Professional Documents
Culture Documents
Ky Yeu Hoi Thao Dong A Nam 2023 - Hutech
Ky Yeu Hoi Thao Dong A Nam 2023 - Hutech
KỶ YẾU
TS. Kiều Xuân Hùng - Trưởng ban; PGS. TS. Võ Đình Bảy - Trưởng ban;
GS. TSKH. Hồ Đắc Lộc - Ủy viên; PGS. TS. Phạm Văn Việt - Ủy viên;
PGS. TS. Võ Đình Bảy - Ủy viên; TS. Nguyễn Thành Luân - Ủy viên;
TS. Kiều Lan Hương - Ủy viên. TS. Kiều Thị Vân Anh - Ủy viên;
TS. Vũ Quốc Anh - Ủy viên;
BAN TỔ CHỨC TS. Bùi Phan Anh Thư - Ủy viên;
TS. Hà Minh Tuấn - Ủy viên;
TS. Bùi Văn Thế Vinh - Trưởng ban; ThS. Hồ Tố Liên - Ủy viên.
TS. Lê Đình Lương - Ủy viên;
TS. Nguyễn Thành Luân - Ủy viên; BAN TRUYỀN THÔNG
TS. Huỳnh Ngọc Anh - Ủy viên;
TS. Hà Thị Mỹ Ngân - Ủy viên; TS. Nguyễn Quốc Anh - Trưởng ban;
ThS. Lê Thị Ngọc Trâm - Thư ký. ThS. Nguyễn Thị Xuân Dung - Ủy viên;
ThS. Nguyễn Trần Ngọc Phương - Ủy viên.
1
LỜI MỞ ĐẦU
Hội thảo khoa học toàn quốc Ngôn ngữ và Văn hóa Đông Á lần thứ nhất - năm 2023 được
tổ chức tại Trường Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh (HUTECH) vào ngày 17 tháng 3
năm 2023. Hội thảo là sự kiện kết nối cộng đồng các nhà nghiên cứu ngôn ngữ để cùng tìm hiểu
văn hóa và hòa nhập cùng bạn bè vươn ra thế giới cũng như gìn giữ, trân quý bản sắc văn hoá
dân tộc mình.
Quan trọng hơn, hội thảo được tổ chức để thúc đẩy các hoạt động hợp tác giảng dạy
ngôn ngữ và văn hoá Đông Á trong các trường đại học. Hội thảo còn tập trung thảo luận các
giải pháp, ý tưởng hóa trong nghiên cứu ngôn ngữ và văn hóa Đông Á của các nhà khoa học.
Hội thảo năm nay có số lượng bài báo khoa học là 60 bài của các tác giả đến từ Trường
Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh và sự tham gia của nhiều tác giả thuộc 24 trường đại
học/viện nghiên cứu có các chuyên ngành đạo tạo về Ngôn ngữ và Văn hóa Đông Á tại Việt
Nam.
Ban biên tập chân thành cảm ơn sự đóng góp nhiệt tình của các tác giả có bài in trong
Kỷ yếu Hội thảo khoa học toàn quốc Ngôn ngữ và Văn hóa Đông Á lần thứ nhất - năm 2023.
Kính chúc các tác giả sức khỏe và gặt hái nhiều thành công trong nghiên cứu khoa học.
Xin cảm ơn các thành viên trong Ban chương trình đã làm việc hết sức trách nhiệm trong
công tác bình duyệt các công trình và xuất bản cuốn kỷ yếu này.
2
MỤC LỤC
Số
Số
thứ Tác giả Tên bài
trang
tự
Hiện trạng xây dựng đời sống văn hóa tại khu đô thị
1 Nguyễn Minh Nhựt 6
mới Phú Mỹ Hưng, quận 7, thành phố Hồ Chí Minh
Nguyễn Lưu Bích Đuốc lá dừa - dẫn lối văn chương Phương Nam ra thế
2 12
Trâm giới
Hoàng Thị Tường Bước đầu tìm hiểu về từ ngữ xưng hô trong bộ truyện
3 Linh, Kính Vạn Hoa của Nguyễn Nhật Ánh từ góc nhìn ngữ 16
Bùi Viết Lãm nghĩa
Nguyễn Thị Kim
4 Mối quan hệ giữa tôn giáo và thơ ca Việt Nam hiện đại 20
Hồng
Tìm hiểu nghĩa tình thái xảy ra ở các tổ hợp động từ +
động từ trong quá trình ngữ pháp hóa (An investigation
5 Nguyễn Mai Lan 27
into modal meaning of verb + verb combinations in
grammaticalization)
Lối nói lái của người Việt - nét độc đáo của văn hóa và
6 Lê Thị Thanh Huyền 33
ngôn ngữ Việt Nam
Phong tục tang ma của người Mông Trắng ở Mường
7 Lê Thị Hiền 37
Lát, Thanh Hóa - Truyền thống và sự biến đổi
8 Đào Quốc Trung Lịch sử chữ viết cộng đồng người Chơ Ro, Việt Nam 43
Vương Thị Vân Anh, The traces of East Asia culture in characterization in
9 49
Nguyễn Thành Trung on earth we’re briefly gorgeous (Ocean Vuong)
Dấu ấn văn hóa của người Nam Bộ qua việc sử dụng
10 Nguyễn Văn Đồng 53
tiểu từ tình thái cuối phát ngôn
Yếu tố văn hóa trong hoạt động dạy và học ngoại ngữ
11 Nguyễn Văn Đồng 59
cho sinh viên đại học ở Việt Nam
Mối liên hệ giữa văn hóa với du lịch và tác động của
12 Hoàng Thúy Hà du lịch văn hóa tới sự phát triển cộng đồng tại Việt 64
Nam
Nghiên cứu ứng dụng phương pháp giảng dạy tích cực
13 Nguyễn Thị Thu vào học phần “Cơ sở văn hóa Việt Nam” tại Trường 69
Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh
Địa danh có nguồn gốc ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở
Lê Thị Nhuấn,
14 Lâm Đồng (nghiên cứu trường hợp tại huyện Lạc 75
Ngô Thị Thu
Dương)
Đoàn Tiến Đạt,
Hành trình tìm hiểu thế giới của Hoàng tử bé (Antoine
Cao Kỳ Duyên,
15 de saint-exupéry) qua các hành tinh dưới góc nhìn học 82
Phan Hoàng Anh,
thuyết ngũ hành
Nguyễn Thành Trung
Những đóng góp của Kazik đối với sự phát triển của
16 Nguyễn Mậu Hùng các mối quan hệ hợp tác văn hóa giữa Việt Nam và Ba 88
Lan trong thời gian ở Huế
Nghiêm Thị Thanh
17 Tính “lạ” trong nghệ thuật từ góc nhìn văn hóa 95
Nhã
3
La Duy Tân,
Nguyễn Trung Hiệp, Vai trò của “thanh học” trong quan hệ ngoại giao giữa
Trần Minh Quý, Joseon và nhà Thanh (Trung Quốc) qua tác phẩm Triều
18 100
Phùng Thị Thanh
tiên vương triều thực lục (조선왕조실록)
Xuân
5
HIỆN TRẠNG XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
TẠI KHU ĐÔ THỊ MỚI PHÚ MỸ HƯNG, QUẬN 7,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TÓM TẮT
Trước những tác động của tiến trình toàn cầu hóa, các khu đô thị mới đang phát triển rất nhanh và
sôi động. Đời sống văn hóa của cư dân nơi đây cũng đặt ra nhiều vấn đề mới mà các nhà hoạch định
chính sách và quản lý văn hóa, đặc biệt là quản lý đời sống văn hóa đô thị phải quan tâm chú ý và có
những biện pháp phù hợp, hiệu quả, bền vững. Trên cơ sở phân tích khái quát hiện trạng xây dựng đời
sống văn hóa tại khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh sẽ cung cấp thêm nhiều
thông tin hữu ích giúp chính quyền địa phương và các nhà quản lý nhận diện các vấn đề một cách rõ ràng
hơn và rút ra được các bài học kinh nghiệm quý giá cho vấn đề này khi xây dựng các khu đô thị mới tại
thành phố trong tương lai.
Từ khóa: đời sống văn hóa, khu đô thị mới, Phú Mỹ Hưng, Thành phố Hồ Chí Minh.
1. Mở đầu
Khái niệm “Đời sống văn hóa” là một bộ phận đời sống con người nói chung, nhưng là một bộ
phận đặc biệt, bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống con người. Đời sống con người là một thể, một tập
hợp những yếu tố vật chất và tinh thần, là toàn bộ những hoạt động của con người để thỏa mãn những
nhu cầu vật chất và tinh thần của nó nhằm duy trì sự sống từ thế hệ này sang thế hệ khác (Viện Văn hóa
– Bộ Văn hóa, 1984, tr.21). Bên cạnh đó, tác giả Hoàng Vinh (2006) cho rằng: Đời sống văn hóa là sự
hiện diện, tồn tại và phát triển của đời sống tinh thần trong toàn bộ hoạt động thực tiễn xã hội. Đời sống
văn hóa là một tổng thể những yếu tố văn hóa vật thể, phi vật thể và nhân cách văn hóa, cảnh quan văn
hóa bao quanh con người, gây ra sự tác động lẫn nhau giữa các cá nhân trên phạm vi không gian, thời
gian nào đó, trực tiếp hình thành nếp sống và lối sống của con người.
Ở chiều cạnh khác, theo Nguyễn Phương Lan (2004): đời sống văn hóa là tổng thể những yếu tố
văn hóa vật chất và tinh thần nằm trong những cảnh quan văn hóa, những yếu tố hoạt động văn hóa,
những sự tác động lẫn nhau trong đời sống xã hội tạo ra những quan hệ có văn hóa trong cộng đồng
người, trực tiếp làm hình thành lối sống của con người trong xã hội… Đời sống là một phức hệ hoạt động
văn hóa diễn ra trong thực tiễn, từ văn hóa vật chất đến tinh thần.
Khái niệm “Đô thị” là khu vực tập trung dân cư sinh sống có mật độ cao và chủ yếu hoạt động
trong lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp, là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hoá hoặc chuyên
ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, một địa
phương, bao gồm nội thành, ngoại thành của thành phố; nội thị, ngoại thị của thị xã; thị trấn; “Khu đô
thị mới” là một khu vực trong đô thị, được đầu tư xây dựng mới đồng bộ về hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã
hội và nhà ở” (Luật Quy hoạch đô thị, 2009).
Trước những tác động của tiến trình toàn cầu hóa, các khu đô thị mới đang phát triển rất nhanh và
sôi động. Đời sống văn hóa của cư dân nơi đây cũng đặt ra nhiều vấn đề mới mà các nhà hoạch định
chính sách và quản lý văn hóa, đặc biệt là quản lý đời sống văn hóa đô thị phải quan tâm chú ý và có
những biện pháp phù hợp, hiệu quả, bền vững. Khu đô thị mới đã và đang hình thành ngày càng nhiều
và trở thành một phần không thể thiếu ở các thành phố. Các khu đô thị mới được xây dựng trên địa bàn
nhất định nhưng tồn tại biệt lập, thiếu sự quản lý chặt chẽ và thường xuyên của các chủ thể quản lý nhà
nước về đời sống văn hóa xã hội. Trong xu thế hiện nay, việc xây dựng các khu đô thị mới đều hướng
tới môi trường có chất lượng sống tốt nhất với đầy đủ các tiện ích như: nhà ở, trường học, bệnh viện, câu
lạc bộ, bể bơi, phòng tập thể thao, nhà sinh hoạt cộng đồng, sân chơi cho trẻ em, trung tâm thương mại,
6
môi trường sinh thái xanh mát, trong lành, tạo nên mối quan hệ gắn kết giữa thiên nhiên và con người
(Vũ Thị Hồng Tứ, 2020).
Bằng phương pháp khảo sát thực địa, quan sát tham dự, không tham dự từ ngày 01 - 12/10/2022,
kết hợp phân tích, so sánh tư liệu hiện có, tác giả đã khái quát hiện trạng xây dựng đời sống văn hóa tại
khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng, Quận 7. Chúng ta biết rằng, hiện nay trên địa bàn Quận 7 đã và đang hình
thành một số khu đô thị mới, trong đó khu đô thị Phú Mỹ Hưng được xem là đô thị kiểu mẫu, điển hình
trong xây dựng và phát triển đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh, mặc dù vấn đề xây dựng đời sống văn hóa
tại khu đô thị mới này luôn phải đối mặt với nhiều triển vọng và thách thức.
2. Cơ sở thực tiễn
Theo Ủy ban nhân dân Quận 7 (2022): khu đô thị Phú Mỹ Hưng có một phần phường Tân Phong
và Tân Phú nằm trên địa bàn Quận 7, tọa lạc tại phía Nam Thành phố Hồ Chí Minh, là nơi tập trung sinh
sống của những người có thu nhập cao. Diện tích được phép khai thác và phát triển gồm 5 cụm đô thị,
với 750 ha, tạo thành một trung tâm thương mại, tài chính quốc tế. Dân số hiện nay của Phú Mỹ Hưng
chiếm hơn 50% là người nước ngoài đến từ nhiều quốc gia, tập trung là công dân các nước: Hàn Quốc,
Nhật Bản, Đài Loan, Trung Quốc,..
Thống kế đến tháng 10/2022 cho thấy, phường Tân Phong có 3 khu phố với 47 tổ dân phố, 1.973
hộ với 6.321 nhân khẩu (trong đó 3.184 nhân khẩu là người nước ngoài); có 05 Chi bộ ô khu vực với 176
Đảng viên; 05 thành viên Ban công tác Mặt trận; 03 chi hội Phụ nữ liên ô với 09 tổ hội; 47 hội viên Cựu
Chiến binh; 05 chi đoàn thanh niên ở khu vực với 10 đoàn viên. Có 23 tòa nhà chung cư cao tầng với
169 block, 7.548 căn hộ chung cư và 544 căn shop; có 03 trường đại học lớn (Trường Đại học Tôn Đức
Thắng, trường Đại học Cảnh sát Nhân dân và trường Đại học RMIT) với hơn 2.800 sinh viên. Bên cạnh
đó, phường Tân Phú có 18 chung cư, 07 khu biệt thự, 01 khu phố bao gồm 6 tổ dân phố; có 3.193 hộ với
9.849 nhân khẩu (trong đó 2.988 nhân khẩu là người nước ngoài); khu phố 6 có 4 chi bộ ô khu vực với
126 đảng viên, Ban công tác Mặt trận gồm 03 thành viên, Chi hội Cựu Chiến binh gồm12 hội viên, Chi
hội Phụ nữ có 68 hội viên, Chi Đoàn Thanh niên có 02 đoàn viên.
3.2. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư
Theo Ủy ban nhân dân Quận 7 (2022): phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”
được chính quyền địa phương xác định là hoạt động trọng tâm trong xây dựng đời sống văn hóa mới ở
cơ sở. Do vậy, quá trình triển khai thực hiện luôn chú trọng, nâng cao chất lượng để phong trào ngày
càng lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng. Do đó, Ban chỉ đạo phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa quận 7 đã triển khai đến Ủy ban nhân dân các phường trong khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng
tổ chức thực hiện phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa trong khu dân cư, thực hiện
việc đăng ký tiêu chuẩn gia đình văn hóa, khu phố văn hóa theo Quyết định số 1280/QĐ UBND ngày 14
8
tháng 4 năm 2020 của Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về ban hành các Tiêu chuẩn văn hóa
giai đoạn 2020 - 2025. Kết quả thực hiện trong thời gian qua như sau:
Cư dân Phú Mỹ Hưng tích cực tham gia lao động, phát triển kinh tế, trong khu vực này không có
hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ khó khăn. Các hộ dân tích cực tham gia phong trào đóng góp Quỹ vì người
nghèo, các cuộc vận động của địa phương, chỉ tiêu thu các loại quỹ luôn đạt và vượt. Bên cạnh đó, cư
dân luôn duy trì tốt việc sinh hoạt tổ dân phố định kỳ hàng quý. Tỷ lệ tham gia sinh hoạt tổ dân phố đạt
khoảng từ 50% đến 60%, vì nhiều hộ ghép chỉ cử đại diện đi thay. Tuy nhiên, tại các buổi sinh hoạt, nhân
dân rất tích cực tham gia phát biểu ý kiến với tinh thần trách nhiệm đóng góp xây dựng địa phương, phản
ánh những vấn đề liên quan đến Ban Quản trị chung cư; mặt khác, ban điều hành khu phố tích cực trả lời
những vấn đề khu phố nắm được và tiếp nhận những ý kiến của nhân dân trình lên cấp trên để có văn
bản trả lời cho người dân được rõ; thường xuyên triển khai phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ
quốc” thì đa số cư dân chấp hành các quy định của pháp luật, tạo nếp sống tự quản tuân thủ pháp luật
trong cộng đồng dân cư. Chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật về an ninh mạng; tích cực tham
gia các hoạt động phòng ngừa, đấu tranh, tố giác các loại tội phạm, tệ nạn xã hội và các hành vi vi phạm
pháp luật khác.
Bên cạnh đó, môi trường cảnh quan tại khu đô thị Phú Mỹ Hưng đảm bảo xanh - sạch đẹp, phục
vụ nhu cầu hưởng thụ tinh thần của cư dân. Đồng thời, phần lớn cư dân trong khu đô thị Phú Mỹ Hưng
tham gia sinh hoạt tại nhà sinh hoạt cộng đồng của các chung cư, văn phòng khu phố góp phần xây dựng
thiết chế văn hóa cơ sở và phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao tại địa phương. Trong khu đô
thị Phú Mỹ Hưng có 43 công viên công cộng (chưa kể công viên nội khu); có 53 bộ dụng cụ tập luyện
thể dục, thể thao phục vụ nhu cầu tập luyện thể dục, thể thao của người dân.
Ngoài ra, chính quyền địa phương còn thường xuyên tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể
dục, thể thao với nhiều hoạt động phong phú, đa dạng, nhằm phục vụ nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh
thần cho người dân. Mặt khác, địa phương luôn duy trì các hoạt động câu lạc bộ văn hóa văn nghệ, thể
dục thể thao để thu hút sự tham gia của người dân (01 câu lạc bộ Võ thuật, 01 sân bóng đá,...); tổ chức
nhiều giải thể thao quần chúng chào mừng các ngày lễ lớn của đất nước như: giải bóng đá, bóng chuyền
mừng Đảng - mừng Xuân, thu hút sự tham gia của người dân, góp phần tăng cường sức khỏe cho nhân
dân, nhằm giao lưu, tạo sự gắn kết trong cộng đồng. Đặc biệt, việc triển khai thực hiện và duy trì Chào
cờ nhân kỷ niệm ngày Quốc khánh 02/9 hằng năm kể từ năm 2009 đến nay ở chung cư Sky cho tất cả cư
dân, kể cả cư dân nước ngoài góp phần tuyên truyền về tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
3.3. Kết quả xây dựng và công nhận các danh hiệu văn hóa tại địa phương
Trong năm 2021, phường Tân Phong có 2.287/2.598 (80%) hộ gia đình đăng ký xây dựng Gia đình
văn hóa, và đã có 2.287 (100%) hộ gia đình được công nhận danh hiệu Gia đình văn hóa; còn ở phường
Tân Phú có 2.170/2.170 (100%) hộ gia đình đăng ký xây dựng Gia đình văn hóa và có 2.066/2.170
(95,2%) hộ gia đình được công nhận danh hiệu Gia đình văn hóa. Bên cạnh đó, trong năm 2021, 2022
thì phường Tân Phong có 3/3 khu phố tại khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng đạt tiêu chuẩn khu phố văn hóa
và phường Tân Phú có 1 khu phố tại khu vực Phú Mỹ Hưng đạt Khu phố văn hóa (Ủy ban nhân dân
Quận 7, 2022). Với kết quả này cho chúng ta thấy, việc các hộ gia đình đăng ký và tích cực tham gia xây
dựng gia đình văn hóa, khu phố văn hóa, hướng đến xây dựng đời sống văn hóa ở khu đô thị mới ngày
càng được các tầng lớp nhân dân đồng tình hưởng ứng, lan tỏa hiệu quả của phong trào đến các khu đô
thị mới khác, nhờ đó phong trào đã phát huy tác dụng thiết thực trong cuộc sống và trở thành những
chuẩn mực về nếp sống, lối sống, quan hệ văn hóa trong cộng đồng.
10
2. Vũ Thị Hồng Tứ. (2020), Đời sống văn hóa của cư dân tại khu đô thị mới, Tạp chí Văn
hóa - Nghệ thuật, số 432, tháng 6-2020.
3. Hoàng Vinh. (2006), Những vấn đề văn hóa trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay, Hà
Nội.
4. Quốc hội. (2009), Luật quy hoạch đô thị số 30/2009/QH12 của Quốc hội khóa XII, kỳ
họp thứ 5, thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2009, Hà Nội.
5. Viện Văn hóa - Bộ Văn hóa (1984), Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, Hà Nội.
6. Ủy ban nhân dân Quận 7 (2022), Báo cáo số 3951/BC-UBND ngày 12 tháng 10 năm 2022
của Ủy ban nhân dân Quận 7 về tình hình xây dựng đời sống văn hóa tại khu dân cư Quận 7.
7. Ủy ban nhân dân Quận Bình Thạnh (2022), Báo cáo số 463/BC-UBND-BCĐ ngày 13
tháng 10 năm 2022 của Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh về tình hình xây dựng đời sống văn hóa tại
các khu đô thị mới trên địa bàn quận Bình Thạnh năm 2022.
11
ĐUỐC LÁ DỪA - DẪN LỐI VĂN CHƯƠNG
PHƯƠNG NAM RA THẾ GIỚI
TÓM TẮT
Phương Nam, vùng đất khai hoang có lịch sử non trẻ được gọi là Đàng Trong từ thời Chúa
Nguyễn, đây là nơi có nền văn hóa rất đặc sắc vì pha trộn hài hòa văn hóa Việt với văn hóa địa phương,
gồm các nền văn hóa lớn như Chăm, Khơ-me,… và văn hóa ngoại lai Hoa - Ấn - Âu - Nam đảo,…
Do đặc trưng vị trí địa lý, địa hình bán đảo, các đặc điểm văn hóa ngoại lai này theo chân những
thương nhân, giáo sĩ, thủy thủ,… của các tàu đánh cá, tàu buôn ngoại quốc cập bến giao thương với
nước ta,… Điều đó, tạo cho vùng đất này một nét văn hóa đặc trưng so với văn hóa phương Bắc.
Trong khi nền thơ ca văn học nghệ thuật phương Bắc, còn gọi là Đàng Ngoài theo cách gọi trước đây,
với bốn ngàn năm văn hiến đã sản sinh những tên tuổi lớn như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương được
UNESCO ghi nhận, thì đại diện phương Nam chỉ có một tác giả Nguyễn Đình Chiểu. Chính vì thế,
dự án Đuốc lá dừa ra đời với mong muốn giới thiệu tác giả và tác phẩm văn chương cổ, văn chương
chữ Nôm phương Nam ra văn đàn thế giới bằng phương pháp biên dịch sang tiếng nước ngoài và phát
hành dưới hình thức ebook, sách nói, app để phù hợp với thế giới phẳng ngày nay.
Từ khóa: văn học Phương Nam, văn học chữ Nôm, văn học cổ Việt Nam, biên dịch văn học.
1. Đặt vấn đề
Có lẽ không khó để tìm đọc các tác phẩm văn học nước ngoài đã được dịch sang tiếng Việt ở
Việt Nam như: Những người khốn khổ [4], Tam Quốc Chí [5], Rừng Nauy [6],… Khi làn sóng Hallyu
cuộn đến nhiều người bắt đầu chú ý đến văn học Hàn Quốc với các tác phẩm như Người ăn chay [7],
Mong Sil [8],… Nhưng có lẽ không ít người trong chúng ta thắc mắc, thế thì chiều ngược lại thì sao,
tình hình văn học Việt Nam đươc dịch sang tiếng nước ngoài thì như thế nào?
Sau năm 1975, có một lượng lớn người Việt rời khỏi đất nước, sống lưu vong và hình thành nên
những cộng đồng người Việt ở nước ngoài, phần lớn ở các quốc gia nói tiếng Anh. Nhưng, cho đến
những năm gần đây, hầu như người Việt đi khắp thế giới qua con đường du học, lao động, kết hôn
quốc tế,… không chỉ các quốc gia nói tiếng Anh mà còn đến những quốc gia như Đài Loan, Nhật Bản,
Hàn Quốc, các quốc gia Nam đảo và Trung Đông,… Thời gian đầu, vì mưu sinh và hòa nhập xã hội
nên những người Việt tha hương chưa quan tâm nhiều đến lĩnh vực thơ ca, văn học nghệ thuật, lại
càng ít quan tâm đến việc quảng bá văn chương. Nhưng, từ giữa thập niên 80 của thế kỷ XX trở về
sau, đời sống văn chương Việt Nam ở hải ngoại khởi sắc hơn. Chính là khi những người Việt tha
hương thế hệ đầu sau 1975 chứng kiến sự đứt gãy các kết nối văn hóa với thế hệ kế tiếp. Bên cạnh nỗ
lực gìn giữ tiếng Việt, những trí thức Việt Nam ở nước ngoài dần dần lưu tâm đến những tác phẩm
xuất sắc của văn chương Việt hiện đại, và tìm cách chuyển ngữ chúng sang ngôn ngữ bản xứ với hy
vọng để cho những thế hệ thứ hai, thứ ba của lớp người Việt di dân từ sau năm 1975 có thể tìm hiểu
và lưu giữ những bản sắc văn hóa của tổ tiên. Do đó, việc chuyển ngữ các tác phẩm văn chương Việt
Nam sang ngôn ngữ bản xứ không chỉ là một cách giới thiệu văn chương Việt đến bạn đọc quốc tế mà
trước hết, nó xuất phát từ nhu cầu của chính các dịch giả người Việt ở nước ngoài. Hoạt động chuyển
ngữ ấy như một cách để những thế hệ người Việt sau này - những thế hệ sinh ra ở nước ngoài chỉ biết
đến quê hương Việt Nam qua những hình ảnh trên sách báo, truyền thông đại chúng,… có thể tìm thấy
hồn quê đâu đó ở những bản dịch thơ văn. Bên cạnh đội ngũ dịch giả người Việt, xuất hiện ngày càng
nhiều các dịch giả người nước ngoài, biên dịch các tác phẩm tiêu biểu của Việt Nam với mục đích
giới thiệu và nghiên cứu văn hóa. Vì vậy, việc chuyển ngữ các tác phẩm văn chương Việt Nam sang
12
tiếng nước ngoài không còn đơn thuần là lòng tự tôn dân tộc, giữ gìn bản sắc quê hương mà còn là
giao lưu và quảng bá văn hóa, để rồi từ những bản chuyển ngữ ấy, các dịch giả hướng đến mục đích
để cho bạn đọc năm châu lắng nghe thanh âm của tâm hồn người Việt trong chiều dài lịch sử đất nước.
Có thể thấy, các tác phẩm được chuyển ngữ phần lớn là các tác phẩm hiện đại phản ánh hiện
thực xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám như Chí Phèo [9], Số đỏ [10],… đề tài tình yêu tổ
quốc và niềm khát khao hòa bình như: Nhật ký Đặng Thùy Trâm [11], tuyển tập thơ Tố Hữu [12],
cuộc sống sau chiến tranh và tái thiết đất nước như Tướng về hưu [13], một ít tác phẩm mang hơi thở
xã hội và thời đại thể hiện sự khao khát yêu đương và tự do thể hiện cảm xúc như Cánh đồng bất tận
[14],… Và rất hiếm các tác phẩm văn học cổ, chỉ góp mặt vài tác phẩm như Truyện Kiều [15], Truyện
thơ Nôm Lục Vân Tiên [16],… Các tác phẩm văn học cổ này hầu như được biên dịch với tính chất
ngoại giao nhân dịp lễ kỷ niệm hoặc dự án tài trợ giao lưu văn hóa quốc tế,… Như hình ảnh Đuốc lá
dừa ở phương Nam thời khai hoang, đưa dân nghèo tìm đến vùng đất màu mỡ, trù phú, ngày nay ngọn
đuốc chúng tôi mong muốn đưa lối những tác phẩm văn học cổ Việt Nam vượt đêm tối đến vùng đất
ánh sáng là văn đàn thế giới.
2. Nội dung
Hiện nay, Đuốc lá dừa tạm thời khoanh vùng đối tượng thơ ca, văn học nghệ thuật cổ chữ Nôm
với các tác giả và tác phẩm xứ Đàng Trong xưa (phía Nam đèo Hải Vân). Khi đã đủ nhân lực và tài
lực, Đuốc lá dừa sẽ mở rộng hoạt động từng bước theo sự phát triển của Dự án và tình hình thực tế.
Mô hình hoạt động của dự án Đuốc lá dừa dưới hình thức Quỹ tài trợ. Đuốc lá dừa vận động quỹ tài
trợ cho các cá nhân hay đoàn thể đủ năng lực và có các dự án biên dịch tác phẩm văn chương cổ chữ
Nôm sang tiếng Hàn. Có vẻ như hơi có một chút “cục bộ” nhưng thật sự khi thực hiện một đề tài
nghiên cứu khoa học hay dự án kinh tế, tác giả hay người sáng lập chắc chắn vẫn luôn cậy vào nguồn
lực sẵn có và nguồn lực mình có thể vận động được, “có bột mới gột nên hồ”[17], biên dịch sang các
ngôn ngữ khác ngoài tiếng Hàn, chưa phải là thế mạnh của Đuốc lá dừa lúc này, nhưng theo sự phát
triển của hoạt động và nhu cầu thực tế, Đuốc lá dừa vẫn mong muốn tác phẩm văn học cổ Việt Nam
được chuyển ngữ sang nhiều ngôn ngữ khác hơn nữa. Vì theo xu thế thời đại, Đuốc lá dừa định hướng
các tác phẩm này được phát hành dưới dạng ebook, sách nói, app điện thoại và website... nên độc giả
ở bất kỳ đâu trên thế giới cũng có thể tham khảo, tra cứu, đọc các tác phẩm này. Càng được chuyển
ngữ sang nhiều ngôn ngữ, càng tăng thêm khả năng tiếp cận độc giả của các tác phẩm văn chương cổ
Việt Nam.
Các tác phẩm sau biên dịch sẽ không đăng ký bản quyền để đảm bảo các học giả, nhà nghiên
cứu, sinh viên, học sinh, người yêu thích văn học cổ Việt Nam sẽ luôn có nguồn tư liệu phong phú để
trích dẫn, nghiên cứu, học tập và so sánh đối chiếu, các trang tài khoản xã hội của Dự án Đuốc lá dừa
là tài khoản mở để các độc giả có thể đăng các bản dịch riêng của mình để đối chiếu với bản gốc có
giải thích và bản dịch của Đuốc lá dừa. Đuốc lá dừa không chủ trương in sách vì với việc phủ sóng
internet toàn cầu như hiện nay, các ebook và thư viện điện tử rất thuận lợi cho việc lưu giữ sách và có
thể đọc ở bất kỳ đâu.
Đuốc lá dừa đã thí điểm hoạt động từ tháng 11/2022 với Lớp 21DDP1B (sinh viên năm thứ
hai), ngành Hàn Quốc học, Khoa Ngoại ngữ, Trường Đại học Nguyễn Tất Thành, TP. Hồ Chí Minh.
Bước đầu tác giả hướng dẫn các sinh viên tìm hiểu một số tác giả và tác phẩm văn chương cổ như tác
giả Nguyễn Đình Chiểu, tác giả Hồ Biểu Chánh [18], tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc [19],…
viết tóm tắt tiểu sử và chuyển ngữ sang tiếng Hàn, bản dịch đã được xem và sửa chữa lại bởi một
Mentor, tiến sĩ người Hàn Quốc [20]. Hoạt động này là bước thăm dò mức độ am hiểu và yêu thích
văn chương cổ Việt Nam của giới trẻ Việt và giới nghiên cứu học thuật Hàn Quốc, sau ba tháng thực
hiện, Đuốc lá dừa đã cảm thấy tự tin để có thể tiến hành các bước đưa dự án vào hoạt động thực tế.
4. Kết luận
Văn học cổ là một thể loại rất kén chọn đối tượng độc giả vì hình thức diễn đạt (câu, chữ...), bối
cảnh và nội dung mang tính đặc trưng của thời đại mà tác giả sinh sống, nên, bên cạnh việc tìm hiểu
về nội dung, người đọc cũng phải có sự am hiểu nhất định về văn hóa và lịch sử, nếu không am hiểu
hoặc chưa được giải thích tường tận sẽ không cảm nhận được cái hay, cái đẹp của tác phẩm. Các tác
phẩm văn chương cổ như là tiếng vọng từ ngàn xưa vượt không gian và thời gian lưu truyền cho hậu
thế, phản ánh chân thực một giai đoạn của lịch sử bằng đôi mắt và cảm xúc của người thời đại đó với
chất liệu cuộc sống của chính họ. Mạng internet phủ sóng toàn cầu đã phá bỏ các rào cản địa lý trong
thế giới ngày nay, việc chuyển ngữ các tác phẩm văn chương cổ như là một nỗ lực để phá vỡ các rào
cản ngôn ngữ giúp các quốc gia hiểu nhau hơn thông qua hiểu biết văn hóa, nghệ thuật và cũng là một
hình thức bảo tồn các giá trị phi vật thể từ các tác phẩm văn chương cổ của dân tộc.
15
BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU VỀ TỪ NGỮ XƯNG HÔ
TRONG BỘ TRUYỆN KÍNH VẠN HOA CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH
TỪ GÓC NHÌN NGỮ NGHĨA
Hoàng Thị Tường Linh*, Bùi Viết Lãm
Khoa Giáo dục Tiểu học, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế
*Tác giả liên hệ: Điện thoại: 0934 675 734; Email: httlinh@hueuni.edu.vn
TÓM TẮT
Người Việt Nam có hệ thống nghi thức lời nói rất phong phú. Đặc biệt là sự phong phú trong hệ
thống từ ngữ xưng hô tiếng Việt. Từ ngữ xưng hô tiếng Việt không chỉ dùng để xưng và hô nhằm thể
hiện mối quan hệ giữa các đối tượng khi giao tiếp mà còn là phương tiện để biểu đạt tình cảm. Bài viết
này bước đầu nghiên cứu về lớp từ ngữ xưng hô dưới góc nhìn ngữ nghĩa trong một số tập truyện của bộ
truyện Kính vạn hoa của Nguyễn Nhật Ánh. Từ việc nghiên cứu một số trường hợp xưng hô cụ thể góp
phần làm rõ thêm một số nét khác biệt trong cách sử dụng lớp từ ngữ này ở hoạt động giao tiếp nói chung
và cách sử dụng trong bộ truyện Kính vạn hoa nói riêng.
Từ khóa: Kính vạn hoa, từ ngữ xưng hô, ngữ nghĩa.
1. Mở đầu
Theo lý thuyết giao tiếp, một hoạt động đối thoại chỉ thực hiện được một cách có hiệu quả khi các
đối tượng tham gia giao tiếp đã thực hiện đúng vai giao tiếp của mình. Khi xưng hô đúng và phù hợp sẽ
tạo ra hiệu quả giao tiếp, thể hiện trình độ văn hoá của người tham gia giao tiếp và đồng thời đạt được
mục đích của hoạt động giao tiếp. Từ trước đến nay, nhiều công trình nghiên cứu đã dành mối quan tâm
đến hệ thống từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt. Tuy nhiên, các nghiên cứu tập trung khảo sát về từ ngữ
xưng hô trong gia đình người Việt, trong nhà trường, trong cộng đồng nhưng nghiên cứu từ ngữ xưng hô
trong tác phẩm văn học cụ thể thì lại chưa có nhiều. Văn học thiếu nhi lại là nơi thể hiện sinh động về
cấu trúc từ vựng, biểu đạt cách cảm, cách nghĩ trong hoạt động giao tiếp của những nhân vật nhỏ tuổi,
khiến cho ngôn ngữ thể loại trở nên nổi bật, mang nét đặc trưng riêng. Việc ứng dụng lý thuyết chung về
từ ngữ xưng hô vào nghiên cứu, phân tích ngôn ngữ trong truyện thiếu nhi không chỉ nhằm nhận diện
đầy đủ, toàn diện về phong cách độc đáo của nhà văn mà còn góp phần làm rõ văn hóa ứng xử của trẻ
em trong giao tiếp. Nguyễn Nhật Ánh là một cái tên rất tiêu biểu trên diễn đàn văn học Việt Nam. Với
giọng văn nhẹ nhàng, hóm hỉnh, Kính vạn hoa đã trở thành tác phẩm nổi bật của nhà văn này và đi vào
tuổi thơ của mỗi đứa trẻ. Xuyên suốt Kính vạn hoa, Nguyễn Nhật Ánh trung thành với phong cách khẩu
ngữ tự nhiên, nhẹ nhàng. Qua cuộc đối thoại của các nhân vật, mà ba nhân vật chính là Quý Ròm, Tiểu
Long và Hạnh, lớp từ ngữ xưng hô với hệ thống từ địa phương, biệt ngữ... được Nguyễn Nhật Ánh vận
dụng khéo léo. Vì vậy, bài viết bước đầu nghiên cứu đặc điểm của từ ngữ xưng hô trong một vài trường
hợp cụ thể góp phần làm rõ thêm đặc điểm ngôn ngữ của bộ truyện này.
2. Nội dung
2.1 Phân loại từ ngữ xưng hô trong Bộ truyện Kính vạn hoa của Nguyễn Nhật Ánh
Chúng tôi khảo sát 5 tập truyện của bộ truyện Kính vạn hoa gồm: Xin lỗi mày, Tai To; Bên ngoài
cửa lớp; Cháu của bà; Anh và em; Thằng thỏ đế. Nguyễn Nhật Ánh viết cho lứa tuổi thiếu nhi, một lứa
tuổi ưa hoạt động, thích khám phá. Chính vì vậy, Nguyễn Nhật Ánh luôn xây dựng những cuộc đối thoại
với hệ thống từ ngữ xưng hô khá đa dạng.
2.1.1. Các danh từ thân tộc dùng làm từ xưng hô
Từ thân tộc trong hệ thống từ xưng hô trong bộ truyện Kính vạn hoa của Nguyễn Nhật Ánh không
chỉ dùng để xưng hô trong gia đình, họ tộc mà còn được sử dụng đối với các mối quan hệ xã hội, với
những người không có quan hệ huyết thống. Việc sử dụng hệ thống từ ngữ này nhằm mục đích làm cho
mối quan hệ của người xưng và người hô trở nên thân thiết, gần gũi hơn. Điều này cũng thể hiện một
phần nào đó phép ứng xử, mối quan hệ của cá nhân trong cộng đồng. Từ xưng hô khi được sử dụng cũng
16
sẽ linh hoạt, phù hợp với hoàn cảnh, thái độ giao tiếp đối với đối tượng được hướng đến.
(1) “Cung sửng cồ khiến Quốc Ân sửng cồ theo:
- Đồ ngốc! Chơi với bọn ông, có gì bọn ông còn bao che và bênh vực giùm cho, quậy một mình chỉ
tổ ngồi chép phạt rã tay thôi con ạ!
- "Con" cái đầu mày!
- Cung đứng bật dậy, mắt long sòng sọc
- Ai cho tụi mày "ông ông, con con" với tao!”
(Bên ngoài cửa lớp)
Trong cách xưng hô ông, bà là bậc cao trong xã hội, đòi hỏi sự tôn trọng, lễ phép của người bậc
dưới đối với bậc trên. Đó là nét văn hoá của người Việt nói chung và người Nam Bộ nói riêng. Tuy nhiên,
trong nhiều ngữ cảnh, từ xưng hô thân tộc “ông”, “con” được sử dụng mang sắc thái khinh bỉ, báng bổ…
Trong mối quan hệ gia đình, đôi khi từ xưng hô thể hiện tình cảm khác nhau có lúc thân mật, ngọt
ngào, nhẹ nhàng nhưng có lúc giận dữ, oán trách. Cũng là từ “cháu” nhưng trong hoàn cảnh giao tiếp
khác nhau thì nó lại thể hiện thái độ khác nhau của nhân vật giao tiếp.
(2) “Cháu còn cãi bướng nữa hả? Người ta gọi bằng miệng chứ chẳng ai lại gọi bằng một khúc
cây!”(Xin lỗi mày, Tai To)
Trong trường hợp này nó đã biểu thị sự tức giận, trách móc của Dì Khuê đối với cháu của mình là
thằng Tùng vì dám đối đãi với con Tai To không được tốt, thường xuyên đánh đập.
(3) “Sao vậy cháu? Ai trói cháu vậy?” (Xin lỗi mày, Tai To)
Còn trong trường hợp (3) này nó lại biểu thị thái độ khác, cũng là từ ngữ xưng hô là “cháu” nhưng
lại biếu thị sự quan tâm, lo lắng về sức khoẻ mà Dì Khuê dành cho cháu mình khi bị hai tên cướp khống
chế.
Một số danh từ thân tộc được dùng làm từ xưng hô trong bộ truyện Kính vạn hoa như: sư tỷ, sư
muội, sư huynh…là các từ Hán Việt nhưng có khi được dùng để biểu thị sắc thái biểu cảm, thân mật như
trong một gia đình.
2.1.2. Xưng hô bằng danh từ chỉ tên riêng
Danh từ chỉ tên riêng phản ánh tên gọi các nhân vật giao tiếp mà trong quá trình giao tiếp người ta
sử dụng để xưng hô thay thế cho danh từ thân tộc, danh từ chỉ nghề nghiệp, chức danh hay đại từ nhân
xưng thông thường. Xưng hô bằng tên: Dưỡng, Lâm, Tuấn, Tú, Cung, Lệ, Long, Quý, Lâm, Bá, Hạnh,
Tùng, Đạt, Nghị, Khuê, Hạnh, Vũ, Hải, ví dụ:“Đi sau anh Tuấn anh Tú là ba nó.” (Cháu của bà); Xưng
hô bằng tên đệm + tên: Tiểu Long, Minh Vương, Kim Em, Mỹ Linh, Cẩm Vân, Vành Khuyên, Hiển
Hoa...
