghệ đặc biệt. Loại
vật liệu này có chứa SiC rất cao với những đặc tính sau:
Độ xốp gần băng 0%
Cường độ uốn ở 1500°C 900- 1200 kg/cm2
430
giảm chi phí xây dựng lò khá nhiều. Nguyên nhân chủ yếu là để tăng công suất lò có thể giảm chiều cao
xếp lò nhưng mở rộng chiều ngang của lò. Vì vậy chiều cao xếp lò hầu như đều dưới 1,4 m đối với đa
số vật liệu và dưới 1,65 m đối với gạch ngói. Kết hợp với cách xếp lò hợp lý cũng làm giảm chênh lệch
nhiệt độ theo chiều cao của lò và nâng cao công suất của lò cũng như giảm phế phẩm khi nung.
Ổ.5.4.
9. Thiết bị đẩy xe lò
Để đẩy đoàn xe trong lò, người ta dùng thiết bị đẩy kiểu cơ hay thủy lực và đôi khi dùng cả kiểu
tời. Tuy nhiên ở lò lớn người ta hay dùng kiểu thủy lực vì chúng có nhiều ưu việt hơn.
Đầu pittông có gắn thanh đẩy và thanh đẩy này cũng chuyển động trên bánh xe nhỏ theo đường
ray. Khi pittông đi đến vị trí định sằn thì van sể mở, dầu sẽ thoát ra khỏi xi lanh và kết thúc lực đẩy
đồng thời xe lò đã ở vị trí cần thiết. Sử dụng máy đẩy thủy lực có ưu điểm là lực đẩy tăng lên từ từ và
khi đạt đến lực cần thiết thì xe sẽ chuyển động và khi ngừng cũng ngừng nhẹ nhàng. Máy đẩy thủy lực
có lực đẩy đến 40 tấn lực, tốc độ 0,4 m/phút, chiều dài đẩy 2,5 m.
Máy đẩy cơ khí dưới dạng trục vít và đôi khi dùng cả dạng tời. Từ động cơ qua bộ ly hợp và hộp
giảm tốc, đôi trục vít sẽ quay và trục đẩy sẽ tiến hoặc lùi. Khi tiến sẽ đẩy xe đi nhờ vai đẩy tỳ vào xe
goòng. Kết thúc quá trình đẩy nó sẽ trở về vị trí chờ. Máy này cũng có lực đẩy đến 40 tấn lực, tốc độ
đẩy 2 m/phút, chiều dài đẩy 3,25 m. Việc dùng tời chỉ đối với lò nhỏ nhưng nhược điểm cơ bản là cáp
bị căng và đàn hồi. Cho nên các lò nhỏ hiện nay cũng dùng máy đẩy thủy lực vừa đơn giản lại vừa gọn.
Máy đẩy thưòng đặt ở một phía đầu lò. Đối với lò tuy nen có phòng chờ thi xe lò đựơc đẩy vào
phòng chờ. Lúc này cửa ngoài được nâng lên và cửa trong được hạ xuống. Khi xe lò đã nằm trong
phòng chờ thì cửa ngoài hạ xuống và cửa trong được nâng lên. Từ lúc này máy đẩy sẽ hoạt động để đưa
xe vào trong lò. Khi xe đã nằm hẳn trong lò thì hạ cửa trong để đảm bảo kín lò. Hiện nay cỏ rất nhiều lò
tuy nen hoạt động không có phòng chờ và hầu như không có cửa. Đẻ làm kín khí, người ta phải tạo ra
màng khí mạnh thổi từ trên xuống ờ ngay cửa lò. Nhờ vậy mà không có trao đồi khí, với bên ngoài lò và
việc đẳy xe vào lò đơn giản quy trình hơn.
Xe lò chuyển động trong lò có hai cách liên tục và gián đoạn. Đa số lò hoạt động với xe chuyển
động gián đoạn, nghĩa là một xe vào lò rồi nằm ở đó một thời gian nhất định rồi xe khác lại được đẩy
vào. Như vậy xe lò cứ tịnh tiến từng đoạn một ửng với chiều dài một xe. Tốc độ chuyển động được xác
định bời yêu cầu của vật liệu nung. Mỗi lần đẩy xe gián đoạn xe lò được chuyển đến 2 - 3 m nhanh
chóng và có nghĩa là nhiệt độ nâng lên đột ngột. Vật liệu nào không chịu được điều kiện như vậy sẽ
phải dùng phương pháp chuyển động liên tục nghĩa là xe lò được chuyển động liên tục với tốc độ xác
định theo đường cong nung. Ví dụ khi nung sứ vệ sinh, người ta dùng phương pháp chuyền động liên
tục để đảm bảo nâng nhiệt độ từ từ. Đẻ tránh va đập ngọn lửa có nhiệt độ cao vào sản phẩm, sản phẩm
được xếp trên tấm kê ờ vị trí cao hơn ngọn lửa. Điều đó có nghĩa là ngọn lửa phun vào khoảng trống có
các trụ chịu được ngọn lửa mà không bị hư hỏng.
431
Ngoài bốn hệ thống trên còn cỏ quạt tạo màng khí ở hai đầu lò cũng như để làm mát gầm lò.
Thông thường mỗi hệ quạt luôn có hai quạt để đề phòng khi một quạt hỏng cỏ chiếc thứ hai hoạt động
nhằm đẩm bảo lò làm việc liên tục.
Đề cung cấp không khí cho vòi đốt thường dùng loại quạt áp suất cao khoảng 300 - 800 mmH2O.
Trong trường hợp dùng vòi đốt dầu loại cao áp thi thay thế quạt băng nguồn không khí nén 5-10 atm.
Trong một số trường hợp tại miệng lửa, người ta có bổ sung không khí nóng thì có thể dẫn từ quạt hút
không khí nóng của zôn làm nguội.
Khi sản phẩm bắt đầu vào zôn làm nguội, nó dược dòng không khí làm nguội đột ngột và không
khí này được hút ngay ở dưới. Nguyên nhân chủ yếu là khi làm nguội đột ngột lớp ngoài mỗi sản phẩm
co lại trong khi lớp trong chưa bị co. Sau đỏ lớp trong co lại khi làm nguội tiếp và sẽ gây nên lực ép vào
lớp bên ngoài. Như vậy nhờ làm nguội đột ngột mà cường độ cơ học của sản phẩm tăng lẽn. Tùy loại
sản phẩm nung mà khống chế nhiệt độ làm nguội đột ngột. Ví dụ gốm sứ có thể hạ đột ngột từ 1360°C
xuống 1100°C nghĩa là làm nguội ưong giai đoạn chúng còn nằm ở trạng thái biến dạng dẻo chứ không
phải trạng thái biến dạng đàn hồi. Đối với gốm kể cả gạch ngói có thể làm nguội thật nhanh từ 1000°C
xuống 650°C sau đó phải làm nguội chậm đến khoảng 500°C để tránh nứt vỡ do biến đổi thù hình của
S1O2 rồi tiếp tục làm nguội đến nhiệt độ thường.
Tại zôn làm nguội có hai kiểu đưa không khí lạnh vào: trực tiếp và gián tiếp. Trực tiếp nghĩa là
không khí lạnh thổi trực tiếp vào sản phẩm nung. Kiểu này được ứng dụng rộng rãi cho đa số lò nung
vật liệu chịu lửa, gốm xây dựng. Trong trường hợp này cửa thổi không khí lạnh đặt hai bên thành lò và
sát trần lò.
Với lò khá rộng, người ta bố trí các quạt thổi ở cửa lò như trong hình 9.62 là của lò tuy nen nung
gạch ngói (11
* 1,65 X 214,85) m, năng suất 455.000 tấn/năm (tương đương 250 triệu viên gạch 2 lỗ của
ta/năm) do công ty Alpina của Ý xây dựng tại Nga.
Hình 9.62. Quạt thổi không khí vào làm nguội được đặt tại cửa ra của sản phẩm nung.
432
Đối với loại gián tiếp, không khí được thổi ngầm vào hệ kênh rãnh bên trong tường và vòm lò tại
khu vực làm nguội. Gốm mịn hay gốm tinh và các loại sứ tráng men được làm nguội theo phương pháp
này sẽ tránh được ứng suất sinh ra do làm nguội không đều và men trờ nên bóng láng hon.
Một số lò không bố trí quạt thổi không khí lạnh vào lò mà chi dùng quạt hút, cửa hút đặt trên nóc
lò, không khí lạnh vào lò đi qua cửa ra xe gòong và qua các cửa hút đặt ở dọc hai bên thành lò.
Một số lò cần làm nguội chậm trong khoảng 650°C xuống 500°C để tránh biến đồi thù hình của
quartz, người ta phải bố trí sao cho không khí lạnh không đi qua sản phẩm khu vực này. Ví dụ lò nung
gạch ốp lát, người ta bố trí không khí lạnh thổi vào chùm ống kim loại đặt tại khu vực này để giảm
chậm hơn nhiệt độ vùng này.
Khói lò đi đến quạt hút thường đi qua nhiều cửa hút bố trí dọc hai bên lò nhưng sát mặt chịu lừa
trên xe lò. Đường đi của khói lò có thể nổi hay ngầm trong tường lò trước khi đến quạt hút. Để đảm bảo
nhiệt độ làm việc không quá cao, người ta phải pha thêm không khí lạnh vào khói lò nếu cần bằng cách
dùng không khí cao áp thổi vào đầu tuy e như trong hình 9.47.
Việc sử dụng nhiên liệu răn trong lò tuy nen hiện nay chi giới hạn ờ những lò nung gạch ngói mà
thôi. Trên mặt zôn nung của những lò này, người ta bố trí các cửa cho than cám giống như lò vòng (xem
hình 9.31). Qua các lỗ này có thể tiếp than vào lò băng tay hoặc băng máy. Nước ta hiện nay có khoảng
hơn 500 lò tuy nen nung gạch ngói bằng than cám. Tuy nhiên trên 80% than cần thiết để nung sản phẩm
đã được trộn với nguyên liệu trước khi tạo hình. Vì vậy lượng than cần cho qua lỗ tiếp than trên mặt lò
chỉ còn 20 đến 0%. Nhược điểm cơ bản của việc dùng than cám là bụi xi rất nhiều khiến cho điều kiện
lao động của công nhân không được tốt lắm. Nếu trộn than vào nguyên liệu thi sẽ giảm bụi, giảm lượng
sét tạo hình nhưng khói lò lại chứa nhiều khí độc hại như co, hydrocacbon nặng và nhẹ.
Gần đây các lò nung tuy nen nung gạch ngói của nước ta đã được trang bị hệ cung cấp than tự
động trinh bày trong hình 9.63 và 9.64. Hệ này bao gồm hộp điều khiển chi thị nhiệt độ, khi nhiệt độ lò
hạ thấp thì than sẽ được tự động đưa vào máy nghiền mịn và thổi vào các lỗ tiếp than. Khi nhiệt độ tăng
đến mức nhất định thì hệ tự động cắt. Toàn bộ hệ này sẽ cung cấp cho 4 - 8 lỗ tiếp than và theo số lỗ
tiếp than theo chiều dài lò mà bố trí số lượng hệ tương ứng. Than cung cấp cho các hệ được vận chuyển
trong ống với cánh gạt và nếu than không dùng hết sỗ được quay lại két than ban đầu. Nhờ hệ này mà
nhiệt độ trong lò được ổn định hơn và chất lượng sản phẩm cũng ổn định hơn.
Hiện nay do giá FO, khí thiên nhiên tăng giá nên một số nước công nghiệp như Tây Ban Nha
(Espagne) đã phải dùng cốc dầu mỏ với thành phần và hàm lượng chất bốc gần giống Antraxit của ta
trong sàn xuất gạch ngói. Họ đã nghiên cứu ảnh hưởng của độ mịn của than đến quá trình cháy than để
phân bố nhiệt đồng đều và không có hiện tượng than đọng dưới chân cầu gây hỏng gạch chịu lửa cũng
như chất lượng gạch tại chân cầu. Nhìn chung than càng mịn càng dễ cháy hoàn toàn và tránh đọng than
tại chân cầu. 100% than được cap qua lỗ tiếp than nên khói lò hầu như không chứa chất độc hại như khi
trộn than với sét khi tạo hình.
433
Hình 9.63. Hệ tiếp than tự động.
Sừ dụng nhiên liệu lỏng trong lò tuy nen theo hai phương pháp sau:
a) Phun xung dầu qua các lỗ bố tri như đối với than
Trên nóc lò có các ống thẳng góc với đáy lò, tại đó có vòi phun xung như hình 9.65. Dầu nóng đã
được lọc và bơm với áp suất 5-10 atm theo đường dẫn tới vòi và phun hay tiêm vào lò một lượng 0 - 6 ml
dầu trong thời gian 1 - 2 giây sau đó ngừng 6-8 giây để dầu có thời gian cháy. Khi phun như vậy, dầu
biến thành các hạt nhỏ như sương mù nên trong thời gian vài giây, dầu sẽ phân hủy thành nhiên liệu khí
và bắt cháy ở nhiệt độ cao. Chu kỳ phun dầu và lượng dầu phim đã được lập trình sẵn cho mỗi loại sản
phẩm. Phương pháp này chỉ dùng để nung những sản phẩm đơn giản như gạch ngói, gạch lát nền, gạch
via hè và vật liệu chịu lửa thông thường.
434
Hình 9.65. Phun xung dầu từ nóc lò của Alpina.
Hình 9.66. Hệ đốt dầu áp suất thấp trộn lẳn không khí ấp suất cao.
Hình 9.67. VÒI phun dầu có hồi lưu với không khí.
435
Hình 9.68. Quạt gió với vòi phun dầu.
Trong một số trường hợp có thể phun liên tục với không khí áp suất cao thổi kèm để tạo điều
kiện cháy dầu tốt hơn trong lò như trong hình 9.66,9.67 và 9.68.
Sơ đồ cấp dầu và hồi lưu cho trong hình 9.69 và mô hình phim dầu bằng không khí thổi từ quạt
cho trong hình 9.70.
Hình 9.70. Sơ đồ nguyên tắc cung cấp gió và dầu vào vòi đốt.
436
Để thực hiện việc phun dầu từ trên xuống kênh lò thì trần lò phải có săn các ống và trên ống đặt
hệ phun như trong hình 9.71. Nếu nhìn từ bên trong kênh lò ta sẽ thấy hình 9.72, các lỗ này chính là nơi
dầu hoặc thanh bụi được phun xuống lò.
Hình 9.71. Xây trằn phẳng của lò có sẵn các ống đặt vòi đốt.
Hình 9.72. Tràn lò nhìn bên trong với các lỗ đặt VÒI đốt phun từ trẻn xuống 02/5.
437
Cả hai loại vòi đốt này đều được sử dụng song cần chú ý đến nhiệt độ của ngọn lửa vì nhiệt trị
của dầu rất cao. Nếu nhiệt độ của ngọn lửa quá cao nó sẽ phá hủy buồng đốt. Vì vậy gạch chịu lửa xây
buồng đốt phải là loại tốt. Mặt khác buồng đốt phải đủ thể tích để dầu đủ thời gian hóa khí và bắt cháy
trước khi vào zôn nung. Đẻ tránh quá nhiệt không nên đưa không khí quá nóng vào buồng đốt khi
không cấn thiết.
9.8.7.3. Nhiên liệu khí
Nhiên liệu khí được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp hiện nay là ga lỏng, khí thiên nhiên.
Chúng có ưu điểm lớn là rất sạch, dễ đốt, dễ điều chỉnh... Hiện nay nước ta đang khai thác khí thiên
nhiên, khí đồng hành với dầu mỏ. Khí đồng hành sau khi tách ga lỏng (propan và butan) tại nhà máy khí
hóa lỏng còn lại có thành phần gần giống với khí thiên nhiên và được dùng để đốt trong lò. Hiện
nay chúng ta cũng đã sản xuất được ga lỏng cung cấp cho công nghiệp tại nhà máy Dinh cố thuộc
tinh Bà Rịa - Vũng Tàu. Có ba phương pháp đốt như sau:
a) Cháy trực tiếp
Phim trực tiếp nhiên liệu khí vào lớp vật liệu xếp trong lò và tại đó nhiên liệu sẽ cháy ngay tại lớp
vật liệu bằng không khí nóng từ zôn làm nguội sang. Phương pháp này đơn giản và sử dụng tốt nhiệt
của không khí nóng, tiêu tốn nhiệt riêng sẽ hạ thấp. Tuy nhiên việc trộn khí và không khí không đều làm
cho ngọn lửa kéo dài, phân bố nhiệt độ không đều, môi trường không đều. Vì vậy nó chỉ thích hợp cho
những sản phẩm không đòi hỏi chế độ nung đặc biệt như gạch ngói.
b) Chảy không hoàn toàn ở buồng đốt
Mục đích của phương pháp này là:
- Thành lập môi trường khử ờ những đoạn nhất định.
- Giảm khả năng sống hay quá chín (tức quá lửa).
- Điều khiển nhiệt độ đồng đều theo đường cong nung.
- Khi sản phẩm cháy còn chứa nhiều co chăng hạn va đập vào vật liệu có nhiệt độ cao thì nó lập
tức cháy nhanh với không khí dư nhỏ nhất, nhiệt độ lò sẽ cao.
c) Cháy hoàn toàn
Tương tự như ưên nhưng thực hiện cháy hoàn toàn để đảm bảo môi trường oxy hóa ưong lò. Tuy
nhiên cần khống chế cường độ nhiệt trong lò không quá 500.000 kcal/m3.h (2 triệu kj/m3.h).
438
Hình 9.73. Lò thanh lăn.
Hình 9.75. Dẫn dộng bằng bánh răng côn, bánh răng khía chéo.
439
Hình 9.76. Truyền động bảnh răng côn tại Viglacera Hà Nội.
2) Vỏ lò gồm hai phần kể từ thanh lăn. Phần trên thanh lăn được treo bởi các dầm thép. Phần
dưới đặt ừên khung thép kê trên nền nhà. Hai phần này tạo ra kênh nung có chiều cao tại zôn nung
khoảng 0,8 m, các phần còn lại khoảng 0,4 - 0,6 m. Toàn bộ được cấu tạo từ vỏ tôn thép và bên trong
lót bông gốm hoặc gạch nhẹ. Chính giữa mặt thanh lăn là các viên gạch nhẹ có lỗ để thanh lăn chui qua.
Để đảm bảo kín lò, người ta dùng bông gốm nhét vào chỗ hở và không cản trở quay của thanh lăn.
3) Các vòi đốt nhiên liệu khí hay dầu DO hoặc dầu hoả được đặt cả trên lẫn dưới mặt thanh lăn
song chủ yếu là dưới. Toàn bộ thanh lăn và lớp gạch ốp lát được nung đều do được cấp nhiệt từ trên
xuống từ dưới lên. Lò cũng có thể đốt bằng khí than như trong hình 9.78. Hệ lò Sacmi còn có hệ đốt
gián tiếp qua ống đầu lò như hình 9.79 đã mô tả.
440
Hình 9.78. Lò thanh lăn đốt bằng khí than Viglacera Hạ Long.
Hình 9.79. VÒI đốt trong ống tạl nơi vào lò của hãng Sacml.
4) Hệ thống thông gió bao gồm quạt đẩy và hút được bố trí như các lò tuy nen thường, tuy nhiên
cũng có những đặc điểm riêng. Đặc biệt ở zôn làm nguội cần làm nguội chậm tại khu vực 650°C - 500°C
để tránh nứt vỡ do biến đổi thù hình của SÍO2. Hệ làm nguội này được thực hiện gián tiếp qua hệ ống
làm nguội như hình 9.80.
Hình 9.80. óng dẫn không khí lạnh trong lò A và hệ cung cấp không khí ngoài lò B.
441
5) Hệ thống cung cấp nhiên liệu, không khí và điều khiển lò theo chương trình.
Hiện nay lò thanh lăn ở nước ta có rất nhiều kiểu, tổng thể lò thanh lăn cho trong hình 9.81, trong
hình 9.82 là tổng thể lò thanh lăn của hãng Sacmi. Chúng khác nhau về độ dài và rộng cùng với một số
chi tiết khác. Ví dụ Công ty gạch ốp lát Hà Nội có hai lò với chiều dài là 62 m và 112 m, chiều rộng
trong lò tương ứng là 1,8 m và 2,2 m. Lò nung gạch granit có chiều dài lớn hơn so với gạch ốp lát do
yêu cầu độ kết khối cao hơn.
442
Hình 9.82. Lò nung thanh lăn nung gạch ốp lát Sacmi Italia.
Đe tận dụng nhiệt và không gian của nhà lò người ta còn có thể xây lò thanh lăn 2 tầng như trong
hình 9.83 và 9.84. Lò 9.83 được xây dựng tại Công ty Viglcera Thăng Long từ đầu thế kỷ XXI. Để ngăn
cách 2 tầng, người ta dùng các tấm bông gốm ép chặt treo hay đặt trên các thanh SiC như trong hình 9.85.
443
Hàng thanh lăn trên
Mỗi tầng làm việc riêng với hệ thống đốt nhiên liệu riêng như hình 9.85. Lò 2 tầng có lợi về diện
tích lò chiếm chỗ, lợi về nhiệt nhưng cấu tạo có phức tạp hơn về hệ đường dẫn khí.
444
Tháp sấy phun
Spray dryer
Quạt cho bộ phận sáy
Dryer moỂrtLre eutỄonim
ũ Tlii, rỸi
rfT n
I.i-L-Lz:ZL
TT Trp
Hình 9.87. Sơ đồ bố trí quạt cho hệ lò thanh lăn nung sứ hay gạch men.
Ngoài việc phổ biến nung gạch ốp lát, lò thanh lăn cũng có thể nung sứ vệ sinh, sứ dân dụng và
đồ gốm khác như trong hình 9.86. Trong trường hợp này phải dùng đến các tấm kê và trụ đỡ chịu lửa
khác nhau để đặt sản phẩm nung lên trên nhằm tránh bị biến dạng hay sây sát.
Đẻ tận dụng nhiệt của hệ sản xuất người ta có thề áp dụng mô hình 9.87.
Các thanh lăn là những ống thẳng dày 5 mm, đường kính 30 - 50 mm, dài 1630 - 3000 mm.
Chiều rộng bên trong lò tức chiều dài thanh lăn trực tiếp với lửa dao động từ 750 mm đến 2200 mm.
Đặc tính kỹ thuật của chúng tùy theo hàng sản xuất và dao động như sau:
Hàm lượng AI2O3 68-75% Cường độ uốn 350 - 550 kg/cm2
Khoáng chính Mullite Giãn nở nhiệt ở 1000°C 4.10 6 - 5.10 6
Khối lượng thể tích 2,2 - 2,6 g/crr? Độ bền sốc nhiệt Rất tốt
Độ xốp biểu kiến 20 - 27% Nhiệt độ làm việc 1230°C- 1330°C
Độ hút nước 7-10%
Để sản xuất thanh lăn, sau khi tạo hình các thanh lăn được treo và nung trong lò gián đoạn như
trong hình 9.88.
Số thanh lăn được bố trí cho 1 lò phụ thuộc vào chiều dài của lò và đường kính của chúng. Ví dụ
lò nung gạch granit của Công ty Thạch Bàn có 1756 thanh đường kính 45 mm, khe hờ giữa hai thanh
15 mm. Tốc độ quay của thanh lăn được điều chinh bời tần số của động cơ chính đảm bảo thời gian
nung từ đầu lò đến lúc ra khỏi lò 30 - 60 phút với tốc độ chuyển dịch 2,5 - 3,5 m/phút.
Lò thanh lăn nêu ờ trẽn là loại lò 1 tầng nghĩa là chúng có một mặt ngang tạo băng thanh lăn.
Trên thế giới còn có loại lò 2 tầng thậm chí 3 tầng. Mỗi tầng tương ứng với 1 lò đơn và vật liệu đều
được cấp nhiệt trên xuống dưới lên. Khí của tầng này có thể đi qua tầng khác nhưng cũng có thể hoàn
toàn tách biệt. Lò nhiều tầng tiết kiệm được nhiên liệu hơn nhưng cũng tùy thuộc vào loại sản phẩm mà
lựa chọn loại lò nhiều tầng.
445
Hình 9.88. Lò sản xuất thanh lăn.
Ngoài gạch ốp lát và gạch granit, lò thanh lăn có thể dùng để nung ngói, gạch clinke, sứ vệ sinh,
sứ dân dụng...
Nếu đế trượt trên kim loại thì đáy của đế có khung kim loại và khung này trượt trên thép góc kim
loại bôi trơn băng graphit. Nếu đế trượt trên mặt bê tông thì ma sát sẽ cao hơn nhưng lò hoàn toàn kín.
Đẻ giảm ma sát có thể dùng gạch hay bê tông mài nhẵn hoặc dùng cát, oxit nhôm, graphrit và tốt nhất là
bi gốm chịu lửa. Máy đẩy đặt ờ đầu lò thường là máy đẩy thủy lực loại nhỏ hoặc máy đẩy kiểu trục vít.
Nhìn chung lò này thường có kích thước nhỏ, năng suất không cao, thích hợp với các loại sản phẩm
gốm xây dựng như gạch ốp lát, ngói, gốm mỹ nghệ... Hiện nay ở nước ta cũng có một vài nơi đang sử
dụng lò này để nung sản phẩm mỹ nghệ như vùng Đồng Nai, Bình Dương, hoặc nung gạch ốp lát, sứ
mozai, ngói, sứ dân dụng...
446
9.9.2. Lò tuy nen điện
Hiện nay trên thế giới đặc biệt ở các nước công nghiệp đã có nhiều lò tuy nen sử dụng năng
ỉượng điện. Các lò này dùng đển nung các loại sứ đặc biệt, sứ điện tử, sứ kỹ thuật thậm chí cả sứ vệ
sinh, gạch ốp lát... Lò điện có những ưu việt sau: gọn, chính xác, tự động hoàn toàn, dễ điều chỉnh,
không khói lò và giá thành có thể rẻ.
Quan trọng nhất là vật dẫn tỏa nhiệt. Các loại hay dùng là:
- SiC Cacbua silic phổ biến nhất và có thể làm việc ờ 1400°C (dùng được tới 5000 giờ).
- M0SÌ2 Disilisua molipden làm việc đến 1700°C nhưng thường ờ 1600°C.
- Pt và Pt60-Rh40 có thể làm việc 1400 - 1800°C.
- Gốm ZrO2 với phụ gia CeƠ2 có thể làm việc ở 2000 - 2400°C.
- Nicrôm I nhiệt độ làm việc 970°C (50Ni; 22Cr; 26Fe; 2Mn).
- Nicrôm III nhiệt độ làm việc 1050°C ( 85Ni; 15Cr).
- Nicrôm IV nhiệt độ làm việc 1100°C (80Ni; 20Cr).
- Kanthan D nhiệt độ làm việc 1150°C (22,6Cr; 4,5A1; 2Co; 72,6Fe; 0,09C).
- Kanthan A nhiệt độ làm việc 1300°C (23,4Cr; 6,2A1; l,9Co; 69,44Fe; 0,06C).
Yêu cầu chung của vật dẫn tỏa nhiệt phải thoả mãn ba điều kiện sau:
+ Điện trờ riêng phải lớn và gần băng 1,5 om/mm2/m.
4- Hệ số nhiệt độ phải nhỏ.
4- Bị oxy hóa chậm và có cường độ ờ nhiệt độ cao.
Lò điện có những đặc điểm sau:
+ Trao đổi nhiệt chủ yếu bàng bức xạ nhiệt từ vật dẫn. Mặc dù vậy cũng có dòng khí đối lưu từ
cực tới vật liệu nung làm tăng độ đồng đều quá trình nung.
4- Không có trao đổi khí mạnh như các lò đốt bằng nhiên liệu.
+ Không có tổn thất nhiệt do khói lò mang ra ngoài.
4- Sản phẩm nung không cần bao nung.
4- Lò có thể tích nhỏ mới đảm bào nung đều.
4- Có thể tận dụng được nhiệt khi cho hai dòng sản phẩm đi ngược chiều nhau.
4- Điện trờ vật dẫn thay đổi theo thời gian do bị oxy hóa, đặc biệt là SiC.
4- Phài bố trí lỗ thoát hơi ẩm tại zôn sấy và tiền nung.
4- Đơn thuần về mặt nhiệt thì tiêu tốn nhiệt riêng của lò điện thấp hơn so với dùng nhiên liệu. Tuy
nhiên năng lượng điện thông thường đắt hơn so với nhiên liệu. Chi những nước có năng lượng điện dồi
dào giá thành thấp thì lò điện được dùng nhiều.
447
dẫn nhiệt cao. Việc vận chuyển sản phẩm trong lò rất đa dạng. Một số lò dùng phương pháp thanh lăn
đề chuyển các đế chứa sản phẩm ở trên qua các giai đoạn nung nóng, nung và làm nguội như trong hình
9.90 và 9.91 là một ví dụ.
448
Với quan điểm chế độ nung tốt nhất thì tiết diện ngang của lò vừa đủ lọt 1 sản phẩm đi qua mà
thôi. Đó là những lò nhỏ để nung những sàn phẩm gốm kỹ thuật đặc biệt như sứ bugi cho động cơ máy
nổ hoặc sứ điện tử, lò này chỉ dài 5 - 8 m với tiết diện ngang nhỏ hơn 0,01 m2.
Cũng trên quan điểm tăng sàn lượng và nung chín đều người ta có thể mờ rộng chiều ngang của
lò và giảm chiều cao lớp vật liệu xép trên xe lò. Vì vậy ngày nay trên thế giới đã xuất hiện lò tuy nen
nung gạch ngói có chiều rộng đạt tới 9,2 m, nhưng chiểu cao lớp vật liệu xếp trong lò chỉ còn 1,2 - 1,4 m
với năng suất rất cao và đồng đều về chất lượng sản phẩm sản xuất ra. Gần đây Ý đã xây lò tuy nen lớn
nhất thế giới tại Nga với kích thước (10,5 X 214,85) m (chiều rộng kênh nung 11 m), chiều cao xếp gạch
chi khoảng 1,4 - 1,5 m đề nung gạch đò với năng suất 455.000 tấn/năm. Ngoài ra, Ý đã xây cho Trung
Quốc bốn lò (9 X 181,25) m với sàn lượng 180.000 tấn/năm. Mặt khác, khi tăng chiều rộng của lò thì
việc đầu tư nhà bao che không tăng nhiều, nhất là hiện nay các nhà khung thép đã đạt khẩu độ đến 36 m
không có cột ờ giữa. Hiện nay ờ nước ta mới có lò nung tuy nen với chiều rộng trong lò là 5,8 m.
Cũng với quan điểm trên các lò tuy nen nung nhanh đã phát triển mà điển hình là lò thanh lăn.
Chiều cao của lò thanh lăn chỉ đi qua được 1 sản phấm còn chiều rộng của nó tương ứng với 3-4 sàn
phẩm hay 1,2 - 3,0 m. Cùng sản xuất loại sản phẩm như nhau nhưng chiều dài của lò dài ngắn cũng
khác nhau nên hầu như không có tiêu chuẩn về chiều dài của lò.
Lò tuy nen nung các sản phẩm khác như sứ vệ sinh, sứ dân dụng, chiều cao chi nằm trong
khoảng 1,2 - 1,4 m; lò nung vật liệu chịu lửa chiều cao chỉ 1,0 - 1,2 m đối với gạch kiềm tính và đến
1,4 m đối với gạch samôt. Gạch chịu lửa thường nung ở nhiệt độ cao vì vậy nếu xếp quá cao những
viên gạch phía dưới dễ bị biến dạng do tải trọng đè lên. Do đó ngày nay chiều cao lớp xếp vật liệu
chịu lửa cũng hạn chế.
Đẻ xác định kích thước lò nung tuy nen đầu tiên phải xác định khối lượng vật liệu năm trong lò.
Khối lượng này liên quan đến năng suất cho, chế độ nung và chế độ làm việc của lò. Khối lượng đó xác
định theo công thức sau:
G.Z.100
G|- v-g-Zj100_p) tấn/lò
449
Thể tích và chiều dài L (m) với tiết diện ngang F (m2) của lò xác định theo công thức sau:
V = L.F = G1: g
Chiều dài của lò cũng có thể xác định theo số xe đặt trong lò N và chiều dài của một xe:
L = N.Lx = G1: Gx
Chiều dài của từng zôn xác định theo thời gian vật liệu lưu lại trong từng zôn đó
Zôn tiền nung Lt = L.Zt / z m
Zôn nung Ln =L.Zn/Z m
Zôn làm nguội Lng = L.Zng / z m
Chiều dài tổng L = Lt + Ln + Lng
Việc xác định kích thước của lò không có công thức nào chính xác mà chỉ dựa vào kinh nghiệm
nung các sản phẩm cùng loại cũng như che độ nung cho mỗi loại sàn phẩm mà thôi.
Tỷ lệ giữa các zôn phụ thuộc vào yêu cầu và tính chất vật liệu nung. Đẻ tham khảo có thể tỷ lệ
này dao động ưong khoảng sau:
Loại sản phẩm nung Tỷ lệ các zôn Tiền nung : Nung Làm nguội
Sứ dân dụng (0,65-0,87) : 1 (1,45-1,67)
Faience dân dụng (3-3,5) : 1 (3,5-4,5)
Gạch đỏ 3 : 1 4
Sứ vệ sinh, samôt, gạch clinke 2 : 1 3
Gạch chịu lừa kiềm tính 2,2 : 1 2
Chiều dài thực tế của lò phải kể đến hai phòng chờ ở hai đầu lò nếu có cũng như phải thêm vào
0,5 m vì xe lò sẽ giãn ra và không hoàn toàn tiếp xúc nhau khi ngừng đẩy.
450
Chương 10
Thủy tinh đã được biết đến từ 100.000 năm trước Công Nguyên, đó là thủy tinh thiên nhiên và
dùng như đồ trang sức. Việc sản xuất thủy tinh lần đầu tiên vào khoảng 3.000 năm trước Công
Nguyên tại Syrie và Ai Cập... 500 năm trước Công Nguyên đã phát triển thủy tinh với lò nhiệt độ cao,
xuất hiện sàn phẩm hiếm. Đen thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên đã xuất hiện phương pháp thổi thủy
tinh băng can (ống thổi) tại Syrie và Ai Cập, sau đó công nghệ này mở rộng sang Italia, Espagne và
châu Âu. Thủy tinh lúc này đã trong và không pha màu. Thế kỳ thứ nhất sau Công Nguyên đã hình
thành công nghiệp thủy tinh bao bì do công nghệ thổi phát triển và đã tạo ra được sản phẩm đến vài
chục cm. Thủy tinh không màu được phát triển từ thế kỷ thứ III đồng thời đã xuất hiện thủy tinh
tấm 5-6 Iĩim bằng cách đồ rót và cán. Các tấm kính này được trang trí tại các nhà thờ hoặc tương tự tại
các nước lúc bấy giờ. Từ thế kỳ thứ V đến thứ xrv thủy tinh vẫn phát triển và điều đặc biệt là xuất hiện
hai phương pháp tạo thủy tinh kính: thổi thủy tinh lớn với đáy phăng và thổi thủy tinh lớn với thành
hình trụ to, dài sau đó cắt thành tấm thủy tinh kính.
Tiếp theo là một loạt công nghệ mới ra đời đưa công nghiệp thủy tinh tiến những bước mới phục
vụ công nghiệp, dân sinh, xây dựng... (theo Histoire du verre).
Thủy tinh là loại vật liệu rất phồ biến trong sinh hoạt cũng như trong kỹ thuật. Sản phẩm thủy
tinh rất đa dạng về chủng loại cũng như về hình dạng do phạm vi sử dụng của chúng rất rộng rãi. Trong
thủy tinh thì sản lượng thủy tinh kính luôn chiếm vị trí hàng đầu. Năm 2004, tổng sản lượng thủy tinh
thế giới là 130 triệu tấn trong đó Mỹ, châu Âu EU, Trung Quốc chiếm 60% sàn lượng. Riêng kính nổi
Trung Quốc chiếm 61% trong tổng sản lượng kính, còn châu Âu EU chiếm 67% tổng sản lượng kính
tấm và chai lọ, Mỹ chiếm 50%. Năm 2005, tổng sản lượng kính phăng trên thế giới là 430 triệu tấn,
90% là kính nổi. Sản lượng kính nổi của Trung Quốc chiếm 38% của thế giới. Sản lượng thủy tinh trên
thế giới phân bố như sau: Trung Quốc 22%, châu Âu EU 22% và Mỹ 16%.
Vào thập niên 60, Việt Nam cỏ nhà máy thủy tinh Hải Phòng với công suất 25 tấn/ngày, năm
1975 tiếp quản kính cán nhỏ tại Biên Hòa. Trong những năm qua, ngành thủy tinh của chúng ta phát
triền khá mạnh, đặc biệt là từ khi chúng ta phát triển nền kinh tế thi trường vào đầu năm 1990. Với
những nhà máy sẵn có, chúng ta lại mờ thêm nhà máy thủy tinh kính Đáp cầu (1991) với công suất 2,5
triệu m2/năm, hai nhà máy thủy tinh bao bì lớn tại Hài Phòng và TP. Hồ Chí Minh. Gần đây chúng ta lại
có nhà máy kính nổi liên doanh tại Bắc Ninh với sản lượng 25 triệu m2/năm và Tồng Công ty Thủy
tinh và Gốm xây dựng VIGLACERA đã cho ra những mét vuông kính đầu tiên tại nhà máy kính nồi
Binh Dương với công suất 18 triệu m2/năm. Một số nhà máy kính nồi khác cũng đã đưa vào sản xuất tại
Hưng Yên, Đà Nang... Tổng sản lượng kính của nước ta khoảng gần 100 triệu m2 /năm. Một số nhà máy
thủy tinh được mở rộng để phục vụ cho sàn xuất bóng điện, đồ pha lê, bao bì (chai lọ)...
Bên cạnh thủy tinh, chúng ta đã sử dụng khá nhiều Frit cho công nghiệp gạch ốp lát cũng như
gốm sứ. Hầu hết chúng ta phải nhập Frit từ nước ngoài, chi gần đây mới xây dựng đơn vị sản xuất Frit
cho thị trường, điển hình là đơn vị nấu Frit bằng lò bề liên tục tại Đồng Nai, sau đó là đơn vị Frit tại
Thừa Thiên - Huế và một số nơi khác. Nhìn chung sản lượng của nước ta còn nhỏ và chưa đáp ứng
được yêu cầu về lượng cũng như chủng loại.
451
Nói chung Frit là nguyên liệu tổng hợp dưới dạng hạt thủy tinh được nấu chảy từ các nguyên liệu
ban đầu khác nhau. Frit thường chứa nhiều kiềm và các oxit tạo đục hoặc màu cho men nên nhiệt độ nấu
thấp hom so với thủy tinh. Nếu dùng nguyên liệu ban đầu đề tạo men hay gọi là men “sống” thì thời gian
hình thành men lâu hom và khó láng bỏng. Với công nghệ nung nhanh như gạch ốp lát chẳng hạn, thì
Frit có vai trò đặc biệt quan trọng và không thể thiếu.
Các giai đoạn hình thành thủy tỉnh
Từ một mình cát quart cũng có thể nấu thành thủy tinh nhưng nhiệt độ nấu cực kỳ cao
-1900 -2000°C và đó là thủy tinh Quart rất đắt tiền và có nhiều công dụng trong kỹ thuật. Đẻ cỏ loại
thủy tinh thông thường giá rẻ thì phải tìm cách hạ nhiệt độ nấu thủy tinh xuống -1500°C bằng cách
dùng thêm phụ gia dễ chảy. Vì thế nguyên liệu để sản xuất thủy tinh là cát trăng, sôđa, đá vôi, đôlômit,
thủy tinh mảnh và một số phụ gia khác. Trong lò nấu phối liệu được nâng nhiệt độ và tiến hành theo ba
giai đoạn:
Giai đoạn nẫu
Giai đoạn này bao gồm tạo silicat kiềm, tạo silicat nóng chày, hoà tan cát ưong pha nóng chảy.
Các phản ứng hóa học để tạo các silicat kiềm hoàn thành ở khoảng 1000°C. Khi nâng nhiệt độ tiếp theo
các silicat sẽ nóng chảy và cát sẽ hoà tan trong pha lỏng để tạo thủy tinh. Giai đoạn hòa tan cát trong
thủy tinh kéo dài nhất và chiếm thời gian dài nhất của quá trinh nấu thủy tinh.
Giai đoạn khử bọt và đồng nhất
Thủy tinh hình thành ở giai đoạn nấu chứa rất nhiều bọt và không đồng nhất, vì vậy thủy tinh
phải qua giai đoạn khử bọt và đồng nhất để có thủy tinh trong suốt. Giai đoạn này thường tiến hành
ờ nhiệt độ cao vì ở nhiệt độ cao độ nhớt của chúng sẽ giảm đi để tạo điều kiện bọt nở to lên và dễ
dàng thoát lên trên mặt. Trên đường đi cùa bọt, bọt sẽ to dần do tăng nhiệt độ và kéo các bọt nhô đi
theo đồng thời khuấy đảo làm cho độ đồng nhất tăng lên. Độ nhớt của thủy tinh giảm theo nhiệt độ
như trong hình 10.1.
Để khử bọt, người ta dùng các biện pháp khác nhau như dùng phụ gia khử bọt, các phụ gia này sỗ
tách khí trong lòng thủy tinh ở nhiệt độ tưomg ứng và bọt khí càng to lên khi thoát lên trên. Các chất khử
bọt có thể là Na2SƠ4, ờ nhiệt độ trên 1450°C chúng sẽ phân hủy thành khí SƠ2 và O2 bay lên. Cũng có
thể dùng AS2O3 cùng với NaNƠ3, khí nhiệt độ thấp biến thành AS2O5 nhưng ở nhiệt độ cao chúng lại trở
thành AS2O3 và O2 bay lên. AS2O3 cũng là chất khử màu như đối với sắt. Ngoài ra còn nhiều phụ gia
khác dùng cho đồng nhất thủy tinh.
Hình 10.1. Độ nhớt của thủy tinh giảm theo nhiệt độ.
452
Tạị một số lò người ta có thể dùng không khí nén hay hơi nước quá nhiệt thoát ra từ đáy zôn khử
bọt. Các bọt không khi hay hơi nước nở rất mạnh và nồi lên cao kéo theo các bọt nhỏ đồng thời khuấy
đảo thủy tinh. Kết quả là giảm đi rất nhiều bọt khí trong thủy tinh, nhờ vậy thủy tinh đồng nhất hơn, độ
trong tăng lên. Quá trinh đồng nhất hóa thủy tinh đóng vai trò vô cùng quan trọng vì nó quyết định chất
lượng cũng như năng suất các máy tạo hình, tỷ lệ phế phẩm... Một số loại thủy tinh cần độ đồng nhất
cao như thủy tinh quang học chằng hạn người ta còn lắp thêm máy khuấy trộn với cánh khuấy băng vật
liệu chiu lửa. Mặc dù vậy trong thủy tinh, kể cả thủy tinh quang học vẫn còn chứa bọt nhỏ li ti mà mắt
thường không thấy được.
Giai đoạn làm nguội và gỉa công
Sau khi thủy tinh đã "chín”, người ta phải làm nguội đến khoảng 1200 - 1250°C để độ nhớt của
thủy tinh tăng đến mức độ nhất định đáp ứng với điều kiện gia công tạo hình. Gia công thủy tinh có thể
theo phương pháp thủ công hoặc máy tự động tùy theo loại lò hay kéo kính.
Hiện nay có hai loại lò nấu thủy tinh đó là lò nồi hoạt động gián đoạn và lò bể hoạt động liên tục.
Cả hai loại này đang được sử dụng rộng rãi tùy theo yêu cầu về năng suất cũng như chủng loại thủy tinh
sản xuất ra.
Thực ra thủy tinh đã được biết đến khoảng 5000 năm nay và được sản xuất từ thời Ai Cập cổ đại
trong các lò nhò với chất lượng không cao. Theo thời gian, lò nấu luôn được cải tiến và càng được hoàn
thiện. Giữa thế kỷ XIX, Siemens đã đề ra việc áp dụng buồng hồi nhiệt gián đoạn (Regenerator) cho lò
nấu thủy tinh và được sử dụng cho đến ngày nay. Sau hơn 1 thế kỷ, lò thủy tinh đã được cải tiến và càng
được hoàn thiện về mặt kích thước, mức độ cơ khí hóa tự động hóa, năng suất, tuổi thọ của lò... Từ
những lò nấu xây bằng gạch samôt, gạch cao alumin thời ban đầu đã tiến tới dùng gạch chịu lửa từ oxit
nhôm điện nóng chảy (Corvisit) và gạch từ hỗn hợp ZrC^+AhCb+SiCh điện nóng chày gọi là gạch ZAS
hay gạch Bacor (tên gạch nhập từ Nga). Do đó nhiệt độ nấu thủy tinh có thể tăng lên, năng suất riêng
tăng lên và chất lượng cũng tăng lên. Đặc biệt tại những lò lớn và hiện đại như thủy tinh bao bi chai lọ,
thủy tinh kính xây dựng đều được cơ khí hóa tự động hóa rất cao từ chu trình nấu cũng như gia công tạo
hình, vì vậy năng suất và công suất của lò rất cao, chất lượng thủy tinh sản xuất ra cũng tăng lên.
Cùng họ với thủy tinh và cũng dùng các lò nấu trên là các loại Frit dùng rộng rãi trong công
nghiệp gốm sứ để chế tạo men cho các loại gạch ốp lát và một số gốm sứ đặc biệt. Một số sản phẩm
gốm sử dụng Frit bổ sung cho phối liệu xương hoặc làm chất liên kết gốm cho sản phẩm đó. Yêu cầu
của frit không cao như thủy tinh vì frit chi được coi là nguyên liệu ban đầu của men và có thể điều chỉnh
được. Ngược lại thủy tinh được tạo hình sản phẩm ngay nên độ đồng nhất của thủy tinh có yêu cầu cao
hơn nhiều.
453
10.1.1. cấu tạo lò nồi
Lò nồi có thể làm việc với buồng hồi nhiệt gián đoạn như trong hình 10.2. Tại đây không khí
được nung nóng sơ bộ đến nhiệt độ 800 - 1000°C ở hai cặp buồng hồi nhiệt đặt đối diện nhau. Một cặp
dùng cho không khí, một cặp dùng cho nhiên liệu khí. Nhiên liệu cháy trong lò và cấp nhiệt cho thủy
tinh, khí thải sẽ chui vào cặp buồng hồi nhiệt đối diện để nung nóng gạch đệm trong buồng này. Sau
khoảng 15-20 phút ngọn lửa sẽ đổi chiều và đi ngược lại.
Néu nhiên liệu khí có nhiệt trị cao như khí thiên nhiên chẳng hạn thì chi có một cặp buồng hồi
nhiệt cho không khí mà thôi. Trong trường hợp đó, nhiên liệu khí đưa trực tiếp vào miệng lửa và cháy
với không khí nóng. Nếu dùng nhiên liệu lỏng thì đương nhiên không có buồng hồi nhiệt cho nhiên liệu.
Tuy nhiên nếu chuyển đổi từ nhiên liệu khí nhiệt trị thấp sang nhiên liệu lỏng thì có thề biến buồng hồi
nhiệt đối với nhiên liệu khí thành buồng khí hỏa nhiên liệu lỏng. Trong trường hợp này, nhiên liệu lỏng
chảy vào buồng hồi nhiệt, tại đây nhiên liệu lỏng biến thành nhiên liệu khí dưới tác dụng của nhiệt sau
đó bay vào lò và cháy với không khí nóng. Ống dẫn nhiên liệu lỏng vào buồng phải có đoạn cong có tác
dụng như van thủy lực để không trao đổi khí với bên ngoài. Lượng không khí đi qua đây chỉ đủ để khí
hóa dầu mazut hay FO mà nhiệt độ lại cao, vì vậy quá trình cháy chúng tại miệng lửa càng dễ dàng. Tuy
nhiên, ngày nay không dùng phương pháp khí hóa nhiên liệu lỏng trong buồng hồi nhiệt nữa vì phức tạp
quá trình mà người ta phun dầu từ miệng lửa với không khí cháy có nhiệt độ cao.
A-B
Hình 10.2. Lò nồl nấu thủy tinh VỚI hal cặp buồng hồi nhiệt gián đoạn.
454
Lò nồi cũng có thể dùng buồng hồi nhiệt liên tục (Recuperator). Trong trường hợp này khói lò
thường đi trong ống còn không khí đi bên ngoài ống trao đổi nhiệt. Lò có buồng hồi nhiệt liên tục thì
ngọn lửa không phải đổi chiều và nhiệt độ trong lò tương đối ổn định. Tuy nhiên kết cấu buồng tương
đối phức tạp do việc lắp đặt ống cũng như dễ bị hở do nhiều nguyên nhân. Mặt khác đã dùng buồng hồi
nhiệt liên tục thì phải dùng nhiên liệu có nhiệt tri cao và buồng này chì dùng để nung nóng không khí
mà thôi.
Lò nồi cũng có thể dùng than để đốt. Song chúng có nhiều nhược điểm như phải dùng nồi đặc
biệt để tránh xi than rơi vào thủy tinh, nồi chóng hỏng do tác động ăn mòn của xi, khó khống chể nhiệt
độ... Vì vậy lò này chỉ thích hợp cho những nơi sản xuất theo kiểu thủ công trong các xường nhỏ.
10.1.2. Buồng lò
Buồng lò là nơi đốt nhiên liệu và nấu thủy tinh. Trong buồng lò có đặt các nồi nấu và miệng lửa,
bao quanh là vỏ lò đề tạo không gian cháy và trao đổi nhiệt. Trong quá trình nấu có thể một nồi nấu nào
đó bị vỡ, thủy tinh sẽ tràn ra đáy lò. Để tránh đáy nồi không bị dính thủy tinh, các nồi nấu buộc phải đặt
trên đế chịu lừa. Mặt khác cần phải thoát thủy tinh ra ngoài bằng cách xây nghiêng đáy lò về phía cửa
thoát. Thông thường cửa thoát phải là nơi có nhiệt độ cao để thủy tinh có độ nhớt nhỏ dễ chảy đi. Do đó
cửa thoát thủy tinh do vỡ nồi tốt nhất là miệng lửa. Dưới cửa tháo là kênh nhỏ để đựng thủy tinh, khi
thủy tinh rơi xuống nó sẽ đóng cứng do nhiệt độ hạ thấp. Đến lúc nào đó có thể kéo thủy tinh đỏ ra và
làm thủy tinh mảnh trong phối liệu.
Vỏ lò gồm có đáy lò, tường lò và vòm lò. Vòm lò thường tựa trên tường lò, tuy nhiên cũng có
vòm lò được treo hoàn toàn nhờ các cột và dầm đỡ. Vòm lò thường có chiều dày 230 - 350 mm với lớp
cách nhiệt phía trên. Gạch chịu lửa để xây vòm lò bắt buộc phải dùng gạch chịu lửa dinat với thành
phần chủ yếu là trên 95% S1O2. Khi nhiệt độ trong lò nâng cao, hơi kiềm bốc lên và tương tác với gạch
tạo thành silicat kiềm. Các silicat này nóng chảy thành nhũ nhỏ xuống thủy tinh nhưng không làm thay
đồi thành phần của chúng vì S1O2 là nguyên liệu đề nấu thủy tinh. Do đó gạch dinat không nguy hiềm
đối với thùy tinh. Tuy nhiên gạch dinat có độ bền sốc nhiệt kém và độ giẵn nở nhiệt lớn nên khi chạy lò
vòm lò sẽ nâng cao. Vì vậy cần theo dõi cẩn thận khi nâng nhiệt trong lò. Ngược lại néu dùng gạch chịu
lửa samôt hay cao alumin chẳng hạn, kiềm sỗ ăn mòn chất liên kết và kéo theo cả những hạt samôt chứa
Mulít rơi vào thủy tinh. Các hạt samôt này rất khó tan trong thủy tinh và sỗ tạo thành sạn trong thủy tinh
hay phế phẩm. Cũng không được dùng gạch chịu lửa chứa Crôm như gạch Crôm-Manhêdi chẳng hạn vì
nhũ rơi từ vòm lò xuống sẽ làm cho thủy tinh bị pha màu xanh do chứa Crôm.
Tường lò xây bao quanh bằng gạch chịu lửa samôt hoặc cao alumin dày 300 - 500 mm, bên
ngoài có lớp cách nhiệt và vỏ thép. Tại tường lò có cửa để ra vào nồi nấu và cửa tiếp liệu cũng như để
khuấy đảo và gia công sản phẩm. Khi nấu cửa ra vào nồi được đóng lại hoặc xây bịt kín, cửa này chi
được mờ ra khi cần thay nồi mới hoặc kéo cả nồi thủy tinh đã chín đưa đi gia công. Còn cửa tiếp liệu
cũng đựơc đóng lại khi nấu và chỉ mở khi cần tiếp liệu, khuấy đảo và gia công thủy tinh.
Nền lò thường là gạch blỏc samôt cao lanh có khối lượng mỗi viên đến 300 kg. Chúng được đặt
sát vào nhau khi lắp đặt mà không cần đến vữa chịu lửa xây lò và thường gọi là xây khô. Những khe hở
còn lại là những khe giãn nờ nhiệt và khi thủy tinh có thấm ra ngoài nó sẽ bị đông cứng và hàn kín đáy
lò. Chiều dày của đáy lò dao động trong khoảng 500 - 600 mm.
