You are on page 1of 14

Lê Thị Tuyết

Lan - 2021

VIỆT BẮC
Tố Hữu
I/ TÌM HIỂU CHUNG
1/ Tác giả Tố Hữu
Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của văn học cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu
gắn bó song hành với sự nghiệp cách mạng. Thơ Tố Hưu tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình – chính
trị, kết hợp giữa khuynh hướng sử thi với cảm hứng lãng mạn, giọng điệu tâm tình ngọt ngào, tha thiết. Thơ
Tố Hữu đậm đà tính dân tộc.
2/ Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác
- Việt Bắc trong những năm kháng chiến là cơ quan đầu não, là căn cứ địa cách mạng.
- Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, tháng 7/1954 Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được kí kết. Hòa bình lặp
lại, miền Bắc được giải phóng và bắt đầu xây dựng cuộc sống mới.
- Tháng 10/1954, những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng và
chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội. Bối cảnh lịch sử ấy tạo nên cảm xúc mãnh liệt để Tố
Hữu sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Bài thơ như một lời nhắn gửi chân thành về tình nghĩa và sự thủy chung với
cách mạng, với nhân dân.
-“Việt Bắc “ là đỉnh cao của thơ Tố Hữu, cũng như của thơ ca cánh mạng Việt Nam.
- Bài thơ “Việt Bắc” được in trong tập thơ cùng tên, gồm 2 phần:
+ Phần đầu (90 câu) tái hiện những kỉ niệm cách mạng và kháng chiến.
+ Phần sau (60 câu) gợi viễn cảnh tươi sáng của đất nước, ngợi ca công ơn của Đảng, của Bác Hồ đối với dân tộc.
- Đoạn trích trong sách giáo khoa thuộc phần đầu của bài thơ.
2. Chủ đề: Đoạn trích ôn lại những kỉ niệm của mười lăm năm kháng chiến chống Pháp gian khổ mà hào hùng, ca
ngợi nghĩa tình cách mạng giữa người cán bộ kháng chiến với đồng bào và chiến khu Việt Bắc.
3. Bố cục
- Cuộc chia tay cảm động giữa người cán bộ kháng chiến và đồng bào Việt Bắc: 20 câu đầu
- Nỗi nhớ của người cán bộ về xuôi: 70 câu còn lại.
II/ TÌM HIỂU CHI TIẾT
* Cảm nhận chung về những nét đặc sắc của đoạn thơ:
- Cảm xúc chủ đạo của đoạn thơ là sự lưu luyến, băn khoăn, nhung nhớ triền miên.
- Đoạn thơ thể hiện rõ phong cách thơ Tố Hữu:
 Kết hợp trữ tình và chính trị
 Kết hợp khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
 Đậm đà tính dân tộc:
+ Thể loại: Đoạn thơ được viết theo thể lục bát – một thể thơ truyền thống của dân tộc.
+ Giọng điệu: Đoạn thơ có giọng điệu êm đềm, tha thiết, ngọt ngào, sâu lắng, câu nọ nối câu kia như gọi về
những kỉ niệm ồ ạt trong ký ức, khẳng định ân tình sâu nặng giữa người cán bộ và nhân dân Việt Bắc.
+ Kết cấu: Đoạn thơ gồm 2 lời hỏi - 2 lời đáp xen kẽ nhau giữa người ở lại (Nhân dân Việt Bắc) và người ra đi
(Người cán bộ về xuôi).
Kẻ ở - người đi, lời hỏi – lời đáp trong bài thơ không phải của hai đối tượng tách biệt mà là của một chủ thể.

1
Lê Thị Tuyết
Lan - 2021

Tố Hữu đang độc thoại, tự phân mình thành hai nửa để đối đáp với nhau nhằm bộc lộ tâm tư, tình cảm của
mình - người từng tham gia kháng chiến - với Việt Bắc, với nhân dân, nhắc nhở chính mình một cách tự nhiên,
bình dị như một câu chuyện tâm tình.
Hình thức này của đoạn thơ tương tự như kiểu đối đáp quen thuộc của ca dao trữ tình giao duyên . Điều
đó giúp cho vấn đề lớn của cách mạng là ân nghĩa, thuỷ chung giữa con người với cách mạng, giữa nhân dân với
cán bộ được thể hiện một cách gần gũi, sâu lắng, dễ cảm nhận.
+ Đại từ nhân xưng: Hai đại từ “mình”,”ta” quen thuộc của thơ ca dân tộc được Tố Hữu kế thừa một cách
sáng tạo, linh hoạt (khi chỉ chủ thể, khi chỉ đối tượng, khi chỉ cả hai), gợi một tình cảm thân mật, gắn bó, trong
“ta” có “mình”, trong “mình” có “ta”.
+ Cách điễn đạt quen thuộc của dân tộc được vận dụng khéo léo, tinh tế: lối so sánh ví von, các biện pháp tu
từ,…
1/ Cuộc chia tay cảm động giữa người cán bộ kháng chiến với đồng bào Việt Bắc: hai mươi câu đầu
a) Khổ 1: Lời ướm hỏi của người ở lại - Nhân dân Việt Bắc:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”
- Hai đại từ «ta», « mình » vốn được sử dụng nhiều trong thơ ca dân tộc, tạo cảm giác gần gũi, thân thiết. Trong
« Việt Bắc », hai đại từ này được sử dụng linh hoạt, lúc chỉ người cán bộ về xuôi, lúc chỉ người Việt Bắc, lúc bao
gồm cả hai, trong « ta » có « mình », trong « mình » có « ta », gợi sự gắn bó không thể tách rời giữa người cán bộ
với nhân dân và chiến khu Việt Bắc.
- Ở khổ thơ này, «  mình » là người cán bộ về xuôi, còn « ta » là đồng bào Việt Bắc.
- Câu thơ đầu mang âm hưởng tha thiết, gợi nhớ một số câu ca dao quen thuộc diễn tả sự băn khoăn, lưu luyến của
buổi tiễn đưa:
“Mình về có nhớ ta chăng
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”
Hay  “Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ”
- Trong hoàn cảnh nhạy cảm của buổi tiễn đưa, người Việt Bắc thốt lên hai câu hỏi liên tiếp “mình có nhớ ta”,
“mình có nhớ không » thật da diết.
+ Người Việt Bắc hỏi để thể hiện sự lưu luyến, bịn rịn cùng tâm trạng băn khoăn, lo lắng, không biết người cán
bộ khi về xuôi có nhớ đến Việt Bắc. Đó là nét tâm trạng chung, được Tố Hữu nhắc đến ở một đoạn khác trong bài
thơ:
« Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng »
+ Người Việt Bắc hỏi cũng nhằm ôn kỉ niệm, nhắc người cán bộ hãy nhớ Việt Bắc.
- Hai câu hỏi của người ở lại, một câu hỏi về thời gian, một câu hỏi về không gian, đã gói trọn một thời và một
vùng cách mạng, xoáy vào những điều thiêng liêng phải nhớ:
 Về thời gian: người Việt Bắc hỏi người cán bộ có nhớ mười lăm năm ân tình kháng chiến:
«  Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng »
2
Lê Thị Tuyết
Lan - 2021