(4) “Năm nay chẳng biết hai con nhỏ Mỹ Linh và Cẩm Vân mới toang kia hát hò không biết có ra
gì không mà nghe cái tên giống hệt ca sĩ lừng danh.” (Thằng thỏ đế )
2.1.3. Các từ loại khác được dùng làm từ xưng hô
Bên cạnh những phương tiện dùng để xưng hô được chia thành các nhóm như danh từ thân tộc,
danh từ chỉ tên riêng…thì những từ còn lại do có những cách cấu tạo đặc biệt nên chúng tôi xếp vào các
từ loại khác dùng làm từ xưng hô. Các từ loại khác được dùng làm từ xưng hô trong bộ truyện Kính vạn
hoa của Nguyễn Nhật Ánh xuất hiện khá đa dạng với nhiều màu sắc mới mẻ, làm cho câu chuyện trở nên
hấp dẫn, lôi cuốn hơn như: đối thủ, thiên hạ, đội nhà, ông nhóc, ông tướng, cổ động viên, thủ phạm, đội
trưởng, bạn, anh chàng, thằng mập, đối phương, thằng, đứa bạn, thằng này, bạn, thằng ròm, người ta,
thằng quỷ con, bà mập, con nhỏ, các em, đứa học trò, hai em, các ngươi, thằng bù nhìn, đối phương,
đám quỷ con, thằng ngốc, thằng hèn, thằng quỷ, oắt con, mọi người, bà bạn, kẻ chạy trốn, ông tướng
con, bạn chí cốt, cưng, thằng bé...
(5) “Nhà của thằng bù nhìn xa lắm bà ạ!” (Cháu của bà)
(6) “Thôi, dậy đi ông tướng con.” ( Xin lỗi mày, Tai To!)
(7) “Bốn đứa ma cũ xúm vào hiếp đáp một đứa ma mới, trông chẳng được mắt tí nào!” (Thằng
thỏ đế)
Qua tìm hiểu và phân loại các từ ngữ xưng hô được sử dụng trong bộ truyện Kính vạn hoa, chúng
tôi nhận thấy Nguyễn Nhật Ánh đã sử dụng rất linh hoạt, đa dạng hệ thống từ ngữ xưng hô. Trong cách
xưng hô của các nhân vật trong truyện cũng có sự linh hoạt cao, quan hệ xưng hô phụ thuộc vào tuổi tác,
17
địa vị xã hội, thời gian, không gian giao tiếp, sắc thái tình cảm của người sử dụng. Đặc biệt, hệ thống từ
ngữ xưng hô mới mẻ, phong phú thể hiện sự sáng tạo của tác giả và đời sống ngôn ngữ của trẻ.
2.2 Một số đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ xưng hô trong bộ truyện Kính vạn hoa của
Nguyễn Nhật Ánh
Trong phạm vi nghiên cứu, chúng tôi thấy xuất hiện rất nhiều các đại từ xưng hô như: tao, nó, hắn,
mày. “Tao” có đại từ hô ứng: “mày”, “mi”, “hắn”, “nó” (ngôi ba). Trong giao tiếp, việc sử dụng cặp từ
hô ứng “tao – mày, mi”; “tao – nó”; “tao – hắn”, chúng tôi thấy nó mang hai sắc thái: hoặc thân mật,
suồng sã, hoặc tỏ vẻ coi thường, khinh miệt. Chẳng hạn, “mày, tao, mi, tớ” là các đại từ xưng hô mang
sắc thái không lịch sự, thiếu tôn trọng người khác, chỉ những người thấp kém trong xã hội mới sử dụng,
hoặc người ở địa vị xã hội cao như “địa chủ” gọi “đầy tớ, nô bộc” của mình. Tuy nhiên, trong xã hội
ngày nay nói chung và trong phạm vi khảo sát các truyện của bộ truyện Kính vạn hoa của Nguyễn Nhật
Ánh nói riêng, chúng tôi nhận thấy ông sử dụng khá nhiều và đều mang sắc thái thân mật, suồng sã.
(8)“Hải quắn nhìn Quốc Ân:
- Mày đừng trêu nó nữa!
Hải quắn làm Quốc Ân ngạc nhiên quá chừng. Nó tròn mắt:
- Mày “bồ đề bồ tát” tự khi nào thế hả?
- Tao chẳng “bồ đề bồ tát” gì sất! – Hải quắn khịt mũi – Nhưng trêu vào nó cũng như trêu vào cục
bột, tao chẳng thấy khoái tí ti ông cụ nào!”
(Thằng thỏ đế)
(9) “Trả lời tao đi! Mày đi đâu về đó?”
(Cháu của bà)
Chúng ta có thể thấy được thái độ của người Việt Nam đối với việc giao tiếp, người Việt Nam vừa
thích giao tiếp vừa lại rụt rè. Đến với Nguyễn Nhật Ánh ta có thể thấy ông đã xây dựng nhân vật với một
thái độ giao tiếp cởi mở, hòa nhã hay có chút bốc đồng của tuổi trẻ với bạn bè và những người xung
quanh nhưng bên cạnh đó vẫn có sự ý tứ, ngại ngùng khi giao tiếp với những người lạ hoặc những người
bạn khác giới. Khi Cung giao tiếp với Kim Em là người mà mình thích thì Cung tỏ ra e ngại, bối rối trong
khi giao tiếp với Kim Em, gọi anh chàng vẫn thường viết thư cho Kim Em là anh chàng da ngăm.
(10) Ngập ngừng một thoáng, nó đánh bạo hỏi:
Anh chàng Da Ngăm đó viết gì cho Kim Em vậy?
Anh chàng Da Ngăm nào? – Kim Em ngơ ngác.
À, à...- Sực nhớ Da Ngăm là cái tên do chính mình đặt ra, Cung bối rối quệt mũi – Ý tôi muốn nói
đến anh chàng bên lớp 9A3 vẫn thường viết thư cho Kim Em ấy mà!
(Bên ngoài cửa lớp)
Ông bà và cháu trong gia đình người Việt ở Nam Bộ thường sử dụng cặp từ xưng hô có tính chất
thuận nghịch như: ông/bà và cháu/con để xưng hô với nhau. Ông/bà tự xưng mình là ông/bà và gọi cháu
mình là cháu hoặc con. Ngược lại, cháu tự xưng mình là cháu hoặc con và gọi ông, bà mình là ông, bà.
Đây thực chất là cách xưng gọi bằng vai, nghĩa là dùng vai của mình trong quan hệ với đối tượng để
xưng và dùng vai của đối tượng trong quan hệ với mình để gọi. Tuy nhiên, trong ngữ liệu khảo sát cho
thấy, trong giao tiếp hằng ngày giữa ông/bà và cháu, ông/bà tự xưng bằng chính vai mình (ông/bà), gọi
cháu là con và cháu cũng tự xưng là con, rất hiếm khi xưng cháu.
Khi ông bà gọi cháu là mày và xưng là tao thì lúc này cặp từ xưng hô vừa thể hiện sắc thái trung
hòa vừa mang sắc thái âm tính. Tuy nhiên, trên cứ liệu khảo sát, qua các cuộc đối thoại của các nhân vật
trong truyện, ông gọi cháu theo kiểu tao – mày là rất bình thường, sắc thái tình cảm không có gì thay đổi,
suồng sã và thể hiện sự thân mật, gần gũi. Xưng hô trước hết một phần nào thể hiện thái độ, tình cảm cá
nhân và sắc thái văn hoá vùng miền, văn hóa trong từng độ tuổi. So với miền Trung, miền Bắc thì không
ai có thể phủ nhận Nam Bộ là vùng đất được thiên nhiên ưu đãi. Từ những cánh rừng bạt ngàn nước,
sông ngòi chằng chịt đến những vùng đất bồi lắng phù sa, những miệt vườn sum suê cây trái đến những
mương rạch dọc ngang tấp nập xuồng ghe và những xóm làng rộn vang nhịp sống. Tất cả đã tạo nên một
lối sống phóng khoáng, một miền Tây Nam Bộ với những bản sắc văn hóa và cá tính riêng. Điều đó phần
nào thể hiện trong văn hoá ứng xử, theo đó cách xưng hô trong giao tiếp hằng ngày của người Nam Bộ
18
cũng dễ dãi hơn, phóng khoáng hơn. Trong văn học, ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật khi sử dụng từ
ngữ xưng hô cũng thể hiện rõ điều này. Nếu cuộc sống của người lớn Nam Bộ phong phú và đa dạng thì
đời sống của trẻ em cũng giàu tình cảm, cảm xúc. Do vậy, trẻ em giao tiếp rất thoải mái, vui vẻ, suồng
sã trong xưng hô đúng với lứa tuổi của mình.
Cùng một từ xưng hô, với cùng một nghĩa nhưng trong các phương ngữ thì phát âm có khi không
giống nhau. Sự khác biệt này được coi là sản phẩm, hệ quả tất yếu của diễn tiến lịch sử ngữ âm tiếng
Việt. Từ tui, dù là biến thể của tôi nhưng so với tôi, tui vẫn có sự khác biệt. Tui trong bộ truyện Kính vạn
hoa có thể xưng hô với những đối tượng giao tiếp có địa vị và tuổi tác cao hơn nhưng không hề bị coi là
xấc xược, hỗn láo, ngược lại hoàn toàn mang sắc thái thân mật, gần gũi. Có lẽ bởi từ tui trong bộ truyện
Kính vạn hoa vẫn còn lưu giữ nghĩa gốc của từ tôi vốn có nghĩa chỉ kẻ tôi tớ, hèn mọn. Nếu như hiện
nay, tôi đã được người Việt Trung Bộ sử dụng như một đại từ xưng hô mang sắc thái trung hoà trong
hoạt động giao tiếp giữa những người thân thiết thì việc sử dụng đại từ này để xưng hô với người lớn
tuổi hoặc người có địa vị cao hơn thì có thể bị coi là hành vi xấc xược, hỗn láo. Như vậy, ý nghĩa sắc thái
ban đầu của từ tôi đã có sự biến đổi. Trong khi đó, nó vẫn được lưu giữ ở từ tui trong bộ truyện Kính vạn
hoa thể hiện sự khiêm nhường theo đúng nguyên tắc“xưng khiêm, hô tôn” của người Việt. Về điểm này,
từ tui cuộc đối thoại của trẻ em trong bộ truyện Kính vạn hoa rất gần gũi với từ tui trong xưng hô của
người miền Trung, ví dụ: "Bà" cứ véo tai "tui" cho sướng đi, mai mốt "bà" có chồng, thế nào chồng "bà"
cũng véo sứt tai "bà" cho "bà" coi! Gieo gió gặt bão mà!” (Bên ngoài cửa lớp).
3. Kết luận
Dù có nhiều đại từ thuộc vốn từ xưng hô trong tiếng Việt toàn dân nhưng những đại từ ấy trong bộ
truyện Kính vạn hoa vẫn có những đặc trưng riêng về sắc thái ý nghĩa. Do đó, nó vẫn thể hiện được dấu
ấn Nam Bộ một cách rõ nét và tính biểu cảm trong ngôn ngữ của trẻ em. Bài viết bước đầu nghiên cứu
một số trường hợp từ ngữ xưng hô trong tác phẩm Nguyễn Nhật Ánh cho thấy cách sử dụng, lựa chọn từ
ngữ xưng hô gắn với ngữ cảnh, yếu tố tôn ti, quan hệ giao tiếp góp thêm cách nhìn về đặc trưng ngữ
nghĩa, văn hoá xưng hô của trẻ em nói chung và trong tác phẩm nói riêng.
19
MỐI QUAN HỆ GIỮA TÔN GIÁO VÀ THƠ CA VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Nguyễn Thị Kim Hồng*
Bộ môn Văn học, Khoa Sư phạm, Trường Đại học Tây Nguyên
*Tác giả liên hệ: Điện thoại: 0344 477 697; Email: nguyenkimhong504@gmail.com
TÓM TẮT
Tôn giáo và thơ ca có mối quan hệ gắn bó mật thiết. Tôn giáo là đối tượng quan tâm và mô tả của
thơ ca. Tôn giáo là nguồn cảm hứng bất tận cho sáng tạo nghệ thuật. Còn thơ ca được sử dụng như một
hình thức để tôn giáo thể hiện các giáo lý, giáo luật. Mặt khác, tôn giáo còn có thể tác động đến sự chiêm
nghiệm, suy tư về cuộc đời, con người của nhà thơ cũng như những phương thức tổ chức thế giới nghệ
thuật thơ. Nhìn từ phương diện này, tôn giáo góp phần nâng tầm tư tưởng, cảm xúc của thơ ca. Trong
phạm vi bài viết này, chúng tôi nghiên cứu mối quan hệ giữa tôn giáo với thơ ca Việt Nam hiện đại.
Từ khóa: tôn giáo, thơ ca, mối quan hệ.
1. Đặt vấn đề
Tôn giáo là vấn đề vừa mang tính trí tuệ, khoa học; vừa mang tính siêu hình, thần bí. Đều thuộc về
hình thái ý thức xã hội, giữa tôn giáo và văn học có liên quan mật thiết, có sự giao thoa lẫn nhau, trong
đó, tôn giáo có sự chi phối, ảnh hưởng nhiều phương diện của sáng tác văn học; ngược lại, văn học, trong
đó có thơ ca, là nơi thể hiện các tư tưởng hoặc cảm xúc về tôn giáo một cách nghệ thuật. Lịch sử văn học
dân tộc cho thấy, sự ảnh hưởng của các loại hình tôn giáo, nhất là Phật giáo và Ki tô giáo, đã khơi dậy
nguồn mạch cảm hứng sáng tạo vô tận cho biết bao nhà thơ, nhà văn qua nhiều thế hệ. Thơ ca hiện đại
từng chứng kiến không ít gương mặt tài hoa đi tìm cảm hứng từ tôn giáo, như: Hàn Mặc Tử, Quách Tấn,
Chế Lan Viên, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Thích Nhất Hạnh, Phạm Thiên Thư, Minh Đức Triều Tâm
Ảnh, Mai Văn Phấn... Bài viết này nghiên cứu mối liên hệ, ảnh hưởng của tôn giáo trong thơ Việt Nam
hiện đại.
2. Nội dung
Tôn giáo và văn học nghệ thuật có mối liên hệ gắn bó mật thiết. Trong văn học nghệ thuật, có lẽ
thơ ca là lĩnh vực có nhiều điểm gặp gỡ, tương đồng nhất với tôn giáo. Sự tương đồng, gặp gỡ ấy thể
hiện rõ nhất ở những điểm sau đây:
Thứ nhất, về bản chất, tôn giáo và thơ ca đều có chung một hình thức tư duy, đó là tư duy hướng
nội. Con người tìm đến với tôn giáo để thỏa mãn nhu cầu tinh thần, thỏa mãn khát vọng về cuộc sống
bình yên, thanh thản, tốt đẹp hơn cuộc sống trần thế. Tôn giáo rất chú trọng đến trực giác, tâm linh. Kiểu
tư duy này lại phù hợp với yêu cầu sáng tạo nghệ thuật, đặc biệt là sáng tạo thơ ca - một hình thức nghệ
thuật thiên nhiều về cảm xúc, ưa giải phóng trí tưởng tượng, đề cao trực giác, vô thức trong sáng tạo. Dĩ
nhiên, bên cạnh trực giác, tư duy nghệ thuật còn cần cả nhận thức lí tính, mang tính chất tổng hợp. Trong
đó, trực giác có lẽ vẫn là yếu tố hàng đầu mà người nghệ sĩ cần phải có. Vì vậy, sự tương thích về mặt
tư duy hướng nội này khiến cho thơ ca khi gặp tôn giáo như gặp được bệ đỡ, được chắp cánh và khơi
nguồn cảm hứng sáng tạo mới mẻ.
Thứ hai, cả tôn giáo và thơ ca đều là những hình thái ý thức xã hội, đều có chức năng nhận thức và
tái hiện đời sống thực tại. Tất nhiên, ở thơ ca, chân lý cuộc sống được nhà thơ nhận thức thông qua những
rung động nghệ thuật và được thể hiện bằng một thế giới hình tượng, thì ở tôn giáo, chân lý được nhận
thức bằng thực nghiệm tâm linh, qua những chiêm nghiệm suy tư và được biểu đạt bằng những ý niệm,
thông qua một thế giới biểu tượng. Cho nên, nếu đặc tính của thơ ca là cụ thể, cảm tính thì đặc tính của
tôn giáo là trừu tượng, siêu hình. Chính điểm giống và khác này là cơ sở để tôn giáo và thơ ca luôn bổ
trợ lẫn nhau. Và sự phân biệt trên đây cũng chỉ là tương đối, không có ý nghĩa phổ quát với mọi loại hình
thơ. Bởi thế, mối quan hệ giữa tôn giáo và thơ ca nhiều lúc không chỉ là gặp gỡ, giao thoa, mà đạt đến
độ thống nhất hài hoà, khó tách biệt.
20
Thứ ba, cả tôn giáo và thơ ca đều hướng tới chủ nghĩa nhân văn. Chân lí đơn giản của tôn giáo, suy
cho cùng chính là tình yêu thương, sẻ chia giữa con người và con người trong cuộc sống. Và sứ mệnh cao
cả của thơ ca là chuyên chở được tư tưởng nhân văn, triết lí hướng thiện ấy.
Những tương đồng, gặp gỡ trên đây đã tạo nên cơ sở của mối quan hệ gắn kết bền chắc giữa
thơ ca và tôn giáo. Mối quan hệ đó biểu hiện ở những điểm sau đây:
Trước hết, tôn giáo và thơ ca có sự nương tựa, ảnh hưởng lẫn nhau. Tôn giáo là đối tượng quan
tâm và mô tả của thơ ca. Tôn giáo là nguồn cảm hứng bất tận cho sáng tạo nghệ thuật. Còn thơ ca lại
được sử dụng như một hình thức để tôn giáo thể hiện các giáo lý, giáo luật. Những bài kinh ca, những
cuốn sách ghi chép lại những triết lý tôn giáo đều được thể hiện một cách độc đáo, sáng tạo dưới những
bài thơ, những câu thơ dài ngắn khác nhau, vừa tinh túy mà lại thể hiện được chất văn chương nhẹ nhàng.
Vì vậy, có thể nói thơ ca và tôn giáo không chỉ có quan hệ với nhau về nội dung mà còn cả hình thức thể
hiện. Nhờ thơ ca mà các hình thức của tôn giáo hiện lên sinh động và hấp dẫn hơn, không đơn nhất. Giáo
lý của tôn giáo vốn trừu tượng, khó hiểu cũng trở nên gần gũi hơn và dễ hiểu hơn khi được chuyển tải
qua thơ ca.
Mặt khác, tôn giáo còn có thể tác động đến sự chiêm nghiệm, suy tư về cuộc đời, về con người của
nhà thơ cũng như những phương thức tổ chức thế giới nghệ thuật thơ. Theo đó, một mặt tư duy tôn giáo
có ý nghĩa như một công cụ để người nghệ sĩ “nhân loại hóa thơ mình”. Tức là nó đóng vai trò cơ chế tư
tưởng chuyển tải những giá trị riêng tư, cá nhân, dân tộc, khu vực thành những giá trị chung của thế giới,
nhân loại. Tôn giáo đẩy mạnh khả năng suy tưởng của con người trước những câu hỏi mang tính bản thể
luận. Mặt khác, tư duy tôn giáo còn là một công cụ hữu hiệu để nâng cánh cho trực giác nghệ thuật tuyệt
vời của nhà thơ bay cao, bay xa vào cõi siêu hình. Những hình ảnh tưởng tượng kì ảo, linh diệu, những
mô típ, chủ đề, ẩn dụ, giàu sức gợi, cả giọng điệu đầy sức mê hoặc trong các kinh điển tôn giáo qua sự
sáng tạo, nhào nặn lại của thi sĩ hiện lên với một sắc thái thẩm mỹ đặc biệt. Tôn giáo còn giúp cho người
nghệ sĩ cân bằng lại những khủng hoảng về mặt tinh thần của con người trong thời đại văn minh vật chất,
giúp con người có niềm tin để sống tốt hơn. Nhìn từ phương diện này, tôn giáo góp phần nâng tầm tư
tưởng, cảm xúc của thơ ca.
Hơn thế nữa, tự bản thân tôn giáo nhiều lúc đã mang tính thơ. Đó chính là lúc mối quan hệ giữa
tôn giáo và thơ ca đạt đến độ thống nhất hài hoà, khó tách biệt rạch ròi. Một thực tế là Tam tạng kinh
điển của Phật giáo, Kinh thánh Thiên Chúa giáo... giàu hình tượng văn học, đầy chất thơ, đậm chất văn
chương, nghệ thuật. Và không chỉ những nghệ sĩ là môn đồ của một tôn giáo cụ thể mới có thể làm nên
được những vần thơ tôn giáo, mà cả những nghệ sĩ không là môn đồ của một tôn giáo nào cũng làm nên
những tác phẩm tôn giáo tuyệt diệu chỉ cần họ là người có “tín tâm”. Điều này đã được nhà nghiên cứu
Chu Văn Sơn xác định ở dạng thức thứ hai của thơ tôn giáo, đó là dạng ẩn chìm “kẻ viết có tín tâm nhưng
không hề là tín đồ của bất cứ giáo phái hiện hành nào, tôn giáo chỉ đơn thuần như một cảm quan, một cái
nhìn nghệ thuật về thực tại” [8].
Nói tóm lại, những phân tích trên đây đã phần nào cho thấy mối quan hệ giữa tôn giáo và thi ca hết
sức phong phú, đa dạng. Nó thể hiện trong tư tưởng, trong tư duy nghệ thuật và cả trong lối thể hiện. Tôn
giáo tạo nên cảm hứng của thơ ca, còn thơ ca trong vai trò hình thức thể hiện đã mang lại những sức sống
mới, những điệu hồn mới làm cho đời sống tinh thần của con người thêm phong phú và tươi đẹp hơn.
Lịch sử văn học nhân loại đã ghi nhận nhiều những tên tuổi nghệ sĩ tiếp thu sáng tạo tinh hoa của tôn
giáo, tạo nên những phong cách nghệ thuật đặc sắc như R. Tagore, Hàn Mặc Tử… Trên thực tế, mối
quan hệ giữa văn học và tôn giáo là mối quan hệ đã được minh chứng qua thời gian. Từ lâu, tôn giáo đã
trở thành một nguồn mạch khơi dậy những cảm hứng cho văn học trên thế giới. Các nền văn học lớn như
Trung Quốc, Nga, Ấn Độ… đều mang đậm dấu ấn tôn giáo. Trong văn học Việt Nam, ở văn học trung
đại, văn học các đời Lý, Trần, đều gắn liền với cảm quan Phật giáo. Riêng về lĩnh vực thơ - tôn giáo thực
sự đã và đang tồn tại trong các nền thơ phương Đông, trong đó có Việt Nam, góp phần làm nên giá trị
riêng cho thơ ca.
Cảm hứng tôn giáo trong thơ có thể hiểu là trạng thái hứng thú của nhà thơ đối với tôn giáo và
những hứng thú đó được biểu đạt trong thơ qua nội dung, tư tưởng, hình ảnh, biểu tượng, ngôn ngữ…
Tuy nhiên, cách định nghĩa về cảm hứng tôn giáo trong thơ như vậy có phần đơn giản và dễ dẫn đến
những ngộ nhận. Một là, cách hiểu như vậy sẽ dễ đánh lẫn cảm hứng với đề tài. Điều này khiến cho
21
nhiều nghệ sĩ hoặc độc giả có thể lầm tưởng rằng, chỉ cần đặt vào tác phẩm một vài hình ảnh, từ ngữ,
hoặc cao hơn là một vài ý niệm trong giáo lí tôn giáo là mặc nhiên xem tác phẩm đó đã có cảm hứng
về tôn giáo. Hai là, không phải là nhà thơ cứ tiếp xúc với tôn giáo thì cảm hứng tôn giáo trong thơ
đã hình thành. Một sự tiếp xúc dù thân mật đến cỡ nào cũng không đủ sức để tạo nên nội dung.
Theo chúng tôi, điều kiện căn bản để có cảm hứng tôn giáo đúng nghĩa là nhà thơ phải hiểu, tin và
thấm nhuần các giáo lí tôn giáo. Tôn giáo phải nằm trong “máu thịt” của người nghệ sĩ dù tác giả có viết
về tôn giáo hay không. Không có điều kiện này, cảm hứng tôn giáo chỉ là trang sức bên ngoài. Từ đây sẽ
xảy ra hai trường hợp hình thành cảm hứng tôn giáo ở một nhà thơ. Một là, nhà thơ phải là một tín đồ
trước khi viết. Hai là, nhà thơ có thể không là tín đồ của một tôn giáo nhưng anh ta nhất định phải tin
hoặc thấm nhuần các giáo lí căn bản của tôn giáo đó. Chính những giáo lí này ăn sâu trong tâm thức của
người nghệ sĩ, làm nảy sinh mỹ cảm nhiệt thành về tôn giáo và tự động chảy trong thơ.
Quá trình chuyển hóa sự thấm nhuần các giáo lí ấy thành các “kinh mạch tôn giáo” trong thơ có
thể hiểu là quá trình chuyển hóa từ ý thức tôn giáo sang ý thức trữ tình. Đây là một quá trình vận hành
hết sức đặc biệt. Quá trình đó làm cho tôn giáo, từ chỗ là ý thức, là đức tin của thi sĩ sẽ chuyển hóa, tan
thấm vào mọi ngóc ngách của thơ. Ý thức tôn giáo càng đậm thì sự hiện diện của nó trong thơ càng uyển
chuyển và ngược lại. Bởi vậy, khảo sát một vấn đề tôn giáo trong thơ một thi sĩ nào đó sẽ không có mẫu
số chung, nó phụ thuộc vào mức độ ảnh hưởng và thấm nhuần tôn giáo ở nhà thơ. Cụ thể, trong sáng tác
người nghệ sĩ phải hướng tới tôn giáo như một nền tảng chi phối thế giới nghệ thuật thơ. Dưới sự thôi
thúc của những cảm nghiệm sâu sắc về giáo lí, nhà thơ sẽ tiếp cận thực tại bằng điểm nhìn tâm linh và
phản ánh nó vào trong tác phẩm bằng những phương thức biểu đạt riêng, mang đậm màu sắc tôn giáo.
Như vậy, ở đây, cảm hứng tôn giáo trong thơ thực ra phải nằm ở cơ chế trữ tình chứ không đơn thuần
nằm ở các lớp nghĩa trong thơ. Hơn nữa, một khi niềm xúc động về tôn giáo đã chuyển hóa thành ý thức
trữ tình, thôi thúc hành động sáng tạo của người nghệ sĩ thì đó phải là niềm xúc động chân thành, mãnh
liệt nhất về tôn giáo. Khi đó, cảm hứng tôn giáo đã trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo ở trong tác phẩm
thơ.
Đối với các tác giả là tín đồ của một tôn giáo nhất định, sự tiếp thu ảnh hưởng tôn giáo, dĩ nhiên,
diễn ra một cách trực tiếp, chính thống và mạnh mẽ hơn. Các tác giả này dường như gắn bó cả cuộc đời
với tôn giáo họ đã lựa chọn. Nhiều tác giả đã bén duyên với tôn giáo ngay từ nhỏ do tiếp nối truyền thống
của gia đình. Qua quá trình tu tập, rèn luyện và được đào tạo, họ thấm nhuần sâu sắc đức tin tôn giáo,
am hiểu và say mê nghiên cứu triết lí của tôn giáo. Ở các nhà thơ là tín đồ này, chúng tôi nhận diện sự
tiếp thu ảnh hưởng tôn giáo ở hai nhóm nhà thơ: Thứ nhất, các nhà thơ là tín đồ Phật giáo, tiêu biểu như
Thích Nhất Hạnh, Minh Đức Triều Tâm Ảnh,... Thứ hai bao gồm các tác giả là tín đồ của Kitô giáo, tiêu
biểu có Hàn Mặc Tử, Mai Văn Phấn...
Trong quan niệm của Phật giáo, đức tin có nhiều điểm độc đáo, khác với các tôn giáo khác, nhất là
Thiên Chúa giáo. Vốn là tôn giáo vô thần, đức tin Phật giáo, theo đó, không đơn giản là một thứ gì mờ
ảo khiến cho con người cứ yên tâm thả mình vào đó, mà là để giúp cho con người nhận thức. Hãy nhìn
đức Phật ở địa vị chính của Ngài, và đừng bao giờ đặt ngài ở địa vị một thần linh, một chúa tể. Người
Phật tử nếu có tin tưởng, thì chỉ là tin tưởng ở sự dẫn đạo sáng suốt của bậc giác ngộ, tin tưởng ở khả
năng giác ngộ (Phật tính) sẵn có ở mọi loài, chứ không phải tin nơi quyền phép có thể ban phúc trừ họa.
Thơ của Thích Nhất Hạnh thể hiện cái nhìn hiện đại về đức tin Phật giáo. Trong các bài giảng của
Thích Nhất Hạnh, ông thường nhắc rằng, với đạo Phật, phần lớn chúng ta mới thực tập tín mộ, tín ngưỡng,
chứ ít người sử dụng được tuệ giác đạo Phật để chuyển hóa thân tâm, tháo gỡ những khó khăn. Cầu
nguyện cũng phần nào đem lại sự an lạc, vì giúp lắng dịu những khổ đau, lo lắng. Nhưng muốn giải quyết
tận gốc vấn đề thì phải có tuệ giác, mà tuệ giác phải do tu tập mới có được. Hạnh phúc là an lạc, không
có an thì không có lạc, an trong thân và trong tâm. Đó thực là sự uyên áo, thông tuệ của Thích Nhất
Hạnh. Qua thơ, ông giảng về Phật pháp mà không thấy chùa, cũng không thấy Kinh, không thấy Phật,
chỉ thấy đời sống, thấy những vấn đề hiện thực của thời đại, của đất nước, của gia đình và của chính
mình. Với thi nhân, đến với Phật không phải trông chờ vào phép mầu nhiệm của Phật trong cõi huyền bí
nào đó. Điều quan trọng là chúng ta phải vững tin: Nương tựa vào đâu/Pháp trần hình thành/Trên sắc
thanh hương vị xúc/Nét chữ xóa đi trong bản nháp tưởng tượng/Xóa đi hay không cần xóa đi/ Nương
tựa/Tìm đâu chốn về?/Ưng vô sở trụ (Sở y). Tin vào sự dẫn đạo sáng suốt của Phật, tin vào chính mình.
22
Nghĩa là ta phải tự giải thoát cho mình. Nhiều khi chỉ thay một quan niệm, con người đã thoát được khổ
đau, đã tìm thấy hạnh phúc đích thực. Bởi nhiều khi chính ý niệm về hạnh phúc lại là chướng ngại của
hạnh phúc. Con người có thể bị mắc kẹt, bị cầm tù bởi chính ý niệm của mình. Không phá được cái nhà
tù tự mình dựng lên để giam hãm mình thì làm sao có được hạnh phúc. Các tập thơ đều thể hiện rõ tư
tưởng này của Nhất Hạnh về đức tin Phật giáo.
Trong Điêu tàn, thấp thoáng bóng dáng của một tín đồ đang hướng tới đức Phật linh thiêng. Trong
cuộc đời, Chế Lan Viên không phải là tín đồ của một tôn giáo nào thì trong thơ ta lại bắt gặp một Phật
tử Chế Lan Viên rất ngoan đạo, thành tâm, đang tha thiết quỳ lạy trước Phật đài với một tấm lòng thành
kính, tin tưởng tuyệt đối vào phép màu nhiệm của Như Lai: Như Lai ơi! Con góp hết lòng tin/Xin quỳ
đây nô lệ trước chân thiêng (Sôi nổi). Trong khoảng khắc này, cái tôi thi nhân đang lẩn khuất dưới bóng
dáng một tín đồ đang nghiêng mình kính cẩn trước chân thiêng Phật đài. Hướng vọng về một đức tin
sùng đạo. Đó phải chăng là khao khát tìm bến bờ nương tựa, mong được giải thoát thoát khỏi bể khổ
trầm luân cuộc đời: Rất nhiệm màu, ôi Đấng Cả Mâu ni!/Xin từng thác từng nguồn mau rộng mở/Lòng
thương cao xuống lòng con đau khổ (Say). Chế Lan Viên đang chân thành cầu khẩn lòng khoan dung độ
lượng, từ bi của Đức Như Lai hãy đoái thương đứa con lạc loài của Người đang đau khổ rên xiết dưới
cõi nhân gian. Không chỉ thành tâm cầu nguyện như một tín đồ ngoan đạo, Chế Lan Viên còn tìm đến
Phật để giãi bày, mong tìm được niềm cảm thông, chia sẻ từ người: Giã từ lâu mười tám tuổi tơ non/
Tình ái chết và hồn con băng giá/ Chán ngán hết rồi khinh khi tất cả (Sôi nổi). Không tìm thấy hạnh
phúc trong cuộc đời, đau khổ trong tình yêu, chán ngán sự đời, thi nhân lại quay về với Phật mong được
sự yêu thương, che chở trong vòng tay nhân ái của người: Hãy nắm lấy tay con, hãy ôm con vào ngực/Hãy
để trong lòng cao, lòng thơ con thổn thức (Sôi nổi). Tuy cõi niết bàn, Đức Phật chỉ là một thế giới siêu
hình mộng ảo nhưng thi nhân đã đặt hết niềm tin và hy vọng vào đó. Thoát ly vào tôn giáo là một đặc
điểm của cái tôi trữ tình Chế Lan Viên cũng như nhiều nhà thơ mới. Dù lối thoát ấy chỉ mang lại “hạnh
phúc hư ảo” cho con người nhưng đó là con đường cứu rỗi linh hồn thi nhân không “sa ngã” trong cuộc
đời. Như vậy, con đường đi về với Phật của Chế Lan Viên cũng như nhiều nhà thơ mới lãng mạn có sự
khác biệt với các nhà thơ tu hành như Nhất Hạnh, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, v.v… ở chỗ, cảm hứng về
đức tin xuất phát từ nhu cầu được giải thoát của cái tôi cá nhân. Vì thế, cái tôi ấy mạnh mẽ cất cao tiếng
nói khẳng định cá tính, tài năng của bản thân nhưng lại thiếu niềm tin vào chính mình. Cảm giác lạc loài,
cô đơn với nỗi sầu định mệnh của thời đại lãng mạn đã khiến họ tìm đến đức tin thiêng liêng và màu
nhiệm như một cứu cánh. Nhưng đức tin tôn giáo, trong thời đại kim tiền ấy, cũng xa vời và huyền bí,
đầy mê hoặc nhưng cũng không hiện hữu, không chân thật. Kiếm tìm trong vô vọng, rốt cuộc cái tôi cá
nhân lại tiếp tục sa lầy vào vũng sầu định mệnh.
Với Phật giáo, con người có thể tìm thấy niết bàn, cực lạc, đạt đến hạnh phúc ngay ở cuộc đời này
nếu biết buông bỏ mọi sân si, ái chấp, tạp niệm. Ki tô giáo lại hướng con người tìm đến chân lý, ánh sáng
ở cõi Thiên đường. Trong quan niệm của Ki tô giáo, Thiên đường là chốn phước hạnh vĩnh cửu. Ở đó,
hạnh phúc không hư nát mà cũng không bị hủy diệt hay bị tước đoạt. Sách Khải Huyền cũng cho rằng,
sau khi chết, người được cứu rỗi sẽ được hưởng hạnh phúc đời đời của Thiên Chúa, vắng bóng sự đau
đớn, buồn khổ.
Hình ảnh cõi Thiên đường, vì thế, trước hết, đã đi vào trong cảm quan của các nhà thơ hiện đại, nhất
là thơ Hàn Mặc Tử, Võ Long Tê, Xuân Ly Băng, Trăng Thập Tự... như một thế giới hào quang, sáng láng
và đẹp đẽ, thơm tho: Hào quang vây riết điềm chiêm bao/Chúa hiện ra trong điệu nhạc nào/Đầy rẫy no nê
nguồn sáng láng/Rất nên trăng ngọc với sao vàng (Xuân như ý - Hàn Mặc Tử), Dõi tìm theo dấu hừng
đông/Kìa ai giặt áo ven sông nở vàng/Vàng trôi vàng rủ nhau sang/Ngước lên sáng rực trường giang
một màu (Thiếu phụ hoa vàng - Trăng Thập Tự)... Cũng như cõi Phật, để mỹ hóa vẻ đẹp của cõi Thiên
đường, các nhà thơ thường tìm về với các hình ảnh của thiên nhiên để xây dựng một thế giới Thiên đường
huyền diệu đầy âm thanh, ánh sáng, màu sắc và cả sự vận động đầy sức sống. Tuy nhiên, nếu cõi lí tưởng
của Phật giáo thiên về trạng thái an tĩnh, miên viễn thì cõi Thiên đường của Ki tô giáo thường rực rỡ, sáng
lòa, uyên nguyên, đầy hào quang.
Thậm chí, để gia tăng màu sắc lí tưởng của cõi Thiên đường, các nhà thơ thường đặt nó trong tương
quan đối lập. Nếu trần gian là cõi tạm thì Thiên đường là cõi vĩnh hằng, nếu địa ngục là cõi tối mà con
người phải trả giá cho những hậu quả mình gây ra thì Thiên đường là cõi sáng của chân lí hạnh phúc: Lìa
23
hẳn thế tình! Lìa bóng tối/Đường về rực rỡ ánh siêu nhiên (Mở hội tao đàn - Võ Long Tê)… Mức độ đối
lập nhiều khi được đẩy lên đến mức gay gắt, quyết liệt, tạo ra những phân cực mạnh mẽ trong thơ của các
nhà thơ hiện đại, nhất là thời Thơ mới - hệ hình thơ lãng mạn chủ nghĩa, ưu tiên tiếng nói của cảm xúc chủ
quan của cái tôi trong cảm hứng phủ định mạnh mẽ thực tại.
Chế Lan Viên, dù không theo đạo nhưng khá am hiểu Kinh thánh đạo Thiên Chúa. Những ảnh hưởng
của các tư tưởng triết lí Thiên Chúa giáo ít nhiều có phần chi phối đến quan điểm sáng tác của ông, là điểm
tựa để ông xây dựng nên một thế giới nghệ thuật độc đáo và kỳ lạ trong giai đoạn đầu của con đường thơ.
Trong Điêu tàn, Chế Lan Viên đã khắc họa rõ nét hình ảnh của một cõi âm, cõi đổ nát, đau thương trong
nỗi khắc khoải nhớ thương: Nhắm mắt lại cho cả bầu bóng tối/Mênh mang bên bát ngát tựa đêm sầu/ Cho
hồn phách say sưa trong giả dối/ Về cõi âm chờ đợi những bao lâu (Tạo lập); Ôi bát ngát mênh mông như
âm giới/Đây cõi ta rộng rãi đến vô biên (Cõi ta). Thế giới thơ của Chế Lan Viên ngập ngụa trong cõi địa
ngục, của rùng rợn, của yêu ma với những yêu tinh, hồn tàn, đốm lửa, bãi tha ma… Một thế giới u linh
của những quỷ dữ ma hời, những tiếng khóc than của muôn vạn cô hồn: Vào nơi đây, thế giới vạn cô
hồn/Hơi người chết tỏa đầy trong gió hớt (Xương khô); Đây những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn/ Muôn
ma hời sờ soạng dắt nhau đi (Trên đường về); Và xương khô, và sọ dừa, và thịt nát/ Và hơi âm rờn rợn
của yêu tinh (Mồ không). Tác giả muốn giải thoát ở chốn linh thủy, hư vô, giải thoát khỏi sự tù túng hiện
tại, vượt ra sự gò bó của không gian, của cõi đời, cõi người: Hỡi tạo hóa! Trả tôi về Chiêm quốc/ Hãy
đem tôi xa lánh cõi trần gian (Những sợi tơ lòng). Thế nhưng tìm đến tận cùng bóng tối và cái chết, đau
đớn và khoái trá ngụp lặn trong đó, rồi chính hồn thơ ông cũng mau chóng từ bỏ cái thế giới siêu hình
rùng rợn để trở về với đời, hưởng niềm hân hoan trong ánh sáng Phục sinh của cõi Thiên đường: Pháo
đã nổi đưa xuân về vang động/ Vườn đầy hoa ríu rít tiếng chim trong/ Lòng hỡi lòng! Kìa xuân trời bát
ngát/ Muôn sắc màu rạng rỡ dưới hương đưa (Xuân về).
Quả thật, bên cạnh thế giới tràn ngập bóng tối của sự hủy diệt, hoang tàn, thì Điêu tàn còn nhuốm
đầy ánh sáng của một thế giới khác. Thế giới ấy gần như đối lập hoàn toàn với bóng đêm lạnh lẽo của
âm giới: Cả vũ trụ biến dần ra ánh sáng/ Nước sông Linh hòa lẫn nắng trời tươi/ Nắng trời tươi tưng
bừng bay tản mạn/ Gợi lòng ta bao dấu vết xa xôi (Nắng mai). Nguồn sáng rực rỡ, chói lọi của ánh trăng
trong, của nắng trời tươi, của nước sông Linh tràn ngập khắp không gian, thắp sáng cả vũ trụ, sưởi ấm
muôn loài, muôn người. Có khi đó còn là ánh sáng của những đền đài, điện các huy hoàng, lộng lẫy được
thức gợi từ trong quá vãng vàng son của đất nước Chiêm thành xa xôi: Đây, điện các huy hoàng trong
ánh nắng/ Những đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh (Trên đường về). Ánh sáng mang nghĩa biểu trưng, gợi
mở hình dung về một thế giới đẹp đẽ, đầy tin yêu và khát vọng của cái tôi cô đơn thời đại tư sản. Thứ
ánh sáng ấy thật gần gũi với ánh sáng Khải huyền trong thánh kinh. Và thế giới ấy đã mang hình hài của
cõi Thiên đường trong ước vọng của thi nhân.