Cửa tiếp liệu và gia công thủy tinh có thể là cửa để khuấy đảo thủy tinh trong giai đoạn đồng
nhất. Trong trường hợp cần máy khuấy đào thì trên vòm lò cỏ cửa để đưa cánh khuấy vào. Khi thay nồi
mới phải dùng nồi đã đạt nhiệt độ khoảng 1000°C mà không dùng nồi lạnh ờ nhiệt độ thường. Do đó
phải có một lò nung nóng nồi sẵn ở nhiệt độ khoảng 1000°C để dự trữ khi cần dùng đến.
455
10.1.3. Chiều hướng ngọn lừa
Chiều hướng ngọn lửa hay khí trong lò nồi có nhiều kiểu tùy theo kích thước lò và kiểu buồng
hồi nhiệt sử dụng. Đối với lò dùng buồng hồi nhiệt gián đoạn cỏ thể dùng kiểu lửa dưới, lửa trên hoặc
hỗn hợp như trong hình 10.3. Nếu dùng buồng hồi nhiệt liên tục thì có thể dùng kiểu lửa ưên, lửa dưới
và kiểu đối chiều.
Với kiểu lửa dưới, xuất phát từ miệng lửa trên nền lò ngọn lửa đi lên trên rồi vòng về lỗ thoát
cũng trên nền lò. Đường đi của lửa tạo thành hình móng ngựa. Trong trường hợp này nhiệt truyền cho
thủy tinh bằng bức xạ từ ngọn lửa và vòm lò cũng như dẫn nhiệt qua thành nồi. Kiểu này có ưu điểm lớn
là nhiệt độ đồng đều theo chiều cao của nồi nhưng phá hỏng nồi cũng như nền lò tương đối nhanh. Vì
vậy kiểu lửa dưới chỉ dùng đề nấu thủy tinh ở nhiệt độ không cao hoặc nấu ở nhiệt độ cao nhưng cần
đồng đều theo chiều cao của nồi. Loại này thường dùng phổ biến cho các loại thủy tinh mà thời gian gia
công kéo dài như thủy tinh bao bì có kích thước nhỏ. Loại này cũng dùng cho thủy tinh quang học, thủy
tinh cách điện, thủy tinh chất lượng cao...
Tại kiểu lửa trên, ngọn lửa đi ngang qua phòng nhưng ờ phía trên mặt nồi nấu. Việc cấp nhiệt qua
thành nồi nhỏ hơn nhiều so với kiểu lửa dưới nhưng có thể duy tri nhiệt độ cao khi nấu do độ ăn mòn
nồi và nền lò ít hơn. Tuy nhiên nhược điểm cơ bản của nó là chênh lệch nhiệt độ theo chiều cao của nồi
tương đối lớn do đáy nồi xa nguồn nhiệt, nhất là trong giai đoạn gia công. Vì vậy chi dùng kiểu lò này
để nấu thủy tinh có nhiệt độ nấu cao và thời gian gia công nhanh như thủy tinh khó chảy Pirex dùng
trong phòng thí nghiệm hóa, thủy tinh gương đúc, quang học...
Có thể kết hợp cả lửa trên với lửa dưới ưong kiểu lửa hỗn hợp. Tại đây người ta phải dùng hệ
thống van đặc biệt để điều chinh trong giai đoạn nấu và khử bọt thì dùng lửa trên còn trong giai đoạn
gia công sản phẩm thì dùng kiểu lửa dưới hoặc cả hai. Với kiểu lửa này có thể nấu thủy tinh ờ nhiệt độ
cao mà thời gian gia công có thể dài.
Đối với lò dùng buồng hồi nhiệt liên tục người ta hay dùng kiểu lửa dưới và đối chiều. Tại những
lò này nói chung là nên dùng 2 lửa. Dùng 1 lửa không hợp lý lắm vi khu vực nhiệt độ cực đại của lửa
dưới đối chiều sỗ nằm ờ đáy nồi tức là nơi chịu tải trọng lớn nhất của thủy tinh.
Hình 10.3. Các kiểu lửa cùa lò nồl nấu thủy tinh VỚI nồl nấu thông thường và nồl cổ vỊt.
456
'Tại kiếu lửa trên, ngọn lừa chuyển động với tốc độ lớn theo chiều ngang và cấp nhiệt cho thủy
tinh chủ yếu bằng bức xạ. Khí thải khỏi lò qua một lỗ ở nền hay ngang nền lò. Trong lò này có thể nấu
thủy tinh ở nhiệt độ cao và đồng đều nhiệt độ theo chiều cao của nồi. Lúc lửa đi ngang có thể duy trì
nhiệt độ cao mà không sợ hại nồi nấu, còn lúc lửa đi dưới se tránh được quá lạnh thủy tinh ở đáy nồi.
Những lò này có thể nấu được thủy tinh như thủy tinh quang học.
457
Để giảm diện chiếm chỗ đối với lò lớn chứa 12-16 nồi, người ta thường dùng lò ôvan hoặc chữ
nhật. Nếu dùng lò tròn thi sẽ thừa diện tính nền ở giữa lò. Nồi tròn hoặc ôvan (hình 10.5) đều được đặt
trong lò tuy nhiên nồi ôvan lợi dụng diện tích nền nhiều hom.
Nếu dùng buồng hồi nhiệt liên tục thì hình dạng của lò thường là tròn. Nguyên nhân chính là
chiều hướng lửa ổn định hơn và do đó lò được đốt nóng đồng đều hơn.
Hình 10.5. Lò nồi với nồi cổ vịt được nung và nồi hờ hình õ van.
Khi nấu thủy tinh sẽ có một số cấu tử bị bốc hơi đặc biệt là oxit chì, P2O5 hay B2O3 và làm thành
phần thủy tinh bị biến động khỏ khống chế. Trong trường hợp này, người ta có thể dùng nồi cổ vịt để
nấu thủy tinh như trong hình 10.4 và 10.5. Không gian trong nồi nấu hoàn toàn cách biệt với không gian
buồng nấu hay khỏi lò. Nhờ vậy mà thành phần của thủy tinh tương đối ổn định và chất lượng cũng
tương đối bảo đảm. Ở nước ta nhiều nơi dùng lò nồi cồ vịt để nấu thủy tinh và đốt bằng than. Thành nồi
sẽ ngăn cách với bụi xi than và tạo điều kiện để có được chất lượng thủy tinh theo yêu cầu. Tuy nhiên
nếu đốt bằng than thì nồi chóng hỏng do bị xỉ lỏng ăn mòn bên ngoài và thủy tinh lỏng ăn mòn bên
trong. Vì vậy nói chung nồi cổ vịt chỉ để nấu thủy tinh có nhiệt độ nấu thấp do truyền nhiệt cho thủy
tinh từ bên ngoài qua thành nồi vào thủy tinh bên trong. Ngoài ra nồi nấu bị ăn mòn cả hai phía nên
chỏng hỏng.
458
Khi tiếp tục một mẻ mới bao giờ cũng phải nâng nhiệt độ trong lò để thủy tinh còn lại trong nồi
được chày loãng ra. Sau đó tiếp tục cho phối liệu vào nồi từng đợt (thông thường ba đợt) để đảm bảo
chày đều và đồng nhất. Trong quá trình nấu phải trộn nhiều lần đề toàn bộ thủy tinh đồng đều. Sau khi
nấu xong phải tiến hành khử bọt khuấy đào để thủy tinh đồng nhất cũng như có độ trong cao và những
tính năng cần thiết khác. Cuối giai đoạn này ta thu được thủy tinh đảm bào và đôi khi người ta gọi là
thủy tinh đã "chín”. Cuối cùng là giai đoạn làm nguội và gia công thổi chai lọ hay đổ đúc.
Đe đơn giàn ta có thể tham khảo chế độ nấu thực tế của một nhà máy như trong hình 10.6.
+ Nâng nhiệt độ của thủy tinh còn lại trong nồi từ 126O°C đến 1380°C trong 1 giờ, tại 1380°C
cho thêm mảnh vào nồi.
+ Nâng nhiệt độ lên đến 1440°C trong 1,5 giờ, ở 1440°C cho phối liệu lần 1.
+ Nâng nhiệt độ đén 1470°C tức là sau khi nạp phối liệu lần 1 khoảng 3 giờ thì khuấy lần 1. Sau khi
khuấy lầnl thi nạp phối liệu lần 2. Nấu tiếp 2 giờ nữa thỉ nạp phối liệu lần 3 và ở 1470°C khuấy lần 2.
Mỗi lần nạp liệu thì nhiệt độ bị hạ xuống nên cần thời gian nâng nhiệt.
Như vậy thời gian cho các giai đoạn phân bố như sau:
459
Chế độ nấu phụ thuộc vào loại thủy tinh. Có một số loại thủy tinh chu trình nấu kéo dài đến
1,5-2,0 ngày.
Khuấy trộn thủy tinh thực hiện bằng cách đùng khúc gỗ tươi nhúng xuống đáy nồi và trộn đào.
Việc tạo khí rất nhanh từ củi tươi sẽ giúp quá trình loại trừ bọt khí khỏi thủy tinh nhanh chỏng. Cũng
nhăm mục đích đó có thể dùng AS2O3 hoặc KNO3 để khử bọt. Hơi nước hay oxy tạo ra ở dạng bọt lớn
nổi nhanh lên bề mặt sẽ kéo theo các bọt nhỏ trong khối thủy tinh lỏng nóng chảy ra khỏi thủy tinh. Kết
quả thủy tinh trờ nên ít bọt hoặc không còn bọt và có những tính năng phù hợp với yêu cầu.
Số nồi đặt trong một lò dao động trong khoảng từ 1 đến 20 chiếc. Đẻ sản xuất thủy tinh bao bì
thường từ 4 đến 14 chiếc. Loại có 1 hoặc 2 nồi thường để nấu thủy tinh kỹ thuật, số nồi đặt trong lò n
được xác định theo lượng thủy tinh gia công trong 1 nồi và năng suất ngày cần thiết p kg/ngày cùa lò:
n = P: V1 .y
y - Khối lượng riêng của thủy tinh, đơn giản lấy bằng 2,5 kg/lít.
Dung tích của nồi được xác định theo điều kiện gia công và đủ để gia công toàn bộ khối thủy tinh
trong 1 ca làm việc. Nếu gia công bằng phương pháp đúc thì dung tích của nồi cần ứng với lượng thủy
tinh đúc và gia công. Kích thước của nồi nấu thủy tinh kỹ thuật cho trong bảng 10.1.
Năng suất của lò xác định theo lượng thủy tinh cần gia công trong ngày
p = P1 : k kg/ngày
Trong đó: P1 - lượng thủy tinh gia công ưong 1 ca của một lò ứng với chu kỳ nấu và gia công là
24 giờ, tính bằng kg/ngày;
k - hệ số sử dụng thủy tinh, đối với thủy tinh bao bì k = 0,3 - 0,6;
N = Pn:PbZ
460
Bảng 10.1. Kích thước và dung tích nồl nấu thủy tinh
l 1150 1150 920 1000 930 800 555 0,72 400 550 KT
2 1040 1020 850 890 800 730 388 0,735 285 440 KT
3 900 850 800 750 650 690 251 0,78 196 386 KT
4 910 825 720 720 625 610 200 0,60 120 290 Khác
5 650 515 515 535 535 450 100 0,75 75 130 KT
Đề xác định diện tích nền lò nồi có thể dùng số liệu thực tế theo tỷ lệ diện tích bề mặt gương của
thủy tinh trong nồi với diện tích nền lò. Tỷ lệ này thường chiếm khoảng 40 - 50% và không được nhỏ
hơn 33%.
Nếu lò nồi có dạng tròn với khoảng cách giữa các mép nồi 50 - 150 mm, trung bình 100 mm thì
đường kính trong của lò ngang mức mép nồi được xác định theo:
R
Ư
A
V V y
M
Tăng khoảng cách giữa các miệng lửa và để chế độ làm việc của lò tốt hơn, có thể dùng lò ô van
bay chữ nhật với hai đầu tròn.
Trong trường hợp lò hình ô van (hình 10.7) thì chiều rộng của lò B xác định theo:
L=B+M m
461
Sơ đồ tính toán cho trong hinh 10.7. Khoảng cách từ mép nồi với tường lò khoảng 150 - 300
mm, chiều cao từ nền lò đến miệng cửa gia công bằng chiều cao của nồi và để đảm bảo cho thợ thổi làm
việc binh thường phải lấy bằng 700 - 900 mm, còn chiều cao của cửa gia công 300 - 450 mm. Trong
các lò lửa trên cần xếp nồi như thế nào đề nỏ được nung nóng đều đặn.
Chiều cao không gian trong lò xác định theo chiều cao vòm lò, chiều cao này ứng với 1/8 - 1/10
chiều rộng hay đường kính của lò. Ngoài ra còn phải kể đến miệng lửa néu dùng kiểu lửa frên. Chiều
cao chung từ nền đến vòm lò trong khoảng 1,2 - 1,7 m.
Miệng lửa ở nền lò thường cỏ diện tích khoảng 1,5 - 2,5% diện tích nền lò ứng với cường độ
nhiệt 4-6 triệu kcal/m2h. Chúng được xây băng gạch chịu lửa chất lượng cao như gạch Mulit hoặc
Mulit - Corindon. Có thể tính theo tốc độ khí và không khí qua miệng lửa với mức tiêu tốn nhiên liệu
cực đại cho lò và thường khoảng 1,8-3 m/s tính theo điều kiện chuẩn. Miệng lửa của lò lửa trên tính
như của lò bể.
Nếu lò dùng buồng hồi nhiệt gián đoạn thì bề mặt truyền nhiệt hay bề mặt nung nóng của đệm
trong cặp buồng lấy bằng 15 - 20 m2 cho 1 m2 nền lò. Nếu lò chạy bằng khí thiên nhiên hay mazut tức
FO thì bề mặt đệm cho buồng hồi nhiệt không khí bằng 15-20 m2/ m2 nền lò. Trong trường hợp dùng
buồng hồi nhiệt liên tục thì bề mặt truyền nhiệt của nó ứng với 15 - 20 m2 cho 1 m3 không gian làm việc
của lò. Cứ đốt 1 kg mazut phải cần đến 1,25 m2 bề mặt buồng hồi nhiệt liên tục. Nếu dùng nhiên liệu
khí thiên nhiên hay mazut thì có thể dùng buồng hồi nhiệt liên tục cho lò nồi.
462
10.2.1. Phân loại lò bể
Trong công nghiệp thủy tinh lò bể liên tục là lò phổ biến nhất vì nó kinh tế nhất, năng suất cao
nhất, dễ cơ khí hóa và tự động hóa cao nhất. Sơ đồ hoạt động của hệ lò bể nấu thủy tinh cho trong
hình 10.8. Song lò bể có nhiều loại và có nhiều cơ sờ đề phân loại như theo chiều hướng dòng khí, kiểu
buồng hồi nhiệt được sừ dụng, kiểu bể nấu phân riêng hay không phân riêng...
Nếu căn cứ theo buồng hồi nhiệt sử dụng chúng ta có lò hồi nhiệt gián đoạn và liên tục. Việc sử
dụng buồng hồi nhiệt liên tục chỉ ứng dụng cho những lò dùng nhiên liệu có nhiệt trị cao như khí thiên
nhiên, ga lỏng, dầu mazut. Loại có buồng hồi nhiệt gián đoạn là những lò sừ dụng các loại nhiên liệu
khí và nhiên liệu lông, cần chú ý là khi dùng nhiên liệu có nhiệt trị cao thì chỉ có buồng hồi nhiệt cho
không khí mà thôi. Song chức năng của buồng hồi nhiệt này bây giờ là cung cấp không khí nóng nhiệt
độ cao cho quá trinh cháy.
Theo chiều hướng của khí trong lò có thể phân ra loại lò lửa ngang, lửa dọc, lửa chữ u hay móng
ngựa và lửa hỗn hợp. Chiều hướng ngọn lửa có ảnh hường tới dòng thủy tinh ờ bể nấu. Tùy theo kích
thước của lò và yêu cầu của thủy tinh mà lựa chọn kiểu lò. Các kiều lửa trong lò bể nấu thủy tinh liên
tục cho trong hình 10.9.
463
Lò bể dùng buồng hồi nhiệt giản đoạn
n n H n
Với lò dùng buồng hồi nhiệt gián đoạn ta có ba kiểu lửa. Đó là lửa ngang, lửa đọc và lừa chữ u
song loại lửa dọc ít dùng. Nếu dùng buồng hồi nhiệt liên tục chúng ta có kiểu lò lửa ngang, dọc chữ u
kép và hỗn hợp. Tuy nhiên loại lửa dọc và hỗn hợp cũng ít dùng. Ngoài ra khi dùng kiểu lửa ngang phải
dùng số miệng lửa chẵn để đảm bảo phân bố nhiệt độ đồng đều.
Lò bể nào có năng suất lớn kích thước lớn và dùng buồng hồi nhiệt gián đoạn thì thiết kế loại lò
lửa ngang. Tại những lò này miệng lửa kèm theo cặp buồng hồi nhiệt được đặt dọc hai bên tường lò và
đối xứng nhau. Việc bố trí như vậy cho phép ta cấp nhiệt cho lò rất tốt, điều khiển được nhiệt độ, áp
suất cũng như môi trường khí theo chiều dài của lò hay theo các giai đoạn nấu của thủy tinh.
Với những lò không lớn lăm, miệng lửa đặt ở đầu lò và ngọn lửa sẽ đi theo hình chữ Ư hay hình
móng ngựa. Ưu điểm của kiểu lửa này là ngọn lửa sẽ kéo dài và do đó nhiên liệu được cháy hoàn toàn,
nung nóng thủy tinh tương đối tốt ở những lò không lớn lắm. Đó là điều khó thực hiện ở loại lò lửa
ngang cỏ kích thước nhỏ. Tuy nhiên nếu đặt miệng lửa như vậy sỗ khó có thể điều khiển tốt chế độ theo
chiều dài cùa lò đồng thời khi gia công phải đặt bốt ờ cửa gia công. Bốt là bộ phận chịu lửa tương tự
như nồi cồ vịt có cửa thông ở đáy để thủy tinh chảy vào frong, thợ thủy tinh sẽ khều thủy tinh trong
lòng bốt để thổi thủy tinh. Bốt có tác dụng ngăn ngừa bọt trên bề mặt và thủy tinh sẽ có nhiệt độ
tương ửng với điều kiện gia công. Mặt khác do đường đi của lửa như vậy nên khu vực nhiệt độ cực
đại dễ bị thay đổi theo chiều của dòng khí. Vì vậy trạng thái của thủy tinh cũng như dòng thủy tinh sẽ
bị xáo động và gây khó khăn cho quá trình gia công thủy tinh băng máy do máy đòi hỏi thủy tinh phải
có tính chất ổn định.
Những buồng hồi nhiệt liên tục thông thường cỏ kích thước tương đối nhỏ và tác dụng của các
kiểu lửa cũng giống như các loại lò trên.
464
Tại zôn nấu toàn bộ phối liệu được nâng nhiệt độ từ thấp đến cao đồng thời biến phối liệu rắn
thành khối thủy tinh nóng chảy. Vi vậy ờ zôn này tiêu tốn năng lượng là nhiều nhất, lượng nhiên liệu
đốt cháy tại miệng lừa là lớn nhất nhưng nhiệt độ không phải là cao nhất.
Zôn khử bọt có nhiệt độ cao nhất nhưng không phải là nơi tiêu tốn nhiên liệu nhiều nhất. Nguyên
nhân chủ yếu là chỉ tiêu tốn nhiệt để nâng nhiệt độ của khối thủy tinh nóng chảy đến nhiệt độ cực đại và
ton thất nhiệt ra môi trường xung quanh. Như vậy số nhiên liộu cần đốt trong một đơn vị thời gian sẽ
thấp hơn mặc dù nhiệt độ của zôn này là cao nhất.
Trong zôn làm nguội, thủy tinh phải tòa bớt nhiệt cho nên không phải tiêu tốn nhiệt. Tuy nhiên
đề điều chỉnh tốc độ làm nguội và làm nguội đồng đều, đôi khi cũng phải đốt một lượng nhỏ nhiên liệu
ờ zôn này.
Tại khu vực gia công nói chung là không cần cung cấp nhiên liệu vì thủy tinh đã hạ đến nhiệt độ
ứng với điều kiện độ nhớt gia công. Song trong một số trường hợp cần điều chỉnh độ nhớt này mà phải
bố trí một số vòi đốt phụ nhỏ với lượng nhiên liệu cần đốt rất nhỏ. Đa số lò người ta hay dùng vòi đốt ga
nhỏ đặt tại đây vì vòi đốt ga dễ điều chỉnh từ ngọn lửa nhỏ đến lớn được.
Sự phân bố nhiệt độ trung bình tại khoảng không gian của lò bể được minh hoạ trong hình 10.10
và 10.11 của một trong những lò thực tế. Khu vực nhiệt độ cực đại nằm giữa miệng lửa số 3 và 4. Tuy
nhiên nhiệt độ ngọn lừa thường cao hơn nhiệt độ khí rất nhiều, cho nên thực tế tại đỉnh miệng lửa, nhiệt
độ cao vọt lên làm thành đường sóng với những đỉnh cực đại tại miệng lửa.
1500
1580
1250
1350
No3
Hình 10.11. Vị trí xác định nhiệt độ thủy tinh và dòng đối lưu.
465
Sự phân bố nhiệt độ của thủy tinh trong lò cũng khác nhau theo chiều dài của lò. Trên hình vẽ
chúng ta thấy tại mặt N°-l nhiệt độ lớp thủy tinh lớp trên tức dưới phối liệu có nhiệt độ 1270°C. Nhưng
ở mực sâu 200 mm nhiệt độ tăng đến 1310°C sau đó lại hạ thấp xuống còn 1130°C ở độ sâu 1 mét. Tại
mặt N°-2, nơi đồng nhất khử bọt có nhiệt độ cao nhất nhưng nhiệt độ sẽ hạ thấp từ bề mặt xuống đáy
với tốc độ giảm trung bình băng 2,2°C/cm. Tại mặt N°-3, nơi thủy tinh đã chín việc làm nguội bề mặt
không đáng kể và độ giảm nhiệt độ trung bình theo chiều sâu gần 2°C/cm. Còn tại mặt N°—4 đương
cong có chỗ uốn. Điều đó chứng tỏ lớp thủy tinh trên bề mặt đã được làm nguội, song thủy tinh ở độ sâu
200 mm nhiệt độ vẫn còn cao. Tại trung tâm kênh thủy tinh gia công nhiệt độ cực đại đạt 1070°C ờ độ
sâu 200 mm. Nhiệt độ cực đại của thủy tinh trước cầu máy là 1030°C ở độ sâu 100 - 300 mm.
Qua sự phân bố nhiệt độ của một loại lò để nấu thủy tinh tương ứng chúng ta thấy rõ ràng có sự
phân bố nhiệt độ khác nhau tại các vùng khác nhau. Sự phân bố này phụ thuộc vào cấu trúc của lò, loại
thủy tinh nấu, chế độ nấu... Do sự phân bố nhiệt độ rất khác nhau sẽ dẫn đến sự chuyển động của thủy
tinh trong lò.
Sự phân bố nhiệt độ của thủy tinh trong lò cũng không hoàn toàn ồn định theo thời gian. Đối với
những lò làm việc bằng buồng hồi nhiệt gián đoạn, nhiệt độ của ngọn lừa bị thay đổi từ lúc đổi chiều nọ
đén lúc đổi chiều kia. Lò làm việc với buồng hồi nhiệt liên tục đáng lẽ phải ổn định nhiệt độ song thực
tế nhiệt độ cũng dao động. Sự dao động nhiệt độ theo thời gian đều gắn liền với sự hoàn thiện việc cung
cấp nhiên liệu, không khí và hệ thống thông gió. Nếu các quá trình trên được điều chinh tự động thì dao
động nhiệt độ sẽ giảm nhiều và phân bố nhiệt độ sẽ đồng đều hơn cũng như ổn định hơn. Tuy nhiên cần
phải thấy rằng nhiệt độ thủy tinh bị dao động nhiều nhất là lớp bề mặt và lớp sâu dưới đáy, còn lớp ờ
sâu khoảng 200 mm tương đối ồn định hơn.
466
Hình 10.13. Sơ đồ dòng thủy tinh.
A - Giữa hai zôn; B - Cuối zôn tạo hình; c - Cuối zôn tạo hình có hồi lưu.
Trong lò bể, hầu hết thủy tinh đều nằm ở trạng thái chuyển động trừ lớp thủy tinh nằm sát đáy lò
do có nhiệt độ thấp và độ nhớt cao. Nguyên nhân chuyển động thủy tinh trong lò bể là:
- Có sự chênh lệch nhiệt độ giữa zôn nấu và zôn khử bọt cũng như giữa zôn khử bọt và zôn làm
nguội gia công.
- Chênh lệch nhiệt độ giữa lớp thủy tinh ờ giữa trục của lò và lớp thủy tinh sát tường lò do tường
lò tỏa nhiệt ra ngoài.
- Có sự khác nhau, một đầu nạp phối liệu một đầu lấy thủy tinh để gia công.
- Có chênh lệch khối lượng riêng của thủy tinh theo nhiệt độ, nhiệt độ tăng khối lượng riêng
của thủy tinh sẽ giảm. Mặt khác khối lượng riêng của thủy tinh giữa loại đã tan hết cát và loại chưa
tan hết cát cũng khác nhau. Đây là nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho thủy tinh có thể chuyển
động trong lò.
Dòng đối lưu là một chu trình khép kín và phối hợp với dòng thủy tinh gia công. Chúng ta hãy
quan sát dòng thủy tinh trong lò bể nấu với phao ngăn trong hình 10.12 và 10.13. Khu vực A tương ứng
với zôn khử bọt có nhiệt độ cao nhất và mật độ thủy tinh thấp, còn khu vực B tương ứng với zôn làm
nguội có nhiệt độ thấp hơn nên mật độ thủy tinh cao hơn. Hãy tưởng tượng giữa khu vực A và khu vực
B được nối với nhau bằng một ống nhỏ ỉ ở đó thủy tinh không chảy từ A sang B và ngược lại. Điều đỏ
chứng tỏ áp suất thủy tĩnh của thủy tinh tại hai đầu ống bằng nhau và ta có thể viết:
467
Tóm lại do sự phân bố nhiệt độ không đều của thủy tinh trong lò bể mà dẫn đến:
1) Mực thủy tinh trong lò bể không đồng đều, nơi có nhiệt độ cao sẽ có mực cao hơn nơi có nhiệt
độ thấp.
2) Dòng thủy tinh sẽ chảy từ nơi có nhiệt độ cao đến nơi có nhiệt độ thấp ở phía trên và chảy
ngược lại ở phía dưới.
3) Dòng thủy tinh chỉ ngừng chảy khi nhiệt độ của thủy tinh tại các điểm bằng nhau cũng như
tính chất của thủy tinh cũng như nhau.
Trong thực tế của lò công nghiệp nhiệt độ không bao giờ băng nhau, trong lò nấu thủy tinh lại
càng có chênh lệch nhiệt độ khá nhiều do yêu cầu kỹ thuật của lò. Vì vậy sẽ có dòng thủy tinh liên tục
chảy và tạo thành dòng đối lưu khép kín như trong hình 10.11 và 10.14. Dòng thủy tinh sẽ đi từ zôn khử
bọt là nơi có nhiệt độ cao nhất sang zôn nấu và zôn làm nguội. Ngược lại ở phía dưới dòng thủy tinh sẽ
đi từ 2 zôn trên về zôn khử bọt. Các dòng đó tạo thành dòng đối lưu của thủy tinh frong lò. Tuy nhiên ờ
đầu lò được nạp phối liệu còn đầu khác thủy tinh được lấy đi gia công, cho nên một phần của dòng từ
zôn nấu sang sẽ nhập vào dòng thủy tinh chảy từ zôn khừ bọt sang zôn làm nguội. Tại những nơi bị thắt
dòng bời tường ngăn hay cống sẽ cỏ một bộ phận nhỏ thủy tinh quay trở lại tạo thành dòng địa phương
như trong hình 10.14 và 10.15.
0 O 3 I
z X X z
Hình 10.14. Sơ đồ dòng thủy tinh đối lưu và nhiệt độ trong lò bể.
Dòng chảy của thủy tinh được diễn ra không những trong bể nấu mà có thể ngay tại kênh dẫn
thủy tinh đến máy gia công nếu kênh này lớn. Điều đó có nghĩa là tại kênh này cũng có dòng thủy tinh
chảy ngược về lò ở sát đáy kênh.
Tốc độ cùa dòng thủy tinh tương đối nhỏ, theo nhiều nhà nghiên cứu thì tốc độ của dòng thủy
tinh trên bề mặt của bể nấu là 12 m/h, tại phần làm nguội là 14 m/h, tại eo thắt hay cống khoảng 2,4 m/h
đối với lò nấu thủy tinh kính xây dựng.
Hình 10.15. Dòng đốl lưu thủy tinh theo chiều ngang của bể nắu.
468
Nếu xét tiết diện ngang của lò chúng ta cũng thấy có dòng đối lưu của thủy tinh. Tại thành bể nấu
nhiệt độ thấp hơn cho nen dòng thủy tinh phía trên đi từ tâm lò đến thành bể và ngược lại ờ phía dưới.
Một chỉ tiêu rất quan trọng của lò nấu thủy tinh là hệ số dòng n. Hệ số dòng là tỷ lệ giữa lượng
thủy tinh chảy từ phần nấu sang phẩn làm nguội và gia công trên lượng thủy tinh được gia công.
Nếu tàng hệ số dòng n lẽn tức tăng lượng thủy tinh chảy từ zôn khử bọt sang zôn làm nguội sẽ
dẫn tới tăng độ đồng nhất của thủy tinh, tăng chất lượng thủy tinh sàn xuất ra, giảm phế phẩm tạo hình,
tăng năng suất máy tạo hình. Tuy nhiên tăng hệ số dòng sẽ tăng lượng nhiên liệu tiêu tốn vì phài cung
cấp nhiệt để tăng nhiệt độ của thủy tinh quay lại zôn khử bọt. Mặt khác kích thước của bể nấu phải tăng
lên, độ bào mòn gạch chịu lửa cũng tăng lên do tốc độ của thủy tinh tăng lên. Cho nên với mỗi loại thủy
tinh và tùy theo yêu cầu về kinh tế và kỹ thuật mà khống chế hệ số dòng n cho phù hợp. Thông thường
hệ số dòng trong lò nấu thủy tinh n = 2.
LÒ bể cờ nhỏ thường dùng để nấu một số loại thủy tinh đặc biệt hoặc thủy tinh chiếc như thủy
tinh bao bì, chai lọ nhỏ cho các ngành y tế mỹ phẩm... với mức độ gia công thủ công hay cơ khí hóa.
Những lò này chủ yếu dùng ngọn lửa hình chữ u hay móng ngựa như hình 10.16. Chiều rộng của bể
nấu khoảng 3 - 4 m, chiều dài đến 15 m. Diện tích phần nấu tức zôn nấu với zôn khừ bọt của lò dao
động khoảng 10-50 m2. Lò nhò không có cống ngăn để gia công thủy tinh bao bì thì diện tích phần
làm nguội và gia công chiếm khoảng 40 - 50% diện tích phần nấu.
Hình 10.16. Lò bể với lửa hình chữ u (móng ngựa) với buồng hồl nhiệt gián đoạn.
469
va Chày
Vòng đệm
(rông đen) Kênh dẫn
(feeder)
Kéo cắt
Giọt thùy tinh
Hình 10.17. Cấu tạo bộ phận tạo giọt thủy tinh cho mảy thổi.
Trong hình 10.16 trình bày lò bể cỡ nhỏ với ngọn lừa hình chữ u và buồng hồi nhiệt gián đoạn.
Tại tường bên có 2 cửa nạp liệu, qua cửa này phối liệu và mảnh thủy tinh được đưa vào lò. Bể của lò
được ngăn đôi thành 2 phần là phần nau và phần làm nguội gia công. Hai phần này nối với nhau bằng
cống và qua đó thủy tinh có thể chảy từ zôn khử bọt sang và ngược lại. Không gian của lò cũng được
ngăn đôi bởi tường chắn có nhiều ô lỗ xây ngay trên cống.
Lửa đi theo hình chữ u nên miệng lửa đặt ờ tường đầu hồi của lò để kéo dài lửa. Việc tính toán
về miệng lửa cũng như khí động học của chúng phải làm sao để đảm bảo ngọn lửa tạo ra hình nói trên.
Nếu tốc độ khí quá nhỏ, ngọn lửa lúc mới ra quá ngăn đã quặt ngay vào cửa hút. Điều đó dẫn đến quá
nhiệt tại buồng hồi nhiệt và phân bố nhiệt trong lò không đều. Nếu tốc độ khí quá lớn lại dẫn đến
kéo ngọn lửa quá dài và ngọn lừa sẽ xối mạnh vào tường chắn làm hư hại tường chắn. Vì vậy tốc độ
khí trung bình của lửa tại miệng lửa khoảng 10-14 m/s hay bằng (7 + L) m/s với L là khoảng cách
từ miệng lửa tới tường chắn. Như vậy tốc độ khí bằng khoảng hai lần chiều dài của lò tính từ miệng
lửa tới tường chắn.
Vòm lò thường làm chung cho cả phần nấu và gia công, nhưng nếu lớn hơn 6 m thì phải có khe
giãn nờ nhiệt. Đầu gia công thường có dạng bán nguyệt để có thể đặt được nhiều cửa để gia công thủy
tinh (hình 10.19 và 10.20). Không khí để cháy nhiên liệu được nung nóng trong buồng hồi nhiệt và cháy
tại miệng lửa. Tại khu gia công không cần phải cung cấp nhiên liệu. Nhiệt cần thiết để duy trì nhiệt độ
của thủy tinh tại khu vực này được cấp bằng bức xạ từ phần nấu và từ dòng thủy tinh đối lưu từ phần
nấu sang. Tại cửa gia công có các bốt nhúng sâu và thủy tinh, do đó thủy tinh ở sâu sẽ trồi lên trên mặt
bốt. Thủy tinh này sẽ cỏ nhiệt độ thấp hơn, phù hợp với yêu cầu về độ nhớt để gia công và tránh được
bọt bẩn lẫn vào.
Cuối phần làm nguội thủy tinh được dẫn đến nơi tạo hỉnh. Đối với chai lọ như chai đựng nước
giải khát, thủy tinh sẽ được chày đóng xuống và kéo tự động cắt thành giọt ứng với khối lượng cần thiết
cho mỗi chai như trong hình 10.17. Khi giọt thủy tinh rơi xuống, máy tự động thổi thành chai và tùy
theo công suất của máy thổi mà số giọt thủy tinh được cắt sẽ tương ứng với công suất đổ.
Nếu dùng nhiên liệu có nhiệt trị cao thì dùng lò với buồng hồi nhiệt liên tục được trình bày trong
hình 10.18 và 10.19. Tại những lò này chỉ không khí được nung nóng trong buồng hồi nhiệt liên tục.
Khi không khí nóng phun ra cũng là lúc nhiên liệu được phun tại miệng lửa. Ngọn lửa có thể đi vòng lên
trên theo kênh giữa hai vòm lò để vào buồng hồi nhiệt liên tục. Nói cách khác, lò này có đặc điểm là
chúng có hai vòm và giữa hai vòm này khói lò nhiệt độ cao sẽ thoát ra khỏi lò để vào buồng hồi nhiệt.
470
Máng dẫn thủy tinh
Hình 10.18. Lò bể nấu thủy tinh với kênh giữa haì vòm đến buồng hồi nhiệt liên tục (recuperator).
B-3
/ĩ /Ị-R
Hình 10.19. Mặt cắt lò bể cỡ nhỏ lừa quay ngược vào buồng hồl nhiệt liên tục (Recuperator).
471
B
Trong công nghệ sản xuất thủy tinh bao bì, phổ biến hơn cà là dùng lò bể cỡ nhỏ đốt trực tiếp
vừa đơn giàn và vừa rẻ về mặt xây dựng, cấu tạo cùa lò này cho trong hình 10.20. Tại lò này không
có buồng hồi nhiệt nào cả. Neu so sánh với những lò dùng buồng hồi nhiệt gián đoạn thì lò này có
những ưu việt sau:
1) Không phải đổi chiều dòng khí nên bảo đàm duy trì ổn định chế độ nhiệt độ và môi trường khí
trên mặt thủy tinh theo chiều dài của lò.
2) Chất lượng của thủy tinh cao hơn.
3) Có thể cháy nhiên liệu với hệ số không khí dư nhỏ nhất.
4) Khí thải của ngọn lửa hầu như đi ngược chiều với dòng thủy tinh, cuối cùng sẽ được thải ra
ống khói mà ngay chân ống khói lại là nơi nạp phối liệu vào lò. Do đó việc truyền nhiệt cho phối liệu sẽ
được tiến hành tốt hơn.
5) Khí thải với nhiệt độ 1100 - 1300°C có thể được sử dụng vào mục đích khác như cho lò ủ, sản
xuất hơi nước hay nung nóng không khí trước khi vào cháy nhiên liệu...
6) Do không có buồng hồi nhiệt nên có thể xây lò ở nơi thấp không phải nhà cao.
Bể của lò này có hình chữ nhật dài khoảng 6 - 14 m, rộng 1,5 -3 m, sâu 0,6 - 0,9 m. Nhiên liệu
chạy lò là loại có nhiệt trị cao như khí thiên nhiên hay dầu mazut. Neu cần không khí nóng có nhiệt độ
không cao lắm thì cỏ thể lắp thêm buồng hồi nhiệt liên tục kim loại trên đường thoát khói lò. Trường
hợp này chi dùng cho nhiên liệu khí nhiệt trị cao hay lỏng mà thôi.
Các vòi đốt đặt ở hai bên tường lò và cách đều nhau. Phải dùng vòi đốt có ngọn lửa ngắn và cháy
hoàn toàn cho nên chiều rộng của lò không quá 3 m. Neu dùng khí thiên nhiên hay ga lỏng LPG đốt
theo phương pháp trên có thể cho năng suất đến 40 tấn/ngày.
Trong hình 10.20 trình bày loại lò dùng dầu mazut hay FO. Nhiệt độ tại zôn khử bọt 1520°C,
zôn nấu 1370°C, khi vào cửa nạp liệu 1220°C và ra ống khói 1175°c. Việc cấp nhiệt được điều
chinh tự động.
472
Lượng nhiệt cần thiết cho một ngày của lò đốt trực tiếp bàng:
Q = ( 13,2+ 1,7 F) + 10,8 p-IO9 J
Miệng lừa
Kénh dân
thủy tinh
Hình 10.21. Lò bể trung bình đổ nấu thủy tinh bao bì (chai lọ).
473
Hình 10.22. Sơ đồ chu trình hoạt động của lò với buồng hồi nhiệt giản đoạn.
Một trong những lò kiểu này cho frong hình 10.21. Hoạt động của lò với buồng hồi nhiệt gián
đoạn cho trong hình 10.22 đối với lò dùng nhiên liệu nhiệt trị cao và dùng gạch chữ thập làm đệm cho
buồng hồi nhiệt. Khi hoạt động, nhiệt độ của đệm được nung nóng dần và nhiệt độ khói lò giàm dần.
Sau khoảng 15-20 phút sẽ đổi chiều và chu trình nung nóng đệm đối diện lại giống như buồng ban đầu
(xem thêm chương 6).
Bể nấu hay phần nấu sẽ tạo ra thủy tinh đồng nhất cao, bể gia công sẽ thực hiện quá trình làm
nguội và gia công, hai bể này được nối với nhau bằng cống. Nhiệt để cung cấp cho phần gia công là
nguồn bức xạ nhiệt từ phần nấu cũng như từ dòng khí. cống nối thường đặt ngang mức đáy phần nấu
của bể. Tùy theo chiều sâu cùa phần nấu và phần gia công mà cống nối có thể thẳng hoặc gãy khúc.
Loại gãy khúc thường dùng cho lò nấu thủy tinh đục, thủy tinh màu còn loại thẳng dùng cho loại thủy
tinh trong không màu. Chiều sâu của phần nấu đối với thủy tinh không màu 0,7 - 1,2 m. Càng giảm độ
trong và tăng độ nhớt cùa thủy tinh lên thì chiều sâu của bề phải giảm đi còn 0,5 - 0,6 m. Chiều sâu của
bể gia công thường kém hơn phần nấu khoảng 300 mm.
Để có dược thủy tinh đồng nhất trong lò cần duy trì chế độ nhiệt độ ổn định. Việc bố trí miệng
lửa dọc hai bên lò cho phép ta dễ thực hiện việc duy trì chế độ nhiệt cũng như môi trường tương đối ổn
định. Vì vậy theo chiều dài của lò nhiệt độ tăng dần từ cửa nạp liệu đến zôn khử bọt, sau đó hạ dần đến
zôn gia công.
10.2.4.3. Lò bể cỡ lớn
Lò bể cõ lớn thường được sử dụng để nấu thủy tinh bao bì và thủy tinh kính xây dựng với kích thước
cùa một lò như ưong hình 10.24. Năng suất của những lò nấu thủy tinh bao bì khoảng 60- 120 tấn/ngày
và để nấu thủy tinh kính xây dựng 150 - 450 tấn/ngày. cấu tạo của lò bể cỡ lớn cũng tương tự như loại
lò trung bình nghĩa là miệng lửa đặt dọc hai bên thành lò và phần gia công sẽ có nhiều kênh dẫn thủy
tinh đến nơi tạo hỉnh. Với tất cả các phương pháp gia công như thổi cơ khí, kéo đứng, kéo ngang hay
thủy tinh nổi, bể nấu thường có kích thước lớn không ngăn thành 2 bể riêng biệt mà chi có phao hoặc
ống thép dẫn nước lạnh trên mặt thủy tinh. Phao này được chế tạo bởi vật liệu chịu lửa điện nóng chảy
và đặt nổi trên mặt thủy tinh. Một số nhà máy đã dùng ống kim loại dẫn nước lạnh thay cho phao. Do
lạnh nên thủy tinh bám chắc vào ống nước tạo thành máng ngăn bọt từ bể nấu sang.
Thông thường lò lửa ngang có diện tích phần làm nguội tương đối lớn vì không có tường
phân riêng cũng như không có cống phân riêng. Trong các lò kiểu này, ví dụ diện tích phần nấu của
bể là 120 - 300 m2, thì diện tích phần làm nguội bằng 60 - 150% so với diện tích mặt gương phần nấu.
Diện tích đó là cần thiết để nhiệt độ của thủy tinh có thể hạ thấp đến mức ứng với độ nhớt gia công.
474
Hình 10.23a. Lò bổ cỡ lớn nấu thủy tinh chai lọ và kính.
Hình 10.23b. Mặt cắt lò bể nấu thủy tinh bao bì, chai lọ và kính xây dựng kiểu cũ.
Lò bể cỡ lớn thông thường dùng buồng hồi nhiệt gián đoạn với chu kỳ đổi chiều 15-20 phút.
Neu nhìn bên trong lò như hình 10.24 ta sẽ thấy miệng lửa của những lò kiều này. Kích thước của các
buồng hồi nhiệt không giống nhau. Nori nạp liệu cần nhiều năng lượng nhất nên ta cũng thấy buồng này
rộng horn so với buồng khử bọt và đồng nhất.
475
10.2.5. Lò kéo kính
10.2.5.1. Ché tạo kính cổ xưa
Thuở xưa người ta chế tạo kính thủy tinh băng cách nấu thủy tinh trong lò bể gián đoạn như
hình 10.25. Khi thủy tinh đã chảy lỏng, người ta múc thủy tinh bằng gáo chịu lửa rồi đổ lên mặt phăng
bằng kim loại, dùng ru lô lăn lên tạo mặt thứ hai. Hoa văn tạo nên trên mặt thứ hai tùy theo yêu cầu và
có ru lô tương ứng. Sau khi tạo hình, thủy tinh được ủ và cắt thành tấm theo kích thước cần thiết.
Năm 1975, tại khu công nghiệp Biên Hòa vẫn còn lò này hoạt động và thường gọi là kính cán. Chất
lượng thủy tinh không thể cao được vì còn nhiều bọt khí nên việc tạo hoa văn để che lấp khiếm khuyết
này. Theo yêu cầu, kính được lắp ghép thành các cửa kính, ví dụ các nhà thờ cổ xưa chăng hạn.
476
Sau này, lò bể gián đoạn đã cải tiến và trang bị hệ hồi nhiệt gián đoạn như trong hình 10.26. Lò
này đã tiến bộ hơn do giảm nhiệt tiêu hao khi nấu thủy tinh và có thề nấu loại thủy tinh đòi hỏi nhiệt độ
cao horn với khối lượng nấu lớn horn.
Để sản xuất kính trong suốt, người ta thổi trụ lớn do William Pilkington (Anh) đề ra năm 1871
rồi sau đó cắt thành miếng (xem hình 10.27 và 10.28). Phưorng pháp này kéo dài khá lâu và năng suất
tưorng đối thấp, chất lượng thủy tinh chưa được cao. Tuy nhiên phương pháp này cũng đã góp phần cho
kính thủy tinh trong một thời gian dài.
477
Miệng lửa Thùỵtinh nấu chày Kéo đứng
kinh thủy tinh
ssssssssssssss
Phương pháp kéo ngang cho trong hình 10.31. Quy trinh kéo kính cũng tương tự như kéo đứng
và chi khác ở chỗ kính đi ngang để đến buồng ủ thủy tinh. Trước đó việc kéo ngang chi thực hiện khi
kéo đứng lên một đoạn rồi cho đi ngang bởi một ru lô. Điểm chuyển sang kéo ngang có nhiệt độ còn
tương đối cao và thủy tinh đang trong trạng thái dẻo.
478
Bề của lò có hình chữ nhật và co hẹp giữa zôn khử bọt và zôn làm nguội. Đồng thời cũng tại đây
tường chắn bây giờ hạ thấp xuống còn 50 - 100 mm trên mặt gương thủy tinh. Việc co hẹp hay hạ thấp
tường chấn để giữ ché độ nhiệt độ theo yêu cầu dọc theo chiều dài của lò và tăng cường quá trình nấu.
Tại đầu lò phối liệu được nạp liên tục còn đầu kia kính thủy tinh được liên tục kéo đi. Các máy kéo thủy
tinh được đặt trên các kênh và kéo thủy tinh liên tục, tùy theo năng suất mà số máy kéo đặt nhiều hay ít.
Kính thủy tinh sản xuất theo phương pháp kéo đứng hay ngang đều có khuyết tật bẩm sinh đó là tạo làn
sóng trẽn bề mặt hay nói cách khác là hai mặt không phẳng và không song song với nhau. Nếu tráng
gương thì hình ành trong gương bị biến dạng và không thực. Nếu nhìn qua kính thì hình ảnh cũng bị
biến dạng gây khó chịu cho người sử dụng.
Ịu H f—-ì fi
1 n oơo00OQ0U0000 0Q L___)
1
Hình 10.32. Sơ đồ cản, gia công bè mặt của kính thủy tinh.
Trong hình 10.33 là hệ lò kính nồi và hệ này thường dài khoảng trên 300 đến 400 m. Hệ này
thường chia làm 4 phần chính:
1. Nạp phối liệu. Phối liệu nấu gồm cát, soda, đá vôi, đolômit. Thành phần của phối liệu có cho
thêm mảnh vỡ của thủy tinh để giảm nhiệt độ nấu và tăng tốc độ tạo thủy tinh. Sau khi cân, trộn phối
liệu được đưa tự động vào lò nấu. cần lưu ý rằng phối liệu cần có độ ẩm nhất định để giảm bụi bay theo
khói lò vào buồng hồi nhiệt.
479
Rubande Bộ phân dựng tấm thủy tinh nhỏ
verre continu Disposal de
Arche de Ru băng thúy tinh manutentíon verticale
rẹtroèdissement liên tục de pelts plateaux
(depot de couches) Découpe
Buồng ủ làm nguội transversale
Cắt ngang
Bain d°ẽtán
Bê thiếc (Float)
Four
de fusion
Oispositítde
manutentỉon verticale
de grands plateaux
Arrtvẻe de Bộ phặn dựng tắm thủy tinh IỎĨ1
matiêre brute
2. Lò nấu. Tại đây sẽ tiến hành 3 giai đoạn: nấu chảy, đồng nhất và khử bọt để tạo thủy tinh
“chín” ở nhiệt độ khoảng 1550°C. Giữa bể nấu chín và bể làm nguội có kênh dẫn và trên kênh đó người
ta đặt cánh trộn để đảm bảo tăng độ đồng nhất của thủy tinh. Cánh đảo trộn này bằng kim loại rỗng
được làm nguội bằng nước nên không bị hư hại bời nhiệt độ cao. Các cánh này được quay đảo chậm
chạp nhăm tăng độ đồng nhất của thủy tinh khi độ nhớt của chúng còn thấp hay nhiệt độ còn cao. Hệ
đảo trộn thủy tinh của lò kính nổi có thể xem trong hình 10.35.
Lò bể cho thủy tinh nổi dùng buồng hồi nhiệt gián đoạn như trong hình 10.34a, 10.34b và tồng
thể trong hình 10.334c với bể không phân riêng bằng tường chắn và các kênh gia công mà dùng ống dẫn
nước thay phao ngăn bọt. Đó là loại phổ biến nhất hiện nay để sản xuất thủy tinh kính xây dựng theo
phương pháp kéo thủy tinh nổi.
Sau đó thủy tinh được làm nguội trong bể làm nguội đến độ nhớt cần thiết để tạo hình. Đối với
thủy tinh nổi thì nhiệt độ của thủy tinh trước khi chảy vào bể thiếc nóng chảy phải đạt 1.100°C đối với
thủy tinh trắng và 1170°C đối với thủy tinh màu.
Gạch đệm
buồng hồi
nhiệt gián
đoạn
480
Phần nấu của lò nấu
Hình 10.34b. Bể đồng nhất và cửa tràn của lò thủy tinh kính nổi.
Hình 10.34c. Hình ảnh chung của lò nấu thủy tinh kính nổl.
Hình 10.35. Hệ đảo trộn thủy tinh trước khi sang bể làm nguội.
481
Hình 10.36. Một góc lò thủy tinh nổi.
Hình 10.37. Giai đoạn xép kính thủy tinh bằng robot tự động.
482
3. Bể thiếc nóng chảy. Thủy tinh lỏng được rót vào bể thiếc nóng chảy ở khoảng 1.100°C. Thủy
tinh nhẹ hon kim loại thiếc nên chúng chày tràn và nổi trên mặt thiếc nóng chảy. Do một đầu bị kéo nên
tạo ra băng thủy tinh trải dài và liên tục đi ra khỏi bể thiếc. Mặt khác nhờ bộ phận điều chỉnh mà khống
chế chiều dày thủy tinh thông thường bằng 5 đến 6 mm. Nếu muốn độ dày của kính dưới 5 mm hoặc
trên 6 đến 12 mm thì phải bố trí ru lô ở đầu bề để điều chỉnh. Trong trường hợp cần có kính dày 0,5 mm
thì cần tới 20 ru lô điều chinh ở đầu bể,
Do thủy tinh tràn vào bể thiếc nên tại nơi đỏ bề mặt của thiếc lỏng bị võng xuống như trong hình
10.39 mô tả. Nhưng sau đó mực thiếc lòng trờ lại bình thường và ồn định ờ đoạn sau. Nhờ sức căng bề
mặt nên mặt tiếp xúc với thiếc nóng chảy rất bằng phẳng và nhăn bóng. Ờ mặt trên thủy tinh cũng có
chiều hướng giảm bề mặt tiếp xúc với khí lại được bổ sung thêm nhiệt nên cũng rất phẳng và bóng. Nhờ
cơ chế này mà thủy tinh nổi rất phẳng, bóng láng, hai mặt luôn song song với nhau nên chất lượng thủy
tinh kính rất cao.
Để bào vệ thiếc không bị oxy hóa người ta phải bố trí hệ thổi hydro hay nitơ vào khu vực
này. Vì vậy tại nhà máy thủy tinh nổi cần phải có phân xưởng sản xuất hydro hoặc N2 phục vụ cho
mục đích này.
X 1 Nhiệt độ và độ nhớt
4. Lò ủ. Băng thủy tinh khi ra khỏi bể thiếc cần được ủ hay làm nguội từ từ trong khoảng 620
đến 250°C để loại trừ ứng suất nội của tấm kính. Viộc làm nguội chậm chạp trong tuy nen bằng các ru lô
là bẳt buộc nếu không như vậy thì thủy tinh sẽ bị vỡ hàng loạt lúc cắt tấm kính thậm chí tự nhiên vỡ
trong khi sử dụng.
Tại khu vực này nhiệt độ còn cao nên có thể:
- Dùng khí SO2 thổi vào để trích bớt kiềm trên mặt kính nhằm nâng cao độ chịu axit của kính.
Thủy tinh bị tác dụng của không khí ẩm hay nước mưa chứa CO2 có tính axít sỗ gây nên mờ thủy tinh.