+ Cụm từ “mười lăm năm” vừa nhắc lại mười lăm năm hình thành và hoạt động ở chiến khu Việt Bắc (từ cuộc
khởi nghĩa Bắc Sơn 1940 đến khi kháng chiến chống Pháp thành công năm 1954) vừa nhắc đến khoảng thời gian
đong đầy ân nghĩa kháng chiến giữa người đi, kẻ ở.
Trong « Truyện Kiều », nhà thơ Nguyễn Du từng dùng cụm từ « mười lăm năm » để diễn tả tâm tư của Thúy
Kiều sau mười lăm năm đoạn trường «Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình».
+ Hai tính từ “thiết tha”, “mặn nồng” thể hiện tình cảm sâu đậm của con người.
 Về không gian: người ở lại hỏi người ra đi có nhớ Việt Bắc là cội nguồn cách mạng, là căn cứ kháng chiến:
«Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn » 
+ Cách dùng điệp từ “nhớ”, nghệ thuật liệt kê các hình ảnh « cây », «  núi  », « sông », «  nguồn », đặt trong kết
cấu đối “nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn” nhắn nhủ người cán bộ hãy nhớ Việt Bắc. Đó là chốn núi rừng,
từng cái cây, con suối đều thân thương, gắn với nhiều kỉ niệm.
+ Ý thơ còn nhắc người ra đi nhớ đạo lí «Uống nước nhớ nguồn », nhớ Việt Bắc là cội nguồn cách mạng, là căn cứ
kháng chiến, nơi Bác và những người cán bộ bàn bạc, chỉ đạo công tác kháng chiến, lèo lái con thuyền cách mạng
Việt Nam vượt qua những khó khăn để giành thắng lợi.
 Giọng điệu thơ êm đềm, tha thiết, mở ra một khung cảnh tiễn đưa bùi ngùi, lưu luyến. Kẻ ở lại trĩu năng
tâm tư, dặn dò người đi đừng quên Việt Bắc, đừng quên nghĩa tình cách mạng. Lời hỏi của người ở lại đã
khơi nguồn cho dòng mạch nhớ thương, cho tình cảm, kỉ niệm tuôn trào.
b) Khổ 2: Lời đáp của người ra đi - Người cán bộ về xuôi :
- Người ra đi không che giấu tâm trạng mình: “Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi”
+ Đại từ phiếm chỉ “ai” chỉ người Việt Bắc. Cụm từ “tha thiết” được dùng trong lời người đi, cho thấy người cán
bộ chân bước đi mà lòng bị níu lại bởi cảm nhận được ân tình của nhân dân Việt Bắc gửi gắm trong lời nhắn nhủ
thiết tha ở khổ thơ trên.
+ Bởi thế, tâm tư người đi cũng trĩu nặng nỗi niềm. Các tính từ “bâng khuâng”, “bồn chồn” khắc họa thành công
tâm trạng phức tạp của người đi: nửa “bâng khuâng” hoài niệm về quá khứ sâu nặng nghĩa tình mà lưu luyến, nhớ
thương, nửa “bồn chồn”, nôn nao, hướng về phía trước lo lắng cho bao công việc đang chờ.
- Khung cảnh tiễn đưa được miêu tả gần hơn, vẻ dùng dằng, bịn rịn, nghẹn ngào thông thường của những buổi chia
ly được Tố Hữu thể hiện tinh tế: “Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
+ “Áo chàm” trước hết là hình ảnh hoán dụ chỉ người Việt Bắc. Sau nữa, đó là hình ảnh biểu tượng cho vẻ đẹp của
người Việt Bắc. Họ đẹp ở sự chân chất, giản dị, đẹp ở tấm lòng dành cho người cán bộ, thủy chung, son sắt với
cách mạng.
+ Cụm từ“buổi phân li” tạo sắc thái trang trọng cho buổi tiễn đưa.
+ Nhịp thơ lục bát đều đặn, nhịp nhàng, đến câu bát có sự chuyển đổi sang ngắt nhịp 3/3/2 “Cầm tay nhau/ biết
nói gì/ hôm nay” như diễn tả thoáng ngập ngừng, chút bối rối, ngậm ngùi trong tâm tư con người.
+ Hành động “cầm tay” không phái là cái bắt tay xã giao thay cho lời chào, lời hỏi han như thường lệ mà là hành
động thể hiện sự thân mật, chan chứa bao tình. Cái buồn của buổi tiễn đưa được gửi gắm qua hành động cầm tay
nhau. Họ mượn cái ấm nóng của bàn tay để thể hiện trọn vẹn bao luyến lưu, thương nhớ.
+ “Biết nói gì” không phải là không biết nói gì mà là không thể diễn tả bằng lời những nỗi niềm của người đi – kẻ
ở.
+ Dấu “…” là khoảng lặng nghẹn ngào trong cảm xúc. Không gian, thời gian như lắng đọng để ân tình mãi khắc
sâu.
3
Lê Thị Tuyết
Lan - 2021

 Bốn câu thơ thể hiện một cách xúc động sự lưu luyến, cùng tình cảm tha thiết của người cán bộ dành cho
Việt Bắc. Có thể xem đó là sự an ủi chân thành nỗi niềm băn khoăn nơi người ở lại.