Tương quan đối lập này có lẽ được đẩy đến mức độ cao hơn cả là ở thơ Hàn Mặc Tử - một trường
hợp thơ hết sức đặc biệt. Những trải nghiệm đau đớn bản thể đã khiến Hàn Mặc Tử, rất tự nhiên, tìm thấy
niềm cộng cảm ở đức tin Thiên Chúa giáo. Trải qua những đau đớn của thể xác, những giày vò tinh thần,
nỗi cô đơn và mặc cảm chia lìa của cái tôi cá nhân thời đại tư sản, nhà thơ cảm nghiệm sâu sắc nỗi đau
mà Chúa gánh vác vì nhân loại. Đồng thời, ông cũng không nguôi niềm hy vọng về một đấng tối cao có
thể cứu rỗi linh hồn, giải thoát nỗi đau thương nhân thế. Hai trạng thái cảm xúc này đã đi vào thơ Hàn
Mặc Tử như những đối cực của một tâm hồn bi kịch: vừa đau khổ vừa khắc khoải tin mong, vừa tuyệt
vọng vừa hy vọng, vừa bế tắc vừa mong được giải thoát. Tương ứng với hai dòng tâm thức đó, Hàn Mặc
Tử đã vẽ nên trong thơ hai thế giới: cõi trần thế đau thương và cõi Thiên đường huyền diệu. Mỗi tập thơ
Gái quê, Đau thương, Xuân như ý, Thượng thanh khí… đều thể hiện rõ mạch vận động của cảm xúc, sự
dịch chuyển của không gian: từ thế giới của trái tim tuổi trẻ tràn đầy khát khao tình ái, thanh xuân đến
thế giới của đau thương, ưu tư u ám. Nếu ở Gái quê là cõi thơ mang âm hưởng mơ màng, lãng mạn và
còn trong trẻo thì từ Đau thương trở đi, thơ Hàn Mặc Tử tràn ngập tiếng rên la, thống thiết, đớn đau, oán
hờn và hoảng loạn: Trời hỡi! nhờ ai cho khỏi đói!/ Gió trăng có sẵn làm sao ăn?/ Làm sao giết được
người trong mộng/ Để trả thù duyên kiếp phụ phàng? (Lang thang). Đó còn là thế giới của nỗi cô đơn
cùng cực, tuyệt vọng, thậm chí bế tắc khi đối diện với sự bủa vây của cái chết: Ta gào thét một hơi cho
rợn ốc/ Cả Thiên đường, trần gian và địa ngục/ Hồn là ai? Là ai? Tôi không hay/ Dẫn hồn đi ròng rã
một đêm ròng/ Hồn mệt lả mà tôi thì chết giấc… Anh muốn phứt hang chữ/ Anh cắn vỡ lời thơ/ Anh cắn
24
cắn cắn cắn/ Hơi thở đứt làm tư (Anh điên). Có thể nói, đau thương chính là phương tiện mà Chúa dùng
để cứu thế loài người. Đức Chúa trời đã gánh chịu mọi đau đớn, phải chịu đóng đinh trên cây thập tự để
cứu rỗi, để thấu mọi nỗi đau của con người. Là một tín đồ ngoan đạo, Hàn Mặc Tử tìm được sự an ủi từ
tấm gương chịu đựng đau khổ của Chúa, càng đau khổ bao nhiêu ông càng trông cậy vào sự an ủi của
Chúa bấy nhiêu. Thi nhân nương cầu ở Chúa một sự cứu rỗi, giải thoát. Vì thế, bên cạnh những vần thơ
đau thương, thơ Hàn Mặc Tử còn hướng đến sự siêu thoát, đến với cõi Thiên đường huyền diệu. Chỉ ở
đó, Hàn Mặc Tử mới đến gần hơn với đức tin, nỗi đau mới dịu nhẹ, vơi bớt. Trong hình dung của nhà
thơ, Thiên đường là thế giới của những gì thiêng liêng nhất, thơm tho nhất, cao sáng nhất, thanh khiết nhất
mà nhà thơ khao khát hướng đến mỗi khi cầu nguyện. Cõi Thiên đường chính là thế giới huyền diệu, siêu
linh mà cái tôi thi nhân vượt thoát để vươn đến: Ta sống mãi với trăng sao gấm vóc/ Trong nắng thơm,
trong tiếng nhạc thần bay/... Ta sống mãi với muôn muôn xuân đầm ấm/ Trong mây kinh và trong gió
nguyện cầu… Hồn ta đây bất diệt với Hà Sa (Trường thọ), Ở phương Nam mầu nhiệm biết ngần mô!/ Vì
muôn kinh dồn dập cõi thơm tho/ Thêm nghĩa lý sáng trưng như thất bảo (Đêm xuân cầu nguyện). Cõi
Thiên đường trong thơ Hàn Mặc Tử được miêu tả huy hoàng, trang trọng, lung linh, huyền ảo. Tất cả những
gì đẹp nhất, lung linh hơn cả ánh sáng trăng, thơm tho tươi sáng và cả lòng thương yêu Chúa trời, Đức Mẹ
đồng trinh đều hội tụ ở cõi Thiên đường: Ôi! Thánh tai, thánh tai và thánh tai/ Cả trời bỗng nổi lên muôn
điệu nhạc/ Rất trọng vọng, rất thơ tho, man mác/ Rất phương phi, trên hết cả anh hoa (Ra đời). Nhà thơ
đã xây nên một thế giới huyền diệu, vĩnh hằng, tìm cho mình cõi Thiên đường, mong mỏi sự cứu vớt ở
Chúa trời trong thơ đạo. Trên hành trình khắc khoải kiếm tìm đức tin, nhà thơ đã thực hiện cuộc vượt thoát
đến thế giới không đau thương, không bi lụy, thế giới của Thiên đường linh thiêng. Cho nên, khi cái tôi thi
nhân càng quằn quại, vật lộn, giằng xé dữ dội bởi nỗi đau cuộc đời bao nhiêu thì hình ảnh về Thiên đường
càng hiện diện rõ ràng và mãnh liệt bấy nhiêu: Hào quang vây riết điềm chiêm bao/ Chúa hiện ra trong
điệu nhạc nào/ Đầy rẫy no nê nguồn sáng láng/ Rất nên trăng ngọc với sao vàng (Xuân như ý).
Từ những phân tích ở trên, chúng tôi khái quát lại, cảm hứng tôn giáo trong thơ chỉ trạng thái rung
động mãnh liệt của nhà thơ về tôn giáo, được hình thành trên cơ sở những cảm nghiệm sâu sắc về giáo
lí và đức tin, đã chuyển hóa thành ý thức trữ tình, thúc đẩy nhà thơ sáng tạo nên một thế giới nghệ thuật
độc đáo, riêng biệt.
Từ cách hiểu trên về cảm hứng tôn giáo trong thơ, chúng tôi có mấy hướng phân loại thơ cảm hứng
tôn giáo như sau:
- Từ góc độ tác giả - chủ thể sáng tạo, có thể thấy, trong thơ Việt Nam hiện đại, có thơ của hai bộ
phận tác giả cùng viết về cảm hứng tôn giáo, bao gồm:
Các tác giả là tín đồ tôn giáo, tiêu biểu như: Thích Nhất Hạnh, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Pháp
Hoan, Phapxa Chan… (tín đồ Phật giáo), Hàn Mặc Tử, Xuân Ly Băng, Lê Đình Bảng, Võ Long Tê,
Trăng Thập Tự, Lê Quốc Hán, Mai Văn Phấn… (tín đồ Ki tô giáo).
Các tác giả ngoại đạo (không phải là tín đồ tôn giáo), tiêu biểu như: Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương,
Chế Lan Viên, Huy Cận, Bùi Giáng…
- Từ góc độ loại hình tôn giáo, thơ Việt Nam hiện đại có hai nguồn cảm hứng chủ yếu, bao gồm:
Cảm hứng Phật giáo thể hiện qua thơ của: Quách Tấn, Chế Lan Viên, Bích Khê, Huy Cận, Bùi
Giáng, Thích Nhất Hạnh, Phạm Thiên Thư, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Pháp Hoan, Phapxa Chan...
Cảm hứng Ki tô giáo thể hiện qua thơ của: Hàn Mặc Tử, Bàng Bá Lân, Hồ Dzếnh, Xuân Ly Băng,
Lê Đình Bảng, Võ Long Tê, Trăng Thập Tự, Lê Quốc Hán, Mai Văn Phấn…
Dĩ nhiên, sự phân chia ở đây chỉ mang tính tương đối. Thực tế, có những nhà thơ đã từng là tín đồ
tôn giáo nhưng sau đó lại hoàn tục, như Phạm Thiên Thư,… Có những nhà thơ là tín đồ của Thiên Chúa
giáo nhưng vẫn say mê làm thơ mang cảm hứng Phật giáo như Hàn Mặc Tử, Mai Văn Phấn… Lại có
những nhà thơ cùng lúc sáng tác thơ mang nhiều cảm hứng tôn giáo khác nhau như Hàn Mặc Tử, Bùi
Giáng, Mai Văn Phấn,...
3. Kết luận
Tôn giáo luôn tiếp nối và vận động, phát triển trong suốt chiều dài thơ ca Việt với một diện mạo vừa
hết sức đa dạng vừa mang đặc trưng riêng, tạo nên vị thế và đóng góp không thể thay thế. Dấu ấn ảnh
hưởng tôn giáo trên thực tế đã thu hút số đông tác giả và gặt hái nhiều thành tựu trong thơ hiện đại. Ảnh
25
hưởng tôn giáo có những kết tinh rực rỡ, đỉnh cao như hiện tượng thơ Hàn Mặc Tử. Tuy nhiên khi nhận
diện ảnh hưởng tôn giáo trong thơ hiện đại, cũng đặt ra vấn đề phân biệt giữa “văn học tôn giáo” và “cảm
hứng tôn giáo trong văn học”, đây cũng là một vấn đề cần thêm nhiều công trình nghiên cứu bổ sung
trong tương lai.
26
TÌM HIỂU NGHĨA TÌNH THÁI XẢY RA Ở CÁC TỔ HỢP
ĐỘNG TỪ + ĐỘNG TỪ TRONG QUÁ TRÌNH NGỮ PHÁP HÓA
(AN INVESTIGATION INTO MODAL MEANING OF VERB + VERB
COMBINATIONS IN GRAMMATICALIZATION)
TÓM TẮT
Bài viết tìm hiểu nghĩa tình thái xảy ra ở các tổ hợp động từ + động từ trong quá trình ngữ pháp
hoá. Các kết quả nghiên cứu sẽ được rút ra qua việc so sánh, xem xét sự thay đổi nghĩa ngữ pháp, mối
quan hệ nghĩa ngữ pháp giữa các động từ gốc (ở đây là các động từ đơn khi còn dùng độc lập) với các tổ
hợp động từ. Sự kết hợp giữa hai động từ là nhân tố quyết định dẫn tới sự thay đổi nghĩa ngữ pháp (nghĩa
tình thái) ở các động từ. Khi hai động từ kết hợp với nhau, tổ hợp động từ + động từ sẽ là một khối nghĩa
ngữ pháp mới (nghĩa tình thái), khác với nghĩa của từng động từ thành tố gốc khi còn hoạt động độc lập.
Và cái khối kết hợp mới ấy sẽ vẫn lưu lại dấu vết ngữ nghĩa – ngữ pháp của các thành tố gốc tạo thành
tổ hợp.
Ở các tổ hợp động từ + động từ trong tiếng Việt (như rơi mất, bắt gặp, trông ra,...) từ lâu đã diễn
ra một quá trình ngữ pháp hoá và trong hệ thống từ vựng tiếng Việt hiện đại vẫn song song tồn tại cả hai
dạng thức động từ gốc và các tổ hợp động từ đã được ngữ pháp hoá. Chúng ta vẫn sử dụng các yếu tố từ
vựng gốc riêng lẻ (như rơi, mất, bắt, gặp, trông, ra,...) cùng với các tổ hợp động từ (kết quả của quá
trình ngữ pháp hoá).
Trong bài viết này chúng tôi sẽ tìm hiểu nghĩa tình thái xảy ra ở các tổ hợp động từ + động từ trong
quá trình ngữ pháp hoá.
Từ khoá: tổ hợp động từ, ngữ pháp hoá.
1. Cơ sở lý thuyết
Trong nghiên cứu Việt ngữ học từ trước đến nay các công trình nghiên cứu về động từ tiếng Việt
và các công trình nghiên cứu về hư từ tiếng Việt có liên quan đến hiện tượng ngữ pháp hóa (còn gọi là
“hư hóa”), các tác giả thường chỉ phân tích hiện tượng thay đổi từ ý từ vựng sang ý nghĩa ngữ pháp của
từ một cách đơn giản và cục bộ.
Về cơ bản có hai hướng phân tích như sau:
Về hướng thứ nhất: Các tác giả chỉ nhìn thấy ý nghĩa phụ trợ hoặc sự thay đổi ý nghĩa của các
thành tố trong tổ hợp động từ mà gán cho chúng những chức năng nhất định. Chẳng hạn, Trương Vĩnh
Ký, Ê.Đighê, Trương Vĩnh Tống, Bùi Đức Tịnh gọi các yếu tố đến trong dắt đến, đi trong cất đi, vào
trong chui vào, ra trong bước ra, lên trong đi lên, xuống trong cúi xuống là những giới từ có chức năng
làm một bộ phận của động từ ghép. (Dẫn theo Nguyễn Kim Thản, 1997, tr.73 -74).
Trong một số sách ngữ pháp dùng trong trường học trước đây, những từ này được quy vào hai loại
khác nhau tuỳ theo sự vắng mặt hay sự có mặt của bổ ngữ của động từ. Nếu không có bổ ngữ thì đó là
trạng từ (Việt Nam văn phạm, tr.118) hay trợ động từ (Ngữ pháp Việt Nam, lớp bảy, tr.36). Lê Văn Lý
thì cho rằng những thành tố này là những động từ hao mòn.
Còn Nguyễn Kim Thản khi bàn đến phạm trù phương của động từ trong các tổ hợp mọc lên, ngồi
xuống,... đã có ý kiến như sau "... chúng tôi cho rằng đó là những từ thuộc hệ thống hư từ, nguồn gốc là
động từ, là những hình thức biểu thị phạm trù phương của động từ mà chúng phục vụ. Xét thấy công
dụng ngữ pháp và vị trí của những từ đó cũng giống công dụng và vị trí của những từ -thấy, được, -
phải,... (làm hình thức biểu thị phạm trù ngữ pháp đặt sau động từ), chúng tôi khái quát lại mà đặt chúng
27
vào phụ loại của động từ - phó động từ" (Nguyễn Kim Thản, 1997, tr.236). Hoặc khi phân tích các trường
hợp như đánh rơi, đánh rụng, đánh vỡ Nguyễn Kim Thản cũng chỉ thấy mối quan hệ cụ thể giữa các
động từ gốc với các ngữ vị động từ trong tổ hợp động từ và sự thay đổi, khái quát nghĩa ở các động từ
này. "Song hiện nay, sự phân hoá giữa những ngữ vị này và những thực từ đã sinh ra nó đã khá xa. Giữa
chúng, ngày nay ta chỉ còn thấy mối quan hệ lịch sử chứ không thấy sự cộng đồng về đặc điểm ngữ pháp,
không thấy hay rất ít sự cộng đồng về ý nghĩa từ vựng. Mặt khác, ý nghĩa của những ngữ vị này ngày
càng khái quát hơn, tác dụng tạo từ của chúng ngày càng rộng rãi, cho nên một số lượng đáng kể đã trở
nên ổn định" (Nguyễn Kim Thản, 1997, tr.53).
Cách phân tích các tổ hợp động từ theo hướng này có nhìn thấy sự thay đổi của các thành tố trong
tổ hợp động từ so với các động từ gốc dùng độc lập nhưng chưa khái quát và nhìn rộng ra được sự thay
đổi chung trong ngôn ngữ liên quan đến hiện tượng ngữ pháp hoá.
Về hướng thứ hai: Nguyễn Anh Quế cho rằng các hư từ đều xuất phát từ thực từ, và hiện tượng hư
hoá là hiện tượng phổ biến trong mọi ngôn ngữ "Hư từ vốn xuất phát từ thực từ, kể cả những hư từ cho
đến nay hầu như đã đi rất xa trong quá trình hư hoá đó nhưng nếu truy nguyên nguồn gốc của chúng
trong lớp từ thực. Đó là một hiện tượng phổ biến trong mọi ngôn ngữ. Song ở mỗi ngôn ngữ khác nhau,
quá trình hư hoá diễn ra rất khác nhau, và trong mỗi ngôn ngữ các hư từ cụ thể khác nhaucũng rất khác
nhau" (Nguyễn Anh Quế, 1988, tr.32).
Theo Nguyễn Lai, đó là sự thay đổi ngôn ngữ trong các từ từ góc độ phát triển nhận thức: “Trong
quá trình tạo nghĩa gắn với hiện tượng mà từ lâu được gọi là hư hoá, tín hiệu xuất hiện về sau không phủ
định sự tồn tại của tín hiệu xuất hiện trước, trái lại các tín hiệu có cùng vỏ ngữ âm này được song song
tồn tại và sử dụng một cách tích cực trên trục đồng đại... Hư hoá ở đây không phải là quá trình mờ nghĩa,
teo nghĩa, mất nghĩa; trái lại, đây là quá trình định hình nghĩa mới gắn với yêu cầu đồng hoá nhận thức
thực tiễn vào ngôn ngữ từ những tín hiệu sẵn có... Ngay những từ có thực thi chức năng gọi là ngữ pháp
hoá này thực ra chúng cũng không hoàn toàn phi từ vựng hoá" (Nguyễn Lai, tr.132).
Hiện tượng thay đổi từ ý nghĩa từ vựng sang ý nghĩa ngữ pháp của các từ cũng đó được các học
giả nước ngoài nghiên cứu từ khá lâu, được gọi là hiện tượng ngữ pháp hoá (Grammaticalization).
Meillet, một học giả người Pháp, cũng là nhà ngôn ngữ học đầu tiên nghiên cứu về ngữ pháp hoá. Ông
định nghĩa ngữ pháp hoá là "sự phát triển để hình thành các dạng thức ngữ pháp từ các dạng thức từ vựng
trước đó" (Meillet 1948, dẫn theo E.C.Traugott và B.Heine 1991, tr.2) hay rộng hơn là "quá trình biến
đổi các từ vị thực từ thành các dạng thức ngữ pháp và làm cho các dạng thức ngữ pháp trở nên mang tính
ngữ pháp hơn". Và "ngữ pháp hoá là quá trình của sự hình thành các phạm trù ngữ pháp cũng như các
dạng thức mã hóa ngữ pháp diễn ra ở cả hai bình diện đồng đại lẫn lịch đại" (Elizabeth Closs Traugott
và Bernd Heine 1991, tr.1).
3. Phân tích nghĩa tình thái trong các tổ hợp động từ + động từ
28
Các tổ hợp động từ được chọn làm tư liệu nghiên cứu là các tổ hợp động từ đã được dùng ổn định,
thường xuyên trong tiếng Việt và có nghĩa ngữ pháp mới so với nghĩa của các động từ đơn trong tổ hợp.
Tổ hợp động từ ở đây là một đơn vị nghĩa ngữ pháp, một khối nghĩa ngữ pháp.
Cơ sở phân tích nghĩa tình thái trong các tổ hợp động từ + động từ dựa trên việc so sánh và xem
xét sự thay đổi nghĩa ngữ pháp, mối quan hệ nghĩa ngữ pháp giữa các động từ gốc (ở đây là các động từ
đơn khi còn dùng độc lập) với các tổ hợp động từ.
Sự kết hợp giữa hai động từ là nhân tố quyết định dẫn tới sự thay đổi nghĩa ngữ pháp (nghĩa tình
thái) ở các động từ. Chẳng hạn khi rơi hoạt động độc lập thì có nghĩa quá trình, nhưng khi rơi kết hợp
với mất trong tổ hợp rơi mất thì tổ hợp rơi mất có nghĩa tình thái.
Trong kết cấu nghĩa của tổ hợp động từ bao giờ cũng có hai phần nghĩa: nghĩa từ vựng và nghĩa
ngữ pháp. Nghĩa từ vựng của tổ hợp động từ là nghĩa từ vựng gốc của một yếu tố trong tổ hợp động từ,
còn nghĩa ngữ pháp của tổ hợp động từ là nghĩa mới xuất hiện khi hai động từ kết hợp với nhau trong tổ
hợp động từ. Có nghĩa là với hai yếu tố trong tổ hợp động từ thì có một yếu tố mang nghĩa từ vựng của
tổ hợp động từ, chúng tôi gọi là yếu tố mang nghĩa từ vựng, còn một yếu tố được ngữ pháp hoá và mang
nghĩa ngữ pháp của tổ hợp động từ, chúng tôi gọi là yếu tố mang nghĩa ngữ pháp.
29
Qua bảng phân loại trên ta thấy có hai trường hợp:
Trường hợp thứ nhất: Yếu tố tình thái đứng ở vị trí thứ nhất trong tổ hợp động từ: đánh rơi, đánh
đổ, đánh động, đánh đổi, đâm nghi, có thức, có thuê, có chôn, bắt gặp, bỏ rơi. Ở đây, các động từ đánh,
đâm, có, bắt, bỏ đã không còn mang nghĩa từ vựng của một thực từ nữa mà đã mang nghĩa tình thái của
tổ hợp động từ. Còn các động ở ví trí thứ hai rơi, đổ, động, đổi, nghi, thức, thuê, chôn, gặp, rơi vẫn còn
ý nghĩa từ vựng gốc nhưng với tư cách là thành tố của tổ hợp động từ chúng có thêm nghĩa tình thái.
Đánh đổi là đổi cái bằng mọi cách: Thì ra bấy lâu nay anh vẫn nuốt những món mà nàng đánh đổi
bằng thân xác. (Bài hát chim nhồng xanh, Ngô Thị Kim Cúc, Internet).
Có thuê có nghĩa khẳng định là đã thuê: “Tôi có thuê cái võng và cậy hai người khoẻ mạnh võng
ông ta về vùng Bắc”. (Chùa Đàn, Nguyễn Tuân, Internet).
Bắt gặp có nghĩa là tình cờ chứng kiến việc gì: "Tình cờ bắt gặp nàng đây, Hỏi rằng duyên ấy tình
này làm sao?" (Ca dao Internet).
Có chôn có nghĩa khẳng định là đã chôn: “- Dạ đào về phía nào? - Chỗ nào có chôn thì đào”.
(Chùa Đàn, Nguyễn Tuân, Internet).
Trường hợp thứ hai: Yếu tố tình thái đứng ở vị trí thứ hai trong tổ hợp động từ: giẫm phải, mua
phải, gặp phải, quên đi, rông mất, trông ra, hoá ra, lấy được, lấy làm, ăn lấy (lưng bát cơm), thêm lấy
(vài ngày). Các động từ phải, đi, mất, ra, được, làm, lấy đã không còn mang nghĩa từ vựng của một thực
từ nữa mà đã mang nghĩa tình thái của tổ hợp động từ. Còn các động ở ví trí thứ nhất giẫm, mua, gặp,
quên, rông, trông, hoá, lấy, ăn, thêm vẫn còn ý nghĩa từ vựng gốc nhưng với tư cách là thành tố của tổ
hợp động từ chúng có thêm nghĩa tình thái.
Quên mất là quên cái gì và không mong muốn việc này xảy ra: “Nhưng nhiều khi chúng ta quên
mất rằng tình yêu có tiếng nói bí ẩn và ma lực của nó thì vô cùng”. (Bay qua thời gian, Nguyễn Thị
Châu Giang, Internet).
Trông ra có nghĩa là nhìn bề ngoài của cái gì như thế nào nhưng không chắc chắn: Theo sau anh
là một cô gái cao ốm, tóc vàng trang điểm nhợt nhạt, mặc bộ quần áo bằng lụa đen, trông ra còn cao
hơn Gleb cả một cái đầu. (Bay qua thời gian, Nguyễn Thị Châu Giang, Internet).
Mua phải là đã mua cái gì không tốt, không như mong muốn: Nó mua phải hàng giả. (Ngữ liệu
trực tiếp).
4. Sự phát triển của tiếng Việt qua hiện tượng ngữ pháp hoá qua việc phân tích nghĩa
tình thái trong các tổ hợp động từ + động từ
4.1. Hiện tượng thay đổi phạm trù ngữ pháp
Khi quá trình ngữ pháp hoá xảy ra ở các tổ hợp động từ + động từ, kết quả là ở tổ hợp động từ
xuất hiện những phạm trù ngữ pháp mới mà ở các động từ thành tố trong tổ hợp trước đây không có.
Ví dụ:
- Bắt gặp có nghĩa tình thái mà bắt và gặp khi hoạt động độc lập không có: “Bắt gặp ánh mắt
muốn nói chuyện của cô, lập tức những tia lạnh từ mắt người đối diện bắn ra thông điệp “Đừng làm
phiền tôi”. (Thành phố đi vắng, Nguyễn Thị Thu Huệ, Internet).
- Quên đi có nghĩa tình thái mà quên và đi khi hoạt động độc lập không có: “Không bao giờ Bính
nhớ lại những ngày tươi trẻ ấy. Chàng vẫn quên đi, và đêm tối sau mệt mỏi làm mất cái quá vãng đã xa
xăm ấy. (Buổi sớm, Thạch Lam, Internet).
- Lấy làm có nghĩa tình thái mà lấy và làm khi hoạt động độc lập không có: “Tấm áo lụa hồng
phấp phới bay theo chiều gió, thiếu nữ có một cái dáng điệu mềm mại, khiến Hiệp lấy làm sung sướng
rằng đã được gặp một người đẹp”. (Cô áo lụa hồng, Thạch Lam, Internet).
- Rơi mất có nghĩa tình thái mà rơi và mất khi hoạt động độc lập không có: “Ông ấy bị rơi mất
cái kính”. (Ngữ liệu trực tiếp)
Sự hình thành một phạm trù ngữ pháp mới sẽ làm cho các tổ hợp động từ + động từ có những khả
năng kết hợp khác với khả năng kết hợp của các động từ đơn khi còn sử dụng độc lập.
Ví dụ:
- Tôi bất ngờ gặp anh ấy ở đây. (có thể nói)
- Tôi đã sắp xếp và cố tình gặp anh ấy ở đây. (có thể nói)
- Cô vừa ngẩng lên thì bất ngờ bắt gặp ánh mắt đang nhìn mình. (có thể nói)
30
- Cô cố tình bắt gặp ánh mắt đang nhìn mình. (không thể nói)*
Tổ hợp động từ + động từ bắt gặp có nghĩa tình thái là tình cờ chứng kiến việc gì nên chỉ có thể
kết hợp với những từ chỉ sự tình cờ như bất ngờ, tình cờ, vô tình mà không thể kết hợp với những từ chỉ
sự chủ ý như cố tình, cố ý.
4.2. Sự khái quát hoá ngữ nghĩa
Sau khi được ngữ pháp hoá, nghĩa của tổ hợp động từ bao giờ cũng khái quát hơn nghĩa của các
động từ đơn khi còn hoạt động độc lập. Ví dụ:
- Trông ra có nghĩa là nhìn bề ngoài của cái gì như thế nào nhưng không chắc chắn, khái quát hơn
nghĩa của trông và ra: “Theo sau anh là một cô gái cao ốm, tóc vàng trang điểm nhợt nhạt, mặc bộ quần
áo bằng lụa đen, trông ra còn cao hơn Gleb cả một cái đầu” (Bay qua thời gian, Nguyễn Thị Châu
Giang, Internet).
- Đánh đổi là đổi cái bằng mọi cách, khái quát hơn nghĩa của đánh và đổi: “.... Bởi không bao giờ
bà được bồng đứa con trên tay, được nâng niu ấp ủ một cái mầm sống trong lòng. Không bao giờ... Giá
bà đánh đổi tất cả của cải để lấy đứa con !” (Đứa con, Thạch Lam, Internet)
- Có thuê có nghĩa khẳng định là đã thuê, khái quát hơn nghĩa của có và thuê: “Tôi có thuê cái
võng và cậy hai người khoẻ mạnh võng ông ta về vùng Bắc”. (Chùa Đàn, Nguyễn Tuân, Internet).
Nghĩa của các tổ hợp động từ + động từ là một khối nghĩa ngữ pháp mới (nghĩa tình thái). Cái khối
nghĩa ngữ pháp mới này sẽ có nghĩa khái quát hơn nghĩa của từng động từ thành tố trong tổ hợp.
4.3. Hiện tượng lưu dấu vết
Các tổ hợp động từ, kết quả của quá trình ngữ pháp hoá chính là đơn vị ngữ pháp được phát triển
từ các đơn vị từ vựng và nghĩa ngữ pháp của các tổ hợp động từ vẫn có sự liên quan với nghĩa từ vựng
của các động từ gốc của chúng.
Theo nguyên tắc Lưu dấu vết của Hopper "Khi một dạng thức trải qua quá trình ngữ pháp hoá, từ
dạng thức từ vựng biến thành một dạng thức ngữ pháp thì trong chừng mực các thuộc tính ngữ pháp mà
nó có được, nó vẫn lưu lại một số dấu vết của ý nghĩa từ vựng ban đầu, và những thuộc tính còn lưu dấu
vết này có thể được phản ánh trong những chế định về khả năng kết hợp ngữ pháp của nó" (P.J Hopper
1991, tr.22). Ví dụ:
- Quên mất có nghĩa là quên cái gì và không mong muốn việc này xảy ra, sắc thái nghĩa tiêu cực
của động từ gốc mất như “mất tiền” được lưu lại trong nghĩa tình thái tiêu cực của tổ hợp động từ quên
mất: “Nhưng nhiều khi chúng ta quên mất rằng tình yêu có tiếng nói bí ẩn và ma lực của nó thì vô cùng”.
(Bay qua thời gian, Nguyễn Thị Châu Giang, Internet).
- Ăn phải có nghĩa là ăn thức ăn bị hỏng hoặc không hợp, sau đó phải cơ thể phải chịu những tác
động xấu, sắc thái nghĩa tiêu cực của động từ gốc phải như “phải gió độc” vẫn được lưu lại trong nghĩa
tình thái tiêu cực của tổ hợp động từ ăn phải: “Cô Tơ rùng mình. Hình như đây là pháp trường đang có
những tiếng mớm chiêng đồng. Như ăn phải bát cháo lú bên sông Hắc Thuỷ, Cô mê thiếp đi. Tiếng hát
méo dần”. (Chùa Đàn, Nguyễn Tuân, Internet).
- Lấy được có nghĩa là may mắn lấy được người chồng tốt, sắc thái nghĩa tích cực của động từ gốc
được như “được thưởng” vẫn lưu lại trong nghĩa tình thái tích cực của tổ hợp động từ lấy được: “Chị
Liên may mắn đã lấy được chồng giàu, lên buôn trên tỉnh, chị ấy vẫn trẻ đẹp chư xưa”. (Cô hàng xén,
Thạch Lam, Internet).
Dấu vết ý nghĩa từ vựng ban đầu của động từ gốc trong các tổ hợp động từ thể hiện rõ trong khả
năng kết hợp của chúng.
Ví dụ: - Cô ấy may mắn lấy được người chồng tử tế. (có thể nói)
- Em ấy may mắn được mọi người giúp đỡ. (có thể nói)
Động từ gốc được và tổ hợp động từ + động từ lấy được đều có sắc thái nghĩa tích cực nên cả hai
đơn vị này đều có thể kết hợp với các từ chỉ sắc thái nghĩa tích cực như may mắn.
Những liên hệ ngữ nghĩa ở tầng sâu sẽ quyết định khả năng kết hợp của các đơn vị ngôn ngữ trên
trục kết hợp.
5. Kết luận
31
Qua việc phân tích nghĩa tình thái ở các tổ hợp động từ + động từ trong quá trình ngữ pháp hóa,
chúng ta thấy ngôn ngữ luôn luôn biến đổi, tác động lẫn nhau trong quá trình sử dụng. Và khi các đơn vị
ngôn ngữ kết hợp với nhau thành một khối thì cái tổ hợp đó sẽ mang những đặc điểm ngữ nghĩa – ngữ
pháp mới so với đặc điểm ngữ nghĩa - ngữ pháp của từng thành tố trong tổ hợp khi chúng sử dụng độc
lập. Ý nghĩa ngữ pháp mới, tư cách ngữ pháp mới của tổ hợp động từ thể hiện những đặc điểm của quá
trình ngữ pháp hoá như: hiện tượng thay đổi phạm trù ngữ pháp, sự khái quát hoá ngữ nghĩa, hiện tượng
lưu dấu vết.
32
LỐI NÓI LÁI CỦA NGƯỜI VIỆT -
NÉT ĐỘC ĐÁO CỦA VĂN HÓA VÀ NGÔN NGỮ VIỆT NAM
TÓM TẮT
Theo nhận định của nhiều chuyên gia, ít có thứ ngôn ngữ của dân tộc nào có sự khác biệt và hiếm
hoi như tiếng Việt. Chính cấu trúc độc đáo của tiếng Việt đã tạo tiền đề cho nghệ thuật chơi chữ trở nên
đa dạng và phong phú. Trong đó điển hình là nghệ thuật nói lái vô cùng đặc sắc. Nhiều tài liệu cho rằng,
lối nói lái của người Việt có nguồn gốc từ dân gian, vô cùng thông dụng và thấm nhuần trong ngôn ngữ
đời sống hàng ngày của nhiều thế hệ người Việt. Theo đó, lối nói lái là cách nói vui, làm sinh động hơn
câu nói trong giao tiếp nhưng đôi khi lại mang hàm ý phê phán, phản ánh một sự thật xã hội nào đó. Có
thể nói, lối nói lái của người Việt là một nghệ thuật, là nét độc đáo trong văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam.
Từ khóa: Ngôn ngữ, nói lái, văn hóa.
1. Đặt vấn đề
Như chúng ta đã biết, ngôn ngữ là một trong những thành tố văn hóa quan trọng nhất của một dân
tộc. Cùng với ngữ điệu, ngôn ngữ thể hiện sự phong phú và tinh tế của tình cảm, là biểu hiện trực quan
của thái độ và cảm xúc con người. Hơn nữa, ngôn ngữ chính là tấm gương phản chiếu đời sống xã hội
và sắc thái văn hóa của một dân tộc, là công cụ phản ánh lịch sử phát triển của mỗi quốc gia trên thế giới.
Tiếng Việt hay Việt ngữ là ngôn ngữ của dân tộc Việt (người Kinh) và là ngôn ngữ quốc gia của
nước Việt Nam. Tiếng Việt giàu đẹp như thế nào là vấn đề đã được không ít các nhà nghiên cứu quan
tâm, phân tích. Theo đó, tiếng Việt được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đánh giá là ngôn ngữ
giàu hình ảnh, hình tượng với hệ thống các từ láy, từ ghép, từ tượng hình, tượng thanh… nên có khả năng
gợi ra được những hình ảnh rất rõ nét trong tâm trí người nghe. Bên cạnh đó, tiếng Việt chứa đựng một
hệ thống phong phú các biện pháp nghệ thuật như: so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, hoán dụ, nói quá, nói giảm
nói tránh, điệp từ, chơi chữ… đã làm tiếng Việt trở nên vô cùng giàu đẹp và nhiều sắc thái.
Một trong những biện pháp nghệ thuật đặc sắc nhất của tiếng Việt chính là thú chơi chữ. Trong đó,
chơi chữ bằng cách nói lái được xem là nghệ thuật vô cùng độc đáo. Nghệ thuật nói lái thể hiện sự phong
phú, giàu có, nhiều màu sắc của ngôn ngữ Việt Nam mà nhiều ngôn ngữ khác không có được. Theo Lê
Trung Hoa và Hồ Lê (1995), nói lái là cách nói giao hoán âm đầu, vần và thanh điệu hoặc trật tự của hai
âm tiết để tạo thành nghĩa khác hẳn nhằm mục đích đố chữ, bông đùa, chơi chữ hay châm biếm. Cũng
theo Lê Trung Hoa và Hồ Lê (1995), tiếng Việt có hai điều kiện rất thuận lợi cho việc nói lái. Một là
ranh giới giữa các âm tiết rất rõ ràng. Hai là hầu hết các phụ âm đều có thể kết hợp với bất kỳ vần nào
có mang thanh điệu và đa số trường hợp đều tạo nên những tiếng có nghĩa. Nhiều ngôn ngữ khác không
có đủ hai điều kiện này nên không thể hoặc khó có thể có hiện tượng nói lái. Không biết từ khi nào lối
nói lái đã thấm nhuần trong văn hóa và ngôn ngữ của người Việt, xuất hiện trong từng câu ca dao, câu
đố, câu hò đối đáp, trong các giai thoại và cả thơ ca văn học.
Theo Nam Chi Bùi Thanh Kiên (2017), lối nói lái của người Việt được ghi nhận xuất hiện từ thế
kỷ thứ XVIII với nhiều tên tuổi lớn được nhắc đến như: Nguyễn Khuyến, Hồ Xuân Hương, Trạng Quỳnh,
Bùi Giáng… Trong đó, Trạng Quỳnh và Hồ Xuân Hương được tác giả đánh giá có biệt tài trong việc sử
dụng nghệ thuật nói lái trong các tác phẩm thơ ca của mình. Chúng ta có thể điểm qua bài thơ nổi tiếng
của Trạng Quỳnh có sử dụng nghệ thuật nói lái thường được nhắc đến trong lịch sử văn học như:
“Tuyên Quang, Hoằng Hóa cũng thì vua
Nắng cực cho nên phải mất mùa
Lại đứng bên đường xin xỏ chị
33
Nỡ nào mà chị lại không cho”.
(Trích: Thơ xin ăn – Trạng Quỳnh)
Hay nữ sĩ Hồ Xuân Hương lại càng nổi tiếng hơn với hàng chục bài thơ Nôm sử dụng sắc sảo nghệ
thuật nói lái, điển hình như:
“Số kiếp tu hành nặng đá đeo
Hỏi thăm sư phụ đá nơi neo?
Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc
Trái gió cho nên phải lộn lèo”
(Trích: Sư hoạnh dâm – Hồ Xuân Hương)
Có thể thấy, lối nói lái của người Việt là một trò chơi trí tuệ được ông cha ta sử dụng để truyền tải
những tâm tư, tình cảm, ước mơ vào những câu đố, những vế đối… thật dí dỏm và nhiều màu sắc. Đằng
sau những câu chữ ấy ẩn hiện những sự vật, sự việc gắn liền với đời sống của người nông dân xưa và
trên hết nó có thể tạo ra những tiếng cười sảng khoái hoặc hàm chứa những ý phê phán xã hội nhẹ nhàng.
Qua đó có thể khẳng định rằng, nói lái là một thủ pháp ngôn từ trong hệ thống chơi chữ của người Việt,
là một trong những biện pháp nghệ thuật đặc sắc phản ánh được sự độc đáo của văn hóa và ngôn ngữ
Việt Nam cần được giữ gìn.
4. Kết luận
Với những phân tích trên, có thể khẳng định, nói lái là một hình thức vô cùng đặc sắc của ngôn
ngữ Việt Nam. Chính cấu trúc của tiếng Việt đã tạo tiền đề cho nghệ thuật nói lái của người Việt trở nên
đa dạng và phong phú. Lối nói lái của người Việt không những là trò chơi trí tuệ mà còn là phương tiện
truyền tải những thông tin đặc biệt tùy vào từng mục đích của người nói. Có thể nói, nói lái đã thấm
nhuần trong đời sống hàng ngày của người dân Việt Nam và chúng ta tin rằng nghệ thuật nói lái sẽ mãi
tồn tại cùng với sự phát triển của người Việt.
36
PHONG TỤC TANG MA CỦA NGƯỜI MÔNG TRẮNG
Ở MƯỜNG LÁT, THANH HÓA - TRUYỀN THỐNG VÀ SỰ BIẾN ĐỔI
Lê Thị Hiền*
Khoa Giáo dục Tiểu học, Trường Đại học Hồng Đức
*Tác giả liên hệ: Điện thoại: 0986 904 424, Email: lethihien@hdu.edu.vn
TÓM TẮT
Trong đời sống văn hóa của người Mông Trắng ở Mường Lát (Thanh Hóa), phong tục cưới xin là
phong tục mang đậm bản sắc văn hóa tộc người. Sự biến đổi của phong tục tang ma trong giai đoạn hiện
nay đã tác động không nhỏ tới đời sống văn hóa của cả cộng đồng tộc người và xã hội. Bài viết tìm hiểu
những giá trị truyền thống và sự biến đổi phong tục tang ma của người Mông Trắng ở Mường Lát, đồng
thời đề ra các giải pháp bảo tồn, gìn giữ những giá trị truyền thống văn hóa của tộc người trong giai đoạn
hiện nay.
Từ khóa: Mường Lát, người Mông Trắng, phong tục tang ma, Thanh Hóa.
1. Tổng quan
Mường Lát là huyện miền núi phía Tây, là một trong những huyện xa nhất, khó khăn nhất của tỉnh
Thanh Hóa. Đây là nơi tập trung sinh sống của nhiều đồng bào các dân tộc thiểu số, trong đó có tộc người
Mông Trắng. Trong quá trình tồn tại và phát triển lâu dài, người Mông Trắng ở Mường Lát đã sáng tạo
nên nhiều loại hình văn hóa dân gian và nếp sống cộng đồng mang đậm bản sắc tộc người. Trong đó,
nghi lễ tang ma là một trong những biểu hiện cụ thể, vừa mang tính xã hội vừa mang tính tôn giáo. Đó
là những giá trị văn hóa điển hình, phản ánh mốc quan trọng trong cuộc đời mà bất kì người Mông nào
cũng phải trải qua.
Hiện nay, trong xu thế hội nhập, xu thế toàn cầu hóa, người Mông Trắng cũng như nhiều tộc người
thiểu số khác đang đứng trước những thách thức to lớn làm biến đổi, mai một các giá trị văn hóa truyền
thống, trong đó có phong tục tang ma. Bên cạnh sự biến đổi, hiện nay một số hủ tục lạc hậu trong tang
ma của người Mông Trắng vẫn còn tồn tại, làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Việc quan trọng
hiện nay là cần phải có những giải pháp thiết thực để bảo tồn và phát huy những giá trị của tang ma trong
đời sống xã hội hiện đại. Bài viết Phong tục tang ma của người Mông Trắng ở huyện Mường Lát, Thanh
Hóa - truyền thống và sự biến đổi tập trung nghiên cứu về phong tục tang ma của người Mông Trắng và
sự biến đổi trong giai đoạn hiện nay. Nghiên cứu về phong tục tang ma giúp chúng ta hiểu rõ hơn về vũ
trụ quan, nhân sinh quan, các quy tắc ứng xử giữa con người với con người trong gia đình, cũng như
trong cộng đồng xã hội, tộc người của người Mông Trắng ở Mường Lát trong truyền thống và trong giai
đoạn hiện nay; đồng thời góp phần bảo tồn những giá trị văn hóa độc đáo của người Mông Trắng nói
riêng và các dân tộc thiểu số nói chung.
2. Phương pháp
Bài viết sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp điền dã kết hợp với phương pháp
liên ngành.
2
là bài hát chỉ đường linh hồn người chết lên thiên đường.
38
Ba ngày sau khi chôn cất, con cháu tới mộ sửa sang lại phần mộ cho người chết, thường là đắp đá
xung quanh mộ. Vài năm sau khi mất, thường là ba năm, con trai phải mổ trâu hoặc bò làm lễ tạ ơn công
sinh thành của người đã khuất.
