You are on page 1of 5

Đề bài số 4

A vào cửa hàng quần áo của chị B. Sau khi chọn và thử một chiếc quần
jean nhưng không vừa, A đề nghị chị B lấy chiếc quần cỡ to hơn. Trong khi chị
B đang lấy quần, thấy trên võng nơi chị B vừa nằm có một chiếc ví, A lại gần và
lén bỏ chiếc ví đó vào trong túi xách của mình rồi bỏ đi. Sau đó A bị phát hiện
và bị bắt giữ. Trong chiếc ví của chị B có 15 triệu đồng.
Hỏi:
1. Hãy định tội danh và định khung hình phạt cho A. (2 điểm)
2. Giả sử sau khi A bỏ ví vào túi xách của mình, chưa kịp ra khỏi cửa
hàng của chị B thì bị phát hiện. Hãy xác định giai đoạn thực hiện tội phạm của
A? (2 điểm)
3. Giả sử khi A đang cầm lấy chiếc ví thì chị B bất thình lình quay ra nhìn
thấy nói to: “Này, cô định làm gì đấy”, A nhanh chóng cầm chiếc ví và bỏ chạy
thì tội danh của A có thay đổi không? Vì sao? (3 điểm)
Giả sử, A đủ 16 tuổi trở lên và khi thực hiện hành vi phạm tội không mắc bệnh
tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi của mình.
1. Hãy định tội danh và định khung hình phạt cho A
A phạm tội trộm cắp tài sản được qui định tại Điều 138 BLHS.
Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút, bí mật trốn tránh sự phát hiện của người
quản lý tài sản để chiếm đoạt tài sản. Tội này có những dấu hiệu pháp lý sau:
Chủ thể của tội trộm cắp tài sản là chủ thể bình thường nên chỉ đòi hỏi có năng
lực TNHS và đạt độ tuổi luật định. Vì vậy, A thỏa mãn điều kiện về chủ thể.
Về mặt khách quan, dấu hiệu của tội trộm cắp tài sản là dấu hiệu hành vi chiếm
đoạt tài sản cùng với hai dấu hiệu khác thể hiện tính chất của hành vi chiếm đoạt
và tính chất của đối tượng bị chiếm đoạt – Dấu hiệu lén lút và dấu hiệu tài sản
đang có chủ.
A thấy trên võng nơi chị B vừa nằm có một chiếc ví, A lại gần và “lén” bỏ chiếc
ví đó vào trong túi xách của mình. Hành vi đó cho thấy hành vi chiếm đoạt của
A là lén lút và ý thức chủ quan của người thực hiện là A cũng là lén lút.
Có thể thấy rằng chiếc ví ở trên chiếc võng mà chị B nằm nên chiếc ví đang nằm
trong sự chiếm hữu của chị B.
Về mặt chủ quan, lỗi của người phạm tội trộm cắp tài sản là lỗi cố ý. Mục đích
của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản. Người phạm tội khi
thực hiện hành vi phạm tội cũng biết tài sản chiếm đoạt có đặc điểm đang có
chủ. A dựa vào vị trí và cách để của chiếc ví hoàn toàn có thể biết chiếc ví đang
có chủ nhưng A vẫn thực hiện hành vi đó.
Chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản khi tài sản bị chiếm
đoạt có giá trị từ hai triệu đồng trở lên. Trường hợp giá trị tài sản bị chiếm đoạt
dưới 2 triệu đồng thì phải thỏa mãn một trong các yếu tố sau: Gây hậu quả
nghiêm trọng; Đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt; Đã bị kết án về
tội chiếm đoạt chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Do trong chiếc ví có 15
triệu đồng (lớn hơn 2 triệu đồng) nên A sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì tội
này.
Xét thấy hành vi phạm tội của A không có tình tiết tăng nặng. Hành vi của A
thuộc CTTP cơ bản. Do vậy, A phạm tội thuộc khoản 1 Điều 138 với khung
hình phạt là phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến
3 năm.
Nếu trong tình huống trên A từ đủ 14 tuỏi đến dưới 16 tuổi thì sẽ không phải
chịu trách nhiệm hình sự vì theo qui định tài Điều 12 BLHS thì người từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm
trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng trong khi đó khoản 1 Điều
136 chỉ là tội phạm nghiêm trọng (vì có mức cao nhất của khung hình phạt là
năm năm tù).
2. Giả sử sau khi A bỏ ví vào túi xách của mình, chưa kịp ra khỏi cửa
hàng của chị B thì bị phát hiện. Hãy xác định giai đoạn thực hiện tội
phạm của A?
