You are on page 1of 9

BÁO CÁO PHÂN TÍCH NGẮN VỀ SỰ KIỆN SVB

Công ty Cổ phần FIDT


Ngày: 12/03/2023

1. Lý do của sự thất bại

1.1. Chất lượng tài sản

Trước tiên nhìn vào tài sản của SVB, ngân hàng này có tổng tài sản 212 tỷ USD, trong đó
tài sản sinh lãi chiếm 97% tổng tài sản. Hai khoản mục lớn nhất trong tài sản là chứng
khoán nợ và cho vay lần lượt chiếm tỷ trọng 55% và 35% tài sản.

Với tổng chứng khoán nợ 117 tỷ USD, trong đó đa số là các Trái phiếu chính phủ và Trái
phiếu của các tổ chức được chính phủ bảo trợ và chính quyền địa phương. Tổng số này
chiếm 99% tổng trái phiếu SVB nắm giữ, trái phiếu doanh nghiệp chỉ chiếm 1%.

Vậy trước tiên phải nhận định là tài sản của SVB là các tài sản chất lượng và có tính thanh
khoản cao.

1.2. Câu chuyện quản lý rủi ro

Thị trường nợ của Mỹ thường có lãi suất cố định/chiết khấu so mệnh giá, giá trị thị trường
có các CK nợ này sẽ tăng giảm nghịch so với lãi suất - giá trái phiếu (bond price) giảm khi
lợi suất yêu cầu của trái phiếu (bond yield) tăng và ngược lại.

FIDT Research
Phòng Nghiên cứu và Phân tích - Công ty CP FIDT
Yield của trái phiếu tăng nhanh theo đà tăng lãi suất của Fed, với các chứng khoán nợ 117
tỷ USD (55% tổng tài sản) của SVB thì nếu định giá thị trường đám trái phiếu này đã mất
giá đáng kể.

Theo bảng cân đối kết toán thì tính đến 31/12/2022, tổng giá trị của Chứng khoán nắm
giữ đến ngày đến hạn (HTM) đã giảm đáng kể và SVB đang có khoản lỗ chứng khoán chưa
hiện thực hóa là hơn 15 tỷ USD.

Vậy rõ ràng câu chuyện ở đây là đang giữ chứng khoán và giá trị thường của các chứng
khoán này đang giảm giá và với 1 portflio nắm giữ như trên thì ngân hàng cần phải có các
chiến lược quản trị rủi ro tài sản có và phòng vệ rủi ro (hedging) nếu phải bán các chứng
khoán này và lỗ giả thành lỗ thật.

Các ngân hàng thường sử dụng hoán đổi lãi suất (Interest rate swap) về lãi suất cố định
và lãi suất thả nổi, hiểu đơn giản là nếu trái phiếu giảm giá ngân hàng sẽ có lãi từ hợp
đồng hoán đổi để bù đắp.

FIDT Research
Phòng Nghiên cứu và Phân tích - Công ty CP FIDT
Theo số liệu cuối 2022, SVB chỉ phòng vệ (hedge) bằng hợp đồng hoán đổi (SWAP) với giá
trị hợp đồng 550 triệu USD, gần như không đáng kể so với danh mục CK nợ trị giá 120 tỷ
USD.

Vậy SVB gần như bỏ qua quản trị rủi ro danh mục và các khoản lỗ này sẽ từ “lỗ giả thành
lỗ thật” nếu có áp lực phải bán ra.

1.3. Tin xấu đồn xa, sự đổ vỡ và hành động của FDIC

Tin xấu đồn xa

Sau khi một số thông tin rumor về rủi ro và khả năng hạ xếp hạng tín nhiệm với SVB được
lan truyền ở thung lũng Silicon dẫn đến sự rút tiền gửi của nhiều cá nhân, đặc biệt là một
số tổ chức có tiền gửi lớn.

Sau khi thông tin về việc SVB bán ra 21 tỷ USD chứng khoán nợ để trả tiền gửi và ghi
nhận lỗ khoảng 1.8 tỷ USD đã gây lo lắng cho thị trường về nguy cơ áp lực rút tiền sẽ
khiến ngân hàng này phải bán toàn bộ chứng khoán và các tài sản có tính thanh khoản
cao và nếu áp lực tiếp diễn sẽ khiến ngân hàng mất thanh khoản và hiện thực hóa các
khoản lỗ.

Chỉ trong ngày sau khi tin tức lan truyền, ngân hàng này đã “sụp đổ” và FDIC đã thực hiện
các thủ tục bảo vệ người gửi tiền như quy định.