So với dân tộc Mông Trắng, phong tục tang ma của người Thái có nhiều nét tiến bộ như: Không
để người chết trong nhà quá lâu (5 ngày, 7 ngày) hay bón cơm cho xác chết, không quy định số trâu, bò,
lợn, gà phải mổ trong đám tang. Tuy nhiên, về cơ bản, phong tục tang ma của người Mông Trắng và
người Thái nơi đây còn tồn tại nhiều bất cập. Người Thái và người Mông Trắng ở Mường Lát khi gia
đình có người chết họ nhờ thầy cúng thầy mo xem ngày đẹp mới mang đi chôn, có thể chôn ngay ngày
hôm đó nếu xem được giờ đẹp nhưng cũng có thể đến 3, 4 ngày sau mới được giờ đẹp. Khi đi chôn họ
không tuân theo quy định hàng lối tại nghĩa trang mà thực hiện nghi lễ tung quả trứng, quả trứng rơi ở
đâu thì chôn ở đó. Khi tổ chức giỗ 3 ngày, 7 ngày… cho người đã khuất, gia đình mời thầy cúng, thầy
mo về làm lễ, tổ chức mổ lợn, gà mời dân bản đến ăn uống gây tốn kém cho gia chủ. Những hủ tục trên
của đồng bào dân tộc Mông Trắng và dân tộc Thái trong việc tang ma vẫn tồn tại ở một số bản vùng sâu
vùng xa. Điều này gây ảnh hưởng tới đời sống, sức khỏe, lao động sản xuất của người dân. Mặc dù điều
đó vẫn ẩn chứa những giá trị truyền thống nhất định được chắt lọc từ nhận thức, niềm tin tâm linh để thể
hiện lòng kính trọng đối với người quá cố nhưng với cuộc sống ngày càng tiến bộ, văn minh thì nó không
còn phù hợp và cần phải xóa bỏ.
3.2 Sự biến đổi của tang ma truyền thống trong giai đoạn hiện nay
Trong giai đoạn hiện nay, phong tục tang ma truyền thống của người Mông Trắng đã có những
biến đổi nhất định. Cuộc sống của người Mông Trắng ở Mường Lát hiện nay đã phần nào được ổn định,
cái đói, cái nghèo không còn đe dọa nhiều như trước nữa thì các nghi lễ cũng không còn là việc khó khăn,
là gánh nặng của cá nhân một người con nào. Khi có người chết, anh em, con cháu trong gia đình, không
kể con dâu con rể, con trưởng, con thứ đều cùng nhau đứng ra lo liệu từ chi phí cho đến việc tổ chức
đám ma sao cho đàng hoàng nhất.
Trước đây, việc báo tin cho họ hàng ở xa chiếm khá nhiều thời gian và công sức của gia đình tang
chủ. Phương tiện đi lại còn hạn chế, đường giao thông khó khăn nên nhiều gia đình phải mất 2, 3 ngày
đường mới tới nơi cần báo tin. Hiện nay, cơ sở vật chất cũng như phương tiện truyền thông đã phủ sóng
trên mọi miền của tổ quốc, kể cả vùng sâu vùng xa nên việc báo tin tới cộng đồng đã dễ dàng hơn rất
nhiều, người thân cũng vì thế đến nhà tang chủ một cách nhanh chóng.
Về nghi lễ trong đám tang hầu như không có gì thay đổi. Các thủ tục nghi lễ từ khi có người chết
đến khi đi chôn đều tuân thủ theo đúng phong tục của dân tộc mình. Thủ tục để người chết treo trên cáng
đã được thay bằng việc đặt người chết vào áo quan ngay tại nhà. Ngay khi có người vừa nhắm mắt thì
gia đình đã nhờ một tổ xẻ gỗ đóng áo quan để khâm liệm hoặc là đi mua áo quan bán sẵn. Sự thay đổi
này phần nào giảm nhẹ đi công sức cũng như thời gian của gia đình.
Thời gian quản xác tại nhà đã được rút ngắn hơn trước từ 7 đến 10 ngày nay đã giảm xuống còn 3
đến 5 ngày, một số trường hợp để đến 7 ngày. Dù là đám ma của thầy mo, thầy tào hay gia đình có điều
kiện kinh tế cũng không để quá lâu nữa.
Về các lễ vật cúng tế trong đám ma hiện nay có giảm nhiều về số lượng nhưng nhìn chung vẫn còn
tốn kém nhiều. Qua khảo sát thực tế ở Mường Lát, chúng tôi được biết cho đến nay, mỗi khi trong gia
đình có người chết họ sẽ nhờ người đi mượn đồ dùng của tất cả các gia đình trong bản mang đến phục
vụ ăn uống trong đám ma. Họ mượn nhau từ bát đũa, nồi niêu, xô chậu... để phục vụ đám tang. Ngày
nay, một số hộ gia đình có điều kiện kinh tế, sắm nhiều đồ dùng phục vụ ăn uống và các gia đình này
mỗi khi có việc thì lại mượn nhau. Vừa đảm bảo vệ sinh lại vừa không mất thời gian đi mượn nhỏ lẻ từng
gia đình như trước.
Mặc dù nghi lễ tang ma của người Mông Trắng ở Mường Lát đã được rút gọn hơn trước nhưng chi
phí cho nghi lễ, ăn uống vẫn còn tốn kém rất nhiều so với điều kiện kinh tế của họ. Ước tính một đám
ma tối thiểu phải thịt gà, lợn, bò, rượu... nhà nào càng đông họ hàng, làng xóm, khách khứa đến phúng
viếng thì càng phải thịt nhiều gia súc, gia cầm và uống nhiều rượu. Cùng với đó là kinh phí sắm sửa các
lễ vật, đặc biệt tốn kém là con bò. Mặc dù gia đình tang chủ có sự hỗ trợ của anh em, họ hàng, con cháu
gần xa, nhưng vẫn là một khó khăn lớn đối với gia đình có người chết khi phải chuẩn bị một khoản kinh
39
phí lớn đến như vậy. Đây là một trong những yếu tố ảnh hưởng tới công cuộc xây dựng đời sống văn hóa
mới đến từng thôn bản ở huyện Mường Lát hiện nay.
Những lễ vật anh em, họ hàng mang đến giúp cho gia đình như rượu, lợn, bò... xưa nay chỉ được
quy ước với nhau bằng lời nói. Người mang lễ đến sẽ nói với gia đình tang chủ rằng đây là tấm lòng của
mình đến giúp gia đình, không đòi hỏi phải trả lại. Tuy nhiên, khi gia đình người đó có công việc thì
mình vẫn phải đem lễ vật đến giúp lại, coi như một sự vay trả không văn bản. Theo ông Thao Văn Di,
56 tuổi ở xã Pù Nhi thì hơn chục năm trở lại đây, trong đám tang đã có tổ thư kí chuyên ghi chép tên, địa
chỉ và lễ vật mà khách khứa hay họ hàng mang đến, gia đình tang chủ sau này sẽ xem trong sổ ghi chép
để đáp lễ lại.
Trong tang ma, việc phúng viếng của anh em, họ hàng, thông gia, khách khứa gần xa được gia đình
tang chủ rất coi trọng. Đó là cái tình của những người còn sống đối với người qua đời, là sự chia sẻ, giúp
đỡ lẫn nhau giữa người sống với người sống. Nghi lễ viếng không thay đổi, chỉ lễ vật mang đến viếng
đã có những thay đổi phù hợp với hiện nay, có phần gọn gàng và giản tiện hơn. Ngoài những lễ vật như
gà, lợn, rượu, hay giấy màu để cắt tiền vàng cho người chết thì một số người dùng tiền mặt thay cho các
lễ vật kể trên cũng được người dân đem đến phúng viếng.
3.3 Giải pháp bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống và xóa bỏ hủ tục lạc hậu trong phong
tục tang ma của người Mông Trắng ở Mường Lát, Thanh Hóa hiện nay
Chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp về việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa trong
phong tục tang ma của người Mông ở Mường Lát, Thanh Hóa như sau:
Thứ nhất là phải chú trọng đẩy mạnh hơn nữa việc ưu tiên, phát triển và thực hiện kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội của những vùng có đồng bào dân tộc sinh sống, trong đó có người Mông Trắng. Cần
có chiến lược phát triển chung về kinh tế, văn hóa và xã hội các dân tộc, tạo sự giao lưu, hòa nhập; cần
có sự phối hợp của các chương trình đầu tư tích cực hơn nữa nhằm nâng cấp cơ sở hạ tầng, xóa đói giảm
nghèo để cải thiện tình trạng kinh tế yếu kém, nâng cao dân trí,... trong vùng đồng bào Mông Trắng. Từ
đó, tạo những biến đổi trong nhận thức, giúp cho đồng bào dân tộc, đặc biệt là thế hệ trẻ có được sự lựa
chọn đúng đắn trong đời sống sinh hoạt của họ và khắc phục được những hạn chế trong phong tục tập
quán lạc hậu của tộc người.
Thứ hai, vấn đề nâng cao dân trí cho đồng bào Mông Trắng tiếp cận được với văn hóa mới, thì đòi
hỏi phải được nâng cao dân trí trở thành mục tiêu đồng thời là động lực để phát triển văn hóa. Nói cách
khác, đây là cơ sở trực tiếp nhất đối với công việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống.
Trình độ văn hóa được nâng cao thì việc tiếp thu những thông tin hằng ngày của người dân cũng nâng
cao. Vì vậy, công tác giáo dục trở thành nhiệm vụ hết sức quan trọng, là giải pháp cơ bản. Thực hiện vấn
đề này không ít những khó khăn, trước mắt phải tạo được nhu cầu học tập trong đồng bào, xóa bỏ suy
nghĩ “không làm thì đói, không học không sao” còn tồn tại khá phổ biến trong các gia đình người Mông
Trắng.
Phải thực hiện phương châm: những tác động chủ động nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị
văn hóa truyền thống nói chung và những giá trị văn hóa trong cưới xin, tang ma của người Mông Trắng
ở Mường Lát nói riêng phải là những bước đi chắc chắn, không được nóng vội, không được chạy theo
thành tích, trên cơ sở đồng bào tự nguyện chấp thuận. Ngày nay, nhiều hiện tượng tiêu cực nảy sinh, vì
vậy nếu nóng vội, chủ quan sẽ dễ mắc sai lầm, cái đáng giữ lại không giữ, cái đáng bỏ lại níu kéo, rất
không có lợi cho việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống. Để thực hiện tốt không
chỉ tôn trọng và lắng nghe ý kiến của đồng bào mà phải thẩm định cho kỹ phản ứng của đồng bào trước
mỗi bước đi.
Thứ ba là việc thực hiện phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội phải biết kết hợp hài hòa với việc phát
huy những di sản văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đẩy mạnh, giao lưu tiếp thu giá trị văn hóa
mới của các dân tộc anh em, không ngừng làm giàu thêm văn hóa dân tộc của người Mông Trắng. Đồng
thời cần có những chính vận động, hỗ trợ, khuyến khích đồng bào gìn giữ những giá trị văn hóa truyền
thống trong cưới xin, tang ma.
Nghi lễ tang ma là một trong những nghi lễ vô cùng quan trọng của người Mông Trắng, vì thế
muốn xóa bỏ những hủ tục lạc hậu và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp thì chính quyền cần phải
40
điều tra tìm hiểu, phân loại rõ ràng để từ đó chia ra cái gì là hủ tục, là cần phải xóa bỏ; cái gì là giá trị tốt
đẹp cần gìn giữ và phát huy. Chúng tôi lấy ví dụ như hiện nay, người Mông đã chấp nhận việc anh em
trong gia đình có thể chung nhau lại cúng cha mẹ một con bò thay vì bắt buộc mỗi người một con vật
như trước đây là một yếu tố mới rất tiến bộ, điều này tránh lãng phí và đời sống của họ cũng được đảm
bảo hơn. Hay việc cho người chết vào áo quan ngay tại gia đình cũng là một công lao không nhỏ đối với
những người làm công tác văn hóa, và cái nhìn hiểu biết hơn của đồng bào nơi đây. Đảng và Nhà nước
cần đưa ra những quy đình cụ thể đối với tang ma của người Mông Trắng, đi sâu phân tích từng khía
cạnh để người dân hiểu và làm theo. Tuy nhiên, pháp luật phải gắn với luật tục của đồng bào, có chế độ
khuyến khích động viên đến từng gia đình, từng bản, từng dòng họ thực hiện tốt đường lối chính sách
của Đảng và Nhà nước trong việc cưới, việc tang.
Thứ tư, nhà nước cần có chính sách đầu tư thỏa đáng, xây dựng các chương trình về công tác thông
tin tuyên truyền, sản xuất các ấn phẩm văn hóa, các chương trình phát thanh, truyền hình bằng tiếng
Mông, chú trọng tăng cường đầu tư có chọn lọc các phương pháp truyền thông vận động phù hợp với
đồng bào Mông, ưu tiên phương pháp truyền thông trực tiếp theo nhóm nhỏ, những ấn phẩm truyền thông
có hình ảnh, lồng ghép tổ chức phổ biến các nội dung đủ lượng về vấn đề tang ma: phong tục đặt người
chết trên ván, tổ chức đám tang kéo dài trong nhiều ngày, chôn người chết gần nhà trên mảnh đất của
mình và chôn rất nông, gây mất vệ sinh, ảnh hưởng tới cả cộng đồng,... Hiện nay, đội ngũ làm công tác
văn hóa của huyện và xã vừa yếu, vừa thiếu. Người làm công tác văn hóa chủ yếu học trung cấp văn hóa
ở tỉnh, trẻ chưa có kinh nghiệm. Bởi vậy đề nghị Đảng, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích thu
hút nguồn nhân lực có trình độ chuyên sâu về lĩnh vực này và có chính sách hỗ trợ cho cán bộ làm công
tác văn hóa xã, huyện.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước đã có nhiều dự án mới để thu hút nhiều nhân tài trẻ tuổi về vùng sâu
vùng xa nhận công tác. Tiêu biểu như thời gian gần đây có xu hướng đưa các cử nhân trẻ về làm phó chủ
tịch xã. Chúng tôi nhận thấy đây là một trong những đề án hay, cần tiếp tục xây dựng nâng cao đề án
cũng như tạo điều kiện tối đa cho những cán bộ là con em của dân tộc mình về phụ trách công tác, phục
vụ địa phương.
Thứ năm, với sự hội nhập văn hóa như hiện nay, ngoài những ảnh hưởng tích cực thì cũng là cơ
hội cho những phần tử phản động lợi dụng lòng tin trong nhân dân đặc biệt là người Mông Trắng. Hơn
nữa, Mường Lát lại là một huyện vùng biên, điều kiện đi lại hết sức thuận lợi đối với những người nước
ngoài. Vì vậy các lực lượng chức năng như công an, biên phòng cần kiểm tra gắt gao với những đối
tượng tình nghi, đồng thời chính quyền địa phương cần giám sát các hoạt động tâm linh, đặc biệt là tang
ma để phòng tránh những trường hợp buôn thần bán thánh, lợi dụng lòng tin tuyên truyền phản động.
Thứ sáu, hiện nay trên toàn quốc đã và đang phát động phong trào "toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa", trong đó có phong tục tang ma. Huyện Mường Lát cũng đã và đang triển khai nhiều
hoạt động để hưởng ứng phong trào trên, và cũng đã thu về nhiều thành công đáng kể. Tuy nhiên, chính
quyền địa phương nên đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động tuyên truyền, lập kế hoạch thi đua thực hiện
nếp sống mới trong tang ma nhiều hơn nữa để người dân hiểu hơn về phong trào và từ đó mạnh dạn làm
theo. Đặc biệt là làm sao để vận động người dân tiết kiệm được kinh phí tổ chức đám tang, vệ sinh an
toàn thực phẩm, tổ chức tang lễ vẫn giữ được những phong tục truyền thống, bản sắc vốn có nhưng đồng
thời xóa bỏ được những hủ tục lạc hậu trong nghi lễ tang ma của dân tộc mình.
4. Kết luận
Phong tục tang ma là một trong những phong tục tập quán có ý nghĩa quan trọng trong đời sống
văn hóa của người Mông Trắng ở huyện Mường Lát. Tuy nhiên, xã hội ngày càng phát triển, kinh tế thị
trường, hội nhập đã và đang len lỏi vào từng ngõ ngách của cuộc sống, không thể phủ nhận rằng điều
này đã làm cho kinh tế của người Mông Trắng ngày càng vững vàng hơn, văn hóa cũng tiên tiến hơn,
đời sống tinh thần của người dân có nhiều hơn những yếu tố để lựa chọn. Bên cạnh đó, việc xâm nhập
quá sâu vào đời sống của người dân, đặc biệt là vùng người Mông Trắng ở Mường Lát đã trở thành mối
đe dọa cho những giá trị gọi là phong tục tập quán, là văn hóa truyền thống của dân tộc mà bao đời nay
được gìn giữ. Nó không chỉ làm thay mới đi, làm biến dạng những cái truyền thống, mà những cái hủ tục
đã và đang được xóa bỏ lại có nguy cơ sống dậy. Trước tình hình đó, vừa để giữ gìn và phát huy giá trị
41
văn hóa tộc người, vừa xóa bỏ những hủ tục lạc hậu, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người dân,
Đảng và Nhà nước, các ban ngành hữu quan, đặc biệt là chính quyền địa phương cần có những bước đi
thích hợp và cụ thể, hợp lý. Có như vậy, người Mông Trắng ở Mường Lát mới có thể nhanh chóng hội
nhập với các dân tộc thiểu số khác trong bức tranh chung về văn hóa tộc người ở Thanh Hóa.
42
LỊCH SỬ CHỮ VIẾT CỘNG ĐỒNG NGƯỜI CHƠ RO, VIỆT NAM
TÓM TẮT
Chữ viết và ngôn ngữ là linh hồn của một cộng đồng tộc người trong xã hội loài người. Về khía
cạnh văn hóa, có thể nói, lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử phát triển đang xen giữa các
nền văn hóa với nhau. Người Chơ Ro là một tộc người trong 53 dân tộc ít người của Việt Nam có đặc
điểm sống xen cư với các tộc người khác. Vậy nên giá trị văn hóa của họ luôn có sự xen lẫn hoặc rơi rớt
nhiều nơi. Hiện nay, chính phủ rất quan tâm để khôi phục lại nền văn hóa của họ. Tuy nhiên, nhiều nhà
nghiên cứu chỉ thiên về lĩnh vực văn hóa nghệ thuật dẫn đến việc đánh giá hoặc kết luận về người Chơ
Ro còn nhiều hạn chế.
Để khắc phục được hạn chế trên, chúng ta cần phải bắt đầu nghiên cứu và tìm hiểu những giá trị
tìm ẩn về nền văn hóa của họ có trong lời nói – chữ viết của họ. Vậy công việc đầu tiên cần phải làm, đó
là giữ gìn ngôn ngữ và chữ viết của người Chơ Ro là cần thiết và cấp bách.
Từ khóa: Lịch sử chữ viết, người Chơ Ro, Việt Nam.
1. Mở đầu
Theo tổng cục thống kê (2019), ở Việt Nam có 53 thành phần dân tộc ít người đang sinh sống.
Người Chơ Ro được xếp thứ 32 trong bảng xếp hạn các dân tộc Việt Nam với dân số là 29.520 người.
Cộng đồng người Chơ Ro cư trú chủ yếu ở khu vực nông thôn của tỉnh Bình Thuận, Bình Dương, Đồng
Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Phước, Tây Ninh,… Trong đó, tỉnh Đồng Nai, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu,
tỉnh Bình Thuận có đồng bào cư trú khá nhiều. Qua địa bàn cư trú trên cho thấy cộng đồng tộc người
Chơ Ro đã có mặt khu Đông Nam Bộ từ rất sớm, sau đó đã phân bố đi khắp nơi trong cả nước cho đến
ngày nay.
Chúng ta có thể khẳn định rằng, cộng đồng người Chơ Ro trước đây là không có chữ viết. Song để
bảo tồn các giá trị của người Chơ Ro, nhiều Nhà nghiên cứu, tiêu biểu là Viện Ngôn ngữ học Mùa hè
Mỹ SIL đã nỗ lực tìm tòi và hình thành bộ chữ viết của họ theo mẫu tự Latin. Bộ chữ này được xuất bản
thành sách và đưa vào chương trình giảng dạy cho bà con trước 1975.
Sau khi đất nước được thống nhất, ông Trần Tấn Vĩnh là tri thức của người Chơ Ro đã khảo sát
được thành 10.000 từ bổ sung vốn từ cho chương trình giảng dạy tại một số địa phương. Tuy nhiên, hiện
nay chữ viết của cộng đồng người Chơ Ro vẫn chưa được công nhận tại Việt Nam với nhiều nguyên
nhân, trong đó tri thức Chơ Ro được xem là nguyên nhân chính.
Để nâng cao các giá trị đời sống của người dân tộc thiểu số, chính phủ Việt Nam đã đưa ra nhiều
chính sách chăm lo đời sống kinh tế - xã hội, trong đó giáo dục được quan tâm hàng đầu.
Từ đối tượng và điều kiện thuận lợi trên, nhiệm vụ nghiên cứu lịch sử chữ viết của cộng đồng người
Chơ Ro là phải bằng những tư liệu lịch sử mô tả và phân tích đầy đủ, toàn diện các hiện tượng và quá
trình hình thành chữ viết người Chơ Ro trong lịch sử, làm rõ từ những cơ sở hình thành đến những giá
trị của chữ viết cho cộng đồng người Chơ Ro, phác họa lại bức tranh phát triển của chữ Viết của họ qua
các giai đoạn khác nhau.
Thế nhưng lịch sử chữ viết của người Chơ Ro chỉ dừng lại ở mức độ mô tả, nên phải khảo sát thực
tế để đưa vào giảng dạy cho thế hệ trẻ của người Chơ Ro trong giai đoạn hiên nay. Bởi chữ viết là công
cụ quan trọng để duy trì tiếng nói, là công cụ để bảo tồn các giá trị của cộng đồng người Chơ Ro.
44
Sách giáo khoa được đưa vào chương trình giảng dạy tiếng và chữ Chơ Ro trước năm 1975
3.2.2 Việc phổ biến chữ viết của Chơ Ro (giai đoạn 1975 - nay)
Sau năm 1975, có rất nhiều công trình nghiên cứu chữ viết của người Chơ Ro, tuy chưa đầy đủ
nhưng cũng được một số tri thức người Chơ Ro như Điểu Sao (Đồng Nai), Trần Tấn Vĩnh (Bà Rịa -
Vũng Tàu) đã khảo sát lại và đưa vào dạy tiếng Chơ Ro ở các địa phương. Trong đó ông Trần Tấn Vĩnh,
nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, nguyên giảng viên
Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Trường Đại học Sư phạm Hồ Chí Minh đã nghiên cứu “Từ điển Việt
- Chơ Ro” với hơn 10.000 từ được Sở Khoa học - Công nghệ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu nghiệm thu năm
2007. Trên cơ sở từ điển Việt – Chơ Ro, Ông Trần Tấn Vĩnh xây dựng bảng chữ cái tiếng Chơ Ro gồm
các nội dung như sau: Ngữ âm tiếng Chơ ro có 34 đơn vị chữ cái (A, Ă, Â, B, C, D, Đ, E, Ĕ Ê, G, H, J,
I, Ĭ K, L, M, N, O, Ŏ, Ô, Ơ, P, Q, R, S, T, U, Ŭ, Ư, V, W, Y), nguyên âm có 19 chữ cái, phụ âm có 15
chữ cái, trong đó có 4 nguyên âm ngắn. Tiếng Chơ Ro thuộc ngôn ngữ đơn âm tiết. Bộ chữ cái Chơ Ro
được xây dựng bám sát bộ chữ cái Quốc ngữ nhằm giúp học chữ Chơ Ro dễ dàng hơn. Về chương trình
dạy thử nghiệm tiếng Chơ Ro do ông Trần Tấn Vĩnh biên soạn được Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bà Rịa
Vũng Tàu cho cấp phép dạy thử nghiệm năm 2009 tại huyện Tân Thành (Thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa
Vũng Tàu) cụ thể gồm 3 phần:
Phần học vần, phần tập đọc và phần kiểm tra. Chia ra 80 bài học với các chủ đề như:
Nội dung: Nhà ở, thời tiết, đồ ăn, đồ uống, nghỉ ngơi, sinh hoạt văn hóa văn nghệ, lao động, tắm,
rừng, núi, đi bẫy, cây các loại, v.v cụ thể như:
Vật dụng sinh hoạt: Giỏ xách, cái dù, áo mặc, chiếc rựa, cái ná, bẫy, v.v
Thức ăn: Ăn cơm, ăn khoai, ăn canh, ăn thịt, v.v
Lao động như: Vác ná, đi bẫy, đi săn, trồng trọt, phơi lúa, bóc võ cây, v.v
Nghỉ ngơi: Ngủ, ngồi chơi, tắm, v.v
Sinh hoạt văn hóa văn nghệ: Hát, đánh chiêng, múa, v.v
Con vật: Con voi, con khỉ, con chó, con cá, con chuột, con heo, con rùa, v.v
Gia đình: Ông - bà, cha - mẹ, anh - chị, em trai, em gái, v.v
Nhà: Buồng ngủ, cửa, bếp, v.v
Một số từ ghép mẫu của tiếng Chơ Ro như: Con so (con chó), con si (con chí), con ca (con cá), con
cop (con rùa), con dôq (con khỉ), v.v
Sau khi đưa vào hoạt động đã thu hút nhiều thanh thiếu niên đăng ký học, ngoài ra ông ra sức nỗ
lực đào tạo cán bộ người Chơ Ro để tiếp tục kế thừa việc dạy chữ người Chơ Ro ở các địa phương có bà
con Chơ Ro sinh sống. Bản thân ông cũng mở lớp dạy tiếng Chơ Ro cho một số học sinh lớp 6 vào năm
2009 tại thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu[7]. Tuy nhiên, do ông đã lớn tuổi thêm nữa chưa có đội
ngũ giáo viên kế thừa nên lớp hoạt động chậm. Tuy vậy vẫn còn có những người con Chơ Ro luôn ấp ủ
việc truyền dạy chữ và tiếng nói của người Chơ Ro tại địa phương như: Đào Văn Phước, Đào Văn Linh,
Điểu Thị An, Hoàng Thị Hậu, v.v thông qua câu lạc bộ, thông qua sinh hoạt văn hóa cộng đồng.
45
Tại tỉnh Đồng Nai, Điểu Tám ngụ ấp Tín Nghĩa, xã Xuân Thiện, huyện Thống Nhất được người
già Chơ Ro chỉ dạy nhiều điều, phân tích rõ vì sao cái chữ người Chơ Ro bị thất lạc. Ông quyết tâm tìm
kiếm và giảng dạy cho con Cháu tại địa phương mình[5]. Thạc sĩ Hà Công Chính, Chuyên viên Phòng
Giáo dục Trung học - Sở Giáo dục - Đào tạo Đồng Nai cho biết “cái chữ” Chơ Ro “Trước mắt, có thể
thử nghiệm làm tại nhà như ý định của già làng Thổ Nơi và thầy Điểu Toa. Đây là một công trình rất
đáng trân trọng và khích lệ”[6].
Để góp phần gìn giữ tiếng nói, truyền thống văn hoá Châu Ro bằng cách riêng của mình, nhiều
năm qua trường Dân tộc nội trú tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cũng đã thành lập câu lạc bộ văn hoá với nhiều
hoạt động phong phú. Tham gia câu lạc bộ này, các em học sinh biết nhiều điều về văn hóa của mình,
trong đó các em nói được tiếng mẹ đẻ, nhiều em trong số đó còn biết viết chữ người Chơ Ro[8].
Với “Chiến lược phát triển văn hóa trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đến năm 2030”, trong đó
“chú trọng phát triển văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh”. Theo hướng dẫn của Bộ giáo
dục và đào đạo về việc dạy thực nghiệm tiếng Chơ Ro tại trường Phổ thông dân tộc nội trú tỉnh Bà Rịa
Vũng Tàu, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh đã chỉ đạo Nhà trường xây dựng chương trình dạy tiếng Chơ Ro
thông qua câu lạc bộ trong năm học 2022-2023. Thông qua câu lạc bộ, các em học sinh có cơ hội để trau
dồi tiếng nói, chữ viết của người Chơ Ro, góp phần gìn giữ tiếng nói và chữ viết của mình.
Một số văn bản và tư liệu được các tri thức Chơ Ro áp dụng để giảng dạy tại địa phương sau năm 1975
4. Vai trò, hướng dạy chữ và tiếng nói của Chơ Ro hiện nay.
Về mặt ý nghĩa, có thể nói trong tiếng nói cũng như chữ viết của người Chơ Ro luôn chứa đựng
yếu tố văn hóa lịch sử.
Chữ và tiếng nói người Chơ Ro chứa mang yếu tố tộc người, yếu tố xã hội, yếu tố địa danh, yếu tố
hiện tượng tự nhiên,… Có rất nhiều tài liệu trước đây đã nghiên cứu về cộng đồng người Chơ Ro đều
cho rằng Chrau – Jro là tên tự gọi. Nhưng thực tế đây là tên chính thức trong phát âm của người Chơ Ro.
Bởi từ Chrau là dùng chung cho cộng đồng dân tộc ít người, còn từ Jro là tộc người Chơ Ro hiện nay.
Vậy chúng ta có thể hiểu rằng từ Chrau – Jro là dân tộc ít người Jro. Từ Chrau có thể áp dụng cho các
tộc người khác như: Chrau – Mạ, Chrau – Chăm, Chrau – Tày, Chrau – Mường, v.v (Dân tộc thiểu số -
Mạ, Dân tộc thiểu số - Chăm, Dân tộc thiểu số - Tày, Dân tộc thiểu số - Mường). Còn người Kinh thì gọi
là Nhon, người Hoa gọi là Lo. Qua đây có thể khẳng định rằng ở Việt Nam có 3 tộc người đó là người
Hoa, người Kinh và các dân tộc ít người. Ngày nay, người Hoa được cũng được xem là dân tộc thiếu số
ở Việt Nam nên người Chơ Ro gọi họ là Chrau – Lo. Vậy hiện tại bà con hay gọi là “Chrau bay Nhon”
(người dân tộc thiểu số và người Kinh). Núi Nhang tại thị trấn Ngãi Giao, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa
Vũng Tàu, người Chơ Ro gọi là gung Jang (nghĩa là núi thần), từ xoài ở Bà Rịa Vũng Tàu thì người Chơ
Ro gọi là Xoai (trước đây các con sông ở khu vực sông Dinh, sông Xoài ngày nay có tiếng nước bị gió
thổi có âm soai rà soái nên bà con gọi chung là xoai), rồi câu chuyện K’ Lêu-bài dân ca đi săn mang
nghĩa là quá trình di cư của người Chơ Ro (lối sống du canh, du cư của họ),…
46
Với cùng hệ thống mẫu chữ Latin, việc dạy chữ cộng đồng người Chơ Ro hiện nay rất dễ dàng.
Điều này cũng dễ hiểu, bởi con cái người Chơ Ro ai cũng đều biết chữ Quốc ngữ. Chính vì vậy, chương
trình dạy chỉ cần dạy từ cấp trung học cơ sở trở lên, đồng thời khi soạn chương trình dạy tiếng Chơ Ro
cũng từ cấp trung học cơ sở trở lên.
5. Thực trạng và giải pháp để bảo tồn chữ viết của đồng bào Chơ Ro hiện nay
Có thể thấy, chữ viết của người Chơ Ro đã được chính quyền các cấp, các nhà nghiên cứu, các tri
thức người Chơ Ro rất quan tâm đã được đưa vào giảng dạy một thời gian. Tuy nhiên, các công trình
cũng như các cuốn tài liệu tham khảo còn thiếu nên việc giảng dạy chữ Chơ Ro vẫn chưa được phổ biến.
Song, cộng đồng người Chơ Ro vẫn giảng dạy con cháu tại nhà, tại các buổi sinh hoạt cộng đồng thông
qua truyện dân gian, qua bài hát, qua cuộc sống thường ngày,… Với sự nổ lực của các nhà nghiên cứu,
các tri thức Chơ Ro cùng với sự quan tâm của chính quyền các cấp để dần hoàn thiện các thủ tục soạn
chương trình giảng dạy. Có thể khẳng định một điều, mặt dù bị xen lẫn bởi các nền văn hóa khác nhau
trong thời kỳ đổi mới nhưng con cháu của họ vẫn giữ được hồn của tiếng nói và chữ viết của dân tộc
mình.
Với thuận lợi từ sự quan tâm của chính quyền các cấp trong việc bảo tồn chữ viết của người Chơ
Ro trong giai đoạn hiện nay. Chúng ta cần phải có những giải pháp tạm thời cũng như và giải pháp lâu
dài để bảo tồn và hoàn thiện chữ viết của người Chơ Ro. Giải pháp trước mắt đó là, cần duy trì việc dạy
chữ tại các gia đình, tại các tổ chức xã hội như: nhà sinh hoạt văn hóa dân tộc, các cơ sở giáo dục có
đông con em người Chơ Ro theo học dưới hình thức sinh hoạt câu lạc bộ để bảo tồn chữ viết và tiếng nói
của họ. Về lâu dài, cần sớm hoàn thành các công trình khoa học như: thống nhất bộ chữ, từ điển, ngữ
pháp, v.v để soạn thảo chương trình giảng dạy tiếng Chơ Ro từ thực nghiệm đến chính thức. Đồng thời
cần quan tâm nghiên cứu và xuất bản các cuốn tài liệu bằng chữ Chơ Ro từ bài hát, từ câu truyện dân
gian, lịch sử, v.v của người Chơ Ro để làm phong phú thêm các nguồn tài liệu tham khảo.
6. Kết luận
Người Chơ Ro là một dân tộc ít người ở Việt Nam, có cuộc sống xen cư với các dân tộc khác tập
trung chủ yếu ở khu vực Đông Nam Bộ. Văn hóa của người Chơ Ro rất phong phú, được ẩn chứa trong
tiếng nói, đã làm cho các nhà nghiên cứu quan tâm nghiên cứu và hình thành chữ viết nhằm bảo tồn văn
hóa của họ một cách bền vững.
Trải qua thời gian nghiên cứu ở các giai đoạn khác nhau của các tổ chức, các nhà khoa học cùng
với tri thức người Chơ Ro đã phiên âm, hình thành chữ viết của người Chơ Ro theo mẫu tự Latin và được
bổ sung để hoàn thiện hơn.
Việc phổ biến chữ viết cũng được các nhà nghiên cứu đã thực nghiệm tại các địa phương.
Hiện nay, việc dạy thực nghiệm đã dừng lại bởi do tài liệu để xây dựng chương trình giảng dạy vẫn
còn thiếu. Tuy nhiên các tổ chức, các cá nhân vẫn dạy chữ cho con em Chơ Ro thông qua sinh hoạt câu
lạc bộ, người biết chữ dạy cho người chưa biết.
Có thể khẳng định, chữ Viết và tiếng nói là linh hồn, là một trong những tiêu chí để xác định được
một dân tộc. Chính vì lẽ đó, chúng ta cần phải trân trọng và phổ biến chữ viết và tiếng nói trong cộng
đồng người Chơ Ro, đặc biệt là thế hệ trẻ.
47
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 67 (2008), NXB Chính trị
Quốc gia Sự thật.
4. Hội đồng Chính phủ (1981), Nghị quyết số 148-CP ngày 07/4/1981 của về phát triển nông
nghiệp đồng bằng sông Cửu Long trong kế hoạch 5 năm 1981 - 1985.
5. Thủ tướng Chính phủ (2007), Quyết định số 121/2007/QĐ-TTg ngày 27/7/2007 phê duyệt
quy hoạch mạng lưới các trường đại học và cao đẳng giai đoạn 2006 - 2020.
6. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 492/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 về phê duyệt
Đề án thành lập vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long.
7. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 800/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020.
8. Tổng Cục Thống kê (1990), Kết quả Tổng Điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 1989.
9. Tổng cục Thống kê (2004), Số liệu thống kê Việt Nam thế kỷ XX, tập 2, NXB Thống kê.
10. Tổng cục Thống kê (2007), Niên giám Thống kê năm 2006, NXB Thống kê.
11. Tổng Cục Thống kê (2010), Kết quả Tổng Điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 2009, Kết
quả chủ yếu.
12. Tổng cục Thống kê (2012), Niên giám Thống kê năm 2011, NXB Thống kê.
13. Tổng cục Thống kê (2014), Niên giám Thống kê năm 2013, NXB Thống kê.
14. Tổng cục Thống kê (2017), Niên giám Thống kê năm 2016, NXB Thống kê.
15. Tổng cục Thống kê và Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc (2016), Điều tra Dân số và Nhà ở
giữa kì 2014: di cư và đô thị hóa ở Việt Nam, NXB Thông tấn.
16. Văn phòng Chính phủ (1999), Thông báo số 09/TB-VPCP ngày 26/01/1999 về ý kiến kết
luận của Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm tại Hội nghị phát triển giáo dục, đào tạo khu vực đồng bằng
sông Cửu Long.
48
THE TRACES OF EAST ASIA CULTURE IN CHARACTERIZATION IN
ON EARTH WE’RE BRIEFLY GORGEOUS (OCEAN VUONG)
Vương Thị Vân Anh*, Nguyễn Thành Trung
Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
*Tác giả liên hệ: Điện thoại: 0829 998 178; Email: 4501601008@student.hcmue.edu.vn
ABSTRACT
This article aims to clarify the traces of East Asia demonstrated in On Earth We're Briefly Gorgeous
(Ocean Vuong) by analyzing the characterization (through emptiness, monism, and natural agreement).
The study uses cultural studies and semiotics to propose and apply a method to analyze characters in
Ocean Vuong’s novel, namely, identifying pairs of opposites, characterization, and analyzing
deconstructive expressions.
Keywords: Characterization, On Earth We’re Briefly Gorgeous, the traces of East Asia culture.
2. Methodology
According to the approach orientation and the research object, the paper applies cultural studies
and semiotics to study the traces of East Asia culture in the characterization in On Earth We’re Briefly
Gorgeous (Ocean Vuong).
Cultural studies “designates a recent and rapidly growing cross-disciplinary enterprise for
analyzing the conditions that effect the production, reception, and cultural significance of all types of
institutions, practices, and products; among these, literature is accounted as merely one of many forms
of cultural ‘signifying practices’.” (Abrams, 1999, p. 53). Roland Barthes, in Mythologies (1957, trans
1972), “analyzed the social conventions and “codes” that confer meanings in such social practices as
women's fashions and professional wrestling” (Abrams, 1999, p. 53), showed the role of cultural studies
in reading. The essay use a cultural studies technique to examine the signs and social practices that
represent the immigrant community's culture in the novel. Furthermore, clarifying the traces of East Asia
culture in Ocean Vuong's character development.
Semiotics “[d]eals with the study of signs: their production and communication, their systematic
grouping in languages or codes, their social function. It is doubly relevant to the study of literature, for
literature uses language, the primary sign system in human culture, and is further organized through
various subsidiary codes, such as generic conventions” (Peter Childs; Roger Fowler, 2006, p. 212).
Semiotic objects comprise linguistics (a specific sign system) and non-linguistic signs such as visuals,
clothing, traffic signals, and so on. Therefore, sign systems are found and described in terms of meaning
formation when utilizing semiotics to evaluate a book. This study focuses on the selection and poetic
devices approaches using linguistics. The research also investigates the selection and cultural meanings
of non-linguistic cues (such as the body). As a consequence, using semiotics may be able to decipher
signal systems in texture.
Methodologies evaluate the work based on its linguistic form and consider the work as its whole,
revealing traces of East Asia culture via the process of character development.
5. References
1. Abrams, M. H. (1999), A Glossary of Literary terms, Boston: Earl McPeek.
2. Lao Zi; Stephen Mitchell (2006), Tao Te Ching. New York: Harper Perennial Modern
Classics.
3. Peter Childs; Roger Fowler (2006), The Routledge dictionary of Literary terms, Oxon:
Routledge.
4. Red Pine. (2004). The Heart Sutra, Washington D.C: Shoemaker and Hoard.
5. Vuong, Ocean (2020), On Earth We're Briefly Gorgeous. London: Vintage.
6. Zhuang Zi; Brook Ziporyn (2020), The complete writings. Indianapolis: Hackett
Publishing Company.
52
DẤU ẤN VĂN HÓA CỦA NGƯỜI NAM BỘ
QUA VIỆC SỬ DỤNG TIỂU TỪ TÌNH THÁI CUỐI PHÁT NGÔN
TÓM TẮT
Từ ngữ liệu 2400 cặp thoại trong giao tiếp của người Nam Bộ, bài viết tiến hành khảo sát, và xác
định được 19 tiểu từ tình thái xuất hiện cuối phát ngôn, chia làm hai nhóm: 5 tiểu từ thuộc tiếng Việt
toàn dân và 14 tiểu từ thuộc phương ngữ Nam Bộ. Từ việc xác định và phân nhóm, bài viết của chúng
tôi đi vào phân tích, lí giải các tiểu từ tình thái để từ đó chỉ ra sắc thái riêng, dấu ấn văn hóa trong giao
tiếp của người Nam Bộ.
Từ khóa: dấu ấn, văn hóa, giao tiếp, Người Nam Bộ, tiểu từ tình thái.
1. Tổng quan
Tiểu từ tình thái cuối phát ngôn cùng với các phương tiện ngôn ngữ khác là một trong những
phương tiện quan trọng tạo sắc thái riêng cho mỗi phát ngôn trong từng ngữ cảnh giao tiếp cụ thể. Vì
vậy, tìm hiểu các tiểu từ tình thái cuối phát ngôn của người Nam Bộ là việc làm cần thiết góp phần bổ
sung cho lý thuyết từ loại cũng như lý thuyết hội thoại.
Các tiểu từ tình thái cuối phát ngôn cầu khiến trong giao tiếp của người Nam Bộ góp phần tạo nên
sắc thái ngữ nghĩa, dấu ấn văn hóa khác biệt so với vùng miền khác khi giao tiếp. Vì vậy, việc tìm hiểu
sắc thái ngữ nghĩa của chúng sẽ giúp ta hiểu thêm một lớp từ trong phương ngữ Nam Bộ mà đến nay
chưa được đi sâu nghiên cứu.