Giai đoạn thực hiện tội phạm của A trong trường hợp này là tội phạm hoàn
thành. Tội phạm hoàn thành là trường hợp hành vi phạm tội đã thỏa mãn hết
các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm.
Dấu hiệu chiếm đoạt trong CTTP tội trộm cắp tài sản được thực tiễn xét xử hiểu
là chiếm đoạt được. Với cách hiểu như vậy, tội trộm cắp tài sản chỉ coi là hoàn
thành khi người phạm tội chiếm đoạt được tài sản. Để đánh giá người phạm tội
đã chiếm đoạt được hay chưa, đã làm chủ được tài sản chưa phải giữa vào đặc
điểm, vị trí tài sản bị chiếm đoạt. Thực tiễn xét xử đã chấp nhận hướng giải
quyết cụ thể về những trường hợp chiếm đoạt được ở tội trộm cắp tài sản như
sau:
- Nếu vật chiếm đoạt nhỏ gọn thì coi là đã chiếm đoạt được khi người phạm
tội đã giấu được tài sản trong người;
- Nếu vật chiếm đoạt không thuộc loại nói trên thì coi chiếm đoạt được khi
đã mang được tài sản ra khỏi khu vực bảo quản;
- Nếu vật chiếm đoạt là tài sản để ở nơi không hình thành khu vực bảo quản
riêng thì coi đã chiếm đoạt được khi đã dịch chuyển tài sản khỏi vị trí ban
đầu.
Trong trường hợp này, nơi để chiếc ví của chị B là trên cái võng. Như vậy, chiếc
ví thuộc trường hợp vật chiếm đoạt là tài sản ở nơi không hình thành khu vực
bảo quản riêng. Mà A đã lấy chiếc ví bỏ vào túi xách của mình tức là đã dịch
chuyển tài sản khỏi vị trí ban đầu nên A được coi là đã chiếm đoạt được tài sản.
Vậy giai đoạn thực hiện tội phạm của A thuộc trường hợp tội phạm hoàn thành.
3. Giả sử khi A đang cầm lấy chiếc ví thì chị B bất thình lình quay ra
nhìn thấy nói to: “Này, cô định làm gì đấy”, A nhanh chóng cầm
chiếc ví và bỏ chạy thì tội danh của A có thay đổi không? Vì sao?
Hành vi A lại gần cái võng rồi cầm chiếc ví chưa thể hiện dấu hiệu lén lút của
tội trộm cắp tài sản.
Do vậy, tội danh của A có thay đổi. A phạm tội cướp giật tài sản được qui định
tại Điều 136 BLHS.
Chủ thể của tội trộm cắp tài sản là chủ thể bình thường nên chỉ đòi hỏi có năng
lực TNHS và đạt độ tuổi luật định. Vì vậy, A thỏa mãn điều kiện về chủ thể.
Về mặt khách quan, hành vi của tội cướp giật tài sản là hành vi chiếm đoạt.
Hành vi chiếm đoạt ở tội này có hai dấu hiệu đặc trưng là dấu hiệu công khai và
dấu hiệu nhanh chóng.
- Dấu hiệu công khai vừa chỉ tính chất khách quan của hành vi chiếm đoạt
vừa thể hiện ý thức chủ quan của người phạm tội. Sau khi bị chị B phát
hiện, A biết hành vi chiếm đoạt của mình đã là công khai.
- Dấu hiệu nhanh chóng phản ánh thủ đoạn thực hiện hành vi chiếm đoạt
của người cướp giật tài sản. Sau khi bị chị B phát hiện A “nhanh chóng”
cầm chiếc ví và bỏ chạy. Với thủ đoạn nhanh chóng như vậy A mong
muốn chị B không kịp có điều kiện phản ứng ngăn cản việc chiếm đoạt.
Về mặt chủ quan, lỗi người phạm tội cướp giật tài sản là lỗi cố ý. Mục đích của
người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt tài sản. Mặc dù đã bị chị B phát hiện
nhưng A vẫn cố tình lấy chiếc ví rồi bỏ chạy, từ đó thể hiện mục đích của A là
mong muốn chiếm đoạt tài sản. A nhận thức được hành vi của mình xâm phạm
đến tài sản của người khác nhưng vẫn thực hiện.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập I và
tập II), Nxb. CAND, Hà Nội, 2009.
2. Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật hình sự (phần các tội
phạm), Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2007.
3. Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam, Nxb. CTQG, Hà Nội,
2000.
4. Nguyễn Ngọc Hòa, Mô hình luật hình sự Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội,
2009.
5. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam (bình luận
chuyên sâu), Tập 1 – 10, Nxb. TP. Hồ Chí Minh.
6. Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (sửa đổi năm 2009).

You might also like