Để tăng độ bền của thủy tinh kính người ta thường khử bớt ion kiềm tại lớp bề mặt bằng cách thổi khí
SO2 trong giai đoạn ủ nghĩa là ờ nhiệt độ tương đối cao. Nhờ vậy mà tránh được hiện tượng thủy tinh
kính bị mờ theo thời gian, đặc biệt với khí hậu nhiệt đới của nước ta.
- Phun dung dịch để tạo màng mỏng nanô oxit hoặc kim loại trên mặt khi muốn kính có khả năng
phàn xạ ánh sáng mà vẫn trong suốt hay có màu cần thiết.
5. Cắt thủy tinh (phần phụ). Băng thủy tinh khi ra ngoài sỗ được cắt tự động thành tấm kính với
kích thước yêu cầu. Kích thước tấm kính của nhà máy Saint Gobain-SGG Planilux là (6.000 X 3210) mm.
Sau khi cắt kính sẽ được dựng lên để có thể xép vào xe chuyên dụng cũng như thuận tiện khi vận
chuyển (hình 10.37).
483
Kính thủy tinh cỏ thể dùng trực tiếp cho xây dựng dưới các dạng khác nhau hoặc cho các đồ dân
dụng. Từ kính thủy tinh có thể sản xuất các loại kính an toàn như kính nhiều lớp xen lớp chất dẻo hữu
cơ hoặc kính cách nhiệt một hay hai lớp khí. Cũng cỏ thể tôi nhiệt thủy tinh băng cách đưa kính thủy
tinh vào lò, nâng nhiệt đến nhiệt độ khoảng trên 500°C (ở nhiệt độ này các phân tử có thể di chuyển
được) rồi làm nguội đột ngột và đồng đều hai mặt bằng không khí lạnh. Nhờ vậy mà lớp mặt của kính
chịu lực ép rất mạnh và có đặc điểm là khó vỡ và nếu bị vỡ chúng sỗ tạo ra rất nhiều mẩu cạnh không
sắc nên được dùng làm kính cho ô tô, kính an toàn cho nhà cao tầng... Người ta còn dùng phương pháp
tôi hóa học nghĩa là đặt kính thủy tinh trong KNO3 nóng chảy ờ 400°C khoảng 12-24 giờ. Trong điều
kiện đó, ion K+ kích thước lớn thay thế ion Na+ kích thước nhỏ hơn trong thủy tinh. Kết quả lớp mặt của
thủy tinh bị ép lại như khi tôi nhiệt ở trên nhưng lực ép rất mạnh. Nhờ vậy cường độ đứt của thủy tinh
tôi hóa học tăng lên rất mạnh và đạt tới 200 - 300 MPa và có thể đạt tới 800 MPa.
484
Điều chỉnh lượng không khí sể ảnh hưởng không những đến nhiệt độ cực đại có thê đạt được mà
còn ảnh hưởng đen sự phân bố nhiệt độ theo chiều dài của ngọn lừa. Giảm không khí dư sẽ cháy dài lừa
do cháy chậm và nhiệt độ lại đều theo chiều dài.
Trong các lò liên tục chế độ nhiệt độ ờ mỗi phần của lò cần được điều chinh nghiêm khắc và
không thay đổi theo thời gian. Những lò lửa ngang việc điều chỉnh này tương đối dễ dàng hơn lò
lửa chữ u. Tuy nhiên khả năng thiết lập chế độ nhiệt độ phụ thuộc vào cấu trúc của lò cũng như
thiết bị phụ trợ của lò. Tại những lò hiện đại, các thiết bị có thể tự động điều khiển chế độ theo
chương trình đính sẵn.
10.2.6.3. Chế độ cháy
Mục đích thiết lập chế độ cháy là để đạt nhiệt độ cần thiết, phân bố nhiệt theo chiều dài ngọn lửa,
đảm bảo độ đen nhất định của ngọn lửa, đảm bảo cháy hoàn toàn và tạo chể độ khí theo yêu cầu.
Đặc tính của ngọn lừa phụ thuộc rất nhiều vào cấu trúc của miệng lửa và xác định bời những yêu
cầu của sản xuất. Việc khống chế ngọn lửa có ảnh hường đen che độ như trong hình 10.40. Quá trình
cháy cần như thế nào đó để trong khí thài không còn thành phần khí nào có thể cháy được nhằm tránh
tổn thất nhiệt. Trong lò nấu thủy tinh nếu cấu trúc miệng lửa hợp lý thì lượng không khí dư chi
khoảng 10 - 20% nghĩa là hệ số không khí dư a = 1,1 - 1,2. Khi đó thành phần khí cháy được không
còn tồn tại trong khí thài nữa. Trong trường hợp cần duy trì môi trường khử cho phối liệu sunphat lại
cần đảm bào hệ số không khí dư nhỏ nhất.
Khi cần ngọn lừa dài, phát xạ mạnh tức độ đen lớn theo chiều dài của lửa và môi trường oxy hóa
trên bề mặt thủy tinh thì người ta hướng dòng nhiên liệu khí ở trên và không khí ờ dưới. Trong trường
hợp này, khí hấp thụ nhiệt mạnh do độ đen lớn nên khí được nung nóng nhanh và ngóc lên trên. Do đó
điều kiện hỗn hợp với không khí kém đi và ngọn lửa dài ra, đồng thời trên mặt thủy tinh tạo được môi
trường oxy hóa. Ngược lại nếu cho khí đi ờ dưới sẽ tạo điều kiện dễ dàng hỗn hợp với không khí và
cháy hoàn toàn hơn đồng thời tạo môi trường khử trên bề mặt thủy tinh.
a) b) c)
Hình 10.40. Phẳn bố nhiệt độ cùa thủy tinh, vòm lò và ngọn lừa.
a) Lửa nhắn; b) Lừa bình thường; c) Lửa quá dài.
Việc điều chỉnh tỷ lệ không khí và nhiên liệu không thề thay thế được vai trò cấu trúc của miệng
lửa vì cấu trúc cùa miệng lửa tốt sẽ tạo điều kiện hỗn hợp giừa không khí và nhiên liệu tốt hay xấu. Nếu
hỗn hợp tốt ngọn lửa sẽ ngắn và nhiệt độ cao, ngược lại ngọn lừa sẽ dài và nhiệt độ thấp. Việc điều
chỉnh cũng không thề thay thế được chiều của miệng lửa vì chiều cao của lửa có thề loại khí lạnh từ mặt
thủy tinh đồng thời đốt nóng thủy tinh nhanh cũng như tạo chế độ xác định trên mặt thủy tinh. Neu cấu
trúc cùa miệng lửa không thích hợp thì khó thực hiện cháy hoàn toàn, khó tạo môi trường khí cũng như
chiều dài và nhiệt độ ngọn lửa theo ý muốn.
485
Khi bố trí miệng lửa không hợp lý cũng khó điều khiển phân bố nhiên liệu và không khí ờ mỗi
miệng lửa riêng biệt và do đó không thể có chế độ nhiệt độ và môi trường đạt yêu cầu theo chiều dài
của lò.
Ngày nay việc thiết kế các lò nấu thủy tinh cũng như cấu tạo miệng lửa dẫ được hoàn thiện, các
thiết bị tự động điều khiển chế độ cháy cũng như nhiệt độ của lò càng hiện đại nên lò hoạt động khá ổn
định, cho năng suất cao, phế phẩm thấp.
10.2.6.4. Ché độ môi trường
Môi trường khí của lò được quyết định do những yêu cầu về kỹ thuật và nhiệt kỹ thuật. Khi nhiệt
độ nau cao thì áp suất CƠ2 của môi trường ảnh hưởng không đáng kể đến sự phân hủy cacbonat trong
phối liệu. Do đó giảm hàm lượng CO2 để nấu nhanh cũng không cần thiết. Tuy nhiên trong trường hợp
nấu phối liệu sunphat thi môi trường khí có vị trí rất quan trọng. Đẻ khử sunphat khi dùng phối liệu là
sunphat natri mà không dùng sôđa thì cần duy trì môi trường khử có nhiều co, tuy nhiên điều kiện bị
thay đổi khi đạt nhiệt độ cao và kết thúc nấu.
SO3 trong thủy tinh có thể tác dụng với khí theo phản ứng sau:
d)
Hình 10.41. Biến đổi thành phần khí theo chiều dài của lò.
Biến đỗi thành phằn mỗi trường khí theo chiều dài (a; b) và theo tiết diện ngang (c; d).
a) Áp suất riêng; b) Áp suất âm.
Để thực hiện điều đó người ta hướng nhiên liệu khí đập vào mặt thủy tinh dưới một góc. Điều đó
có nghĩa là cho nhiên liệu khí đi dưới không khí và sử dụng hệ số không khí dư nhỏ. Tuy nhiên khi kết
thúc giai đoạn nấu và bước sang giai đoạn khử bọt, SO3 chỉ còn tách ra dưới dạng bọt nhỏ lại cần duy trì
môi trường oxy hóa. Vỉ vậy ở giai đoạn này lại phải tạo môi trường oxy hóa và miệng lửa cần bố trí để
không khí đi dưới nhiên liệu khí.
Thành phần môi trường khí phụ thuộc nhiều vào cấu tạo miệng lửa cũng như khả năng tạo lớp
khí nào trên mặt thủy tinh. Một trong những phương pháp cơ bản vẫn là điều chinh hệ số không khí dư.
Việc điều khiển này tương đối dễ dàng đối với ngọn lừa ngang và khó hơn một chút đối với ngọn lửa
486
chữ u. Việc điều khiển áp suất trên mặt thủy tinh cũng cỏ thề phát triển ngọn lửa hoặc hút không khí
lạnh vào lò tức là ảnh hường tới môi trường khí tạo ra trôn mặt thủy tinh (xem hình 10.41).
Đặc tính khử cùa ngọn lửa có ảnh hưởng đến màu sắc của thủy tinh. Đa số thủy tinh ở nhiệt độ
cao không bị biến đồi tính chất do ảnh hưởng của so2 trong khói lò, trừ thủy tinh chứa chì và bari. Tuy
nhiên ờ nhiệt độ gia công, khí so2 có thể tác dụng với thủy tinh để tạo những khoáng mới. Ngoài ra
thủy tinh màu rất dễ bị ảnh hường bởi thành phần môi trường khí.
Hình 10.42. Các khối gạch được đánh số và lắp ghép cẩn thận tại xưởng ché tạo
trước khi chuyển đến nơi xảy lò.
Bê lò bao gồm thành bể và đáy bể, bên trong là thủy tinh nóng chảy. Bể lò thường đặt trên các
dâm thép kê trên dầm đỡ và cột trụ. Như vậy bể lò bao gồm bể nấu và bể gia công. Hai bể này có thề
liên với nhau cũng có thể tách biệt hẳn nhau nhưng nối với nhau bời cống nối.
Hình dạng của đa số lò bể là hình chữ nhật, song phần làm nguội và gia công có thề có dạng khác
nhau tùy theo phưomg pháp gia công. Neu gia công bằng máy thì bể dần dần hoặc đột ngột thu hẹp giữa
phần nấu và phần làm nguội cũng như từ phần làm nguội vào kênh dẫn thủy tinh đến máy. Nếu gia công
thủy tinh theo phương pháp thủ công thì bể gia công của đa số lò có dạng bán nguyệt ờ đầu để dễ đặt
cửa gia công.
Vật liệu xây bể nấu rất khác nhau tùy theo vị trí cũng như mức độ đầu tư. Đáy bể thông thường là
gạch blốc samôt khối lớn có kích thước (300 X 400 X 1000) mm hoặc nhỏ hơn ứng với chiều dày của
đáy 300 mm đồng thời để chiều dài của gạch dọc theo trục của lò. Khi sản xuất gạch này, các hãng phải
487
đặt riêng và lắp đặt chính xác từng viên, đánh số cẩn thận tại xưởng trước khi vận chuyển đến nơi xây lò
như trong hình 10.42. Khi xây đáy lò người ta chi cần xếp các viên lại theo số hiệu mà không cần đến
vữa xây và các khe giữa các viên gạch đóng vai trò như là khe giãn nờ nhiệt. Phương pháp xây kiểu này
được gọi là phương pháp xây khô.
Ngày nay việc kéo dài tuồi thọ của gạch chịu lừa cho lò bể nói chung nên việc kéo dài tuổi thọ
cùa đáy lò cũng cần khắc phục. Hiện nay lò có tuổi thọ dài trên 10 năm nên các bộ phận đều bền ngang
nhau, do đó để tăng tuổi thọ của mặt đáy bể nấu, người ta phải gia công thêm một vài lớp chịu lửa bền
vững đối với dòng thủy tinh như trong hình 10.43. Lớp này đặc biệt cần cho lò nấu thủy tinh kính xây
dựng vì lò tương đối lớn và dòng đối lưu tương đối mạnh.
Hình 10.43. Đáy bể được lát những lóp vật liệu chịu lửa bền vững.
a) b)
Hình 10.44. cấu tạo chi tiết của lò.
a) Cột đ& lò; b) Treo vòm lồ.
1. Cột lò; 2. Giằng lò; 3. Công sồn vòm lò; 4. Vòm lò; 5. Tường lò; 6. Công sôn tường lò; 7. Bể lò;
8. Đáy lò; 9. Bu lông định vị bè lò; 10. Dầm và sàn lò; 11. Dẩm đỡ; 12. Dằm đỡ tường lò;
13. Gạch samôt chắn lừa; 14. Hệ thống treo vòm lò.
488
Thành be cũng xây bằng gạch (300 X 400 X 500) mm ứng với chiều dày của thành bể 300 hoặc
400 mm như hình 10.44. Sờ dĩ làm tường bề mỏng như vậy là để làm nguội nhân tạo bên ngoài và nhờ
vậy thủy tinh ở sát thành bề có độ nhớt cao hơn do nguội hơn và gạch chịu lửa được giảm ăn mòn. Neu
làm dày thì rõ ràng là nhiệt độ thủy tinh sỗ cao hơn và ăn mòn gạch nhanh hơn.
Tốt nhất là dùng gạch có chiều cao vừa bằng chiều cao của thành bể nấu vì như vậy sẽ giảm được
chiều dài mạch xây ngang như trong hình 10.45. Tại zôn làm nguội, do độ ăn mòn nhỏ nên chỉ cần
chiều dày thành bề 200 - 300 mm là đủ vì nhiệt độ thấp hơn. Những viên gạch này đã được mài nhăn
nên khi xây chỉ cần xếp chúng lại với nhau mà không cần vữa xây.
Các tấm
cách nhiệt
Hình 10.45. Khối gạch xây có chiều cao bằng thành bề.
Hình 10.47. Két cấu tường lò, miệng lửa VỚI dầm treo và vl trí VÒI đốt.
489
Hiện nay cỏ hai kiểu gạch lắp tường bể lò đỏ là gạch thẳng và gạch vát như trong hinh 10.46. Với
kiểu gạch vát thì tồng khối lượng gạch xây giảm đi đồng thời ở phần trên mỏng nên dễ làm nguội bởi
không khí. Nhờ vậy mà tuổi thọ của gạch tăng lên và giá thành xây dựng cũng giảm. Giá của gạch khối
xây bể lò cực kỳ đắt, hiện nay giá của những loại gạch này thường trên dưới 8.000 USD/tấn.
Tại những chỗ thay đổi hình dạng và kích thước cùa bể, cần phải dùng gạch khối có hình dạng
tương ứng với kích thước đặc biệt và có số riêng để khi xây chỉ cần lắp vào. Do đó khi thiết kế lò cần
phải thiết kế chi tiết các loại gạch cần dùng cho lò với những số ký hiệu riêng để dễ dàng xây lắp. Ket
cấu tường và miệng lửa trình bày trong hình 10.47.
Vật liệu chịu lửa sử dụng cho bể lò có vai trò quan trọng đối với tuổi thọ của lò. Thông thường
đáy lò được xây bằng gạch chịu lửa samôt cao lanh hoặc samôt cao Alumin. Ngày nay, để tăng tuổi
thọ của đáy lò, người ta cũng lót một lớp mỏng chế tạo từ ZAS như blôc xây thành bể nấu. Thành bể
mà xây băng gạch cao Alumin với hàm lượng AI2O3 cao tới trên 90% sản xuất theo phương pháp kết
khối sẽ có tuổi thọ rất thấp do gạch bị ăn mòn nhanh. Vì vậy phải dùng gạch điện nóng chảy nấu từ
oxit AI2O3 và ờ nước ta quen gọi là gạch Corvisit nhập từ Hungari. Tại mực thủy tinh gạch chịu lửa bị
ăn mòn mạnh nhất do nhiệt độ cao, dao động mực thủy tinh. Vì vậy gạch chịu lửa đi từ oxit nhôm
điện nóng chày cũng không được bền lăm mà phải dùng gạch chịu lừa điện nóng chảy đi từ oxit nhôm
với oxit Zircon ZrƠ2 với hàm lượng 32 - 33 hoặc 41 - 42%. Gạch này mang tên Bacor nhập từ Liên Xô
cũ và Nga ngày nay. Các gạch nhập từ thời đó đều có kích thước như trên nghĩa là thành lò xếp từng
khối để đảm bảo chiều cao cần thiết. Hiện nay hãng SEPR của Pháp (Societé Européene des Produits
Réíractaires) đang cung cấp gạch ZAS thuộc hệ ZrƠ2 - AI2O3 - S1O2 với hàm lượng ZrƠ2 tương tự
nhưng là một viên cao từ đáy đến miệng bể nấu nghĩa là cao khoáng 1,3 - 1,4 m. Gạch ZAS cũng có
hai loại: loại thăng và loại vát như trong hình 10.46. Loại vát có khối lượng nhỏ hơn và trên mực thủy
tinh sê mỏng hơn. Tuy nhiên tại đây không khí lạnh được thổi vào bên ngoài và kéo dài được tuổi thọ
của gạch đến 10 năm. Hãng SEPR liên doanh với Trung Quốc sản xuất loại gạch này với tên hãng
ZPER. Ngoài ra Mỹ cũng sản xuất loại gach tương tự với tên gọi khác nhau nhưng bản chất cũng gần
như nhau. Tuy nhiên chất lượng loại gạch này không nồi tiếng bằng SEPR. Hiện nay nhiều nước,
nhiều công ty cũng sản xuất gạch khối đúc nóng chảy nhưng chất lượng rất khác nhau. Có thể hàm
lượng ZrO2 là tương đương nhưng thành phần khác lại khác nhau, công nghệ khác nhau, hàm lượng
thủy tinh cũng khác nhau...
Đẻ kéo dài tuổi thọ của gạch chịu lửa đặc biệt ở ngang mực thủy tinh, người ta phải làm nguội
bên ngoài thành bể băng cách thổi không khí lạnh. Nhờ vậy mà thủy tinh sẽ nguội hơn, độ nhớt cao hơn
và do đó hạn chế tốc độ ăn mòn. Bên dưới thành bể nhiệt độ không cao nên có thể cách nhiệt bên ngoài
nhằm giảm tổn thất nhiệt ra môi trường xung quanh.
10.2.7.2. Không gian cháy
Không gian cháy của lò nằm ở trên bể lò và bao quanh bởi tường và vòm lò. Trong các lò hiện
đại tường và vòm lò được treo trên cột lò và dầm công sôn như ưong hình 10.44. Với kiểu ưeo như vậy
bể lò dễ sửa chừa mà không ảnh hưởng đến vòm và tường lò, đặc biệt bể lò thường bị ăn mòn nhiều và
phải sửa chữa nóng.
Thông thường không gian cháy của lò rộng hơn bể nấu khoảng 300 - 500 mm để có thể đặt dầm
đỡ cũng như tăng cường trao đổi nhiệt cho thủy tinh. Giữa tường treo cỏ một khe rộng khoảng 80- 120 mm
để quan sát và điều hành lò. Đẻ giảm tổn thất nhiệt qua khe đỏ có thể đặt các viên gạch chịu lửa tại khe
này. Tại zôn làm nguội, do nhiệt độ không cao nên tường lò có thể xây trực tiếp ưên thành bể. Trên
tường lò người ta bố trí các miệng lửa, cửa thoát khí... nhưng ờ zôn gia công thì có các cửa để công
nhân có thể lấy thủy tinh để thổi hoặc rút thủy tinh vào máy gia công.
490
Gạch chịu lừa để xây vòm lò tạo không gian cháy thông thường là gạch dinat hay gạch silica với
thành phần hóa chủ yếu là SiO2. Mặc đù gạch dinat cỏ độ bền sốc nhiệt thấp nhưng nó chịu được dao
động ở nhiệt độ cao. Quan trọng horn cả là thành phần hóa học của gạch dinat không ảnh hưởng đến tính
chât của thủy tinh vì nhũ tạo ra trên vòm lò có rơi xuống sẽ tan trong thủy tinh. Các nhũ này thường là
silicat kiềm do tác dụng của hơi kiềm với S1O2 của gạch mà tạo nên. Nếu dùng các gạch chịu lửa khác
như gạch chữa crõm, gạch samôt hay cao alumin đều có thề gây màu hoặc tăng phế phẩm.
Chiếu dày cùa vòm lò khi chiều rộng của bể đến 4 m, 4-6m,6-8m tương ứng với 230 - 250 mm,
300 mm và 360 - 400 mm.Nếu nhiệt độ nấu cao hơn tốc độ ăn mòn sẽ nhanh hơn và chiều dày sẽ phải
táng lên. Tại những lò lớn, vòm lò xây từng đoạn 3 - 6 m rồi chừa một đoạn khe giãn nờ nhiệt 50 - 70 mm.
Chiều cao của vòm lò tương ứng 1/8 đến 1/9 chiều rộng của lò. Với lò lửa chữ u, vòm lò dùng tỷ lệ
1/7 - 1/8. Tường lò trên có chiều dày 500 - 600 mm cũng xây bằng gạch dinat với mạch xây không quá
2 mm.
Ngày nay những lò hiện đại đã dùng gạch điện nóng chảy đúc dưới dạng hộp rỗng (giảm khối
lượng) hờ một mặt để xây vòm lò. Trên lớp gạch này là lớp gạch cách nhiệt. Tuổi thọ của vòm lò rất cao
do chúng bền vững hơn nhiều so với gạch dinat, vì vậy tuổi thọ của toàn bộ lò đã có thể kéo dài đến trên
10 năm.
Đẻ thực hiện treo lò cần cột lò, giằng lò, dầm công sôn, dầm dọc dựa ưên công sôn để đõ tường
hay vòm lò. Đe bảo vệ các dầm này khỏi tác động của bức xạ nhiệt, cần chú ý kết cấu gạch hoặc tạo lớp
chắn bức xạ. Để đàm bảo các khối gạch cố định ờ thành bể cần có các bu lông giữ gạch và điều chinh
đúng vị trí.
10.2.7.3. Phân riêng bể
Để phân riêng các zôn có chế độ kỹ thuật khác nhau của bể lò, người ta dùng các loại: thuyền,
bờ, cống, tường chắn chế tạo chủ yếu bằng gạch chịu lửa tốt chứa nhiều AI2O3 và ZrƠ2. Việc sử dụng
kết cấu phân riêng này cho phép tách riêng được thủy tinh trong và nguội hơn cũng như giảm hệ số
dòng đề tăng năng suất cùa lò, giảm bề mặt gương phần làm nguội và gia công khi sản xuất thủy tinh
chiếc hay ống.
a)
uzzzzzzzzzzzzzzzzzzzl?112
Cống
H/n/110.48. Cắc kiểu cống thông giữa bể nấu và làm nguội gia công.
a) Đáy đứng; b) Đáy bằng với chiều sâu bể gia công nông hơn;
c) Như trên nhưng có gờ; d) Đáy uốn; e) Đốy uốn có gờ.
491
cống thường đặt ở đáy bể nấu và có sơ đồ như trong hình 10.48. Để khắc phuc dòng thủy tinh
quay ngược mạnh và làm nguội tốt hơn, người ta dùng cống bị uốn dòng và có bờ. Các cống này được
làm nguội nhờ không khí lạnh thổi vào hoặc ống dẫn nước lạnh. Một số lò người ta dùng ống dẫn nước
lạnh đề ngăn bể thủy tinh. Lớp thủy tinh bám bên ngoài sỗ đông cứng và ngăn bọt từ bể nấu sang bể làm
nguội và gia công. Tại những lò làm việc liên tục, để điều khiển tốt chế độ nhiệt độ và môi trường người
ta còn phân riêng không gian cháy băng tường chăn kín hoặc tường chổ lỗ. Tường chắn này thường đặt
cao hơn mực thủy tinh 30 - 80 mm.
10.2.7.4. Thiết bị nạp liệu
Phối liệu vào lò qua cửa nạp liệu, đó là phần nhô ra của bể nấu không che kín. Phía dưới cửa nạp
là thủy tinh nóng chảy và phối liệu được lấp trên thủy tinh nóng chảy đó. Thông thường phối liệu nạp
vào lò bằng máy nạp liệu. Máy này có thể ờ dạng vít tải, thùng quay có cánh, máy gạt liệu... Tuy nhiên
ở những lò làm việc liên tục, phổ biến hơn cả là dùng máy gạt liệu. Phối liệu và mảnh từ két chứa đi
xuống và nhờ cánh gạt đẩy vào lò. Cánh gạt lại lui về vị trí ban đầu rồi lại tiếp tục đẩy phối liệu vào lò
nhờ hệ thống cơ điện. Qua máy này phối liệu nạp vào lò thành lớp mỏng và nhờ vậy mà phối liệu nhận
được nhiều nhiệt hơn so với phương pháp nạp từng gầu lớn. Mỗi lò có thể bố trí một hay một vài máy
nạp liệu để có thể điều chinh liệu theo chiều rộng của bể nấu.
Đẻ giảm bụi, đôi khi người ta dùng phương pháp kết khối phối liệu ở ngay cửa nạp liệu băng
cách đậy kín cửa nạp và đốt nhiên liệu tại đây. Song phương pháp này cỏ nhiều nhược điểm và không
được phổ biến lắm. Với những lò nhỏ có thể nạp liệu băng phương pháp thủ công bằng xẻng qua cửa rồi
đẩy phối liệu vào lò.
10.2.7.5. Miệng lửa
Thông thường lò thủy tinh dùng miệng lửa xây băng gạch chiu lửa. Tùy loại nhiên liệu mà cấu
tạo của chúng có khác nhau. Nếu dùng nhiên liệu có nhiệt trị thấp như khí than từ lò khí hóa than chẳng
hạn thì miệng lửa có 2 kênh dẫn không khí và kênh khí đồng thời có phòng hỗn hợp để cháy sơ bộ
dài 1 - 2 m. Nếu dùng nhiên liệu nhiệt trị cao như khí thiên nhiên hay nhiên liệu lỏng thì vòi đốt đặt
trên miệng lửa. Trong những loại này mazut được sương mù hóa nhờ tốc độ của môi trường tạo bụi tới
200 - 300 m/s cho nên không khí thứ hai chi cần tốc độ 6 - 8 m/s. Tốc độ không khí hay nhiên liệu khí
ở kênh thẳng đứng từ buồng hồi nhiệt lên là 2,5 - 4 m/s đối với ngọn lửa ngang và 4 - 7 m đối với lửa
chữ Ư. Chiều dài phòng cháy sơ bộ 1,3-2 m, tốc độ khí vào phòng cháy sơ bộ 6 — 10 m/s. Vòm miệng
lửa nghiêng với mặt thủy tinh một góc 20 - 30°. Hệ số không khí dư cháy ở đây bằng 1,05 - 1,3 tùy
theo cấu tạo vòi đốt.
Đẻ đàm bảo lửa đi dài, tiết diện ngang của cửa thoát tại miệng lửa cần đảm bào tốc độ cần thiết.
Tốc độ này với:
492
10.2.8. Đốt nhiên liệu bằng oxy-công nghệ nấu mới
Việc sử dụng oxy pha thêm vào không khí để tạo không khí giàu oxy đã được ứng dụng trong
công nghiệp từ lâu nhăm đạt được nhiệt độ cao trong lò. Năm 1988, Công ty Praxair của Mỹ đã sử dụng
lò nấu thủy tinh bằng oxy và đến năm 1991 khoảng 130 lò thủy tinh công suất trên 300 tấn/ngày đã xây
lại lò đốt bằng oxy. Qua đó đã thấy tiết kiệm được 15% nhiên liệu, giảm 80% NOx, gảm 80% co và
30% bụi. Ngoài ra đã loại bỏ được buồng hồi nhiệt gián đoạn (regenerator) cồng kềnh. Tuy nhiên
khoảng 20 năm trở lại đây, tức từ 1992, trên thế giới đà xuất hiện lò nấu thủy tinh dùng oxy tinh khiết
hoặc độ tinh khiết trên 90% oxy để đốt nhiên liệu và gọi là Lửa Oxy oxycombustion. Đốt nhiên liệu
truyền thống bằng không khí Lửa Không khí Aircombustion đang bị thay thế rất nhiều bằng lừa oxy.
Riêng tại Hà Lan có 5 trong số 27 lò được chạy bằng lừa oxy từ 1992. Sau 10 năm, người ta đánh giá
khoảng 10% thủy tinh trên thể giới được nấu trong lò lửa oxy, riêng Mỹ tiếp thu rất nhanh và đã sử
dụng lửa oxy cho 60% sản lượng thủy tinh của minh vào năm 2000. Tuy oxy lỏng hay khí oxy trên 90%
cần phải tiêu tốn năng lượng đề sản xuất nhưng bù đắp lại là tiết kiệm được nhiều trong sản xuất, trong
xây dựng lò nấu thủy tinh cũng như giảm hoặc không có khí độc hại hay giảm khí gây hiệu ứng nhà
kính. Việc phát triền Lửa Oxy còn do việc sản xuất oxy ngày càng rè do nhiều công nghệ mới ra đời.
Cơ sở của OTM (Oxygen Transport Membrane) đôi khi gọi là ITM (Ion Transport Membrane) là tách
oxy từ không khí qua màng gốm ờ 1000 - 1800°C. ở nhiệt độ này, oxy trờ thành ion và thẩm thấu qua
màng rồi trờ lại thành Ơ2- Ngoài ra còn có công nghệ VSA (Vacuum Swing Adsorption), oxy được tách
ra nhờ màng gốm nano hấp thụ dưới chân không 0,7 bar ờ nhiệt độ thường. Oxy thu được có thể đạt độ
tinh khiết 90 - 94%, công suất của hệ này có thể đạt 5-150 tấn/ngày và thường được dùng cho lò nấu
thủy tinh.
Việc sử dụng ngọn lừa oxy có một số lợi ích như sau:
1. Không gian chốy trong lò không cần lớn. Nếu dùng không khí thì 79% thể tích của chúng là
N2 nên khói lò thường chứa ~ 73% N2 và cần không gian cháy lớn. Giờ đây chỉ dùng oxy nên không có
mặt N2 hoặc hàm lượng rất nhỏ và do đó không gian cháy giảm đi rất nhiều. Điều đó cũng có nghĩa là
giảm phần xây dựng không gian cháy hay giảm lượng vật liệu chịu lửa xây lò. Trong hình 10.49 đã so
sánh việc dùng không khí và oxy khi cùng đốt 1 m3 khí thiên nhiên thì sản phẩm cháy chỉ có H2O và
co2 mà loại trừ hẳn từ 6,8 đến 11 m3 khí N2. Thể tích này tương đương gần 3/4 thể tích sản phẩm cháy
nếu dùng không khí.
Khói lò ờ 900°C
Guz Iiíiỉiưel Oxỵdaiự F'umees (90()°Cị Ghi chú
Khi thiên nhiên Chảt*ỗ xy hóa
Cóng suất tháp
Không khí lanh Rcndement faiblc
* 5 kW au produ It
Gọn và ít ó nhiễm
Oxvyènc Compacitẻ Faible polution
0,57 ni3
|(n ^8%
Suppression du balast de N2
Loai trừ đưọc N2
Hình 10.49. So sánh thể tích sản phẩm cháy của một lò cùng công suất.
493
2. Không cần đến buồng hồi nhiệt. Điều này có nghĩa là giảm phần xây dựng lò rất nhiều, giảm
gạch chịu lửa xây cồng kềnh, không cần đến van đổi chiều và do đó không cần xây lò ở tầng 2 nữa mà
xây ngay tại tầng 1 hay mặt sàn nhà lò. Hãy xem hình 10.50 để thấy so sánh độ cồng kềnh của hai kiểu lò.
H/nh 10.50. Độ phức tạp của lò kính nổi lửa không khí (trái) và đơn giản lò lửa oxy.
Ví dụ tại một nhà máy của Hà Lan khi sửa lò số 4 thành lò lửa oxy năm 1994 với kết quả cho
trong bảng 10.2.
3. Nhiệt độ ngọn lửa rất cao như trong hình 10.51, 10.52 và 10.53 đã thể hiện. Thông thường
nhiệt độ ngọn lửa khí thiên nhiên dùng không khí đều dưới 2000°C trong khi dùng oxy nhiệt độ đạt đến
2800°C. Do đó truyền nhiệt bức xạ từ ngọn lửa cho thủy tinh tăng lên. Như đã biết, nhiệt truyền bằng
4 nên nhiệt độ lửa càng cao thì truyền nhiệt bằng bức xạ càng tăng cho thủy tinh.
bức xạ phụ thuộc vào T3
Mặt khác do ít N2 nên nồng độ CO2 và H2O lại cao nên hệ số bức xạ của ngọn lửa cũng tăng lên. Đây là
điều rất quan trọng vì tốc độ nấu sẽ tăng lên, việc khử bọt và đồng nhất cũng tăng lên nên có thề nấu
thủy tinh kỹ thuật ở nhiệt độ cao.
494
T«mp4r«tur» en *c
Hình 10.51. Nhiệt độ ngọn lừa khi cháy bằng oxy đói với a nhiên liệu khác nhau.
Hình 10.52. Nhiệt độ ngọn lửa khí thiên nhiên cháy bằng không khí và oxy.
Hình 10.53. Nhiệt độ ngọn lừa cháy metan bằng không khí chứa 0,21 02
và khí giàu đến 1,0 02 (100% 0J.
495
4. Giảm lượng khói lò và bụi đi rất nhiều và chi băng 1/4 đến 1/3 đối với lừa không khí như
trong hình 10.54. Với ngọn lửa không khí thì lượng khí nitơ chiếm khoảng 73% còn ngọn lừa oxy đã
loại đi 73% thể tích này. Vì vậy khói lò chứa rất ít bụi và sạch hơn khói lò ngọn lửa không khí. Tuy
nhiên hàm lượng hơi nước lại tăng lên từ 20% lên 60%. Theo tiêu chuẩn môi trường áp dụng tại châu
Âu thì ngọn lửa không khí bắt buộc phải trang bị hệ lọc bụỉ.
Hình 10.54. Lượng bụi bay ra dưới các dạng khác của hai kiểu đốt trong lò thủy tinh.
5. Giảm khí độc NOX. Nếu dùng oxy sạch thì không có N2 nên khói lò không có NOX độc hại mà
lửa không khí chứa khá nhiều hợp chất này. Trong trường hợp dùng oxy chi chứa > 90% O2 thì lượng
NOX cũng giảm đi rất nhiều và chỉ còn ~ 1 kg/tấn thủy tinh trong khi đỏ lò lửa không khí lượng NOX gấp
7 đến 10 lần. Cũng cần lưu ý rằng lò lửa oxy nấu thủy tinh borosilicat và đèn TV vẫn có hàm lượng NOX
cao hơn so với các loại thủy tinh khác thể hiện trong hình 10.55 và 10.56. Ở các nước công nghiệp, môi
trường được quan tâm rất cao và Luật Môi trường rất nghiêm khắc, vấn đề môi trường của lửa oxy đã
đáp ứng được những tiêu chí đó nên không cần đến biện pháp nào để khử NOX cho lò. Vì vậy lửa oxy đã
phát triển rộng rãi và nhanh chóng nhằm đáp ứng được những tiêu chí đó.
Hình 10.55. Lượng NOX tính bằng kg/tấn thủy tình của lò lửa không khí và lửa oxy.
496
Hình 10.56. Lượng NOX, bụi và năng lượng tiêu tốn theo kiều đốt các năm.
6. Giảm khí gây hiệu ứng nhà kính CO2. Do lượng khói lò rất thấp và nhiệt độ ngọn lửa oxy lại
cao nên lượng nhiên liệu cần đốt lại giảm đi do đó tổn thất nhiệt do khói lò mang đi giảm đi đáng kể.
Nhờ vậy nên lượng CO2 cũng giảm đi hay giảm khí gây hiệu ứng nhà kính. Các nước công nghiệp tìm
cách crôn khí xuống dưới lòng đất với giá khá cao. Vì vậy việc giảm khí và tìm cách thu hồi khí này là
việc cần thiết trong giai đoạn trái đất đang bị nóng lên.
7. Giảm nhiên liệu nấu. Tổng bề mặt lò tiếp xúc với không khí giảm đi rất nhiều nên tổn thất
nhiệt qua thành lò giảm đi đáng kể.
Đẻ so sánh nhiệt giữa hai loại lửa không khí và lửa oxy có thể xem hình 10.57:
+ Lừa không khí: cấp cho thủy tinh 41%, tồn thất do khói 30%, qua thành lò 29%.
+ Lửa Oxy: cấp cho thủy tinh 56%, tổn thất do khỏi 22%, qua thành lò 22%.
Qua đó ta thấy lợi về nhiệt đã đến 15%, lợi do giảm tổn thất nhiệt qua thành lò đến 7% và do đó
thúc đẩy quá trình tạo thủy tinh cũng như tăng năng suất lò nấu. Mặt khác, lượng khói lò lại ít và chi
chiếm khoảng 27% lượng khỏi lò đốt bằng không khí nên việc tận dụng nó cũng tưomg đối dễ dàng hon.
Hình 10.57. So sánh hal phương thức đốt lửa không khí và lừa oxy.
Tại Languedoc, Pháp, một lò cùng năng suất 300 tấn/ngày được chuyển đổi thành lò Oxy - Gas
với nồng độ oxy 93% cho kết quả như hình 10.58. Nhìn chung lượng nhiên liệu tiêu thụ giảm đi rất
nhiều từ 1550 kWh/T thủy tinh của lò KK - Gas xuống còn 1050 kWh/T thủy tinh đồng thời lượng NOX
giảm từ 0,8 kg/ T thủy tinh còn 0,2 kg/T thủy tinh.
497
Hình 10.58. So sánh hai kiểu đốt nhiên liệu của hai lò cùng công suất thủy tinh.
8. Giảm tiêu tốn gạch chịu lửa. Do không cần các buồng hồi nhiệt nên không cần dùng đến
nhiều vật liệu chịu lửa. Tại buồng hồi nhiệt vật liệu chịu lửa chóng bị ăn mòn bởi hơi kiềm cũng như bụi
phối liệu. Giờ đây khi dùng lửa oxy sẽ không cần đến buồng hồi nhiệt này nữa và lò sẽ hoạt động liên
tục, ít phải sửa chữa. Ngày nay lò nấu thủy tinh cỏ thể đảm bảo chạy liên tục trong 15 năm mới phải
dừng lò để đại tu lò. Tuy nhiên việc lựa chọn gạch chịu lừa xây vòm lò là việc rất quan trọng. Nếu dùng
gạch dinat (silica) thì bị ăn mòn nhanh hơn so với gạch AZS và corindon điện chảy.
9. Thu hồi co2. Các nước công nghiệp phải nghĩ cách thu hồi khí co2 nhưng nếu thu hồi khí
này trong điều kiện hàm lượng khí đó chi chiếm khoảng 10% trong khói lò thì thiết bị cồng kềnh, đầu tư
cao, kém hiệu quả và tốn kém. Vì vậy việc đốt nhiên liệu bằng oxy đã cho phép giảm giá thành đối với
khí co2 thu được.
Nhiệt độ hỏa lỏng của CO2 ở -56,6°c và áp suất 5,12 atm. Như vậy việc hóa lỏng CƠ2 dễ dàng
hơn nhiều so với oxy. Việc thu hồi CO2 của khói lò lửa oxy đã biến lò nấu thủy tinh trở thành công nghệ
xanh sạch nhất vì không gây hiệu ứng nhà kính cũng không thải khí độc hại.
Việc sử dụng oxy sạch để đốt có nghĩa là khói lò chỉ chứa H2O và co2 nên việc thu hồi khí
co2 dễ dàng hơn nhiều. Như đã biết, khí co2 rất cần thiết cho một số ngành công nghiệp như nước giải
khát, chất chống cháy, chế tạo cacbonate, tách nguyên tố trong dung dịch dưới dạng cacbonate... Thu
hồi và bán được co2 lỏng nên cũng bù đắp được nhiều cho sản xuất chính. Vì vậy nhiều nước đã tăng
cường phát triển sản xuất băng cách đốt nhiên liệu bằng oxy.
10. Chuyển hóa co2. Do thu hồi co2 dễ dàng nên việc chuyển hóa chúng thành nhiên liệu khác
cũng trở nên khả thi hơn. Việc chuyển hóa này được thực hiện theo một số cách sau nhờ tảo hay vi sinh:
- Sản xuất methanol co2 + H2O —» Methanol
- Sản xuất hydrocacbon (1 giai đoạn) co2 —♦ Hydrocacbon
- Sàn xuất hydrocacbon (2 giai đoạn) co2 —»co —♦ Hydrocacbon
Đây là một trong 10 hướng công nghệ của thế giới trong thời gian tới.
11. Sử dụng nhiệt khói lò. Lượng nhiệt do khói lò mang ra có thể dùng nung nóng nhiên liệu và
oxy với kích thước nhỏ. Cũng có thể dùng cho lò hơi hay mục đích khác như phát điện chẳng hạn. Các
nước ôn đới luôn cần hơi nước trong công nghiệp và sinh hoạt nên lượng nhiệt trên không để phí. Một
phần khói lò có thể tuần hoàn cho quá trình đốt nếu nhiệt độ cháy quá cao và ngọn lừa quá ngắn.
498
Do dùng oxy để đốt mhiên liệu nên thiết bị đốt cũng phải đồi mới cho phù hợp. Ờ đây chỉ giới
thiệu một loại vòi đốt đang dùng để minh họa trong hình 10.59.
Bloc
Hệ điều chỉnh
- Controle
Hiện nay người ta đang tiến thêm một bước là đốt than bụi bằng oxy và đã thực hiện thí điểm tại
nhà máy nhiệt điện và xi măng. Những kết quà thu được đã mờ ra tương lai tương đối tích cực cả về
điện năng cũng như vấn đề môi trường.
499
+ Phải có cực chịu được tác động của thủy tinh đồng thời không làm hỏng thủy tinh. Ngoài ra hệ
thống bảo vệ cực, hệ thống tiếp điện phải tốt để lò làm việc lâu dài.
500
Nước ra
Hình 10.62. Sơ đồ lắp điện cực Graphlt trong lò nấu thủy tinh bằng điện.
Chúng ta biết rằng thủy tinh silicat calci natri ở trạng thái nguội là chất điện môi tốt với độ dẫn
điện của nó bằng lO ^om^.cm"1. Nhưng khi nâng nhiệt độ đến 200°C trong thủy tinh xuất hiện tính đẫn
ion và ở trạng thái nóng chày nó dẫn điện như chất điện phân. Độ dẫn điện khi đó đạt tới 0,1 om’1 cm’1
và độ dẫn điện này chủ yếu do ion Kali và Natri. Độ dẫn điện của thủy tinh phụ thuộc vào nhiệt độ xác
định theo công thức:
LogX = A-B/T
Trong đó: A, B - hằng số với mỗi loại thủy tinh;
T - nhiệt độ tuyệt đối °K.
Công thức trên dùng được trong phạm vi 20 - 800°C và 1000 - 1450°C. Mặc dù vậy ở 1500°C độ
dẫn điện cùa thủy tinh còn nhò hơn đồng hàng ngàn lần. Vì vậy trong lò điện nấu thủy tinh không nhất
thiết phải dùng cực tỏa nhiệt thông thường mà có thể cho dòng điện trực tiếp đi qua ngay khối thủy tinh
đó. Khi nhiệt độ khoảng trên 1100°C, với vật dẫn điện là thủy tinh nóng chảy có thể tỏa ra một lượng
nhiệt lớn đề cung cấp cho quá trình nấu.
Lò bể chạy điện cho trong hình 10.60 là một kiểu tương đối phổ bién. Kích thước của nó
khác với lò lửa, chiều rộng của bể nhỏ hơn lò lừa và chi băng 1 - 3,5 m, chiều sâu cực đại của phần
nấu 0,8 - 0,9 m. Vòm lò cách mặt thủy tinh 0,2 - 0,3 m được xây theo kiểu vòm phăng và treo với
lớp cách nhiệt tốt phía trôn.
Trong lò công nghiệp có thể dùng điện cực băng sắt, graphit, molipden, Tuy nhiên graphit và
molipden chịu được nhiệt và bền vững với thủy tinh hơn. Kích thước của điện cực tùy thuộc vào kích
thước của bể, phương pháp áp điện. Khi nhiệt độ trên 700 - 900°C graphit và molipden bị oxy hóa mạnh
cho nên phần điện cực trong lò phải làm nguội bằng nước (xem hình 10.61 và 10.62). Mật độ dòng điện
trên bề mặt của điện cực sắt không vượt quá 0,1 a/cm2, điện cực graphit 0,9 a/cm2, điện cực molipden
3 a/cm2. Dòng điện một chiều không thích hợp vì sẽ dẫn đến phân ly thủy tinh. Điện thế dòng xoay
chiều thường 60 - 120 V. Với công suất 800 - 5000 KW sỗ dùng điện ba pha và phương pháp đặt cực
trong lò có ba kiểu như trong hình 10.63.
501
7
Hình 10.64. Mắc cực tạl các vl trí của lò bể Điện - Lừa.
1. Cực thẳng góc; 2, 3. Mặt gương thủy tinh có nhiệt độ cao nhất; 4. Phàn nấu;
5. Điện cực ngang; 6. Túi nạp liệu; 7. Phần gia công.
Khi dòng điện đi qua, nhiệt tỏa ra từ trong lòng khối thủy tinh. Vì vậy nhiệt độ ở sâu gần đáy lò
cao hơn nhiệt độ ờ lớp bề mặt. Dòng đối lưu thủy tinh trong lò trở nên phức tạp và phụ thuộc vào
phương pháp đặt cực, kích thước, vị trí và công suất điện cực. Tiêu tốn năng lượng điện để nấu thủy tinh
tùy theo thành phần hóa học mà dao động trong khoảng 2,9 - 7,4.106 J/kg thủy tinh. Năng suất lò dao
động 5-150 tấn/ngày, hệ số tác dụng hữu ích 50 - 60%.
A-A
Hình 10.65. Lò náu thủy tinh két hợp nhiên liệu khí và điện.
1. Bể nấu; 2. Zôn khử bọt với điện cực; 3. Kônh nối; 4. Phần làm nguội và dẫn đốn nơi gia công;
5. Vòi đốt khí; 6. Điện cực; 7. Kênh dẫn tới buồng hồi nhiệt liển tục (recuperator); 8. Vật liệu cách nhiệt;
9. Lớp lót từ gạch ZAS; 10. Gạch samôt; 11. Gạch dinat; 12. Khung gông lò.
502
teMggg
Hình 10.66. Két hợp điện cực gằn nơi gia công.
Phổ biến hơn cả là lò điện kết hợp với nhiên liệu như trong hình 10.65 và 10.66. Dòng điện sê
phụ trợ cho ngọn lừa để tăng cường tốc độ nấu chảy phối liệu, khử bọt và giảm ăn mòn gạch chịu lửa.
Trong các lò cỡ nhỏ và trung bình việc phù trợ điện có khác nhau. Với những lò nhỏ, điện chủ yếu tăng
cường khử bọt cho nên điện cực đặt ở zôn khử bọt. Còn những lò lớn hơn, ngoài điện cực chủ yếu còn
đặt thêm nhóm điện cực khác ở zôn nấu. Các cực này thường đặt vào thủy tinh qua tường lò ở mức
sâu 0,3 - 0,5 m. Việc sử dụng điện và nhiên liệu hỗn hợp sẽ tạo điều kiện ưao đổi nhiệt tốt hơn vì ngoài
bức xạ từ ngọn lửa và tường lò còn có nhiệt do dòng điện tỏa ra và hướng lên trên. Điều đó tạo điều kiện
để khử bọt tốt hơn. Năng suất cực đại của lò kiểu này đạt 80- 150 tấn/ngày. Tiêu tốn điện năng chi còn
0,35 KWh/kg thủy tinh nhưng phải đốt thêm nhiên liệu. Quan hệ này được minh họa trong hình 10.67.
M0.
M0
M0.
ì200..
ỈỮOO L_
1600
Tiêu tốn nhiệt riêng, kcal/ kg thủy tinh
Hình 10.67. Quan hệ giữa tiêu tốn nhiệt riêng với năng suắt riêng.
503
10.2.10. Lò bể có thiết bị đảo trộn
Khi nấu thủy tinh chiếc hay bao bì, trong lò bể người ta đã sử dụng tốt phương pháp khuấy trộn
nhân tạo. Việc khuấy trộn này sẽ tăng cường nung nóng lớp thủy tinh ở sâu và hoàn chình frao đổi nhiệt.
Ngoài ra khuấy trộn sẽ tăng cường quá trình khử bọt, đồng nhất hóa về mặt hóa học cũng như nhiệt học
của thủy tinh và do đó sẽ tăng chất lượng thủy tinh sàn xuất ra.
Để khuấy trộn thủy tinh người ta dùng không khí đã làm sạch dầu mỡ và bụi. Không khí này sẽ
được thổi qua miệng vòi phun đặt ở 2 hay 3 dãy ở đáy lò như trong hình 10.68. Vòi phun được chế tạo
từ corindon hay corun và đặt trong bọc thép chịu nhiệt bền thủy tinh. Vòi này lồi lên ở đáy lò
khoảng 50-80 mm. Tốt nhất là không khí được thổi ở giữa zôn khử bọt và zôn nấu để tạo ra hàng rào
ngăn cách zôn phối liệu và thủy tinh đã được khử bọt. Khoảng cách giữa các vòi phun 600 - 1000 mm,
khoảng cách giữa tường lò và vòi phun gần nhất là 400 mm để tránh xói mòn gạch chịu lửa.
Mỗi vòi chì phun chừng 0,2 m3/h nghĩa là lượng không khí rất nhỏ. Áp suất của không khí được
điều chinh tự động để chế độ làm việc ổn định. Chế độ khuấy trộn được xác định bằng lượng không khí
thổi vào cũng như đường kính của bọt không khí. số bọt không khí thổi vào trong 1 phút khoảng 20
đến 40 và đường kính bọt 170 - 200 mm. Việc khuấy như thế cần chậm và không được phép tạo ra
những bọt nhỏ lẫn trong thủy tinh, điều này sẽ xảy ra nếu phun không khí quá mạnh.
Diện tích bề mặt zôn nấu được xác định theo công thức sau:
Fn= Qn(l-n): Qi Hi m2
Trong đó:
Qn - lượng nhiệt phối liệu nhận được để nấu G kg thủy tinh trong 1 giờ.
Qn = q.G kcal/h
504
q - nhiệt tạo thủy tinh, kcal/kg thủy tinh;
TỊ - hệ số kể đến phần nhiệt do dòng thủy tinh đối lưu truyền cho thủy tinh, hệ số này thường
bằng 0,10-0,15;
T|Ị- hệ số kể đến phần bề mặt zôn nấu được lấp đầy bởi phối liệu.
Lượng thủy tinh quay lại từ zôn nấu G1 kg/h xác định theo công thức:
G1 —
Qji + Qtn
(ít+Oc,
Trong đó:
Qtt.n - tổng tổn thất nhiệt ra môi trường xung quanh của zôn nấu, kcal/h;
ti, te - nhiệt độ đầu và cuối của dòng thủy tinh đối lưu;
Cị - nhiệt dung riêng trung bình của thủy tinh trong khoảng tị - tc.
Lưọng thủy tinh Ơ2 kg/h quay lại từ zôn làm nguội và gia công với nhiệt độ t2 đã cho có thể tính
toán theo số liệu sau:
- Lò có cống G2 = (1 - 2) G
Trong đó:
Qtt.k - tồng nhiệt tổn thất qua tường lò ra môi trường xung quanh của zôn khừ bọt;
505
Thời gian cần thiết z để nung nóng lớp thủy tinh có chiều dày s đến nhiệt độ yêu cầu xác định
theo chuẩn số BiO và Fo (xem chương truyền nhiệt) với độ dẫn nhiệt của lớp thủy tinh rất trong ở phía
trên 20 - 30 và phía dưới 5—10 kcal/m.h.độ. Thủy tinh ít trong ở phía trên 3 - 5 và ở phía dưới 2-3
kcal/m.h.độ.
Từ đây bề mặt zôn khử bọt xác định theo công thức sau:
(G+GX+G2\Z _G?Z
Fkb= dS ~ d.s
Giá trị khối lượng thể tích của thủy tinh d không chứa oxit kim loại nặng ở 1300 - 1400°C có thể
lấy bằng 2100 - 2200 kg/m3.