Nghiên cứu các tiểu từ tình thái cuối phát ngôn của người Nam Bộ cũng giúp chúng ta hiểu rõ hơn
về văn hoá một vùng miền với nhiều nền văn hoá lai căn đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu quan
tâm.
53
Khi Nghiên cứu Việt ngữ, L.l. Glebova đã dựa trên mục đích phát ngôn điển hình do chúng biểu
thị để phân loại các tiểu từ tình thái tiếng Việt. Theo L.l. Glebova, các tiểu từ tình thái cuối câu (tác giả
gọi là các “tiểu từ câu”) được chia ra thành các loại nhỏ là: Các tiểu từ được dùng chủ yếu trong những
câu thuộc về một kiểu chức năng nhất định; Các tiểu từ biểu thị quan hệ của người nói đối với hiện thực
được phản ánh, gồm các tiểu từ biểu thị các sắc thái biểu cảm, đánh giá gồm có 9 từ). Như vậy, thực chất
cũng chỉ còn lại 13 tiểu từ tình thái.
Nguyễn Văn Hiệp (2021) nêu ra 26 tiểu từ tình thái cuối câu trong tiếng Việt và phân thành ba
nhóm như sau:
Nhóm 1: Các tiểu từ tình thái được dùng khá ổn định trong một số kiểu hành vi nào đó.
Nhóm 2: Các tiểu từ tình thái không có sự ổn định về kiểu hành vi mà chúng biểu thị, tùy theo nội
dung mệnh đề đi kèm (và tất nhiên, tùy theo tình huống được sử dụng) chúng có thể biểu thị các kiểu
hành vi đã được nêu ở nhóm 1.
Nhóm 3: Các tiểu từ tình thái không tham gia trực tiếp vào việc hình thành mục đích phát ngôn mà
chỉ thể hiện những nét nghĩa liên quan đến sự thúc dục nói chung hoặc quan hệ giữa người nói và người
nghe. Thuộc về nhóm này có tiểu từ thôi, ạ (Nguyễn Văn Hiệp, 2021).
Như vậy, tác giả Nguyễn Văn Hiệp đã đi sâu miêu tả, thông kê 26 tiểu từ tình thái chung trong giao
tiếp (với nhiều hành động khác nhau), chứ không dừng lại với nhóm hành động cầu khiến.
Cũng như tác giả Nguyễn Văn Hiệp, tác giả Đỗ Thị Kim Liên đưa ra 20 tiểu từ tình thái thuộc
nhiều nhóm khác nhau mà chưa đi sâu vào nhóm tiểu từ tình thái cầu khiến (Đỗ Thị Kim Liên, 2005)..
Từ các quan điểm trên, ở đây chúng tôi đi sâu miêu tả các tiểu từ tình thái đứng cuối tham thoại
trao chứa hành động cầu khiến trong giao tiếp của người Nam Bộ.
3.2 Tiểu từ tình thái cuối phát ngôn của người Nam Bộ
Để có nguồn ngữ liệu phục vụ cho bài viết, chúng tôi tiến hành thu thập bằng hai cách: ghi âm và
ghi chép trực tiếp các cuộc thoại trong cuộc sống hàng ngày của những đối tượng được khoanh vùng
nghiên cứu là con người Nam Bộ (thuộc các tỉnh Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ). Đông Nam Bộ chúng
tôi khảo sát 4/6 tỉnh là Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình phước và Tây Ninh. Tây Nam Bộ (khu
vực đồng bằng Sông Cửu Long), chúng tôi tiến hành khảo sát tất cả 13 tỉnh thành) và phân biệt đối tượng
theo những tiêu chí sau:
- Giới tính: nam – nữ
- Quan hệ: gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, hành xóm, người mua kẻ bán.
- Độ tuổi: từ 15 tuổi trở lên.
- Hoàn cảnh phát ngôn: các cuộc giao tiếp diễn ra trong gia đình và ngoài xã hội.
Từ tư liệu ghi âm, ghi chép được, chúng tôi ghi lại bằng văn bản được 2400 tham thoại chứa hành
dộng cầu khiến.
Khảo sát 2400 cặp thoại trong giao tiếp của người Nam Bộ, chúng tôi bắt gặp 19 tiểu từ tình thái,
xuất hiện cuối 1429 phát ngôn. Trong đó, có 8 tiểu từ tình thái thuộc tiếng Việt toàn dân, 11 tiểu từ thuộc
phương ngữ.
Dưới đây là bảng thống kê các nhóm tiểu từ tình thái cuối phát ngôn của người Nam Bộ.
Bảng 1. Các nhóm tiểu từ tình thái
T Số Tỷ lệ
Nhóm tiểu từ tình thái Tần số xuất hiện/lần
T lượng %
1 Nhóm tiểu từ tình thái trong tiếng Việt toàn dân 8 582 40,7
2 Nhóm tiểu từ tình thái thuộc phương ngữ Nam Bộ 11 847 59,3
Tổng 19 1.429 100%
Qua bảng thống kê trên, chúng tôi thấy, nhóm tiểu từ tình thái thuộc phương ngữ chiếm tỷ lệ lớn
hơn so với nhóm tiểu từ tình thái trong tiếng Việt toàn dân. Chính hệ thống tiểu từ tình thái phương ngữ
này góp phần quan trọng trong việc tạo sắc thái riêng, nét văn hóa trong giao tiếp của người Nam Bộ so
với các vùng miền khác, đồng thời làm nên sự phong phú cho hệ thống tiểu từ tình thái tiếng Việt.
3.2.1 Nhóm tiểu từ tình thái thuộc tiếng Việt toàn dân
54
Tiểu từ tình thái toàn dân xuất hiện cuối phát ngôn của người Nam Bộ là không nhiều: 8/19 từ,
xuất hiện trong 582 tham thoại, chiếm 40,7%, gồm: đi, đó, đấy, cái với (dới), nhé, thôi, nào. Chúng tôi
căn cứ vào nghĩa từ điển để miêu tả ý nghĩa cụ thể của các tiểu từ tình thái khi hành chức trong giao tiếp
của người Nam Bộ như sau:
- Đi, theo nghĩa Từ điển tiếng Việt là “từ biểu thị ý mệnh lệnh hoặc đề nghị, thúc dục một cách
thân mật” (Hoàng Phê, 2018, tr.393). Qua khảo sát, chúng tôi thấy đây là tiểu từ tình thái toàn dân xuất
hiện nhiều nhất trong giao tiếp của người Nam Bộ (xuất hiện 430 lần, chiếm 73,88%), sắc thái nghĩa
hành chức của tiểu từ đi biểu thị ý nghĩa mệnh lệnh, đề nghị hoặc khuyên bảo, thúc dục nhưng mang sắc
thái thân mật.
(1) Anh hai chở em đi học đi.
- Đó, được dùng như đấy trong tiếng Việt toàn dân “chỉ sự vật, sự việc được nói tới, hoặc được xác
định” (Huỳnh Công Tín, 2009, tr. 522). Xuất hiện cuối các tham thoại cầu khiến, đó biểu thị sự nhấn
mạnh như một lời nhắc nhở khi cầu khiến với sắc thái suồng sã nhưng gần gũi, thân mật.
(2) Đến ngày đóng tiến cho tui rồi đó.
- Nhé, dùng cuối câu “biểu thị thái độ thân mật đối với người đối thoại: 1) với mong muốn lời nói
của mình được chú ý. Mẹ ở nhà, con đi nhé. 2) với ý mong muốn người đối thoại đồng ý với ý kiến của
mình. Anh chị ở lại xơi cơm nhé. Chúng ta đi chơi nhé. 3) với ý dặn dò, giao hẹn. Như vậy nhé. Con
trông em nhé. 4) với ý đe nẹt, bảo ban hoặc nói mỉa một cách nhẹ nhàng. Liệu hồn đấy nhé. Thôi nhé,
chơi thế là đủ rồi. thật là đẹp mặt nhé. Đáng đời nhé” (Huỳnh Công Tín, 2009, tr. 906-907). Qua khảo
sát, chúng tôi bắt gặp từ nhé xuất hiện 52 lượt, được dùng biểu thị thái độ thân mật đối với Sp2 và mong
muốn Sp2 đồng ý với ý kiến đề nghị của mình. Với việc sử dụng từ nhé cuối phát ngôn làm cho các tham
thoại cầu khiến có sắc thái nhẹ nhàng, cho thấy Sp1 tỏ ra không có ý định áp đặt mà vẫn để ngỏ các khả
năng lựa chọn cho Sp2, mong muốn có được sự thoải mái, vui vẻ đồng tình từ phía Sp2. Tiểu từ này cũng
góp phần làm tăng tính lịch sự, sự tôn trọng của Sp1 đối với Sp2.
(3) Ngày mơi (mai) bà với tui đi qua nhà con Lan nhé.
- Cái, cũng được dùng với sắc thái nghĩa của tiểu từ coi nhưng với mục đích nhấn mạnh.
(4) Anh hai mần giúp em bài tập này cái.
- Thôi, là “từ biểu thị ý can ngăn hoặc từ chối, không muốn để cho một hành động nào đó xẩy ra
hoặc tiếp diễn” (Huỳnh Công Tín, 2009, tr.1203). Khi hành chức trong các tham thoại cầu khiến của
người Nam Bộ, thôi được dùng cuối phát ngôn để biểu thị ý đề nghị, yêu cầu, can ngăn một cách dứt
khoát, mạnh mẽ.
(5) Nhậu goài (hoài) ạ, ông nhậu ít thôi.
- Đấy, là “từ biểu thị ý nhấn mạnh về tính chất xác định, đích xác của điều được nói đến” [4, 383].
Trong giao tiếp của người Nam Bộ, đấy chỉ xuất hiện 4 lượt nhằm biểu hiện ý nhấn mạnh, sắc thái thân
mật, mang ý nghĩa khẳng định khi cầu khiến.
(6) Chiều hai đứa ở nhà đi giăng câu với ba đấy.
- Với (dới), là từ “biểu thị ý yêu cầu thân mật hoặc tha thiết cho mình hay cho người có quan hệ
thân thiết với mình” (Huỳnh Công Tín, 2009, tr. 1431). Khi hành chức trong các tham thoại cầu khiến
của người Nam Bộ, với có khi được phát âm thành dới thể hiện một lời đề nghị, van nài với sắc thái thân
mật, tha thiết của Sp1.
(7) Bà về tui quá giang dới (với).
- Nào, xuất hiện không nhiều (3 lần, 0,52%) được dùng cuối các phat ngôn biểu thị sắc thái nhấn
mạnh.
(8) Đi sang ngoại với má nào.
Như vậy, các tiểu từ tình thái trong tiếng Việt toàn dân khi hành chức trong giao tiếp của người
Nam bộ nhìn chung không có nhiều khác biệt.
55
Tiểu từ tình Tần số
Tỷ lệ
STT thái cuối phát Ví dụ điển hình (của người Nam Bộ) xuất
%
ngôn cầu khiến hiện/lần
1 coi Mày về tao quá giang coi. 294 34,71
4 đó nha Mai con đi phỏng vấn ở công ty anh Nam đó nha. 34 4,01
6 heng Mơi má nấu cơm cho nhà con với heng. 20 2,36
7 Vậy mày làm mình ơn (ên), ai hỏi mày nói thằng Bảy 14 1,65
hen
tật dẫn vợ con bỏ xứ đi rồi hen.
8 ha Mơi (mai) anh hai với em đi dạo Sài Gòn ha. 13 1,53
11 nhen Má, một lát cho con tiền mua đồ nhen. 6 0,71
4. Kết luận
Khảo sát các tiểu từ tình thái cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ, bước đầu phân tích
lớp từ này, chúng tôi thấy các tiểu từ tình thái cuối phát ngôn của người Nam Bộ có những đặc điểm sau:
- Số lượng các tiểu từ tình thái cuối phát ngôntrong giao tiếp của người Nam Bộ là rất đa dạng,
gồm: 5 tiểu từ thuộc phương ngữ toàn dân, 14 tiểu từ thuộc phương ngữ Nam Bộ. Như vậy các tiểu từ
thuộc phương ngữ Nam Bộ chiếm tỉ lệ rất lớn.
- Các tiểu từ tình thái cuối phát ngôn của người Nam Bộ có mối liên hệ chặt chẽ với hệ thống tiểu
từ tình thái trong tiếng Việt toàn dân, đồng thời thể hiện được nét riêng rõ nét khi sử dụng cuối phát ngôn,
đặc biệt là các phát cầu khiến - một hành động ngôn ngữ thường đe doạ cao tới thể diện của đối phương.
Người Nam Bộ chọn phương tiện ngôn ngữ này để thực hiện hành động cầu khiến góp phần làm giảm
sự đe doạ thể diện của đối phương, làm cho hành động cầu khiến có tính “cầu” nhiều hơn “khiến”.
57
- Các tiểu từ tình thái cuối phát ngôn của người Nam Bộ mang những nét riêng, tạo sắc thái vùng
miền rõ nét như: nghen, hen (hén), heng (héng) nhen… Là những từ có kết thúc cao, nhanh nhưng lại
làm giảm nhẹ tính áp đặt cho hành động cầu khiến, làm cho hành động này đạt hểu quả cao hơn.
- Người Nam Bộ có thói quen sử dụng tiểu từ tình thái nhiều và đa dạng cuối phát ngôn. Qua khảo
sát 2400 cặp thoại thì có đến 1429 cặp thoại xuất hiện tiểu từ tình thái cuối phát ngôn. Người Nam Bộ
xem TTTT như là một phương tiện thể hiện nét lịch sự khi nhờ vả hay yêu cầu ai đó làm một việc gì đó
cho mình hoặc cho người khác.
58
YẾU TỐ VĂN HÓA TRONG HOẠT ĐỘNG DẠY VÀ HỌC
NGOẠI NGỮ CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM
Nguyễn Văn Đồng*
Khoa Văn hóa và Du lịch, Trường Đại học Sài Gòn
*Tác giả liên hệ: Điện thoại: 0969 971 804; Email: nvdong@sgu.edu.vn
TÓM TẮT
Việc dạy và học ngôn ngữ nói chung, cũng như các phương pháp dạy học ngoại ngữ hiện nay và
các quy định chính thức không có đủ chỗ cho yếu tố văn hóa, hoặc vai trò của yếu tố văn hóa đang mất
dần. Đặt vấn đề yếu tố văn hóa trong dạy và học ngoại ngữ cho sinh viên đại học ở Việt Nam bài viết
của chung tôi mong muốn đưa ra các giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả dạy và học ngoại ngữ ở
trường Đại học. Tuy nhiên, do giới hạn về dung lượng, ở bài viết này chúng tôi mới chỉ mới đi vào là rõ
hai vấn đề liên quan là: 1/ Vị trí của yếu tố văn hóa trong dạy học ngoại ngữ; 2/ Mối quan hệ giữa tiếp
cận văn hóa và tiếp cận ngôn ngữ khi dạy - học một ngoại ngữ.
Từ khóa: văn hóa, dạy học, ngoại ngữ.
1. Tổng quan
Theo Alain, nhà triết học người Pháp Olivier Reboul, “Mỗi ngôn ngữ tự cấu thành một tượng đài
văn hóa và một tác phẩm nghệ thuật” (Alain, 1974, tr. 147). Do đó, sẽ rất khó học một ngôn ngữ nếu
người học không quan tâm đến nền văn hóa mang ngôn ngữ đó. Tuy nhiên, việc tích hợp văn hóa vào
giảng dạy ngoại ngữ trong các trường đại học ở Việt Nam chưa thực sự được quan tâm. Vào năm 2001,
Claude Germain đã kết luận: “Có một thực tế là thành phần văn hóa của việc học ngôn ngữ vẫn bị gạt ra
ngoài lề, cả trong các chương trình, giáo trình hoặc giáo án chính thức, cũng như trong sách giáo khoa
và trong các hoạt động trên lớp. Văn hóa dường như là một mối quan tâm về thể chế hơn là một lựa chọn
lý thuyết” (Claude Germain, 2021, tr. 308). Thật vậy, các phương pháp giảng dạy được khuyến nghị, các
quy định chính thức cũng như các trào lưu giảng dạy ngôn ngữ đều dựa trên các quan niệm chức năng
của ngôn ngữ. Ngôn ngữ về cơ bản được trình bày như một mệnh lệnh để hoạt động trong xã hội sở tại.
Khi làm như vậy, mặc dù có mong muốn truyền tải một di sản văn hóa nhất định, nhưng văn hóa thường
bị giới hạn trong những khuôn cố định. Do đó, khai thác yếu tố văn hóa được xem là một thách thức lớn
trong việc tiếp thu một ngôn ngữ nước ngoài của sinh viên ở Việt Nam.
Ở bài viết này, chúng tôi đề xuất vận dụng cách tiếp cận văn hóa do Érick Falardeau và Denis
Simard (2011) phát triển bao gồm các dòng tư tưởng phù hợp để vượt qua những thách thức khi khai
thác yếu tố văn hóa vào dạy học ngoại ngữ cho sinh viên. Thông qua hoạt động dạy học, quan tâm đến
tính chủ quan của sinh viên và đặt trong mối quan hệ với người khác vào trung tâm của sự phản ánh về
văn hóa, và điều này, không chỉ liên quan đến việc truyền tải di sản văn hóa và tập thể của một xã hội
nhất định, mà còn của cả nhân loại. Bằng cách sử dụng các khía cạnh lịch sử và văn hóa, có thể thu hút
sinh viên tham gia vào quá trình học của họ. Đây là lý do tại sao phản ánh của chúng tôi về việc giảng
dạy ngoại ngữ sẽ được phát triển thành hai phần. Đầu tiên là chúng tôi trình bày các cách tiếp cận theo
hướng giao tiếp và hành động liên quan đến khung mẫu chức năng. Sau đó, chúng tôi sẽ nhấn mạnh vào
mức độ phù hợp của cách tiếp cận văn hóa trong việc giảng dạy ngoại ngữ.
59
3.1 Vị trí của yếu tố văn hóa trong việc dạy và học dạy ngoại ngữ
Việc dạy học ngoại ngữ ở các trường đại học ngày nay phần lớn đều tham khảo Khung tham chiếu
ngôn ngữ chung châu Âu (CEFR) xuất bản năm 2001 (Piccardo, 2014). Do đó, bài viết chúng tôi dự định
xem xét những thiếu sót của phương pháp giao tiếp bằng cách đề xuất phương pháp tiếp cận dựa trên
hành động, một phiên bản cải tiến và sửa đổi của phương pháp sư phạm giao tiếp. Chúng tôi sẽ trình bày
hai cách tiếp cận này trước khi đặt câu hỏi về vị trí dành riêng cho văn hóa trong dạy học ngoại ngữ.
Cách tiếp cận giao tiếp dựa trên ý tưởng trước hết cần phát triển khả năng giao tiếp hơn là kiến
thức về các quy tắc của quy luật giao tiếp (Boucher, Duplantié & Leblanc, 1988). Cách tiếp cận này, chủ
yếu được phát triển vào những năm 1980, trái ngược với cái gọi là phương pháp truyền thống bao gồm
việc trình bày các quy tắc và chuẩn mực của ngôn ngữ một cách thuần thục bằng cách đề xuất các bài
tập lặp đi lặp lại ngoài ngữ cảnh và ghi nhớ kiến thức trừu tượng. Chúng ta mong muốn “các thành viên
của một cộng đồng ngôn ngữ có tri thức ngôn ngữ học và tri thức xã hội học, nghĩa là không chỉ tri thức
về một trật tự ngữ pháp mà còn cả tri thức về các quy tắc sử dụng ngôn ngữ tùy theo sự đa dạng của các
tình huống giao tiếp” (Germain, 1991, tr. 22). Đối tượng của giao tiếp sư phạm bao gồm tất cả mọi khía
cạnh thuộc về mã ngôn ngữ, cũng như các kỹ năng diễn ngôn và văn hóa xã hội (Boucher et al, 1988).
Do đó, văn hóa là một trong những thành phần của giao tiếp (Germain, 2001). Ở góc độ này, việc thực
hành văn học được coi là không gắn với nhu cầu của học sinh, vì nó không tạo thành một tình huống
giao tiếp đích thực theo định nghĩa của các cách tiếp cận này. Quan niệm này phù hợp với ý tưởng rất
phổ biến được khẳng định bởi nhà ngôn ngữ học người Pháp André Martinet (1979), theo đó ngôn ngữ
trước hết là công cụ giao tiếp. Tuy nhiên, thật quá đơn giản khi coi ngôn ngữ như một công cụ giao tiếp
đơn giản. Ngược lại, ngôn ngữ là “những gì nói bên trong chúng ta và những gì cấu thành chúng ta với
tư cách là chủ thể của con người” (Simard, 2002, tr. 72).
Tuy nhiên, thách thức của việc học một ngoại ngữ không thể chỉ dừng lại ở khả năng giao tiếp.
Đây là lý do tại sao cách tiếp cận định hướng hành động, không phá vỡ cách tiếp cận trước đó, nhưng
cần nhấn mạnh nhiều hơn vào một thực tế đó là sinh viên được xem là một tác nhân có vị trí xã hội,
người có nhu cầu ngôn ngữ cụ thể (Piccardo, 2014). Cách tiếp cận định hướng hành động đã được tích
hợp vào các chương trình giảng dạy ngoại ngữ ở nhều trường đại học trên thế giới. Theo cách tiếp cận
này, ngôn ngữ một lần nữa dường như được quan niệm như một đối tượng bên ngoài, một công cụ đơn
giản mà sinh viên phải học cách sử dụng. Do đó, việc đặt câu hỏi liệu tính chủ quan của sinh viên có vị
trí trong lớp học ngọa ngữ hay không là phù hợp. Việc dạy một ngôn ngữ sẽ chỉ hữu ích nếu nó giúp đào
tạo một lực lượng lao động có năng lực về ngôn ngữ. Có thể nọi ngoại ngữ là cần thiết để hòa nhập vào
xã hội và tìm việc làm trong bối cảnh hiện nay. Tuy nhiên, đây không phải là mục đích tự thân trong giáo
dục. Sinh viên không học một ngôn ngữ để trở thành một công nhân đơn giản. Họ học một ngôn ngữ để
mở ra một nền văn hóa, để làm phong phú thêm sự hiểu biết của họ về thế giới và tất nhiên, để giao tiếp
với những người nói tiếng nói của quốc gia nơi họ chọn định cư hoặc với người ngoại quốc nơi họ làm
việc. Ngược lại, nhà trường nên đưa sinh viên vào tiếp xúc với các sản phẩm văn hóa khác nhau sẽ cho
phép họ hiểu sâu hơn về lịch sử và văn hóa của chính quốc gia gắn liền với ngôn ngữ họ dùng.
Từ thực tiễn dạy học một ngọi ngữ cụ thể cho thấy, văn hóa là yếu tố không thể thiếu của dạy học
ngoại ngữ. Người học không thể hieer hết một ngôn ngữ nếu không nắm được những đặc trưng tiêu biểu
của nền văn hóa đó. Để sử dụng ngoại ngữ trong giao tiếp với người ngoại quốc, nghĩa là giao tiếp với
đại diện của nền văn hóa khác cần phải học cách sử dụng ngôn từ đúng ngữ cảnh cùng với cách hành xử
văn hóa của họ. Nắm vững được những đặc trưng văn hóa và chiến lược hành vi ngôn ngữ cho phép
những người tham gia giao tiếp sử dụng ngôn từ cho phù hợp với tình huống giao tiếp, phù hợp với đối
tượng giao tiếp. Và quan trọng hơn là hình thành ở người học năng lực giao tiếp liên văn hóa, qua phương
tiện ngôn ngữ “văn hóa thông qua ngôn ngữ, ngôn ngữ thông qua văn hóa” và được hiện thực hóa thông
qua việc sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp.
3.2 Mối quan hệ giữa tiếp cận văn hóa và tiếp cận ngôn ngữ khi dạy - học một ngoại ngữ
Vì ngôn ngữ phát triển trong môi trường văn hóa, học ngoại ngữ không chỉ là vấn đề dịch thuật.
Theo nghĩa này, chúng tôi sẽ sử dụng câu nói đặc biệt của Olivier Reboul: “một bậc thầy học cách dịch
càng nhanh càng tốt sẽ được đào tạo chuyên nghiệp; một bậc thầy cho thấy mình có nhiều bản dịch khả
60
thi và dành mọi thời gian để tìm ra bản tốt nhất, đôi khi không thành công” (Olivier Reboul, 2001, tr.
18). Sự hiểu biết về một ngoại ngữ về bản chất có liên quan đến thực tế văn hóa và ngôn ngữ xã hội cũng
như lịch sử của ngôn ngữ. Do đó, như đã nói ở trên, sẽ không đủ nếu học một ngôn ngữ mà không quan
tâm đến nền văn hóa mang ngôn ngữ đó.
Đây là lý do tại sao cách tiếp cận văn hóa do Falardeau và Simard (2011) phát triển được xem là
phù hợp để làm phong phú them sự phản ánh về văn hóa bằng tiếng nước ngoài. Nó chủ yếu đưa ra lý
thuyết cho việc giảng dạy ngoại ngữ nhưng nó không chỉ giới hạn ở điều này. Cái sau dựa trên ý nghĩa
được đưa ra bởi Jean-Claude Forquin, ông cho rằng văn hóa có nghĩa là “di sản kiến thức và kỹ năng,
thể chế, giá trị và biểu tượng được xây dựng qua nhiều thế hệ và đặc trưng của một cộng đồng người cụ
thể được định nghĩa ít nhiều rộng rãi và hơn thế nữa hoặc ít hơn độc quyền” (Jean-Claude Forquin, 1989,
tr.10). Như đã minh họa ở trên, trong các phương pháp tiếp cận theo định hướng giao tiếp và hành động
được đề xuất bằng tiếng nước ngoài, văn hóa thường được quy giản thành ý nghĩa mô tả và mục tiêu duy
nhất. Falardeau và Simard cho rằng những ý nghĩa này dường như không đủ và không thể thỏa mãn các
nhà sư phạm, vì “mọi nền giáo dục luôn giả định trước một sự lựa chọn trong nền văn hóa và một sự tái
xây dựng nội dung được truyền tải” (Falardeau & Simard 2011, tr. 3). Tuy nhiên, các khía cạnh nhân
chủng học và xã hội học vẫn phù hợp trong bối cảnh ngôn ngữ nơi sinh viên định cư, làm việc, khám phá
một nền văn hóa mới. Do đó, những phản ánh về văn hóa này sẽ chiếm một vị trí quan trọng hơn trong
việc giảng dạy ngôn ngữ.
Cách tiếp cận văn hóa phần lớn cũng dựa trên quan niệm nhân văn về văn hóa do nhà xã hội học
Quebec Fernand Dumont đưa ra trong Le lieu de l’homme (1968). Theo Dumont, có một nền văn hóa
thứ nhất, một nền văn hóa có được trong các tình huống quen thuộc, hàng ngày và một nền văn hóa thứ
hai thực hiện bởi nhận thức phản xạ và xa rời nền văn hóa thứ nhất. Dựa trên công trình của Dumont,
văn hóa được hiểu theo hai cách: như một đối tượng và như một mối quan hệ. Như vậy, văn hóa được
định nghĩa là một quá trình xây dựng và biến đổi liên kết một cá nhân, họ luôn hiểu thế giới theo một
cách nhất định, với các tác nhân, đối tượng và thực tiễn văn hóa, bao gồm một công việc học tập có ý
thức và tự nguyện tích hợp một cách sáng tạo đến cấu trúc hiểu biết của một cá nhân. Từ kết quả học tập
này, việc chiếm đoạt các tài liệu tham khảo của nền văn hóa thứ hai đã biến đổi nền văn hóa đầu tiên của
chủ thể và mối quan hệ của người học với thế giới (Dumont, 2011, tr.7).
Do đó, chúng ta có thể tưởng tượng về lớp học ngoại ngữ như một “phòng thí nghiệm” của văn
hóa có liên quan: đó là vấn đề nhận thức được các biểu hiện của ngôn ngữ và văn hóa. Tuy nhiên, ý tưởng
về khoảng cách này ít xuất hiện hơn trong bối cảnh phát triển các kỹ năng ngôn ngữ. Theo tinh thần của
phương pháp định hướng hành động, một hoạt động dạy và học có thể được thể hiện qua ví dụ sau. Nếu
mục tiêu dạy học sinh viên diễn đạt và nêu các đặc điểm của các đối tượng bằng cách sử dụng các danh
từ và tính từ, giáo viên có thể yêu cầu sinh viên chỉ ra các yếu tố cần thiết để tạo nên công thức tiếp cận
một ngôn ngữ. Do đó, các giáo viên mong muốn khám phá những nét văn hóa truyền thống của ngoại
ngữ mà họ đang tiếp cận. Tuy nhiên, sự hiện diện của văn hóa trong lớp học ngoại ngữ thường sẽ bị giới
hạn trong loại hoạt động giao tiếp này. Chúng ta không thể đổ lỗi cho các giáo viên. Ngược lại, nhiều
người trong số họ chắc chắn quan tâm đến việc đưa văn hóa vào việc giảng dạy của họ.
Một số ý tưởng về cách tiếp cận văn hóa có thể giống với cách tiếp cận liên văn hóa do Robert
Galisson đưa ra vào những năm 1990. Tuy nhiên, chúng tôi muốn chỉ ra cách quan niệm về chủ thể của
cách tiếp cận văn hóa thúc đẩy quá trình xây dựng và biến đổi làm phong phú thêm cách tiếp cận liên
văn hóa. Galisson, nhà ngôn ngữ học và giáo sư danh dự tại Đại học Sorbonne Nouvelle-Paris III, lập
luận rằng học một ngoại ngữ nhất thiết phải học một nền văn hóa. Để làm được điều này, ông đã nghĩ
đến cách tiếp cận liên văn hóa đối với việc giảng dạy ngôn ngữ và văn hóa. Carmen Mata-Barrero (2001)
trình bày suy nghĩ của mình trong một số báo của tạp chí Etudes de languages appliqué dành cho nhà
ngôn ngữ học. Galisson đề xuất rằng một giáo viên dạy ngôn ngữ phải quản lý được yếu tố văn hóa để
phát triển ở người học sự nhạy cảm đối với biểu hiện nghệ thuật và ngôn ngữ của nền văn hóa mục tiêu,
nên thu hút người học vào kiến thức về ngôn ngữ mục tiêu bằng cách giúp họ bày tỏ ý kiến, sự nhạy cảm,
cảm xúc và tầm nhìn của mình về thế giới cũng như mở ra cho các vũ trụ khác được thể hiện bằng ngôn
ngữ này (Mata-Barreiro, 2021, tr. 478).
61
Cách tiếp cận liên văn hóa có tính đến việc người học ngoại ngữ đã có năng lực văn hóa trong tiếng
mẹ đẻ của mình và do đó đề nghị đưa hai nền văn hóa của mình đối thoại (Germain, 2001). Vì vậy,
Galisson rất coi trọng tính chủ quan của người học và nhận ra vai trò quan trọng nhất của văn hóa trong
việc học một ngôn ngữ. Tuy nhiên, mặc dù tác giả mong muốn khắc phục những thiếu sót của cách tiếp
cận theo chủ nghĩa chức năng và theo đuổi mục tiêu tái hòa nhập văn hóa vào các bài học ngôn ngữ,
nhưng cách tiếp cận của Galisson không đặt vấn đề đầy đủ về ảnh hưởng mà chủ đề tác động lên văn
hóa. Phải thừa nhận rằng có ý kiến cho rằng học sinh có thể bày tỏ cảm xúc và ý kiến của mình, nhưng
điều đó vẫn còn quá hạn chế. Điều gì sẽ xảy ra khi hai nền văn hóa này gặp nhau? Việc khám phá ra nền
văn hóa này có làm phong phú them nền văn hóa kia?
4. Kết luận
Do giới hạn về dung lượng của một bài báo, chúng tôi mới chỉ phản ánh vị trí của yếu tố văn hóa
trong việc dạy học ngoại ngữ chung chung. Trong thực tiễn nghề nghiệp của mình, chúng tôi nhận ra
rằng các phương pháp được ủng hộ trong việc giảng dạy ngôn ngữ có một số thiếu sót. Người dạy chủ
yếu đưa ra phương pháp dạy ngôn ngữ tập trung vào sự phát triển của các mục tiêu giao tiếp. Các phương
pháp tiếp cận theo định hướng giao tiếp và hành động dựa trên mong muốn đào tạo những sinh viên có
năng lực ngôn ngữ, những người sẽ có thể hòa nhập thành công với xã hội sở tại. Tuy nhiên, do hoàn
toàn muốn phát triển các công cụ cho giao tiếp hàng ngày, họ rơi vào chủ nghĩa thực dụng.
Ngoài ra, học ngoại ngữ chỉ giới hạn ở việc giới thiệu các khía cạnh nhân chủng học liên quan đến
cái mà Dumont gọi là nền văn hóa đầu tiên. Tuy nhiên, nên coi trọng hơn các tác phẩm văn hóa xuất sắc,
cũng như lịch sử và các lĩnh vực kiến thức văn hóa khác nhau của các ngôn ngữ. Như Alain Kerlan nói,
“bất kỳ hoạt động giảng dạy thực sự nào, với tư cách là sự cởi mở với văn hóa và thông qua văn hóa, đều
liên quan đến việc tái chiếm đoạt thế giới, đó là vấn đề về nơi sinh sống: thông qua nghệ thuật, thông qua
lịch sử, triết học, kiến thức, thực hành, tranh luận dân chủ” (Alain Kerlan, 2003, tr.104). Đây là lý do tại
sao cách tiếp cận văn hóa của Falardeau và Simard (2011) tạo thành một động lực thuận lợi, thông qua
đó sinh viên được làm giàu vốn văn hóa, mà không bị giới hạn trong việc học các ngôn ngữ hoặc thu
thập thông tin bách khoa. Sử dụng các yếu tố văn hóa rút ra từ di sản của xã hội sở tại, sinh viên có thể
dựa vào nền văn hóa gốc của mình để cảm thấy được tham gia cả về trí tuệ và cảm xúc vào quá trình học
tập của mình.
62
10. Simard, D. (2002), Đóng góp của thông diễn học vào việc làm sáng tỏ một cách tiếp cận
văn hóa đối với giảng bài, Tạp chí Khoa học Giáo dục, 28(1), 63-82.
63
MỐI LIÊN HỆ GIỮA VĂN HÓA VỚI DU LỊCH
VÀ TÁC ĐỘNG CỦA DU LỊCH VĂN HÓA
TỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG TẠI VIỆT NAM
TÓM TẮT
Từ việc từ tham khảo, thu thập thông tin ở các nguồn tài liệu khác nhau; kết hợp với mô tả, so sánh
và phân tích khách quan từ quan điểm và phương pháp của kinh tế, du lịch, kết hợp với nhân chủng học,
xã hội học và văn hóa, bài báo của chúng tôi đề cập đến mối liên hệ giữa văn hóa với du lịch và sự tác
động của du lịch văn hóa tới sự phát triển cộng đồng ở Việt Nam.
Từ khóa: văn hóa, du lịch, phát triển, Việt Nam.
1. Tổng quan
Với chiến lược liên minh trao đổi, văn hóa và du lịch có mối liên hệ qua lại phục vụ lợi ích của cả
hai, góp phần củng cố và khẳng định bản sắc của địa phương. Cùng với các hoạt động truyền thống khác,
văn hóa và du lịch đại diện cho tiềm năng mạnh mẽ về hỗ trợ phát triển địa phương không riêng gì ở Việt
Nam mà hầu hết ở các quốc gia trên thế giới.
Việt Nam là một đất nước có truyền thống văn hóa phong phú và đặc sắc, một hệ thống đồ sộ các
di tích lịch sử - văn hóa, các danh lam thắng cảnh ở cấp quốc gia hoặc địa phương, trải dài khắp đất nước;
cùng với hệ thống các lễ hội, làng nghề truyền thống, văn hóa ẩm thực đặc sắc của các vùng miền, các
di sản văn hóa - nghệ thuật, bảo tàng... Đây là những tài nguyên du lịch hết sức giá trị, mang những nét
văn hóa đặc sắc của Việt Nam, là một trong những yếu tố chính tạo nên sức hấp dẫn cho Việt Nam, là
nguồn lực quan trọng tạo thế mạnh và sự khác biệt cho sản phẩm du lịch, tiềm năng to lớn để phát triển
du lịch văn hóa. Vì vậy Đảng và nhà nước Việt Nam chú trọng mục tiêu đưa du lịch văn hóa trở thành
thương hiệu của du lịch Việt. Từ 2019 đến 2021, ba năm liên tiếp Việt Nam được tổ chức Giải thưởng
Du lịch thế giới (WTA) bình chọn là “Điểm đến văn hóa hàng đầu châu Á”. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là
việc cung cấp văn hóa trên toàn lãnh thổ nhằm thúc đẩy sức hấp dẫn du lịch.
Ở bài viết này, chúng tôi đề cập đến mối liên hệ giữa văn hóa với du lịch và sự tác động của du
lịch văn hóa tới sự phát triển cộng đồng ở Việt Nam.
2. Phương pháp
Nhằm chỉ ra mối liên hệ giữa văn hóa với du lịch và sự tác động của du lịch văn hóa tới sự phát
triển cộng đồng ở Việt Nam, bài báo này của chúng tôi áp dụng các phương pháp khác nhau sau:
Từ việc từ tham khảo, thu thập thông tin ở các nguồn tài liệu khác nhau; kết hợp với mô tả, so sánh
và phân tích khách quan từ quan điểm và phương pháp của kinh tế, du lịch, kết hợp với nhân chủng học,
xã hội học và văn hóa trước hết với mục đích tìm hiểu làm rõ các vấn đề mà chủ đề của bài viết đã đặt
ra.
Trước hết, trên cơ sở vận dụng các số liệu thống kê làm minh chứng, chúng tôi đề cập đến vấn đề
cung cấp văn hóa trên toàn lãnh thổ nhằm thúc đẩy sức hấp dẫn du lịch. Tiếp đến dựa trên khái niệm về
Du lịch văn hóa đã được học giả đi trước công bố, chúng tôi đề xuất và phân tích các đối tượng du lịch
văn hóa có thể phát triển ở Việt Nam, để khẳng định tầm quan trọng của du lịch văn hóa (Ở nội dung này
chúng tôi cũng đã nêu lên khái niệm mới đó là du lịch văn hóa đồng thời cũng đã giải thích du lịch văn
hóa là gì, và sự khác nhau giữa du lịch văn hóa và văn hóa du lịch). Cuối cùng chúng tôi đi sâu vào phân
tích mối liên hệ giữa du lịch văn hóa và phát triển cộng đồng.
65
lĩnh vực văn hóa để tăng sức hấp dẫn du lịch nhằm đáp ứng sự mong đợi của các đối tượng du khách
khác nha.
3.2 Các đối tượng du lịch văn hóa có thể phát triển ở Việt Nam
Du lịch văn hóa là một trong những phân khúc đang phát triển của du lịch quốc tế, riêng đối với
thị trường du lịch Việt Nam nay, nó cũng chiếm một phần đáng kể và được xác định là một trong 4 dòng
sản phẩm chủ đạo.
Theo Tổng cục Du lịch, Du lịch văn hóa là hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hóa dân tộc với
sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống (Tổng cục Du lịch,
2009, tr.9). Loại hình du lịch này bao gồm các chuyến tham quan các địa điểm tự nhiên, du lịch kiến
trúc, nhưng cũng có thể là du lịch tôn giáo, các chuyến đi tham dự lễ hội và các sự kiện văn hóa khác, du
lịch ẩm thực, thăm bảo tàng, di tích, phòng trưng bày nghệ thuật. Du lịch văn hóa là một hiện tượng kinh
tế xã hội có khả năng tích hợp và cân bằng các khía cạnh của tự nhiên, kinh tế địa phương và quy mô
văn hóa của các vùng lãnh thổ. Chúng ta cần phân biệt Du lịch văn hóa với khái niệm Văn hóa du lịch,
theo tác giả Trần Diễm Thúy, Văn hóa du lịch được hiểu theo hai nghĩa: Một là cách ứng xử của cán bộ
du lịch trong hoạt động du lịch, hai là trình độ thao tác phục vụ trong du lịch (nghĩa là tính chuyên nghiệp
thông qua đào tạo). Như vậy, Văn hóa du lịch là một khái niệm thuộc phong cách ứng xử, thái độ ứng
xử và một khái niệm thuộc thao tác chuyên nghiệp, phong cách chuyên nghiệp cần phải qua quy trình
đào tạo chuyên nghiệp trong hoạt động du lịch (Trần Diễm Thúy, 2010, tr. 27). Du lịch văn hóa là một
hình thức du lịch khám phá các di sản văn hóa và lối sống của một vùng cũng như của cư dân vùng
đó. Loại hình du lịch này bao gồm các chuyến tham quan các địa điểm tự nhiên, du lịch kiến trúc, nhưng
cũng có thể là du lịch tôn giáo, các chuyến đi tham dự lễ hội và các sự kiện văn hóa khác, du lịch ẩm
thực, thăm bảo tàng, di tích, phòng trưng bày nghệ thuật. Du lịch văn hóa là một hiện tượng kinh tế xã
hội có khả năng tích hợp và cân bằng các khía cạnh của tự nhiên, kinh tế địa phương và quy mô văn hóa
của các vùng lãnh thổ.
Vì văn hóa bao gồm các mối quan hệ giữa các cá nhân, nên những người đi du lịch văn hóa là với
mục tiêu văn hóa trong tâm trí, với mục đích khám phá những trải nghiệm mới và tôn trọng thực tế mà
họ quan sát được. Du lịch văn hóa có những chiến lược riêng và tập quán tiêu dùng của nó rất khác biệt
so với phần còn lại của ngành du lịch. Những hình ảnh được xây dựng về các địa điểm, một khi được
xây dựng và xác thực, có cuộc sống riêng của chúng, chúng chiếm giữ một vị trí và chúng phù hợp với
một kết cấu của các mối quan hệ và có thể làm biến đổi lãnh thổ, chẳng hạn các địa điểm được chọn để
sản xuất phim hoặc truyền hình có thể biến thành điểm du lịch.