FDIC là cơ quan bảo hiểm tiền gửi Liên bang Mỹ và sẽ bảo vệ tiền gửi khách hàng theo 2
cách:

FIDT Research
Phòng Nghiên cứu và Phân tích - Công ty CP FIDT
• (1) trả tiền cho người gửi tiền đến giới hạn bảo hiểm tiền gửi (hiện là 250 nghìn
USD – mỗi người gửi tiền sẽ được bảo hiểm tối đã 250 nghìn USD, phần tiền gửi
vượt quá 250 nghìn USD được xem là không được bảo hiểm)
• (2) tiếp quản quản lý tài sản và nợ của ngân hàng, FDIC sẽ bán tài sản của ngân
hàng để tiếp tục chi trả cho người gửi tiền. Ở cách này, FDIC thường xúc tiến các
ngân hàng khỏe (healthy) mua lại ngân hàng/bộ phận của ngân hàng đang xử lý.

FDIC hành động

Ngày 10/03/2023, FDIC đã thành lập một ngân hàng mới, Ngân hàng Bảo hiểm Tiền gửi
Quốc gia Santa Clara - Deposit Insurance National Bank of Santa Clara (DINB). DINB không
phải là một ngân hàng hiện hữu cho mục đích kinh doanh mà được gọi là ”Ngân hàng bắc
cầu” (Bridge bank) được lập ra cho mục đích đạc biệt quản lý tiền gửi và tài sản. Khách
hàng có toàn quyền truy cập vào tiền gửi được bảo hiểm của họ (chẳng hạn như tối đa
250.000 đô la trong tài khoản một chủ sở hữu) sẽ được thực hiện ngày Thứ Hai, ngày
13/3. Hoạt động của SVB gồm ngân hàng trực tuyến, hoạt động tại 17 chi nhánh và các
hoạt động khác cũng sẽ tiếp tục vào ngày hôm đó. Đối với những khách hàng có số tiền
không được bảo hiểm (số ngoài 250k USD), FDIC có thể cung cấp các khoản thanh toán
trong tương lai khi FDIC có thể thực hiện được từ việc bán tài sản của ngân hàng đổ vỡ.

Kết quả bước đầu theo thông tin FIDT có được (chưa xác thực) như sau:

• Các ngân hàng lớn đang thảo luận việc mua lại các hoạt động kinh doanh của SVB
• FDIC đang cân nhắc về bảo hiểm tiền gửi/bán các tài sản có thể cover lên tới hơn
95% tổng tiền gửi không được bảo hiểm khi bán cho bên mua.
• Việc chi trả theo bảo hiểm tiền gửi (250k USD/người gửi tiền) có thể thực hiện ngay
vào thứ 2 ngày mai 13/03.
• 50% số tiền gửi ngoài bảo hiểm có thể được chi trả ngay trong tuần sau. Lưu ý,
Tính đến cuối năm 2022, 87,5% tiền gửi của SVB đã vượt quá giới hạn của Bảo
hiểm FDIC (151,5 tỷ USD trong tổng số 173,1 tỷ USD).

FIDT nhận thấy sự giải quyết nhanh chóng của FDIC là tích cực nhằm sớm trấn an lòng tin
người gửi tiền, điều tiên quyết để tránh bankrun lan rộng. Tuy nhiên, cần theo dõi diễn
biến trong tuần sau để xem các giải pháp của FDIC hiệu quả ra sao.

2. Ảnh hưởng đến hệ thống tài chính Mỹ

2.1. SVB là ngân hàng rủi ro hơn trung bình hệ thống

FIDT Research
Phòng Nghiên cứu và Phân tích - Công ty CP FIDT
Tỷ lệ LDR của SVB (tên viết tắt khác SIVB) là cao hơn trung bình của Mỹ nhiều và cao hơn
các ngân hàng lớn, chưa kể tiền gửi của ngân hàng này lại tập trung ở tiền gửi tổ chức,
đặc biệt liên quan đến các tổ chức công nghệ.

Với cơ cấu trên cũng dễ hiểu vì sao nhiều khoản tiền gửi đa phần từ các tổ chức (đặc biệt
là các Quỹ đầu tư mạo hiểm – VC) có số dư lớn hơn 250k USD và nằm ngoài phần được
bảo hiểm.

2.2. Bức tranh so sánh

(1) Tỷ lệ LDR của hệ thống ngân hàng Mỹ (tính đến 22/02/2023) ở mức dưới 70%, thấp
hơn nhiều so tỷ lệ gần 110% của SVB và thấp hơn đáng kể của hệ thống thời điểm trước
Đại khủng hoảng 2008 ở mức trên 95%.

FIDT Research
Phòng Nghiên cứu và Phân tích - Công ty CP FIDT
(2) Tỷ lệ an toàn vốn cấp 1 của hệ thống NHTM Mỹ hiện ở mức trên 13.5% (CAR chỉ tính
vốn cấp 1), cao hơn nhiều so mức gần 10% trước Khủng hoảng 2008, cho thấy khả năng
chống chịu của hệ thống hiện tại là tốt hơn giai đoạn trước.