Nếu nhiệt độ ban đầu của lớp thủy tinh là tđ và cuối là te thì lượng nhiệt truyền cho thủy tinh ở
zôn khử bọt sẽ bằng:
T7 *
_ Qbx +G ["(' * +
A )-
"
*
***
-Ì +
nguội
Trong đó:
Qbn- nhiệt bức xạ từ zôn khử bọt sang, kcal/h;
n - hệ số dòng cùa lò, lò có cống n = 2;
G - lượng thủy tinh gia công, kg/h;
tv.It, Cv.1t- nhiệt độ °C và nhiệt dung riêng kcal/kg,độ của thủy tình đi vào từ zôn khử bọt;
tv.m, Cv.m- như trên, của thủy tinh đi vào từ kênh dẫn thủy tinh đến máy;
tr.m, Cr.ni - như trên, của thủy tinh đi vào kênh máy gia công;
trJc> Cr.1t - như trên, của thủy tinh hồi lưu lại zôn khử bọt.
Nếu chu vi của tiết diện phần làm nguội là s thì chiều dài phần làm nguội L bằng:
L — Fnguộp s m
506
10.2.11.4. Xác định gần đúng tiêu tốn nhiên liệu
Trong tính toán lò, trước khi thành lập cân băng hiệt một cách chính xác, người ta cần biết một
cách định hướng lượng nhiên liệu tiêu tốn. Nhằm mục đích đó có thể sử dụng công thức sau:
Trong đó:
Q - tiêu tốn nhiệt cho 1 m2 phần nấu hoặc nền lò nồi;
V - lượng nhiên liệu tiêu tốn m3/h hay kg/h cho 1 m2 phần nấu hay nền lò nồi;
Qn.1- nhiệt trị của nhiên liệu, kcal/m3 hoặc kcal/kg nhiên liệu rắn, lỏng;
b - hệ số, đối với nhiên liệu khí vào van đổi chiều của buồng hồi nhiệt thì b = 0,3. Với nhiên liệu
khác trực tiếp vào lò b = 1;
p - năng suất riêng của thủy tinh từ 1 m2 mặt gương phần nấu hoặc nền lò nồi, kg/m2.h;
q - nhiệt tiêu tốn tạo thủy tinh tính theo thành phần hóa học và loại nguyên liệu sử dụng, kcal/kg
thủy tinh (xem chưomg 12);
Qt - nhiệt tồn thất của lò ra môi trường xung quanh ứng với 1 m2 phần nấu lò bể hoặc nền lò nồi,
kcal/m2.h;
K1 - phần của Qt tổn thất do khói lò mang ra ngoài, thường bằng 0,25 - 0,30 đối với lò bể và
bằng 0,25 - 0,35 đối với lò nồi;
K2 - hệ số tăng tồn thất nhiệt khi nhiệt độ tường lò vượt quá 1400 °C.
Giá trị q đối với phối liệu 3 cấu tử soda và sunphat và nhiệt độ thủy tinh 1200°C phụ thuộc vào
lượng mảnh % khối lượng cho vào phối liệu cũng như hệ số K2 có thể xem trong hình 10.69. Lượng
nhiệt tôn thất ra môi trường xung quanh Qt xác định theo giản đồ hình 10.70 tùy theo kích thước bể nấu.
507
Đối với lò nồi để sản xuất thủy tinh bao bì, nhiệt tổn thất cực đại ra môi trường xung quanh được
xác định theo giản đồ hình 10.71. Nếu chu kỷ nấu là 24 giờ thì nhiệt tổn thất giảm đi 1,3 - 1,5 lần nhỏ
hơn. Đối với lò có chu kỳ nấu 48 giờ thỉ đường cong tương ứng với giá trị trung bình của nhiệt tổn thất
khi nhiệt độ nấu 1460°C.
Hình 10.70. Giản đồ xác định tiêu tốn nhiệt ra môi trường xung quanh.
Hình 10.71. Giản đồ xác đ/nh nhiệt tổn thắt theo 1 m3 không gian làm việc của lò nồl.
508
10.3.1. Lò nấu Frit gián đoạn
10.3.1.1. Lò nồi nấu Frit
Cấu tạo lò được minh họa trong hình 10.72. Trong lò người ta đặt nhiều nồi để nấu Frit. Ngọn lừa
được đốt từ các loại nhiên liệu rắn lỏng khí khác nhau đi dọc theo lò sau đó xuống kênh dưới để ra ống
khói. Nồi nấu Frit được nung bởi ngọn lửa trên và dưới nên cũng tận dụng được nhiệt. Đây là các loại
Frit đễ chảy với nhiệt độ nấu 1200 - 1300°C nên cũng dễ thực hiện. Sau khi nóng chảy có thể đảo trộn
cho đồng nhất. Khi Frit đã được nấu “chín” thì tháo nút đáy nồi để Frit nóng chày rori qua cửa đáy lò
xuống thùng nước làm lạnh đột ngột. Khi tháo hết Frit, người ta lại đổ phối liệu mới vào nồi và quy
trình nấu lại tiếp tục mẻ mới. Gặp nước lạnh Frit sỗ biến thành các hạt vụn nhỏ và giòn dễ nghiền mịn.
Từ Frit này người ta phối liệu với chất màu (pigment) và phụ gia khác để tạo ra men màu hay chất màu
để trang trí ưên gốm sứ. Tùy thuộc vào yêu cầu cùa chất màu cũng như loại màu, trên men hay dưới
men mà ta có loại Frit tưomg ứng. Với kiểu lò nồi trên có thể đồng thời nấu được nhiều loại Frit khác
nhau phục vụ mục đích trang trí cho gốm sứ. Lượng nồi đặt trong lò có thể đến 20, mồi nồi nấu khoảng
10 - 15 kg Frit. Người ta có thể nấu Frit màu để chất màu (pigment) hòa tan luôn trong Frit. Sau đó Frit
màu có thể phối hợp với các chất khác để trang trí trên gốm sứ sau khi đã nghiền thật mịn.
Ống khói
Nhìn chung loại lò này chi dùng cho loại Frit dễ chảy sử dụng khi chế tạo chất màu trang trí nên
công suất thường rất nhỏ.
10.3.1.2. Lò quay nấu Frit
Mô hình cấu tạo lò quay nhỏ nấu Frit gián đoạn có thể xem trong hình 10.73 và 10.74. Lò này
bao gồm trống quay trên hai bệ đỡ, hệ truyền động, vòi đốt nhiên liệu lỏng hoặc khí, ống dẫn khói lò
đến ống khói. Bên trong lò có lót gạch chịu lửa dày 75 - 120 mm, đường kính trong của lò khoảng
850 mm. Toàn bộ lò được quay nhờ 2 băng đa đặt trên 2 bệ đõ, bộ truyền động làm bệ đỡ quay và lò
sẽ được quay.
Nguyên liệu được nạp qua cửa, sau khi đậy nắp cho kín thì cho quay lò và châm lửa vòi đốt. Khi
nhiệt độ nâng cao, phối liệu nóng chảy, được đồng nhất do lò được quay và được trộn đều. Khi đã đạt
được yêu cầu, lò sỗ ngừng quay tại điểm cửa tháo hướng xuống dưới. Lúc đó cửa tháo được mở ra để
Frit lỏng chảy xuống máng nước nghiêng dẫn Frit xuống lồng thép không gỉ đặt trong bể nước lạnh
ngầm dưới sàn. Nhờ làm lạnh đột ngột mà Frit sẽ vỡ tung thành những mẩu nhỏ dễ nghiền mịn. Tiếp đó
509
là nạp liệu nhanh vào lò, đóng nắp cho kín và quy trình nấu lại tiếp tục. Khi Frit đã nguội hẳn trong
nước thì kéo lồng lên và để khô rồi đóng bao xuất xưởng. Toàn bộ chu trình nấu tùy theo thể tích lò và
dao động trong khoảng 2-3 giờ.
Khối lượng Frit nấu trong lò quay thường lớn hoai 500 kg/mẻ và có thể lên đến ữên 1.000 kg/mẻ.
Thời gian nấu thùy thuộc vào lượng Frit nấu cũng như chất lượng nhiên liệu và nhiệt độ nấu. Nhìn
chung loại lò này thường tiêu tổn nhiều nhiên liệu do việc tận dụng nhiệt của khói lò kém hiệu quả. Vì
vậy các công ty lớn hầu như không dùng kiểu lò này nữa và thay vào đó là lò bể liên tục có buồng hồi
nhiệt liên tục. Ví dụ Công ty cổ phần Frit Huế đã thay toàn bộ lò quay gián đoạn bằng một loạt lò bể với
nhiều loại Frit khác nhau.
510
10.3.2. Lò nấu Frit liên tục
Lò nấu Frit liên tục cũng chính là lò bề nấu thủy tinh. Điềm khác nhau cơ bản giữa hai loại lò là:
- Thủy tinh cần có bể nấu và bể làm nguội còn đối với Frit thì không cần.
- Thủy tinh cần đồng nhất rất cao trong khi Frit không cần cao như vậy.
- Thủy tinh cần được loại trừ bọt, bóng khí nhưng Frit lại không cần.
- Nhiệt độ nấu thủy tinh rất cao 1500 - 1550°C nhưng đối với Frit nhiệt độ nấu chỉ ở
1200- 1300°C.
- Thủy tinh cần gia công tạo hình nhưng đối với Frit lại không cần.
Trên cơ sờ đó mà lò nấu Frit sỗ đơn giàn hơn. Khi Frit đã hình thành trong bể nấu dưới dạng
lỏng, chúng được tháo ra khỏi lò để rơi xuống bể nước lạnh. Tại đây Frit sẽ vỡ tan thành các hạt nhỏ và
dễ nghiền mịn hơn nhiều khi chế tạo men.
Tùy theo công suất của lò mà ta cũng có các loại lò lửa chữ u, lửa ngang với buồng hồi nhiệt liên
tục (recuperator) hay gián đoạn (regenerator). Hiện nay công ty FRIT Huế đã bỏ lò quay gián đoạn và
xây 14 lò nấu Frit liên tục khác nhau với công suất từ 4 đến 15 tấn/ngày.
511
Chương 11
Vôi là chất kết dính cổ truyền và lâu đời nhất của nhân loại cho đển ngày nay. Các lâu đài và
thành quách cổ xưa như Vạn lý trường thành cũng được xây dựng từ chất kết dính vôi. Từ đời xưa
người ta đã biết nung đá vôi để có vôi sống CaO và khi tôi vôi với nước sẽ cho ta chất kết dính tương
đối tốt. Sau hàng chục thế kỷ vôi vẫn được sản xuất và sử dụng cho xây dựng và công nghiệp. Mặc dù
vai trò chất kết dính của vôi đã dần dần giảm và nhường chỗ cho xi măng nhưng ở nước ta cũng như các
nước công nghiệp khác vẫn sản xuất vôi. Nguyên nhân chủ yếu là vôi vẫn có vai trò nhất định trong chất
kết dính rẻ tiền và được dùng tại những nơi hay những vùng có yêu cầu không cao mà lại săn có. Ngoài
ra vôi còn được ứng dụng trong rất nhiều ngành như luyện kim, giấy, đường, bột nhẹ, gạch hấp áp
không nung (gạch silicat), chất khử trùng vùng dịch, khử độ chua cho nông nghiệp... Việc nung vôi
trước kia ở nước ta phần lớn do tư nhân thực hiện với lò thủ công. Khi xi măng phát triển thì vôi cho
xây dựng giảm dần đồng thời các lò thủ công gây ô nhiễm nặng nề và bị đỏng cửa. Thực tế cho thấy nhu
cầu vôi sống dạng đóng bao như xi măng đang tăng và vôi này chỉ có thể sản xuất chúng có tính công
nghiệp mới đáp ứng được yêu cầu cùa người sử dụng.
Sàn lượng vôi cùa thế giới: 2010 - 311, 2012 - 340 triệu tấn trong đỏ Trung Quốc chiếm 61%
còn các nước khác chi chiếm dưới 6% mỗi nươc.
Nước ta sản xuất vôi quy mô công nghiệp khoảng 2,9 triệu tấn, nếu kể đến vôi sàn xuất thủ công
thì có thể gần 4 triệu tấn. Theo kế hoạch, năm 2015 sàn xuất khoảng 4,068 triệu tan và xuất khẩu 1 triệu
tấn, năm 2020 sản xuất 7,28 triệu tấn và xuất khẩu 2 triệu tấn.
Lò đứng nung vôi có nhiều kiểu khác nhau theo thiết diện, tiết diện ngang của chúng như trong
hình 11.1.
Qua đó chúng ta có thể thấy tiết diện ngang của lò có thể là vuông, chữ nhật, tròn. Để nung đều
theo tiết diện ngang người ta cân thu hẹp khoảng cách của tường lò nên cỏ lò chữ nhật hay ô van và tăng
năng suất người ta phải thu hẹp đồng thời có lõi ở tâm. Tuy nhiên ngày nay tiết diện tròn hay dùng hơn
512
:ả. về mặt thiết diện chúng ta có bốn loại hình nhưng hay dùng loại thứ ba. Trong tất cả các loại lò này,
lá vôi đều được tiếp từ trên xuống, sản phẩm vôi sống được tháo ờ dưới băng các thiết bị riêng.
Lò nung vôi còn được phân loại thành các lò đốt bằng than, bằng nhiên liệu khí và bằng nhiên
liệu lông. Tùy theo điều kiện mà có thể lựa chọn lò cho thích hợp với cơ sờ sản xuất. Nói chung đề sàn
xuất vôi xây dựng thì dùng lò nung đốt bằng than, néu muốn sản xuất vôi sạch cho công nghiệp đường
o □ oO® @
Hình 11.1. Các kiều lò nung VÔI (thlét diện dọc và ngang).
513
Hình 11.3. Lò nung VÔI.
I.Gầu kéo; 2. Két đồ liệu; 3-4. Dây tời kéo; 5. Bộ phận lật gầu; 6. Phễu tiếp liệu;
7. Điều chình liệu; 8. Thiết bị ra lò; 9. Gằu cào tháo liệu.
Hình 11.4. Mặt cắt cùa một kiểu lò đốt than trực tiếp năng suất 300 tấn/ngày.
1. Thùng quay kín; 2. Truyền động thùng quay; 3. ồng nối; 4. Phằn đỡ; 5. Lớp lót; 6. Gạch thường;
7. Lớp cách nhiệt; 8. vỏ thép; 9. Dẫn khói lò; 10. Nón nhận liộu; 11. Đièu chỉnh nón rải liệu;
12, 14. Nón côn rải liệu; 13. Trục nón rải liệu; 15. Gờ tháo liệu; 16. Truyền động gờ tháo liệu;
17. Truyền động quay mồm tháo liệu; 18. Bệ đỡ; 19. ồng nối.
514
Hình 11.5. Quả trình nung vôi.
1, 2, 3. Nhiệt độ bề mặt, trung tẳm đá vôi và khl;
4, 5, 6, 7. Hàm lượng khí co, Oỉ, COỉ do cháy và tổng COĩ.
515
Neu bố trí nhiều lò nung trong nhà máy thì có thể xây dựng như hình 11.6.
Than dùng trong lò này tốt nhất là than ít chất bốc như antraxit, than cốc, than gầy. Khi nung các
chất bốc sẽ bay đi cùng khói lò mà không cháy trong zôn nung, vì vậy vừa gây tổn thất hóa học đối với
nhiên liệu vừa gây ô nhiễm môi trường. Khỏi lò nung vôi nói chung là chứa hàm lượng CO2 khá cao,
nếu chứa thêm khí co và các khí độc khác càng làm cho nguy hiểm về mặt môi trường. Chính vì vậy
mà cần lựa chọn than cho lò nung một cách hợp lý và tốt nhất là dùng than ít chất bốc hoặc than qua lửa
(than đã cháy hết chất bốc)
Thông thường năng suất lò nung kiểu này dao động trong khoảng 25 - 120 tấn/ngày nhưng có
những lò đạt 300 tấn/ngày như trong hình 11.7. Nhược điểm lớn nhất của lò kiểu này là vôi thường lẫn
xỉ, do đó làm giảm chất lượng của vôi và hầu như chỉ dùng như một loại vật liệu xây dựng. Neu cần vôi
tốt thì phải lựa chọn thủ công để nghiền rồi đóng bao phục vụ xây dựng dân dụng. Nếu phục vụ cho lò
luyện kim thi thường dùng loại cục và khi đó không cần nghiền, đóng bao.
516
có thề dùng lò kiểu tiết diện hình ô van hoặc chữ nhật như hình 11.8. Việc sử dụng lò kiểu này đường
phun khí vào lò được giảm đi nên tâm lò cỏ thể đạt nhiệt độ mong muốn và chất lượng vôi sẽ đồng đều.
Hình 11.8. Lò nung vôi chữ nhật đốt bằng nhỉỗn liệu khí.
1. Hệ tháo vôi; 2. Cừa quan sát độ đầy đá vôi; 3. Hứng liệu rơi; 4. Nón côn phồn bố liệu; 5. Phễu nhận liệu;
6. Bộ phận nâng; 7. Dẫn khói lò; 8. Cửa quan sát; 9, 11. Vòi đốt trên và dưới; 10. Cửa quan sát;
12. Đường dẫn không khí; 13. Két chứa; 14, 15. Điều chỉnh và vận chuyển.
517
dụng để nung Đôlômi và Manhêdi kết khối frong công nghiệp vật liệu chịu lửa với nhiệt độ nung đạt tới
khoang 1600 - 1700°C.
518
+ Hệ nạp liệu
Hệ nạp liệu phổ biến hiện nay được trình bày trong hình 11.10. Đá vôi được đổ vào phễu trên
cùng 9 và lúc này chuông 10 đậy kín đáy để khí không thoát ra ngoài được. Khi côn 2 nâng lên để đậy
kín côn 3 thì chuông 10 được nâng lên và đá vôi rơi vào côn 3. Sau đó chuông 10 lại hạ xuống đậy kín
phễu 9. Khi cần nạp liệu vào lò thì côn 2 hạ xuống và đá vôi sể theo cánh hướng liệu đề rơi vào cạnh lò.
Nguyên tắc chung của lò đứng là luôn nạp liệu vào sát tường lò để tạo mặt lòng chảo trên mặt lò. Việc
nạp liệu chỉ tiến hành khi ờ dưới đã tháo liệu và mặt lò bị tụt xuống, vì thế nên việc nạp và tháo liệu
phải được kết hợp chặt chỗ để zôn nung không bị biến đồi nhiều.
+ Thiết bị tháo liệu trục cán. Vôi ra lò được qua 2 dãy trục cán răng, mỗi dãy có từ 6 đến 10 trục
với khoảng cách giữa các trục là 60 mm. Trục quay được nhờ hệ truyền trục và tốc độ quay của trục
điều khiển trong khoảng 0-0,135 vòng/phút. Cuối cùng vôi được xả ra ngoài qua phễu và hệ lập là
giống như loại trên. Năng suất của thiết bị này cũng tương tự như các loại trên nghĩa là đạt đến 300
tấn/ngày.
+ Thiết bị tháo liệu kiểu ghi. Nhờ ghi chuyển động tiến lùi của chúng trên dầm phía dưới mà vôi
được tháo vào phễu. Cuối cùng vôi được xả ra ngoài nhờ bộ tháo kiểu lập là đặt dưới đáy phễu.
+ Thiết bị tháo liệu kiểu mâm quay
Kiều thiết bị này được dùng ờ nhiều nơi như trong hình 11.11. Vôi chín được xuống mâm quay
và được gạt vào ống 6 dẫn tới tang trống quay 5 và 2. Tang trống này chia thành nhiều ngăn và quay
được nhờ truyền động qua hộp số 1 và 4. Các tang trống quay được bọc kín và vôi chín lần lượt thoát ra
mà không lọt khí vào. Toàn bộ hệ được bọc kín và có đường dẫn không khí vào tâm lò qua mâm quay.
519
+ ưu nhược điểm của lò đứng nung vôi
520
lò quay có nhiều ưu điểm hơn so với lò đứng như độ chín đồng đều, hàm lượng CaO hoạt tính cao, chất
lượng ổn định, môi trường tốt hơn... Tuy nhiên việc đầu tư sẽ lớn hơn so với dây chuyền lò đứng.
Hình 11.12b. Lò quay nung vôi Trung Quốc với tháp (lò) đứng thu nhiệt khói lò.
521
Tháp tận dụng nhiệt của lò quay nung vôi có thể tham khảo tại hình 11.12c.
Hình 11.12c. Cấu tạo tháp tận dụng nhiệt khói lò đứng nung VÔI.
1. Buồng khói; 2. Lò quay; 3. ồng dẫn đá vôi nóng vào lò quay; 4. Tắm điều chỉnh;
5. Cửa quan sát; 6, 7. Thành ống hợp kim lượn sóng; 8. Cửa quan sát trôn; 9. ồng thoát khl;
10. Tháp tiểp liệu; 11. Chóp đỉnh lò; 12. Phễu tiếp liệu với bộ phận điồu Chĩnh; 13. Phấn trôn trao đổi nhiệt;
14. Thành thốp; 15. Phễu đá vôi nóng; 16. Van điều chỉnh; 17. ồng dẫn khói nóng từ lò quay;
18. Dẫn khói lò vào vòng ngoài các ống; 19. Khu dẫn khói lò; 20. Buồng trong dẫn khí thải. 21. Van chống nổ.
Tháp tận dụng nhiệt khói lò nung vôi được trinh bày trong hình 11.12c. Khói từ lò quay đi khu
bên ngoài 19 rồi đi ngang ống đựng đá vôi lượn sóng 6 và 7 vào buồng trong 20. Cuối cùng khí thải đi
lên rồi thoát ra theo ống 9. Như vậy đá vôi được nung nóng từ từ khi đi từ trên xuống dưới và nhận nhiệt
từ hợp kim quanh ống đồng thời cỏ thể đạt 450 - 650°C. Phần trên nguội hơn nên chi phần dưới của ống
là hợp kim chịu nhiệt và lượn sóng. Dùng ống lượn sóng sỗ tăng được bề mặt trao đổi nhiệt và bền vững
khi thay đồi nhiệt độ do tính co giãn của ống hợp kim.
Đá vôi đổ vào chóp nón ở đỉnh để phân bố đều cho các ống bố trí theo hình tròn như mặt cắt
B-B. Đá vôi đi từ trên xuống và dần được nung nóng trong các ống hợp kim, cuối cùng sẽ được
đưa vào lò quay.
522
Toàn bộ tháp được cách nhiệt tốt để giàm tổn thất nhiệt ra ngoài nên hình dạng của tháp trở nên
to lớn.
Một kiều lò quay khác lả dùng thiết bị làm nguội và tận dụng nhiệt của khỏi lò là kiểu ghi xích
như trong hình 11.13. Kiểu này cũng có ưu điểm là không cần xây cao, bụi xi nếu cỏ sẽ được loại đi
phần lớn tại các xích trao đổi nhiệt và làm nguội. Sản phẩm thu được sẽ tương đối sạch mặc dù dùng
than bụi. Bụi xi tại ghi xích được loại trừ và dùng vào việc khác. Vôi chín tương đối mềm được nghiền
nhanh và đóng bao kín có màng chất dẻo bên trong nên có thể bảo quàn được lâu và vận chuyển đi xa.
Đá vôi vào
Hình 11.13. Sơ đồ lò quay nung vôi với xích nung nóng và làm nguội.
523
xi măng lò đứng với sản lượng hăng năm khoảng 340 triệu tấn vào năm 1993. Tất nhiên ngày nay lượng
xi măng lò đứng của họ đã rút ngắn đi nhiều và thay vào đó là những lò quay nhỏ.
Năm 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Nhu cầu 28,6 32,2 35,8 39,8 44,6 49,8
Công suất thiết kế tăng +2,35 + 5,54 +9,7 +15,36 + 8,35
Số dây chuyền mới 3 5 6 10 8
Như vậy vào năm 2010, tổng công suất thiết kế sẽ đạt 60,51 triệu tấn/năm. Ngoài ra còn có
6 triệu tấn/năm của các trạm nghiền độc lập và 3 triệu tấn/năm của các lò đứng chưa chuyển đổi. Với
công suất trên Việt Nam sản xuất nhiều xi măng nhất trong khối ASEAN vào năm 2010. Năm 2011, sản
lượng xi măng của nước ta đạt gần 50 triệu tấn. Trong năm 2012 đã đưa vào sản xuất 7 dây chuyền mới
và sê đưa công suất thiết kế xi măng lên khoảng 65 -75 triệu tấn/năm đủ đáp ứng cho việc phát triển
xây dựng và giao thông cũng như cơ sờ hạ tầng.
Lò quay không chỉ dùng trong công nghiệp xi măng mà còn được sử dụng để nung các sản phẩm
khác như nung đất sét chịu lửa thành samôt, nung quặng manhêdit hay hydroxit manhêdi thành manhêdi
kết khối, nung đôlômi cung cấp nguyên liệu ban đầu cho ngành vật liệu chịu lửa phục vụ cho ngành
luyện kim. Lò quay cũng được dùng để nung vôi làm chất kết dính khi đòi hỏi năng suất cao. Trong
trường hợp năng suất thấp cỏ thề dùng lò đứng để nung, loại lò này tương đối phổ biến ở nước ta.
524
Hiện nay nước ta có lò đứng với đường kính trong của lò từ 2,0 m đến 3,6 m với chiều cao 8 - 10 m.
Do lò có nhiều nhược điểm như chất lượng clinke không ổn định, chứa nhiều vôi tự do, ô nhiễm nặng
môi trường, tiêu tốn nhiều năng lượng nên cần hạn chế và đang thay thế bời lò quay.
Phương thức sản xuất clinke xi măng từ lò đứng đều theo một sơ đồ chung như sau: bột liệu được
nghiền khô trong máy nghiền bi với 90 - 100% lượng than cần thiết, sau khi đồng nhất bột liệu được
làm ẩm sơ bộ trong máy trộn hai trục, cuối cùng qua máy vê viên rồi vào lò nung.
Theo chiều từ trên xuống lò được chia ra thành các zôn sấy, nung, làm nguội. Tại zôn sấy
thường dùng gạch chịu lửa cao alumin có cường độ cao. Zôn nung thường được lót băng gạch chịu
lửa manhêdi, Cr-Mg hoặc cao alumin. Ở nước ta thường dùng gạch cao alumin liên kết phosphat
không nung (chính xác là nung nhẹ lửa khoảng 400 - 600°C). Còn zôn làm nguội cỏ thể dùng gạch
samôt A. Khu vực đáy với chiều cao khoảng 2 m người ta phải dùng gạch gang cứng để chong bào
mòn. Đặc biệt tại khe giữa ghi quay và thành lò, chiều dày của lớp gang cứng phài lớn vì nơi đó chịu
mài mòn nhiều nhất.
11.3.3.2. Thiết bị nạp liệu
Trên lò là nắp lò với các cửa thao tác và hai ống thoát khói lò. Trên đỉnh nắp lò là thiết bị nạp
liệu, đó là phễu đựng liệu với máng cấp liệu. Khi phễu quay máng cấp liệu cũng quay và rải liệu quanh
thành lò. Điều khiển máng cao hay thấp để điều chỉnh vị tri cấp liệu vào lò. Thiết bị này tương đối đơn
giản nhưng rất quan trọng để điều chỉnh mặt lò theo yêu cầu nhất định của công nghệ. Thông thường
mặt liệu frên mặt lò có dạng hình lòng chảo nghĩa là sát thành lò chiều cao lớp liệu lớn hơn tâm lò. Sờ dĩ
525
cần phải như vậy vì tại tâm lò trở lực thường lớn hơn sát thành lò nên lửa luôn đi sát thành lò. Để giàm
chênh lệch trở lực cần phải nâng chiều cao lớp liệu bằng cách tạo lòng chảo trên mặt lò.
Mặc dù tạo lòng chảo trên mặt lò nhưng tâm lò vẫn luôn thiếu oxy nên việc tạo nhiều khí co là
khó tránh đồng thời chất lượng cũng như sản lượng clinke sẽ giảm. Để khắc phục điều đó, nhiều lò đã
dùng gió hông như hình 11.15. Ngoài ra nếu dùng không khí 29% Ơ2 thổi vào trung tâm lò để tăng
cường cháy nhiên liệu có thể tăng công suất lò lên gần 30%.
1. Máng rải liộu; 2. ồng thổi không khí 29% O2; 3. Cửa gió hông;
4. Gạch gang; 5. Mũ ghi quay; 6. Bộ thốo liệu lập là ba ngăn.
11.3.3.3. Thlétb/ralò
Thiết bị ra lò là bộ phận quan ưọng nhất của lò đứng từ khi nó xuất hiện. Sau này người ta đã bố
trí hai đôi cán trục ở dưới lò, kiểu này dùng ờ châu Âu đến thập niên 60 thì chấm dứt và thay thế băng
ghi quay. Hiện nay các lò đứng đều dùng ghi quay để tháo clinke.
Ghi quay cũng có hai loại: loại thấp và loại cao. Tuy nhiên hiện nay các lò của ta đều dùng loại
ghi cao, cấu tạo của chúng có hình nón cao khoảng 1 - 1,5 m, đáy hơi có hình elip. Đôi khi có loại ghi
mà trục của mũ ghi lệch với trục của lò từ 30 đến 100 mm tùy theo chiều cao cùa ghi. Nhờ cấu tạo như
vậy nên khi quay ghi, thành ghi sẽ chà xát và ép clinke giống như máy nghiền côn. Vì vậy các cục
clinke lớn sẽ võ ra sau đó lọt qua các khe trên ghi để đi xuống dưới. Do bị mài mòn nhiều nên ghi quay
được chế tạo bằng gang cứng đúc liền khối với các lỗ tháo clinke. Cũng chính vì ghi quay nên lớp
clinke sẽ bào mòn thành lò vì vậy đoạn thành lò này không thể dùng gạch chịu lửa để xây mà phải dùng
gạch gang cứng. Tốc độ ghi thường dao động ưong khoảng 0,7 - 6 vòng/phút, khe hờ giữa ghi và vòng
gang cỏ chiều rộng 20 - 50 mm.
Dưới ghi quay là phễu hay két hứng clinke. Từ két này clinke sẽ được tháo ra ngoài theo ống nối
từ két tới băng tải. Để đảm bảo không khí áp suất cao dưới ghi không thoát ra băng tải, người ta phải
526
khống chế chiều cao cột liệu trong ống tháo đó. Việc khống chế này được thực hiện băng cách dùng tia
gamma đi qua điểm trên, khi lượng clinke đầy đến điểm đó thì bộ cảm ứng sẽ cho băng tải chạy để
chuyển clinke. Khi clinke tháo đến điểm thấp nhất cho phép thì tia gamma thứ hai bắt dừng băng tải và
quy trình cứ lặp lại như thế.
Các nước châu Âu dùng lập là ba ngăn để tháo clinke ra ngoài, cấu tạo lập là này cho trong hình
11.15 và 11.16. Nhờ đối trọng lập là này sẽ được đóng kín. Khi ghi quay sẽ có một lượng clinke rod
xuống, lập là thứ nhất được mở ra để clinke red xuống ngăn thứ hai và nhờ đối trọng lập là được đóng
lại ngay. Tiếp theo lập là thứ hai mở ra để trút clinke vào ngăn thứ ba rồi đóng lại. Cuối cùng lập là thứ
ba mở ra để clinke đi vào băng tải.
Hình 11.16. Van lật đối trọng ba ngăn dùng động cơ điều khiển.
I, 2. Hộ điều khiển ống xà; 3, 4, 5. Hộ điều chỉnh đóng mờ lập là; 6, 7. Hộp hay ngăn và đầu hộp;
8. Trục lập là; 9, 11, 13. Van lật; 10, 12, 14. Quả đối trọng; 15, 16, 17. Giảm tốc, động cơ và khung.
Không khí áp suất cao khó thoát ra băng tải vi phải đi qua 2 lập là đóng kín và một số clinke với
trờ lực lớn. Quá trình đóng mở 3 lập là này có thể thực hiện băng phương pháp cơ khí nghĩa là nhờ các
gân gắn trên bánh răng của trục ghi quay mà không cần hệ động cơ riêng. Chúng chi đóng hay mờ khi
ghi quay làm việc có nghĩa là khi tháo clinke, sơ đồ có thể xem trong hình 11.16.
Hiện nay các lò đứng của ta dùng tia Y xuyên qua phía trẽn, khi clinke đầy đến vị trí đó thì băng
tháo tự động chạy và clinke được tháo ra ngoài. Khi mức clinke tụt xuống đến vị trí dưới, tia Y thứ 2 đi
xuyên qua và băng tháo tự động ngắt.
527
+ Phân bố nhiệt độ trong lò không đồng đều theo tiết diện ngang do phân bố giỏ không đồng đều.
Sát thành lò bao giờ gió cũng mạnh hom ờ tâm lò, cho nên ờ tâm lò bao giờ nhiệt độ cũng thấp hom hoặc
chín chậm hom. Chính vì vậy chất lượng clinke ra lò không đồng đều và chứa vôi tự do nhiều hom.
+ Than cháy không hoàn toàn do chất bốc bay đi và một phần khí co2 thoát từ đá vôi bị khử thành
CO. Vì vậy phải dùng than ít chất bốc và khói lò luôn chứa khí độc là co tới 4 - 5% và một số chất độc
khác. Thông thường chi cỏ 60 - 80% cacbon của than được cháy thành co2 còn lại là thành co.
+ Quá trình hình thành clinke tưomg đối nhanh vì vậy nên dùng nguyên liệu cỏ hoạt tính cao để
tạo khoáng chính của clinke nhanh, nếu dùng nguyên liệu kém hoạt tính thì sẽ giảm năng suất của lò.
+ Do nhiệt độ nung cao nên trong lò dễ tạo các tảng lớn hay bám dính vào thành lò. Điều đó ảnh
hưởng tới sự phân bố gió trong lò hay nhiệt độ trong lò. Do đó cần phải chăm sóc mặt lò thường xuyên
để lửa lên mặt lò đều đặn.
+ Tiêu tốn nhiệt cao hom nhiều và gây ô nhiễm không khí cao hom nhiều so với lò quay. Vỉ vậy lò
đứng không đáp ứng được với yêu cầu hiện nay.
528
11.4. LÒ QUAY NUNG CLINKE XI MĂNG
Lò quay là loại lò được sử dụng rộng rãi trong nhiều ngành công nghiệp, song chù yếu là trong
cồng nghiệp sản xuất clinke xi măng vỉ lò quay chiếm vị trí trọng yếu trong các nhà máy xi măng. Lò
quay cũng được dùng trong công nghiệp hóa chất như sản xuất soda, phosphat, phân bón... Trong công
nghiệp luyện kim lò được dùng để nung hydr oxit nhôm thành oxit, trong công nghệ gốm sứ và vật liệu
chịu lửa người ta cũng dùng lò quay để nung manhêdi, dôlômi, samôt... Trong phần này chi trình bày lò
nung clinke ximăng, đó là lò chủ đạo hiện nay của chúng ta.
Trong những năm gần đây, ngành xi măng của chúng ta đã có tốc độ phát triển rất mạnh. Mặc dù
vậy cung vẫn không đáp ứng được cầu và chúng ta phải nhập clinke để đáp ứng cho nhu cầu xây dựng
ngày càng tăng. Đứng trước tình hình đó Chính phủ đã quyết định về kế hoạch sản xuất xi măng với
công suất của các lò đến 2010 cỏ thể đạt trên 60 triệu tấn/năm. Năm 2011 nước ta đã sản xuất và tiêu
thụ gần 50 triệu tấn và năm 2012 công suất thiết ké có thể đạt khoảng 73 triệu tấn/năm. Theo số liệu
mới nhất, năm 2013, chúng ta sản xuất được khoảng 60 triệu tấn, tiêu thụ trong nước 47 triệu tấn và
xuất khẩu 14 triệu tấn.
Dự báo mức tiêu thụ xi măng năm 2014 khoảng 65 - 67 triệu tấn, xuất khẩu 10 triệu tấn. Năm
2015 nguồn cung xi màng sẽ đạt 82,6 triệu tấn và sẽ loại bỏ các dự án công suất thấp. Định hướng đến
năm 2020 công suất sẽ đạt 93 - 95 triệu tấn và năm 2030 là 113 - 115 triệu tấn (nguồn: vovonline).
Qua đó chúng ta thấy rõ vai trò to lớn của công nghiệp xi măng trong chiến lược công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, cũng như thấy được tương lai và nhiệm vụ to lớn của công nghiệp xi măng
của chúng ta trong những năm tới. Mặc dù sự táng trường về sản lượng xi măng của ta rất lớn nhưng so
sánh lượng xi măng/đầu người với các nước khác thi chúng ta thấy vẫn còn phải tiếp tục phải nâng cao
hơn nữa.
Lò quay nung clinke xi măng có hai loại: lò quay phương pháp ướt và lò quay phương pháp khô.
Lò phương pháp ướt là loại lò mà phối liệu vào lò dưới dạng bùn pát với độ ẩm khoảng 30 - 40%. Phối
liệu này được chuẩn bị băng cách nghiền mịn frong máy nghiền bi ướt. Do độ ẩm phối liệu cao nên lò
rất dài và tỷ lệ chiều dài lò L trên đường kính D tới 35 - 38. Ngược lại lò phương pháp khô làm việc với
phối liệu vào lò dưới dạng bột khô và mịn với độ ẩm khoảng 1%, chúng được chuẩn bị băng cách
nghiền mịn trong máy nghiền khô với bộ phân ly để đảm bảo độ mịn.
Lò phương pháp khô hiện nay là loại lò ngăn với tỷ lệ L / D còn 15 - 16 và ngắn nhất khi tỷ lệ
trên còn 11-15. Đây là loại lò hiện đại nhất, ưu thế nhất về mọi mặt nên phổ biến nhất trên thế giới
cũng như ở nước ta.
Quá trình hình thành clinke xi măng cỏ thể xem trong hình 11.18. Nhiệt độ tạo pha lỏng mạnh
trong clinke ở 1300°C khi các khoáng C3A và C4AF nóng chảy và nhiệt độ kết khối của clinke xi măng
dao động trong khoảng 1420 - 1450°C với sự hinh thành khoáng C3S.
Sự phát triển công nghiệp xi măng ờ nước ta trong những năm gần đây tương đối mạnh. Hiện nay
chúng ta có các Công ty Xi măng Hải Phòng, Hoàng Thạch, Bỉm Sơn, Bút Sơn, Hà Tiên, Hoàng Mai,
Sao Mai, Chinh Phong, Nghi Sơn, Tam Điệp, Phúc Sơn, Thăng Long, Hạ Long, cẩm Phả, Bình Phước,
Thái Nguyên... đang hoạt động và thêm nhiều nhà máy khác đang được xây dựng.
529
Năm 1880 có một bước tiến lớn là xuất hiện lò đứng nung liên tục clinke được xây dựng tại Đức
đã tiết kiệm được nhiều năng lượng.
Từ 1877 bắt đầu thử nghiệm lò quay và ra sản phẩm thương mại đầu tiên vào năm 1889. Hurry
và Seaman đã xây dựng lò quay tiêu chuẩn đầu tiên như trong hình 11.17 chạy tốt tại Mỹ. Lò quay đầu
tiên thuộc lò phương pháp ướt, công suất 50 -100 tấn/ngày và tiêu tốn than ứng với 2270 kcal/kg.cl
nhưng quá nhiều bụi. Để giảm năng lượng tiêu hao, người ta bắt đầu mắc xích nhằm tăng cường sấy bùn
phối liệu. Sau đó lò khô dài xuất hiện với hệ nồi hơi tận dụng nhiệt khói lò.
Đen năm 1930, Dr. Lellep của hãng Polysius phát triển xích trao đổi nhiệt hay calcinator với tên
gọi là lò Lepol. Sau đó vào năm 1934 có patent của Czech và đến năm 1953, hãng Humboldt của Đức
xây dựng kiểu lò SP đầu tiên “The first suspension pre-heater system for raw meal”. Kiểu lò này đã
thống trị công nghệ phương pháp khô do tiết kiệm rất nhiều nhiệt, tăng công suất lò.
Hình 11.17. Lò quay tiêu chuẩn đầu tiên tạl Mỹ năm 1889.
Đến năm I960, Nhật Bản bắt đầu phát triển calciner và lò quay với calciner đã thống trị trên thế
giới do có quá nhiều ưu việt và đã đưa công suất lò đến 12.000 tấn clinke/ngày đồng thời nhiệt tiêu tốn
đã giảm xuống còn < 700 kcal/kg.cl.
Đe sản xuất xi măng đầu tiên phải sản xuất clinke, sau đó nghiền mịn clinke với 2 - 5% thạch cao
và phụ gia rồi đóng thành bao đưa đi sử dụng. Nguồn nguyên liệu chủ yếu để sản xuất clinke xi măng là
đá vôi, đất sét và một số phụ gia. Theo phương thức chuẩn bị phối liệu mà chúng ta có hai phương pháp
sản xuất, đó là phương pháp khô và phương pháp ướt. Do đỏ chúng ta cũng có các loại lò quay theo
phương pháp ướt và lò quay phương pháp khô.
11.4.1.1. Lồ quay phương pháp ướt
Lò quay để sản xuất clinke xi măng xuất hiện cuối thế kỷ XIX và đã phát triển mạnh mẽ cho
đến ngày nay. Tuy nhiên khởi đầu là lò quay phương pháp ướt. Trong nhà máy xi măng theo phương
pháp ướt, phối liệu được nghiền mịn liên tục trong máy nghiền bi ướt để có được bùn pát với độ ẩm
đạt tới 34 - 40%. Bùn pát được chứa trong các bể bùn lớn có máy bừa bùn chạy liên tục để khuấy trộn.
Từ các bể bùn, bùn pát được đưa vào bề đồng nhất theo tỷ lệ nhất định rồi từ đó được bơm thẳng vào lò
530
nung. Như vậy trong lò quay bùn pát lần lượt được sấy khô, nung nóng, kết khối, làm nguội sơ bộ rồi đi
vào máy làm nguội. Trên thực tế chúng ta thấy lò quay rất dài vì phải thực hiện quá trình sấy cũng như
nung nóng sơ bộ phối liệu và kết khối. Do đó lò quay phương pháp ướt thường rất dài và có tỷ lệ chiều
dài và đường kính L/D = 34-36
11.4.1.2. Lò quay phương phăp bán khô
Từ thập niên 30 của thế kỷ trước đã xuất hiện lò quay phương pháp bán khô. Bột liệu được chuẩn
bị theo phương pháp ướt sau đó được ép lọc thành phôi dẻo. Các phôi dẻo qua máy ép đùn nhiều lỗ và
cắt thành viên trụ nhỏ. Các viên này được đưa sấy rồi vào xích calcinator. Thời gian sau phối liệu được
nghiền khô băng thiết bị sấy nghiền liên tục. Bột liệu này được làm ẩm và vê viên tròn trước khi đưa
vào hệ thống xích Calcinator hay Calciner. Tại đây viên liệu được sấy, nung nóng đến khoảng 800°C
và cuối cùng đi vào lò quay. Nhờ vậy mà tỷ lệ giữa chiều dài và đường kính của lò L/D giảm xuống
còn 17 - 20. Lò này có nhiều ưu việt so với lò quay phương pháp ướt nên được phát triển rất mạnh
cho đến thập niên 60.
11.4.1.3. Lò quay phương pháp khô thế hệ 1 (ký hiệu quốc té là SP)
Khoảng thập niên 50 của thế kỷ trước, lò quay phương pháp khô xuất hiện và được phổ biến rộng
rãi. Với phương pháp khô phối liệu được sấy và nghiền mịn liên tục trong máy nghiền bi khô hoặc máy
nghiền đứng khô có kèm theo khí nóng đề sấy với hệ phân ly để thu được bột liệu mịn và khô. Sau khi
đồng nhất, bột liệu này được cung cấp thăng vào hệ lò. Như vậy ờ phương pháp khô tiết kiệm được rất
nhiều năng lượng do không phải tiêu tốn nhiệt để bốc hơi nước. Mặt khác lò ngắn lại và tỷ lệ L/D chỉ
còn 15 - 16 nghĩa là chiều dài của lò rút xuống gần băng một nửa so với lò ướt. Mặt khác năng suất
của lò lại cao, tự động hóa hoàn toàn, diện tích xây dựng nhỏ và nhiều ưu việt khác. Vì vậy trên thế
giới phương pháp khô chiếm ưu thế và ở nước ta cũng đã xây dựng Nhà máy Xi măng Hoàng Thạch
theo phương pháp khô đầu tiên đó là lò quay, phương pháp khô thế hệ 1. Với chỉ một lò quay, phương
pháp khô có cùng đường kính với lò quay phương pháp ướt như của Công ty Bỉm Sơn nhưng năng
suất tương đương với hai lò của Bim Sơn.
11.4.1.4. Lò quay phương pháp khô thế hệ 2 (ký hiệu quốc té là NSP)
Vào thập niên 70 thế kỷ XX, trên thế giới xuất hiện phương pháp gia nhiệt mới cho bột liệu,
đó là thiết bị tiền nung Calciner hay Precalciner. Tại thiết bị này bột liệu được nung nóng đến nhiệt
độ khoảng 800 - 900°C bằng cách đốt nhiên liệu với không khí nóng lấy từ máy làm nguội sang.
Bột liệu vào lò quay đã đạt khoảng 800°C và đã phân hủy đến 90% đá vôi thành CaO. Do đó chiều
dài lò quay bây giờ lại được rút ngăn xuống tỷ lệ L/D =11-15. Như vậy lò quay thế hệ 2 có rất nhiều
ưu thế so với lò thế hệ 1. Đặc biệt loại lò này cho năng suất rất cao và có thể đạt tới 10.000 đến
12.000 tấn/ngày, đây là điều mà ngay cả lò thế hệ 1 không thể đạt được vì nó chi đạt năng suất đến
7.000 tấn/ngày mà thôi. Chính vì vậy mà ngày nay người ta chi xây các lò quay thế hệ 2 hoặc cải tạo lại
lò quay thế hệ 1 sang thế hệ 2. Các nhà máy sản xuất theo phương pháp ướt cũng chuyển đổi sang
phương pháp khô, ví dụ Công ty Xi măng Bỉm Sơn đã hoàn thành chuyển đổi lò dây chuyền 1 sang lò
phương pháp khô thế hệ 2 NSP và sản lượng xi măng của công ty đã nâng từ 1,2 triệu tấn (hai lò ướt)
lên 1,8 triệu tấn/năm.
Trong hệ lò nung phương pháp ướt hoặc khô, bột liệu đều phải qua các quá trình sấy, dehydrat
hóa (khử nước hóa học) các nguyên liệu sét ở khoảng 450 - 650°C, decacbonat hóa (phân hủy cacbonat
Ca, Mg) ờ 750 - 950°C. Quá trình này chiếm nhiều thời gian và năng lượng nhất và thực hiện ở 70%
chiều dài lò quay phương pháp ướt, còn ở phương pháp khô chúng được thực hiện tại bộ gia nhiệt bên
ngoài lò quay.
531
Tại lò SP chiều dài lò quay còn tương đối dài còn ở lò NSP chiều dài lò quay rút đi rất ngắn. Quá
trình hóa lý xảy ra khi nung phối liệu đều như nhau song trong lò quay ngăn thời gian clinke ưong lò
quay sẽ rút ngắn như trong hỉnh 11.18.
Tiếp theo là phản ứng giữa CaO với các oxit SiO2, AI2O3, Fe2O3 bắt đầu ở khoảng 800°C và
mạnh ở trên 1000°c để hình thành các khoáng C2S, C3A, C4AF. Đen 1300°C thi pha lỏng xuất hiện
nhiều do C3A và C4AF nóng chảy và clinke bắt đầu két khối. Nhiệt độ nung clinke ở 1420 -1450°C, tại
nhiệt độ này C3S được hình thành từ C2S và CaO tự do nhờ sự có mặt pha lỏng nóng chảy. Tại nhiệt độ
này clinke hoàn chinh quá trình kết khối cũng như tạo được nhiều khoáng C3S và giảm CaO tự do đến
mức tối thiểu. Sau đó nhiệt độ hạ thấp và clinke đi vào thiết bị làm nguội để ra khỏi hệ thống lò. Clinke
xi măng portland thông thường chứa C3S + C2S =75-82%; C3A + C4AF= 18-25%.
532
Bàng 11.1. Chiều dày vỏ thép các đoạn khác nhau của vỏ lò
Độ dày của vỏ thép lò quay không giống nhau theo chiều dài của chúng. Riêng chiều dài của các
đoạn khác nhau phụ thuộc vào khối lượng toàn bộ giừa hai bệ đỡ. Để tham khảo, chúng ta hãy khảo sát
phân bố chiều dày của vỏ thép tính băng mm của lò (4,5 X 70) m cho trong hình 11.19 và 11.20.
Hình 11.19. Phần bố chiều dài và độ dày vó thép cùa lò (4,5 X 70) m.
Vỏ thường
Việc chế tạo lò quay chủ yếu là cuốn tôn và hàn. Đoạn lò có nhiệt độ cao nhất thường dùng loại
thép chịu nhiệt và dày hom để đàm bảo tuổi thọ cao. Độ nghiêng của lò nằm trong khoảng 3 - 5%, trung
bình 4%. Lò quay phưomg pháp ướt thường có số vòng quay là 0,5 -1,2 vòng/phút, còn lò quay phương
pháp khô có số vòng quay lên đến 6 vòng/phút thậm chí còn cao hơn. Do đó nếu cùng đường kính lò
như nhau, lò quay phương pháp khô cho sản lượng gấp 2 đén 3 lần hoặc hơn so với phương pháp ướt.
Đẻ tăng sản lượng clinke của lò nên đã nhiều nơi xây lò 10.000 tấn/ngày. Kích thước và đặc tính
của chúng như sau:
Đường kính 6,2 m
Chiều dài 92 m
Độ nghiêng 4%
533
số bệ đỡ 3
Tốc độ quay 0,42 - 4,2 vòng/phút
Độ dày thép
Đầu ra 55 mm
Nơi có băng đa 100, 90 mm
Nơi khác 75, 55, 36, 32 mm
Độ lệch tối đa theo trục của vỏ thép < 3 mm
Khối lượng toàn vỏ thép 650.000 kg.
11.4.2.2. Bệ đỡ lò
Toàn bộ tải trọng của lò bao gồm vỏ lò, gạch chịu lửa, vật liệu nung được đè lên bệ đỡ lò hay bệ
ga lê hoặc bệ rô lie thông qua vành lò hay băng đa như trong hình vẽ mô phỏng 11.21. số bệ ga lê phụ
thuộc vào chiều dài của lò, thông thường khoảng cách giữa 2 bệ ga lê khoảng 25 - 30 m. Do đó lò
phương pháp ướt có rất nhiều bệ ga lê. Lò càng nhiều bệ ga lê thì càng khỏ căn chinh cho đồng trục, mặt
khác khi chạy lò vỏ lò càng bị vặn nhiều, càng làm cho lớp gạch chịu lửa lót trong lò bị vặn theo. Vì vậy
tuổi thọ của lò nói chung càng giảm đi, càng dễ phải ngừng lò để thay thế lớp gạch chịu lửa. Điều đó
càng dẫn tới giảm năng suất, tăng tiêu tốn nhiệt, tăng tiêu tốn gạch chịu lửa và dẫn tới tăng giá thành xi
măng sản xuất ra.
Lò phương pháp khô chi có 3 bệ ga lê và lò mới nhất hiện nay chỉ có 2 bệ ga lê mặc dù loại 2 bệ
ga lê chưa thật phổ biến lắm. Nước ta cũng đã có 3 lò quay với 2 bệ đỡ đặt tại Bình Phước, Hà Tiên
thuộc VICEM và Nhà máy Xi măng Thăng Long tại Hạ Long.
fctxdmert
534
Băng đa
Cấu tạo bệ ga lê cho trong hỉnh 11.22. Nó gồm một đôi trụ đỡ hay ga lê hoặc rô lie, tâm của lò và
hai tâm của ga lê tạo thành một tam giác đều. Ga lê có đường kính l,5 - 2 m, dài hay rộng đến l,2 m.
Trục của ga lê đặt song song với trục của lò hoặc tạo với trục của lò một góc khoảng vài chục phút
~ 40’. Do đó nếu lò đặt nghiêng 4% tương đương với a = 2°20’ nó sẽ tạo ra lực kéo lò xuống hay tụt lò.
Phân bố lực này cho trong hình 11.23.
Gọi khối lượng toàn bộ đoạn lò đè lên ga lê là G, nó sẽ phân thành hai lực Gl và G2. Lực Gl do
ga lẻ chịu còn G2 sẽ đưa lò tụt về phía vòi đốt. Lực này được tính toán như sau:
F = f.Gl = l,16.f.G
Trong đó f là hệ số ma sát. Lực ma sát có chiều ngược với chiều của lực G2. Nếu mặt ga lê khô
thì hệ sổ ma sát f = 0,15 - 0,20, khi đó lực ma sát sẽ bằng:
535
F = 0,15. 1,16.G = 0,134. G
Như vậy lực ma sát gấp 4 lần lực tụt lò G2. Do đó nếu để trục ga lê khô thì lò không tụt mà
ngược lại lò lại đi lên trên về phía nạp liệu. Để lò hoạt động bình thường phải giảm ma sát giữa băng đa
và ga lê bằng cách tưới nước hoặc dầu. Nếu lực quá nhỏ thì lò lại bị tụt xuống.