Du lịch văn hóa, đồng thời tạo ra các lãnh thổ mang tính biểu tượng, nó giúp hình dung không gian
địa phương - khu vực. Hiện tượng du lịch văn hóa, mà chất lượng cơ bản là việc lựa chọn đối tượng của
nó. Du lịch văn hóa ở Việt Nam có thể phát triển bốn đối tượng sau:
Đối tượng thứ nhất là du lịch lãnh thổ và cảnh quan, đây là loại hình du lịch có trách nhiệm, dành
cho những người thích du lịch chậm rãi khám phá ẩm thực địa phương, bao gồm các sản phẩm và địa
điểm như: văn hóa và bản sắc địa phương; đồ ăn và đồ uống, lễ hội nổi tiếng và hội chợ địa phương, lễ
kỷ niệm thiêng liêng, tái hiện lịch sử, bảo tàng, công viên và khu bảo tồn thiên nhiên, công viên văn hóa
và văn học, sản phẩm điện ảnh và truyền hình.
Đối tượng thứ hai là du lịch giải trí nghe nhìn, bao gôm loại hình du lịch phim Video tại nhà,
chương trình trực tiếp múa khiêu vũ, opera, hòa nhạc; dạ hội; công viên giải trí và trung tâm mua sắm;
những sự kiện; phương tiện truyền thông mới; không gian hội họp có thể ở quầy bar, quán cà phê, bến
tàu ...; nghệ thuật đường phố...
Đối tượng thứ ba là du lịch đô thị mới là du lịch thực tế bao gồm các chuyến tham quan phòng thí
nghiệm thành phố, văn hóa ẩm thực, lối sống đô thị, văn hóa và sắc tộc, thiết kế và kiến trúc, nhà hát,
trung tâm lịch sử bảo tàng và phòng trưng bày nghệ thuật.
Đối tượng thứ tư là du lịch thuần túy văn hóa, tham quan các nơi triển lãm, các di tích, những nơi
thờ tự, những ngôi nhà lịch sử, thư viện...
67
4. Kết luận
Với nền tảng văn hóa vô cùng phong phú việc sở hữu nhiều lợi thế để phát triển du lịch sáng tạo
dựa trên nền tảng văn hóa sẽ giúp Việt Nam đa dạng hóa hệ thống sản phẩm du lịch, gia tăng giá trị cho
các sản phẩm du lịch văn hóa truyền thống, phát triển thương hiệu du lịch độc đáo này nhằm mục đích
phát triển du lịch tổng hợp là khuyến khích quảng bá các sản phẩm văn hóa địa phương, bằng cách tạo
ra một sản phẩm tích hợp có thể tiếp thị quốc tế dưới dạng một tuyến văn hóa.
Tuy nhiên cũng cần phải lưu ý rằng, tính chất mùa vụ cao của du lịch, khách du lịch có xu hướng
tập trung vào các kỳ nghỉ và mùa hè; các thời điểm khác đều có đặc điểm là lượng khách du lịch đến rất
thấp, điều này góp phần xác định du lịch chỉ là một hoạt động bổ sung cho các nguồn thu nhập
khác. Người dân địa phương không thể chỉ sống bằng du lịch. Mặc dù có thể du lịch có khả năng đa dạng
hóa nền kinh tế địa phương, để cung cấp các tiện nghi mà người dân vùng sâu vùng xa còn thiếu thốn,
khiến họ được tiếp cận với các dịch vụ xã hội như bệnh viện, trường học, chợ ...và tạo thêm cơ hội việc
làm, tuy nhiên cũng cần phải lưu ý để tránh tình trạng ô nhiễm mà nó gây ra có thể dẫn đến sự phá hủy
môi trường tự nhiên và văn hóa của địa phương...
68
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY TÍCH CỰC
VÀO HỌC PHẦN “CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM”
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TÓM TẮT
Phương pháp dạy học tích cực là cách gọi tắt của quan điểm dạy học trên tinh thần lấy người học
làm trung tâm, phát huy được vai trò chủ động và tính sáng tạo của người học. Tuy nhiên, việc ứng dụng
các phương pháp dạy học tích cực vào thực tế còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố: năng lực, trình độ của
giảng viên; nhận thức của người học; hệ thống cơ sở vật chất, giáo trình, tài liệu… Nghiên cứu này được
thực hiện dựa trên việc phân tích số liệu khảo sát những sinh viên theo học môn Cơ sở văn hóa Việt Nam
tại Trường Đại học Công nghệ TP. Hồ Chí Minh (Hutech). Mục tiêu của nghiên cứu nhằm đánh giá tổng
quát về tình hình ứng dụng các phương pháp giảng dạy tích cực vào môn học và đề ra một số giải pháp
nâng cao chất lượng giảng dạy, đáp ứng được mục tiêu đào tạo.
Từ khóa: phương pháp giảng dạy tích cực, cơ sở văn hóa Việt Nam, HUTECH.
1. Đặt vấn đề
Để đạt được mục tiêu đào tạo, phương pháp dạy học đóng một vai trò rất quan trọng. Bàn về phương
pháp giảng dạy ở bậc đại học, Thông tư số 17/2021/TT-BGDĐT do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
ngày 22/6/2021 có nêu yêu cầu:“ Phương pháp giảng dạy phải được thiết kế theo cách tiếp cận lấy người
học làm trung tâm và chủ thể của quá trình đào tạo, thúc đẩy người học phát huy chủ động và nỗ lực
tham gia các hoạt động học tập; định hướng hiệu quả để người học đạt được chuẩn đầu ra của mỗi học
phần, mỗi thành phần và của cả chương trình đào tạo”. Để làm được điều đó, ngoài kiến thức chuyên
môn vững vàng, người giảng viên còn phải liên tục tìm cách đổi mới phương pháp giảng dạy để giúp
tăng khả năng tiếp thu và tạo hứng thú cho người học.
Hiện nay, việc dạy học môn Cơ sở văn hóa Việt Nam vẫn còn thiên về phương pháp thuyết giảng,
chưa kết hợp hiệu quả với các phương pháp giảng dạy khác. Với mục đích nâng cao chất lượng giảng
dạy, phát huy được khả năng sáng tạo và tính tích cực của người học, nghiên cứu tập trung đánh giá tổng
quát về tình hình ứng dụng các phương pháp giảng dạy tích cực trong môn Cơ sở văn hóa Việt Nam ở
Trường Đại học Công nghệ TP. Hồ Chí Minh và đề xuất một số giải pháp cụ thể.
2. Cơ sở lý thuyết
2.1 Phương pháp dạy học và phương pháp dạy học tích cực
Bách khoa toàn thư của Liên xô năm 1965 định nghĩa: “Phương pháp dạy học là cách thức làm
việc của giáo viên và học sinh, nhờ đó mà học sinh nắm vững kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, hình thành thế
giới quan, phát triển năng lực nhận thức”. Hiểu theo nghĩa hẹp, phương pháp dạy học là những cách
thức hành động của giáo viên và học sinh nhằm thực hiện những mục tiêu dạy học xác định, phù hợp với
những nội dung và điều kiện dạy học cụ thể.
Phương pháp dạy học tích cực là cách gọi tắt của quan điểm dạy học trên tinh thần phát huy tính
tích cực, chủ động và sáng tạo của người học. Với phương pháp này, giảng viên phải tạo được các hoạt
động dạy học làm cho người học tích cực hơn, năng động hơn và tạo cho người học cơ hội phát huy được
sự sáng tạo của mình (Phạm Bích Thủy, 2015). Lấy người học làm trung tâm, phương pháp này coi trọng
việc bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, tự nghiên cứu, phát triển tư duy sáng tạo và ý thức chủ
động trong học tập. Giảng viên với vai trò là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động học tập
phải tạo được các hoạt động đa dạng để hoàn thành được mục tiêu đào tạo.
Hiện nay, có rất nhiều phương pháp giảng dạy tích cực được sử dụng và mang lại hiệu quả cao. Có
thể kể ra một số phương pháp phổ biến như: phương pháp thuyết trình, phương pháp vấn đáp, phương
69
pháp thảo luận nhóm, phương pháp học dựa trên vấn đề, phương pháp động não, phương pháp đóng vai,
phương pháp học theo dự án, phương pháp nghiên cứu tình huống, giải quyết vấn đề… (Nguyễn Thị Lan
Anh, 2017).
Hình 1: Biểu đồ thống kê kết quả thi kết thúc học phần Cơ sở văn hóa Việt Nam năm học 2021-
2022. Nguồn: Phòng Khảo thí
Cho đến nay, việc đổi mới phương pháp giảng dạy học phần Cơ sở văn hóa Việt Nam đã được
nhiều trường đại học quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Đại học Quốc gia Hà Nội chủ
trương đổi mới môn học dựa trên việc sử dụng mutimedia để thiết kế bài giảng (Chu Thị Thanh Tâm,
2004). Đại học dân lập Hải Phòng nghiên cứu ứng dụng các phương pháp giảng dạy mới nhằm đáp ứng
yêu cầu dạy-học theo học chế tín chỉ (Phạm Thị Hoàng Điệp, 2010). Trường Đại học Văn Hiến Thành
phố Hồ Chí Minh quan tâm đến hiệu quả và cách thức tổ chức cho sinh viên học từ thực tế (Lê Thị Ngọc
Thúy, 2015). Riêng ở Trường Đại học Công nghệ TP. Hồ Chí Minh vẫn chưa có một nghiên cứu nào liên
quan đến vấn đề này.
70
- Phương pháp so sánh, đánh giá: trên cơ sở xử lý các dữ liệu thu thập được, so sánh, đánh giá để
có cơ sở đề ra các giải pháp phù hợp.
4.1 Đánh giá của sinh viên HUTECH về phương pháp giảng dạy môn Cơ sở văn hóa Việt
Nam
Hình 2: Mức độ hứng thú của người học với học phần Cơ sở văn hóa Việt Nam.
Số liệu ở Hình 2 cho thấy 113 sinh viên (68,9%) thích học môn Cơ sở văn hóa Việt Nam, (trong
đó có 46 sinh viên rất thích (28%)), 50 sinh viên khác cảm thấy bình thường (30,5%). Cá biệt có 1 sinh
viên hoàn toàn không thích môn học này (0,6%). Điều này cho thấy đây là môn học thu hút và tạo được
sự hứng thú nơi người học.
71
Hình 4: Đánh giá của sinh viên về hiệu quả của các hình thức giảng dạy
Số liệu ở Hình 4 cho thấy các hình thức giảng dạy mang lại hiệu quả học tập tốt nhất cho sinh viên
lần lượt là: giảng viên nêu vấn đề nghiên cứu, sinh viên chuẩn bị và thuyết trình (78%), phương pháp
hỏi-đáp (77,4%), thảo luận nhóm (76,2%), sinh viên đóng vai (68,9%), giảng viên giảng lý thuyết
(63,4%), sinh viên đi tham quan thực tế (62,8%).
4.2 Những vấn đề cần cải thiện về phương pháp giảng dạy
Với câu hỏi “Giảng viên cần làm gì để đổi mới phương pháp giảng dạy và phát huy được tính chủ
động, sáng tạo của người học?”, số liệu khảo sát ở bảng 5 cho thấy người học mong muốn giảng viên
tăng cường cho sinh viên đi thực tế, học từ trải nghiệm (79,3%), tăng cường sử dụng các phương tiện hỗ
trợ giảng dạy (56,1%), nội dung giảng dạy gắn với thực tế (50%); một số ít sinh viên mong muốn giảng
viên quan tâm hướng dẫn sinh viên phương pháp tự học và cách thức tìm kiếm tài liệu (39,6%).
Bảng 1: Nhu cầu của người học về việc cải thiện phương pháp giảng dạy
NỘI DUNG TRẢ LỜI SỐ LƯỢNG TỈ LỆ
(%)
Tăng cường cho sinh viên đi thực tế, học từ trải nghiệm. 130 79,3
Tăng cường sử dụng các phương tiện hỗ trợ giảng dạy (phim 92 56,1
ảnh, giáo cụ trực quan…)
Đổi mới cách thức kiểm tra, đánh giá môn học. 17 10,4
Nội dung giảng dạy gắn với thực tế 82 50
Hướng dẫn sinh viên phương pháp tự học, cách thức tìm kiếm 65 39,6
tài liệu.
Ý kiến khác 2 1,2
5.2 Đề xuất
Từ những vấn đề nêu trên, để giúp cải thiện phương pháp giảng dạy, đáp ứng được yêu cầu của
người học, chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp như sau:
5.2.1 Tăng cường việc học từ trải nghiệm, nội dung giảng dạy gắn với thực tế
Với điều kiện hiện tại của Hutech, để giúp người học có được những trải nghiệm thực tế từ môn
học, giảng viên có thể chuẩn bị sẵn các nhóm đề tài thực hành cho sinh viên được tự chọn theo sở thích
và năng lực cá nhân, phù hợp với ngành học. Ví dụ:
- Nhóm đề tài đi thực tế: cho nhóm sinh viên tự đi tham quan các di tích lịch sử văn hóa, quan sát,
thu thập tài liệu để viết báo cáo; hoặc yêu cầu thiết kế một cung đường di sản trong phạm vi một quận,
huyện. Những địa điểm được chọn phải là những di tích kiến trúc mang giá trị lịch sử, nghệ thuật cao.
- Nhóm đề tài trình diễn: cho sinh viên chọn đóng tiểu phẩm, biểu diễn và giới thiệu về các loại
hình nghệ thuật truyền thống (bài Nghệ thuật diễn xướng); hoặc trình diễn và giới thiệu về các loại trang
phục Việt Nam (bài Văn hóa trang phục); hoặc đóng kịch, tổ chức các talk show về văn hóa ...
- Nhóm đề tài dự án: nhóm đề tài này rất phù hợp với đối tượng sinh viên chuyên ngành Thiết kế
đồ họa, Truyền thông đa phương tiện. Với gợi ý của giảng viên, sinh viên có thể tự chọn cho mình những
dự án phù hợp, tận dụng được thế mạnh chuyên ngành, như làm những phim tài liệu ngắn về những vấn
đề văn hóa dưới góc nhìn của người trẻ (ẩm thực, kiến trúc, phong tục xưa và nay, tính cách người
Việt…); hoặc sử dụng tranh Đông Hồ, những hoa văn trên trống đồng để thiết kế trang phục, tem thư…
5.2.2 Tăng cường sử dụng các phương tiện hỗ trợ giảng dạy
Việc sử dụng phim ảnh, giáo cụ trực quan trong giảng dạy Cơ sở văn hóa Việt Nam là cần thiết và
mang lại hiệu quả tích cực. Kho dữ liệu phong phú, đa dạng trên không gian mạng là nguồn tài nguyên
vô tận giúp các giờ học văn hóa trở nên sống động và hấp dẫn. Tuy nhiên, cần lưu ý lựa chọn những
phim ngắn, chất lượng tốt, thời lượng vừa đủ để không làm loãng nội dung chính của tiết dạy.
Bên cạnh đó, giảng viên cần phải biết sử dụng các phần mềm hỗ trợ để tăng sự tương tác với người
học. Có thể kể ra vài ứng dụng hữu ích như:
- Google classroom: là công cụ giúp quản lý lớp dễ dàng, thuận tiện; đồng thời giúp giảng viên
chia sẻ với sinh viên những dữ liệu quan trọng như bài giảng, bài tập, tài liệu tham khảo…
- Padlet: là ứng dụng phù hợp cho những buổi thảo luận nhóm, giúp phát huy ý tưởng sáng tạo của
sinh viên, đồng thời cũng giúp các nhóm dễ dàng chia sẻ ý tưởng của mình với các thành viên khác trong
lớp học.
- Quizizz, Kahoot: là những phần mềm thiết kế câu hỏi trắc nghiệm, giúp sinh viên ôn tập và ghi
nhớ kiến thức sau mỗi bài giảng.
Ngoài ra, việc lồng ghép kiến thức bài học vào các ứng dụng trò chơi như Giải ô chữ, Đuổi hình
bắt chữ, Vua tiếng Việt…vừa giúp thay đổi không khí lớp học, vừa giúp sinh viên ghi nhớ nội dung bài
giảng khá dễ dàng.
5.2.3 Hướng dẫn sinh viên phương pháp tự học, tự nghiên cứu
Để hướng dẫn sinh viên tự học hiệu quả, giảng viên cần lưu ý cung cấp danh mục tài liệu tham
khảo phù hợp với mục tiêu của môn học, phù hợp với trình độ và sở thích của người học (tên sách,
website, các công trình nghiên cứu…). Việc hướng dẫn cho người học kỹ năng đọc, cách ghi chép, đánh
73
dấu, cách lưu trữ thông tin… cũng là phần việc quan trọng và cần thiết. Khi giao đề tài thuyết trình cho
sinh viên, nên có hướng dẫn chi tiết về cách tìm kiếm tài liệu, cách lập đề cương, kỹ năng trình bày, phản
biện…, không nên để sinh viên tự xoay xở.
6. Kết luận
Cơ sở văn hóa Việt Nam là một môn học có khối lượng kiến thức đồ sộ, dù hấp dẫn người học
nhưng nếu không có phương pháp dạy học phù hợp thì kiến thức mà sinh viên tiếp thu được dễ bị dàn
trải, không áp dụng được vào thực tế. Vì vậy, đổi mới phương pháp giảng dạy, phát huy vai trò chủ động,
tích cực của sinh viên là hướng đi tất yếu để nâng cao chất lượng đào tạo, rèn cho cho người học kỹ năng
tự học suốt đời. Việc nghiên cứu áp dụng các phương pháp giảng dạy tích cực vào thực tế cũng sẽ giúp
giảng viên hoàn thiện thêm kiến thức và kỹ năng, đáp ứng được nhu cầu của người học và góp phần nâng
cao hiệu quả đào tạo.
74
ĐỊA DANH CÓ NGUỒN GỐC NGÔN NGỮ
DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở LÂM ĐỒNG
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TẠI HUYỆN LẠC DƯƠNG)
Lê Thị Nhuấn*, Ngô Thị Thu
Khoa Quốc tế học, Trường Đại học Đà Lạt
*Tác giả liên hệ: Điện thoại: 0972 055 655; Email: nhuanlt@dlu.edu.vn
TÓM TẮT
Bài viết nghiên cứu về địa danh có nguồn gốc ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng (trường hợp
tại huyện Lạc Dương) từ các tiêu chí tự nhiên và không tự nhiên, phương thức định danh. Bài viết sử
dụng nguồn dữ liệu sơ cấp như phỏng vấn sâu có chủ đích 10 người để thu thập các địa danh liên quan
đến địa lý, văn hóa của người Cơ-ho và dữ liệu thứ cấp từ các tài liệu như sách, báo, tạp chí... Kết quả
cho thấy, các địa danh thuộc loại hình tự nhiên thường được định danh một cách trực tiếp thông qua các
đặc điểm của chúng; một số địa danh chỉ đơn vị dân cư thường được định danh một cách gián tiếp thông
qua tên gọi của các đối tượng thuộc loại hình địa danh tự nhiên.
Từ khóa: Địa danh, phương thức định danh, Cơ-ho, Lạc Dương, Lâm Đồng.
1. Tổng quan
Trong “Bảng danh mục các thành phần dân tộc ở Việt Nam” do Tổng cục Thống kê công bố vào
năm 1979, người Cơ-ho gồm 6 nhóm địa phương: Srê, Nộp, Cơ don, Cil (Chil), Làc (Lạt, Lạch), T’ring
(Trinh). Trong đó, ba nhóm Cil, Làc và T’ring có địa bàn cư trú truyền thống tập trung chủ yếu trên cao
nguyên Lang Bian, thuộc khu vực vườn quốc gia Bidoup – Núi Bà ngày nay. Trên thực tế, cộng đồng
các nhóm tộc Cơ-ho (kể cả người Mạ) ở Lâm Đồng đều tự nhận mình là Kòn cau (hoặc kòn cô, hay kòn
cro); cộng đồng địa phương này (tương ứng với 1 bòn hoặc buôn/làng) phân biệt với cộng đồng địa
phương khác bằng tên bòn. Tộc người Cơ-ho thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơme. Tiếng Cơ-ho trong
quá khứ là một ngôn ngữ vùng, được nhiều dân tộc khác cộng cư sử dụng, nhất là khi người Việt lên Tây
Nguyên (Ủy ban Nhân dân thành phố Đà Lạt, 2008, tr.444). Ở địa bàn nghiên cứu – huyện Lạc Dương
có 06 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Lạc Dương và 05 xã: Đạ Chais, Đạ Nhim,
Đạ Sar, Đưng K’Nớ, Lát; trong đó, cả 06 đơn vị hành chính đều có địa danh gốc ngôn ngữ Cơ-ho.
Từ trước đến nay, các công trình nghiên cứu về địa danh ở Lâm Đồng chủ yếu giải thích nguồn
gốc của địa danh Đà Lạt có liên quan đến ngôn ngữ dân tộc thiểu số như “Vấn đề dân tộc ở Lâm Đồng”
(1983) của Đường, M. và cộng sự; “Địa chí Đà Lạt” (2008) của Ủy ban Nhân dân thành phố Đà Lạt
(2008). Bản thân tác giả đã tham gia thực hiện công trình nghiên cứu dự án Jica trong Ngọc, L.H & ctg
(2013) có thống kê một số địa danh ở khu vực vườn Quốc gia Bidoup – Núi Bà. Như vậy, cho đến nay
chưa có công trình nào đặt vấn đề nghiên cứu có hệ thống về các địa danh gốc ngôn ngữ dân tộc thiểu số
ở Lạc Dương, Lâm Đồng. Do đó, bài viết là một hướng nghiên cứu hoàn toàn mới, có tính cấp thiết.
75
các sách, báo, tạp chí… Các dữ liệu này cũng sẽ giúp làm rõ hơn các đánh giá, nhận xét trong quá trình
tiến hành nghiên cứu.
Tổng 59 100%
(Nguồn: Kết quả nghiên cứu, năm 2022)
Loại hình địa danh tự nhiên
Sơn danh - tên riêng chỉ các đối tượng địa lý tự nhiên như đèo, đồi, núi, thung lũng… Sơn danh có
số lượng thu thập được 06 địa danh, chiếm tỉ lệ 50% trong tổng số loại hình địa danh tự nhiên. Thí dụ,
địa danh Jù liang bor (núi thác nước): Theo tiếng Cơ-ho Cil ở Lạc Dương, jù là núi có rừng rậm, liang
là thác nước, bor hoặc bong là dòng chảy sâu, mương nước. Đây chính là núi có tên Việt là Hòn Giao
ngày nay và có cách lý giải khác là: Hòn Giao là khoảng giữa hai khe núi rộng giao nhau. Người ta đặt
tên Hòn Giao vì đây là khu rừng duy nhất ở phía Nam có loài cây Kim giao Nam rất nổi tiếng. Loài cây
này rất quý, khi gặp độc tố, gỗ của nó sẽ chuyển thành màu đen, vì thế thời vua chúa, nó được dùng làm
đũa gắp thức ăn. Kim giao Nam chỉ xuất hiện ở vùng rừng lùn núi cao này, khác với Kim giao Bắc lại
mọc trên vùng núi đá phía Bắc Việt Nam.
Thủy danh - tên riêng chỉ các đối tượng địa lý tự nhiên như sông, suối, ao, hồ,… được thể hiện qua
các thành tố chung trong ngôn ngữ Cơ-ho như dà (suối), liang (thác), tô (giếng), klong (vũng nước)…
Thủy danh gồm 06 đơn vị địa danh chiếm tỉ lệ 50%. Thí dụ, địa danh thác Păng Tiêng hay còn được gọi
bằng cái tên khác là thác Bảy tầng3.
Loại hình địa danh phi tự nhiên
3
Cách trung tâm thành phố Đà Lạt khoảng 25km, thuộc thôn Păng Tiêng, xã Lát, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng.
76
Địa danh các đơn vị dân cư: địa danh các đơn vị dân cư chỉ tên làng, thôn, xã, huyện, thị trấn được
biểu thị bằng các từ ngữ trong ngôn ngữ Cơ-ho là bon (làng), xã, thị trấn gồm 45 địa danh; trong đó, các
địa danh gắn liền với thôn/buôn làng chiếm số lượng lớn nhất 40 địa danh trong tổng số 45 địa danh các
đơn vị dân cư, chiếm tỉ lệ 88,9%. Điều này cho thấy, đơn vị hành chính cao nhất trong xã hội cổ truyền
của người Cơ-ho là buôn làng. Thí dụ: 1) địa danh R’hàng Gruôih - tên gọi một làng truyền thống của
người Cơ-ho Cil ở Đạ Chais, huyện Lạc Dương ngày nay. Đây cũng là tên một ngọn núi trong vùng; 2)
Địa danh Tiang liang - tên gọi của một buôn làng truyền thống của người Cơ-ho Cil thuộc xã Đạ Sar,
huyện Lạc Dương ngày nay. Theo tiếng Cil, Tiang liang nghĩa là tiếng thác nước reo.
Các địa danh chỉ xã, huyện, thị trấn với số lượng 05 đơn vị địa danh, chiếm tỉ lệ thấp (11,1%) so
với địa danh chỉ thôn/buôn làng. Thí dụ, địa danh Dà Chais/Đạ Chais4 - tên gọi 01 xã thuộc huyện Lạc
Dương ngày nay. Theo tiếng Cơ-ho Cil, Dà nghĩa là nước, suối; Chais nghĩa là cát; Dà Chais chỉ con
suối có nhiều cát.
Địa danh công trình giao thông như cầu, đường chiếm số lượng ít (02 địa danh trong tổng số 47
địa danh phi tự nhiên).
Có thể thấy, loại hình đơn vị dân cư chiếm tỉ lệ cao nhất (76,3%), địa hình tự nhiên chiếm tỉ lệ
trung bình 20,3%, loại hình các công trình nhân tạo chiếm tỉ lệ thấp nhất 3,4%.
4
Trước năm 1983 thuộc xã Kil Pla Gnol.
77
3) Định danh có sử dụng các từ ngữ chỉ địa hình kiến tạo, thí dụ: địa danh Đưng K’Nơh5 - theo lời
kể của các cụ già ở Đưng K’Nơh, huyện Lạc Dương tên gọi của xã thực chất là Đơng K’Nơh có nghĩa là
cánh đồng nhỏ. Bà K’Nơh chính là vị chủ làng đầu tiên ở đây. Địa bàn Đưng K’Nơh ngày nay xuất phát
từ buôn Ja K’Nơh (bòn nghĩa là làng, Ja nghĩa là cỏ tranh). Khi tách xã năm 1999, tên làng bà K’Nơh
được lấy đặt làm tên xã. Người Cơ-ho Cil cư trú trên địa bàn xã Đưng K’Nơh từ khá lâu đời. Thời Mỹ -
Diệm đã thực hiện chính sách dồn dân lập ấp, người Cil ở Đưng K’Nơh phải chuyển ra xã Lát ngày nay
cư trú. Cho đến năm 1973, sau khi Hiệp định Pari được ký kết, người dân trở về nơi cư trú cũ và định cư
cho tới ngày nay (Lê, T.N, 2022).
4) Định danh có sử dụng các từ ngữ chỉ chức năng, tác dụng, mục đích sử dụng, thí dụ: địa danh
K’rajam (mỏ sắt non).
Định danh dựa vào các đặc điểm có liên quan đến đối tượng
Bảng 3. Định danh dựa vào các đặc điểm có liên quan đến đối tượng
TT Phương thức Thí dụ
định danh
1 Định danh Địa danh Par s’mách - tên một làng (bòn par s’mách) của người Cơ-ho Cil
dựa vào các ở Lạc Dương. Theo tiếng Cơ-ho Cil, par s’mách là con ruồi vàng. Có thể đây
con vật là vùng đất xưa kia có rất nhiều ruồi vàng.
Địa danh Danggia Dit (Đănggia Rít) - tên gọi một địa danh ở xã Lát, huyện
Lạc Dương. Theo tiếng Cơ-ho, Đăng (Dơng): đồi, ngọn đồi, Dit (Rít): nghĩa
là dơi; Danggia Dit (Đănggia Rít): Ngọn đồi có khá nhiều con dơi. Có thể,
trước kia nơi đây có khá nhiều con dơi.
2 Định danh Địa danh K’long k’lăn (nay là thôn Long Lanh, xã Đạ Chais, huyện Lạc
dựa vào các Dương) - trong ngôn ngữ Cơ-ho nghĩa là vùng thung lũng, k’lăn nghĩa là con
loài vật trăn.
3 Định danh Địa danh Đà Lạt - tên gọi từ khi người Pháp tìm ra cao nguyên Lang Bian.
dựa vào tên Cho đến nay, mặc dù có nhiều cách lý giải khác nhau về tên gọi này; song,
tộc người phần lớn đều thống nhất với cách hiểu: Đạ là nước/sông/suối, Lạt là Lạch
(con suối của nhóm người Lạch). Theo ngôn ngữ Cơ-ho, “Dà” là nước, suối;
“Làc” là những đồi cỏ (những ngọn đồi không có rừng, cây to che phủ);
“Làc” (cau Làc) cũng đồng thời là tộc danh của một cộng đồng tại chỗ cư
trú. Từ lâu, địa danh văn hoá Đà Lạt bao hàm cả một vùng không gian địa lý
rộng lớn của cao nguyên Lang Bian gồm cả vùng núi Bidoup. Cộng cư với
người Làc (Lạch) trên cao nguyên Lang Bian còn có các cộng đồng tại chỗ
khác với số lượng dân cư lớn hơn nhiều là người Cil và người T’ring.
4 Định danh Các Bon Yồ, Bon Đờng, Bon Đa Góut, Bon Nơr, Bon Lâm Biêng… ở người
dựa vào tên Cơ-ho Làc, huyện Lạc Dương. Ở người Cơ-ho Cil, Cơ-ho Làc và Cơ-ho
dòng họ T’ring có nhiều dòng họ khác nhau. Tên dòng họ được giải thích bằng huyền
thoại (yalyau hoặc yo-yo: những câu chuyện lưu truyền trong dân gian) và
được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Qua những huyền thoại đã sưu tầm
được, có thể nhận thấy nội dung giải thích về tên gọi các dòng họ khá đơn
giản và gắn với tên gọi của một số buôn làng. Thông qua hình thức hát - kể -
giảng giải là yalyau, có thể nhận thấy trong xã hội truyền thống đã có hiện
tượng xung đột, tranh giành quyền lợi giữa các dòng họ. Trong cộng đồng,
có sự phân biệt họ có thế lực và họ yếu thế. Người Lạch ngày nay vẫn còn
kể nhiều câu chuyện liên quan đến những cuộc xung đột gay gắt giữa các
dòng họ vào những thập niên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Một số dòng
họ bị thất bại, chịu tổn thất lớn, có số lượng thành viên còn lại ngày nay rất
5
Trước năm 1999, thuộc xã Đạ Long thuộc huyện Đam Rông, Lâm Đồng ngày nay. Cuối năm 2003, huyện Lạc Dương bao
gồm thị trấn Lạc Dương và 7 xã: Đạ Chais, Đạ Long, Đạ M'rông, Đạ Sar, Đạ Tông, Đưng Knớ, Lát. Trong bài viết này, chúng
tôi chỉ thống kê các đơn vị hành chính cấp xã thuộc huyện Lạc Dương hiện nay.
78
ít ỏi như dòng họ Lâm Biêng, một số dòng họ buộc phải bỏ đi xa tìm vùng
đất mới, sống xen kẽ và bị đồng hóa với các nhóm cư dân khác6 (Xem Ngọc,
L.H & ctg, 2013, tr.8).
5 Định danh Địa danh Cau Làc/Bòn Làc - tên một làng của người Cơ-ho Cil dưới chân
dựa vào núi Langbian, huyện Lạc Dương. Trong yalyau/yoyo có kể một lần đến vùng
truyền Langbian, đến một buôn dưới chân núi, thần Srai biến thành một người ghẻ
thuyết, lở. Bọn trẻ trong làng đi chăn trâu thấy Srai ghẻ lở ghê quá nên bắt nhốt vào
truyện cổ tích chuồng ngựa, không cho ăn uống gì. Ở vùng đất này, chẳng được đối xử tử
tế, Srai tức mà nguyền rủa rằng: Đất này từ nay về sau cây gì cũng chẳng lên
được, lúa trồng trên rẫy cũng không được… Từ đó, vùng đất dưới chân núi
Langbian không có rừng rậm, cây to, đồi núi trập trùng, chỉ toàn cỏ là cỏ, lúa
thì phải trồng dưới nước mới lên được. Về sau, dân khắp vùng gọi đất đó,
con người nơi đó là bòn Làc, Cau Làc - nghĩa là buôn đồi trọc, người ở buôn
đồi trọc (Ngọc, L.H & ctg, 2013, tr.53).
(Nguồn: Kết quả nghiên cứu, năm 2022)
Như vậy, định danh mang nghĩa mô tả phần lớn được tạo nên bằng phương thức định danh cấu
tạo mới với hai phương thức quan trọng: định danh dựa vào đặc điểm của chính bản thân đối tượng và
định danh dựa vào các đặc điểm có liên quan đến đối tượng. Tương tự địa danh gốc Bana7 ở phía Bắc
Tây Nguyên, các địa danh có nguồn gốc tiếng Cơ-ho ở Nam Tây Nguyên cũng không có địa danh nào
liên quan đến sinh hoạt tôn giáo như nhà thờ, chùa chiền trong tiếng Việt (Nguyễn, K.T, 2005). Rõ ràng,
cho đến đầu thế kỷ XX khi người Pháp đến Tây Nguyên để “mở mang nước Chúa” và “mở mang nước
Pháp” thì xã hội của các tộc người thiểu số tại chỗ Cơ-ho, Mạ, Chu-ru ở Lâm Đồng vẫn là một xã hội
“phi Hoa, phi Ấn, phi phương Tây”.
3.3 Những biến đổi về ngôn ngữ và địa danh trong quá trình cộng cư và tiếp biến văn
hóa giữa các tộc người tại huyện Lạc Dương
Quá trình hình thành, mất đi của các địa danh gắn liền với địa hình tự nhiên, buôn làng của tộc
người Cơ-ho đã phản ánh các địa hình tự nhiên, đơn vị hành chính đã trải qua nhiều lần thay đổi, qua các
giai đoạn lịch sử khác nhau.
Bảng 4. Quá trình chuyển hóa tên gọi các đơn vị hành chính
6
Nhóm Cơ-ho Cil có nhiều dòng họ như Liêng Hót, Ka Să, Bon Đưng, Rơ Ông, Bon Niêng, Kră Jăn, Kơ Ja, Kon Sơ, Kon Sa,
Cơ Liêng, Lơ Mu, Liêng Jrang, Kơ Đưng, Sơ Ao, Mơ Bon (Mbon), Long Đưng, K’Long, Kơ Tría, A dat, Đưng Gur, Đa Kriêng,
Kơ Tôl, Păng Ting, Nrang (Inh Rang), Sơ Nưr, Cil (gồm có nhiều nhánh khác nhau: Cil Múp, Cil Păm, Cil Tiêng K’la ..).
Cộng đồng người Cil tại mỗi địa phương khác nhau có những họ khác nhau chiếm ưu thế về số lượng nhân khẩu. Chẳng hạn,
tại Bon Ja (xã Đưng K’nớh, huyện Lạc Dương) họ Rơ Ông và Bon Niêng là đông đảo nhất; tại Bon Rơm (xã N’thôl Hạ, huyện
Đức Trọng), họ K’Long và Ka Să chiếm ưu thế; tại Bon Ja (thôn Bnơr C, huyện Lạc Dương), họ Cil Múp và Rơ Ông chiếm
ưu thế. Khi so sánh tên gọi dòng họ của người Làc và người Cil, bên cạnh một số dòng họ tồn tại ở cả hai cộng đồng Làc như
Rơ Ông, Liêng Hót, Păng Ting, Bon Đưng, Cil…, có một số dòng họ chỉ tồn tại ở người Cil mà không có ở người Làc như
Lơ Mu, Đưng Gur, Bon Niêng, Kơ Să, Kon Sa, Kon Sơ... Ngược lại, một số dòng họ phổ biến ở người Làc mà người Cil không
có như Bon nơr, Đa Guot, Bon Yồ, Rơ Glê… (Ngọc, L.H & ctg, 2013, tr.8).
7
Tộc người Bana thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơme.
79
Quá trình cộng cư, giao lưu tiếp xúc ngôn ngữ giữa tộc người Cơ-ho và người Việt trên địa bàn
huyện Lạc Dương diễn ra trong khoảng gần một thế kỷ thì tất yếu sẽ có sự tương tác ngôn ngữ. Điều dễ
nhận thấy trong sự giao lưu này, tiếng Việt ngày càng lấn lướt, chiếm lĩnh ngôn ngữ Cơ-ho. Tình trạng
một đối tượng địa danh có hai tên gọi khác nhau: i) theo tiếng Cơ-ho; ii) theo tiếng Việt. Sau này, khi đặt
tên đơn vị hành chính người ta chuyển thể sang tiếng Việt, thí dụ như địa danh Dà Ñing (dòng nước trong
xanh), nay chuyển hóa thành Đạ Nhim. Quá trình Việt hóa các địa danh gốc ngôn ngữ dân tộc thiểu số
nói chung, ngôn ngữ Cơ-ho nói riêng một mặt mang lại sự tiện lợi là dễ đọc, dễ nhớ và dễ tiếp cận; mặt
khác, đảm bảo được tính thống nhất trong việc tiếp nhận thông tin về tên gọi các địa danh trên các phương
tiện truyền thông cũng như trong các văn bản tiếng Việt.
4. Kết luận
Địa danh có nguồn gốc ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Lạc Dương được tiếp cận từ dữ liệu sơ cấp và
thứ cấp mang lại cái nhìn đa chiều cạnh về bức tranh văn hóa của tộc người chủ thể tạo ra địa danh. Về
số lượng, dẫu chưa thống kê đầy đủ, chi tiết nhưng nhóm nghiên cứu đã thu thập được 59 địa danh có
nguồn gốc ngôn ngữ Cơ-ho, trong đó địa danh phi tự nhiên gồm 47 địa danh, địa danh tự nhiên gồm 12
địa danh. Từ việc thống kê, phân loại địa danh gốc Cơ-ho, các thông tin về nguồn gốc ngôn ngữ, phương
thức định danh gắn với từng lý do đặt tên đã được khắc họa rõ nét. Mẫu số chung là các địa danh thuộc
loại hình tự nhiên thường được định danh một cách trực tiếp thông qua các đặc điểm của chúng; các địa
danh chỉ đơn vị dân cư thường được định danh một cách gián tiếp thông qua tên gọi của các đối tượng
thuộc loại hình địa danh tự nhiên. Trong những năm trở lại đây, quá trình cận cư, xen cư giữa các tộc
người đã dẫn tới những thay đổi trong địa danh gốc ngôn ngữ dân tộc thiểu số, trong đó có địa danh gốc
ngôn ngữ Cơ-ho. Vì vậy, cần có những nghiên cứu về địa danh nói chung, gốc ngôn ngữ Cơ-ho ở Lâm
Đồng nói riêng.
80
5. Trường, N. K. (2005), Để tiến đến chuẩn hóa hệ thống địa danh ở Tây Nguyên, In 6th
Pan-Asiatic International Symposium on Linguistics (p. 288), Khoa học Xã hội.
6. Ủy ban nhân dân thành phố Đà Lạt (2008), Địa chí Đà Lạt, Tổng hợp thành phố Hồ Chí
Minh.
81
HÀNH TRÌNH TÌM HIỂU THẾ GIỚI CỦA HOÀNG TỬ BÉ
(ANTOINE DE SAINT-EXUPÉRY)
QUA CÁC HÀNH TINH DƯỚI GÓC NHÌN HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH
Đoàn Tiến Đạt1*, Cao Kỳ Duyên1, Phan Hoàng Anh1, Nguyễn Thành Trung2
1
Sinh viên Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh
2
TS. Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh
*Tác giả liên hệ: Điện thoại: 0847 365 874; Email: nckhhtb2023@gmail.com
TÓM TẮT
Bài viết nghiên cứu hành trình tìm hiểu thế giới và trưởng thành của Hoàng Tử Bé qua các hành
tinh. Trong quá trình này, các hành tinh sẽ được nhìn nhận bằng học thuyết Ngũ hành của văn hóa Trung
Hoa. Theo đó, mối quan hệ giữa hình tượng văn học và học thuyết văn hóa sẽ được khái lược làm cơ sở
cho việc tìm hiểu bản chất và ý nghĩa của tác phẩm văn học phương Tây dưới góc độ triết lý phương
Đông.
Từ khóa: hệ thống nhân vật, Hoàng Tử Bé, ngũ hành.
3.2 Hành trình của Hoàng Tử Bé qua các hành tinh dưới góc độ học thuyết Ngũ hành
Trước khi đi vào hành trình của Hoàng Tử Bé trong tương quan Ngũ hành, chúng tôi xin đặt các
hành tinh ứng với các hành trong Ngũ hành. Cụ thể như sau: Người mệnh Hỏa là người nhiệt tình, nhưng
thường lại biểu hiện hão huyền, ảo tưởng, kiêu ngạo; ứng với hành tinh ông hợm hĩnh. Người mệnh Thổ
thường ổn định, đáng tin cậy, chăm chỉ, sự trung thực; ứng với người thắp đèn. Người mệnh Kim thường
có tính độc đoán, thứ họ muốn có sẽ dốc lòng để đạt được, là những nhà tổ chức giỏi, quyết đoán, tuy
nhiên họ thường kém linh động; ứng với hành tinh của nhà vua và nhà buôn. Người mệnh Mộc có lối tư
duy mạch lạc, đầu óc cực kỳ nhạy cảm, họ là người khôn ngoan, đáng tin cậy, và có trách nhiệm, công
bằng. Điểm bất lợi của người mệnh Mộc chính hay chống đối, dễ gây mâu thuẫn và thường không hay
được lòng bề trên; ứng người phi công ở Trái Đất. Người mệnh Thủy đại diện cho sự linh hoạt, thường
rất thu hút với người xung quanh bằng trí tuệ. Tuy nhiên, cũng là người dễ sa ngã nếu quá thịnh vượng
sẽ trở nên xảo quyệt; ứng với hành tinh của nhà địa lý và kẻ nát rượu.
Thứ nhất, mối quan hệ tương sinh giữa các hành tinh ứng với Ngũ hành. Đầu tiên là Hỏa sinh Thổ.