c) Khổ 3: Lời hỏi của người ở lại nhắc nhớ kỉ niệm, ân tình kháng chiến và cách mạng:
“Mình đi … cây đa”
* Lời hỏi thứ hai của người ở lại dồn dập, kéo dài hơn, tô đậm hơn nỗi lòng .
* Hình thức lặp “mình đi”, “mình về”, “có nhớ”, “còn nhớ” đặt trong hàng loạt câu hỏi khiến đoạn thơ như là
lời của cảm xúc ngày càng tha thiết, mãnh liệt gợi về hàng loạt kỷ niệm trong niềm tự hào và tình cảm yêu thương,
gắn bó.
- Mỗi một cặp lục bát đều nhắc nhớ kỉ niệm về chiến khu. Kỉ niệm đầu tiên người ở lại nhắc đến là những gian khổ
của những ngày chuẩn bị kháng chiến:
“Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù”
+ Các hình ảnh “mưa nguồn”, “suối lũ”, “mây mù” kết hợp cặp từ chỉ sự tăng cấp “những…cùng” vừa tả thực
sự khắc nghiệt của thiên nhiên vừa nhắc nhớ những ngày kháng chiến gian khổ (lũ rừng về xối xả, mưa rừng ào
ào , gạo bị trôi, sắn bị cuốn…)
- Tiếp theo là lời nhắc nhở đừng quên cuộc sống sinh hoạt thiếu thốn ở chiến khu:
“Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai”
+ Hình ảnh “miếng cơm chấm muối” tả thực về cuộc sống thiếu thốn ở chiến khu.
+ “Mối thù” vốn trừu tượng đã được Tố Hữu cụ thể bằng cụm từ “nặng vai”. Sức nặng của mối thù cho thấy con
người kháng chiến nhận thức rõ mối thù quân cướp nước, ý thức được trách nhiệm của họ, và cùng chung sức,
chung lòng trong công cuộc chiến đấu bảo vệ đất nước.
+ Nghệ thuật tiểu đối giữa “miếng cơm chấm muối” với “mối thù nặng vai” càng thể hiện sự tương phản giữa
hiện thực kháng chiến với ý chí của quân dân ta, cuộc sống vật chất dù thiếu thốn nhưng ý chí đánh đuổi kẻ thù rất
mạnh mẽ.
- Kế đến là lời bày tỏ tâm tư:
“Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng măng mai để già”
+ Phép hoán dụ nhân hoá “rừng núi nhớ ai” bộc lộ sự quyến luyến, nhớ mong.
+ Các hình ảnh “trám”, “măng mai” khắc hoạ rõ hơn sự thiếu thốn trong cuộc sống sinh hoạt ở chiến khu.
+ Cách nói “trám bùi để rụng”, “măng mai để già” diễn tả tâm trạng buồn bã, trống vắng của người Việt Bắc.
Khi người cán bộ ra đi, khung cảnh núi rừng trở nên hoang vắng, u buồn, ảm đạm, đọng lại nơi người ở lại nỗi chờ
mong, thương nhớ. Câu thơ tả ngoại cảnh nhưng gợi tâm cảnh.
- Sau nữa, người Việt Bắc nhắc người đi đừng quên những mái nhà quen thương với những con người chân chất,
nghĩa tình:
“Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son”
+ Câu thơ nhắc nhớ hình ảnh những ngôi nhà thấp thoáng bên những triền lau xám cùng những người dân chất
phác, hiền hòa, đậm đà tình nghĩa.

4
Lê Thị Tuyết
Lan - 2021

+ Các hình ảnh “lau” , “lòng” (tấm lòng) cùng nghệ thuật đối giữa “hắt hiu”với “đậm đà”,“xám” với” son”
bật lên vẻ đẹp của người Việt Bắc. Họ tuy sống nghèo khổ, thiếu thốn nhưng tấm lòng đối với cách mạng, với
người cán bộ lúc nào cũng đậm đà, thắm thiết, thủy chung.
- Cuối cùng là lời nhắc nhở người cán bộ kháng chiến đừng quên Việt Bắc là căn cứ cách mạng:
“Mình về còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thưở còn Việt Minh?”
Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”
+ Hình ảnh “núi non” cùng các cụm từ thời gian “ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh” nhắc lại những tháng
ngày cùng kháng Pháp, chống Nhật ở chiến khu Việt Bắc.
+ Cách sử dụng sáng tạo đại từ “mình” vừa chỉ nhân dân Việt Bắc, vừa chỉ người cán bộ trong lời nhắc nhớ “mình
đi mình có nhớ mình” tạo sắc thái tình cảm thân mật, gắn bó. “Mình có nhớ mình” không phải đơn giản chỉ là nhớ
đến Việt Bắc mà còn nhớ đến chính bản thân mình trước kia, đừng quên những gì đã tạo nên mình, đừng để mình
thành con người khác khi hoàn cảnh đã thay đổi.
+ Tố Hữu liệt kê những địa danh lịch sử “Tân Trào”, “Hồng Thái”, hình ảnh “mái đình”, “cây đa” và dùng lối
tách từ quen thuộc trong cách diễn đạt của dân tộc để nhắc đến những sự kiện quan trọng gắn với những địa điểm
thiêng liêng - nơi thành lập quân đội đầu tiên của cách mạng, nơi họp đại hội quốc dân lần đầu, khai sinh Chính
phủ lâm thời nước Việt Nam mới - nhằm khẳng định Việt Bắc là căn cứ kháng chiến, là cội nguồn của Cách mạng,
người ra đi không được quên.
 Với giọng điệu trữ tình sâu lắng, sử dụng nhiều biện pháp tu từ quen thuộc, từ ngữ, hình ảnh gợi hình,
biểu cảm, đoạn thơ hồi tưởng về buổi đầu kháng chiến gian khổ, bộc bạch tình cảm sâu đậm của nhân dân
Việt Bắc với cách mạng, với cán bộ.

2) Lời đáp của người ra đi vừa nhắc nhớ kỷ niệm, vừa khẳng định tình cảm thuỷ chung: phần còn lại
* Lời đáp thứ hai của người ra đi chiếm dung lượng lớn trong đoạn thơ (70 câu). Sự kéo dài ấy phải chăng
hướng vào thể hiện tình cảm sâu nặng của người cán bộ, khơi lại vô vàn kỉ niệm về Việt Bắc .
a)Khổ 4: Người cán bộ khẳng định tấm lòng thuỷ chung sắt son:
“Ta với mình … bấy nhiêu”
- Điệp từ “ta”, “mình”, “với” láy đi láy lại càng thắt chặt sự gắn bó giữa những con người kháng chiến.
- Từ “mình” trong câu thơ “Mình đi mình lại nhớ mình” cùng chỉ người cán bộ và Việt Bắc. Ở đoạn trên, trong
lời của mình, người Việt Bắc hỏi “mình đi mình có nhớ mình” thì giờ người cán bộ về xuôi đáp lại “Mình đi mình
lại nhớ mình “ để bày tỏ nỗi nhớ thật chân thành, tha thiết, khẳng định người ra đi không quên Việt Bắc, không
quên bản thân mình đã từng được trui rèn trong gian khổ, từng sống gắn bó, đồng cam cộng khổ với nhân dân ở
chiến khu.
- Ta bắt gặp cách nói quen thuộc của dân tộc trong câu thơ “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”
+ Người bình dân xưa hay sử dụng lối so sánh tình nghĩa với nước trong nguồn:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”
Họ cũng hay dùng cặp từ tương đồng “bao nhiêu …bấy nhiêu” để thể hiện tình cảm ý nhị, sâu sắc:
“Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói anh thương mình bấy nhiêu”

5
Lê Thị Tuyết
Lan - 2021

+ Tố Hữu mượn cách nói ấy đặt trong sự so sánh cái vô tận của nước với cái vô cùng của nghĩa tình để khẳng định
tình cảm thuỷ chung, bền chặt. Người cán bộ không bao giờ quên cội nguồn cách mạng, nghĩa tình kháng chiến.