Đẻ lò hoạt động ổn định đúng vị trí cần thiết phải điều chinh hệ số ma sát để lực ma sát cân băng
với lực tụt lò. Mặt khác cũng phải đề phòng tụt lò hoặc lên lò bằng cách thiết lập hệ vành chặn như
trong hình 11.24. Khe giữa băng đa và vành chặn 30 - 60 mm. Khi lò tụt xuống quá thấp và chạm vào
vành dưới, vành dưới sỗ quay và tháo nước hay dầu vào để giảm ma sát. Ngược lại khi lò lên quá mức
sẽ làm quay vành trên và nước hay dầu sẽ được đóng lại. Việc điều chỉnh lò quay ở vị trí cố định là việc
làm quan ưọng để ổn định chế độ của lò. Nếu lò cứ lên xuống nó sẽ phá vỡ khớp đầu lò và các bộ phận
khác nữa. Với lò ngắn hiện đại, người ta dùng vành chặn thủy lực nghĩa là khi lò tụt xuống sẽ chạm vào
băng đa. Lúc này vành chặn hình 11.24 sẽ quay và máy thủy lực sẽ đẩy lò lên đến vị trí nhất định rồi trờ
về chỗ cũ. Mỗi lò mới hiện nay có thể có 1 hoặc 2 vành chặn trên và dưới của 1 băng đa.
536
Bột liệu vào lò
Buồng khói
Lò nung
Bộ phận I
bịt kín
Vòng trượt f
Hình 11.25. Khớp kín đầu nguội của lò (đầu vào bột liệu) của FCB.
Không khí
lạnh
Tâm trượt với cáp và
chốt nhún Hộp gió
Buồng đầu lò
Gioăng sợi
Gạch dạng đặc biệt Bê tông ngăn ứng suất Vòng gỡ giữ gạch
lên gạch
Hình 11.26. Khớp kín đầu lò nơi clinke được rót vào máy làm nguội của FCB.
Có rất nhiều kiểu khớp kín đầu lò như ữong hình 11.25 và 11.26 của hãng FCB lắp đặt tại Hoàng
Mai. Hiện nay phổ biến nhất là loại vảy cá hình 11.27, đó là những lá thép đàn hồi được gắn chặt một
đầu vào buồng cố định còn đầu kia tỳ vào vỏ thép của lò quay. Đẻ tăng độ bền của vỏ lò, tại nod vỏ thép
tiếp xúc với vảy cá người ta phải táp lên một lớp thép chịu ma sát. Đầu nóng của lò có nhiệt độ tưorng
đối cao cho nên người ta phải bố trí hệ thống làm nguội các vảy cá băng không khí lạnh như hình 11.28,
nhờ vậy mà tuổi thọ của chúng được tăng lên.
537
♦
Hình 11.27. Khớp kín đầu lò dạng vảy cá.
11.4.3. Thiết bị trao đổi nhiệt cho lò quay phưong pháp ướt
Mặc dù lò quay phương pháp ướt bây giờ không xây dựng nữa, song một số nơi vẫn còn có lò
quay này hoạt động và chúng ta cũng cần tìm hiểu những vấn đề liên quan đến lò kiểu cù để thấy rõ
những khó khăn của lò này cũng như càng thấy rõ những tiến bộ của lò kiểu mới.
Để tàng cường tận dụng nhiệt của khói lò phương pháp ướt người ta đã dùng nhiều biện pháp. Dưới
đây là tóm tắt các phương pháp đã được sử dụng rộng rãi một thời tại các nước cũng như ờ nước ta.
538
11.4.3.1. Xích trao đổi nhiệt
Xích là một kiều thiết bị trao đổi nhiệt đơn giàn nhất dùng cho lò quay phương pháp ướt. Xích
được mắc ờ đầu lò nơi mà bùn pát đi vào lò quay nhăm tăng bề mặt bốc hơi và lắng đọng bớt bụi của
khói lò như trong hình 11.29.
Vị trí lắp xích thường bắt đầu khoảng 3 - 5 m từ đầu lò hoặc 1-1,5D (D là đường kính của lò)
nơi bùn pát có độ ẩm 30 - 36% và kết thúc tại nơi cỏ nhiệt độ khí không quá 700 - 800°C ứng với độ
ẩm của phối liệu không nhỏ hơn 5 - 10%. Chiều dài tổng của xích treo trong lò ưong khoảng 6-8 km
với bề mặt trao đổi nhiệt 1.500 - 3.000 m2. Bề mặt trao đổi nhiệt có thể lên tới 12.530 m2 ở lò (7 X 230) m
với khối lượng xích treo 611 tấn.
Có hai kiểu mắc xích là mắc võng với hai đầu gắn vào lò và mắc thõng với một đầu gắn vào lò.
Nơi bùn pát vào lò có độ ầm cao người ta dùng kiểu mắc thõng nhằm cản trở bớt bụi trong khói lò. Các
nơi khác đều dùng kiểu mắc võng vỉ chúng có nhiều ưu việt hơn. Khi mắc xích cũng cần tuân thủ
nguyên tắc hoặc tạo đường tròn hoặc tạo thành đường xoăn tùy theo tính chất của bùn pát vào lò.
11.4.3.2. Thiết bí khác
Trong lò quay còn dùng thiết bị hâm lọc bùn. Nó gồm các lồng có 4 hoặc 6 ngăn trong có các vật
đệm dạng ống trụ ngắn. Khi lò hoạt động khói lò phải đi qua lồng và truyền nhiệt cho vật đệm và cuối
cùng truyền cho bùn pát. Nhờ vậy mà bùn pát chóng bốc hơi và bụi trong khói lò sẽ ngưng đọng bớt vào
vật đệm. Qua thiết bị này nhiệt độ bùn tăng lên khoảng 40 - 70°C và lượng bụi giảm đi còn 2 - 2,5 %.
Tại nơi có nhiệt độ cao hơn nghĩa là sau zôn xích người ta còn lắp các cánh xới kim loại để rắc
vật liệu nhằm tăng bề mặt truyền nhiệt cũng như thời gian vật liệu lưu trong khí nóng. Nếu nhiệt độ cao
hơn nữa cỏ thể dùng cánh xới gốm chịu lửa. Tuy nhiên việc sử dụng các cánh xới này rất hạn chế do có
nhiều sự cố xảy ra. Vì vậy đa số lò này chỉ dùng xích trao đổi nhiệt là chủ yếu.
11.4.3.3. Thiết bị sấy hay cô đặc bùn
Thiết bị này được dùng đầu tiên tại Anh và Đức. Mục đích của chúng là tận dụng nhiệt của khói
lò để sấy hay cô đặc bùn từ độ ẩm 34 - 40% xuống còn 10 - 12%. Thiết bị này đặt ở ngoài lò quay phía
bùn pát đi vào lò. cấu tạo của chúng cho trong hình 11.30.
539
Khói lò
quay vào
Hình 11.30. Mảy sấy bùn kiểu lồng quay (Slurry dryer hay Concentrator).
Thực chất đây là một lồng trụ quay dài có đường kính từ 3,5 đến 5,5 m, dài từ 1,5 đến 4,5m với
tốc độ quay 1-1,6 vòng/phút, bên trong có chứa vật đệm là ống thép cacbon đường kính 160 mm,dài
125 mm, nặng 4,7 kg, bề mặt 0,112 m2. Vật đệm chiếm 60 - 65% thể tích của lồng. Thành lồng cỏ các
khe rộng 60 - 70 mm, qua khe này bùn pát được phụt vào ưong lồng theo nguyên tắc xung để tránh
những dầm dọc theo lồng. Khi bùn vào frong lồng nó sẽ thấm ướt các vật đệm và quay theo quỹ đạo
nhất định. Khói lò vào lồng có nhiệt độ 550 - 600°C đi xuyên ngang qua vật đệm sẽ cung cấp nhiệt cho
bùn. Nhờ lồng quay nên vật đệm sẽ được đảo và bùn sẽ khô dần xuống độ ẩm còn 10 - 12% rồi rơi
xuống dưới để vào lò quay. Nhiệt độ của khói lò ra khỏi lồng dao động trong khoảng 120 - 180°C.
Tác dụng của thiết bị này như sau:
+ Hạ độ ẩm của bùn từ 30 - 40% xuống còn 10 - 12% nghĩa là tương đương với cà zôn xích và
nhiệt độ của vật liệu vào lò có thể đạt gần 100°C.
+ Nhiệt độ khí hạ từ 550 - 600°C xuống còn 100 - 180°C.
+ Do tận dụng được nhiệt nên tiêu tốn nhiệt riêng hạ xuống còn 1300- 1350 kcal/kg clinke nghĩa
là giảm đi 15 - 20%.
540
+ Năng suất lò tăng lên 20 - 25% do nguyên liệu được chuẩn bị tốt trước khi vào lò.
+ Chiều dài của lò quay rút ngắn đi chi còn L/D = 20 - 25. Đây là một tiến bộ lớn của lò quay
theo phương pháp ướt và vi thế mà một số lò ngắn đã tăng năng suất bằng cách lắp thêm thiết bị này.
Tuy nhiên thiết bị này có những nhược điểm sau:
+ Phân bố khí vào vật liệu theo tiết diện ngang không đều nên độ ẩm vật liệu vào lò quay không đều.
+ Vi phụt bùn vào nên lượng bụi trong khí tăng lên và đạt tới 15 - 20%. Mặt khác độ ẩm của bụi
lại cao cho nên gây khó khăn cho thiết bị lọc bụi điện đặt phía sau.
+ Tiêu tốn thép để làm vật đệm tới 250 - 300 g/tấn clinke.
+ Lỗ phụt bùn rất nhỏ và dễ tăc do đó phải thông luôn.
Mặc dù có những nhược điểm trên nhưng kiểu lò này đã được phát triển rộng rãi một thời gian
cho đến đầu thập niên 70 thế kỷ XX. Cũng trong thời gian đó lò phương pháp khô đã phát triển mạnh
nên thiết bị này không phát triển nữa.
11.4.4. Thiết bị trao đổi nhiệt lò quay phương pháp bán khô LEPOL
Lò quay phương pháp khô thực tế đã phát triển từ những năm 30 của thế kỷ trước. Tuy nhiên
khởi đầu là chuẩn bị phối liệu theo phương pháp khô, sau đó phối liệu lại được vê viên với độ ẩm
12 - 16% rồi cho vào thiết bị nung nóng sơ bộ bằng khói lò. Thiết bị này gọi là dàn nung calciner
hình 11.31. Sau này thiết bị trao đổi nhiệt của phương pháp khô không dùng loại này nữa mà đưa
thẳng bột liệu khô vào hệ lò nung. Điều này có nghĩa là bỏ qua giai đoạn làm ẩm và vê viên phối liệu
như trong phương pháp đầu.
í "ppjj
541
Dàn nung này do Otto Lellep (người Đức) sáng chế và áp dụng vào hãng Polysius từ năm 1928
và được gọi là lò LEPOL. Cho đến đại chiến thế giới lần thứ hai, đã cỏ khoảng 120 lò này hoạt động với
năng suất lò đến 600 tấn/ngày và tiêu tốn nhiệt riêng khoảng 1000 kcal/kg clinke. Sau chiến tranh, kiều
lò này được phát triển tới khoảng 340 lò Lepol vào năm 1965 và có lò đạt năng suất tới 3000 tấn/ngày
với tiêu tốn nhiệt hạ xuống còn 800 kcal/kg clinke.
Cấu tạo lò Lepol cho trong hình 11.31. Nỏ gồm một buồng lớn lót gạch chịu lửa và được phân
làm hai phần băng tường ngang tạo thành khu sấy và khu nung. Dàn nung là băng xích rộng 2 - 4 m, dài
12 - 25 m được cấu thành từ những tấm kim loại chịu nhiệt với các khe rộng khoảng 8 mm tạo tiết diện
sống khoảng 12%. Băng xích này sẽ chuyển vận viên liệu từ đầu buồng đến cuối buồng với tốc độ
0,0094 - 0,02 m/s hay 25 — 50 m/h nhờ hệ cơ khí và các trục đỡ.
Nguyên liệu vào lò được vê viên với độ ẩm 12 - 15% đường kính 5-20 mm tai máy vê viên.
Sau đó phối liệu được đưa lên két và từ đây nó được rải đều trên dàn nung với chiều dày lớp liệu trên
dàn 150 - 200 mm. Tại khu sấy khói lò được pha thêm một ít không khí lạnh để nhiệt độ hạ xuống còn
200 - 300°C nhằm tránh vỡ các viên phối liệu. Sang khu nung sơ bộ nhiệt độ khỏi lò 900 - 1100°C từ lò
quay đi vào và xuyên qua lớp liệu. Tại đây phối liệu được dehydrat hóa khoáng sét và decacbonat một
phần đá vôi. Mức độ decacbonat có thể tới 20 - 25% tùy theo chế độ làm việc của lò. Nhiệt độ phối liệu
vào lò quay cỏ thể đạt tới 800 - 1000°C.
Dưới dàn nung là các cửa để hút khói lò với nhiệt độ khói còn khoảng 100 - 200°C. Ngoài ra còn
có vít tải hoặc băng tải thép để vận chuyển khoảng 5% phối liệu rơi lọt qua dàn đến đầu lò.
Lò Lepol có những ưu điểm nổi bật sau:
+ Tận dụng tốt nhiệt của khói lò nên tiêu tốn nhiệt riêng chỉ còn 850 - 1100 kcal/kg clinke, một
số lò có thể hạ xuống còn 750 - 800 kcal/kg clinke nhờ năng suất lò tăng cao. Mặt khác do lượng nhiên
liệu đốt trong lò giảm đi nên không khí 2 từ máy làm nguội vào lò để cháy nhiên liệu sẽ có nhiệt độ cao
hơn và cháy với nhiệt độ cao hơn.
4- Tỷ lệ L/D giảm xuống còn 15-17 nghĩa là chiều dài của lò giảm đi còn gần bằng 1/2 so với
lò phương pháp ướt. Ví dụ lò quay 4 X 60 m với lò Lepol (3,9 X 26) m cho năng suất 850 tấn/ngày; lò
(5 X 80) m với lò Lepol 200 m2 cho năng suất 1800 - 2000 tấn/ngày. Nhờ vậy diện tích xây dựng lò
giảm đi rất nhiều (gần 2 lần) khi cùng năng suất.
+ Nhiệt độ vật liệu vào lò quay có thể đạt tới 800 - 1000°C tùy theo loại lò và mức độ decacbonat
hóa (phân hủy đá vôi) tới 20 - 25%.
4- Lượng bụi trong khí giảm đi rất nhiều và chỉ còn 1 - 2% khối lượng clinke do lớp viên liệu trên
dàn nung cản trờ bụi.
Nhược điểm của lò Lepol là:
4- Nguyên liệu phải có khả năng tạo viên nghĩa là phải dẻo hoặc pha thêm phụ gia hóa dẻo. Mặt
khác viên liệu phải thoả mãn những yêu cầu kỹ thuật cần thiết như độ đồng đều về kích thước, cường độ
cơ học...
4- Cần có máy tạo viên đĩa quay và lại làm ẩm phối liệu đến 12—16%.
4- Nung nóng không đều theo chiều cao lớp liệu nghĩa là nguyên liệu vào lò quay không được
chuẩn bị đồng đều.
4- Nếu phối liệu chứa nhiều kiềm thì kiềm khó thoát ra khỏi lò do lớp phối liệu trên dàn nung giữ
lại. Điều đó có nghĩa là lò Lepol thích hợp với nguyên liệu chứa ít kiềm.
4- Hệ thống dàn nung phải làm việc ở nhiệt độ cao nên chóng hòng, sửa chữa khó, đắt tiền...
542
Lepol đã đóng góp cho công nghiệp xi măng một giai đoạn phát triển lò phương pháp bán khô.
Do còn có những nhược điểm nhất định nên phải nhường chỗ cho những lò phương pháp khô tiên tiến
hơn đó, là lò SP và NSP trình bày sau đây.
Khởi đầu là hệ gia nhiệt cyclone do kỹ sư M.Vogel-Jorgensen của hãng F. L. Smidth đăng ký
bản quyền sáng chế Patent (hình 11.32) tại Praha, Tiệp Khắc vào ngày 01/6/1932 và được cấp Patent số
48169 ngày 25/7/1934. Nhưng phải đến 1951, F. Muller của hãng Humboldt và bây giờ là hãng KHD
mới biến đổi và đưa vào hoạt động thực tế. Do bột liệu được bay trong dòng khí nóng dưới dạng huyền
phù (bột liệu là chất khuếch tán, khói lò là môi trường khuếch tán) nên trao đồi nhiệt cực kỳ hiệu quả.
Sau này rất nhiều hãng đã sáng ché phương pháp riêng của mình dưới dạng cyclone hay tháp trao đồi
nhiệt và cũng theo những nguyên lý tương tự. Chính vì vậy mà chúng có danh từ quốc tế là Suspension
Preheater chủ yếu dùng cyclone trao đồi nhiệt và ký hiệu là SP.
11.4.5.1. Cyclone trao đổi nhiệt
Hoạt động của hệ SP do hãng Humboldt được trỉnh bày trong hình 11.33 và 11.34. Nó gồm
4 tầng cyclone và đặt ở đầu nguội của lò quay. Theo chiều chuyển động của nguyên liệu thì tầng trên
cùng được gọi là cyclone bậc I rồi đến bậc II, III và rv. Theo chiều chuyển động của khí, tầng dưới
cùng là cyclone tầng 1 hay Cl, tiếp theo là cyclone C2 rồi C3 và trên cùng là C4. Thông thường C4 hay
cyclone bậc I được thay thể bởi 2 cyclone nhỏ nhằm tăng khả năng trao đồi nhiệt và khả năng lắng đọng
bột liệu. Việc ký hiệu các cyclone của các hãng cũng khác nhau và trong tài liệu này dùng ký hiệu Cl,
C2... theo dòng khí từ dưới đi lên.
Bột liệu đầu tiên được cấp vào ống nối giữa C3 và C4. Khí nóng từ C3 đi lên sẽ thổi bột liệu vào
C4, trên đường đi vật liệu được nhận nhiệt và sau đó được xoáy trong cyclone và nhờ lực ly tâm mà bột
543
liệu sẽ lắng đọng ở thành cyclone rồi rơi xuống đáy. Khí nóng được tách ra và thoát ra khỏi cyclone bởi
ống giữa tâm của chúng rồi dẫn đến quạt hút đưa khí ra ngoài lò.
Theo đường liệu vào lò nguyên liệu được nung nóng dần dần qua mỗi cyclone. Nhiệt độ đạt được
33O°C tại C4, 500°C tại C3, 650°C tại C2 và khoảng 800°C tại Cl. Ngược lại nhiệt độ khí sẽ hạ từ
1100°C từ lúc vào C1 xuống còn 330°C khi ra khỏi C4. Như vậy nhiệt độ bột liệu vào lò quay có thể đạt
800°C với mức độ decacbonát hóa khoảng 10 - 15%.
H/nh 11.34. Sơ đồ phân bó nhiệt độ của bột liệu, khí qua từng cyclone
lò phương pháp khô đầu tiên của Humboldt.
544
Lò quay đầu tiên của hãng Humboldt là 4 X 60 m, đường kính của cyclone là 4,8 m, riêng C4 là
đôi cyclone có đường kính 2,8 m. Các cyclone đều có tỷ lệ H/D = 0,75 trong đó H là chiều cao phần trụ
và D là đường kính của cyclone. Đáy của cyclone có hình nón với góc trên 65° dốc về đáy. Cyclone
được chế tạo từ tôn thép dày 8—12 mm, bên trong lót gạch chịu lừa samôt 230 mm với lớp gạch cách
nhiệt 115 - 230 mm. Tốc độ khí đi trong cyclone 3,5 - 4 m/s, trong ống nối 12 - 18 m/s và ống thoát
khoảng 10 m/s. Lò quay được đặt dưới góc nghiêng khoảng 350°, tốc độ vành ngoài của lò đạt tới
30 - 70 cm/s. Sau này kích thước lò tăng lên và đương nhiên năng suất của lò cũng tăng lên.
Ưu điểm chính của lò SP Humboldt:
1) Chiều dài của lò rút ngắn lại rất nhiều và tỷ lệ L/D còn 15, điều đó làm giảm diện tích xây
dựng đi rất nhiều.
2) Năng suất của lò tăng lên đến 3500 tấn clinke ngày, năng suất riêng đạt 1,75 tấn/m3 ngày và có
lò đạt tới 2,3 tấn/m3 ngày (tính theo thể tích lò quay).
3) Tiêu tốn nhiệt riêng để nung clinke giảm đi và tùy theo năng suất lò. Lò cỏ năng suất
350 tấn/ngày tiêu tốn 920 kcal/kg clinke, trong khi đó lò có năng suất 3500 tấn/ngày tiêu tốn nhiệt giảm
xuống còn 740 - 760 kcal/kg clinke.
Do những ưu điểm nồi trội đó mà lò nung clinke xi măng theo phương pháp khô được phát triển
mạnh. Hãng đầu tiên sản xuất theo Licence của Humboldt là Fuller USA vào năm 1952, sau đó là IHI
Nhật bản năm 1960 và tiếp theo là Pháp, Ấn Độ... Cũng trong thời kỳ này, nhiều hãng trên thé giới
bắt đầu xây dựng phương pháp SP của mình và làm phong phú thêm hệ SP. Do đó tiến độ sản xuất xi
măng trên thế giới đã được đẩy mạnh và phương pháp khô cũng đẩy lùi phương pháp ướt để chiếm vị
trí hàng đầu.
Trong khoảng 10 năm, đã có hàng trăm đăng ký phát minh công nghệ SP mới của các hãng tại
Mỹ, Đức, Đan Mạch, Liên Xô cũ, Tiệp Khắc, song chỉ có một số được áp dụng. Cuối cùng vẫn phải
dùng cyclone trong tháp trao đổi nhiệt như hiện nay. cấu tạo cyclone cũng thay đổi theo nhiều hãng
khác nhau như trong hình 11.35, 11.36 và 11.37.
545
Hình 11.36. Cấu trúc của cyclone KHD.
CONE
546
A Đột llộu tưoH nạp vào hộ *
B Lồ quay
c ổng dân khói lồ
Ting 1 vái 2 cvclon
Tầng 2 với buông xoáy
ngipợc chiều
Tầng 3 VỜI 2 cydon
Táng 4 VỚI 4 cỹdon
547
khác như KHD, Onoda, Kawasaki, Mitsubishi, Smidth, Polysius... mỗi hãng đều có kiểu riêng cùa mình
và vì vậy lò quay có thiết bị Tiền nung hay Calciner hoặc Precalciner được gọi chung là lò NSP. Nhờ
có calciner nên lò quay được rút ngăn như trong hình 11.39.
Hình 11.39. So sánh mức độ calci hóa và phản bố trong lò quay của hai kiểu lò.
Hình 11.40. Calciner SF cùa IHI và mô hình buồng xoáy tại Bìm Sơn.
Hãng Ishikajma Karima Heavy Industries IHI Nhật Bản đã đưa ra calciner đầu tiên gọi là
Suspension preheater with Flash Furnace (calciner), viết tắt là SF cho hệ SP và trở thành lò NSP đầu
tiên trên thế giới. Calciner này được ứng dụng đầu tiên vào đầu năm 1971 tại Công ty xi măng Chibuchi
(công ty này sản xuất 6,5 triệu tấn xi măng năm 1998) tại lò (3,9 X 51,4) m cho sàn lượng 2000 tấn
clinke/ngày, tiếp đó vào năm 1973 tại lò (5,5 X 100) m cho năng suất 8000 tấn clinke/ngày. Sau đó một
loạt các nhà máy tại Nhật và nhiều nước khác được trang bị calciner SF.
Cấu tạo Calciner kiểu SF cho trong hình 11.40.
Phòng xoáy ở phía dưới là nơi không khí nóng từ máy làm nguội đưa vào để cháy nhiên liệu. Các
vòi đốt nhiên liệu được đặt tại thành phòng xoáy và hướng ngọn lửa theo chiều chuyển động của không
khí. Nhiên liệu có thể dùng các loại khác nhau như rắn lỏng hay khí. Bột liệu được đưa từ C2 vào buồng
548
qua ống từ trên rơi xuống. Trong buồng nhiên liệu được cháy và nung nóng bột liệu trên đường xoáy
cùng khói lò từ dưới đi lên. Cuối cùng hỗn hợp bột liệu dưới dạng huyền phù được đưa sang C1 và được
lắng tại C1 rồi tiếp vào lò quay. Như vậy calciner được đặt chen giữa C2 và Cl, bột liệu được phân hủy
đá vôi tại calciner và trong Cl. Do đỏ bột liệu được nung nóng trong calciner đến 800 - 900°C rồi
tiếp tục được nung nóng trong C1 đến 850 - 950°C. Mức độ phân hủy đá vôi dao động trong
khoảng 80 - 90% vả phải đốt 55 - 60% nhiên liệu cần thiết đề nung clinke ximăng. Trao đổi nhiệt chủ
yếu là đối lưu và chiếm tới 90% còn bức xạ chi chiếm 10%. Nhiệt độ tại calciner giữ ở mức < 1000°C,
néu dùng than thì nhiệt độ nóng chảy của tro xỉ phải trên 1100°C để tránh bám dính vật liệu trên bề mặt
trong của calciner.
Tiêu tốn nhiệt riêng để nung ckinke có thể giảm 5 - 10 % và hơn nữa so với kiểu lò SP. Ngay lò
đầu tiên tiêu tốn nhiệt chi còn 760 kcal/kg clinke (lò 2000 tấn/ngày). Lò có năng suất càng cao tiêu tốn
nhiệt riêng càng thấp.
Theo hãng cho biết năng suất lò quay SP thông thuờng có thể đạt 1,75 - 2,3 tấn/m3ngày (tính
theo thề tích lò quay). Nếu sử dụng lò SF tức NSP thì năng suất tăng lên 3,3 tấn/m3 ngày. Như vậy năng
suất lò nhỏ có thể tăng lên gần 2 lần, đường kính và chiều dài của lò có thể giảm đi, diện tích xây dựng
giảm đến 25%.
Hình 11.41. Lò quay một dây cyclone (trái) và hal dây cyclone (phải) tạl Bỉm Sơn.
Gần đây hãng IHI đã thay đổi cấu tạo của SF một chút và được xây dựng tại Bỉm Sơn, cấu tạo
của chúng xem trong hình 11.40. Sự khác nhau cơ bản của hai kiểu calciner là ở chỗ bột liệu vào lò đi
theo 2 đường, một đường vào gần đáy calciner với khoảng 65% khối lượng và một đường vào ống dẫn
khói lò đi lên hay ống đứng với lượng khoảng 35%. Như vậy bột liệu không rơi từ trên xuống như kiểu
đầu tiên mới nghiên cứu mà đi từ dưới đi lên. Mặt khác ống dẫn khí từ calciner không phải đi ngay sang
Cl mà đã cải tiến đề đi vòng lên cao hàng chục mét rồi mới vòng xuống đi vào C1 như trong Công ty Xi
măng Bim Sơn đã thực hiện tại hai lò hình 11.41. Điều đó sẽ làm tăng thời gian vật liệu lưu lại trong
dòng khí khoảng 6 đến 8 giây và quá trình phân hủy đá vôi sẽ hoàn hảo hơn cũng như một số các thông
số khác sỗ tốt hơn.
549
Theo phân tích của hãng IHI khi dùng calciner SF tại những lò quay khởi đầu có một số
thuận lợi sau:
- Chênh lệch giữa nhiệt độ khí và bột liệu rất thấp do chúng được cấp nhiệt tại calciner SF với
ngọn lửa đốt bằng nhiên liệu.
- Nếu nung trong lò SP thì cần 2/3 hay 65% chiều dài lò để phân hủy cacbonat còn 1/3 chiều dài
lò để nung chín và tạo các khoáng chủ yếu của clinke.
- IHI xuất phát từ nguyên tắc là lò quay có không gian lớn nên trao đổi nhiệt thích hợp nhất là
bức xạ nên phần nhiệt độ thấp trong lò quay hay zôn calci hóa việc truyền nhiệt bằng đối lưu cho vật
liệu là kém hiệu quả. Việc truyền nhiệt cho bột liệu tốt nhất là ờ dạng bay lơ lửng trong dòng khí
(suspension).
- Neu nung trong lò quay có calciner SF thì việc phân hủy cacbonat chủ yếu tiến hành tại
calciner (80 - 90%) nên chỉ cần khoảng 30% chiều dài lò dùng để phân hủy nốt cacbonat (10 - 20%),
phần còn lại của lò quay dùng để tạo khoáng cho clinke hay kết khối clinke.
- Tại calciner SF của IHI thì 60% nhiên liệu cần đốt cho toàn hệ lò được đốt tại calciner SF, tại lò
nung chi cần đốt khoảng 40%.
- Zôn nung của lò quay chỉ cần đốt 40% nhiên liệu do đó tải trọng nhiệt của lò quay giảm đi rất
nhiều. Nói cách khác là gạch chịu lửa lót tại zôn nung chịu tải trọng nhiệt thấp hơn và do đó tuổi thọ của
chúng được nâng cao và giảm thời gian dừng lò. Điều đó cũng có nghĩa là công suất của lò tương đối
tàng lên.
- Nếu chi đốt 40% nhiên liệu thi điều đó có nghĩa là lò quay có thể tăng lưu lượng gấp đôi khi
vẫn giữ nguyên tốc độ khí và đương nhiên công suất lò quay sẽ tăng lên. Khi lò nung có đến 70% chiều
dài dùng để kết khối clinke điều đó có nghĩa là tốc độ quay của lò có thể tăng lên và đương nhiên năng
suất lò tăng lên.
- Trên cơ sờ đó mà lò SF hay calciner của IHI đã thực hiện việc calci hóa hay phân hủy cacbonat
tới 90% trước khi đi vào lò quay. Khi vào lò CaO mới tạo ra rất hoạt tính nên đi nhanh vào zôn nung đề
dễ tạo khoáng chính của clinke. Nhờ vậy mà không những công suất của lò tăng lên mà việc tạo khoáng
của clinke cũng nhanh hơn, chất lượng clinke sỗ hoạt tính hơn.
11.4.6.2. Calciner kiểu RSP của hăng ONODA
lột liệu từ C2
Cyclone
dưới cùr
Khói từ lò quay
Hình 11.42. Sơ đồ cấu tạo và đường đl của bột liệu và khí trong RSP của ONODA.
550
Calciner RSP từ chữ Reinforced Suspension Preheater do Công ty Xi măng ONODA của Nhật
phối hợp với hãng Kawasaki nghiên cửu và ứng dụng ngay tại công ty của mình năm 1971 với năng
suất 1,2 triệu tấn/năm. Sau đó nhiều nước đã mua bản quyền của hãng ONODA để xây dựng các nhà
máy xi măng trong đó có xi măng Bút Sơn, Chingphong, cẩm Phả.
Sơ đồ nguyên tắc của calciner RSP cho trong hình 11.42. Nhiên liệu than bụi được đốt trong
calciner bằng đường ống thổi từ trên xuống, không khí nóng 650 - 700°C từ máy làm nguội thổi tiếp
tuyến với buồng đốt. Ngọn lửa than bụi được cháy và xoáy xuống. Một phần không khí nóng cùng với
bột liệu cấp vào cũng theo đường tiếp tuyến. Trong calciner bột liệu được xoáy trong ngọn lửa và đi
xuống buồng hỗn hợp. Tại buồng hỗn hợp, khói lò quay đi lên và hỗn hợp với bột liệu, sản phẩm
cháy rồi đi lên Cl.
Calciner RSF của hãng Onoda cạnh tranh mạnh mẽ và đã được thị trường nhiều tiếp nhận với bản
quyền của Onoda. Ví dụ Công ty xi măng Bút Sơn đã dùng RSF với 2 nhánh nghĩa là mỗi nhánh có một
calciner gắn với hệ cyclone trao đổi nhiệt riêng. Buồng hỗn hợp với khói lò là buồng chung cho cả 2
nhánh, khí từ buồng hỗn hợp được phân thành 2 nhánh vào 2 cyclone Cl và từ đó bột liệu đi vào lò
quay.
11.4.6.3. Calciner KSV của hăng Kawasaki
Lúc đầu hãng này cộng tác với hãng Onoda để đưa ra kiểu RSF, sau đó hãng Kawasaki đã đưa ra
loại calciner của mình với tên gọi là Kawasaki Spouted bed and Vorte chamber viết tắt là KSV. Hệ
thong KSV đầu tiên được hoạt động tại Công ty xi măng Tsuruga Nhật năm 1974 cho năng suất
2700 tấn/ngày. Sau đó 1 năm tức 1975 KSV đã ứng dụng tại Công ty xi măng Ube Nhật cho năng
suất 8.500 tấn/ngày. Sơ đồ cấu tạo cho trong hình 11.43, đây là loại đã cải tiến nên đôi khi có ký hiệu
là NKSV. Đặc điểm của loại này là tạo ra tầng sôi giả ờ đáy và bột liệu sê được sôi trong buồng xoáy
phía dưới sau đó lại được nhào trộn ờ buồng trên trước khi đi sang Cl. Loại calciner này có thể cho
551
năng suất đến 9500 tấn/ngày ưong khi lò RSP chỉ cho năng suất tối đa 5000 tấn/ngày. Hiện nay ở nước
ta chưa cỏ lò nào dùng loại calciner này.
11.4.6.4. Calciner của hăng Mitsubishi
Tên đầy đủ của MFC là Mitsubishi Fluidized Calciner. Đây là calciner làm việc theo nguyên lý
tầng sôi và áp dụng đầu tiên tại nhà máy Higashidani Nhật năm 1971 cho lò (4,14 X 63) m với năng suất
2000 tấn/ngày. Sau một thời gian calciner đã đổi mới và có ký hiệu là N-MFC như trong hình 11.44.
Đo nhiệt độ
Hình 11.44. Mặt cắt của calciner MFC đang dùng tạl Nghi Sơn.
Đặc điểm của calciner này là gồm một tháp cao khoảng trên 20 m, dưới đáy có mặt lỗ để không
khí từ quạt áp cao 300 - 500 mm H2O thổi lên tạo thành tầng sôi. Lượng không khí này chiếm
khoảng 8 - 10% lượng không khí cần thiết để cháy nhiên liệu. Bột liệu đi từ C2 vào đáy tháp cùng với
không khí nóng 600 -700°C từ máy làm nguội chuyển đến. Cũng tại đáy tháp than bụi được đưa vào để
đốt và tại đó bột liệu được sôi lên. Hạt liệu nào được phân hủy cacbonat sẽ nhẹ hơn và bay lên. Từ ưên
đinh tháp ống nối sẽ đi vòng lên trên rồi mới đi xuống C1 nhằm tăng thời gian vật liệu lưu lại trong dòng
khí khoảng 5 đến 10 giây. Trong các loại calciner thì loại N-MFC được đặt thấp nhất, đáy của nó chì cách
mặt đất khoảng 2 m. Đinh cùa calciner nối với ống vươn lên rất cao rồi vào cyclone cuối cùng để vào lò
quay.
Kiểu calciner này đã được xây dựng tại công ty xi măng Nghi Sơn Thanh Hóa cho lò năng suất
5.800 tấn/ngày, đây là lò năng suất cao nhất nước ta đến thời điểm này. Ngoài ra kiểu calciner này cũng
đuợc sử dụng tại một sổ nước và có lò đạt năng suất 7200 tấn/ngày.
11.4.6.5. Calciner cùa hẵng Smldth
Hãng Smidth đưa ra nhiều kiểu calciner với ống nối từ calciner sang C1 rất ngắn như Hoàng
Thạch 2 dùng kiểu ILC. Mặt khác trong calciner không tạo được các dòng xoáy để khuấy đảo bột liệu.
Gần đây hãng đã đưa ra kiểu mới và được áp dụng tại dây chuyền Hoàng Thạch 3 như trong sơ đồ hình
11.45 và 11.46.
552
Hình 11.45. Mặt cắt các kiểu Calciner và kiểu SLC - D Downdraft
của hãng Smidth tại xi măng Tam Điệp, Hải Phòng và Hoàng Thạch.
Cấu tạo của chúng gồm một tháp cao và thắt ờ giữa. Bột liệu từ C2 vào đáy tháp cùng với bụi
than phun vào. Không khí nóng 600 - 800° c từ máy làm nguội clinke thổi từ dưới lên và tạo ra tầng sôi
giả của bột liệu và than bụi. Hỗn hợp này bay lên và xoáy trong phần dưới của calciner sau đó lại được
xoáy lần nữa tại phần trên. Cuối cùng bột liệu bay cùng dòng khí theo ống nối vòng lẽn cao rồi vào Cl.
Sau đó bột liệu được lắng đọng tại C1 và đi vào lò quay.
-407mm HjO
254’c 1
uaomm HjO
3ĩữ’C
100Ơ-C
• ...
4 ÍS0- c
* T |WC
~
uX' ■ 'V ứ , •
.............. ft
tt tTV
Hình 11.46. Phẳn bố nhiệt độ và áp suất của Calciner ILC và SLC-D Smldth.
Ở loại SLC - D ngọn lửa đi từ đinh đi xuống, phối liệu theo gió 3 đi xoáy quanh ngọn lửa và
nhận nhiệt. Cuối cùng hỗn hợp đi xuống và vào buồng hồn hợp với khói lò quay. Khói lò quay cũng
nhận một phần phối liệu (khoảng 40%) tại ống đứng và cùng đi vào buồng hỗn hợp như hình 11.46.
553
11.4.6.6. Calciner PREPOL của hãng Polyslus
Bản thân tháp cyclone của Polysius cũng đặc biệt đó là đường ống dẫn khí vươn lên cao rồi mới
vào calciner. Họ cỏ thể bố trí vòi đốt ngay ờ đầu đường ống đứng và đốt nhiều bậc. Tuy nhiên để đốt
được than antraxit họ đã đưa ra kiểu hình 11.47.
Hãng Polysius thuộc tập đoàn Krupp - Polysius đã xây dựng nhiều kiểu calciner Prepol như hình
11.47 cho riêng mình với các ký hiệu khác nhau. Tuy cỏ nhiều loại khác nhau nhưng kết cấu cơ bản
giống nhau. Song nguyên lý hoạt động hoàn toàn khác với các hãng trình bày ở trên. Như ta đã biết,
hãng Polysius đã có hệ 2 nhánh cyclone trao đổi nhiệt mang tên Dopol với ống dẫn khí vào cặp C1. Từ
đoạn tháp này hãng Polysius biến thành calciner. Để đủ thời gian cháy nhiên liệu cũng như trộn đều hỗn
hợp khí với bột liệu, đường đi của khí phải uốn cong và vươn lên cao rồi đi vào cặp C1 như MSC - cc
trong hình 11.48. Kiểu này đã được ứng dụng tại nhà máy xi măng Thăng Long tại Quảng Ninh, Hà
Tiên 1 tại Bình Phước, Hà Tiên 2 tại Kiên Lương.
Hình 11.47. Cấu tạo buồng đốt nhiên liệu than khó cháy hay calciner của Polyslus.
554
11.4.6.7. Calciner của hẫng FCB
Hình 11.49. Calciner FCB đang dùng tại Công ty Hoàng Mai (Nghệ An)
và Quang Sơn (Thái Nguyên).
Hãng FCB của Pháp đã sử dụng kiểu lò có ngọn lửa đi xuống như trong hình 11.49. Loại này đã
được sử dụng đầu tiên ờ nước ta tại Công ty xi măng Hoàng Mai (Nghệ An) và sau đó được xây dựng
tại Công ty xi măng Quang Sơn (Thái Nguyên) với đường kính của calciner bằng 5,6 m. Thực ra loại
lửa đi xuống downdraft này đã ra đời và ứng dụng trước hãng Smidth tại nước ta và tỏ ra có nhiều ưu
điểm về mặt vận hành. Nguyên tắc chung của chúng là bột phối liệu được phun vào calciner cùng gió 3
quanh ngọn lửa qua một hộp dạng vành khăn và qua khe hẹp dạng vòng tròn, sau đó được trộn lẫn với
lửa đi xoáy xuống dưới. Tại buồng hỗn hợp, bột liệu một lần nữa được trộn đều với khỏi lò từ dưới đi
lên. Cuối cùng dòng khí mang phối liệu sẽ được vào cyclone dưới cùng qua đường ống dài vươn lên
trên để đủ thời gian phân hủy phối liệu. Do đặc điểm của calciner như vậy nên việc bám dính trên thành
calciner sẽ bị hạn chế.
Nhiên liệu than antraxit nghiền mịn được phun từ trên xuống và được đốt bởi gió 3 với nhiệt độ
khoảng 800°C từ máy làm nguội. Gió 3 với bột liệu này bao quanh dòng bụi than nên việc cháy than bụi
trờ nên dễ dàng hơn. Ngọn lửa của than bụi ở giữa buồng calciner và xung quanh là dòng bột liệu. Trên
cơ sờ đó bột liệu được xoáy vào trong ngọn lửa và cùng ngọn lửa đi xuống dưới. Cuối cùng dòng khí và
bột liệu được trộn lẫn với khói lò quay từ dưới đi lên buồng hỗn hợp.
Bột liệu từ cyclone tầng trên đi xuống được chia làm 2 phần. Phần chủ yếu đi vào calciner
(khoảng 60%) tại đường ống gió 3 cách xa đầu vào calciner nhằm tạo huyền phù sớm khi vào calciner.
Phần nhỏ hơn khoảng 40% được dẫn xuống ống đứng, tại đây khỏi từ lò quay có nhiệt độ khoảng
1100°C đi lên sẽ nung nóng và phân hủy bột liệu. Đường dẫn bột liệu xuống ống đứng có thể xem trong
hình 11.50.
555
Hộp vành
Xkhăn,...
KheV
Hình 11.50. Két nối calciner FCB với buồng hỗn họp và cyclone dưới cùng.
Calciner của hãng FCB bố trí với lò quay được minh hoạ trong hình 11.51. Điểm đặc biệt ở
đây là đầu ống gió 3 dẫn đến calciner có đặt vòi đốt phụ. Tác dụng của vòi đốt này là thực hiện quá
trình sấy ống gió 3 cũng như calciner khi khởi động lò, tăng nhiệt độ không khí gió 3 và tạo điều
kiện tốt cho quá trình cháy nhiên liệu tại calciner. Trên cơ sờ đó mà công suất lò có thể tăng lên do
nhiệt độ gió 3 tăng lên.
Trên hình 11.51 ta thấy rõ hỗn hợp khí từ calciner và khói lò được dẫn theo đường ống lên khá
cao sau đó sẽ quay xuống để vào cyclone cuối cùng nhằm đảm bảo tăng thời gian bột liệu và hạt than
lưu trong dòng khí nhiệt độ cao. Do đỏ mức độ phân hủy cacbonat được tăng lên đồng thời có thể giảm
được lượng NOx trong khói lò.
556
11'4'6r& Những ưu đỉểm cùa calciner hay lò NSP
Các hãng đều đưa ra các calciner với những ưu điểm riêng của mình. Song đến nay không có tài
liệu nào so sánh đánh giá của các loại calciner này. Tuy nhiên chúng đều có chung những ưu điểm sau:
1) Do bề mặt trao đổi nhiệt rất lớn nên trong calciner bột liệu được nung nóng rất nhanh và thời
gian phân hủy cacbonat cũng rất nhanh chỉ khoảng 10 giây so với 10-30 phút trong lò quay. Nhờ vậy
bột liệu vào lò quay đã được phân hủy cacbonat lên đến 85 - 90% ờ lò NSP trong khi lò SP lượng
cacbonat chỉ được phân hủy 10 - 15%.
2) Do bột liệu đã decacbonat tới 85 - 90% nên chiều dài của lò quay dùng để thực hiện
decacbonat nốt 10 - 15% chỉ chiếm 30%, còn 70% chiều dài dùng để nung 1300 - 1450 - 1300°C. Từ
đây ta thấy chiều dài lò quay rút ngăn từ tỷ lệ L/D = 15 - 16 của lò SP xuống còn 13-14 của lò NSP.
Hiện nay đã xuất hiện lò quay NSP có tỷ lệ L/D chi còn 10 - 11. Do đó diện tích xây dựng lại một lần
nữa giảm đi so với lò SP.
3) Bột liệu được phân hủy nhanh lại đạt nhiệt độ 800 - 900°C nên CaO tạo ra rất hoạt tính khi
vào lò quay. Nhờ vậy việc hình thành các khoáng chính của clinke trong lò quay nhanh chóng hơn so
với lò không có calciner.
4) Cũng nhờ độ hoạt tính của bột liệu cao nên thời gian kết khối của clinke tại zôn nung ngắn
hơn, do đó tốc độ quay của lò cũng nhanh hơn trong khi đường kính của lò lại giảm mà vẫn đảm bảo
năng suất. Ví dụ lò Hoàng Thạch II có D = 4,5 m có năng suất như lò Hoàng Thạch I có D = 5 m.
5) Do chi đốt có khoảng 40% lượng nhiên liệu cần thiết tại zôn nung nên lượng không khí 2
cần ít, vì vậy không khí 2 từ dàn làm nguội clinke vào lò có thể đạt nhiệt độ cao và có thể lên đến
trên 1000°C. Vì vậy hệ số không khí dư để đốt than bụi trong lò quay có thể hạ xuống còn 1,15 so
với trên 1,2 đối với lò quay SP. Mặt khác có thể sử dụng 100% than antraxit với độ tro trên 18%
trong lò NSP được.
6) Năng suất riêng của lò quay tăng từ 1,75 - 2,3 tấn/m3 ngày đối với lò SP lên đến 3,3 và
thậm chí tới trên 4,2 tấn/m3 ngày đối với lò NSP. Vi vậy có thể xây dựng lò có năng suất lên đến
10.000 - 12.000 T clinke/ngày. Lò năng suất 10.000 tấn/ngày đầu tiên xây dựng và hoạt động tại
Thái Lan từ năm 1992.
7) Tiêu tốn nhiệt riêng để nung clinke giảm từ 750 - 760 Kcal/kg clinke đối với lò SP xuống còn
< 700 - 730 Kcal/kg clinke đối với lò NSP, trung bình giảm 30 Kcal/kg clinke. Lò có năng suất càng
cao thì tiêu tốn nhiệt riêng càng nhỏ. Những lò NSP phải thiết lập thêm cyclone thứ 5 hay C5 để tận
dụng nhiệt của khói lò.
8) Năng suất cao, đường kính lò nhỏ hơn, chiều dài của lò ngắn hơn nên tuổi thọ của gạch chịu
lửa lót trong lò tương đối dài hơn. Mặt khác độ bền vỏ thép của lò cũng tốt hơn.
Từ những ưu điểm của calciner trong hệ lò NSP nên ngày nay người ta chỉ xây dựng những lò
kiểu này mà thôi. Tuy nhiên trên quan điểm môi trường, người ta phải tìm cách giảm thiểu NOx trong
khói lò. Vì vậy gần đây đã xuất hiện calciner đốt nhiều bậc nghĩa là đốt một ít nhiên liệu trên đường dẫn
khói từ lò quay nhăm tạo môi trường khử để khử NOx sinh ra tại zôn nung. Điều này cũng tạo điều kiện
để đốt rác hữu cơ trong lò quay nhăm phục vụ cho vấn đề giảm ô nhiễm môi trường do rác. Mặt khác
người ta cũng nghiên cứu kết cấu ống phim than để giảm hàm lượng NOx tạo ra tại zôn nung.
557
11.4.7. Lò quay 2 bệ
11.4.7.1. Phát triển lò quay 2 bệ
Các lò quay truyền thống theo phương pháp khô thông thường kể cả những lò hiện đại nhất đều
có 3 bệ đỡ. Việc nghiên cứu rút ngắn chiều dài của lò quay luôn luôn là một đề tài mà nhiều hãng trên
thế giới quan tâm. Chính vì vậy mà đã xuất hiện những lò quay ngắn tới mức tỷ lệ L/D chỉ còn IO - 11.
Điển hình nhất là loại lò PYRORAPID với 2 bệ do hãng KHD đã bắt đầu xây dựng ngay từ năm 1979
và đưa vào vận hành 1981 tại Đức với tỷ lệ L/D = 10. Lò tuy ngắn nhưng vẫn bảo đảm thời gian clinke
nằm tại zôn nung 10 phút mặc dù thời gian lưu trong lò quay đã rút ngắn như hình 11.52.
Tại những lò này các khoáng CaO và C2S mới hình thành có độ hoạt tính cao ở tháp cyclone và
calciner chạy nhanh vào zôn nung để dễ dàng tạo C3S. Chính vì vậy tốc độ tạo C3S nhanh hơn, hoạt tính
hơn và chất lượng clinke sàn xuất ra trờ nên tốt hơn. Do những nguyên nhân đã nêu ừên mà người ta gọi
là lò nung nhanh và Pyrorapid là loại lò nung nhanh đầu tiên được xây dựng bởi hãng KHD. Đầu thập
niên 90 của thế kỷ trước, các hãng F. L. Smidth, Polysius cũng vào cuộc xây dựng lò quay 2 bệ và đã có
những thành công lớn.
F. L. Smidth đã xây dựng lò quay 2 bệ với tên gọi là ROTAX-2 từ năm 1996 tại nhiều nước trên
thế giới trong đó có 2 lò (5,5 X 66) m năng suất lên đến 6700 tấn/ngày tại Pakistan năm 2004 và tỷ lệ
L/D đều nhỏ hơn 13. F. L. Smidth cho biết hãng cũng có ý định xây dựng lò quay 2 bệ với L/D = 14 đốt
than antraxit của nước ta.
Hẫng Polysius cũng xây dựng lò nung nhanh có 2 bệ tên POLRO từ năm năm 1996 tại Đức
cho lò công suất 4.500 tấn/ngày và đến năm 1997 đã xây dựng lò quay 2 bệ với năng suất 5.800
tấn/ngày tại Liban. Đen nay lò POLRO của Polysius đã có mặt tại Công ty Xi măng Thăng Long với tỷ lệ
558
L/D = 15, năng suất 6.000 tấn/ngày được sản xuất năm 2008, tại Công ty Xi măng Hà Tiên 1 đặt tại Bình
Phước đi vào sản xuất vào năm 2011 và Hà Tiên 2 tại Kiên Lương đi vào sản xuất vào năm 2012.
11.4.7.2. Đặc điểm cấu tạo
Bản thân lò cũng giống như các lò quay khác, nhưng chúng có những đặc điểm cấu tạo như sau:
- Lò ngắn nên chi có 2 bệ ga lê;
- Lò không dùng động cơ điện truyền tải qua bánh răng quanh lò;
- Lò được quay bởi ma sát giữa ga lê (con lăn) và băng đa;
- Không dùng băng đa trơn mà dùng băng đa có răng bên trong để quay lò;
- Khe giữa băng đa răng và vỏ lò rộng hơn nên ít bị nung nóng, biến dạng;
- Vỏ lò luôn được đỡ bời răng băng đa nên vỏ lò quay giảm biến dạng;
- Dùng bệ tự lựa đảm bảo tiếp xúc 100% giữa băng đa và con lăn (ga lê).
Hình 11.53. Phân bố lực cùa băng đa trơn và băng đa răng (F. L. Smldth).
Hình 11.54. Sơ đồ hoạt động của băng đa răng và băng đa ữơn cùng vỏ lò (Polysius).
Hãng Polysius, F. L. Smidth đâ cỏ giải pháp là chế tạo vành băng đa có răng như trong hình
11.53 và 11.54. Vành băng đa răng này kết hợp với việc truyền động trực tiếp qua con lăn nên vành
băng đa răng đóng luôn vai trò truyền động quay của lò. Từ hình minh họa ta cỏ thể thấy chính răng của
băng đa răng đã nâng lò hay làm quay lò. Khi sang nửa vòng bên thì răng lại đóng thêm vai trò đỡ vỏ lò
ngoài việc đẩy lò hình 11.55 và 11.56. Việc chế tạo vành băng đa răng rõ ràng cần đường kính lớn hơn
so với băng đa trơn nên khoảng không gian giữa vỏ lò và vành băng đa tăng lên. Điều đó cũng có nghĩa
là nhiệt độ vành băng đa răng sẽ giảm đi rất nhiều so với vành băng đa trơn và do đó độ tròn của băng
đa răng dễ được bảo tồn hơn. Hình ảnh 11.57 đã minh họa truyền động của động cơ vào 2 con lán để
quay lò tại nhà máy xi măng Hà Tiên 1 tại Binh Phước.
559
Tải trọng thẳng đứng
Đăng đa răng
Băng đa ươn
chịu lửa
Hình 11.57. Hal con lẳn quay bởi hal động cơ để quay băng đa răng
tại xi măng Hà Tiên 1, Bình Phước.
560
Hình 11.58. Mô hình làm việc của bệ tự lựa.
Bệ tự lựa đàm bảo tiếp xúc 100% giữa băng đa và con lăn ga lê. Nhờ đó mà độ mòn trên bề mặt
của băng đa và con lăn đồng đều. Để có được kết cấu tự lựa các hãng phải thiết kế sao cho chúng có thể
nghiêng các chiều như hình 11.58 và 11.59.