Cả ông hợm hĩnh (Hỏa) và ông thắp đèn (Thổ) đều làm một công việc đơn giản: người thì “vừa chào
vừa huơ cái mũ” (Antoine de Saint-Exupéry, 2000, tr47) khi được ai đó vỗ tay; người thì bật và tắt mỗi
phút một lần ngọn đèn trên hành tinh của mình. Tuy nhiên thái độ của họ lại khác nhau: ông hợm hĩnh
làm việc với thái độ rất vui vẻ, hào hứng; song ông thắp đèn lại làm việc một cách rập khuôn, nhàm
chán. Đặt trong tương sinh, Hỏa sinh Thổ ở đây được hiểu là ông hợm hĩnh sẽ bổ sung sự nhiệt tình, vui
vẻ, năng động mà người thắp đèn còn thiếu. Tiếp đến, Thổ sẽ sinh Kim. Công việc ông thắp đèn (Thổ)
tuy cực nhọc nhưng lại thiết thực: “Đấy là một công việc rất chi đẹp đẽ. Và vì việc đó đẹp đẽ nên cũng
rất mực có ích” (Antoine de Saint-Exupéry, 2000, tr55). Còn nhà vua (Kim) tự cho mình giai cấp thống
trị, công việc là đưa ra những mệnh lệnh không ý có nghĩa: “trẫm hạ lệnh cho ngươi ngáp [...] trẫm lệnh
cho người ngồi” (Antoine de Saint-Exupéry, 2000, tr41-42). Quan hệ tương sinh ở đây được thể hiện
qua việc người thắp đèn sẽ bổ sung tính thực tiễn, có ý nghĩa cho nhà vua. Kim tiếp tục sinh Thủy, Nhà
buôn (Kim) là một người “nghiêm túc và luôn thích chính xác” (Antoine de Saint-Exupéry, 2000, tr50),
chính ông ta tự đếm từng vì sao mà ông ta phát hiện, tổng số ngôi sao ông ta có là “năm trăm lẻ một
triệu sáu trăm hai mươi hai nghìn bảy trăm ba mươi mốt” (Antoine de Saint-Exupéry, 2000, tr50). Còn
nhà địa lý (Thủy) tuy có kiến thức sâu rộng nhưng “Ông ấy không rời bàn giấy của mình được. Mà ông
ấy tiếp đón các nhà thám hiểm. Ông ấy hỏi han bọn họ, rồi ông ấy ghi chép hồi ức của bọn họ” (Antoine
de Saint-Exupéry, 2000, tr58). Kim sinh Thủy ở đây thể hiện qua việc nhà buôn sẽ bổ sung cho nhà địa
84
lý về việc tự trải nghiệm trong công việc. Thủy tiếp tục sinh Mộc. Nhà địa lý (Thủy) tuy không trải
nghiệm nhưng ông ta vẫn có thể biết cách có được thông tin và xác thực được thông tin ấy. Còn người
phi công (Mộc), có giấc mơ họa sĩ nhưng không đủ mạnh mẽ để theo đuổi giấc mơ. Ở đây nhà địa lý sẽ
bổ sung sự khôn khéo để theo đuổi giấc mơ cho người phi công. Cuối cùng, Mộc sinh Hỏa. Ông hợm
hĩnh (Hỏa) tuy là người nghiêm túc trong công việc nhưng công việc của ông không có tính thực tiễn
mà chỉ vì hư danh của bản thân. Người phi công (Mộc) lại có một công việc rất thiết thực. Vì vậy Mộc
sinh Hỏa đồng nghĩa với việc hành tinh của người phi công sẽ bổ sung tính cách thiết thực cho hành tinh
ông hợm hĩnh để trở nên hoàn chỉnh hơn.
Thứ hai, mối quan hệ tương khắc giữa các hành tinh ứng với Ngũ hành. Đầu tiên là Thủy thắng
Hỏa: Ông hợm hĩnh/kẻ khoác lác (Hỏa) thích nghe lời khen của người khác rằng mình là người “thông
minh nhất” (Antoine de Saint-Exupéry, 2000, tr47) thế nhưng ông ta lại không hề thông minh, tất cả chỉ
là ông ta ảo tưởng. Trái lại nhà địa lý (Thủy) lại có kiến thức sâu rộng: “biết được biển, sông ngòi, thành
phố, núi non và sa mạc” (Antoine de Saint-Exupéry, 2000, tr58). Tiếp đến Hỏa sẽ khắc Kim: Nhà vua
(hành Kim) cho mình thuộc giai cấp thống trị, ra những luật lệ vô lý: “trẫm hạ lệnh cho ngươi ngáp”
(Antoine de Saint-Exupéry, 2000, tr40). Ngược lại, ông hợm hĩnh (Hỏa) lại giống một chú hề, làm những
hành động khiến Hoàng Tử Bé thích thú: “Trò này vui hơn là chuyến thăm ông vua” (Antoine de Saint-
Exupéry, 2000, tr46). Kim tiếp tục lại khắc Mộc: Người phi công (Mộc) thích vẽ tranh nhưng không đủ
mạnh mẽ để theo đuổi ước mơ họa sĩ: “vào hồi sáu tuổi tôi đã từ bỏ một sự nghiệp hội họa rực rỡ”
(Antoine de Saint-Exupéry, 2000, tr58). Nhà buôn (Kim) tự cho mình là một người nghiêm túc, cả ngày
chỉ ngồi tìm kiếm ngôi sao, việc kiên định với công việc của mình khiến cho ông trở nên giàu có. Mộc
khắc Thổ: nếu người thắp đèn (Thổ) làm việc một cách cứng nhắc, rập khuôn dù đã được sự gợi ý của
Hoàng Tử Bé; thì người phi công (Mộc) lại linh hoạt hơn trong điều này; sau khi tiếp xúc với Hoàng Tử
Bé, anh đã nhận ra chính bản thân mình cũng từng là một đứa trẻ, từng mơ ước trở thành họa sĩ… tuy
có làm ngơ Hoàng Tử Bé nhưng khi đã hết nước, anh đã tin tưởng Hoàng Tử Bé rằng giữa sa mạc rộng
lớn lại có một cái giếng và kì tích đã xảy ra. Cuối cùng Thổ khắc Thủy, người thắp đèn (Thổ) tuy làm
việc rập khuôn nhưng anh ta rất trung thực, thậm chí hy sinh cả sức khỏe của mình: “bây giờ nó quay
một vòng trong một phút, và tôi chẳng có nổi một giây nghỉ ngơi” (Antoine de Saint-Exupéry, 2000,
tr55); nhà địa lý (Thủy) tuy có kiến thức sâu rộng nhưng đó lại được nghe từ người khác chứ không do
chính ông ta trải nghiệm: “ông ấy tiếp đón các nhà thám hiểm. Ông ấy hỏi han bọn họ rồi ông ấy ghi
chép hồi ức của bọn họ” (Antoine de Saint-Exupéry, 2000, tr58). Vì thế trong công việc, người thắp đèn
sẽ đáng tin cậy hơn (Thổ thắng Thủy).
Thứ ba, mối quan hệ bổ trợ giữa các hành tinh ứng với Ngũ hành. Giữa các hành tinh Hoàng Tử
Bé ghé thăm, mỗi một hành tinh đều để lại cho cậu một bài học. Nhưng chỉ khi đến Trái Đất – hành
Mộc, cậu mới đúc kết được tất cả bài học trước đó. Nhưng tại sao khi đến đây thì Hoàng Tử Bé mới vỡ
lẽ ra được nhiều thứ? Khi đặt nó vào quan hệ bổ trợ trong Ngũ hành ứng với Ngũ Thường, ta có thể lý
giải được. Theo đó, Mộc sẽ ứng với đức Nhân (仁), là gốc của Ngũ Thường; tượng trưng cho sự phát
triển tự nhiên, thiên nhiên mà biểu trưng là cây cối – hành Mộc. Hành Mộc còn biểu trưng cho sự tu
hành và giáo dục, nói đến quy phạm làm người đúng với câu “chính nhân quân tử”. Như vậy, hành Mộc
sẽ là nơi quy tụ đủ tất cả các yếu tố để Hoàng Tử Bé tự đúc kết ra bài học cuối cùng. Các hành còn lại
sẽ có nhiệm vụ bổ trợ cho Mộc. Hành Thủy là yếu tố quan trọng vì Thủy sinh Mộc. Thủy ứng với đức
Trí (智) và hành tinh của nhà địa lý. Dù ông “không thể rời khỏi chiếc bàn giấy của mình” và chưa từng
tận mắt chứng kiến thế giới bên ngoài (Antoine de Saint-Exupéry, 2000, tr65). Nhưng ông ta cũng là
người viết được nhiều cuốn sách khổng lồ. Việc có thể lấy được và kiểm chứng thông tin từ các tay thám
hiểm, đủ cho thấy ở nhà địa lý có trí lược, trí tuệ. Đức Lễ (禮) ứng hành Hỏa tượng trưng cho sự cung
kính, lễ nghi, trên dưới; Lễ sẽ ứng hành tinh của ông hợm hĩnh. Bằng chứng là nghi thức chào hỏi giữa
ông với Hoàng Tử Bé diễn ra suốt năm phút, nhưng lần nào ông cũng thực hiện không chút qua loa. Đức
Nghĩa (義) ứng với hành Kim ý là người biết trân trọng lẽ phải, sống có đạo lý. Nhà vua (Kim) thực chất
chỉ “buộc người nào làm việc người đó có thể làm”, quan điểm của ông “uy quyền trước hết dựa trên
85
lẽ phải” (Antoine de Saint-Exupéry, 2000, tr46). Cuối cùng, đức Tín (信) thể hiện danh dự, lời hứa, ứng
với hành Thổ cũng hành tinh của ông thắp đèn. Dù hành tinh có ngày một quay nhanh hơn khiến ông
không có thời gian nghỉ ngơi, ông ta luôn hoàn thành công việc của mình.
3.3 Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tương quan Ngũ hành
Đầu tiên, hệ thống nhân vật trong tác phẩm được xây dựng trong quan hệ bổ sung, nghĩa là các
nhân vật có tính phụ thuộc lẫn nhau, nhân vật này làm cho nhân vật kia thêm phần rõ nét hơn. Tính cách
của các nhân vật trên các hành tinh (trừ anh phi công) đều được xây dựng theo lối nhất phiến và mỗi
nhân vật lạ lùng trong vô vàn điều phi lý ấy lại điển hình cho các loại người mà ta có thể bắt gặp trong
cuộc sống. Tuy nhiên khi nhìn tổng quát ta thấy được sự hoàn chỉnh trong hệ thống tính cách của các
nhân vật trong tác phẩm. Thêm vào đó, khi nhìn dưới góc độ Ngũ hành, các nhân vật này còn có tính
chất bổ sung cho nhau những ưu, nhược điểm mà đối phương đang thiếu.
Thứ hai, hệ thống nhân vật được xây dựng trong sự đối chiếu tương phản, đây là cách tạo ra các
cặp nhân vật trong mối quan hệ làm nổi bật sự khác biệt của nhau. Vì sự khác biệt đó sẽ tạo cơ hội cho
nhân vật chính có nhận thức so sánh, đối chiếu giữa các nhân vật “người lớn” để rồi đưa ra góc nhìn của
“trẻ con”: có thể trong mắt của những lớn thì ông thắp đèn rất đỗi tầm thường nhưng đối với Hoàng Tử
Bé thì “chỉ có ông ấy mới không lố bịch.” (Antoine de Saint-Exupéry, 2000, tr56). Cách xây dựng hệ
thống nhân vật này không chỉ làm nổi bật các nhân vật cùng tuyến (tuyến người lớn) mà còn làm cho
nhân vật khác tuyến (tuyến trẻ con) trở nên sắc nét; không chỉ xây dựng được sự đa dạng trong tính cách
của hệ thống nhân vật “người lớn”, mà còn giúp Hoàng Tử Bé phát biểu tư tưởng của truyện rằng trong
mắt trẻ con thì người lớn rất khó hiểu: “người lớn quá đỗi là lạ lùng”, “đúng là buồn cười quá thể”,
“đúng thật là cực kỳ khác thường” (Antoine de Saint-Exupéry, 2000, tr45-52).
Cuối cùng, nhân vật trung tâm được xây dựng theo lối “phát triển”. Nếu các nhân vật “người lớn”
được mặc định sẵn tính cách đặc trưng hay được quy ra một nét nổi trội về tính cách thì Hoàng Tử Bé
lại không được xây dựng theo lối định hình sẵn này. Nhà văn cho cậu tiếp xúc, va chạm với thế giới và
qua đó cậu mới bộc lộ tính cách, suy nghĩ rồi mới đi tới việc tự định hình chính mình. Cụ thể qua hành
trình của mình, Hoàng Tử Bé trải qua nhiều biến cố, đi tới nhiều nơi, gặp nhiều người… để tìm hiểu thế
giới và trưởng thành hơn; và khi nhìn dưới góc độ Ngũ hành, tác phẩm như truyền tải thông điệp răng
dạy cách làm người. Antoine đã khắc họa nên những nhược điểm điển hình của mỗi “người lớn”: tham
lam, thích sự phồn hoa,… nhưng Hoàng Tử Bé chỉ nói: “Người lớn thật quá đỗi là lạ lùng” (Antoine de
Saint-Exupéry, 2000, tr45); chứ không kết luận họ người xấu. Nhìn nhận bằng Ngũ Hành, những “người
lớn” ấy đều giữ vai trò cung cấp những bài học cho Hoàng Tử Bé trong Ngũ Thường: Lễ, Nghĩa, Trí,
Tín. Khi cậu đến Trái Đất, Hoàng Tử Bé mới ngộ ra được những bài học từ các chuyến du hành. Việc
xây dựng nhân vật chính theo lối “phát triển” sẽ tạo nên sự lôi cuốn cho tác phẩm vì quá trình trưởng
thành của cậu bé cũng chính là quá trình phát triển cùng với tâm thức của người đọc.
4. Kết luận
Về đề xuất khoa học, ở phương Đông việc tự nghiên cứu được diễn ra trễ hơn phương Tây, thậm
chí sau khi tự nghiên cứu chính mình, phương Tây còn nghiên cứu phương Đông; đây là góc nhìn của
phương Tây về phương Đông. Nhưng ở chiều ngược lại, cái nhìn phương Đông về phương Tây thì vẫn
còn dang dở và có thể bàn luận thêm. Chúng tôi “tham vọng” thực hiện được điều ấy qua bài nghiên cứu
này bằng cách nhìn nhận một tác phẩm văn học phương Tây qua học thuyết văn hóa phương Đông.
Chúng tôi hy vọng có thể bổ sung lý thuyết ứng dụng văn hóa Ngũ hành vào văn học, ngoài ra bài nghiên
cứu này còn là một bài viết tham khảo cho các hướng tiếp cận mới mẻ khác không chỉ nghiên cứu về
Hoàng Tử Bé bằng Ngũ hành mà còn nghiên cứu văn học phương Tây bằng lí thuyết phương Đông.
Về phương pháp, chúng tôi sử dụng ba phương pháp chủ đạo như đã đề cập ở trên nhưng nếu các
phương pháp này được thực hiện độc lập sẽ có nhiều hạn chế: nếu chỉ sử dụng so sánh thì các hành tinh
chỉ đơn thuần là các hiện tượng riêng lẻ; nếu chỉ sử dụng văn hóa thì bài viết sẽ vượt ra ngoài văn bản
văn học; nếu chỉ sử dụng phương pháp cấu trúc thì bài viết sẽ chỉ tập trung vào yếu tố bên trong văn bản
văn học hoặc lý thuyết Ngũ hành mà bỏ quên yếu tố bên ngoài văn bản. Để tránh những hạn chế này, ba
86
phương pháp được phối hợp trong quá trình phân tích, đánh giá. Cụ thể, bằng phương pháp cấu trúc,
chúng tôi đã chỉ ra được hệ thống nhân vật “người lớn” trong Hoàng Tử Bé và Ngũ hành ở 3.1; sau đó
bằng phương pháp so sánh, chúng tôi tìm ra được điểm gặp gỡ của hai đối tượng trên được trình bày ở
3.2; đến với 3.3, phương pháp cấu trúc lại tiếp tục được sử dụng để chỉ ra được vấn đề nghệ thuật là việc
xây dựng hệ thống nhân vật trong tác phẩm với tương quan Ngũ hành; trong suốt quá trình này phương
pháp văn hóa được phối hợp sử dụng. Ngoài ra chúng tôi mở rộng phương pháp hệ – liên ngành, để đi
vào cụ thể với trường hợp sử dụng thuyết Ngũ hành trong việc phân tích nhân vật và tính cách nhân vật.
Về nội dung, nghệ thuật, khi đặt tác phẩm dưới góc nhìn của thuyết Ngũ hành chúng tôi đã giải
quyết các vấn đề đặt ra ở giả thuyết: Thứ nhất, hệ thống các hành tinh tưởng chừng tồn tại riêng lẻ nhưng
lại mối liên hệ rất mật thiết với nhau. Thứ hai, mỗi hành tinh Hoàng Tử Bé đi qua, mỗi “người lớn” cậu
gặp không phải ngẫu nhiên mà họ đại diện cho một khía cạnh nào đó trong cuộc sống; phải trải qua hết
những điều này cậu mới có thể hiểu được thế giới và trưởng thành. Thứ ba, dù khác biệt về văn hóa
nhưng hệ thống nhân vật trong tác phẩm phương Tây nếu được đặt trong tương quan Ngũ hành ta sẽ
thấy rằng các nhân vật được xây dựng với mối liên hệ bổ sung, hỗ trợ nhau thậm chí đối lập nhau để làm
nổi bật nhau hơn. Tóm lại, chúng tôi dùng Ngũ hành để phân tích tích cách vật trong một hành trình.
Như đã nói trên, về cơ bản bất kì một tác phẩm nào cũng có một hành trình của nhân vật chính, vì vậy
ta có thể tiếp tục phân tích các tác phẩm khác có mô hình hành trình bằng học thuyết Ngũ hành như:
Những tấm lòng cao cả của Edmondo de Amicis, Khu vườn bí mật của Frances Hodgson Burnett, Đảo
giấu vàng của Robert Louis Stevenson, Gulliver du ký của Jonathan Swift,...
87
NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA KAZIK ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN
CỦA CÁC MỐI QUAN HỆ HỢP TÁC VĂN HÓA
GIỮA VIỆT NAM VÀ BA LAN TRONG THỜI GIAN Ở HUẾ
TÓM TẮT
Kazik đã dành gần hai thập kỷ cuối đời của mình để cống hiến cho sự nghiệp bảo tồn các di tích
lịch sử và di sản văn hóa của Việt Nam. Phần lớn thời gian này ông làm việc ở Quảng Nam, Đà Nẵng,
Huế, và một số nơi khác. Tổng thời gian Kazik toàn tâm toàn ý dành cho Huế không nhiều, nhưng những
đóng góp của ông đối với sự phát triển của các mối quan hệ hợp tác văn hóa giữa Việt Nam và Ba Lan
trong thời kỳ này là rất quan trọng và hiệu quả. Tiêu biểu nhất trong số này là việc Kazik đã truyền bá
nhiều kỹ thuật và công nghệ trùng tu của châu Âu cho các chuyên viên của Huế, đào tạo được nhiều
chuyên gia cho sự nghiệp bảo tồn văn hóa của Thừa Thiên Huế, đưa Quần thể Di tích Cố đô Huế vào
danh sách Di sản Văn hóa Thế giới, kêu gọi nhiều khoản tài trợ và dự án đầu tư của nước ngoài, và phát
triển mối quan hệ hợp tác văn hóa giữa Việt Nam và Ba Lan lên một tầm cao mới.
Từ khóa: Ba Lan, Huế, Kazik, Thừa Thiên Huế, Việt Nam.
1. Đặt vấn đề
Việt Nam và Ba Lan chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày 4 tháng 02 năm 1950 (Nguyễn
Thúc, 2017). Trải qua hơn bảy thập kỷ hình thành và phát triển, các mối quan hệ hợp tác đa chiều giữa
hai nước ngày càng tiến triển toàn diện (WUFO, 2020). Có nhiều nhân tố khác nhau đóng góp vào thành
công chung của mối quan hệ hợp tác hữu nghị tốt đẹp giữa Việt Nam và Ba Lan trong hơn 70 năm qua,
nhưng tiêu biểu nhất là sự tương đồng của số phận lịch sử, thiện chí hợp tác của lãnh đạo và nhân dân
hai nước, và đặc biệt không thể thiếu là những nỗ lực và đóng góp quan trọng của những đại sứ văn hóa
của hai dân tộc. Một trong những người được nhắc đến nhiều nhất và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc nhất
trong lòng nhân dân hai nước là kiến trúc sư Kazik. Kazik là tên thân mật mà người Việt Nam dùng để
gọi kiến trúc sư Kazimierz Kwiatkowski (1944 - 1997) (Sở Du lịch Thừa Thiên Huế, 2017). Kiến trúc
sư và nhà bảo tồn các di tích lịch sử Kazik sinh ngày 02 tháng 07 năm 1944 tại Pachol, Parczewski,
Lubelszczyzna, Ba Lan. Năm 1969, ông hoàn thành chương trình thạc sĩ Kiến trúc và bắt đầu làm trợ lý
cho văn phòng Quy hoạch đô thị tỉnh Lublin. Trong những năm 1972-1974, Kazik làm việc cho Văn
phòng Trùng tu Di tích, nhưng sau đó chuyển sang công tác tại Văn phòng Thiết kế-Nghiên cứu Xây
dựng Tổng hợp Lublin. Năm 1979, ông lại quay lại với vai trò trợ lý tại Văn phòng Trùng tu Di tích như
trước (Nguyen, Hiro). Năm 1980, Ba Lan và Việt Nam ký kết chương trình hợp tác tu bổ địa đạo Củ Chi
và các tháp Chăm ở miền Trung Việt Nam. Kazik được cử làm Trưởng đoàn chuyên gia Ba Lan tại Việt
Nam (Duy Hiển, 2017, ngày 27 tháng 1). Ông đến Việt Nam năm sau và ở lại đó cho đến lúc mất vào
năm 1997 (Cymer, 2017). Mối lương duyên giữa Kazik và Việt Nam cũng được ra đời và phát trong triển
môi trường lịch sử của mối quan hệ Việt Nam-Ba Lan như thế. Trong gần hai thập kỷ làm việc cuối cùng
của cuộc đời (1980-1997), Kazik đã có nhiều cống hiến ý nghĩa cho sự phát triển của Việt Nam và mối
quan hệ hợp tác hữu nghị giữa hai nước. Tuy nhiên, bài viết này chỉ phân tích một vài đóng góp quan
trọng nhất của ông đối với sự phát triển của các mối quan hệ hợp tác văn hóa giữa Việt Nam và Ba Lan
trong thời gian ở Thừa Thiên Huế.
2. Một vài đóng góp của Kazik đối với sự phát triển của mối quan hệ hợp tác văn hóa
giữa Việt Nam và Ba Lan trong thời gian ở Huế
2.1 Các dự án tác văn hóa giữa Việt Nam và Ba Lan ở tỉnh Thừa Thiên Huế
88
Các mối quan hệ hợp tác văn hóa giữa Việt Nam và Ba Lan diễn ra trên rất nhiều phương diện, lĩnh
vực, và địa bàn khác nhau trong hơn 70 năm qua, nhưng đáng chú ý nhất là việc Ba Lan đã giúp đỡ Việt
Nam trùng tu các di tích lịch sử đã bị chiến tranh tàn phá và thời gian bào mòn trên khắp cả nước. Tiêu
biểu nhất trong số này là hệ thống cung điện của vua chúa triều đinh Huế ở Thừa Thiên Huế, hệ thống
Tháp Chàm đã bị hư hỏng và sụp đỗ ở thành phố Hội An của tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng,
và nhiều công trình và bộ phận của hệ thống địa đạo Củ Chi đã bị xuống cấp ở Thành phố Hồ Chí Minh
(Lê Hải Triều và Phạm Thế Phương, 2015). Tuy nhiên, mục này chỉ phân tích các dự án hợp tác văn hóa
giữa Việt Nam và Ba Lan diễn ra trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.
Thừa Thiên Huế là một trong những địa phương đầu tiên nhận được nhiều sự hỗ trợ tích cực của
Ba Lan trong quá trình bảo tồn các di tích lịch sử và di sản văn hóa của dân tộc đang trên đà xuống cấp.
Ba Lan là một trong những nước sớm nhất bày tỏ mong muốn hỗ trợ Việt Nam bảo tồn Quần thể Di tích
Cố đô Huế ngay từ khi UNESCO vừa phát động cuộc vận động quốc tế bảo vệ các di tích lịch sử và di
sản văn hóa ở Huế năm 1981 (Phòng Hợp tác - Đối ngoại, 2017). Mặc dù vậy, các chương trình hợp tác
văn hóa và trùng tu các di tích lịch sử và di sản văn hóa ở Huế trong khuôn khổ hợp tác giữa hai nước
Việt Nam và Ba Lan chỉ thực sự được bắt đầu từ năm 1988 sau chuyến thăm Huế của Tổng Giám đốc
Liên hiệp các xí nghiệp tu bổ Di tích Quốc gia Ba Lan. Các mối quan hệ hợp tác văn hóa giữ Việt Nam
và Ba Lan ở Huế bước sang một giai đoạn mới khi Quần thể di tích Cố đô Huế được công nhận là Di sản
văn hóa thế giới năm 1993 và các nguồn tài trợ của Hội những người yêu di sản Huế tại Pháp trở nên dồi
dào hơn (Duy Hiển (2017, ngày 19 tháng 03).
Trong mối quan hệ hợp tác văn hóa giữa Việt Nam và Ba Lan, Thừa Thiên Huế không chỉ thu hút
được nhiều sự quan tâm của các chuyên gia đầu ngành của Ba Lan, mà còn nhận được nhiều sự hỗ trợ
quý giá của nước này. Những sự giúp đỡ này của Ba Lan càng diễn ra mạnh mẽ hơn nữa từ năm 1996
đến nay. Ba Lan đã hỗ trợ Việt Nam hơn một triệu USD để triển khai các chương trình và dự án bảo vệ,
bảo tồn, và trùng tu các di tích lịch sử và di sản văn hóa ở Huế bên cạnh các chương trình đào tạo kỹ
thuật. Đáng chú ý nhất trong số này là dự án Bảo tồn và trùng tu di tích Thế Tổ Miếu (Đại nội Huế) với
tổng kinh phí lên đến 900.000 USD năm 1996 (Đại Dương, 2017) được thực hiện bởi Công ty Bảo tồn
các tài sản văn hóa Ba Lan (Phòng Hợp tác - Đối ngoại, 2017).
Bên cạnh đó, việc trùng tu và bảo tồn các công trình Nhà che bia Khuyến học (Quốc Tử Giám)
(2010), Nhà Tả Vu (2010), công trình Linh Tinh Môn (Văn Miếu) (2011) (Quốc Việt, 2017), Bia Thánh
đức Thần công và Bi Đình, lăng vua Tự Đức (2012-2013)… cũng in đậm dấu ấn giúp đỡ của Ba Lan
(Sông Hương, 2017). Ba Lan đã hỗ trợ 40.000 USD cho Chương trình khảo sát và lập Dự án bảo tồn và
tôn tạo Nhà Tả Vu (1997), 24.497 USD cho Dự án Bảo tồn, tu bổ, và tôn tạo Công trình Linh Tinh Môn
(Văn Miếu Huế) và tập huấn đào tạo cán bộ bảo tồn (2011) từ chương trình hỗ trợ quốc tế của Bộ Ngoại
giao Ba Lan trong tổng kinh phí 102.094,7 USD của dự án, 39.586 USD cho Dự án Bảo tồn, trùng tu, và
đào tạo cán bộ kỹ thuật cho công trình Bi Đình, lăng vua Tự Đức (2012-2013) trong tổng kinh phí
174.261,1 USD của dự án (Phòng Hợp tác - Đối ngoại, 2017).
Tóm lại, sự hỗ trợ tích cực của Chính phủ, các đối tác, và các chuyên gia Ba Lan đã giúp Thừa
Thiên Huế bảo vệ, bảo tồn, và trùng tu được nhiều di tích lịch sử và di sản văn hóa cũng như nhiều công
trình quan trọng của Quần thể Di tích Cố đô Huế. Tiêu biểu nhất trong số này là việc trùng tu và bảo tồn
thành công các di tích Thế Tổ Miếu (Đại Nội Huế), nhà che bia Khuyến học (Quốc Tử Giám Huế), công
trình Linh Tinh Môn (Văn Miếu Huế), Bia Thánh đức Thần công và Bi Đình, lăng vua Tự Đức… (Phòng
Hợp tác - Đối ngoại, 2017). Những thành công trong bảo tồn và trùng tu các di tích lịch sử và di sản văn
hóa ở Thừa Thiên Huế là một minh chứng rõ ràng và động lực to lớn cho các mối quan hệ hợp tác hữu
hiệu giữa Việt Nam và Ba Lan trên lĩnh vực văn hóa.
2.2 Một vài đóng góp của Kazik đối với sự phát triển của mối quan hệ hợp tác văn hóa giữa
Việt Nam và Ba Lan trong những thời gian ở Huế
Trong suốt 17 năm (1980-1997) cống hiến cho sự nghiệp bảo tồn di các sản văn hóa và trùng tu
các di tích lịch sử của Việt Nam (Cục Hợp tác quốc tế, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, 2017), Kazik
đã làm việc nhiều nơi trong cả nước. Tuy nhiên, xét về tổng thể thời gian ông gắn bó với thánh địa Mỹ
Sơn là lâu nhất (gần 16 năm) (Sở Ngoại vụ Thừa Thiên Huế, 2017). Điều đó có nghĩa là thời gian Kazik
89
thực sự làm việc tập trung ở Huế không dài, nhưng mối lương duyên giữa Kazik với các di tích lịch sử
và di sản văn hóa của Huế không hề đơn giản như vậy.
Năm 1981, UNESCO đã phát động một cuộc vận động quốc tế rộng lớn nhằm cữu vãn các di tích
lịch sử và di sản văn hóa đang lâm nguy của Huế. Một nhóm công tác Huế của UNESCO được thành lập
năm 1982 để bảo vệ một di sản của nhân loại đang nguy cấp (Phòng Hợp tác - Đối ngoại, 2017). Kazik
từ đó cũng đến Huế nhiều hơn và hoàn toàn bị chinh phục bởi sự đặc sắc của quần thể di tích Cố đô Huế
(Duy Hiển, 2017, ngày 19 tháng 03). Ông đã cố gắng đào tạo cán bộ cho Trung tâm bảo tồn di tích cố đô
Huế lúc mới thành lập năm 1982. Năm 1985, Kazik đã dành 2 tuần để đào tạo chuyên môn cho các
chuyên viên của trung tâm này với tư cách là chuyên gia của UNESCO (Hoàng Sơn, 2022). Đây được
xem như là sự mở đầu cho công tác trùng tu và bảo tồn các di tích lịch sử và di sản văn hóa ở Huế theo
các tiêu chuẩn của nhân loại (Duy Hiển (2017, ngày 19 tháng 03).
Cường độ và mật độ đến Huế của Kazik từ đó cũng tăng lên đáng kể theo lời kêu gọi của UNESCO
(Sông Hương, 2017). Chính những năm tháng làm việc nghiêm túc và công phu này của Kazik và các
cộng sự đã góp phần đưa Quần thể Di tích Cố đô Huế đến với danh hiệu Di sản Văn hóa Thế giới năm
1993 (Sở Ngoại vụ Thừa Thiên Huế, 2017). Sự kiện này cũng đánh dấu những đóng góp của Kazik vào
quá trình hình thành và phát triển của ngành du lịch Thừa Thiên Huế (Sở Du lịch Thừa Thiên Huế, 2017).
Các di tích lịch sử và di sản văn hóa của Huế từ đó được thế giới biết đến nhiều hơn. Các nguồn tài trợ
cho việc trùng tu và bảo tồn các di tích lịch sử và di sản văn hóa của Huế cũng trở nên dồi dào và bền
vững hơn. Đó chính là một trong những điều kiện tiền đề để Kazik được mời hợp tác với Trung tâm bảo
tồn di tích Cố đô Huế nhằm đưa công tác trùng tu và bảo tồn Quần thể di dích Cố đô Huế lên một tầm
cao mới (Duy Hiển (2017, ngày 19 tháng 03).
Kiến trúc sư Kazik là một trong những chuyên gia bảo tồn đầu tiên hỗ trợ và chuyển giao công
nghệ trùng tu di tích của châu Âu cho các di sản miền Trung. Điều này lại càng trở nên đặc biệt đúng đối
với Quần thể Di tích Cố đô Huế (Sông Hương, 2017) vì những yêu cầu khắt khe của công tác trùng tu di
tích và bảo vệ di sản đã mất (Hồ Trọng, 2017). Nhiều cán bộ trùng tu của Huế đã học hỏi được nhiều
kinh nghiệm quý báu từ Kazik và tiếp thu được nhiều công nghệ bảo tồn tiên tiến của châu Âu (Đồng
Văn, 2017). Những giúp đỡ của Kazik và các chuyên gia Ba Lan là những đóng góp đầu tiên của các
chuyên gia quốc tế dành cho công tác bảo tồn và trùng tu các di sản văn hóa của Huế. Đó cũng được xem
như là sự khởi đầu cho việc thu hút sự quan tâm, các chương trình hợp tác, và các dự án tài trợ từ các tổ
chức nước ngoài (Quốc Việt, 2017). Chính Kazik là người chủ trì và lần đầu tiên kêu gọi thành công một
khoản tài trợ lên đến 100.000 USD từ quỹ Ủy thác Nhật Bản (Nguyen, Hiro) cho dự án Bảo tồn Di sản
Văn hóa Thế giới ở Huế (Phòng Hợp tác - Đối ngoại, 2017).
Bên cạnh đó, Kazik là giảng viên của nhiều chương trình đào tạo nhân lực di sản cho Việt Nam.
Ngoài lớp tập huấn bảo tồn trùng tu tại Huế do UNESCO tổ chức năm 1985 (Đại Dương, 2017), Kazik
còn góp phần đào tạo nhiều thế hệ chuyên gia trùng tu và bảo tồn các di sản văn hóa cho Việt Nam
(Phòng Hợp tác - Đối ngoại, 2017). Trong tổng số hơn 95 học viên đến từ hơn 10 đơn vị quản lý di sản
trên cả nước tham gia các lớp tập huấn và đào tạo kỹ thuật do Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế và
Đại sứ quán Ba Lan tại Việt Nam tổ chức (Phòng Hợp tác - Đối ngoại, 2017), không ít người là sản phẩm
đào tạo, huấn luyện, và rèn luyện của Kazimierz Kwiatkowsky (Văn Thắng, 2017).
Kazik cũng là người có công lớn trong việc phát triển các mối quan hệ hợp tác văn hóa hữu nghị
giữa Ba Lan và Việt Nam cũng như giữa tỉnh Thừa Thiên Huế với các chuyên gia, tổ chức, và địa phương
của Ba Lan (VOV, 2017). Những đóng góp của Kazik trong lĩnh vực bảo tồn di sản văn hóa đã củng cố
và phát triển hơn nữa các mối quan hệ hợp tác văn hóa cá nhân và địa phương giữa hai nước (Quốc Việt,
2017). Chính Kazik là một trong những cầu nối để thành phố di sản Cracow của Ba Lan trở thành một
mẫu hình lý tưởng cho chiến lược xây dựng thành phố di sản của Huế hiện nay (Đại Dương, 2017).
Tương tự như vậy là mối quan hệ thân quen và gần gũi của Kazimierz Kwiatkowski với Phùng Phu ở
Huế từ năm 1983 (Duy Hiển (2017, ngày 19 tháng 03).
Mặc dù vậy, kiến trúc sư Kazimierz Kwiatkowski (1944-1997) đã bất ngờ rời bỏ thế gian trong khi
đang tham gia dự án bảo tồn và trùng tu công trình Thế Miếu (Đại nội Huế) (Sở Du lịch Thừa Thiên Huế,
2017) vì nhồi máu cơ tim ngày 19 tháng 3 năm 1997 (Duy Hiển, 2017, ngày 27 tháng 1) ở tuổi 53 (Phan
90
Bùi Bảo Thi, 2018) sau 17 năm lao động miệt mài và gắn bó với mảnh đất miền Trung Việt Nam (Hồ
Chí Hưng, 2017).
Di sản mà Kazik để lại là rất lớn (Sông Hương, 2017). Trong một chừng mực nhất định nào đó có
thể nói rằng Việt Nam sẽ không có Cố đô Huế, phố cổ Hội An hay Thánh địa Mỹ Sơn như ngày nay, nếu
không có sự hiện diện đúng lúc của Kazik (Nguyen, Hiro). Mặc dù vậy, tất cả đều có những mối liên hệ
đặc biệt với Huế. Công trình đầu tiên của ông tại Việt Nam là nghiên cứu di tích Ngọ Môn (Đại Nội Huế)
(Nguyen, Hiro). Dự án cuối cùng mà kiến trúc sư Kazik tham gia là dự án bảo tồn trùng tu di tích Thế
Tổ Miếu (Đại Nội Huế) do Chính phủ Ba Lan tài trợ (Quốc Việt, 2017) với tổng kinh phí lên đến 900.000
USD (Phòng Hợp tác - Đối ngoại, 2017). Kiến trúc sư Kazimierz Kwiatkowski cùng các cộng sự đã hoàn
thành sứ mệnh trùng tu di tích Ba Lan-Việt Nam trong suốt 17 năm cuối của cuộc đời mình (1980-1997)
(Thu Phương, 2017).
2.3 Huế thay mặt nhân dân Việt Nam tri ân những đóng góp của Kazik đối với sự phát
triển của mối quan hệ văn hóa giữa Việt Nam và Ba Lan
Những cống hiến của Kazik đã được nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam và Ba Lan ghi nhận
bằng nhiều phần thưởng cao quý (Hồ Chí Hưng, 2017), nhưng có lẽ không có phần thưởng nào quý giá
bằng việc được sống mãi trong lịch sử quan hệ hợp tác văn hóa giữa hai nước (TV, 2017). Xét trên
phương diện này, Thừa Thiên Huế cũng đóng một vai trò quan trọng trong hành trình trở thành bất tử
của Kazik sau khi qua đời. Trong một chừng mực nhất định nào đó có thể nói rằng Huế đã thay mặt nhân
dân Việt Nam tri ân những cống hiến của Kazik đối với sự nghiệp văn hóa của Việt Nam và mối quan
hệ hợp tác văn hóa giữa Việt Nam và Ba Lan như một công dân danh dự của thành phố Hoàng gia này
(Hồ Chí Hưng, 2017) bằng nhiều hình thức và mức độ khác nhau.
Nhắc đến Kazik là nhắc đến những cống hiến của ông dành cho các di sản văn hóa của Việt Nam
(Quốc Việt, 2017) và sự nghiệp của ông cũng đã thực sự trở thành một di sản vô giá trong lòng không ít
người dân đất Việt (Hồ Chí Hưng, 2017). Những cống hiến lâu dài và tấm gương lao động miệt mài của
ông đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng tình hữu nghị, củng cố sự đoàn kết, và phát triển các mối
quan hệ hợp tác truyền thống giữa nhân dân hai nước (Hội Hữu nghị Việt Nam-Ba Lan, 2017). Kazik
chính vì thế trở thành một phần tất yếu trong lịch sử quan hệ giữa Ba Lan và Việt Nam (TV, 2017). Hàng
năm các địa phương và bộ ngành có liên quan thường tổ chức các buổi lễ tưởng niệm nhân dịp ngày mất
của ông. Thừa Thiên Huế là một trong những địa phương tiên phong và rất có ý thức trong việc này (Văn
Thắng, 2017). Ví dụ, nhân kỷ niệm 20 năm ngày mất của Kazik (Đại Dương, 2017), Trung tâm Bảo tồn
Di tích Cố đô Huế đã phối hợp với Đại sứ quán Ba Lan tại Việt Nam tổ chức lễ tưởng niệm vào ngày 19
tháng 3 năm 2017 tại Huế (Quang Tám và Hồng Nam, 2017). Hoạt động này được xem là một điểm nhấn
nhằm thắt chặt hơn nữa tình hữu nghị giữa hai nước cũng như giữa Cố đô Huế với các bên liên quan của
Ba Lan (Phòng Hợp tác - Đối ngoại, 2017).
Cũng nhân dịp này, Đại sứ quán Ba Lan tại Việt Nam và Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã
phát hành cuốn sách Kazimierz Kwiatkowski (1944-1997) - Hồi ức một con người đặc biệt của Jacek
Sygmunt Matuszakm (Đại Dương, 2017). Cuốn sách không chỉ là một sự tổng kết những đóng góp của
Kazik đối với sự nghiệp văn hóa của Việt Nam, mà còn là một minh chứng cụ thể cho mối quan hệ hợp
tác văn hóa hiệu quả giữa Việt Nam và Ba Lan trong hơn 70 năm qua (VNS, 2017). Cuốn sách là một sự
khẳng định đối với những cống hiến không thể lặp lại của Kazik trong sự nghiệp bảo tồn các di tích lịch
sử và di sản văn hóa của Việt Nam trong gần hai thập kỷ cuối thế kỷ XX (T.P, 2017). Người Ba Lan có
quyền tự hào với những đóng góp của ông (Đồng Văn, 2017), vì nó đã góp phần không nhỏ vào việc đưa
văn hóa Việt Nam đến với thế giới (VNS, 2017).
Những đóng góp của Kazik không chỉ được nhìn nhận và đánh giá cao bởi những đồng bào của
ông, mà nó còn đi vào tiểu thuyết của những người bạn trên quê hương thứ hai của ông. Tiểu thuyết
Trùng tu của Thái Bá Lợi không chỉ nêu bật những yêu cầu thiết yếu của việc trùng tu Cố đô Huế sau
những biến thiên của lịch sử, mà còn dành cho Kazik một vị thế rất đàng hoàng trong lịch sử phục dựng
và bảo tồn các giá trị văn hóa và di tích lịch sử của kinh đô một thời của đất nước (Nguyễn Thụy Kha,
2018). Cho dù người Việt Nam đánh giá cao công lao to lớn của Kazik đối với sự nghiệp văn hóa của
dân tộc mình (Cục Hợp tác quốc tế, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, 2017), nhưng rất ít nhà văn hóa
91
ngoại quốc lại có thể được tiểu thuyết hóa đến mức tôn thờ như Kazik ở Việt Nam. Điều đó một lần nữa
khẳng định những cống hiến của Kazik không chỉ là một tấm gương đáng ngưỡng mộ đối với nhiều thế
hệ về sau (Nguyen, Hiro), mà còn trở thành một con đường văn hóa rất triển vọng. Đó trong thực tế cũng
chính là thông điệp Huế mong muốn nhận được nhiều sự giúp đỡ và các mối quan hệ hợp tác hơn nữa từ
Ba Lan không chỉ trên lĩnh vực văn hóa, mà còn trên nhiều phương diện khác nữa (Phòng Hợp tác - Đối
ngoại, 2017).