b)Khổ 5-11: Người cán bộ khẳng định nỗi nhớ về Việt Bắc với nhiều sắc thái, kỉ niệm cụ thể:
*Nhớ bản làng Việt Bắc: Khổ 5:
“Nhớ gì … vơi đầy”
- Điệp từ “nhớ”, điệp ngữ “nhớ gì”, “ nhớ từng” xuyên suốt khổ thơ, diễn tả một nỗi nhớ mãnh liệt gắn với bao
kỉ niệm thân thương. Mỗi kỉ niệm được nhắc đến, cảm xúc càng được khơi sâu.
- Nỗi nhớ Việt Bắc được tác giả diễn tả độc đáo:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”
Nỗi nhớ người yêu là nỗi nhớ da diết nhất, nồng nàn, mãnh liệt nhất, từng được thể hiện trong ca dao:
“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than”
Hay trong thơ Xuân Diệu :
“Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh
Anh nhớ em, anh nhớ lắm, em ơi!”
Nỗi nhớ ấy được Tố Hữu so sánh với nỗi nhớ Việt Bắc. Cách so sánh khiến nỗi nhớ chiến khu – nỗi nhớ mang
màu sắc chính trị - trở nên cụ thể, trữ tình, Tất cả những cảnh vật ở vùng đất ấy đều thấm đẫm vào tâm hồn nhà
thơ, làm nên ký ức về Việt Bắc, tựu lại một nỗi nhớ nhung sâu lắng.
Câu thơ “Trăng lên đầu núi nấng chiều lưng nương” thâu tóm vẻ đẹp đặc trưng của Việt Bắc. Sự phối hợp tài
tình giữa màu sắc vàng dịu của nắng chiều, của trăng với màu xanh của những đồi nương, giữa đường nét của ánh
trăng lấp ló đầu núi cùng những vệt nắng chiều vương trên lưng đồi tôn lên nét đẹp thơ mộng của núi rừng.
- Hình ảnh những bản làng chìm trong sương giăng và bóng dáng những con người quen thương đã khắc sâu vào kí
ức người đi:
“Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”
Trong lời giãi bày của người cán bộ kháng chiến, nhà thơ Tố Hữu đã dùng kết hợp hình ảnh “bản”, “sương”
với cặp quan hệ từ “những…cùng” để khẳng định từng thôn, bản, từng con người nơi đây đã trở thành bao nỗi
thương niềm nhớ. Nhà thơ Chế Lan Viên sau này, khi gửi lòng về Tây Bắc, đã luyến nhớ khung cảnh những bản
làng ẩn trong màn sương giăng, những ngọn đèo chìm trong mây phủ. Điều đó cho thấy, mỗi một vùng đất đều có
những nét đặc trưng, lưu dấu không phai trong tâm hồn những người từng yêu thương, gắn bó.
Hình ảnh “bếp lửa” trong cuộc sống đời thường bình dị đi vào thơ ca như một gợi dẫn liên tưởng nơi người đọc
về sự ấm áp nghĩa tình. Hòa vào dòng hoài niệm về tuổi thơ, về người bà kính yêu của nhà thơ Bằng Việt trong bài
thơ “Bếp lửa”, mỗi chúng ta từng không nén được xúc cảm trước vẻ đẹp của tình bà cháu. Giờ đây, hình ảnh “bếp
lửa” gắn với “người thương đi về” trong thơ Tố Hữu gợi sự khắng khít giữa nhân dân và cán bộ, khắc họa vẻ đẹp
của con người Việt Bắc chịu thương chịu khó, tần tảo sớm hôm trong lao động hàng ngày.
- Nhớ Việt Bắc, người ra đi nhớ tường tận những hình ảnh thân thuộc:
“Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”
+ Hình thức liệt kê những hình ảnh “rừng nứa”,“bờ tre”, từng địa danh “Ngòi Thia”, “sông Đáy”, “suối Lê”
cho thấy người đi không những nhớ đến những cái lớn lao mà nhớ cả những điều bình dị, nhớ từng hỉnh ảnh thân
6
Lê Thị Tuyết
Lan - 2021

thương, nhớ từng tên sông tên suối. Nỗi nhớ bắt nguồn từ tình người và lan vào cảnh vật. Nỗi nhớ trải dài theo
không gian và thời gian.
* Người cán bộ về xuôi nhớ cuộc sống sinh hoạt gian khổ nhưng đầy nghĩa tình ở chiến khu: Khổ 6: “Ta đi
… suối xa”
- Đó là nỗi nhớ về những tháng ngày đồng cam cộng khổ:
“Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi »
+ «Ta» chỉ người cán bộ về xuôi. « Mình » chỉ người Việt Bắc.
+ Cụm từ ẩn dụ mang âm hưởng ca dao“đắng cay”, “ngọt bùi” nhắc lại những kỉ niệm vui buồn của đời sống
kháng chiến nhiều gian lao, khổ cực.
+ Cách dùng cặp từ hô ứng“mình đây”,“ta đó” thể hiện vẻ đẹp của tình người trong kháng chiến. Tất cả đều gắn
bó, cùng đoàn kết đánh giặc.
- Cùng chia sẻ gian lao, vất vả bằng yêu thương gắn kết :
« Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng” 
+ Các hình ảnh “củ sắn”, “bát cơm”, “chăn sui” khắc hoạ rõ hơn cuộc sống sinh hoạt nhiều thiếu thốn ở chiến
khu trong những năm tháng chuẩn bị kháng chiến.
+ Các từ “chia”, “sẻ”, “đắp cùng” cho thấy con người nơi đây sẵn lòng sẻ chia cho nhau từng bát cơm, củ sắn,
từng mảnh chăn sui.... Những hành động giản dị ngỡ như bình thường lại toát lên vẻ đẹp của tình quân dân đầy
cảm động.
- Hình ảnh người mẹ Việt Bắc được khắc tả ấn tượng trong nỗi nhớ ngườ ra đi :
“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô”
+ Cụm từ « nắng cháy lưng » diễn tả sự khắc nghiệt trong hoàn cảnh lao động của người mẹ Việt Bắc. Cái nắng
như thiêu như đốt không ngăn trở được sự miệt mài, hăng say lao động của đồng bào Việt Bắc.
+ Người đọc cảm nhận được hình ảnh người mẹ chăm chỉ, tảo tần, vừa địu con vừa cần cù làm việc qua các động
từ « địu », «  bẻ  ». Hình ảnh này gợi liên tưởng đến hình ảnh người mẹ trong bài thơ «Khúc hát ru những em bé
lớn trên lưng mẹ » của Nguyễn Khoa Điềm :
« Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ ngoan đừng rời lưng mẹ
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội
Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời »
Đó là vẻ đẹp của những người mẹ kháng chiến mà bằng sự cảm phục, tình yêu thương gắn với quan sát trực tiếp
từ trải nghiệm thực tế, các nhà thơ đã khắc họa thành công trong thi ca dân tộc, lưu giữ vẻ đẹp của con người Việt
Nam trong công cuộc đấu tranh giành độc lập cho đất nước.
- Khép lại đoạn thơ này là nỗi nhớ về những hình ảnh, âm thanh đặc trưng trong cuộc sống sinh hoạt ở
chiến khu:
“Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
7
Lê Thị Tuyết
Lan - 2021