11.4.7.3. Hiệu quả của lò nung hai bệ
Hiệu quả của việc tạo nhanh các khoáng của clinke trong lò nung ngăn là:
1) Clinke rất dễ nghiền. Sản phẩm phân hủy cùa bột liệu có hoạt tính rất cao nên clinke kết
khối nhanh và không kết khối rắn chắc các hạt clinke. Dung trọng của clinke không phải cao hơn
l ,35 kg/lít mà giảm xuống 1,2 ± 0,01 kg/lít mặc dù hàm lượng CaO tự do cỏ thể trên 1% song điều
đó không quan trọng.
2) Tinh thể Alite rất nhỏ trong clinke. Điều đó tạo cho xi măng có cường độ sớm được nâng cao
và cường độ 28 ngày vẫn cao, giảm giá thành nghiền so với clinke nung trong lò NSP có cùng hệ số
LSF.
561
3) Ngược lại nếu cùng có cường độ như nhau thi hệ số LSF có thể thấp hơn khi nung trong lò
nung nhanh.
4) Ảnh hưởng cỏ hại của Alkali, Sulfate, Fluorite và vết của kim loại nặng hoàn toàn không thấy,
có thể do nung nhanh mà các thành phần trên mất độ hoạt tính mà trở nên “cứng rắn” hơn.
5) NOX thải ra với khói lò ít hơn bời lò nung nhanh và vì vậy lò nung nhanh trở thành thân thiện
hơn với môi trường hơn và điều đó cũng được hỗ trợ bời cyclone thứ 5 và đôi khi cyclone thứ 6.
6) Vấn đề bám đính cũng như tắc calciner và cyclone do tuần hoàn của các cấu tử Alkali, Sulfate,
Fluorite... đã trở nên yếu hơn nên không phải lắp đặt hệ Bypass nữa nhờ đó mà hạ giá thành sản xuất.
7) Hệ nung nhanh lại không phù hợp với clinke dành cho xi măng có yêu cầu kiềm thấp. Nếu
phối liệu chứa nhiều kiềm thì bắt buộc phải lắp đặt hệ Bypass cho lò nung nhanh nhằm đáp ứng yêu
cầu trên.
562
Nhược điểm cơ bản của máy làm nguội kiểu vệ tinh là:
4- Vô lò vệ tinh nỏng đến 400°C, không khí vào lò chứa nhiều bụi.
+ Buộc phải kéo dài lò quay thêm một đoạn từ cửa thoát clinke đến đầu lò. Đoạn này dài
khoảng 6 - 8 m và không làm việc. Do đó thể tích lò quay tăng lẻn và năng suất tính theo thể tích
lò giảm đi. Tuy nhiên lò vệ tinh kiểu Smidth trên hình 11.60 đã khắc phục được điều này như lò
Hoàng Thạch I.
+ Toàn bộ không khí làm nguội clinke đều đi vào lò quay nên khó khống chế không khí 2 cho lò.
+ Công suất lò bị hạn chế nhất là lò công suất cao rất khó lắp đặt.
+ Tiếng ồn rất cao ảnh hường đến công nhân làm việc.
Trước tình hình đó, năm 1965, hãng Smidth đã chế tạo và lắp đặt máy làm nguội clinke kiểu vệ
tinh cõ lớn (2,1 X 20) m cho lò 3000 tấn/ngày như tại lò Hoàng Thạch I. Từ hình 11.60 ta thấy lò quay
kéo dài và đặt trên bệ ga lê phụ. Cửa thao tác năm gần cửa thoát clinke, do đó phải có một sàn để công
nhân thao tác.
Đây là một tiến bộ lớn đáp ứng lò có công suất đến 3000 tấn/ngày, nhưng nhược điểm của lò vệ
tinh vẫn tồn tại. Mặc dù không khí có thể nung nóng tới 900°C, nhiệt độ ra lò của clinke 125 - 150°C
nhưng còn nhiều khuyết điểm lớn là độ ồn khá cao. Vì vậy máy làm nguội kiểu vệ tinh dần dần biến mất
trên thị trường thế giới mặc dù lò vệ tinh đã lớn đến (2,4 X 27) m. Ngày nay những lò quay cỡ nhỏ cũng
không dùng loại này.
11.4.8.2. Thiết bị làm nguội kiểu giàn hay ghì làm nguội
Giàn có cấu tạo từ những tấm ghi có khe hoặc lỗ để không khí đi qua. Các tấm ghi tạo ra mặt
ngang, tại nơi clinke vào ghi đặt hơi nghiêng để tạo điều kiện clinke đi xuống dưới. Toàn bộ giàn ghi
được đặt trong buồng xây băng gạch chịu lửa hoặc bê tông chịu lửa. Kích thước buồng hay của mặt
giàn dao động theo năng suất lò vì hiện nay năng suất của lò đến 10.000 thậm chí đến 12.000
tấn/ngày. Nhìn chung chiều rộng có thể đến 5 m và chiều dài đến khoảng 30 m. Không khí qua lớp
clinke nóng đỏ sẽ tăng nhiệt độ và đi vào lò quay trở thành gió 2 để đốt nhiên liệu cùng với gió l đi
theo ống phun nhiên liệu.
Thiết bị làm nguội kiểu giàn đầu tiên với hiệu ứng làm nguội nhanh bởi không khí mang tên
Fuller cooler do hãng Fuller Company tại Bethlehem Mỹ phát triển và đã được vận hành khi nối với lò
quay vào tháng 8 năm 1937 tại nhà máy xi măng Valley Forge, Pennsylvania. Sau này có khá nhiều
hãng chế tạo thiết bị cho xi măng cũng sản xuất giàn ghi làm nguội tương tự. cỏ thể nêu một số hãng
như F. L. Smidth (kết hợp giữa Fuller và Smidth), Krupp Polysius, Humboldt-Wedag bây giờ là KHD
Humboldt-Wedag, UZTM của Liên Xô cũ, Prerov của Tiệp Khắc cũ, PZBM của Ba Lan sản xuất theo
563
mẫu Volga của Liên Xô. Nếu kể đến ngày nay thì Trung Quốc cũng sản xuất giàn ghi làm nguội tại
nhiều nhà máy chế tạo khác nhau.
a) Nguyên lý chung của máy làm nguội kiểu giàn ghi
Sơ đồ thiết bị làm nguội kiểu giàn có 5 kiểu và có thể xem trong hình 11.61.
Kiểu thứ nhất A clinke từ lò quay rót xuống, sau đó được giàn đều trên mặt tấm ghi và đi từ đầu
đến cuối rồi được đập nhỏ bởi máy búa ở cuối trước khi xuống xích cào clinke. Kiểu này tương đối phổ
biến tại một loạt nhà máy hiện nay ở nước ta.
Loại thứ hai B cũng tương tự nhưng cuối cùng clinke được đập nhỏ bởi máy cán trục. Loại này
đòi hỏi phải có thiết bị cán bền vững, chế tạo đặc biệt và thực tế nay cũng dễ dàng thay thế khi bị mòn
như máy búa.
Loại c có giàn hai tầng nối tiếp nhau, giữa chúng là máy đập cán trục. Sở dĩ cỏ máy kiểu này là
do ờ đoạn này clinke giòn nhất nên dễ nghiền nhất và chỉ cần máy cán là đủ đồng thời cán sẽ cho năng
suất cao. Tuy nhiên máy cán trục phải làm việc ở nhiệt độ cao nên phải dùng hợp kim đặc biệt, có hệ
làm nguội trục và ổ đỡ nên hệ càng phức tạp. Chính vì vậy nó không được phát triển nhiều và chỉ ờ một
số lò đã xây dựng. Hiện nay nhà máy xi măng Thăng Long đã dùng loại này và đưa vào vận hành năm
2008.
Cả ba loại trên đều phải cỏ các két ờ dưới để đựng clinke lọt qua ghi rồi gom lại bằng một băng
tải dưới đáy.
564
Loại D đà được phát triển gần đây bời hâng F. L. Smidth. Giàn ghi được cấu tạo bởi các tấm ghi
hoàn toàn cố định không chuyển động và tạo ra một mặt kín. Nhờ vậy không có bụi clinke rơi xuống
dưới và không có két chứa bụi cũng như thiết bị vận chuyển bụi lọt ghi. Dưới mặt ghi hoàn toàn trống
và có thể lắp đặt các thiết bị cần thiết để đẩy clinke từ đầu vào đến cuối. Nhà máy xi măng Hải Phòng
đã sử dụng kiểu máy làm nguội D. Gần đây hãng Claudius Peter và IKN cũng có kiểu này nhưng không
dùng mảy búa cuối cùng mà dùng trục cán. Theo hai hãng này thi dùng trục cán êm hơn, không nhiều
tiếng động như máy đập búa, giảm bụi bay do trục cán chạy ít vòng hơn và không có clinke bắn vào
gạch do trục quay.
Loại E mới xuất hiện gần đây của hãng Polysius, loại này cũng tương tự loại D nghĩa là ở dưới
mặt ghi không có két đựng bụi clinke và thiết bị vận chuyển bụi. Tuy nhiên mặt ghi và máy nghiền trục
ờ giữa giống như loại c, các máy đẩy clinke được bố trí ờ khoảng không gian trống dưới mặt ghi. Nước
ta có nhà máy xi măng Thăng Long và Bình Phước VICEM trang bị máy làm nguội kiểu này.
Giàn hoạt động theo nguyên lý sau: theo chiều dài của giàn có rất nhiều hàng ghi, cứ một hàng
ghi chuyền động có một hàng ghi cố định như trong hình 11.62 và 11.63. Hàng ghi chuyển động lắp với
hệ cơ để tién lùi theo tần suất từ 5 đến 20 lần/phút. Nhờ vậy mà clinke được đẩy từ đầu nóng đến đầu
nguội như trong sơ đồ hình 11.62. Cuối cùng clinke qua máy đập búa hoặc đập trục và chuyển đến xi lô
chứa. Chiều cao lớp clinke trên mặt giàn từ 0,4 đen 0,6 m tùy theo loại.
Hình 11.62. Mô hình ghi cố định và ghì tién lui cùng biên độ dịch chuyển.
Hình 11.63. GỐI đỡ và dằm chuyển không khí cho các tắm ghl.
565
Không khí thổi vào làm nguội đi từ dưới lên do các quạt đặt ở bên ngoài. Trước kia không khí
này được chia thành khu vực để thổi lên. Ngày nay không khí được dẫn vào từng tấm ghi theo các ống
dầm riêng, vì vậy việc phân bố không khí cho lớp clinke được đều hơn. Đe có hình tổng thể có thể tham
khảo hình 11.64 và 11.65. Đặc biệt nơi clinke đổ từ lò quay vào giàn làm nguội, không khí lạnh được
quạt áp suất cao thổi mạnh ngược lên nhằm đảm bảo clinke giữ được khoáng PC2S mà không chuyển
thành YC2S. Các phần còn lại áp suất quạt không cao lắm. Phần đầu không khí cỏ thể được nung nóng
đến 1000°C và đưa vào lò quay để đốt nhiên liệu, không khí này trong kỹ thuật thường gọi là không khí 2
hay gió 2 vì không khí 1 được đi theo ống phun than vào lò. Tiếp theo không khí nóng đến 800°C được
đưa tới calciner để đốt nhiên liệu, đây là không khí 3 hay gió 3. Cuối giàn làm nguội không khí nóng
khoảng 150 - 200°C được lấy đi để đưa đi đến máy sấy nghiền than. Phía trước cửa hút không khí này
có đặt hệ phun nước thành sương mù để làm nguội clinke nhanh hơn cũng như để hạ nhiệt độ clinke và
không khí nóng ra khỏi máy làm nguội. Trước khi clinke ra lò cần qua máy đập búa như hình 11.65 và
cần bố trí màn xích treo để ngăn cản clinke bắn từ máy búa sang phá hoại gạch chịu lửa lót buồng của
giàn như trong hình 11.67. Nhiệt độ clinke ra khỏi máy làm nguội thường 100 - 150°C, tuy nhiên đôi
lúc nhiệt độ còn cao hơn nhiều.
Hệ quạt thổi
Máy đập búa
không
566
Lò quay
Hình 11.65. Giàn ghi làm nguội cllnke của Fuller (F. L. Smỉdth) bên phải.
Các hãng trên thế giới đã sản xuất máy làm nguội riêng của mình. Khác nhau cơ bàn là chất
lượng, kiểu tấm ghi, hướng không khí phụt lên... Ngày nay hầu như chi dùng loại máy có hướng phụt
không khí chéo đối với lớp clinke trên giàn.
567
Hình 11.67. Màn xích treo trước máy đập cllnke.
Ngày nay hầu hết các máy làm nguội clinke đều dùng máy cán trục ở cuối để đập clinke. Việc
dùng cán trục sẽ chạy êm hơn, giảm bụi phát ra từ máy đập, cỏ thể tự điều chỉnh khi gặp cục clinke lớn,
có thể kéo máy cán ra ngoài để thực hiện sửa chữa dễ dàng, cấu tạo máy cán trục cho trong hình 11.68.
Hình 11.69. Mô hình ghi tầng 1 vói máy đẩy thủy lực tiến và lui của Polytrack.
568
Hình 11.70. Ghl vớỉ 5 môđun dầm mấu đẩy ừong máy làm nguội Polytrack.
Chúng có mặt ghi kín để không có bụi clinke lọt rơi xuống dưới. Vì vậy phía dưới không có két
mà trống hoàn toàn để lắp đặt các thiết bị thủy lực đẩy tiến lui của các mấu ưên dầm. Nhờ vậy mà
clinke được di chuyển từ đầu đến cuối trước khi vào máy đập kiểu cán. Tần suất và biên độ tiến lui có
thể điều chỉnh được như minh họa trong hình 11.72 để mực clinke trên giàn được đồng đều.
Nguyên tắc của các hãng giống nhau nhưng khác nhau về chi tiết của cấu tạo mấu đẩy hay
khay đẩy.
Hình 11.72. Quy trình tiến lui dằm mấu đẩy cllnke của Polytrack.
569
c) Giàn làm nguội kiểu mới của F. L. Smidth
Hãng F. L. Smidth đã có giàn làm nguội theo kiểu đấy dầm ngang như của xi măng Hải phòng.
Kiểu đó không được bền lắm do thanh dầm ngang dễ gẫy và khó điều chỉnh mặt clinke trên giàn. Mới
nhất là dùng kiểu mấu đẩy gần giống với kiểu Polysius nghĩa là thay dầm ngang bằng mấu đẩy như mô
tả trong hình 11.73 và 11.74.
Không khí
Không khí qua qua lỗ tại dải
Hình 11.74. Cấu tạo mấu đẩy và đường không khí vào các tắm ghi kín.
Khi hoạt động các dầm có mấu được tiến lui theo hình 11.75. Tốc độ và tần suất đẩy tùy theo
công suất cũng như để điều chinh mặt clinke trên giàn. Nếu lớp clinke quá dày hay mặt clinke trên giàn
quá cao ở đoạn nào thì cho dầm cỏ mấu đẩy nhanh hơn. Nhờ vậy mà có thể điều chinh mặt clinke trên
giàn tương đổi đều và tất nhiên quá trình làm nguội đều hơn.
570
Bước 1 Đước 2 Bước 3
11.4.9. Thiết bị đốt nhiên liệu hay vòi đốt cho lò quay
Nhiên liệu đốt trong lò chủ yếu là than bụi. Một số nước có dùng nhiên liệu lỏng hay khí song giá
nhiên liệu đó ngày càng đắt nên nhiều lò cũng chuyển sang dùng than bụi rẻ hơn. Vòi đốt cho lò quay
thực tế khá lớn và cấu tạo tương đối phức tạp và được điều chinh dễ dàng. Tuy nhiên với mỗi lò cần
chọn kiểu vòi đốt và kích thước phù hợp với yêu cầu kỹ thuật.
Có nhiều kiểu vòi đốt do nhiều hãng khác nhau chế tạo. Tuy nhiên chúng có nguyên tắc chung là
vòi đa kênh dẫn không khí 1 hay gió 1 và dẫn than bụi. Khi phun bụi than vào lò quay chúng sẽ cháy
với gió 2 có nhiệt độ đến 1000°C từ máy làm nguội clinke đi lên. Do có nhiều kiểu nên ờ đây chi giới
thiệu loại điền hình mà thôi.
11.4.9.1. Vòi đốt Swirlax của hãng F. L. Smidth
Kết cấu vòi đốt này có thể xem hình 11.76. Không khí được dẫn bời hai kênh kẹp giữa là kênh
dẫn than bụi. Để không khí dễ xâm nhập vào dòng than bụi nên cánh tạo dòng xoáy được gắn tại đầu ra.
Lượng không khí 1 hay gió 1 qua vòi đốt hiện nay chi chiếm 7 đến 9% tổng lượng không khí cần thiết
để cháy nhiên liệu. Khi phun vào lò than bụi được đốt cháy chủ yếu bằng không khí 2 hay gió 2 từ máy
làm nguội đi lên với nhiệt độ có thể lên đến 1000°C.
Hầu hết các vòi đốt đều bố trí tại trung tâm ống phun nhiên liệu lỏng để đốt lúc khời động lò. Khi
nhiệt độ lò được nâng cao thì phun dần than bụi cho đến khi dùng 100% than bụi thì dừng hẳn việc phun
nhiên liệu lòng vào lò.
571
11.4.9.2. Vòi đốt Polfìame-VN của Polysìus
Hệ cấp gió 1 cũng tương tự như vòi trên nhưng đầu ra có cấu tạo hơi khác như trong hình
11.77. Vòi đốt này đang được dùng tại nhà máy xi măng Thăng Long Quảng Ninh, Bình Phước
VICEM và Hà Tiên.
Loại vòi đốt Polflame-VN của hãng Polysius mới được nghiên cửu và phát triển. Đây cũng là vòi
đốt đa kênh như những vòi đốt khác song có đặc điểm mới đó là có 2 kênh dẫn không khí và kênh dẫn
than bụi. Kênh dẫn than bụi được phim ra bởi khe vành ngoài như trong hình 11.78. Than bụi được cuốn
vào bên trong cùng gió 2 để cháy. Riêng không khí vòng trong được phụt ra bởi các lỗ “mắt trâu” có thể
điều khiển được theo các hướng khác nhau tùy người vận hành yêu cầu. Các lỗ phun theo đường tiếp
tuyến và tạo góc trong khoảng 10 đến 20°, ngọn lửa có dạng xoáy dài ngắn theo yêu cầu.
Khung VÒI
lửa mồi
Hình 11.78. Cấu tạo và nguyên tắc làm việc của đầu đốt của POLFLAME-VN.
572
11.4.9.3. Vòi đôt Pìllard
Loại vòi đốt này có cấu tạo như trong hình 11.79, 11.80 và cũng được sử dụng ờ nước ta. Nhìn
chung đều thuộc nhóm vòi đốt đa kênh, chi khác nhau ở chỗ bố trí dòng than bụi và không khí trong
ngoài khác nhau. Mỗi loại đều có những ưu nhược điểm nhất định cho từng trường hợp cụ thể.
ĩ V f
&
573
11.4.10. Một vài khái niệm và tính toán
11.4.10.1. Độ đầy của lò
Độ đầy của vật liệu trong lò có quan hệ mật thiết với độ nghiêng của chúng. Độ đầy của lò được
biểu thị bằng phần trăm diện tích vật liệu chiếm chỗ hên diện tích ngang của lò như trong hình 11.81.
Hình 11.81. Sơ đồ góc chắn và độ đày. Hình 11.82. Quan hệ giữa năng suất,
đường kính và độ đầy % của lò.
574
11.4.10.2. Độ nghiêng của lò
i
Độ Phần cùa ỡp Độ
Phần cùa Độ £>p
o > >> nghiêng Ỉnch/Foot dài 0 f f>
nghiêng nghiêng ỡ(5
inch/Foot dài
% % %
575
Thực tế không có quy tắc chung quy định độ nghiêng của lò. Độ nghiêng của lò nằm trong
khoảng 2 - 6% nhưng đa số lò có độ nghiêng nằm trong khoảng 2 - 4%. Tốc độ quay của lò có độ
nghiêng cao chi nằm trong khoảng 0,5 đến 0,75 vòng/phút. về nguyên tắc, nếu độ nghiêng cùa lò càng
lớn thì tốc độ quay của lò càng nhỏ và ngược lại độ nghiêng càng nhỏ thì tốc độ quay càng tăng lên. Khi
tốc độ quay tăng thì phối liệu được trộn đồng đều hơn và tàng cường truyền nhiệt cho vật liệu nung.
Ngoài ra khi độ nghiêng của lò thấp thì độ đầy của lò có thể tăng lên. Kinh nghiệm thực tế khi vận hành
lò đã cho số liệu như sau:
4,5% 9%
4,0% 10%
3,5% 11%
3,0% 12%
2,5% 13%
Mặt khác độ đầy của lò còn phụ thuộc vào tỷ lệ giữa chiều dài L và đường kính D của lò. Lò ướt
với tỷ lệ L/D đến 40 hoặc hơn, độ đầy của lò có thể đạt tới 17%. Trong một số trường hợp, chính độ
nghiêng của lò là nguyên nhân chủ yếu quyết định độ đầy của lò. Ngoài ra nếu tăng tỷ lệ L/D thì độ đầy
của lò sẽ tăng lên.
Trong thực tế vận hành lò thì độ đầy của chúng thường không quá 13% vỉ độ đầy cao hơn sẽ cản
trở truyền nhiệt cho vật liệu nung.
576
Hình 11.83. Quan hệ đường kính lò, tốc độ quay khi tốc độ vành ngoài 36 cm/s.
tt _=----
\,Tl.L.4ẽ
——-----. F
„
a.D,n
Trong đó:
t - thời gian vật liệu đi trong lò, phút;
D, L - đường kính và chiều dài lò, m;
n - số vòng quay, vòng/ phút;
0 - góc roi tự nhiên của vật liệu, đối với phối liệu clinke góc này băng 40°, khi dùng cho lò sấy
thùng quay trong điều kiện khô đối với đá vôi và vật liệu sét góc này băng 36° do đó >/36 = 6;
Bằng cách lựa chọn góc nghiêng cùa lò và thay đồi số vòng quay của chúng, ta có thể kiểm tra
được thời gian vật liệu lưu lại trong lò.
577
Thời gian tổng được tính toán như trên nhưng tốc độ vật liệu tại mỗi zôn lại khác nhau do có hai
quá trình xảy ra trong lò quay:
+ Quá trình nhiệt hóa học;
+ Vận chuyển vật liệu.
Quá trình nhiệt hóa học là nguyên nhân làm cho vật liệu đi trong lò với vận tốc khác nhau mặc dù
số vòng quay cố định. Điều này đã được kiểm nghiệm bằng cách dùng đồng vị phóng xạ (Na24 hay
Mn56) cho lẫn vào phối liệu và xác định được tốc độ cùa chúng. Trong hình 11.84 cho ta biết được tốc
độ vật liệu tính theo cm/phút trong lò quay ướt dài 99 m, đường kính 2,55/2,85 m, độ nghiêng 4%, tốc
độ 0,91 vòng/phút, máy làm nguội vệ tinh, năng suất 205 tấn/ngày.
Thời gian lưu khác nhau trong các zôn khác nhau của lò là do nguyên nhân biến đổi hóa lý của
nguyên liệu. Hình mô tả trên chi là một ví dụ nhưng cũng cho ta biết được tốc độ thấp nhất là tại zôn
nung (24,3 cm/phút), tốc độ lớn nhất là tại zôn calci hóa hay phân hủy cacbonat (45,6 cm/phút). Như
vậy thời gian cũng như tốc độ di chuyển vật liệu trong lò rất khác nhau mặc dù trong cùng một lò. Điều
đó có quan hệ mật thiết với việc vận hành lò cũng như quá trình hóa lý xảy ra khi nung cùa chúng.
11.4.11. Phương hướng tiết kiệm năng lượng và đốt phế thải
11.4.11.1. Lò quay công suất lớn
Hiện nay trên thế giới lò quay có công suất dao động từ dưới 2000 đến 12.000 tấn clinke/ngày.
Đứng về mặt nhiệt học lò quay có đường kính càng lớn, nhiệt độ ngọn lửa như nhau, hệ số đầy như
nhau thì nhiệt truyền bằng bức xạ cho clinke càng cao, tổn thất nhiệt ra môi trường giảm theo tỷ lệ
cho 1 kg clinke. Điều đó cũng có nghĩa là thời gian nung clinke càng rút ngăn và đương nhiên tiêu tốn
nhiên liệu cho 1 kg clinke càng giảm đi.
Hiện nay ở nước ta đa số các lò đều ở mức ~ 4000 tấn/ngày nên tiêu tốn nhiệt thực tế ~ 730
kcal/kgclinke. Trong khi đó mức tiêu tốn nhiệt để nung clinke trên thế giới có nơi chỉ chiếm 690
kcal/kgclinke. Vì vậy phương hướng của nước ta sắp tới là xây dựng những lò lớn có công suất trên
5.000 và có thể 10.000 - 12.000 tấn clinke/ngày. Tổng Công ty Công nghiệp Xi măng Việt Nam và
Công ty xi măng Công Thanh đang có kế hoạch xây dựng lò nung clinke xi măng với công suất trên
10.000 tấn/ngày.
11.4.11.2. Sử dụng triệt đổ nhiệt cùa khói lò
Khói lò quay thoát ra từ đinh cyclone trên cùng thường dao động từ 330 đến 360°C mang theo
một lượng nhiệt rất lớn. Đây là một dạng tổn thất chiếm vị trí hàng đầu frong tổng tổn thất nhiệt của hệ
lò nung clinke xi măng. Để tận dụng lượng nhiệt này, trên thế giới đã cỏ biện pháp cho chạy máy phát
điện phục vụ cho chính nhà máy. Đây cũng là vấn đề cần kết hợp giữa kinh tế và tiết kiệm năng lượng
vì phải đầu tư cũng như bảo dưỡng thiết bị phát điện đó.
578
11.4.11.3. Sản xuất clĩnke mác cao
Sản xuất clinke mác cao thì cần nâng nhiệt độ cao hơn và tiêu tốn nhiệt để nung clinke sẽ tăng
lên. Tuy nhiên với clinke mác cao có thể pha thêm nhiều phụ gia hơn và sàn lượng xi măng tăng lên. Vì
vậy néu tính theo tiêu tốn nhiệt cho một tấn xi măng lại giảm đi và có lợi hơn. Chính vì vậy mà nước ta
cũng như nhiều nước trên thế giới đã áp dụng kiểu này nhăm tăng sản lượng xi măng.
11.4.11.4. Sừ dụng vòi đốt chất lượng cao
Trong hệ thống lò vòi đốt nhiên liệu đóng vai trò rất quan trọng. Vòi đốt tốt chỉ dùng 5 - 7% gió
lạnh l còn lại là giỏ 2 nóng, tạo xoáy cho phép ta đốt cháy hoàn toàn than bụi kèm theo tăng nhiệt độ
ngọn lửa. Điều đó có nghĩa là tăng nhiệt truyền và clinke chóng kết khối đồng thời đạt chất lượng cao.
11.4.11.5. Tăng nhiệt độ gió 2
Tăng nhiệt độ của gió 2 là rất quan trọng đối với việc đốt cháy hoàn toàn nhiên liệu và giảm được
hệ số không khí dư khi cháy. Hiện nay nhiệt độ này của các lò dao động trong khoảng lớn từ 800 đến
l050°C. Nhờ gió 2 có nhiệt độ cao nên nhiệt độ zôn nung dễ đạt được và truyền nhiệt cho clinke tốt
hơn, nhiều hơn, tiêu tốn nhiệt để nung clinke sẽ giảm đi.
11.4.11.6. Kéo dài tuổi thọ của gạch chịu lửa
Mỗi lần ngừng lò để thay gạch chịu lửa là một lần tổn thất rất nhiều nhiệt tích lũy của toàn hệ
thống lò cũng như để nâng nhiệt đến lúc chạy lò bình thường. Nếu trên quan điểm về kinh tế thì thiệt hại
của mỗi lần dừng lò là rất lớn do chi phí gạch và mất sản lượng. Việc tăng tuổi thọ gạch chịu lửa phụ
thuộc vào nhiều yếu tố và sẽ được nêu trong chương về vật liệu chịu lửa.
11.4.11.7. Bảo dường lò và tránh ngừng vặt
Hệ thống lò muốn hoạt động đều đặn trơn tru thì hệ thống cơ khí của chúng phải được bảo dưỡng
tốt và đều đặn. Mỗi lần trục trặc về cơ của hệ lò nung cần phải ngừng chạy lò là một lần tiêu tốn nhiệt
do gió lạnh lọt vào lò và làm nguội hệ thống lò. Hiện nay hầu hết các hệ thống cơ của lò nung đều thuộc
loại hiện đại có chất lượng cao nên cần bôi ươn, bảo dưỡng thường xuyên để hệ lò nung hoạt động luôn
luôn tốt nhằm ưánh ngừng vặt hay tránh tiêu tốn nhiệt.
11.4.11.8. Bảo đảm nguồn điện lưới tốt
Hệ lò quay hoạt động liên tục, nếu điện lưới bị cắt bất chợt thì toàn bộ nhà máy nói chung và hệ
lò nói riêng bị ngừng đột ngột. Khi đó máy phát điện dự phòng phải khởi động chậm nhất sau 45 giây
chi đủ để lò quay được 0,5 vòng/phút để ưánh lò bị võng, về phương diện năng lượng nhiệt tổn thất sẽ
giống như ngừng vặt ờ ưên. Cả hai trường hợp đều có liên quan đến việc giảm tuồi thọ của gạch chịu
lửa do gió lạnh ưàn vào lò và biến dạng vỏ lò.
11.4.11.9. Dùng nhiên liệu chất lượng cao
Dùng nhiên liệu chất lượng cao có những lợi ích sau:
- Nhiệt trị cao, cháy nhanh, ngọn lửa có nhiệt độ cao, truyền nhiệt cho clinke tốt hơn.
- Thời gian tạo khoáng nhanh hơn do nhiệt cung cấp nhanh hơn.
- Tro xỉ ít, giảm hư hại gạch chịu lửa.
Tuy nhiên cần kết hợp kỹ thuật với kinh tế để lựa chọn cho phù hợp.
579
11.4.11.10. Dùng phụ gia kích thích cháy than tạo điều kiện than cháy nhanh và nhiệt độ
ngọn lừa tăng cao. Nhờ đó bức xạ từ ngọn lừa cho clinke tăng lên và nung sẽ nhanh tiết kiệm được
nhiệt.
11.4.11.11. Những lò hiện đại có thể thực hiện ché độ nung nhanh tạo cllnke nhanh,
dung trọng thấp < 1,2 kg/lít. Nhờ đó năng suất lò tăng lên đến 5%, khi đó nạp phối liệu tại đỉnh tháp
trao đổi nhiệt tăng lên và giảm tổn thất nhiệt do khối lò mang ra ngoài.
11.4.11.12. Dùng phương pháp đốt Oxycombustion
Đốt nhiên liệu bằng oxy đang là hướng phát triển trên thế giới do việc sản xuất oxy ngày càng rẻ.
Hãng Air liquide của Pháp đã ứng dụng tại nhiều lò nấu thủy tinh và đang hướng vào lò nung clinke xi
măng. Việc đốt băng không khí thì lượng khói lò rất lớn, chứa đến khoảng > 70% Nỉ và tạo nhiều khí
độc NOX. Nếu đốt bằng oxy với hàm lượng > 90% Ơ2 thì có nhiều lợi ích: nhiệt độ tăng cao, tăng sàn
lượng, dùng than kém chất lượng, lượng NOX cực kỳ thấp, lượng khỏi lò rất nhỏ, dễ thu hồi CO2... Theo
thống kê, để sàn xuất l kg clinke sẽ thải 0,87 kg co2 ưong đó 60% do phân hủy đá vôi và 40% do cháy
nhiên liệu. Có lẽ lò nung vôi và clinke xi măng tỏa ra môi trường nhiều CO2 nhất. Các nước tìm cách
chôn CO2 rất tốn kém do nhiều nguyên nhân. Việc dùng oxycombustion cho phép dễ thu hồi CO2 để
dùng vào việc khác (xem thêm chương Lò nau thủy tinh).
11.4.11.13. Dùng nhiên liệu thay thế hay phế thải
Rác và phế thải công nghiệp ngày càng nhiều và càng gây nên nhiều vấn đề ô nhiễm môi trường.
Các nước công nghiệp phát triển và ngay cả nước ta cũng đang coi rác và phế thài là một vấn nạn phải
tìm cách giải quyết. Vì lê đó mà người ta phải tìm cách tiêu hủy chúng một cách hợp lý và đốt chúng
ưong hệ lò quay nung clinke là một trong những biện pháp này. Việc đốt rác hay phế thải xen kẽ nhiên
liệu chính có thể giảm lượng nhiên liệu chính đến 50% tùy theo cách đốt và loại rác hay phế thải. Được
biết Tổng Công ty Công nghiệp Xi măng VICEM cũng đang có kế hoạch tham gia đốt rác hay phế thải
tại lò quay trong các công ty của mình. Để tìm hiểu kỹ hay xem phần “Đốt rác và phế thài trong hệ lò
quay”. Nhìn chung đốt rác hay phế thải trong lò quay nung clinke xi măng vừa có ý nghĩa xã hội vừa có
ý nghĩa kinh tế.
11.4.11.14. Sử dụng lò quay 2 bệ
Lò quay 2 bệ là loại lò quay nói chung là ngắn với tỷ lệ L/D chi từ 10 đến 15 như trong phần “Lò
quay 2 bệ”. Nói chung lò ngăn thì tổn thất nhiệt ra môi trường xung quanh qua vỏ lò giảm đi so với lò
dài. Mặt khác nhiệt độ khí ra khỏi lò quay tăng lên nên tham gia tốt vào việc nâng nhiệt và phân hủy bột
liệu trước khi đi vào lò quay, về phương diện nhiệt, lò 2 bệ đã tiết kiệm được khá nhiều năng lượng.
Hiện nay chúng ta đã có ba lò 2 bệ đã đi vào hoạt động tại Công ty Thăng Long và hai lò của Công ty
Xi măng Hà Tiên đặt tại Bình Phước và Kiên Lương.
11.5. Sừ DỤNG NHIÊN LIỆU THAY THẾ HAY ĐỐT RÁC VÀ PHÉ THÀI TRONG
HỆ LÒ QUAY NUNG CLINKE XI MẲNG
Phế thải công nghiệp và rác các loại là vấn đề lớn của mỗi nước trong đó có nước ta. Việc chôn
lấp rác và phế thải cũng gặp nhiều khó khăn và vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro do về môi trường cũng như cải
tạo đất. Nếu đốt rác và phế thải ngoài bãi hay các thiết bị khác cũng gây nên một số vấn đề về kinh tế và
môi trường. Vì vậy các nước đang tìm cách để góp phần xử lý rác và phế thải bằng cách đốt chúng ừong
hệ lò quay nung clinke xi măng. Việc đốt này vừa góp phần vào bảo vệ môi trường vừa đem lại lợi ích
kinh tế cho các lò quay nung clinke xi măng. Trong cuốn sách này chi nêu một số van đề cũng như một
vài phương pháp đốt rác và phế thải có tính chất khởi đâu mà thôi.
580
11.5.1. Vai trò và ý nghĩa
Hiện nay, đời sống của người dân Việt Nam ngày càng được nâng cao cùng với sự phát triển của
xã hội. Bên cạnh đó lượng rác thài sinh hoạt của người dân cũng như phế thải công nghiệp ngày càng
tăng. Rác và phế thải luôn là vấn đề mà Nhà nước phải quan tâm xử lý bởi chúng gây ô nhiễm môi
trường và là nguồn truyền bệnh. Từ trước đến nay Việt Nam ta đã cỏ một số biện pháp phân loại, xử lý
rác và phế thài, nhưng với số lượng rác khổng lồ hằng ngày thải ra như hiện nay thì cần phải có nhiều
biện pháp hữu hiệu hom nữa. Đốt rác và phế thải trong lò quay nung clinke xi măng là một ưong những
biện pháp tốt vì nó góp phần giải quyết những khó khăn hiện nay của Nhà nước trong việc bảo vệ môi
trường cũng như tiết kiệm được một phần nhiên liệu khi đốt trong lò. Với những nhận thức đó,
Tồng công ty Xi măng Việt Nam VICEM đang có kế hoạch đốt rác và phế thải trong các lò nung clinke
tại các công ty con của mình. Những biện pháp này không những mang ý nghĩa xã hội lớn mà còn đem
lại hiệu quả kinh tế cho đất nước nói chung và cho các nhà máy, xí nghiệp nói riêng. Trong phạm vi
cuốn sách này chi giới thiệu một số phưomg pháp điển hình để đốt rác cũng như phế thài công nghiệp
trong lò.
11.5.1.1. Vai trò
Việc đốt rác và phế thài có vai trò rất quan trọng trong xã hội hiện nay, nhất là tại các thành phố
lớn và các khu công nghiệp. Tại các nước công nghiệp phát triển, rác và phế thải luôn luôn là một vấn
đề lớn mà chính quyền phải quan tâm giải quyết. Hiện nay tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, mỗi
ngày có hàng vạn tấn rác và phế thải công nghiệp ùn ùn kéo ra đổ tại các bãi rác thành phố. Có những
rác và phế thải phải hàng trăm năm sau mới có thể bị phân hủy, có những rác thải gây ô nhiễm môi
trường trầm trọng và cũng có những rác thải là mầm mống gây nên bệnh tật. Chính vì vậy việc đốt rác
và phế thải trong hệ lò quay có vai trò quan trọng trong xã hội chúng ta.
11.5.1.2. Ý nghĩa
Việc đốt rác và phế thải trong hệ lò quay nung clinke xi măng mang ý nghĩa lớn như sau:
4- Giúp cho xã hội giảm gánh nặng về rác cũng như phế thải công nghiệp tại các bãi rác.
+ Giảm diện tích mà bãi rác công cộng bị chiễm chỗ vì có rất nhiều bãi rác đã đầy và buộc phải
thay đổi địa chi hoặc mở rộng diện tích.
+ Giảm thiểu ô nhiễm môi trường gây ảnh hường đén sức khỏe của con người quanh các bãi rác.
+ Nhiều rác thải mang theo vi trùng truyền nhiễm, nên những nơi chứa loại rác này sỗ trờ thành
nơi truyền bệnh.
+ Nước thải từ bãi rác có thể chảy ra kênh, rạch, đổ ra sông, làm ô nhiễm dòng sông gây ảnh
hường đến cuộc sống của dân dưới hạ lưu.
+ Nhiều rác thải khi phân hủy sỗ mang theo những chất độc hại ngấm vào mạch nước ngầm, ảnh
hường trực tiếp đến nguồn nước ăn.
4- Trong rác có thể chứa một số kim loại nặng và trong quá trình phân hủy rác sẽ tạo nên các hợp
chất chứa kim loại nặng, trôi theo dòng nước hoặc ngấm vào các mạch nước ngầm.
4- Có những phế thài với khối lượng rất lớn để hoang phí như trấu ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Trên các phương tiện thông tin đại chúng, chúng ta biết rằng trấu không biết đổ đi đâu, dẫn đến tình
trạng trôi nồi trên các kênh, rạch. Nếu giải quyết tốt việc đốt trấu này sẽ vừa tăng thêm thu nhập của
người nông dân do bán được trấu vừa góp phần giảm thiểu ô nhiễm.
Trên cơ sờ đó, việc đốt rác hay phế thải trong hệ lò nung clinke xi măng mang ý nghĩa xã hội rất
lớn vì nó đã góp phần làm trong sạch môi trường sống không những cho người dân xung quanh nơi
chứa rác mà còn cho người dân ờ xa nơi chứa rác. Mặt khác, việc đốt rác hay phế thải trong hệ lò nung
581
clinke xi măng góp phần giảm tiêu tốn nhiên liệu cho mỗi nhà máy và mang lại lợi ích thiết thực cho
nhà máy xi măng về mặt kinh tế.
582
nung clinke xi măng. Cũng qua đó ta thấy các loại dầu thải, dung môi, chất dẻo, trấu và mùn cưa thuộc
loại dễ bắt lửa và khí thải không độc hại như cao su hay cốc dầu mỏ.
ĩ
I Dầu thài h Tính phù hợp của phế thải đốt lẳn
9,000-
Nhiệt
tr|
kcal/kg *
Nhiệt tr| tối thiều
»O«Lỏng
Xấu 0-Răn
Tính bắt lừa vả thải khí
Hình 11.85. Tính phù họp của các phế thải khl đốt xen lẫn với nhiên liệu chính.
Phế thải và rác có rất nhiều loại khác nhau và có nguồn gốc cũng khác nhau. Chính vì vậy khi sử
dụng chúng ta cần nhận biết những đặc điểm chung của chúng.
a) Tính đa dạng
Phế thải có rất nhiều loại khác nhau như trong hình 11.85. Có loại ờ dạng lỏng như dầu thải từ
các máy móc khác nhau, dung môi hữu cơ đã qua sử dụng. Có nhiều loại ở dạng rắn như các loại chất
déo, lốp ô tô, mùn cưa, trấu, các loại vỏ cây quả... Nhiệt trị của các loại phế thải này rất khác nhau từ
3.000 đến gần 9.000 kcal/kg. Để đốt phế thải trong vòi đốt chính thì nhiệt trị của chúng phải đạt trên
3.500 kcal/kg. Tuy nhiên nếu nhiệt trị của chúng dưới 2.500 kcal/kg thì không nên dùng vi chúng chứa
quá nhiều tạp chất không cháy làm ảnh hưởng đến chất lượng của clinke. Ở nước ta rác cũng nhiều mà
phế thải công nghiệp như các loại chất dẻo cũng lắm. Đặc biệt vùng đồng bằng Nam Bộ có rất nhiều vỏ
trấu, bột vò dừa là những nhiên liệu phế thải nhiều tiềm năng.
b) Cung cấp không ổn định
Thực tế phế thải ờ mỗi nhà máy hàng ngày thải ra không nhiều và phụ thuộc vào thời vụ. Vì vậy
tập hợp các phế thải từ các nhà máy sỗ không ổn định về lượng cũng như chất lượng nên các kỹ sư trong
nhà máy xi măng phải điều chinh kịp thời cho phù hợp. Ở nước ta có lẽ chi có ưấu vùng Đồng bằng
sông Cửu Long có thể là nguồn ổn định vi số lượng lớn, chất lượng tương đối đồng đều và mỗi năm có
đến ba vụ thu hoạch lúa. Tổng lượng trấu của nước ta vào khoảng 6 triệu tấn/năm.
c) Thông thường độ ẩm cao
Rác hay phế thải không được bảo quản tốt lại lẫn với nhiều loại khác nhau nên độ ẩm của chúng
nói chung là cao. Vì vậy việc bảo quản chúng đóng vai trò rất quan trọng nhằm giảm tác động của độ
ẩm đến chất lượng của nhiên liệu phế thải này. Ngay trấu ở nước ta có rất nhiều và tương đối khô khi
mới xay nhưng bảo quản không tốt cũng sỗ giảm chất lượng khi đốt.
d) Thành phần phức tạp (có lẫn kiềm, clo...)
Rác và phế thải công nghiệp đến từ nhiều nguồn khác nhau nên thành phần của chung rất đa dạng
và dao động khá nhiều. Từ đây có thể làm nhiệt trị của chúng cũng khác nhau hay bị thay đổi theo thời
gian thu gom. Trong những phế thải đó có thể chứa loại mà hàm lượng kiềm hoặc clo hay lưu huỳnh
583
tương đối cao. Đây là những cấu tử không mong muốn vi nó dẫn đến một loạt vấn đề ưong vận hành lò
sản xuất clinke. Lưu huỳnh và kiềm thường gây tắc cyclone như ờ phần trên đã trình bày, nếu quá nhiều
lại phải thực hiện quá trình trích khí cuối lò quay hay By-Passe. Lượng kim loại chứa trong phế thài
thường không nhiều và có thể điều chinh hay khắc phục được. Riêng đối với trấu khi đốt có thể để lại
khá nhiều SiO2 do tro của trấu chứa tới 90% S1O2. Vì vậy khi chạy lò bằng nhiên liệu phế thải cần phải
xem xét các thành phần ảnh hường đến chất lượng clinke sản xuất ra nhằm điều chinh kịp thời để đảm
bảo độ ổn định về chất lượng của clinke.
Trong hình 11.85 cho ta biết các loại phế thải và rác cỏ giá trị khác nhau về nhiệt trị, tính dễ sử
dụng, tính chất khí thải... Nhìn chung nếu phế thải cỏ nhiệt trị dưới 2.500 kcal/kg thì khó thực hiện việc
đốt trong lò nung clinke xi măng.
584
11.5.5. Những điểm có thể đốt nhiên liệu thay thế
11.5.5.1. Nơi đốt thông thường
Nơi đốt rác thông thường nhất là tại vòi đốt chính cùa lò quay và tại calciner như trong hình
11.86. Tại đây có thể đốt dầu, dung môi hữu cơ thài hay vụn hữu cơ như mùn cưa, vỏ trấu... Đẻ đốt
được chúng thì vòi đốt phải có kết cấu tương ứng hoặc có thiết bị phun chúng vào.
Nguyên liệu
đá vôi, sét
Máy làm nguội clinke
và phụ gia
0 Lò quay
0 Calciner
□ Cyclone trao đồi nhiệt
0 Máy nghiền liệu
□ Lọc bụi túi hay tĩnh điện
r*
Clinke Khói lò ra
Bột liệu vào
Lò SP không calciner
Vòi đốt chính X
Khói lò ra
Bột liệu vào <
Clinke Nước
♦ 'Ll
Clinke
Hình 11.87. Điểm có thể đốt rác hay phố thải trong cảc kiểu lò quay.
585
11.5.6. Thiết bị đốt nhiên liệu thay thế ngoài lò quay
11.5.6.1. Mâm quay của hãng SMIDTH
a) Nguyên tắc hoạt động
Theo phương pháp này phế thải được cắt nhỏ tùy theo loại được đưa đến buồng đốt đặc biệt bên
cạnh ống đứng. Buồng này có cấu tạo như một mâm quay có lót gạch chịu lửa HOTDISC của hãng
Smidth. Phế thài đưa vào buồng đốt cùng với bột liệu nóng từ cyclone C2 kể từ dưới lên. Không khí để
đốt là gió 3 từ máy làm nguội dẫn đến với nhiệt độ khoảng 800°C. Phế thải được cháy trên mâm và
mâm này quay đến chỗ chuyển vào ống đứng. Tại đây ngọn lửa sẽ theo ống đứng cùng với dòng khí từ
lò quay đi lên. Tro xỉ hay những phần chưa cháy hết sẽ rơi theo ống đứng để vào lò quay. Sơ đồ hệ
thống này có thể xem ứong hình 11.88. Trong sơ đồ cỏ két chứa bột liệu “tươi” chưa qua gia nhiệt.
Trong trường hợp ngừng lò gấp hay mất điện lưới thì phế thải vẫn tiếp tục cháy. Đẻ dập lừa, ở đây
người ta tháo bột liệu tươi vào mâm và lửa sẽ bị tắt ngay. Vì vậy két bột liệu tươi chỉ để nhằm mục đích
dập lửa tại mâm quay mà thôi.
Hình 11.88. Sơ đồ hệ thống đốt phé thải ngoài lò quay (hệ mâm quay).
b) Cấu tạo
Buồng đốt phế thải của hãng F. L. Smidth được cấu tạo bời một mâm quay có lót gạch chịu lửa
như trình bày trong các hình 11.89 đến 11.92. Thành của buồng đốt có độ cao tương ứng để đàm bảo
các phế thải có thể cháy được.
Phía trên buồng đốt có cửa để nạp phể thải, cửa nạp phối liệu nóng từ C2 (cyclone thứ 2 kể từ
dưới lên) và cửa để gió 3 có nhiệt độ 800°C đi vào để cháy. Ở thành buồng có cửa để đưa bột liệu nung
nóng cùng với tro xỉ và những phế thải chưa cháy hết đổ vào ống đứng của lò quay. Bột liệu và khí sẽ
bay theo dòng khí của lò quay, còn tro xi và những mảnh phế thải chưa cháy hết sẽ được rơi vào lò quay
và tiếp tục cháy nốt trong lò quay, cấu tạo và quỹ đạo hoạt động của buồng này được minh họa trong
các hinh từ 11.89 đến 11.92. Kích thước của thiết bị mâm quay cho trong hình 11.93.
586
Hình 11.89. Hình dạng bển ngoài cùa buồng đốtmảm quay.
587
Phế thải,
rác vào
Gió 3 vào
Mâm quay
Ống đứng
Bộ phận gạt
Tro xỉ,
Khí lò quay mảnh chưa cháy
Hình 11.91. Hình cắt và quỹ đạo của phế thải quay trên mâm và vào ống đứng.
588
Hình 11.92. Mâm quay đang lắp, mảm quay nguội và mầm quay đang đốt.
*315
50 5 3,15 10,9 1.5
*315
80 8 3.15 33,2 4.4
*400
80 8 4 33,2 4.4
Hình 11.93. Kích thước và động cơ điện yêu càu cùa buồng đốt mẳm quay.
589
Successful Ổng dẫn nhlèn liệu
commissioning for the khí hình thành
first Industrial plant In
Switzerland (Holcim)
Guaranteed tyre
throughput: 3 t/h
Chính vì vậy mà buồng đốt phế thải không thực hiện quá trinh cháy hoàn toàn mà chỉ là khí hóa
với hệ số không khí dư a tương đối thấp. Mặt khác kiểu cùa Polysius cỏ bộ phận xả cặn hay tách cặn
không cháy hết và do đó sẽ bảo đảm cho thành phần của clinke ít bị thay đổi. Có hai loại buồng khí hóa
cho phế thải dạng mảnh hay mẩu và loại cho lốp xe như trong các hình 11.94, 11.95 và 11.96.
Hình 11.96. Buồng đốt khí hóa phế thải dạng mẳu, cục.
590
Đẻ giảm NOx, Polysius còn đưa ra phương pháp đốt nhiều bậc như trong hình 11.97. Khi đưa
nhiên liệu vào, do thiếu oxy nên khí co được tạo ra và co này tương tác với NOx để tạo ra CO2 và N2.
Hình 11.97. Đốt nhiều bậc với hệ số không khí dư tháp của Polysius.
[Tro bay
Hình 11.99. Buồng đốt nhiều bậc PREPOL sc công suất 30 MW.
591
Ví dụ buồng đốt nhiều bậc có công suất 30 MW có diện tích mặt ghi 15 m2 với 10 bậc và vít tải
kép có công suất 2x18 kw. Buồng đốt này được lắp ghép vào hệ cùng calciner với buồng đốt cc
Chamber như trong hình 11.100.
Buổng đốt
PREPOL sc
Ống gió ba
Polysius có calciner là ống vươn cao nên không muốn có calciner khác mà chi gọi là buồng đốt phụ
cc Chamber song thực chất đấy là calciner vì tại đây nhiên liệu được đốt như các loại calciner khác.
11.5.6.4. Đốt trong Calciner cc Chamber
Hình 11.101. Buồng đốt CC-Chamber nổl với Calciner với các điểm đốt phế thải.
Việc đốt trực tiếp phế thải dạng khác cũng được thực hiện tại buồng đốt với ngọn lửa đi xuống
giống như calciner của các hãng khác mà Polysius gọi là CC- Chamber (Combustion Chamber) như
trong hình 11.101. Việc đốt trực tiếp phế thải trong calciner cũng được thực hiện tại các lò khác của các
hãng khác nhau và đương nhiên phải lựa chọn loại phế thải phù hợp.
592
11.5.7. Thiết bị đốt nhiên liệu thay thế trong lò quay
11.5.7.1. Phương pháp bắn lốp (vỏ) xe
Lốp xe cũ là vấn nạn của các nước phát triển và ngày càng nhiều. Vì vậy việc đốt lốp xe để giải
quyết vấn nạn đó là vấn đề lớn của những nước này. Lốp xe được đưa đến hộp và nhờ không khí nén mà
chúng được bắn vào zôn nung hoặc đến vị trí cần thiết. Chúng ta có thể xem trong các hình 11.102,
11.103 và 11.104 để có thể hiểu được quá trình bắn này.
Hình 11.103. Sơ đồ máy bắn thùng chứa phế thải và lốp xe.
593
Hình 11.104. Lốp xe vào vỊ trí bẳn.
lò
Quay về của bảng vận chuyền
Cvađebắn
Trục li
Chuyển thùng
vào v| trí bắn
Nạp thùng
594
Metres (feet)
I 5(15)
«o- 43(130)
4(12)
<8 o_ <4—I
ji E 36(110)
—< __r
■4<ụ "2
3(9)
4—*
o
ế S i- 30(90)
Otì °
c ọ 2(6)
O li
r*“ «.ì
Ẽ '5
—
ẽĩ
II- rỉ 1(3)
o 26(60)
■I
16(50)
ĩ 20(60) 23(70) 30(90) 33(100) 36(110) 39(120)
cú
* m/sec. (feet/sec.)
<p- Khoảng cách bắn xa và tốc độ bắn theo độ cao bẳn và góc nghiêng bẳn
Q
Hình 11.106. Sơ đồ bắn thùng phế thải vào lò và các thông số.