(3) Nếu hiện thực hóa thua lỗ của các khoản nắm giữ chứng khoán của các ngân hàng lớn
thì ảnh hưởng đến CAR cấp 1 như sau:

FIDT Research
Phòng Nghiên cứu và Phân tích - Công ty CP FIDT
Rõ ràng khi phải bán cắt lỗ chứng khoán thì vốn tự có của SVB còn gần như không đáng
kể (cột màu vàng) trong khi đo ảnh hưởng đến nhiều ngân hàng khác là không quá tồi tệ.

(4) Ngoài ra, top 8 ngân hàng lớn nhất của mỹ chỉ giữ tầm 7% trái phiếu thế chấp BDS
MBS ( tài sản mà SVB sẽ phải bán tháo nhiều) so với 24% của toàn hệ thống ngân hàng
mỹ. Điều này gây nghi ngại sẽ chỉ có Bankrun ở các ngân hàng nhỏ, ngân hàng khu vực
(khả năng cao là sẽ có thêm 1-2 ngân hàng với vốn hóa trong top 25 sẽ dễ lâm vào cảnh
của SVB), còn các ngân hàng lớn sẽ không chịu nhiều ảnh hưởng vì danh mục đã được đa
dạng hóa. Nếu có bankrun hoặc fail.

(5) Thực tế các năm vừa khi không có ngân hàng thất bại mới là những năm đặc biệt, còn
theo thống kê thì việc có ngân hàng failed hàng năm không phải là chuyện hiếm, chỉ là
hiện tại diễn ra ở thời điểm hết sức nhạy cảm.

FIDT Research
Phòng Nghiên cứu và Phân tích - Công ty CP FIDT
Với số liệu hiện tại (1) (2) (3) (4) (5), FIDT cho rằng hệ thống ngân hàng Mỹ “khỏe” hơn
giai đoạn 2008 và sự cố SVB có thể tác động đến một số ngân hàng có tính chất tương tự
như SVB và quản trị rủi ro kém. Chưa đủ cơ sở để phỏng đoán rủi ro lan rộng hệ thống.

Lưu ý, rủi ro hiện tại đang ở các ngân hàng thương mại (không phải ngân hàng đầu tư như
2008). Với NHTM là ảnh hưởng đến người gửi tiền và Fed sẽ can thiệp khi thấy những rủi
ro mang tính hệ thống, chưa kể các khoản tiền gửi vào NHTM sẽ được bảo hiểm tiền gửi
của FDIC và hành động xử lý của FDIC như trên để giải quyết vấn đề.

3. Khuyến nghị
Về rủi ro hiện tại, FIDT khuyến nghị nên thận trọng với các khoản trading và nên tuân thủ
TA khi có dấu hiệu bán tháo (đặc biệt theo dõi hành động khối ngoại), cân nhắc giảm tỷ
trọng.

Với danh mục đầu tư, hiện tại tuy rủi ro nhưng thị trường chứng khoán Việt Nam đã phản
ánh nhiều rủi ro hiện tại của nội tại. Do đó, chúng tôi cho rằng đây vẫn là thời kỳ quan tốt
cho tích lũy tài sản.

Với sự kiện này, FIDT đưa ra mức độ rủi ro cho VnIndex như hình bên dưới:

Thị trường tài chính luôn có những diễn biến bất ngờ, do đó FIDT cho rằng cần
phải theo dõi chặt chẽ tình hình với các giải pháp từ phía các cơ quan quản lý của
Mỹ. Câu chuyện hiện tại nên tập trung vào quản trị danh mục của chính Nhà đầu
tư và FIDT sẽ liên tục update về ảnh hưởng.

FIDT Research
Phòng Nghiên cứu và Phân tích - Công ty CP FIDT
LƯU Ý NHÀ ĐẦU TƯ

Quý khách nên đọc kỹ các rủi ro mà chúng tôi có dự phòng và

đề cập trong báo cáo cũng như nhận diện về rủi ro thị trường

để có lựa chọn đầu tư hiệu quả.

Báo cáo này là tài sản và được giữ bản quyền bởi FIDT.

Không được phép sao chép, phát hành cũng như tái phân phối

báo cáo vì bất kỳ mục đích gì nếu không có văn bản chấp thuận của FIDT.

Vui lòng ghi rõ nguồn khi trích dẫn nếu sử dụng các thông tin trong báo cáo này.

Chúng tôi xin chân thành cảm ơn quý khách hàng!

FIDT Research
Phòng Nghiên cứu và Phân tích - Công ty CP FIDT

You might also like