Nhớ sao ngày tháng cơ quan


Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa”
+ Hình ảnh “lớp học i tờ”, “đồng khuya đuốc sáng” làm sống dậy khung cảnh sinh hoạt vui tươi, sôi động trong
những ngày kháng chiến gian khổ. Đó là những giờ phút rộn rã tiếng “i”, “ tờ” của lớp bình dân học vụ do người
cán bộ phụ trách, là những đêm liên hoan đáng nhớ, thắp sáng cả đồng khuya.
+ Nghệ thuật đối giữa “gian nan” với “ca vang núi đèo” nổi bật âm thanh tiếng hát cất lên từ trong những gian
khổ, thể hiện tinh thần lạc quan của con người trong kháng chiến.
+ “Tiếng mõ rừng chiều”, tiếng đều đều của “suối xa”, tiếng nhịp “chày đêm” là những âm thanh quen thuộc
của Việt Bắc. Tiếng mõ lốc cốc khi những đàn trâu bò quay về bản làng trong buổi chiều hôm, tiếng chày giã gạo
vọng về từ suối xa trong đêm không chỉ gợi vẻ êm ắng, tĩnh lặng của miền sơn cước, mà còn phản ánh cuộc sống
sinh hoạt êm ả, bình dị.
 Khung cảnh Việt Bắc hiện lên với những vẻ đẹp thơ mộng, yên bình. Cuộc sống ở Việt Bắc tuy thiếu thốn
nhưng sâu nặng nghĩa tình. Đoạn thơ chứa đựng những rung động, tình cảm chân thành, thắm thiết của Tố
Hữu đối với Việt Bắc.

* Nhớ vẻ đẹp của hoa và con người Việt Bắc : Khổ 7 “Ta về … thuỷ chung” (Bức tranh tứ bình/Bức tranh tứ
quý)
- Hai câu đầu: “Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
+ “Ta” chỉ người cán bộ, “mình” chỉ người Việt Bắc. Hai từ này lặp lại trong hai câu thơ gợi sự khắng khít. Người
cán bộ và nhân dân chỉ có thể xa cách về không gian địa lí, thời gian vật lí, còn tình cảm đã thành tình nghĩa thì
không gì chia cắt được. Nỗi nhớ chỉ có thể phân đôi thành hai đầu “Chiến khu” và “Thủ đô” để “yêu thương sâu
hơn” và “nghĩa tình đằm thắm” hơn mà thôi.
+ Cụm từ “Ta về” lặp lại ở đầu hai câu thơ, nhưng có sự khác biệt.
 Câu đầu là hỏi người như một cái cớ dẫn dắt.
 Câu sau là giãi bày lòng mình. Cấu trúc khẳng định “Ta về ta nhớ” cùng hình ảnh “hoa”, “người” cùng
căp từ “những …cùng” không chỉ khẳng định “hoa cùng người” hoà quyện trong nỗi nhớ của người cán bộ mà
còn ngợi ca vẻ đẹp của hoa và người Việt Bắc.
- Tám câu kế khắc họa cụ thể vẻ đẹp từng mùa của Việt Bắc:
«Rừng xanh.....thủy chung »
Đoạn thơ là một bức tranh tứ bình tươi sáng, thơ mộng với nhiều màu sắc, âm thanh, hình ảnh, con người được
chọn lọc tinh tế. Mỗi cặp câu thơ là nét vẽ hài hoà giữa cảnh và người Việt Bắc tương ứng với từng mùa trong
năm, nhiều thời điểm trong ngày. Mỗi mùa, mỗi thời điểm mang nét độc đáo riêng. Sau mỗi câu thơ tả cảnh đến
câu thơ tả người. Cảnh và người đan lồng vào nhau. Cảnh làm nền cho người, người gắn với cảnh, cùng hòa quyện,
tôn vẻ đẹp cho nhau. Vẻ đẹp của con người là vẻ đẹp trung tâm của bức tranh.
 Bức tranh Việt Bắc trong mùa đông mở ra bằng hình ảnh:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

8
Lê Thị Tuyết
Lan - 2021

+ Hình ảnh quen thuộc “rừng”, “hoa chuối” kết hợp với các tính từ chỉ màu sắc “xanh”, “đỏ tươi” mở ra
khung cảnh hoang sơ tráng lệ của núi rừng với màu xanh bạt ngàn. Trên nền xanh của sự sống ấy, nổi bật màu đỏ
tươi của “hoa chuối”, gợi sự ấm áp, có sức lan toả. Cảnh mùa đông không lạnh lẽo, ảm đạm, lụi tàn, rét mướt như
lẽ thường mà rực rỡ, ấm áp, căng tràn sức sống.
+ Bên cạnh nét đẹp của hoa chuối đỏ trên nền xanh là nét đẹp của người đi rừng đứng trên “đèo cao” với “dao gài
thắt lưng”.
+ Nghệ thuật hoán dụ và đảo cụm từ “nắng ánh” như thu lại nguồn sáng của ánh nắng mặt trời vào con dao giắt
ở thắt lưng người đi rừng, thăm rẫy, làm nương. Con người rạng ngời như một bức tượng sừng sững, tạc vào núi
rừng tư thế chủ động, vẻ đẹp khoẻ khoắn, chăm chỉ của người Việt Bắc.
 Hai câu tiếp theo miêu tả bức tranh mùa xuân ở chiến khu:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
+ Hoa mơ là hình ảnh thường thấy ở Việt Bắc khi xuân đến. Hình ảnh này từng xuất hiện trong thơ Tố Hữu:
“Ôi sáng xuân nay xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ” (“Theo chân Bác”)
+ Động từ “nở” cùng cụm từ “trắng” miêu tả khung cảnh Việt Bắc vào xuân tràn ngập trong sắc trắng tinh khiết
của rừng mơ, sức sống mùa xuân lan toả khắp núi rừng bởi hương mơ thơm dìu dịu, vấn vương lòng người. Trước
sự thay sắc ấy, người cán bộ không khỏi ngỡ ngàng, hạnh phúc.
+Tương ứng với vẻ đẹp của rừng mơ là hình ảnh “người đan nón”. “Sợi giang” thuộc họ tre, nứa, thường được
người dân Việt Bắc chuốt nhẵn để đan nón. Hành động “chuốt từng” diễn tả sự tỉ mỉ, nhịp nhàng. Câu thơ khắc
họa vẻ đẹp của người Việt Bắc ở sự cần mẫn, chịu thương chịu khó trong công việc đời thường. Những công việc
ấy đã thầm lặng hỗ trợ cho công tác chuẩn bị kháng chiến.
 Theo nhịp luân chuyển của thời gian, Việt Bắc bước vào hè. Khung cảnh hạ về nơi chiến khu được cảm nhận
bằng âm thanh và màu sắc quen thuộc:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
+ Âm thanh tiếng “ve kêu” thường là tín hiệu báo hiệu mùa hè.
+ Hình ảnh “rừng phách” cùng cụm từ “đổ vàng”giàu tính tạo hình. “Đổ vàng” có thể hiểu là lá cây chuyển
sang sắc vàng hoặc cây trút lá vàng. Cây thay màu hay trút lá đều gợi bước đi của thời gian.
+ Dường như có mối liên hệ, gắn kết giữa sự vật. Khi ve ngân tiếng cũng là lúc rừng phách chuyển vàng. Khung
cảnh Việt Bắc khi vào hè trở nên vui tươi, sôi động, rực rỡ hơn. Phải là người có khả năng quan sát tinh tế, nhà thơ
Tố Hữu mới nhận ra và miêu tả thành công vẻ đẹp đặc trưng này.
+ Nổi bật giữa khung cảnh ấy là hình ảnh “cô em gái hái măng một mình”. Từ “hái ”rất thanh, kết hợp lối láy vần
“gái” – “hái”, điệp phụ âm “măng một mình” không những tạo nhạc điệu cho câu thơ mà còn gợi được nét dịu
dàng, mềm mại, uyển chuyển, duyên dáng của cô gái Việt Bắc, gợi bao cảm xúc nơi người đi.
 Hai câu thơ cuối là bức tranh mùa thu thật êm đềm, đáng nhớ:
“Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”