Các thùng đặt đứng được băng tải chuyển đến và quay ngang trước khi nạp vào đầu bắn. Dưới tác
dụng của không khí nén thùng này được bắn vào vị trí cần thiết tại zôn nung hay những vị trí khác. Độ
xa khi bắn thùng có thể tham khảo trong hình 11.106. Từ hình này ta thấy rằng thùng chứa phế thải có
thể được bắn xa đến trên 40 m tùy theo góc nghiêng khi băn cũng như chiều cao khi băn. Trên giản đồ
thi chiều cao tối đa khoảng 5 m, ứng với lò lớn nhất.
595
- Có thể giảm lượng NOX đến 20 - 50%.
- Có thể thay thế đến 30% lượng nhiên liệu đốt trong lò.
- Có thể bắn đến 6 lốp/phút.
- Độ bắn xa cỏ thế từ 10 đến 40 m tùy theo điểm lựa chọn.
- Hệ thống dễ di chuyển khi cần bảo dưỡng lò.
- Giảm giá thành «khi sản xuất do giảm nhiên liệu đốt lò.
Việc đốt phế thải cũng thực hiện được tại các vòi đốt chính tại lò quay tùy theo từng loại. Cũng
có thể có vòi đốt phụ để đốt phế thải dạng hạt nhỏ dễ cháy. Theo hãng Polysius và F. L. Smidth thì
lượng phế thải có thể đốt tại lò quay có thể đạt tới 30% lượng nhiên liệu đốt trong lò. Neu tổng hợp lại
thì 80% nhiên liệu được thay thế bằng phế thải trong calciner và 30% tại lò quay thì phế thải đốt trong
hệ lò nung clinke có thể thay thế đến 55% lượng nhiên liệu cần đốt. Điều đó nói lên rằng đến nửa lượng
nhiên liệu để nung clinke xi măng có thể được tiết kiệm được khi thay thế bằng phế thải. Ví dụ đối với
lò quay năng suất 4000 tấn/ngày phải tiêu tốn trên 400 tấn than, nếu đốt phế thải có thể tiết kiệm đến
200 tấn than/ngày và cỏ thể giúp cho Nhà nước tiêu hủy được đến 300 tấn phế thải/ngày. Như vậy việc
đốt phế thải vừa có ý nghĩa kinh tế vừa có ý nghĩa xã hội rất lớn.
596
chiu lửa Manhêdi - Crôm trên toàn bộ zôn nung. Vì lý do bảo vệ mội trường, tránh các nguyên tố nặng
như Crôm, nên trên thế giới có xu thế dùng gạch chịu lửa không chứa Crôm. Chính vì vậy mà gạch chịu
lừa Manhêdi - Spinel đã được sử dụng tại zôn nung. Gạch Manhêdi-Spinel sử dụng tại hai zôn chuyển
tiếp không tốt băng gạch Manhêdi-Crôm vì lớp côla tạo trên bề mặt gạch manhêdi-spinel tại hai zôn
này tương đối mỏng, không bền nên không bảo vệ tốt gạch. Trong khi đó trên bề mặt gạch Manhêdi-
Crôm tạo được lớp côla (collage) dày hơn và tuổi thọ của gạch đó sỗ bền hơn. Tuy nhiên nếu sử dụng
gạch Manhêdi-Spinel có hàm lượng spinel cao cũng có thể thay thé gạch Mg - Cr.
d) Zôn tháo clinke
Sau khi clinke đã được tạo ra, nó sỗ được làm nguội đến 1200 - 1300°C rồi tháo vào máy làm
nguội. Tại zôn này nhiệt độ không cao lắm nhưng clinke rất cứng và mài mòn gạch chịu lửa rất nhiều.
Vì vậy cần phải dùng gạch chịu lừa cao alumin với hàm lượng > 80%Al2O3. Đẻ tăng khả năng chống
bào mòn đầu ra của lò, đôi khi người ta phải dùng gạch trên có pha thêm ZrO2, bê tông chịu lửa có pha
thêm SiC như một hãng vật liệu chịu lửa đề nghị ưong hình 11.107.
Hình 11.107. Phản bố các loại gạch chỊu lửa trong lò quay nung cllnke xl măng.
597
4- Dừng lò do kỹ thuật hoặc do mất điện.
+ Tác động của mưa đột ngột làm vỏ thép zôn nung bị co đột ngột và biến dạng không đều cũng
làm giảm tuổi thọ gạch chịu lửa. Nếu mưa đột ngột vào lúc dừng lò đột ngột lại càng nguy hiểm. Một số
nơi đã khắc phục băng cách làm mái che cho zôn nung.
Trên đây chi nêu những nguyên nhân chính làm tồn hại đến gạch chịu lửa. Để tăng tuồi thọ của
gạch chịu lừa có rất nhiều biện pháp, song các biện pháp chủ yếu là:
4- Lựa chọn gạch chịu lửa phù hợp cho từng zôn của lò đồng thời chọn loại gạch có chất lượng cao.
4- Xây gạch trong lò phải đảm bảo chắc chắn, đúng kỹ thuật.
4- Phải tạo được lớp côla bám dính trên mặt gạch chịu lửa khoảng 100 - 200 mm. Biện pháp này
rất quan trọng vi lớp côla chính là lớp bảo vệ cho gạch khỏi chịu tác động trực tiếp của ngọn lửa đồng
thời giảm nhiệt độ mặt gạch cũng như giảm tác dụng của môi trường nói chung lên gạch chịu lửa.
Hình 11.108. Hệ quạt làm nguội vỏ lò tạl nhà máyxl măng Hà Tlỗn 1 tại Bình Phước.
4- Muốn kéo dài thuổi thọ của gạch chịu lửa trong lò quay nhất thiết cần phải làm nguội vỏ lò như
trong hình 11.108 nhằm tạo lớp côla. Khi vỏ lò nguội thì ưên mặt gạch chịu lửa cũng nguội và độ nhớt
của pha lỏng tăng để dễ tạo lớp côla và việc ăn mòn gạch sẽ giảm đi.
4- Đảm bảo chế độ nguyên liệu, nguồn điện, bộ phận phụ trợ của lò hoạt động ổn định, tránh hết
sức việc dừng vặt lò bời mỗi lần dừng vặt lò là tuổi thọ của gạch chịu lửa giảm đi rất nhiều.
4- Làm mái che zôn nung để đảm bảo nhiệt độ của vỏ thép tại zôn nung ổn định, nhất là khi mưa
đột ngột vỏ thép bị co lại không đồng đều. Điều đó sẽ gây biến dạng vỏ thép, biến dạng lớp gạch chịu
lửa lỏt lò và giảm tuổi thọ cùa gạch chịu lửa (hình 11.109).
598
Hình 11.109. Lò quay có mắi che trên zôn nung của một nhà máy xì măng
Lượng gạch chịu lửa tiêu tốn cho l tấn clinke trên thế giới chi dưới 0,4 kg/T trong khi đó vài nơi
của nước ta vẫn còn cao và đạt tới trên 0,5 kg/T. Đây là vấn đề lớn mà chúng ta đang phải quan tâm vì
tuổi thọ gạch chịu lừa trong các lò hiện nay còn rất thấp và chi đạt trung bình khoảng 6-8 tháng. Mặt
khác, mỗi lần dừng lò để thay thế gạch chịu lửa là phải tiêu tán nhiều nhiệt, gạch chịu lửa, sản lượng xi
măng, công sức...
599
Chương 12
Trong đó: B - lượng nhiên liệu tiêu tốn kg/h hoặc Nm3/h;
Q(' - nhiệt trị thấp của nhiên liệu kcal/kg hoặc kcal/Nm3.
600
12.2.1.2. Nhiệt lý học do nhiên liệu mang vào
Q2 = Cn.tn.B
Trong đó:
tn - nhiệt độ của nhiên liệu vào đốt. Nhiệt độ này tùy thuộc vào loại nhiên liệu dùng cũng như kểt
cấu lò và có giá trị khác nhau. Đối với nhiên liệu rắn thường không bao giờ “sấy” nóng trước và thường
ờ nhiệt độ 25 - 30°C. Nhiên liệu than bụi - 50 - 60°C, dầu mazut hay FO tùy theo loại mà dao động
khoáng 50 - 90°C hoặc hơn; khí thiên nhiên 20 - 30°C; khí than từ buồng hồi nhiệt gián đoạn 800 - 1100°C
(nhiệt độ này có thể được tính toán dựa vào yêu cầu nhiệt độ của khí than để đảm bảo nhiệt độ lò).
Cn- nhiệt dung riêng của nhiên liệu.
Đối với nhiên liệu rắn khô cn lấy khoảng 1,05 kJ/kg.°C hay 0,25 kcal/kg.°C, nếu là nhiên liệu ẩm
với độ ẩm w
%
* thì nhiệt dung riêng được tính như sau:
c--°’25 J100-
T5F-w' +^
w. kcaVkgđộ
Đối với mazut hay FO dùng cn = 2,05 kJ/kg.độ hay 0,49 kcal/kg.°C Đối với nhiên liệu khí thì
tính nhiệt dung riêng theo thành phần của khí.
12.2.1.3. Nhiệt do không khí để cháy nhiên liệu và lọt vào lò
Qkk = La .Ckk .tkk-B = Lfl.ikk.B
Ckk.tkk - nhiệt dung riêng và nhiệt độ của không khí;
ikk - enthalpi hay hàm nhiệt của không khí;
La - tổng lượng không khí vào lò để cháy nhiên liệu và không khí lọt với hệ số không khí dư a
đến lúc thoát khí thải;
B - lượng nhiên liệu đốt, kg/h hoặc m3/h (đối với nhiên liệu khí).
Nhiệt do không khí mang vào để cháy nhiên liệu nói chung là dùng công thức trên. Tuy nhiên,
tùy thuộc vào cấu tạo cũng như nguyên tắc làm việc của bộ phận lò mà có thể tính toán khác đi một
chút. Ví dụ không khí đốt nhiên liệu có thể gồm hai phần ờ nhiệt độ thường và nhiệt độ cao từ zôn làm
nguội chuyển đến.
12.2.1.4. Nhiệt do nguyên vật liệu vào lò để nung
Nguyên vật liệu này có thể dưới dạng viên như gạch ngói hay gốm sứ, cũng có thể dưới dạng
phối liệu như thủy tinh hoặc bột nghiền mịn của công nghệ xi măng. Công thức chung để tính như sau:
Q4 = Gvi.Cvi.tvi Kcal/h
Gvi.Cvi.tv! - khối lượng, nhiệt dung riêng và nhiệt độ vật liệu vào lò.
Nếu vật liệu vào lò có độ ẳm lớn thì cần tách riêng phối liệu khô và lượng nước trong vật liệu và
tính riêng cho mỗi phần sau đỏ lấy tổng lượng nhiệt vào lò bởi vật liệu.
12.2.1.5. Nhiệt do bộ phận vận chuyển vật liệu vào lò để nung
Q5 = ZGi.Cj.ti kcal/h
Gi.Cj.ti - tương ứng khối lượng, nhiệt dung riêng và nhiệt độ các thành phần cấu tạo, ví dụ xe
goòng lò nung tuy nen có nhiều bộ phận cấu tạo: thép, vật liệu chịu lửa các loại...
601
12.2.2. Nhiệt tiêu tốn
12.2.2.1. Nhiệt do vật liệu nung ra khỏi lò
Qn Gvin. Cvi.tvi kcal/h
Gvin.Cvi.tvi - khối lượng, nhiệt dung riêng và nhiệt độ vật liệu nung ra lò.
Khối lượng vật liệu vào lò Gvi thường lớn hơn nhiều so với khối lượng vật liệu nung ra lò do khử
hơi nước và CƠ2 ở nhiệt độ cao. Mặt khác có loại lò bụi phối liệu, hơi từ phối liệu bay theo khói lò nên
khối lượng vật liệu ra lò thường nhỏ hơn nhiều so với lượng phối liệu vào lò.
12.2.2.2. Nhiệt tiêu tốn để bay hơi ẩm từ vật liệu vào lò
Q12 = 600. H2O kcal/h
600 - nhiệt hóa hơi hay ẩn nhiệt của nước, kcal/kg;
H2O - lượng ẩm trong vật liệu vào lò, kg/h.
12.2.2.3. Nhiệt tiêu tốn do phân hủy caollnìt
Ql3 = Ghh.1600 (Kcal/kgCL)
Trong đó: 1600 (kcal/kg nước hydrat) là hiệu ứng nhiệt phân hủy caolinit. Nếu đã tính nhiệt do
phản ứng hóa học thì không cần tính khoản này nữa.
12.2.2.4. Nhiệt tiêu tốn do các phản ứng hóa học trong sản phẩm khi nung nấu
Q14 = q.Gx
Gx- khối lượng vật liệu khô vào lò, kg/h;
q - tiêu tốn nhiệt do phản ứng hóa học trong sàn phẩm khi nung.
Nhiệt phân hủy khoáng chứa nước ứng với 1 kg đất sét - q = 290 - 557 kj/kg hay 69- 133 kcal/kg
hoặc cho 1 kg AI2O3 q = 2090 kj/kg hay ~ 500 kcal/kg; cho lkg sản phẩm sứ vệ sinh q = 314 - 377
kJ/kg hay 75 - 90 kcal/kg.
Nhiệt phân hủy cacbonat: q = 1310 kj/kg MgCƠ3; q = 1780 kj/kg MgCO3; hoặc tính theo sản
phẩm MgO và CaO: 2750 kj/kg MgO, 3177 kJ/kg CaO.
Với những sản phẩm khác như thủy tinh, clinke xi măng sẽ có tính toán riêng theo thành phần
hóa học của chúng (xem phần ví dụ tiếp).
12.2.2.5. Nhiệt do khói lò mang ra ngoài
Q15 = Vfc.Ck.tk = Vfcik kcal/h
Vfc— tổng khỏi lò thoát ra ngoài kể cả lượng không khí lọt vào lò, m3/h;
602
Qhh thường xảy ra khi cần môi trường khử và cần biết hàm lượng khí co trong khói lò thì có
thể tính được Qhh. Neu dùng ghi đốt than sỗ có than lẫn trong xi tháo ra và nếu biết % than chưa
cháy (5 -10%) thì tính được Qch..
12.2.2.7. Nhiệt tổn thất qua vỏ lò (tường, vách, nền, trần nóc lò)
Q17 = (<
*bx + Odi)tm.s kcal/h
dbx + Odi - tổng hệ số cấp nhiệt bằng bức xạ và đối lưu;
Q18= ổ = 5,67^(^-)4-(Ặ-)4]F
v v 100 100
Xem công thức chương 5 “Trao đồi nhiệt” và hình 5.8 tìm giá trị <p.
ỊH(Pu-P,ì .
Vlọt = 2,74F p. m/s
híph-pò
Vlọt=l,83F m3/s
Pk
Trong đó: H - chiều cao trung binh của khe hở tính từ điểm áp suất bằng không;
Pkk, Pk“ khối lượng riêng của không khí và khí.
Nhiệt tổn thất do khí lọt ra ngoài:
603
12.2.2.10. Tồn thất do nung nóng vò lò và xe goòng.
Lò nung gián đoạn với vỏ lò bao gồm tường quanh lò, vòm lò, cửa lò và nền lò sê có tổn thất
nhiệt do chúng được nung nóng sau một chu kỳ. Để tính toán lượng nhiệt này có thể dùng phương pháp
smidth chương 5 để phân bổ nhiệt độ của vỏ lò một hay nhiều lớp vật liệu. Từ đó tính được nhiệt tổn
thất do nung nóng vỏ lò:
Qi 11 = (0,03 - 0,05) B Qt
* kcal/h
Than W1 *
A s* c* *
H *
N 0*
Cám 1,00 16,16 2,15 76,49 1,72 0,86 1,62 100.00
604
B: lượng than cần để nung 1 kg CL
q: nhiệt tiêu tốn cho 1 kg clinker thông thường từ: 680 -ĩ- 750 Kcal/kgCL;
ta chọn: q = 720 Kcal/kgCL;
Qt1: nhiệt trị thấp của than;
A: lượng tro trong than, A = 16,16%;
n: lượng tro đọng lại trong clinke thường dao động từ 95 - 100%, để đơn giản ta chọn n = 100%.
100xCK
Hệ sô bão hoà với LSF = ——----- *
2,8Sk + l,18Ak + 0,65FK
____________ 100x65.72____________
LSF = 97
2,8x21.18 + 1,18x5,32 + 0,65x3,33
Modun Alumin MA = — =
C3S = 4,07 X 65,72 - 7,6 X 21,18 - 6,72 X 5,32 - 1,43 X 3,33 = 65,80%
605
* Tổng (C4AF + C3A) = 10,11 + 8,46 = 18,57%
Hàm lượng khoáng C3S/C2S > 4 (xi măng có hàm lượng C3S > 60%) thì được gọi là xi măng
Alít, do hàm lượng C3S chiếm tới 65,80% vi vậy Clinker này rất khó nung và phải nung ở nhiệt độ cao
cùng với thời gian lưu trong lò phải phù hợp.
Lượng clinker thu được từ 1 kg phối liêu khô thực tế:
= “7 = °’664 (kg/kgLC)
1 • vJu
/-1
v XT X100 0,109x100
xw = ———Ị- = ——--------= 0,118 (kg / kgCL)
w 100-8 92
xw xỊQO 100
*
0,118
0,119 (kg/kgCL)
100-1 99
606
1) Lượng không khí khô cần để đốt cháy 1 kg than (theo lý thuyết):
£o2x22,4_ 6,822x22,4 , ,
------- 7—------- = 1,528 (Nm3/kgthan)
100 100
100
1,528
* = 7,276 (Nm3/kgthan)
21
2) Lượng không khí khô thực tế cần để đốt cháy 1 kg than với hệ số không khí dư khi cháy nhiên
liệu trong lò a = 1,15:
Vh20 = °’9-7
*10022,4 + VHH20kk La22,4 + °’241 = °»’446
2Ũkk = ^-'I00 V than)7
5
607
%H,O = ^42. X100% = X100 = 5,111%
V 8,736
%0, =
V X100% =
0 229
X100 = 2,624% .
2 V 8,736
V „„ 1 498
%CO2 = 4^2. X100% = -444 X100 = 11,795%
2 V 12,105
608
%so, = X100% = °’015. X100 = 0,125%
V 12,105
VM 9 204
%N = X100% = -^4— X100 = 76,039%
V 12,105
v\ 0 917
%02 = X100% = 7^- X100 = 7,574%
V 12,105
10) Khối lượng riêng các khí trong sản phẩm cháy (sổ tay hóa công I)
Loại khí co2 H2O so2 o2 n2 KK
Khối lượng riêng /(kg/Nm3) 1,977 0,804 2,927 1,429 1,251 1,293
12.5.1.2. Lượng phối liệu khô tuyệt đối không kể bụi bay, trong đó a là lượng tro
than lắng vào clinke
Neu a = 100% = 1, MKN - mất khi nung của phối liệu %.
100-axA'xB 100-1x16,16x0,109
1,496 (Kg/Kgcl)
100- MNKC ” 100-34,32
12.5.1.3. Lượng co2 từ phối liệu phản hủy ra ứng với 1 kg clinke
+ %CaO = 43,86%, %MgO = 0,76% là phần trăm CaO và MgO ừong phối liệu khô chưa nung.
+ Phân từ lượng: CƠ2 = 44; MgO = 40; CaO = 56.
- Luợng CO2 từ CaCC>3:
44 44
G| =0,01xỊJx%CaOxPt =0,01x — x43,86x1,496 = 0,516 (Kg/Kgcl)
56 56
- Lượng khí CO2 từ MgCCh:
609
12.5.1.5. Lượng CaCO3 trong phối liệu
44 + 56 100
GCaCO3 = . • x G1 = x °’516 = 1’173 (Kg/Kgcl)
3 44 44
12.5.1.6. Lượng MgCO3 trong phối liệu
44 + 40 „ 2 =^xo,
GMgCO3 =^Í-XG 84 _____ _____
012 = 0,024 (Kg/Kgcl)
* (Kg/Kgcl)
X
Ptxl00 1,496x100 _
1,574 (Kg/Kgcl)
100-BƯ 100-5
Gdx100 _ 1.574x100
gH
H
= 100-W
" - Go =
p 100-1
-1,574 = 0,016 (Kg/Kgcl)
v }
* Lượng không khí lọt vào hệ thống cyclone trao đổi nhiệt:
610
Tổng lưựng vào lò:
1 (kgcl)
b) Lượng không khí dư từ máy làm lạnh
Gdu = tổng gió vào làm lạnh - gió nóng để đốt cháy than (92%)
GHỉO=0,01 (Kg/Kgcl)
Gh = 0,016 (Kg/Kgcl)
* Lượng bụi (tính theo trạng thái đã nung) bay ra theo khói lò:
Gb =(Gp-Pt)x(l-MKNcxpxl0-2)
Trong đó: p Mức độ phân hủy cacbonát trong bụi: 0,3 4- 0,6.
Ta chọn: p = 0,3
* Lượng khói lò mang ra ngoài (ờ t°= 300°C):
Tổng lượng ra lò
611
Bảng 12.2. Tồng hợp cân bằng vật chắt của lò nung
1. Clinker 1 kgCL
2. Khí do phối liệu phân hủy Gco2 + Gh + Gh20 0,554
3. Bụi phối liệu Gb 0,071
4. Khí sản phẩm cháy than Gid 16,015 xXT
5. Khí thải từ máy làm lạnh (khí dư) Gdư 3,903-10,133 XXT
rp Ấ 4,718 + 5,882 X XT
Tông ra
q[ = gJ X (450 - 0) X CM (Kcal/Kgcl)
Trong đó: Cm - nhiệt dung riêng trung bình của phối liệu ở 0 -í- 450 °C.
Cm = 0,253(Kcal/Kg°C)
q[ =1,496x450x0,253 = 170,289 (Kcal/Kgcl)
1600 (Kcal/Kg nước hydrat): Hiệu ứng nhiệt phân hủy caolinit.
612
c) Nhiệt cần để nung nóng phối liệu đã mất nước hydrat ở 450 + 900 °C
Trong đó: Cm - nhiệt dung riêng trung bỉnh của phối liệu khô ở 450 4- 900°C.
CM = 0,283(Kcal/Kg°C)
Trong đỏ: 396 và 195 là hiệu ứng thu nhiệt ứng với CaCƠ3 và MgCƠ3.
e) Nhiệt nung đò phối liệu từ: 900 +1400 °C
Trong đó: Cm- nhiệt dung riêng trung bình của phối liệu ở 900 4- 1400°C.
Cm = 0,247 (Kcal/Kg°C)
f) Tiêu hao nhiệt đế tạo pha lỏng ở l40(f c
q^ = 50 (Kcal/Kg cl)
* Tổng lượng nhiệt tiêu tốn (theo lý thuyết) cho quá trình cháy tạo clinker:
*
q = -Lx(107xC3S + 144xC2S + 9xC3A + 26xC4Af) (Kcal/Kgcl)
qf = -Lx (107 X 65,80 +144X11,16 + 9X 8,46 + 26X 10,11) = 89,866 (Kcal/Kg cl)
613
c) Nhiệt thu hồi khi làm lạnh clinker ở 1400 +(fc
Trong đó: 0,261 - nhiệt dung riêng clinker trong giới hạn nhiệt độ 1400 4- o°c.
d) Nhiệt sinh ra do kết quả làm lạnh CO2 của phổi liệu ở 900 -ỉ- o°c
Trong đó: 0,256 - nhiệt dung riêng trung bình của CƠ2 ở 900 -ỉ- o°c.
e) Nhiệt thu hồi do làm lạnh hơi nước từ 450 -í- o°c và do ẩn nhiệt ngưng tụ của hơi nước thoát
ra 595 kcal/kgỉỈ2O
Cấu tử A B c Cấu từ A B c
co2 0,196 118 -43 Không khí 0,237 23 0
H2O 0,443 39 28 Phối liệu 0,206 101 -37
n2 0,244 22 0 Clinker 0,186 54 0
02 0,218 30 0 Than 0,262 390 0
qi = Qt X XT = 6627,32 X XT (Kcal/Kgcl)
614
b) Nhiệt lý học của than mang vào lò: chọn nhiệt độ than vào lò tị = 6(fc
Trong đó: Cfck= 0,238 (kcal/kg°C) - nhiệt dung riêng của không khí ở 25°c bảng trên.
tide = 25°c - nhiệt độ không khí.
* Tổng nhiệt cung cấp là:
5
Qc = qi = 3 8,817 + 6675,279 X XT (Kcal/Kg cl)
i=l
qj = 419,065 (Kcal/Kgcl)
b) Nhiệt cần để bốc hơi ẩm cùa phổi liệu: (nhiệt chuyển nước từ lỏng sang dạng hơi)
Trong đó: tH20h = 300°C - nhiệt độ của hơi nước ẩm và nước hóa học;
615
CH^Oh= 0,457(kcal/kg°C). Tính theo bảng trên.
Lượng hơi nước:
GHĩoh = GHio + Gh = 0,010 + 0,016 = 0,026 (Kcal/Kg cl)
q3 = 0,026 X 0,457 X 300 = 3,553 (Kcal/Kg cl)
d) Nhiệt do khí CO2 mang ra khỏi cyclone C5
616
f) Nhiệt do bụi mang ra ngoài
Trong đó:
Cb = 0,233 (kcal/kg°C) - tỷ nhiệt của phối liệu tính theo bảng trên.
Ccl= 0,191 (kcal/kg°C) -nhiệt dung riêng clinker ờ 100°C tính dựa vào bảng ưên.
Với lò hiện đại nên lượng tổn thất ra môi trường xung quanh nhỏ ta chọn:
q% = 32 (Kcal/Kgcl)
Trong đó: Ckk= 0,244 (kcal/kg°C) ở 300°C tính theo bảng trên.
9
* Tổng nhiệt tiêu tốn: Qr = = 719,039 +518,589 xXT (Kcal/Kgcl)
i=l
XT = 0,110 kgthan/kgcl
|o, 110-0,1091
Sai số e= 1 1 X100% = 0,91% < 1%
0,110
- Lượng nhiệt tiêu tốn bằng tính toán: Q = 0,110.Qlt = 0,110.6627,32 = 729 kcal/kg
- Nhiệt tiêu tốn đã giả thiết ban đầu là: 720 kcal/kg cl
|726,91-7201____
ơ= 1 —Lx 100 = 0,95% < 5%
726,91
617
Bảng 12.4. Căn bằng nhiệt cùa hệ thống lò
618
* Xác định hiệu suất nhiệt và hệ số tác dụng kỹ thuật có ích của lò
Lượng nhiệt hữu ích khi lò làm việc: là tổng nhiệt lý thuyết tạo clinker và nhiệt bốc hơi ẩm của
phối liệu:
419;?n6f1XA100 = 57,484%
729,010
Bảng 12.5. Bảng tổng hợp cân bằng vật chắt của hệ thống lò
Kết quả trên cho ta thấy lượng vật chất vào và ra của hệ thống lò có sai khác nhưng không đáng
kể (sai khác trên nằm trong phạm vi cho phép).
619
12.6.2.3. Tính nhiệt tạo thủy tinh và cân bằng nhiệt
Tính toán lò bể nấu thủy tinh kính với những số liệu cho sau đây:
1) Kiều lò lửa ngang với bộ phận điều chinh dòng thủy tinh giữa phần nấu và phần làm nguội,
nạp liệu cơ khí hóa, dùng buòng hồi nhiệt gián đoạn (regenerator).
2) Năng suất lò 150 tần thủy tinh trong một ngày đêm.
3) Thành phần phối liệu: cát 55,6, đá vôi 6,11, đôlômit 10,76, sunphat 11,70, soda 14,6, antraxit
0,50, oxit nhôm 0,73 (thành phần hóa học trong nguyên liệu cho trong bảng 12.1). Độ ẩm phối liệu
(không kể mảnh) 2%.
4) Lượng mảnh dùng: 29% khối lượng toàn phối liệu.
5) Nhiệt độ phía trong tường lò cho phép cực đại 1500°C.
6) Nhiệt độ khối thủy tinh 1400°C.
7) Nhiệt độ khối thủy tinh đi vào zôn làm nguội 1350°C.
8) Nhiệt độ dòng thủy tinh quay lại từ zôn làm nguội 1250°C.
9) Hệ số dòng bằng 2.
10) Nhiên liệu khí than sạch (ga lạnh) có thành phần như sau:
Nguyên SiO2 Al2O3 Fe2O3 CaO MgO Na2O NaCl MKN Cặn Tổng
liệu không tan cộng
620
Bảng 12.7. Lượng oxit tạo thủy tinh trong 100 kg phối liệu
Nguyên Tính lượng oxit tạo Lượng oxit tính bằng phần khối lượng
liệu thủy tình SiO2 Ầl2O3 Fe2O3 CaO MgO Na2O Không Tổng
ban đầu tan Cộng
Cát 55,6.0,98.0,9915 = 54,05 54,05 - - — - - - -
55,6.0,98.0,0051 =0,28 - 0,28 - - - - - -
55,6.0,98.0,001 = 0,05 - - 0,05 - - - - 54,38
Đá vôi 6,11.0,98.0,5461 =3,27 - - - 3,27 - - - -
621
b) Tỉnh hiệu ứng nhiệt của phản ứng nhiệt tạo thủy tinh qp
Sử dụng bảng dưới đây ta tính được nhiệt tiêu tốn để tạo thành các sản phẩm.
Bảng 12.8. Hiệu ứng nhiệt phản ứng tạo thủy tỉnh
Quá trình phản ứng Sản phẩm Tiêu tốn Khí sản Lượng khi
phân hủy nhiệt, sinh Nm3/kg
Kcal/kg
Na2SƠ4 —> Na2O.SiC>2 Na2O 828,1 SO2 + CO2 0,363 + 0,18 1,035 + 0,356
- Tiêu tốn nhiệt để nhận CaSiƠ3 từ CaCƠ3 với khối lượng các oxit trong bàng oxit tạo thủy
tinh ở trên:
Gca0 = 3,27 + 0,03 = 3,30 kg/100kg phối liệu hay 0,033 kg/kg phối liệu.
622
- Tiêu tốn nhiệt để nhận MgSiCh từ MgCƠ3 lẫn ưong đá vôi, sunphat và ưong soda:
- Tổng hiệu ứng nhiệt của phẩn ứng tạo thủy tinh sau khi bỏ qua một vài hợp chất khác:
Từ bảng 12.9 ta biết được lượng khí bốc đi là 22,49 % và cứ 100 kg phối liệu thì dùng Gm = 29
kg mảnh. Do đỏ cứ 1 kg phối liệu ta nhận được:
Phối liệu để tạo 1 kg thủy tinh: Gpi = 1 : 1,0651 = 0,94 kg hoặc tính theo
G 7Q
——77------------ — = 777— 77 = 0,27 (kg/kg thủy tinh)
100 + Gm-GẢ 100 + 29-22,49
Do đó:
623
Bảng 12.9. Lượng khí sản sinh ra từ 100 kg phối liệu
Nguyên liệu Tính lượng khi sản sinh Lượng khi sàn sinh (kg)
ban đầu
CO2 H2O so2 NaCl Tổng cộng
0,5.0,98.0,8575.^1 = 4,14 kg
Antraxit
0,5.0,98.0,8575,— 1,54 - - - 1,54
12
Toàn bộ theo
e) Nhiệt nung nóng sản phấm khí hình thành từ phổi liệu tới nhiệt độ 140(Pc
^RjO + 4h2o
Qr2o = 0,01.V|C.0,94.cit.t|C
624
Qh2O = 6OO.H2O
Iq = qp + Qđ + qc +qu
= 99 4- 436 + 61 + (82 4-11) = 689 (kcal/kg thủy tinh).
Đẻ xác định hàm lượng hơi ẩm có trong không khí, ta dùng bảng để tìm và ờ 38°c cứ 1 m3 không
khí khô bão hòa bời 4,7 gr hơi nước hay 4,7 kg cho 100 Nm3. Do đó:
w= 7TT = 5,86 Nm3 là hơi nước trong 100 Nm3 khí khô. Vì có hơi nước lẫn vào nên thành
0,804 6
phần làm việc thực tế của nhiên liệu tính và tính theo:
C2H4l=0,28
CH41 = 2,36
H2o‘ = 5,55
co' = 25,0
O2' = 0,28
H2‘= 13,22
N2’ = 46,2
Quá trình cháy, lượng không khí cần thiết, lượng khí hình thành do cháy được tính trong bảng 12.9.
Khi tính toán trong bảng này ta dùng hệ số không khí dư a = 1,2 và kết quả tính được lượng
không khí cần thiết để cháy lm3 khí là 1,408 m3 (tất cả đơn vị đều ứng với điều kiện chuẩn) và lượng
sản phẩm cháy hình thành là 2,21 m3/m3 khí.
625
Bảng 12.10. Bảng tính toán quá trình cháy nhiên liệu ứng với 100 m3
Căn cứ theo thành phần khỉ CƠ2 và H2O từ bảng tính quá trình cháy và chiều dày s, dùng giản đồ
tra độ đen (chương 5) ta có:
Để xác định nhiệt độ của khí trong lò ta sử dụng công thức sau khi đã bò qua nhiệt bức xạ từ zôn
khử bọt.
626
Tk V, T.Ĩ w - g* )-[g« - g* (1 - g« )] + gJ - g«
£t[i + ^(i-£; )(!-£„)]
*
w<y - £k )T
£k = 0,20
I17934 {0,526(1 - 0,2)[0,806 + 0,2(1 - 0,806)] + 0,2} - 0,806.0,526.(1 - 0,2.)16734
0,2[l + 0,526(1 - 0,2)(l - 0,806)1
= 1985 °K= 1712°c
Xác định lượng nhiệt truyền cho phối liệu trong 1 m2 zôn nấu theo công thức:
E ) IỊI g/gi-ftMi-gJ+frW-gJigzz+gJi-gJl+gJ
*
Ki-g
)[g n*
(]i-g
)+g + g*
0,526.(1 - 0,2) +1 + +
0,2.4,10.10—.0,806._________
0,526(1 - 0,2)[0,806 + 0,2(1 - 0,806)] + 0,2
10(1985 -1725) {0,526(1 - 0,2)[0,806 + 0,2(1 - 0,806)] + 0,2}
* (19854 -17234)___________ .(19854 -17234)
1___________ 0,806.0,2.4,96.1Q-
0,526(1-0,2)[0,806+ 0,2(1-0,806)]+ 0,2 Ắ 7
= 139,000 (kcal/m2.h)
ợ3 = 1,5.3600 (kcal/m2.h)
Lượng nhiệt truyền qua môi trường xung quanh q3 được tính theo điều kiện gạch dinat: 8 = 0,3 m,
X = 1,28 kcal/m.h.độ (ở khoảng 250 - 1500°C) và nhiệt trở:
r= = 0,234 (m2.h.độ/lcal)
1,28
Sau dó dùng giàn đồ (chương 10) để tính.
Để xác định bề mặt zôn nấu chúng ta coi răng 13% lượng nhiệt để cần thiết để cấp cho phối liệu
được truyền từ dòng thủy tinh qua bề mặt dưới của phối liệu, còn lại 87% được truyền từ ngọn lừa.
Chúng ta cũng coi rằng trên bề mặt zôn nấu, phối liệu chi chiếm chỗ 80%. Do đó bề mặt gương của zôn
nấu được xác định theo công thức:
Từ bề mặt nấu 33,7 m2, ta chọn kích thước cùa bể nấu là 6 X 6 m và không gian cháy trên cùng là
(6,2 X 6) m. Kích thước này phù hợp với kích thước dự định để tính độ đen của khí và lượng nhiệt
truyền qua thủy tinh. Do đó ta không phải tính lại nữa.
4. Xác định bề mặt zôn khử bọt
Ở zôn khử bọt cần phải nâng nhiệt độ thủy tinh từ 1100°C lên 1350°C. Đồng thời cũng phải nâng
nhiệt độ thủy tinh từ zôn nấu sang với nhiệt độ 1200°C.
Để tính lượng thủy tinh G1 quay lại từ zôn nấu, ta lấy chiều sâu của bể nấu 1,2 m, chiều dày
tường lò 0,3 m. Be mặt tỏa nhiệt gần đúng xác định như sau:
Be mặt trong: Đáy lò 6.6 m = 36 m2
Tường bên 1,2.6,2= 14,4 m2
Tường sau 1.2.6 = 7,2 m2
Bề mặt ngoài: Đáy lò (6 + 2.0,3)(6 + 0,3) = 41,6m2
Tường bên (1,2 + 0,3)(6 + 0,3).2 = 18,9 m2
Tường sau (6 + 2.0,3)(l,2 + 0,3) = 9,9 m2
Bề mặt trung bình của tường sau bằng mulít 18,9 + 9,9 + 14,4 + 7,2 _ 25 2 m2
2 ’
Nhiệt độ mặt trong của đáy lò là 1000°C và cùa tường 1200°C. Xác định nhiệt trở của samôt rs ở
nhiệt độ trung bình cùa đáy là 600°C.
= 0,322 m2.h.độ/kcal
Ấ, 0,93
Nhiệt trở của mulít khi Ầm = 2,5 kcal/m.h.độ và chiều dày của tưởng mulít 5m= 0,3 m
rm = = 0,12 m2.h.độ/kcal
m 2,5
Theo giản đồ hình chương 10 ta tìm được lượng nhiệt tổn thất ra môi trương xung quanh qua đáy
lò samôt:
628
Đối với tường lò cần tăng tổn thất do thổi không khí lạnh làm nguội tường lò:
0,134310^3^900.25,18100^^
(1350-1200).0,3145
= 32000 kg/ngày
Xác định nhiệt độ hỗn hợp thủy tinh đi vào zôn khử bọt theo những số liệu sau:
- Từ zôn nấu đi vào zôn khử bọt 15.000 kg thủy tinh/ngày với nhiệt độ 1400°C và nhiệt dung
riêng 0,3145kcal/kg.độ.
- Từ zôn nấu, dòng đối lưu quay lại 32.000 kg/ngày với nhiệt dung riêng ở 1200°C: Ctt= 0,2925
kcal/kg.độ.
- Từ zôn làm nguội hồi lưu quay lại 15.000 kg/ngay (do hệ số dòng bằng 2) với nhiệt dung riêng
ở 1100°C: Ctt= 0,2815 kcal/kg.độ.
Dòng thủy tinh hồi lưu sỗ trao đổi một phần nhiệt của mình để tiêu tốn ra môi trường xung
quanh. Chúng ta lấy sơ bộ tổn thất nhiệt bằng vò lò của zôn khử bọt cũng giống như ở zôn nấu, do đó:
Sử dụng công thức chương 10 ta tính nhiệt độ hỗn hợp của thủy tinh:
Bi?~
Ả = 1000.^-
10
= 20
629
Chuẩn số nhiệt độ của mặt dưới:
1520-1200
Từ các bảng hoặc giản đồ ứng với Bi = 20, 0 = 0,876, x:S = 0 ta tìm được thời gian cần thiết để
đốt nóng lớp thủy tinh.
0,2,0,2.2100.0,442.0,15
a 10
Be mặt gương của zôn khử bọt sẽ bằng:
Lấy kích thước zôn khử bọt băng 6.6 = 36 m2. Lượng nhiệt tiêu tốn trong zôn khử bọt hay truyền
cho khối thủy tinh trong khoảng cháy của lò:
q sm
Bảng 12.11
Khi nhiệt độ trung bình mặt trong của tường lò bằng 1200°C, chiều dày của tường lò 300 m thi:
- Đối với vòm và tường trên mức thủy tinh bằng dinat:
630
- Đối với tường của bể đựng thủy tinh bằng samôt:
Có thể tính nhiệt tổn thất ra môi trường xung quanh bằng phương pháp thong thường. Cũng có
thể dùng giản đồ để xác định lượng nhiệt này.
ợ3m = 3970(kcal/m2.h.)
Căn cứ theo công thức trên ta có thể viết đối với hệ số dòng n = 2.
-Fng = ?3„ -SJ = 3970. ỉ 5,21 = 6250(2(1 335.0,3075) + 975.0,2675 -1175.0,2895 -1100.0,2815
- 975.0,2675 +1100.0,2815] = 474000
Chiều dài phần làm nguội:
474000
m
3070.15,2
6. Xác định gần đúng nhiên liệu tiêu tốn cho zôn nấu
pq+QrK2
(kcal/m2.h.)
i-k,ả:2
„ 150000
p= — = 173i (kg/m2.h.)
24.36
Căn cứ vào chương 10 hình 10.69 và 10.70, diện tích phần nấu băng 36 + 36 = 72 m2 thì Q = 43000
kcal/m2.h, K1 = 0,26. Trị số K2 theo chương 10 ta được 1,18, tiêu tốn nhiệt lên quá trình tạo thủy
tinh q = 689 kcal/kg.
173f9A4?000;1,1-8-246000
(kcal/m2.h.)
1-0,26.1,18
631
7o Xác định tiêu tốn không khí, thành phần và lượng khí thải từ phần nấu (theo m3 ờ điều
kiện chuẩn)
Tiêu tốn khí than: 6560 : 3600 = 1,82 (m3/s)
Tiêu tốn không khí: 1,82 : 1.408 = 2,57 (m3/s)
8. Xác định nhiệt độ đốt nóng khí và không khí trong hệ thống buồng hồi nhiệt
Lấy hệ số pyromet của lò là 0,72. Nhiệt độ tác dụng cần có của khí bằng 1712 m3, nhiệt độ calo
của khí không được nhỏ hơn 1712 : 0,72 = 2360°C.
Nhiệt đốt nóng không khí và nhiên liệu khí trong buồng hồi nhiệt lấy bằng 1050°C.
Nhiệt trị của nhiên liệu khí than ứng với 1 m3 chuẩn.
632
q = C2H4%.141,07 4- H2%.25,79 4- CO%.30,18 + CH4%.85,55
= 1352 (kcal/m3).
= 0,4206 (kcal/m3.độ)
= 0,3618 (kcal/m3.độ)
= 2290°C
Như vậy nhiệt độ đốt nóng sơ bộ không khí và nhiên liệu dự định ở 1050°C là không đạt yêu cầu.
Nhiệt độ cần đốt nóng không khí và nhiên liệu khí xác định trên cơ sở nhiệt dung của nhiên liệu
0,363, cùa không khí 0,341, của khí thải 0,419 kcal/kg.độ và tk = 2360°C.
Trong trường hợp này phải tìm cách điều chinh giảm hệ số không khí dư a xuống < 1,2 như dự
tính hoặc phải sửa kích thước buồng hồi nhiệt.
633
Nhiệt cung cấp
Nhiệt dung của khí than ở 1115°c tính được Cni= 0,360 kcal/m3.độ.
+ Nhiệt do dòng thủy tinh từ zôn khử bọt mang sang chiếm 13% lượng nhiệt cần thiết để nấu
thủy tinh. Do đó:
q4 = 0,13.4310000 = 561000(kcal/h)
+ Tiêu tốn nhiệt lên quá trình tạo thủy tinh không kể đốt nóng chất bốc:
lq2= 0,01.V.0,94.G.C.t
V - lượng khí sản sinh từ phối liệu và bằng 11,79 m3 cho 100 kg phối liệu;
c,t - nhiệt dung và nhiệt độ của không khí sản sinh ra.
Do đó:
Ta coi rằng lớp phổi liệu dưới tấm chăn cao 100 mm, chiều cao của khe 0,2 m. Căn cứ theo hình
5.8 chương 5 D : X = 0,2 : 0,3 = 0,67 và <p = 0,59.
634
Bức xạ khí khí chiều dài của khe 4,4 m
<h=C.F
f T
Ảk Y .ự>=
ỰOOJ
4 4
Kích thước của miệng lửa khi nhiệt độ khí và không khí của lò là 1400°C với tốc độ 14 m/s.
r_ +V
* = (1,82 4- 2,57).1673 2
273.^ 273.14
Trong đó:
vni = 1,82 (m3/s) - thể tích nhiên liệu khí vào lò;
Vkk = 2,57 (m3/s) - thể tích không khí để cháy nhiên liệu;
Từ điện tích F trên, ta lấy 2 miệng lửa, mỗi miệng lửa có chiều rộng 1,7 m, cao trung bình 0,565 m.
. 1550 + 1115
= 1332 °K= 1605°K
' 2 2
Neu kể đến hiện tượng cháy bộ phận của khí và bức xạ của không gian cháy, ta lấy nhiệt độ
tường tị= 1400°C= 1673°K.
1985? , fl673?
4,96.0,6.3,84 + —— = 875000 (kcal/h)
100 , l 100 J
635
4- Vòm lò không cách nhiệt
1352x 4- 402x 4- 534x 4- 56100 = 3790000 4- 580000 + 1343x 4- 40000 4- 87590000 4- 574000
Khi xác định cân bằng nhiệt đã không tính đến tổn thất do khí lọt ra ngoài, do bức xạ qua các lỗ
nhỏ do tường lò bị ăn mòn. Vì vậy lượng nhiên liệu tiêu tốn phải tăng lên 17,5%.
Rõ ràng sự chênh lệch giữa đại lượng tính toán và đại lượng lấy gần đúng về tiêu tốn nhiệt tương
đối nhỏ. Vì vậy việc tính toán lại nhiệt độ cần đốt nóng không khí và nhiên liệu khí không phải tiến
hành nữa.
Tiêu tốn khí than: 7240 m3/h - 7240 : 3600 = 2,00 (m3/s)
Bảng 12.12
Cấu tử của Sản phẩm cháy Khí sản sinh từpl Khói lò
hỗn hợp khí (m3/s) (m3/s) m3/s %
636
Bảng 12.13
3 Không khí nóng mang vào 3 Đốt nóng sản phẩm cháy
4 Dòng thủy tinh mang vào 561000 3,3 4 Tổn thất qua cửa liệu 400000 2,3
10. Xác định tiêu tốn nhiên liệu trong zôn khử bọt
* Cân bằng nhiệt trong zôn khử bọt
+ Cấp nhiệt băng bức xạ sang phần làm nguội. Đẻ dự trữ năng lượng ta coi tấm chăn ngăn cách
zôn khử bọt và làm nguội ở độ cao 1,5 m frên mức thủy tinh. Chiều rộng của khe 5 m.
Bức xạ của khí khi nhiệt độ của khí 1712°c và nhiệt độ của phần làm nguội 1200°C:
4 ”Ị
( T
1k
V ÍT
1
4 4
qx = C.F.(p. = 4,96.0,15.5.0,8
1
ỰOOJ
= 321000 (kcal/h)
+ Truyền nhiệt bằng dẫn nhiệt sang phần làm nguội qua tấm chắn bằng samôt.
637
q,=^.F{t-1 ) = ^ ,0,6.(l 520 -1200) = 9000 (kcal/h)
s 0,3
Nhiệt độ hỗn hợp thủy tinh ban đầu xác định theo công thức trang 505 chương 10.
Lượng thủy tinh từ zôn nấu sang với lượng 150000kg/ngày, nhiệt độ 1400°C, nhiệt dung 0,3145
kcal/kg.độ.
Từ zôn nấu sang ở phía dưới 32000 kg/ngày, 1200°C, c = 0,2925 (kcal/kg.độ).
t = 150000+1400.0,3145+15000.1400.0,2815+320000.1200.0,2925
** (150000+150000+324000).0,293 " c
Xác định tiêu tốn nhiệt định hướng theo công thức:
q. 1146000
«2» ”183,kca1118’
Tiêu tốn khí than Vk= 118500.36 _ 3140, (m3/h) - 0,873 (m3/s)
1352
p (0,873 + 1,228)11673 _ 11 m3
273. V 273.12
1673?
100 J = 665000 (kcal/h)
638
+ Tổn thất nhiệt qua tường ra môi trường xung quanh.
Kích thước của tường cho tính toán trong bảng 12.14 và lấy giá trị bằng 620000 kcal/h.
Chung ta lấy giá trị X đổi với trường hợp không cách nhiệt và phụ thêm một lượng không
tính 10%.
Như vậy là gần đúng với lượng định hướng ban đầu (3140 m3/h) và không cần thiết phải tính
lại nữa.
639
Bảng 12.14. Kích thước và tổn thất nhiệt của lò bể
o
Thứ Tên khu vực Vật liệu và Nhiệt cản, m.h.độ/kg Nhiệt Tổn thất nhiệt riêng, Diện tích khu vực Tổn thất Ghi chú
tự chiều dày, m độ kcal/m2.h tinh, m2 nhiệt
mật toàn bộ,
ưong kcal/h
1 Đáy bể Samốt 0,3 51 = 0,93 1000 0,8.3600 = 2900 44,8 130000
r = 0,3:0,93 = 0,32
2 Tường bể Mulit 0,3 1 = 2,5 1200 2,15.3600.1,05. 28 273000
r = 0,3:2,5 = 0,12 1,2 = 9750 X 5%
3a Vòm cách nhiệt Dinas 0,3 Xđ=í,2 1520 0,5.3600= 1800 0,75.0,87.6 = 40,4 73000 do làm
Dinas nhe 0,12 r= 0,3 0,12 0,12 nguội
Trenel 0,12 1,59 + 0,5 + 0,25 nhân
tạo, 2%
= 0,908
3b Vòm không cách Dinas 0,3 =1,2 1520 1,5.3600 = 5400 40,0 216000 do ăn
mòn
nhiệt r = 0,3:1,28 = 0,234 chiều
4 Tường dọc trên Dinas 0,45 =1,27 1520 1,1.3600 = 3960 1,06.2=12,0 48000 cao
mực thủy tinh vòm lò
r-0,45:1,27 = 0,354
0,75 m,
5 Tường sau Dinas 0,45 =1,27 1520 1,1.3600 = 3960 5,3 21000
góc tâm
r-0,354 vòm lò
6 Tấm chắn Dinas 0,30 4 =1,27 1520 1,5.3600 0,55.4,4 = 2,4 1300 52“
r- 0,3:1,27 = 0,234
7 Đệm dưới Dinas 0,20 4=1,3 1520 2,3.3600 16.0,12= 1,9 1600
r-0,2:1,3 = 0,154
Chương 13
Môi trường là vấn đề lớn của thế giới cũng như của Việt Nam. Nước ta đã tham gia ký Nghị
định thư Kyoto năm 1998 và tiếp tục tham gia vào năm nay, điều đó có nghĩa là chúng ta cần tuân thủ
những gì đã ký về bảo vệ môi trường, giảm thiểu khí gây hiệu ứng nhà kính cũng như các khí khác
gây ô nhiễm môi trường. Những trận mưa xối xả, lụt lội kinh khủng, mực nước biển dâng lên, những
trận bão lớn, thời tiết thất thường đang đe dọa đất nước ta và thế giới. Ngoài ra phải kể đến không khí
và nguồn nước bị ô nhiễm nặng nề do phát thài khí độc hại từ nhiều nguồn khác nhau trong đó có các
lò nung công nghiệp.
Nói đến môi trường, cần phải kể đến nhiều chất khác gây hại đến cuộc sống mà không chi đon
thuần là khí CƠ2 gây hiệu ứng nhà kính chủ yếu. Có thề nêu lên một số chất như sau: co, NOX, SƠ2,
HF, Hydrocacbon nhẹ, các chất bốc hữu cơ, 03, bụi chứa Pb, As, Hg, Cd, Cr, Cu... Đẻ giải quyết vấn đề
môi trường là nhiệm vụ khó khăn cho các nhà khoa học và quản lý. Trong chương này chủ yếu đề cập
đến khí gây hiệu ứng nhà kính do các lò gây nên.
13.1. TIÊU THỤ NHIÊN LIỆU VÀ HIỆU ỨNG NHÀ KÍNH (GREENHOUSE EFFECT)
641
- Tầng điện ly hay tầng ngoài (exosphere) có độ cao từ 100 đến trên 800 km. Ờ tầng này có
mặt các ion o+, He+(<1500 km) và H+(>1500 km). Nhiệt độ tầng này tăng rất nhanh tới 1700°C. Giới
hạn trên rất khó xác định và chi ước đoán khoảng 1000 km.
Neu không có tầng khí quyển thì nhiệt độ bề mặt trái đất sẽ là -18°c nhưng nhờ lớp khí quyển
này làm nhiệt độ của trái đất hiện tại trung bỉnh là 15°c. Đó là hiệu ứng nhà kính tự nhiên. Hiệu ứng
này coi khí quyển bao quanh trái đất như một lóp kính. Để đến được bề mặt trái đất, năng lượng mặt ười
dưới dạng tia sáng phải đi qua lớp không khí dày ưong suốt như kính. Một phần năng lượng được ưái
đất giữ lại nhờ các quá trình vật lý hóa học và sinh học tự nhiên. Một phần phản xạ về vũ trụ, nhiệt phàn
xạ này lại bị hấp thụ bời một số thành phần có ưong khí quyển và làm nhiệt độ bên ưong nhà kính tăng
lên. Nhờ vậy mà nhiệt độ trái đất giữ được 15°c. cấu tạo các tầng khí quyển, biến đổi nhiệt độ và sự có
mặt các khí được minh họa ưong hình 13.1.
ỈOOkm
85 km
g&TANG TRƯNG GIAN
2’
642
- Chỉ khí có cấu tạo từ 3 nguyên tử trở lên mái có khả năng bức xạ và hấp thụ năng lượng
dạng sổng. Đảng chú ý hơn cả là co2 SO2 N0x và H2O thường có trong khói lò. Những khí này đương
nhiên là tham gia vào quá trình hấp thụ năng lượng của các tia nhiệt đi qua nó.