9
Lê Thị Tuyết
Lan - 2021

+Không gian núi rừng chuyển về đêm. Khung cảnh không âm u, bí ẩn, dữ dội, mà êm dịu, thanh bình. Ánh trăng
thu quen thuộc trong thơ ca đi vào thơ Tố Hữu với vẻ đẹp trong vắt, bàng bạc sắc vàng lung linh, gợi lên vẻ huyền
ảo thơ mộng. Cụm từ “trăng rọi hòa bình” có thể hiểu là ánh trăng soi rọi cuộc sống yên bình ở chiến khu, mang
theo ước mơ về cuộc sống hoà bình của con người. Do vậy mà ánh trăng càng đẹp hơn, càng đáng nhớ hơn.
+ Nỗi nhớ của con người cũng mênh mang như ánh trăng, không hướng vào một hình ảnh cụ thể mà là nhớ đồng
bào Việt Bắc. Đại từ phiếm chỉ “ai” gợi lên bao tha thiết lắng sâu. Tiếng hát cất lên giữa rừng đêm vọng vào tâm
thức lưu giữ vẻ đẹp của tinh thần lạc quan và “ân tình thuỷ chung” của con người.
+ Sự hòa hợp giữa hình ảnh ánh trăng và âm thanh tiếng hát trong hai câu thơ gợi nhớ đến bài thơ “Cảnh khuya”
của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”
Ánh trăng trong thơ Bác cũng như trong thơ Tố Hữu gợi tả được vẻ đẹp êm đềm, trữ tình của khung cảnh núi
rừng Việt Bắc. Tiếng hát trong thơ Bác được dùng so sánh với tiếng suối, góp phần tô đậm sự tĩnh lặng, yên bình
của chiến khu. Còn tiếng hát trong thơ Tố Hữu hướng đến thể hiện vẻ đẹp của con người kháng chiến.
 Với cấu tứ ướm hỏi – giãi bày, từ giữ giàu tính tạo hình, biểu cảm, nhiều hình ảnh vừa hiện thực vừa
lãng mạn, kết hợp giữa bút pháp cổ điển (dùng nhiều thi liệu quen thuộc, gợi nhiều hơn tả) và hiện đại (hài
hòa giữa vẻ đẹp của thiên nhiên và con người, con người là trung tâm của bức tranh), đoạn thơ thể hiện nét
đặc sắc trong cách quan sát và nghệ thuật miêu tả của nhà thơ Tố Hữu. Cảnh thiên nhiên và con người được
miêu tả tuyệt đẹp. Thiên nhiên Việt Bắc đẹp ở sự đa dạng, sinh động, thay đổi theo từng mùa. Con người
Việt Bắc đẹp ở vẻ bình dị, khoẻ khoắn, mộc mạc, anh hùng. Tất cả đã hóa thành máu thịt, thành tâm hồn
của Tố Hữu.

*Nhớ Việt Bắc hào hùng trong chiến đấu: Khổ 8,9
“Nhớ khi … núi Hồng”
 Khổ 8:
- Mở đầu đoạn thơ, người cán bộ nhắc nhớ những tháng ngày đau thương:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”
+ Bằng ký ức của mình, Tố Hữu đưa người đọc về với những ngày kháng chiến chống Pháp gian khổ. Giặc
điên cuồng lùng bắt, khủng bố, đàn áp tinh thần đấu tranh của quân dân ta.
+ Cách nhân hoá “Rừng cây núi đá, ta cùng đánh Tây” cho thấy thiên nhiên cũng như con người, trở thành
đồng đội với con người trong công cuộc đánh Tây.
+ Núi, rừng được nhân hóa khi “giăng thành luỹ sắt dày”, “che bộ đội”, “vây quân thù”. Việt Bắc được chủ
tịch Hồ Chí Minh chọn làm căn cứ địa cách mạng vì sự hiểm trở, trập trùng của những ngọn núi, cánh rừng tạo nên
địa thế vững vàng cho chiến khu. Núi kết thành lũy sắt kiên cố. Rừng mênh mông như một trận địa, vừa thuận lợi
cho ta “rừng che bộ đội”, vừa gây khó khăn, nguy hiểm cho địch “rừng vây quân thù”, giặc vào là lạc lối. Rừng
núi không chỉ là cảnh vật của quê hương mà là còn là điểm tựa, chở che những con người anh dũng chiến đấu, bảo
về cơ quan đầu não của cách mạng, tiếp thêm sức mạnh, làm nên chiến thắng.
10
Lê Thị Tuyết
Lan - 2021

- Hai câu thơ tiếp theo nhắc lại yếu tố quan trọng giúp con người Việt Nam vượt qua mọi thử thách trong những
ngày đầu chuẩn bị kháng chiến:
“Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng”
+ Từ láy “mênh mông” sử dụng kết hợp với hình ảnh “bốn mặt sương mù” không chỉ nhắc đến không gian núi
rừng rộng lớn, mà còn là ẩn dụ cho hiện thực khó khăn, gian khổ của cuộc kháng chiến.
+ Cách nói “Đất trời ta cả chiến khu một lòng” thể hiện tinh thần đoàn kết một lòng của quân và dân ta . Họ
sát cánh bên nhau, đồng cam cộng khổ vì có chung lòng yêu nước, căm thù giặc, chung ý chí đánh giặc. Tình cảm
này đã mang đến nguồn sức mạnh tinh thần vô cùng to lớn, góp phần đem đến thắng lợi.
- Đoạn thơ cuối là lời ướm hỏi để nhắc nhớ những trận đánh quan trọng:
“Ai về ai có nhớ không ?
Ta về ta nhớ Phủ Thông đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao Lạng, nhớ sang Nhị Hà”
+ Câu hỏi tu từ kết hợp với đại từ “ai” “Ai về ai có nhớ không?” mang sắc thái thân mật .
+ Phép liệt kê các địa danh gắn với những trận đánh lớn: Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Cao-Lạng,
Nhị Hà nhắc nhớ trong niềm tự hào về những thắng lợi mà quân dân ta đạt được trong cuộc kháng chiến chống
Pháp.
 Khổ 9: Khổ thơ tái hiện hình ảnh Việt Bắc hào hùng trong kháng chiến
- Hai câu thơ đầu đoạn phác họa bức tranh toàn cảnh:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung”
+ “Những đường Việt Bắc của ta” đưa người đọc về với những nẻo đường kháng chiến để cảm nhận được không
khí khẩn trương của buổi xuất quân.
+ Cụm từ “của ta” vang lên thật hào hùng, thể hiện niềm vui, ý thức về chủ quyền đất nước. Ta từng bắt gặp cảm
xúc này trong thơ ca kháng chiến:
“Của ta trời đất đêm ngày
Núi kia, đồi nọ, sông này của ta” (Tố Hữu)
Hay: “Trời anh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Nhưng ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa” (Nguyễn Đình Thi)
Chính ý thức đó đem đến niềm tin tất thắng, tạo nên động lực chiến đấu.
+ Từ “đêm đêm” chỉ sự liên tục của nhiều đêm quân ta từ chiến khu hành quân ra tiền tuyến.
+ Từ láy “rầm rập” cùng nghệ thuật so sánh phóng đại “như là đất rung” diễn tả khí thế ra trận hào hùng,
mạnh mẽ. Đó là thời khắc chuyển mình của lịch sử, của cách mạng Việt Nam.
Bao cuộc hành quân đêm gian khổ được lưu dấu trong thơ ca. Từ cuộc hành quân trong thơ Xuân Diệu:
“Đêm hành quân thả tâm hồn đi trước
Yêu và căm, hai đợt sóng ào ào
Vỗ bên lòng, dội mãi tới trăng sao
Giữa đêm tối, gần xa là biển mực
11
Lê Thị Tuyết
Lan - 2021

Chính là lúc trái tim càng sáng rực”


Đến cuộc hành quân trong thơ Nguyễn Đình Thi:
“Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”
Đủ giúp chúng ta, những con người sống trong thời bình thêm thấu hiểu những gian lao, thêm cảm phục những
con người đã không tiếc đời, đặt mình vào chiến trường khốc liệt, dấn thân vào hiểm nguy, lúc nào cũng nung nấu
ý chí, không sờn lòng, không lùi bước trước khó khăn. Mỗi nhịp bước hành quân mang theo sức mạnh của khát
khao giành độc lập tạo nên khí thế hào hùng như sóng cuộn, triều dâng, bão dồn, khiến đất trời rung chuyển. Trong
đêm tối, trái tim yêu nước càng sáng rực!
- Hình ảnh đoàn quân ra trận được đặc tả ấn tượng:
“Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”
+ Các từ láy tượng hình “điệp điệp”, “trùng trùng” khắc họa hình ảnh từng đoàn quân hùng hậu ra tiền tuyến
với ý chí chiến đấu ngoan cường, không sợ nguy hiểm, không lùi bước trước khó khăn, thử thách. So với những
ngày đầu kháng chiến, lực lượng quân đội ta đã đông, vững mạnh, đủ sức đánh những trận quyết định,
+ “Ánh sao” vừa là hình ảnh trữ tình của thiên nhiên vừa là hình ảnh ngôi sao trên nón anh bộ đội, biểu tượng cho
lí tưởng cách mạng.
+ “Súng”, “mũ nan” là vật dụng gắn bó với người lính.
+ Sự kết hợp giữa các hình ảnh “ánh sao đầu súng” với “mũ nan” gợi liên tưởng đến anh bộ đội cụ Hồ.
-> Câu thơ “ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” chứa đựng một hình ảnh đẹp, vừa hiện thực vừa lãng mạn, gợi
nhớ đến câu thơ của Chính Hữu: “Đầu súng trăng treo”. Ánh trăng trong thơ Chính Hữu tượng trưng cho khát
vọng hoà bình. “Ánh sao” trong thơ Tố Hữu biểu tượng cho lí tưởng cách mạng.
- Tham gia hỗ trợ kháng chiến, lực lượng dân công cũng được tác giả tập trung miêu tả:
“Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”
+ Biện pháp đảo ngữ “dân công đỏ đuốc từng đoàn” cùng lối nói phóng đại “bước chân nát đá, muôn tàn lửa
bay” gợi nhớ câu thành ngữ “Chân cứng đá mềm” thể hiện khí thế mạnh mẽ của những đoàn dân công phục vụ
tiền tuyến. Sự hỗ trợ nhiệt tình của lực lượng dân công để lại ấn tượng sâu đậm trong í ức người cán bộ về xuôi.
Trong bài thơ “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”, nhà thơ Tố Hữu miêu tả rõ hơn vẻ đẹp của tinh thần lạc quan, dũng
cảm của những anh chị dân công:
“Dốc Pha Đin chị gánh, anh thồ
Đèo Lũng Lô anh hò, chị hát
Dù bom đạn, xương tan thịt nát
Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh”
- Hai câu thơ tiếp đến miêu tả hình ảnh những đoàn xe quân sự:
“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”
+ Cụm từ “nghìn đêm” chỉ thời gian dài.
+ Từ láy “thăm thẳm” kết hợp với “sương dày” mở ra một không gian mịt nù sương đêm.
+ Nghệ thuật đối giữa “nghìn đêm thăm thẳm” với ánh đèn pha sáng được so sánh “như ngày mai lên” khắc
họa nổi bật hình ảnh những đoàn xe ra trận với ánh đèn quét sạch màn sương thăm thẳm, dày đặc của núi rừng.
+ Ý thơ còn có nghĩa tượng trưng:
12
Lê Thị Tuyết
Lan - 2021