- Bức xạ và hấp thụ năng lượng theo phổ vạch tức trong những dải nhất định của chiều dài
sóng, ngoài những khoảng này khí trờ lên trong suốt và năng lượng bức xạ hay hấp thụ coi như bằng
không 0.
- Khí bức xạ hay hấp thụ năng lượng phụ thuộc nồng độ hay mật độ khí. Không khí trong
lành nghĩa là khí quyển giữ được cân băng sinh thái từ lâu và chi chứa N2, O2 và một lượng CO2 cân
bằng của hệ với nồng độ 0,035%. Trong điều kiện đó tia bức xạ từ mặt ười đen xuyên qua lớp không
khí dày đặc đến mặt trái đất coi như không bị tổn hao ưên đường đi. Tại điểm đến, ưái đất sẽ hấp thụ
một phần do bản thân ưái đất cỏ hệ số hấp thụ của mình, phần còn lại sẽ phản xạ ườ lại vũ trụ và tia
phản xạ này cũng không bị tổn hao nhiệt do không khí ưong lành và sạch như ưong hình 13.2.
Hình 13.2. Bức xạ tới, phản xạ và bức xạ của trái đất qua lớp khí quyển trong lành.
Trong thực tế, con người và thiên nhiên vẫn thải ra một lượng CO2 lớn. số lượng CO2 này gần
một nửa được hòa tan vào nước mưa rơi xuống và còn lại dùng cho quá trình quang hợp của thực vật
ưên đất liền cũng như dưới nước. Phản ứng quang hợp của CO2 ưong các cây ưồng dưới tác dụng của
ánh sáng mặt ười có thể viết như sau:
Ánh sáng
6CO2 + 6H2O Mặt * CôHuOố + 6O2
Vì vậy rừng là lá phổi của ưái đất vì nó hấp thụ CO2 lại tỏa ra oxy cho loài người. Chính vì vậy
chúng ta phải bảo vệ và ưồng thêm rừng để đảm bảo lá phổi hành tinh của chúng ta.
Thông thường một nửa lượng khí CO2 còn tồn tại ưong không khí với nồng độ 0,035% CO2.
Khoảng ÌOO năm nay, hệ sinh thái bị thay đồi do con người can thiệp quá nhiều. Nếu rùng được bảo vệ
tốt, phát triển tốt thì phần CO2 cho quang hợp được duy trì với lượng cao. Tuy nhiên thực té rừng ngày
càng thu hẹp lại bị đốt phá nên lượng CO2 dùng cho quang hợp giảm đi ưong khi lượng CO2 lại tăng
quá nhiều do nhân loại sử dụng quá nhiều nhiên liệu để đốt, chạy động cơ... Neu thế giới thải ra quá
nhiều khí CO2 do đốt quá nhiều nhiên liệu đặc biệt là than thì nồng độ CO2 ưong không khí tăng lên. Vì
những nguyên nhân đó làm tầng không khí hấp thụ nhiều nhiệt của năng lượng mặt ười khi chiếu đến
ưái đất. Tia phản xạ của chùm sáng đến ưái đất đi qua lớp không khí dày đặc chứa nhiều CO2 lại bị hấp
thụ một phần. Như vậy do nồng độ CO2 tăng lên mà tầng không khí giữ lại nhiều nhiệt và vỡ, thế nhiệt
độ của tầng không khí sẽ tăng lên.
643
Xét về mặt bức xạ nhiệt thì bản thân trái đất cũng bức xạ năng lượng ra vũ trụ. Tia bức xạ này
cũng bị tầng không khí hấp thụ một phần do chứa nhiều co2, vì vậy tầng không khí cũng sể được nâng
nhiệt độ. Từ đây chúng ta thấy rằng khi tầng không khí chứa nhiều CO2 nó sẽ hấp thụ nhiệt bức xạ từ
mặt trời, giữ lại một phần nhiệt phản xạ, hấp thụ một phần nhiệt bức xạ từ trái đất như minh họa trong
hình 13.2. Kết quả tầng không khí sẽ tăng nhiệt độ và đó là hiệu ứng nhà kính và CO2 là khí gây hiệu
ứng nhà kính đáng chú ý nhất. Hơi nước có vòng tuần hoàn là bốc hơi và ngưng tụ thành mưa. Tuy
nhiên hơi nước cũng góp phần vào hiệu ứng nhà kính tuy không nguy hiểm bằng CO2. Khi tầng khí
quyển bị nâng nhiệt độ thì lượng hơi nước bốc lên trong khí quyển cũng tăng lên và cũng hấp thụ nhiệt
để tăng nhiệt độ không khí.
Nhận biết được điều này nên năm 1998, Nghị định thư Kyoto về cắt giảm khí gây hiệu ứng nhà
kính đã ra đời và được nhiều nước trên thế giới phê chuẩn trong đó có nước ta. Mỹ là nước thải ra nhiều
nhất khí gây hiệu ứng nhà kính đã ra đời song không chịu ký phê chuẩn Nghị định thư này và bị nhiều
nước phê phán. Tuy nhiên tại Hội nghị G8 tại Đức tháng 6 năm 2007, Mỹ cùng Anh, Pháp, Đức, Nhật,
Italia, Canada và Nga đã đồng thuận giảm 50% khí gây hiệu ứng nhà kính vào 2050. Đây cũng là bước
tiến mới của G8 trong đó có Mỹ. Mặt khác cũng mong muốn mờ rộng ra nhiều nước khác đang phát
triển như Trung Quốc, Ấn Độ, Brasil. Việc buôn bán hạn ngạch khí co2 cũng được đẩy mạnh và nhộn
nhịp. Nêu những vấn đề trên là để chúng ta thấy rõ việc giảm khí gây hiệu ứng nhà kính CO2 là một vấn
đề có tính toàn cầu mà nước ta đã ký kết tham gia nhăm giảm nguy cơ do hiệu ứng nhà kính gây nên.
644
cũng tăng lên. Mặt khác, do nhiệt độ Trái Đất tăng lên cũng làm tăng tốc độ cùa nhiều phản ứng hóa học
làm thay đổi cân bằng tự nhiên và giảm tuổi thọ các công trình xây dựng.
5) Nếu nhiệt độ bề mặt Trái Đất tăng lên thì khả năng hòa tan CƠ2 trong nước biển bị giảm đi.
Điều đó làm mất cân bằng CO2 giữa khí quyển và đại dương hay làm tăng hiệu ứng nhà kính.
6) Do nhiệt độ bề mặt Trái Đất tăng lên, các loài cá sỗ chuyển xuống tầng nước sâu hơn hay di
chuyển đến nơi khác. Điều đó ảnh hường trực tiếp tới hàng trăm triệu ngư dân sinh sống nhờ đại dương
vì ngư trường bị thay đổi, hệ sinh thái thay đổi, việc đánh bắt cũng thay đổi.
645
khoảng 30 - 40% giá thành sản phẩm. Trong khi đó chúng ta lại phải tiêu tốn năng lượng cho quá
trình sấy vì vậy trước mắt cần tận dụng nhiệt của khói lò cho các lò sấy. Nếu thực hiện được như vậy
chúng ta vừa tiết kiệm được nhiên liệu vừa giảm khí gây hiệu ứng nhà kính vừa tàng được năng suất
các lò sấy.
13.1.4.4. Tận dụng nhiệt cùa khói lò
Có thể dùng khói lò nung nóng không khí cung cấp cho vòi đốt nhiên liệu. Trong trường hợp này
hiệu suất nhiệt của lò tăng lên rất nhiều do nhiên liệu được đốt cháy bởi không khí nóng nên việc nâng
nhiệt độ trong lò nhanh chóng đồng thời lượng nhiên liệu để đốt sẽ giảm đi. Nếu thực hiện được điều
này thì hiệu suất nhiệt của lò nung sẽ tăng lên rất nhiều, vừa giảm chi phí nhiên liệu, vừa rút ngăn thời
gian nung, vừa quay vòng lò nung gián đoạn nhanh chóng.
13.1.4.5. Sử dụng nhiên liệu sạch chất lượng cao
Cũng sê giảm được khí gây hiệu ứng nhà kính. Ví dụ khi sử dụng ga lỏng LPG có nhiệt trị 11.000
Kcal/kg sê thải ra khí CO2 ít hơn nhiều so với dùng than đá. Người ta tính rằng nếu dùng than đá để
nung gốm sứ thì chất lượng sản phẩm nung không cao, năng suất lò giảm lượng khí CƠ2 thải ra thường
gấp 3 - 5 lần so với dùng ga lỏng LPG,... Ngoài ra việc dùng than đá sẽ tỏa ra môi trường khí vô cùng
độc hại đó là SO2, CO và một số khí khác.
13.1.4.6. Nếu dùng khí hóa than
Chẳng những gây ô nhiễm môi trường lại bị nguy cơ cháy nổ luôn luôn đe dọa do khí co đồng
thời cũng tăng lượng khí co2 gây hiệu ứng nhà kính. Sở dĩ khí hiệu ứng nhà kính tăng lên là vì khí than
cuối cùng cũng cháy thành co2. Khi sử dụng khí than để đốt lò cỏ nghĩa là phải sử dụng nhiều than
hơn, cuối cùng tổng khói lò gây hiệu ứng nhà kính để nung sẽ tăng lên rất nhiều.
13.1.4.7. Sử dụng nhiên liệu sạch trong giao thông hay sàn xuất công nghiệp
Thế giới đang phát động sử dụng năng lượng mặt trời, năng lượng gió, thủy điện là những
dạng năng lượng không tiêu hao nhiên liệu, không gây ô nhiễm môi trường. Các hãng ô tô lớn đều
đang hướng vào việc sử dụng cồn thay cho xăng hoặc chế độ hybrid nhằm giảm lượng co2 gây
hiệu ứng nhà kính.
13.1.4.8. Tìm cách chôn vùi co2
Như một số nước công nghiệp đang tìm cách và đang là phương hướng của thế giới trong giai
đoạn tới. Mặt khác thế giới cũng đang đặt mục tiêu dùng công nghệ sinh học để giảm bớt khí CO2 đồng
thời tạo sản phẩm mới có lợi hơn.
Khi tiết kiệm nhiên liệu tiêu hao là góp phần giảm lượng khí gây hiệu ứng nhà kính đồng thời
giảm chi phí cho sản xuất và mang lại lợi ích thiết thực cho các doanh nghiệp.
13.2. ĐỊNH HƯỞNG PHÁT TRIỂN XANH SẠCH TRONG LÒ NUNG GỐM sứ
13.2.1. Tiết kiệm năng lượng, nhiên liệu VỚI hiệu ứng nhà kính
Tiết kiệm năng lượng luôn luôn là quốc sách không chi với các nước nghẻo mà ngay cà những
nước giàu. Nói đúng ra các nước nghèo như nước ta càng phải tiết kiệm năng lượng hơn. Chính vì vậy
mà Nhà nước ta luôn kêu gọi nhân dân, các cơ quan và doanh nghiệp phải có ý thức tiết kiệm năng
lượng. Cần phải hiểu năng lượng theo một nghĩa rộng trong đó bao gồm điện năng, nhiệt năng, cơ
năng... Việc kêu gọi dùng bóng điện công suất thấp, tắt điện khi ra khỏi phòng, nâng nhiệt độ của máy
điều hòa, tắt máy khi kết thúc sử dụng... là biện pháp tiết kiệm năng lượng thông thường bởi điện sản
xuất ra đều kèm theo thải khí gây hiệu ứng nhà kính.
646
Các lò công nghiệp nói chung và lò nung gốm nói riêng việc tiết kiệm nhiên liệu thể hiện bời các
chi tiêu sau:
- Giảm tiêu hao nhiên liệu cho một mẻ lò nung gián đoạn.
- Tăng hiệu suất nhiệt sử dụng nhiên liệu.
- Tận dụng tốt nhiệt của khói lò vào dây chuyền sản xuất.
- Tận dụng nhiệt của vỏ lò sau một mè nung.
- Sử dụng lò hút tự nhiên mà không dùng điện.
- Giảm phế phẩm, tăng chất lượng và tỷ lệ thu hồi sản phẩm loại A.
647
13.2.5. Rút ngắn thời gian nung
Khi thời gian nung của lò gián đoạn càng kéo dài thì càng tiêu tốn nhiều nhiên liệu, lượng khói lò
thài ra càng tăng, thời gian làm việc của thợ lò cũng tăng lên, số vòng quay của lò trong năm cũng giảm
đi và tổng sản phẩm sản xuất ra trong năm cùa lò sẽ giảm đi đồng thời chi phí cho nung đốt sàn phẩm sẽ
tăng lên. Chính vì vậy, việc rút ngắn thời gian nung là một vấn đề mà các doanh nghiệp đều quan tâm.
Tuy nhiên thời gian nung tối thiểu phụ thuộc vào từng loại sản phẩm, mật độ xếp trong lò, nhiệt độ nung
và kết cấu lò. Do đó, việc đầu tiên là phải kiện toàn lại cấu trúc của lò, nhằm đảm bảo khí động học
trong lò là tốt nhất. Ngoài ra cần phải sử dụng nhiên liệu nào có nhiệt trị cao, sạch không có hoặc có ít
lưu huỳnh, dễ đốt và dễ frộn lẫn với không khí để cháy. Mặt khác, cấu tạo vòi đốt phải hợp lý để quá
trinh hòa trộn ban đầu với nhiên liệu và không khí được hoàn thiện trước khi vào cháy nhiên liệu. Nếu
tường và vỏ lò xây bằng gạch chịu lửa hoặc cách nhiệt thì chúng sỗ hấp thụ rất nhiều nhiệt trong giai
đoạn nâng nhiệt độ trong lò. Điều đó sẽ gây nên tăng thời gian nung đốt của lò. Trong trường hợp này
tốt nhất là dùng bông gốm chịu lửa, chúng vừa nhẹ vừa cách nhiệt tốt, vừa hấp thụ ít nhiệt nên có thể rút
ngắn được thời gian nâng nhiệt độ trong lò. Tùy loại bông gốm sử dụng mà nhiệt độ trong lò có thể đạt
trên 1400°C đối với gốm.
Các lò này gây ô nhiễm nặng nề cho môi trường xung quanh chẳng những gây ảnh hưởng đến
sức khỏe con người mà còn gây thất thoát cho nông nghiệp. Chính vì vậy mà Nhà nước có chủ trương
phải xóa bỏ dần các lò này. Các địa phương đã tích cực thực hiện, ví dụ An Giang đã chuyển đổi hàng
trăm lò thủ công sang lò vòng liên tục. Đây cũng là dấu hiệu tích cực và các địa phương đang tiếp tục
chuyển đổi hay xóa bỏ những lò này. Tuy nhiên đáng tiếc là lại dùng lò vòng lạc hậu mà không dùng lò
tuy nen có nhiều ưu thế hơn.
648
13.2.7. Hãy sừ dụng lò tuy nen
Các lò tuy nen hoạt động liên tục đã tỏ ra có nhiều ưu việt đối với gạch ngói đặc biệt về tiêu hao
nhiên liệu và công suất. Việc chuyển đổi lò thủ công sang lò vòng đã là một bước tiến bộ, song lò vòng
có quá nhiều nhược điểm mà miền Bắc đã phá đi từ lâu. Lò tuy nen nung gạch ngói hiện nay đã được tự
động hóa một phần nhờ hệ điều chinh lượng than cấp từ nóc lò. Nhờ thế mà chất lượng cũng như sản
lượng của lò được nâng cao, thợ lò đỡ vất và, tiêu tốn nhiên liệu cũng giảm một ít.
Các lò tuy nen nung gạch ngói hiện nay đều dùng than trộn lẫn nguyên liệu đề tạo hình trước khi
nung và chi bổ sung than tại nóc lò. Quy trình này được chấp nhận vì gạch chín đều, công suất lò tăng
lên và giảm giá thành nên đem lại nhiều lợi nhuận. Tuy nhiên khói lò mang ra nhiều sản phẩm chưa
cháy hết như co, H2S hydrocacbon.. gây ô nhiễm không khí cũng như tổn thất nhiên liệu. Theo kết quả
kiểm tra thì hàm lượng co trong khói lò tuy nen nung gạch đỏ chứa 800 - 1400 mg/m3 khói lò và hàm
lượng H2S chiếm 0,043 - 0,093 mg/m3 khỏi lò. Các khí này đều rất độc hại cho môi trường ngay frong
nhà lò. Nguyên nhân chủ yếu là chất bốc của than tách ra ờ đoạn dưới 600°C nhưng không cháy được.
Mặt khác cacbon dư lại trong gạch không cháy hoàn toàn thành CO2 mà một phần thành co. Trong
điều kiện hiện nay, chúng ta chấp nhận quy trình đó nhưng trong tưomg lai cần thực hiện quy trình dùng
100% than tiếp vào zôn nung của lò để giảm thiểu các khí độc trên.
Trong sản xuất gốm cũng như khi sử dụng gốm sứ nói chung đều có phế thải như gạch ngói
chăng hạn. Phế thải này hàm chứa một lượng nhiên liệu tiêu hao nhất định để tạo ra chúng. Sử dụng lại
các phế thải này vào sản xuất vừa giảm tiêu hao nhiên liệu lại giảm phế phẩm khi sấy nung do chúng
dẫn ẩm tốt và giảm độ co.
Fluor không những gây độc hại mà còn là khí gây hiệu ứng nhà kính rất mạnh. Nếu khói lò bị
fluor hóa tính theo tấn (không phải m3) sể làm nóng trái đất từ 140 đến 23.900 lần so với CO2 tùy theo
nồng độ fluor của khói lò.
649
13.2.10.2. Phát tán Fluor
Việc phát tán HF do mấy nguyên nhân sau:
Do phân hủy trực tiếp các khoáng chứa Fluo như illite bắt đầu ở 750°C, apatit ở 600 - 700°C.
Phân hủy CaF2 ở nhiệt độ > 900°C, nếu có hơi nước thì phản ứng này càng mạnh.
CaO không những loại trừ được HF mà còn loại trừ được HC1, so2 với những phản ứng
tương tự.
13.2.10.3. Giảm phát thải Fluor
- Tìm nguyên liệu phù hợp chứa ít Fluor. Điều kiện này khổ cho các nhà đầu tư do không dễ khi
lựa chọn mỏ đất phù hợp.
- Để giảm HF, có thể thêm vào nguyên liệu sét một ít bột mịn CaCƠ3 hoặc CaO để biến HF
thành CaF2, HCl thành CaCl2 và so2 thành sunphat. Các phản ứng này tiến hành ở vùng nhiệt độ thấp
hay vùng tiền nung của lò tuy nen. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng ở nhiệt độ trên 900°C thì CaF2 sẽ
phân hủy thành CaO và HF. CaO tương tác với nguyên liệu để tạo ra silicat calci và Fluor tách ra đi vào
môi trường lò khi nồng độ H2O cao.
- Neu nung nhanh hay kết khối nhanh thỉ việc thoát F sẽ chậm lại và lượng HF trong khói lò sẽ
giảm đi. Điều đó cũng tương tự đối với hợp chất clorua và sunphat.
- Dùng lò nung nhanh phù hợp có zôn tiền nung như lò tuy nen nung gạch ngói hay lò thanh lăn
nung gạch ốp lát sẽ giảm được HF bay ra ngoài.
- Theo số liệu các nước châu Âu thì 40 đến 60% lượng Fluor của nguyên liệu sẽ thoát ra khói lò.
Điều đó có nghĩa là vẫn còn một sổ 60 đến 40% Fluor không thể thoát ra được mà vẫn nằm trong sản
phẩm. Fluor đó có thể nằm dưới dạng Fluosilicat hoặc trong pha lỏng liên kết.
- Lò nung tuy nen với tốc độ đẩy xe goòng khoảng trên 30 phút cho một xe, gạch ốp lát nung
nhanh trong lò thanh lăn nên hạn chế rất nhiều lượng HF phát thải. Xem hình 13.4 để thấy lượng HF
phát thải phụ thuộc vào nhiệt độ nung và thời gian nung.
650
1 --------------- Nhiệt độ
Nhiệt độ (°C)
2 __________ Lượng HF phát thải
Hình 13.4. Lượng HF phát thải 2 phụ thuộc vào nhiệt độ 1 và thời gian nung.
- Lò nung gián đoạn không có hiện tượng tuần hoàn khí HF nên cuối chu kỳ nung toàn bộ khí
HF thải ra ngoài theo khói lò. Đây chính là nguyên nhân vì sao môi trường quanh lò nung gốm tại Vĩnh
Long, An Giang và các khu lò nung tương tự tại đồng bằng sông Cửu Long bị ô nhiễm HF.
651
13.3.3. Lò quay nung cllnke xl mắng
Hầu hết các lò quay hiện tại của nước ta đều theo phương pháp khô với công nghệ mới, lượng
nhiên liệu than tiêu tốn thấp. Tuy nhiên tổng lượng CƠ2 thải ra từ các lò nung này rất cao. Theo tổng kết
của các chuyên gia ưên thế giới thì lượng khí CO2 thài ra trung bình băng 0,87 kg/kg clinke, trong đó
60% từ đá vôi và 40% từ nhiên liệu. Nếu lò có công suất 4000 tấn clinke/ ngày thì lượng CO2 thải ra từ
lò này ưên 3200 tấn/ngày và làm việc 320 ngày trong năm sỗ thải ra trên 1 triệu tấn CO2. Theo Global
Cement Report, công suất thiết kế của thế giới tính đến hết năm 2012 là 5245 triệu tấn xi măng trong đó
Trung Quốc chiếm 2950 triệu tấn. Nhưng sản xuất thế giới chi đạt trung binh 73% công suất nên chi đạt
3831 triệu tấn trên toàn cầu. Nhu cầu của Trung Quốc tăng từ 1850 triệu tấn năm 2011 lên 2160 triệu
tấn vào năm 2012. Trong khi đó các nước công nghiệp phát triển đã giảm sản xuất cũng như tiêu dùng
trong nước do họ đã ký Nghị định thư Kyoto về giảm phát CO2. Ví dụ Nhật đã giảm sản xuất từ 58,6
triệu tấn vào năm 2006 xuống còn 43 triệu tấn xi măng vào năm 2012.
Các lò nung đều trang bị hệ lọc bụi tiên tiến và loại trừ được đến trên 99% bụi. Tuy nhiên tổng
lượng bụi thải ra hàng ngày bời khói lò còn lớn do công suất lò tương đối cao. Khói lò còn chứa khí
so2, NOX... với hàm lượng cho phép nhưng tổng lượng lại rất lớn thải ra làm ô nhiễm môi trường. Theo
tài liệu của Liên Hiệp quốc về ô nhiễm của các lò nung clinke xi măng thì khói lò còn chứa một số kim
loại nặng mặc dù hàm lượng rất nhỏ nhưng cũng có thể gây ô nhiễm môi trường.
Vì những nguyên nhân trên mà lò nung clinke cần nghiên cứu giảm tiêu hao nhiên liệu đốt trong
lò. Mới đây lò quay lớn nhất thế giới có công suất đến 12.000 tấn/ngày đã được xây dựng tại Mỹ với
tiêu tốn < 700 kcal/kg clinke. Việc giảm hơn 30.000 kcal/tấn clinke có ý nghĩa rất lớn về hiệu ứng nhà
kính cũng như môi trường độc hại. Rõ ràng rằng việc xây lò công suất lớn có nhiều lợi ích về kinh tế
cũng như về môi trường.
Việc hạ nhiệt độ nung clinke từ 1450°C xuống vài chục độ đến 100°C cũng có ý nghĩa lớn đối
với việc giảm tiêu hao nhiên liệu tức giảm phát thải khí CO2 gây hiệu ứng nhà kính. Để giảm nhiệt độ
nung clinke có thể dùng một số phụ gia thiên nhiên như CaF2, thạch cao, photphat... hay phế liệu như
tro bay, phosphogyp... đã từng được nghiên cứu và ứng dụng cho kết quả tốt.
Mới đây một vài đơn vị đã hoàn hành tốt việc nung nhanh và tạo ra clinke có dung trọng thấp
1,2 -ỉ-1,5 kg/lít so với trên 1,35 kg/lít của các lò nung khác với chất lượng xi măng đảm bảo tăng cường
độ sớm cũng như muộn. Nhờ vậy mà năng suất lò tăng lên trung binh 5% và đương nhiên nạp liệu đinh
tháp cyclone cũng phải tăng 5%. Do đó nhiệt độ khói lò thoát ra tại đinh tháp cyclone đã hạ thấp đi chi
còn < 33O°C, tiêu hao nhiên liệu giảm 20 đến 30 kcal/kg clinke và năng lượng nghiền xi măng giảm đi,
năng suất lò tăng lên. Ngoài ra tuổi thọ của gạch chịu lửa lót lò kéo dài, giảm thời gian ngừng lò để xây
lại lớp lót cũng cỏ nghĩa là giảm tiêu tốn nhiên liệu cho sản xuất clinke. Đây cũng là biện pháp tốt đem
lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp và giảm tiêu tốn nhiên liệu nung, năng lượng nghiền xi măng tức
giảm khí gây hiệu ứng nhà kính CO2 cho xã hội.
Nếu tỉnh giảm trung bình 25 kcal/kg cỉinke thì với 9000 tấn clinke/ngày đã tiết kiệm được khoảng
35 tấn than/ngày hay khoảng 70 triệu đồng/ngày hoặc 38000 m3 khí co2/ngày hay 12.160.000 m3
CƠ2/năm (320 ngày làm việc) .
Việc nung nhanh còn có ảnh hưởng đến hàm lượng kim loại nặng thoát ra ngoài. Nhiều nghiên
cứu đã chi ra rằng nếu nung nhanh thì kim loại nặng như V, Ni, Cr, Se, Pb, Co, Sb, As, Cd có vẻ trơ hơn
nên nằm trong clinke nhiều hơn mà giảm phát thải ra không khí.
, 7 . ỉ ............. .............
Vân đê kim loại nặng trong công nghiệp xi măng đã được Hiệp hội xi măng Mỹ đo hàng trăm
đơn vị sản xuất clinke vào năm 1992. Kết quả tỷ lệ giữa kim loại nặng trong clikne và bụi (fines) thu
được tại lọc tĩnh điện cho trong bảng 13.1.
Qua bảng này ta thấy các kim loại dễ bay hơi tụ tập nhiều ở lọc bụi còn các kim loại nặng khác
chủ yếu xuất phát từ vật liệu chịu lửa lót trong lò.
652
Bảng 13.1. Tỷ lệ trung bình hàm lượng klm loại nặng trong cllnke và bụl (fines)
thu được tại lọc bụi tĩnh điện
Lượng kim loại nặng Cr, Cu, Ni, Pb, V, Zn trong xi măng dao động từ 20 đến 300 mg/kg. Trong
đó chỉ có chì Pb thuộc loại dễ bay hơi nên không phải là dạng chủ yếu trong xi măng. Hàm lượng kim
loại cỏ mặt trong clinke phụ thuộc vào nguyên liệu ban đầu và cả điều kiện nung. Hầu hết quá trình
nung đều thực hiện trong điều kiện oxy hóa song nếu trong điều kiện khử nhẹ thì hàm lượng kim loại
trong clinke sẽ tăng lên.
Đẻ giảm tiêu hao nhiên liệu nung clinke cũng có thể áp dụng phụ gia tăng cường cháy than bụi
đưa vào lò quay. Nhờ vậy mà nhiên liệu được cháy nhanh hơn, tăng nhiệt độ lò nhanh hơn khiến việc
tạo khoáng trong clinke nhanh hơn. Nhờ vậy lượng nhiên liệu tiêu tốn giảm khoảng 2 kg than cho 1 tấn
clinke. Nếu tính cho sản lượng 1 triệu tấn clinke/ năm thì có nghĩa là tiết kiệm được 2.000 tấn than ứng
với khoảng 2.200.000 m3 khí CƠ2 phát thài ra không khí.
Đẻ giảm khí NOX từ khói lò cần áp dụng chế độ đốt nhiều bậc hay phun thêm nhiên liệu tại nơi
bột liệu vào đầu nguội của lò quay. Tại đây nhiên liệu sẽ không cháy hoàn toàn mà có rất nhiều khí co,
khí này sỗ khử NOX thành N2 và CO2. Trên thế giới có rất nhiều lò quay đã đốt phế thải tại đây. Việc đốt
phế thải vừa có tác dụng loại trừ NOX vừa tiết kiệm một phần nhiên liệu lại góp phần giảm thiểu lượng
rác thải cho xã hội.
653
Chúng ta biết Công ty xi măng Lafarge rất nồi tiếng và nghiêm ngặt về môi trường. Tuy nhiên họ
nghiên cứu rất kỹ vấn đề bụi của nhà máy xi măng phát tán dưới dang bụi rắn và lỏng với kích thước
0,005 đến 100 Ịim như minh họa ưong hình 13.5.
Khi đo không khí xung quanh từ 2003 nồng độ bụi dao động 18-21 pg/m3. Các hạt bụi này
thường > 2,5 |im và có cả những hạt > 10 pm. Tuy nhiên cũng có những nhà máy hạt bụi chủ yếu <10 Ịim.
Nếu nghiên cứu kỹ thì hạt có kích thước 10 pm là tập hợp của nhiều hạt 2,5 pm. Nồng độ các hạt này
tùy theo hướng giỏ đo được khác nhau trong vùng có nhà máy.
Để giảm lượng khí CƠ2 ứng với 1 tấn xi măng người ta còn nghĩ đến tăng chất lượng clinke.
Điều đó có nghĩa là xi măng sản xuất ra phải cỏ ít clinke nhưng có thể tăng phụ gia, ví dụ đá vôi chẳng
hạn lên đến 25 - 30% mà vẫn bảo đảm chất lượng xi măng và công trình.
Cũng với ý nghĩa đó nếu 1 m3 bê tông có cùng cường độ nhưng sử dụng lượng xi măng ít hom do
cho thêm phụ gia vào bê tông.
Bụi nhà máy xi măng không những gây độc hại cho hô hấp của con người mà còn làm tăng thêm
hiệu ứng nhà kính. Các nhà máy xi măng đều lắp lọc bụi điện và đã loại trừ được trên 99% bụi, lượng
còn lại vẫn phát tán ra môi trường. Theo dõi một nhà máy xi măng ở một nước với khoảng cách khác
nhau, hướng gió khác nhau người ta thấy vẫn còn khá nhiều bụi rơi trên mặt đất. Thành phần hỏa học
của chúng trung bình như sau:
654
*so2 do:
- Nhiên liệu chứa s.
- Phối liệu có chứa muối sunphat.
*HC1
- Clo có lẫn trong sôđa trong phối liệu.
- NaCl có trong phối liệu của vài loại thủy tinh.
*HF
- Có trong một vài nguyên liệu ban đầu ưong phối liệu.
- Một vài trường hợp dùng fluorua để giảm nhiệt độ nấu thủy tinh ví dụ trong sản xuất sợi
thủy tinh.
*Kim loại nặng là V, Ni, Cr, Se, Pb, Co, Sb, As, Cd
- Do tạp chất trong nguyên liệu ban đầu hoặc do mảnh thủy tinh đựng các chất đưa vào phối liệu.
- Dùng trong sản xuất vài loại thủy tinh chứa Pb.
- Dùng như là chất khử bọt khi nấu thủy tinh.
* co2 là chất dễ nhận biết do cháy nhiên liệu và phân hủy phối liệu.
* CO là khí sinh ra do cháy không hoàn toàn nhiên liệu và do quy trình duy tri môi trường khử
khi dùng muối sunphat natri ưong phối liệu.
* H2SO4 hình thành do dùng phối liệu sunphat hoặc do nhiên liệu chứa nhiều lưu huỳnh s.
Bảng 13.2. Diễn biến phắt thải trong không khí tính theo tắn các năm của công nghiệp
thủy tinh Pháp (Fédératlon du verre)
Bảng 13.3. Phát thải trong không khí năm 2004 tính theo kg/năm (source IREP)
655
Lượng kim loại nặng từ công nghiệp thủy tinh xâm nhập nguồn nước vào năm 2004 cho trong
bảng 13.4.
Bảng 13.4. Phát thải vào nguồn nưởc năm 2004 tính theo kg/năm của Pháp (nguồn IREP)
Lượng khí NOx phát thải tùy thuộc vào loại lò nấu thủy tinh cho ưong bảng 13.5:
Bảng 13.5. Giá tri giới hạn phát thải khí NOX cho lò thủy tinh
656
Biện pháp r. Lượng NOx phát thải 1000 mg/Nm3 2, 9 g/tấn thủy tinh.
Biện pháp 1+2
.
* Lượng NOX phát thải 500 mg/Nm3 1,45 g/tấn thủy tinh
13.4.3.3. Giảm thiểu so2
Phun vôi cũng có thể loại trừ được hai khí này ờ nhiệt độ thấp. Nước Áo quy định lượng phát thải
HCl: 30 mg/Nm3, HF: 5 mg/Nm3.
13.4.3.5. Kìm loại nặng
Nước Áo quy định hàm lượng kim loại nặng như sau:
Cd: 0,1 mg/Nm3, As: 0,1 mg/Nm3; nếu là thủy tinh chứa chì thì As: 0,5 mg/Nm3.
Tồng As, Cd, Co, Ni, Se: 1 mg/Nm3; tổng Sb, Pb, Cr, Cu, Mn: 5 mg/Nm3.
657
PHỤ LỤC
Phụ lục 1. Độ chịu lửa (°C) tương ứng với côn ISO, SEGER, ORTON và H.p.c
Theo TCVN 6530 - 4: 1999 và ISO 1146:1988 (E)
Nhiệt Côn Côn Nhiệt Côn Côn Côn Côn Nhiệt Côn Côn Côn Côn
độ °C Seger H.p.c độ °C ISO Seger Orton H.p.c độ °C ISO Seger Orton H.p.c
658
Phụ lục 2. Công thức của côn seger và màu sắc trong lửa
659
Phụ lục 3. Nhiệt độ gục của côn (dạng tiêu chuẩn)
Côn phần mười (Decimal theo kiều ISO)
660
Côn Orton
Côn HARRISSON
số Tốc độ nâng SỔ + * -A
ry-ĩ Ả
Tốc độ nảng SỐ của Toe độ nâng SỐ Tốc độ nảng
cùa nhiệt côn nhiệt của nhiệt của nhiệt
côn 4 °c/phút 4 °c/phút côn 4 °c/phút côn 4 °c/phút
022 600 011 880 1 1100 12 1350
021 650 010 900 2 1120 13 1380
020 670 09 920 3 1140 14 1410
019 690 08 940 4 1160 15 1435
018 710 07
* 960 5 1180 16 1460
017 730 06 980 6” 1200 17 1480
016 750 05 1000 7 1230 18 1500
015 790 04 1020 8*** 1250 19 1520
014 815 03 1040 9 1280 20 1530
013 835 02 1060 10 1300
012 855 01 1080 11 1320
* Còn có côn 07a nằm giữa côn số 07 và 06
** Còn có côn 6a nằm giữa côn sổ 6 và 7
*** Còn có côn nằm giữa côn số 8 và 9
661
Nhiệt độ gục cùa côn đo nhiệt độ có kích thước nhỏ
SỔ của Toe đọ nang SỐ của Toe đọ nang SỐ Toe độ nang Toe độ nang
So cùa
nhiệt A nhiệt cùa nhiệt * nhiệt
côn 4°c/phút con con
4°c/phút côn 4°c/phút 4°c/phút
26 1580 31 1690 35 1770 39 1880
27 1610 32 1710 36 1790 40 1920
28 1630 33 1730 37 1825 41 1960
29 1650 34 1750 38 1850 42 2000
30 1670
* Đổi với các côn phần mười và côn Rhône-Poulenc kích thước nhỏ, nhiệt độ gục của côn số 26
(1577) đạt được sau một giờ. Tốc độ nâng nhiệt từ 180 đến 300°C/h, khoảng cách gục của 2 côn tương
ưng tư 4 đến 7 phút.
662
Phụ lục 4. Chuyển đổi nhiệt độ òc sang nhiệt độ °F và ngược lại
663
Phụ lục 5. Chuyển đổi hệ đơn vị hệ Anh Mỹ sang đon vị hệ mét
Diện tích
1 mm2 = 0,00155 in2 = 0,00001076 ft2
1 cm2 = 0,155 in2 = 0,001076 ft2 1 in2 = 645,2 mm2 = 6,452 cm2
1 m2 = 1550 in2 = 10,76 ft2 1 ft2 = 92 903 mm2 = 0,0929 m2
Thể tích 1 in3 = 16,39 cm3 = 0,016391
1 cm3 (cc) = 0,0610 in3 1 ft3 = 1728 in3 = 7,481 US gal
1 1 (dm3) = 61,02 in3 = 0,03531 ft3 = 6,229 Br gal = 28 320 cm3
664
Hệ mét sang hệ Anh Mỹ Hệ Anh Mỹ sang hệ mét
Mật độ
1 g/cm3= 1000 kg/m3 = 0,03613 lb/in3 1 lb/in3 = 27,68 g/cm3 = 27 680 kg/m3
= 1 kg/1 = 62,43 lb/ft3 = 8,345 Ib/ưs gal 1 lb/ft3 = 0,0160 g/cm3 =16,02 kg/m3
= 0,0160 kg/1
Nhiệt
= 0,000948 Btu
1 cal/g = 1,80 Btu/lb =4187 J/kg 1 Btu/lb = 0,5556 cal/g = 2326 J/kg
Độ dẫn nhiệt
= 418,7 W/m°K
Tốc độ
1 m/s =39,37 in/ see = 3,281 ft/ see 1 ft/sec = 304,8 mm/s
= 3600 km/h = 196,9 ft/ min 1 ft/min = 5,08 mm/s = 0,0183 km/h
665
Phụ lục 6. Tên gọi và ký hiệu của bội số
666
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Walter Duda Cement — data- book international Process Engineering in Cement Industry
Macdonal & Evans London 1977, 1988.
2. B. Kohlhaas and 16 author (Fourth edition, originated Otto Labahn) Cement Engineers' Handbook,
Bauverlag GmbH Wiesbaden and Berlin, 2002.
6. A.M. Bareyboym; T.M. Glyeva. D.B. Ginzburg... Teplovưe rastsetư petsey i susilok silicatnoi
promưslennosti. Stroiizdat, Moskva, 1964.
10. K.A. Nokhratian. Suska i obzig Vpromưs. keramiky. GSI Moskva, 1962.
11. V.M. Budov, P.D. Samikov. Proizvodstvo stroitelnovo stekla istekloizdelyi, Vưsayia Skola Moskva,
1978.
12. Morten Boberg Larsen. Alternative Fuel in Cement Production, Book Partner, Copenhagen,
Denmark, 2007.
13. GTZ - Holcim. Directives sur le Co-Processing des Dechets dans la Production deCiment; Le
Partenariat Public - Prive GTZ - Holcim, 2006.
14. Palle Grydgaard. Design of the most productive cement plant with the lower consumption of
energy and natural resources observing the environmental requirements 22nt Technical
Symposium & Exhibition AFCM 2010, Đà Năng, Việt Nam.
15. H.J. Nielsen LVT. Inproved productivity of existing cement plant for small ivestments 22nt
Technical Symposium & Exhibition AFCM 2010, Đà Năng, Việt Nam.
16. p. H. Nielsen Integrated use of alternative fuel and emission control on cement plant —
guaranteed solutions. 22nt Technical Symposium & Exhibition AFCM 2010, Đà Năng, Việt Nam.
667
17. TS. Uwe Maas. Bép đốt POLFLAME và Prepol SC: Thiết bị và dịch vụ của Polysius để sử dụng
nhiên liệu thay thế và nhiên liệu khỏ đốt. Intrenational cement coference VABM - Hạ Long,
Việt Nam, 2010.
18. Michael A. Caldarone. Effect of Use of Limestone on Various Properties of Portland Cement.
Portland Cement Association, 2006.
19. 17. T. Matschei, R.Skapa... Distribution of sulfate in hydrated portland cement paste, CH-8600
Duebendort, Swizerland.
20. Kent Thomsen and Peter Rosholm Reducing NOx emission, BARCELONA, November 1993.
21. E. Jons and s. Hundebol. Prediction of the heat of reaction of cement raw meal ZKG
INTERNATIONAL, September, 1995.
22. A.H. Mortensen, E.A. Hintsteiner and p. Rosholm. Converting two kiln lines to I00°/o high sulphur
petroleum coke firing. ZKG INTERNATIONAL, February and April, 1998.
23. Richard Cunningham. Swirlax burner conversion leads to 100% petroleum coke firing World
Cement April, 1998.
24. Palle Grydgaard. Kiln Conversions - Get out of the wet, International Cement Review March and
April, 1998.
25. K. Thomsen, L.s. Jesen, F.L.Smidth. FLS-Fuller ILC-LowNOx calciner commissioning and
operation at Lone Star St. Cruz in California
*, ZKG INTERNATIONAL, October, 1998.
26. Soren Hundebol and Peter Rosholm. //ZgA Efficiency Calciner. Describing the development of the
new FLS SLC-D calciner for the combustion of anthracite and other low reactive combustibles
WORLD CEMENT, October, 1998.
27. Bo Bentsen. The SF Cross-BarTM Cooler - a new clinker grate cooler with an innovative air
*,
distribution ZKG INTERNATIONAL, November, 1999.
28. J. Mark brogan. The unique features of the SF Cross -Bar cooler, International Cement Review
August, 2001.
29. Hans Erik Jannerup. New DUOFLEX kiln burner, Cemento Hormigon, February, 2002.
30. Carmelo Daidone, Hubert Wolfschaffiier, Hans Erik Jannerup. Discuss the recent implementation
ofa solid waste fuel project at the Holcim Lorca plant in Spain. WORLD CEMENT March 2003.
31. Eiji Horie, Ceramic fibre insulation, theory and pratice, The energy conservation center, Tokyo
1991.
32. u.v. Bongers, J. Hartenstein, R. Prange, J. Stradtmann, Basic refractories for the cement kiln,
Report 2/94E, 11th “Industrial minerals” International Congress Berlin Germany, 1994.
33. I.s. Kainarskyi, E.v. Degtjareva, Osnovnưe ogneuporư, Metallurgiya, Moskva, 1974.
34. p.v. Levtshenko. Rastschetưpestshey i susil silicatnoyi promưshlennosti. Vưshaya shkola, Moskva,
1968.
668
36. w. Trinks, M.H. Mawhinney. Industrial Furnaces, John Wiley & Sons, 2004.
37. Jacob Fraden. Handbook of modem sensors, Springer -Verlag New York, 2004.
38. Nguyễn Đăng Hùng. Kỹ thuật sản xuất Vật liệu chịu lửa (2 tập), Nhà xuất bản Giáo dục,
1966 - 1967.
39. Nguyễn Đăng Hùng. Công nghệ sản xuất Vật liệu chịu lửa, Nhà xuất bản Bách Khoa Hà Nội, 2006.
40. Nguyễn Đăng Hùng. Công nghệ sản xuất Vật liệu chịu lửa, Nhà xuất bản Bách Khoa Hà Nội, 2013.
41. Nguyễn Đăng Hùng, Đào Xuân Phái, Trần Thị Doan. Kỹ thuật hóa học Vật liệu chịu lửa, Tài liệu
Giáo khoa Đại học Bách Khoa Hà Nội, 1980.
42. Nguyễn Đăng Hùng. Lò silicat 3 tập, Tài liệu Giáo khoa Đại học Bách Khoa Hà Nội, 1977.
43. Nguyễn Đăng Hùng. Lò nung gốm gián đoạn cỡ lớn có phần vò lò di động, Tạp chí Gốm sứ Xây
dựng số 82/2014.
44. Nguyễn Đăng Hùng. Flor thành phần rất độc hại trong khói lò nung gốm sứ, Tạp chí Gốm sứ Xây
dựng số 82/2014.
45. Bùi Văn Chén. Kỹ thuật sàn xuất các chất kết dinh, Tài liệu Giáo khoa Đại học Bách Khoa
Hà Nội, 1977.
48. V.M. Malhotra. Role of concrete technology in reducing greenhouse gas emission. International
Symposium on Recent Advance in concrete technology and sustainability Issues - Hà Nội,
2-3/12/2009.
49. F.L.Smidth SF. Cross-Bar™ Cooler. F. L. Smidth A/S 2010.
54. Antonella Contino Qtc..Combustion in glass furmaces: recent developments and next challenges;
21 “Joumees d’etudes” Liège, 11.5.2010.
55. M.Kelly, Oycombustion: Oxygen Transport Membrane Development', Praxair Inc 24.8.2011.
56. J.J.Schep A decade of oxy-fuel glass melting in the Netherlands. Conference Institut du Verre-Gas
de France 26.8.2002,Veưe Vol 9,Nol, 2/2003.
57. T.Ferlin, J. Adams, F. Milcent. La combustion gaz naturel - oxygene', Gas de France.
669
59. G. Pajean. L ’elaboration du verre. Verre Vol 13 N°5 8.2007.
60. c. Philip Ross, Gabe L. Tincher. Glass melting technology: A technical and economic assessment,
GMIC Agust 2004, ♦
61. Air Liquide France Oxycombustion, une solution innovante pour reduire rimpact environnemental
des industries, , Septembre 2008.
62. Juan Noguera. Gamissage de wagons pour fours alimentés au coke de petrol, Forgestal.
63. Juan Noguera. Comportement thermique des wagons defour tunnel en cycles de cuisson, Forgestal.
65. Alpina industriale. Presentation et comparaison des fours tunnels de Alpina idustrial.
68. F. Ricordel et c. Noguera. Industries du verre, Direction de la Prevention et des Risques, Ministere
de l’Ecologie du Development et de l’Amenagenent durables, France.
70. D.McDonald and A, Zadkaka. Control ofpulverized coal Oxy-Combustion systems, B&w Ohio
USA, 2007.
72. F.x. Etienne, M. Magaud. La capture et le stockage du CO2, avenir du charbon américain,
Rapport d’Ambassade de France à Washington 1/2010.
73. CƠ2 capture technologies- Oxy combustion with CO2 capture. Global CCS Institute, January
2012.
75. H.Kobayashi, A. Tasca. Oxy-Fuel fied glass melting technology - Experience, Evolution and
Expectation, Praxair Technology, 2003.
76. J.Y. Iatrides, I. Hibon. Fusion du verre à Voxygene. Etat des lieux du développement et des
nouveautés OS-ALGLASS, Verre - Vol 6, n°4, Sept 2000.
670
85. Applica Sciences FPMs. Le verre - son etat, son histoire.
86. ADEME Agence de l’Environnement et de la Maitrise de l’Energie. Instalation dun four vernier
à oxycombustion avec recuperation de chaleur des fumees, 2008.
90. w. Trinks « Les fours industriels » J.Bemot dich. Dunod, Paris, 1957.
91. Bell Neya. These ((Faisabiliti de panaux de particule à base de dechet agricoles, ưniversité Henri
Poincare Nency I; 2002.
92. Dany Blackbum. Le devlopement d’un systeme construed/de plancher pré/abriqué pour Vhabitat
urbain de Hanoi» Universite laval, Quebec, 2006.
96. J.p. Saxena. The rotary Cement Kiln, Tech Book International, New Delhi, 2009.
98. J.Noguera. Comportement thermique des wagons de four tunnel en cycles reels de cuisson.
99. Systèmes et materiaux refractairespour Industrie ceramique. Ceramique de Liz.
101. Harald Justnes. Reduced COr-emission. Making cement with less clinker content. Sintep 2007.
103. Commission européenne. Document de réíérence sur les meilleures techniques disponibles,
8.2007. Frabrication des ceramiques.
104. Société francaise de céramique (6/2012). Les emission de Fluor dans I'Industrie céramique.
105. Germain Gaston La pollution atmospherique; Bureau d’etude des nuisances aeriennes 22/2/2006.
106. M.N. Khelifa etc. Les cimenterỉes et renvironment cas de cimenterie de Ain-Touta,SBEÌDCO 1
International Conference ENSET Oran, Algerie 12/8/2009.
107. Klaartje de Weerdt etc. Fly ash-limestone ternary composite cement: synergetic effect at 28 days.
108. Nguyễn Trọng Quế. Đo lường các đại lượng điện và không điện, Đại học Bách Khoa Hà Nội, 1996.
109. Harald Justnes Making cement with less clinker content. Sintef reporter reduced CƠ2 emissions.
110. Kamal Kumar, Dinesh Satija. Maximising existing potential; International Cement Review
December 2013.
671
111. B. Kohlhaas and 16 author (Fourth edition, originated Otto Labahn). Cement Engineers’ Handbook
Bauverlag GmbH Wiesbaden and Berlin, 2002.
112. Morten Boberg Larsen. Alternative Fuel in Cement Production. Book Partner, Copenhagen,
Denmark, 2007.
113. Palle Grydgaard. Design of the most productive cement plant with the lower consumption of
energy and natural resources observing the environmental requirements. 22nt Technical
Symposium & Exhibition AFCM 2010, Dà Năng Việt Nam.
114. Holcim. Directives sur le Co-Processing des dechets dans la production de ciment, HTZ Holcim,
2006.
115. Đặng Kim Chi. Hóa học môi trường, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, 1999.
116. Thomas de Maesschalck “China and India explore icy methane hydrate reserves” 17/12/2007 Der
Spiegel.
117. Wikipedia. Đả phiến dầu, Trữ lượng đá phiến dầu, Chiết tách dầu đá phiến, Khí đá phiến sét liệu
có lấn át dầu mỏ? Phát hiện mỏ đá phiến sét lớn nhất thế giới tại Nga.
119. F. Ricordel et c. Noguera. Industries du verre, Direction de la Prevention des Pollutions et des
Risques, France.
120. L.Kacimi, A Ghoma, z Derriche. Obtention d’un clinke portlant consommant peu d’energie.
Sciences &Technologie A N°25, Juin 2007.
121. Emannuel Moudilou. Cinetiques et mecanismes de relargase des metaux lourds presents en traces
dans les matrices cimentaires, Thèse Docteur 18/12/2000, Universite d’Orlean France.
672
CHI MỤC
Dụng cụ đo áp suất 320
Atomisation 55, 59 Dụng cụ đo nhiệt độ 310
Dụng cụ đo lưu lượng 174
Dụng cụ đo mực vật liệu 326
Buồng đốt 21,46, 61, 67, 70, 81
Buồng lò 390,393,394,455
Bê tông chịu lửa 285, 295 Đáy lò (lò thủy tinh) 455, 467, 488, 490,
Bức xạ nhiệt 209, 217,447, 644 502, 504, 509
Bông gốm 294, 304, 307,400 Định luật Stefan - Boltzzman 211
Buồng hồi nhiệt gián đoạn (Regenerator) Định luật Kirchhoff 212
271,277, 453,474 Định luật Lambert hay định luật Cosinus 212
Buồng hồi nhiệt liên tục (Recuperator) 261, Độ đen 211,212,216,230
267, 455 Độ chịu lửa 285,287,291,297,658
Buồng đốt nhiên liệu rắn 46 Đốt nhiên liệu rắn, lỏng, khí 46, 53, 57, 58,
Buồng đot bán khí 47 59
Cyclone 128, 167, 326, 352, 543, 545, 615, Hiệu ứng nhà kính 224, 260, 641, 642, 644,
652 645
673
Khíhóathan 114,115,116,120,121,130 Lò nồi 453,454,457,458,459, 460,461
Không khí 1 566,571,612,619 Lò bể 462, 463, 464, 466, 469, 476, 487,
Không khí 2 542,557, 563, 566, 571 499, 504
Không khí nóng 329, 342, 376, 384, 410, Lò nấu thủy tinh nổi 479, 482
418, 551,637, 646
Lò đứng nung vôi 512,520,522
Không khí dư 53, 60, 67, 83, 101, 374, 409,
Lò quay nung vôi 520,521,522,523
438, 462,485, 557, 591, 607, 620, 633
Lò đứng nung clinke xi măng 523,525,651
Lò quay nung clinke xi măng 529,580,652
Lò sấy gián đoạn 362
Lọc bụi điện 128
Lò sấy nghiền 343,352
Lò sấy tuy nen 364, 379 M
Moving hood intermittent kiln 405
Lò sấy băng 372
Lò sấy xích 343,369,371 Mesosphere 641
Lò truyền thống 3 87 N
Lò phòng gián đoạn 392,393,402,405 Nhiệt độ biến dạng dưới tải ưọng 285,
674
Regenerator 290, 453, 511, 620 Vật liệu chịu lừa 285, 288, 292, 293, 341,
355,596
Recuperator 455,471,502,511
Vòi đốt nhiên liệu lỏng 53, 54, 59
Vòi đốt nhiên liệu khí 58, 61, 587
Siemens 168, 320, 322, 453
Schmidt 242
Xi than 21,47, 81,127, 394,414,458, 513
u
ứng dụng đo lưu lượng khí 174
ứng suất 307, 331, 334, 338, 341,433, 537
675
LÒ NẤU THỦY TINH VÀ FRIT
(LÒ SILICAT)
In 700 cuốn khổ (19 X 27) em tại Công ty cổ phần in An Tín, số 18/259 Giải Phóng, Phương Mai,
Đống Đa, Hà Nội.
Số đăng ký KHXB: 546 - 2014/CXB/07 - 07/BKHN. ISBN: 978-604-911-990-3.
Số QĐXB: 168/QĐ - ĐHBK - BKHN ngày 14/11/2014.
In xong và nộp lưu chiểu quý rv năm 2014.