 “nghìn đêm thăm thẳm sương dày” tượng trưng cho quá khứ đau thương của dân tộc.
 “đèn pha bật sáng cho ngày mai lên “ biểu trưng cho tương lai tươi sáng của đất nước, thể hiện
tinh thần lạc quan của con người Việt Nam.
- Đoạn thơ cuối mang âm hưởng sôi nổi: “Tin vui … núi Hồng”
+ Điệp từ “vui” với nhiều sắc thái (“vui về”, “vui từ”, “vui lên”) kết hợp việc liệt kê các địa danh: “Hoà Bình”,
“Tây Bắc”, “Điện Biên”, “Đồng Tháp”, “An Khê”, “Việt Bắc”, “đèo De”, “núi Hồng” diễn tả niềm vui chiến
thắng vang dội khắp mọi miền đất nước. Tin vui thắng trận dồn dập, nối tiếp, nối dài từ Nam Bộ đến miền Trung,
Tây Nguyên rồi về Việt Bắc làm náo nức lòng người.
 Bằng ngòi bút giàu khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, Tố Hữu đã khắc họa được bức tranh
Việt Bắc ra quân thật hào hùng với không gian rộng lớn, nhiều hoạt động tấp nập, nhiều hình ảnh cao đẹp,
nhiều âm thanh sôi nổi, háo hức, toát lên vẻ đẹp, hào khí của cả một dân tộc trong công cuộc chiến đấu vì
độc lập, tự do của Tổ quốc.
*Nhớ vai trò của Việt Bắc, của Bác đối với cách mạng:Khổ 10,11
“Ai về … Tân Trào”
*Khổ 10:
- Câu hỏi “Ai về ai có nhớ không?”: người đi tự nhắn nhủ chính mình
- Hình ảnh” ngọn cờ đỏ thắm”, “ sao vàng” là biểu tượng của cách mạng
- Liệt kê các công tác kháng chiến: “điều đê”, “nông thôn phát động”, “giao thông mở đường”, …
 Khẳng định Việt Bắc là căn cứ kháng chiến, nơi Trung ương Đảng và Chính phủ bàn bạc, chỉ đạo kháng
chiến.
* Khổ 11:
+ Điệp cấu trúc “ở đâu u ám”, “ở đâu đau đớn”, nghệ thuật đối “nhìn lên Việt Bắc”, “trông về Việt Bắc”
 Khẳng định Bác Hồ là biểu tượng cho niềm tin, ý chí, biểu tượng của cách mạng Việt Nam, con người
Việt Nam.
+ Nhắc lại cụm từ “mười lăm năm” và hình ảnh “mái đình Hồng Thái”, “cây đa Tân Trào” khẳng định người
ra đi không bao giờ quên Việt Bắc.
 Đoạn thơ kết thúc bằng niềm tự hào, lòng biết ơn của người cán bộ đối với Bác, đối với Việt Bắc – cái nôi
của Cách mạng Việt Nam, của kháng chiến chống Pháp gian khổ mà hào hùng.
III/TỔNG KẾT
1. Nghệ thuật: “ Việt Bắc” đậm đà tính dân tộc:
+ Thể thơ lục bát truyền thống được sử dụng tài tình, vừa tạo âm hưởng thống nhất, vừa biến hóa đa dạng, câu thơ
lúc dung dị, dân dã như ca dao, lúc trau chuốt, nhuần nhị như thơ bác học.
+ Bài thơ kết cấu theo lối đối đáp quen thuộc của ca dao.
+ Hình thức phân thân được dùng tạo sự hô ứng, đồng vọng vang ngân, thể hiện nhớ nhung, da diết.
+ Nhiều biện pháp tu từ quen thuộc (so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, điệp từ, liệt kê, đối, cường điệu, …) tạo nên phong vị
dân gian và chất cổ điển của bài thơ.
+ Hai đại từ quen thuộc của ca dao “mình”, “ta” làm cho lời thơ vừa tha thiết vừa đậm đà màu sắc dân tộc.
+ Cách diễn đạt quen thuộc của thơ ca dân tộc được sử dụng tài tình “ bao nhiêu – bấy nhiêu”, “ đây – đó”, “
đắng cay- ngọt bùi”,…
+ Âm điệu trữ tình thiết tha, ngọt ngào, êm ái, cuốn hút người đọc vào thế giới tâm tình của bài thơ.
+ Nhiều hình ảnh đẹp, ấn tượng.
* Nội dung:
13
Lê Thị Tuyết
Lan - 2021

“Việt Bắc” là khúc hùng ca kháng chiến, đồng thời cũng là khúc tình ca đầy ân nghĩa thuỷ chung của cách
mạng và con người cách mạng, tiếp nối truyền thống yêu nước, đạo lí sống nghĩa tình, thủy chung của dân tộc.
“Việt Bắc” thể hiện rõ phong cách thơ Tố Hữu.

KIẾN THỨC BỔ TRỢ

- Trần Đình Sử : “Việt Bắc tình thơ tha thiết, điệu thơ êm ái, khúc trữ tình nồng nàn, sôi nổi bậc nhất trong thơ ca
cách mạng Việt Nam hiện đại”
- Nguyễn Văn Hạnh : “Việt Bắc thật sự là một bài thơ hay nhất trong sáng tác của Tố Hữu và trong nền thơ Việt
Nam hiện đại”
- Xuân Diệu: “Việt Bắc là đỉnh thơ cao nhất mà Tố Hữu đã bước lên”, “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên một tiếng
thơ rất đỗi trữ tình”
- Chế Lan Viên: “Thơ là đi giữa nhạc và ý. Rơi vào cái vực ý thì thơ sẽ sâu, nhưng rất dễ khô khan. Rơi vào cái
vực nhạc, thì thơ dễ làm đắm say người, nhưng cũng dễ nông cạn. Tố Hữu đã giữ được thế quân bình giữa hai lĩnh
vực thu hút ấy. Thơ của anh vửa ru người trong nhạc, vừa thức người bằng ý” .
- Giải thích “Tính dân tộc”
“Tính dân tộc” là một trong những đặc tính làm nên giá trị của một tác phẩm văn học, được thể hiện ở cả nội
dung lẫn hình thức nghệ thuật. Về nội dung, một tác phẩm mang tính dân tộc phải thể hiện được những vấn đề
nóng bỏng liên quan đến vận mệnh dân tộc, thể hiện được khát vọng, tình cảm, ý chí, linh hồn, cốt cách của một
dân tộc. Về hình thức, tác phẩm đó tiếp thu một cách sáng tạo tinh hoa văn hóa của dân tộc.

14

You might also like