3. Kết luận
Xét về tổng thể, tổng thời gian Kazik ở Huế và chính thức làm việc cho Huế không nhiều trong so sánh
với Quảng Nam và một số nơi khác. Cho dù Kazik đã có nhiều hoạt động chuyên môn ở Huế theo lời
kêu gọi của UNESCO từ năm 1981, nhưng các mối quan hệ hợp tác văn hóa trên lĩnh vực trùng tu, bảo
tồn, và bảo vệ các di tích lịch sử và di sản văn hóa giữa Huế và các bên liên quan của Ba Lan chỉ thực sự
bắt đầu từ năm 1988. Từ đó, Kazik có tham gia vào công tác trùng tu các di tích ở Huế, nhưng thời gian
chủ yếu của ông vẫn làm việc ở Mỹ Sơn, Hội An, và nhiều nơi khác nữa. Khoảng thời gian Kazik thực
sự tập trung làm việc cho Huế là những năm tháng cuối đời. Mặc dù khoảng thời gian Kazik chính thức
làm việc cho Huế không nhiều, nhưng sự gắn bó của ông đối với các di tích lịch sử và di sản văn hóa của
Huế là rất sâu đậm. Những đóng góp của ông cho sự nghiệp bảo tồn văn hóa Việt Nam và mối quan hệ
hợp tác văn hóa giữa Việt Nam và Ba Lan là hết sức ấn tượng và sâu sắc. Điều này được thể hiện trên rất
nhiều phương diện khác nhau, nhưng quan trọng nhất là Kazik đã góp phần đưa Quần thể di dích Cố đô
Huế trở thành di sản văn hóa thế giới, truyền bá nhiều kỹ thuật và công nghệ trùng tu di tích hiện đại của
châu Âu cho các chuyên gia của Huế, đào tạo nhiều cán bộ trùng tu cho Thừa Thiên Huế, kêu gọi được
nhiều dự án đầu tư và hỗ trợ tài chính từ bên ngoài cho việc bảo tồn các di sản văn hóa của Huế, và tiếp
tục duy trì và phát triển hơn nữa các mối quan hệ hợp tác văn hóa giữa Việt Nam và Ba Lan trên địa bàn
tỉnh Thừa Thiên Huế. Những đóng góp của Kazimierz Kwiatkowski (1944-1997) đối với các mối quan
hệ hợp tác văn hóa giữa Việt Nam và Ba Lan trong thời gian ở Huế chính vì thế là rất rõ ràng và đậm nét
(Sở Du lịch Thừa Thiên Huế, 2017) và là một trong những điểm chấm phá của mối quan hệ hữu nghị
truyền thống giữa Việt Nam và Ba Lan. Những cống hiến của Kazimierz Kwiatkowski đã chứng minh
rằng những nỗ lực chân chính của dù chỉ một con người cũng có thể góp phần xây dựng và phát triển các
mối quan hệ hữu nghị và gắn bó giữa hai nước xa xôi hiệu quả như thế nào (Thu Phương, 2017).
92
kazimiers-kawiatkowski-ba-lan-nguoi-co-cong-lon-trong-bao-ton-di-tich-co-do-hue-522155.vov (truy
cập ngày 8 tháng 7 năm 2021).
8. Sông Hương (2017, ngày 21 tháng 3, 08:35 AM), Thừa Thiên Huế: Tưởng nhớ 20 năm
ngày mất Kiến trúc sư Ba lan Kazimierz Kwiatkowski, trong: https://tinhuytthue.vn/tin-tuc-trong-
tinh/van-hoa-du-lich/thua-thien-huetuong-nho-20-nam-ngay-mat-kien-truc-su-ba-lan-kazimierz-
kwiatkowski.html (truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2021).
9. Nguyễn Thụy Kha (2018, ngày 03 tháng 02), Trùng tu thành Huế – Nhớ về KTS Kazik,
trong: https://www.tapchikientruc.com.vn/chuyen-muc/trung-tu-thanh-hue-nho-ve-kts-kazic.html (truy
cập ngày 8 tháng 7 năm 2021).
10. Phương Lan (2018, ngày 22 tháng 6, 15:50 PM), Trao Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp
Văn hóa, Thể thao và Du lịch” cho Đại sứ Ba Lan tại Việt Nam, trong: https://bvhttdl.gov.vn/trao-ky-
niem-chuong-vi-su-nghiep-van-hoa-the-thao-va-du-lich-cho-dai-su-ba-lan-tai-viet-nam-622100.htm
(truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2021).
11. Nguyen, Hiro. Kiến trúc sư Kazik – Người đưa di sản miền Trung vươn tầm thế giới,
trong: https://nhadatmoi.net/tin-tuc/kien-truc-su-kazik.html (truy cập ngày 08 tháng 7 năm 2021).
12. Phòng Hợp tác - Đối ngoại (2017, ngày 28 tháng 4, 09:41:08 AM), Kazimierz
Kwiatkowski - người hồi sinh và đưa di sản Việt Nam ra thế giới, trong:
http://hueworldheritage.org.vn/TTBTDTCDH.aspx?TieuDeID=127&TinTucID=2646&l=vn (truy cập
ngày 8 tháng 7 năm 2021).
13. Thu Phương (2017, ngày 24 tháng 3, 10:14 AM), Tưởng nhớ kiến trúc sư Ba Lan góp
phần bảo tồn phố cổ Hội An, trong: http://www.baovinhlong.com.vn/van-hoa-giai-tri/201703/tuong-
nho-kien-truc-su-ba-lan-gop-phan-bao-ton-pho-co-hoi-an-2793784/#.YOZ_ydRMTIU (truy cập ngày 8
tháng 7 năm 2021).
14. Sở Du lịch Thừa Thiên Huế (2017, ngày 22 tháng 3), Cố kiến trúc sư Kazimierz
Kwiatkowski - Hiệp sĩ của di sản miền Trung, trong:
https://sdl.thuathienhue.gov.vn/?gd=7&cn=85&tc=1699 (truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2021).
15. Sở Ngoại vụ Thừa Thiên Huế (2017, ngày 24 tháng 03), Thừa Thiên Huế: Tưởng nhớ 20
năm ngày mất Kiến trúc sư Ba lan Kazimierz Kwiatkowski, trong:
https://sngv.thuathienhue.gov.vn/?gd=11&cn=28&tc=2948 (truy cập ngày 08 tháng 01 năm 2023).
16. Hoàng Sơn (2022, ngày 30 tháng 4, 09:51 AM), “Hiệp sĩ di tích” trong lòng bạn bè:
Người thầy đầu tiên, trong: https://thanhnien.vn/hiep-si-di-tich-trong-long-ban-be-nguoi-thay-dau-tien-
post1453914.html (truy cập ngày 08 tháng 01 năm 2023).
17. T.P (2017, ngày 24 tháng 3, 11:58 AM), Kazimierz Kwiatkowski – người bạn lớn của Việt
Nam, trong: https://baoquocte.vn/kazimierz-kwiatkowski-nguoi-ban-lon-cua-viet-nam-46454.html (truy
cập ngày 8 tháng 7 năm 2021).
18. Quang Tám và Hồng Nam (2017, ngày 19 tháng 3, 21:04 PM), Tưởng niệm Kazik - người
hồi sinh và đưa di sản Việt Nam ra thế giới, trong: https://baophapluat.vn/tuong-niem-kazik-nguoi-hoi-
sinh-va-dua-di-san-viet-nam-ra-the-gioi-post241934.html (truy cập ngày 08 tháng 7 năm 2021).
19. Văn Thắng (2017, ngày 19 tháng 3, 17:15 PM), Tưởng niệm 20 năm ngày mất kiến trúc
sư Kazimierz Kwiatkowski, trong: https://www.sggp.org.vn/tuong-niem-20-nam-ngay-mat-kien-truc-su-
kazimierz-kwiatkowski-439183.html (truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2021).
20. Phan Bùi Bảo Thi (2018, ngày 11 tháng 9, 08:47 AM), Kazik - người nặng lòng với di
sản miền Trung, trong: https://giaoducthoidai.vn/van-hoa/kazik-nguoi-nang-long-voi-di-san-mien-
trung-3754914.html (truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2021).
21. Nguyễn Thúc (2017, ngày 27 tháng 11, 20:05 PM), Trang mới trong quan hệ Việt Nam -
Ba Lan, trong: https://nhandan.vn/xa-luan/trang-moi-trong-quan-he-viet-nam-ba-lan-310580/ (truy cập
ngày 8 tháng 7 năm 2021).
22. Lê Hải Triều và Phạm Thế Phương (2015), Báo cáo Hồ sơ thị trường Ba Lan, Dự án hỗ
trợ chính sách thương mại và đầu tư của châu Âu, Bản cuối cùng, Hà Nội, tr. 17.
93
23. Hồ Trọng (2017, ngày 26 tháng 4, 06:42 AM), Chuyên gia Ấn Độ trùng tu tháp Mỹ Sơn
trong vòng 5 năm, trong: https://thanhnien.vn/van-hoa/chuyen-gia-an-do-trung-tu-thap-my-son-trong-
vong-5-nam-829337.html (truy cập ngày 08 tháng 7 năm 2021).
24. TV (2017, ngày 23 tháng 3, 20:40 AM), Tưởng nhớ ông Kazimiers Kwiatowski - Người
bạn lớn của Việt Nam, trong: http://vufo.org.vn/Tuong-nho-ong-Kazimiers-Kwiatowski---Nguoi-ban-
lon-cua-Viet-Nam-11-2836.html?lang=vn (truy cập ngày 08 tháng 7 năm 2021).
25. Đồng Văn (2017, ngày 19 tháng 3, 15:06 PM), Tưởng nhớ Kazimierz Kwiatkowski -
người hồi sinh và đưa di sản Việt Nam ra thế giới, trong: https://baothuathienhue.vn/tuong-nho-
kazimierz-kwiatkowski-nguo-i-ho-i-sinh-va-dua-di-sa-n-vie-t-nam-ra-the-gio-i-a39783.html (truy cập
ngày 8 tháng 7 năm 2021).
26. Quốc Việt (2017, ngày 19 tháng 3, 18:17 PM), Tưởng nhớ kiến trúc sư Ba Lan có công
lớn trong bảo tồn di tích Huế, trong: https://www.vietnamplus.vn/tuong-nho-kien-truc-su-ba-lan-co-
cong-lon-trong-bao-ton-di-tich-hue/436537.vnp (truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2021).
27. VNS (2017, ngày 1 tháng 9), Việt Nam vinh danh kiến trúc sư Ba Lan Kazik, trong:
http://sonchongchay3p.vn/viet-nam-vinh-danh-kien-truc-su-ba-lan-kazik.htm (truy cập ngày 8 tháng 7
năm 2021).
28. VOV (2017, ngày 20 tháng 3), Kiến trúc sư Kazimiers Kawiatkowski (Ba Lan), người có
công lớn trong bảo tồn di tích Cố đô Huế, trong: https://vovworld.vn/vi-VN/van-hoa/kien-truc-su-
kazimiers-kawiatkowski-ba-lan-nguoi-co-cong-lon-trong-bao-ton-di-tich-co-do-hue-522155.vov (truy
cập ngày 8 tháng 7 năm 2021).
29. WUFO (2020, ngày 8 tháng 12, 09:42 PM), Việt Nam và Ba Lan - 70 năm tình hữu nghị
thủy chung, son sắt, trong: http://vufo.org.vn/Viet-Nam-va-Ba-Lan---70-nam-tinh-huu-nghi-thuy-
chung-son-sat-11-5199.html?lang=vn (truy cập ngày 08 tháng 7 năm 2021).
94
TÍNH “LẠ” TRONG NGHỆ THUẬT TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA
TÓM TẮT
Mỹ thuật thời kỳ đổi mới ở Hà Nội sau năm 1986 là một giai đoạn phát triển đầy hứng khởi trong
lịch sử mỹ thuật Việt Nam. Một bầu không khí nghệ thuật sôi động được khuyến khích bằng sự phát triển
mạnh mẽ của thị trường nghệ thuật nhờ số lượng khách du lịch nước ngoài đến Việt Nam. Sự lạ lẫm của
những hình ảnh mang âm hưởng bản địa đầy tính ngoại lai hấp dẫn những vị khách nước ngoài đã vốn
có thói quen thưởng thức những thứ không quen thuộc với họ. Nhưng dần dần, tính lạ đó bị mất đi do sự
thiếu chuyên nghiệp từ chính các họa sĩ. Từ việc giới thiệu khái quát về chủ nghĩa ngoại lai ở châu Âu,
tác giả đi vào đặc điểm của mỹ thuật Hà Nội thời kỳ đổi mới, để từ đó lý giải phần nào sự sa sút của thị
trường mỹ thuật dưới góc độ văn hóa.
Từ khóa: chủ nghĩa ngoại lai, mỹ thuật thời kỳ đổi mới.
1. Đặt vấn đề
Chủ nghĩa ngoại lai (Exoticism) - hay được người viết xem là tính “lạ”- là những phẩm chất khác
thường và hứng khởi do có nguồn gốc từ những nền văn hóa khác, đặc biệt là từ những nước nhiệt đới.
Xuất phát từ những nghiên cứu về mỹ thuật trong thời kỳ đổi mới ở Hà Nội, người viết nhận ra sự phát
triển nhanh chóng của thị trường mỹ thuật Việt Nam lúc đó có được phần nào nhờ sự ưa thích tính lạ của
người nước ngoài- vốn đã ăn sâu trong thói quen thưởng thức nghệ thuật của họ, rồi dần giảm sút đi khi
tính lạ trong các sáng tạo mỹ thuật mất đi.
5. Kết luận
Có thể thấy rằng, văn hóa Việt Nam có sức hấp dẫn nhất định đối với du khách nước ngoài khi đến
với Việt Nam. Nắm bắt được thực tế đó, mỹ thuật Hà Nội thời kỳ đổi mới cũng đã có một giai đoạn phát
triển nhanh chóng từ việc sáng tạo những tác phẩm nghệ thuật với các mô típ truyền thống, hình ảnh
mang âm hưởng đặc trưng của văn hóa Việt Nam. Những số liệu về giá cả mua bán những tác phẩm mỹ
thuật được công bố chính thức trên tạp chí chuyên ngành lúc đó phần nào cho thấy thực tế đó. Nhưng
chính sự khai thác quá mức dẫn đến dễ dãi trong sáng tạo, phương pháp làm việc không chuyên nghiệp
đã khiến cho những hình ảnh đó không còn độc, “lạ” như trước. Thị trường mỹ thuật giảm sút ở những
năm cuối của thời kỳ đổi mới mà hậu quả của nó còn kéo dài cho đến tận bây giờ. Phải chăng cần có
những hướng đi mới, tìm tòi những cách thể hiện mới đủ “lạ” để hấp dẫn công chúng thưởng thức nghệ
thuật ngoài nước và tìm lại sự hứng khởi cho thị trường mỹ thuật.
98
3. Hội Nghệ sĩ Tạo hình Việt Nam (1993), 35 năm Hội Nghệ sĩ tạo hình Việt Nam, 1957-
1992. Hà Nội
4. Nhiều tác giả (1991), Việt Nam đổi mới kinh tế nhìn từ nước ngoài, Sự thật, H.
5. Số liệu thống kê tài chính Việt Nam qua 20 năm đổi mới 1986-2006 (2007), Hà Nội. H.
6. Sở Du lịch Hà Nội (1996), Hà Nội- Trung tâm của Du lịch Việt Nam, Thế giới. H.
7. Quang Việt (4/1994), A! Galơry, Tạp chí Mỹ thuật Thời nay. 4.
Tài liệu tiếng Anh
8. Diepeveen, L., & Van Laar,T. (2001), Art with a difference: Looking at difficult and
unfamiliar art, New York: McGraw-Hill.
9. “Exoticism”, truy cập ngày http://www.artandpopularculture.com/Exoticism.
10. Taylor, N. (2005), “Why have there been no great Vietnamese artists?”, Michigan
Quarterly Review. (XLIV).
99
VAI TRÒ CỦA “THANH HỌC” TRONG QUAN HỆ NGOẠI GIAO
GIỮA JOSEON VÀ NHÀ THANH (TRUNG QUỐC) QUA TÁC PHẨM
TRIỀU TIÊN VƯƠNG TRIỀU THỰC LỤC (조선왕조실록)
La Duy Tân1*, Nguyễn Trung Hiệp2, Trần Minh Quý2, Phùng Thị Thanh Xuân2
1
Khoa Ngôn Ngữ và Văn hoá Hàn Quốc, Trường Đại học Văn Lang
2
Khoa Hàn Quốc học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh
*Tác giả liên hệ: Điện thoại: 0919 337 441; Email: tan.ld@vlu.edu.vn
TÓM TẮT
Sau hai cuộc chinh phạt của người Mãn Châu đối với Joseon năm 1627 (Byeongjahoran) và 1634
(Jeongmyohoran), chấp nhận hay bác bỏ quyền bá chủ của nhà Thanh ở khu vực Đông Á trở thành xu
hướng đấu tranh chính trị giữa một số phe phái trong chính quyền trung ương Joseon. Sau khi nhà Minh
sụp đổ hoàn toàn vào giữa thế kỉ XVII, bất chấp sự xuất hiện của các tư tưởng chống lại quyền bá chủ
nhà Thanh, Joseon không thể giúp đảo ngược số phận của nhà Minh hay thể hiện bất cứ năng lực nào
khả dĩ chống lại sức mạnh của đế chế Mãn Châu.
Hoàng đế nhà Thanh cùng với quan chức đứng đầu nhà nước vào thời điểm thành lập đế quốc hầu
hết không phải là người Hán nhưng tiếng Hán vẫn được sử dụng để giao tiếp giữa nhà Thanh và Joseon
cũng như các nước phiên thuộc khác. Vì ngôn ngữ của người Hán đã là ngôn ngữ quốc tế “phổ quát”
truyền thống trong khu vực. Với kinh nghiệm đau thương trong hai cuộc xâm lược của người Mãn Châu,
tầng lớp thống trị Joseon vẫn duy trì tư tưởng chống đối nhà Thanh mạnh mẽ. Sự ngờ vực của Joseon
đối với nhà Thanh tiếp tục duy trì trong hàng trăm năm. Trong bối cảnh đó, Triều Tiên Vương Triều Thực
Lục đã chỉ ra nhu cầu sử dụng thành phần học giả mới hỗ trợ công việc hiệu quả khi làm việc với vua
quan nhà Thanh, ngăn chặn nguy cơ có thể xảy ra do hiểu lầm trong giao tiếp giữa hai quốc gia.
Bài viết này khám phá bối cảnh lịch sử cho sự ra đời của ngành Thanh học (淸學) tại Joseon, đồng
thời xem xét vai trò của ngành ngày trong quan hệ ngoại giao giữa Joseon và nhà Thanh trong thế kỉ
XVII và XVIII.
Từ khoá: triều Joseon, nhà Thanh, tiếng Mãn Châu, Thanh Học (淸學)), triều Tiên Vương Triều
Thực Lục.
1. Dẫn luận
Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam được xem là bốn quốc gia “đồng văn”, chia sẻ nhiều
tương đồng về văn hoá, xã hội trong bối cảnh khu vực chung với nhiều liên kết khắn khít. Bài nghiên
cứu này đề cập đến các liên kết trực tiếp cũng như gián tiếp diễn ra tại bốn quốc gia trong khoảng nửa
sau thế kỉ XVII đến hết thế kỉ XVIII tính từ cuộc chiến tranh xâm lược của Nhật Bản đối với vương triều
Joseon. Sự kiện này được lịch sử Hàn Quốc gọi là cuộc chiến Nhâm Thìn Oa Loạn (1592 – 1598). Thông
qua đó, tác giả đề cập đến một hiện tượng ngôn ngữ mới trong bối cảnh chuyển giao quyền lực bá chủ
khu vực giữa đế quốc Minh (Trung Quốc) và nhà Hậu Kim (sau là nhà Thanh) của thế lực người Nữ
Chân (Mãn Châu).
Nhâm Thìn Oa Loạn, trước hết là sự kiện lịch sử mang tác động chính trị khu vực quan trọng trực
tiếp đến ba quốc gia Đông Á tham chiến là Nhật Bản, Joseon và Trung Quốc dưới thời nhà Minh. Gần
đây, tác giả La Duy Tân còn lý luận khả năng sự kiện này có ảnh hưởng gián tiếp đến tình hình chính trị,
kinh tế Đàng Trong trên đất Đại Việt dưới triều Hậu Lê (라 유이 떤 (La Duy Tân) 2022: 33 -35). Không
chỉ thế, nhiều bài nghiên cứu của học giả Việt Nam và Hàn Quốc cũng chỉ ra mối quan tâm của Joseon
xuyên suốt quá trình hình thành và phát triển của triều đại đối với Đại Việt (Việt Nam). Mối quan tâm
của Joseon tìm thấy nhiều nhất trong xu hướng ứng xử giữa Việt Nam với các triều đại Trung Quốc. Các
100
nghiên cứu có thể kể đến như của No Tae Hwan (노대환 2011: 139 – 169), Park Hui Byung (박희병
2009: 161), Choi binara (최빛나라 2022: 150 - 151), La Duy Tân (라 유이 떤 2022: 123 -132),…
Với đặc điểm địa - chính trị tương đồng, tiếp giáp và liên tục giao lưu trao đổi với Trung Quốc,
Việt Nam và Hàn Quốc không phải ngẫu nhiên mà chia sẻ và đồng cảm lẫn nhau trên nhiều phương diện.
Năm 2022 đánh dấu 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Hàn Quốc tính từ năm 1992.
Nhân sự kiện ngoại giao trọng đại đó, nhà nghiên cứu hai nước đặt ra nhu cầu phải nhìn nhận và xem xét
sâu hơn các mối liên hệ lịch sử, nhất là các mối liên hệ về địa - chính trị trong khu vực và trên trường
quốc tế để định hướng chiến lược hợp tác toàn diện trong tương lai (현인그룹 (Hyeon-in Group) 2022:
42). Để làm được điều này, chúng ta cần học hỏi những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ, soi chiếu và dự
đoán xu hướng biến động của hiện tại và tương lai gần. Xác lập sự giao thoa, đối thoại giữa quá khứ,
hiện tại và tương lai là vai trò sứ mệnh của người nghiên cứu lịch sử. Sứ mệnh này được nhà triết gia sử
học E.H. Carr nêu rõ trong quyển “Lịch sử là gì?” (What is history?) cũng chính là cảm hứng của tác giả
khi chọn viết đề tài này (E.H. Carr 2014: 171).
Như vậy, bài viết tuy là nghiên cứu lịch sử thuần tuý nhưng lại có tính gợi mở tới hiện tại, là một
nghiên cứu trường hợp (case study) về vai trò của việc học và nghiên cứu văn hoá nước ngoài trong bối
cảnh quốc tế có nhiều biến động. Nghiên cứu này đặt trong bối cảnh nhà Thanh đã hoàn thành vai trò
thống trị của mình trong khu vực Đông Á nhưng ngôn ngữ Mãn Châu không được xem là ngôn ngữ phổ
quát, tiếng Trung của người Hán vẫn là ngôn ngữ “quốc tế” vào thời đó. Nghiên cứu trường hợp (case
study) về ngành Cheonghak (Thanh học 淸學) thời Joseon thế kỉ thứ XVII - XVIII, tác giả liên tưởng
đến thời đại sống đương thời của bản thân – nơi mà giao lưu văn hoá, kinh tế, chính trị diễn ra không
ngừng với các cường quốc liên tục cạnh tranh vị thế, ảnh hưởng lẫn nhau.
2. Bối cảnh tiếp thu ngôn ngữ và văn hoá Mãn Châu ở thời trung kì Joseon
2.1 Tình hình chính trị khu vực Đông Á
Theo nghiên cứu của Han Myung Ki trong công trình “Nhâm Thìn Oa Loạn và quan hệ Joseon -
Trung Quốc” (임진왜란과 한중관계, 1999) và “Nhâm Thìn Oa Loạn và quan hệ Joseon – Nhật Bản”
(임진왜란과 한일관계, 2005) liên quan đến ảnh hưởng của cuộc chiến tranh Nhâm Thìn Oa Loạn, tình
hình chính trị khu vực Đông Á diễn ra nhiều biến động với sự xoay trục quyền lực mạnh mẽ giữa các
nước trong khu vực. Nhà Minh suy yếu nhưng phải gồng gánh chi phí chiến tranh, hỗ trợ nhân lực giúp
Joseon vượt qua cuộc chiến tranh xăm lược tàn khốc của Nhật Bản. Điều này tạo khoảng trống quyền
lực tại lục địa Trung Hoa. Sau cuộc chiến, nhà Minh không còn đủ khả năng khống chế các bộ lạc biên
cương, khiến cho một trong những thế lực đó là người Nữ Chân sống ở vùng Đông Bắc nổi dậy, thành
lập nhà nước Hậu Kim. Quốc gia của người Nữ Chân này ngày càng lớn mạnh kể từ sau chiến tranh
Nhâm Thìn Oa Loạn, liên tục đối đầu, cuối cùng tiêu diệt nhà Minh trong thế kỉ XVII (라 유이 떤 (La
Duy Tân) 2022: 63 – 66).
Lịch sử Nhật Bản ghi lại những chuyển biến chính trị quan trọng diễn ra tại Nhật Bản sau thất bại
của Toyotomi Hideyoshi trong chiến dịch chinh phạt Joseon. Nhiều nhà nghiên cứu Hàn Quốc, Nhật
Bản, Trung Quốc đều cho rằng cuộc chiến tranh xâm lược Joseon cuối thế kỉ XVI có mục đích lớn nhất
là khuyếch trương sức mạnh của Nhật Bản vào trong đại lục, thay đổi cán cân quyền lực bá chủ khu vực
mà các hoàng triều Trung Quốc nắm giữ nhiều thế kỉ. Bên cạnh đó, cuộc chiến còn giúp Hideyoshi giảm
bớt áp lực do các thế lực hải tặc Nhật Bản trong nước nhằm ổn định tình hình nước Nhật sau giai đoạn
chiến quốc kéo dài trước đó. Tuy nhiên, việc Hideyoshi tử trận trong cuộc chiến đánh dấu “sự tạm hoãn”
tham vọng của Nhật Bản đối với đại lục, đồng thời dẫn đến quá trình chuyển giao quyền lực shogun giữa
dòng họ Toyotomi và dòng họ Tokugawa. Cũng như Hideyoshi, sau khi thành lập, Mạc phủ Edo cần phải
đối phó với nhiều vấn đề, trong đó, chính sách làm suy giảm thế lực cướp biển Nhật Bản giữ vai trò quan
trọng trong việc ổn định chính trị quốc gia. Chính sách đóng cửa, triển khai Châu ấn thuyền của Nhật
Bản trong thế kỉ XVII - XVIII phản ánh mục đích này của Mạc Phủ Edo (Đinh Thị Lệ Thu, 2009: 27).
101
Tuy không rõ liệu có sự liên kết giữa thế lực Nhật Bản và thế lực Nữ Chân ở vùng Đông Bắc của
Trung Quốc dưới thời nhà Minh, nhưng có thể thấy sự trỗi dậy của hai nhóm thế lực này góp phần vào
sự suy thoái toàn diện của nhà Minh, thay đổi hoàn toàn cục diện địa chính trị khu vực. Nhật Bản thất
bại tại cuộc chiến với Joseon cùng tham vọng chinh phục đại lục nhưng lại tạo thời cơ cho các bộ lạc Nữ
Chân liên kết, hình thành nên nhà nước mới. Nhà nước của người Nữ Chân thôn tính dần lãnh thổ của
nhà Minh, khuếch trương để khẳng định vị thế mới trong khu vực Đông Á (한명기 (Han Myung Ki)
1999: 225 - 266).
2.2 Tình hình Joseon sau chiến tranh Nhâm Thìn Oa Loạn
Joseon là một trong các triều đại lâu đời nhất của lịch sử Hàn Quốc, kéo dài xuyên suốt gần 500
năm (từ cuối thế kỉ XIV đến thập niên đầu của thế kỉ XX) do một dòng họ nắm quyền chính thống. Cơ
sở Dữ liệu Lịch sử Quốc gia của Hàn Quốc (한국사데이터베이스) chia vương triều với lịch đại tương
đối dài này thành ba giai đoạn lớn: Joseon sơ kì, Joseon trung kì và Joseon hậu kì. Trong đó, khác với
thời kì Joseon sơ kì khi mà quyền lực tập trung toàn vẹn vào tay người đứng đầu vương quốc, Joseon
trung kì được miêu tả là thời kì có nhiều biến động trong nội tại chính quyền. Giai đoạn này theo Cơ sở
Dữ liệu Lịch sử Quốc gia của Hàn Quốc rơi vào khoảng giữa thế kỉ XV, kéo dài đến thế kỉ thứ XVI với
các tranh chấp quyền lực giữa hai thế lực chính trị lớn là phái Huấn Cựu và phái Sĩ Lâm dẫn đến các
cuộc chính biến Sahwa (Sĩ hoạ) (국사편찬위원회 (Uỷ ban Biên soạn Quốc sử Hàn Quốc). (2023/01/12)
『신편한국사』 (Lịch sử Hàn Quốc Tân Biên).
http://contents.history.go.kr/mobile/nh/view.do?levelId=nh_001_0040_0040_0030). Tuy nhiên, với
cách nhìn của người quan sát lịch sử Hàn Quốc từ bên ngoài, tác giả cho rằng thời kì trung kì Joseon có
thể được xem xét cụ thể xoay quanh sự kiện lịch sử mang tính chính trị khu vực quan trọng là Nhâm
Thìn Oa Loạn (1592 – 1598). Bởi vì dù trước đó lịch sử Hàn Quốc chứng kiến nhiều cuộc tranh chấp
giữa các thế lực thì bản chất xã hội, tầng lớp thống trị Joseon vẫn tương đối ổn định.
Sau khi kết thúc Nhâm Thìn Oa Loạn (1592 – 1598). vương quyền Joseon thực sự bị thách thức,
nhiều biến loạn có thể kể đến như sự kiện Nhân Tổ Phản Chính (인조반정 仁祖反正) năm 1623, Đinh
Mão Hồ Loạn (정묘호란 丁卯胡亂) năm 1627, Bính Tý Hồ Loạn (병자호란丙子胡亂) năm 1636 –
1637 (김경란 (Kim Gyeong Ran) 2011: 131). Các sự kiện này đều trực tiếp liên quan đến sự chối bỏ,
xem thường vị thế mới nổi của thế lực Mãn Châu – nhà Thanh (Trung Quốc) của giai cấp cầm quyển.
Nhiều hệ tư tưởng đóng vai trò chủ lưu xuyên suốt có thể kể đến như tư tưởng Thân Minh sự đại
(친명사대 親明事大) hay Đãi Minh nghĩa lý luận (대명의리론 對明義理論). Sau sự kiện nhà Thanh
chinh phạt năm 1627, quan hệ triều cống giữa Joseon và nhà Minh8 chấm dứt hoàn toàn. Joseon chính
thức trở thành quốc gia thực hiện triều cống và nhận sắc phong của nhà Thanh kể từ đời vua Nhân Tổ
(Injo) (Ki-baik Lee 2002: 307 -308). Tiếp đó, sau năm 1647, khi đã hoàn thành sự nghiệp thống nhất
lãnh thổ, tiêu diệt chế độ tàn dư của nhà Minh, nhà Thanh chiếu cáo các nước trong vùng, lấy Joseon làm
hình mẫu cho các nước noi theo thuần phục: “Các quốc gia ở biển Đông Hải như An Nam, Ai Lao, Nhật
Bản, người dân ở các vùng phụ cận Chiết Giang,… hiểu được chính nghĩa của Triều đình mà quy phục
sẽ được nhận sắc phong và ưu đãi như Triều Tiên. Tất cả đều được bao dung, tiếp nhận” (東南海外琉
球、安南、遏羅、日本諸國, 附近浙閩, 有慕義投誠納款來朝者, 地方官即為奏達, 與朝鮮等國一
體優待, 用普懷柔) (于燕 (Yu Yan) 2007: 13). Điều này cho thấy kể từ sau sự kiện Bính Tý Hồ Loạn,
nhà Thanh nhận định vương triều Joseon là quốc gia kiểu mẫu tiếp nhận vị trí bá chủ khu vực và văn hoá
Mãn Châu của họ. Tuy nhiên, với những trắc trở về mặt chính trị cũng như khác biệt về văn hoá vốn có
từ lâu đời, quá trình tiếp nhận ngôn ngữ hay văn hoá Mãn Châu trong vương quốc Joseon trải qua nhiều
thăng trầm. Mãi cho đến tận thế kỉ XIX, khi học thuyết Bắc học (북학) lên ngôi, dần thay thế học thuyết
8
Lúc này thu nhỏ lại thành Nam Minh, đóng đô tại Nam Kinh.
102
Bắc Phạt (북벌) thì tư tưởng đối đầu, phủ nhận văn hoá nhà Thanh mới dần hạ nhiệt (허태용 (Heo Tae
Yong, 2010: 373 - 374).
Bên cạnh các hỗn loạn nội tại, Joseon còn phải đối đầu với các thách thức mới trong khu vực. Nhâm
Thìn Oa Loạn đánh dấu tham vọng lần đầu tiên của Nhật Bản khuếch trương sức mạnh quân sự vào đại
lục châu Á. Trước cuộc chiến tranh, quan hệ của Joseon với các quốc gia trong khu vực tương đối ổn
định, nhất là Quan hệ Sự đại (phụng sự nước lớn) với quốc gia tôn chủ triều Minh Trung Quốc. Lý Thành
Quế (Yi Seong-gye, 1335-1408) từ khi thành lập vương triều Joseon đã đặt nền móng đầu tiên và quyết
định đặc trưng của mối quan hệ hữu hảo với Trung Hoa là “phụng sự nước lớn” (임대식 (Lim Dae Sik)
1999: 207). Trong Triều Tiên Vương Triều Thực lục, ông nhấn mạnh mối quan hệ sự đại với Trung Quốc
có tính truyền thống kế thừa, ảnh hưởng sâu sắc đến sự tồn vong quốc gia (국사편찬위원회 (Ủy ban
Biên soạn Quốc sử Hàn Quốc). (2023/01/12). 『조선왕조실록』 『태조실록』 (Triều Tiên Vương
Triều Thực Lục, Thái Tổ Thực Lục). http://sillok.history.go.kr/id/waa_000084).9 Thế nhưng, do chấn
động của cuộc chiến tranh xâm lược của Nhật Bản cuối thế kỉ 16, thế giới quan ngoại giao khu vực của
nhà Lý Joseon dần thay đổi, đặc biệt trong giai đoạn chuyển giao quyền lực giữa nhà Thanh và nhà Minh
trong thế kỉ thứ 17.
3. Nhận thức về Mãn Châu và nhu cầu nghiên cứu tiếng Mãn Châu qua tác phẩm Triều
Tiên Vương Triều Thực Lục (Joseon Wangjo Sillok)
3.1 Sơ lược về người Nữ Chân và ngôn ngữ Mãn Châu
Theo Triều Tiên Vương Triều Thực Lục (Joseon Wangjo Sillok), người Nữ Chân sống ở miền Đông
Bắc của nhà Minh, khu vực tiếp giáp với Joseon. Ghi chép trong thời vua Thành Tông (Seongjong) năm
1479 có đoạn: “Người mọi ở Kiến Châu (建州) thường hay xâm phạm biên giới của Trung Quốc, triều
đình đã nhiều lần muốn cử quân chinh phạt, thế nhưng nếu họ quy thuận, triều cống lễ vật thì triều đình
sẽ cho nhiều ưu đãi, trọng thưởng và ban chức thái thú; nhưng lũ người mọi rợ đó không hiểu ơn của
Hoàng đế, vẫn tiếp tục xâm phạm biên giới như trước nay” (建州衛 野人, 曾犯上國之境, 朝廷欲興兵
勦滅, 緣本人等歸順進貢, 故從優賞賜, 不次除職, 野人不念皇恩, 似前犯邊) (국사편찬위원회 (Ủy
ban Biên soạn Quốc sử Hàn Quốc). (2023/01/12).『조선왕조실록』 『성종실록(成宗實錄)』 (Triều
Tiên Vương Triều Thực Lục, Thành Tông Thực Lục), http://sillok.history.go.kr/id/kia_11010111_001).
Người Nữ Chân từ thời Nam Bắc Triều10 là một sắc dân thiểu số, vị trí xã hội thấp trong nhà nước Bột
Hải (Balhae)11. Đến thời Goryeo, sau khi Bột Hải sụp đổ, người Nữ Chân sống rải rác dọc biên giới Cao
Ly (Goryeo), họ thường thực hiện cuộc tấn công cướp gia sản và người, triều đình nhiều lần mang quân
bình định (김구진 (Kim Gu Jin, 2004: 290). Đến thời Joseon, nhiều chứng cứ còn chỉ ra mối liên hệ giữa
lực lượng Oa Khấu (cướp biển người Nhật Bản) với các lực lượng người Nữ Chân ở các vùng duyên hải
của Joseon. Như vậy, người Nữ Chân - tiền thân của người Mãn Châu - có nhiều tương tác với người
dân sinh sống trên bán đảo Triều Tiên từ thời các quốc gia cổ đại. Đến thời Joseon hình ảnh của họ đối
với vương triều Joseon vẫn rất tiêu cực. Đây cũng là một trong các lí do khiến Joseon kiên trì theo đuổi
những giá trị mà nhà Minh đã tạo ra bao gồm thi ca, văn học, ngôn ngữ,…, thậm chí sau cả khi nhà Minh
sụp đổ hoàn toàn vào nữa sau thế kỉ XVII.
Chủ nhân của ngôn ngữ Mãn Châu chính là hậu duệ của người Nữ Chân được nhắc đến nhiều trong
thư tịch của các vương triều trên bán đảo Triều Tiên. Tuy nhiên, chữ “Mãn Châu” được bắt đầu dùng từ
9
Trích ban bố của Lý Thành Quế: “以小事大, 保國之道” (Sự đại là con đường bảo tồn quốc gia đối với một tiểu
quốc) và “我國家統三以來, 事大以勤” (Nước ta từ thời Tam Quốc đã chuyên chú vào việc thực hiện Sự đại).
10
Thời Silla Thống Nhất: tồn tại song song với vương triều Bột Hải trong lục địa Trung Quốc.
11
Quốc gia được xem là một bộ phận của lịch sử Hàn Quốc, được sử liệu Trung Quốc gọi là “Hải Đông Thịnh
Quốc”.
103
khi người thành lập nhà Thanh - Hoàng Thái Cực quyết định đổi tên “Nữ Chân” thành “Mãn Châu” để
thoát khỏi “bóng ma” đè nặng là dân tộc man di trong hệ tư tưởng “hoa di” (phân biệt dân tộc văn minh
và mọi rợ) chủ lưu trong khu vực (김은희 (Kim Eun Hee) 2016: 159). “Nỗi ám ảnh” về xuất thân thiểu
số, man di của người Nữ Chân hay Mãn Châu đến thế kỉ thứ 19 còn bị vua Minh Mạng của Triều Nguyễn
Việt Nam nhắc đến trong Đại Nam Thực Lục. Minh Mạng chế giễu người Mãn Châu không biết chữ
nhiều. Người Mãn Châu cũng là một dân tộc thiểu số ở vùng đất phiên thuộc, không cao quý gì hơn
người Việt Nam (최병욱 (Choi Byung Wook) 2011: 274).
Ngôn ngữ Mãn Châu (Manchu language) thuộc hệ Tungus, là một chi thuộc ngữ hệ Altai như tiếng
Hàn. Điểm chung lớn nhất của ngôn ngữ này đối với ngôn ngữ Hàn chính là trật tự từ (word order 어순)
được sắp xếp trong câu: chủ ngữ (주어) + tân ngữ (목적어) + động từ (서술어) (박상철 (Park Sang
Cheol) 2017: 3 - 4). Dù là ngôn ngữ của tầng lớp thống trị và quý tộc Mãn Châu nhà Thanh (Trung Quốc)
(1616 - 1912) kéo dài khoảng 300 năm, ngôn ngữ này đến đầu thế kỉ 21 được báo cáo vào nhóm ngôn
ngữ sắp “tuyệt chủng” khi chỉ còn khoảng 10 người sử dụng ngôn ngữ này như tiếng mẹ đẻ duy nhất
(박상철 (Park Sang Cheol) 2017: 3). Joseon là một trong các quốc gia đầu tiên khuất phục nhà Thanh
sau hai cuộc chinh phạt lần lượt vào năm 1627 và 1636. Thời Nhân Tổ (인조) trong ghi chép của Triều
Tiên Vương Triều Thực Lục đã thấy xuất hiện các thuật ngữ vay mượn từ tiếng Mãn Châu được ghi lại
bằng Hán Văn (국사편찬위원회 (Ủy ban Biên soạn Quốc sử Hàn Quốc). (2023/01/12).
『조선왕조실록』『인조실록』(Triều Tiên Vương Triều Thực Lục, Nhân Tổ Thực Lục).
https://sillok.history.go.kr/id/kpa_10910026_001).12 Thế nhưng, đến nửa cuối thế kỉ XIX, vào thời Cao
Tông thì quan thông dịch của triều Joseon không còn phân biệt nổi đâu là “Hán ngữ” (한어 漢語) đâu là
“Mãn Châu ngữ” (만주어 滿洲語): “譯員不辨漢音、漢語” khi thực hiện giao dịch với triều Thanh
(국사편찬위원회 (Ủy ban Biên soạn Quốc sử Hàn Quốc). (2023/01/12). 『 조선왕조실록 』 『
고종실록』 (Triều Tiên Vương Triều Thực Lục, Cao Tông Thực Lục).
https://sillok.history.go.kr/id/kza_10108020_001). Điều này rõ ràng cho thấy sự sụt giảm mạnh mẽ của
ngôn ngữ Mãn Châu trong hoạt động đối ngoại giữa nhà Thanh và các nước phiên thuộc.
3.2 Nghiên cứu ngôn ngữ văn hoá Mãn Châu và nhận thức của vương triều Joseon
Theo nghiên cứu của Park Sang Cheol, thế kỉ XVII - XVIII tại Joseon ghi nhận khoảng 20 tác phẩm
bằng ngôn ngữ Mãn Châu với nhiều thể loại đa dạng khác nhau như từ điển, sách dịch, tản văn,… Số
lượng sách ở mức tương đối ấn tượng, ít có thể kể đến tác phẩm Mãn Hán Đồng Văn Loại Tập
(만한동문유집 滿漢同文類集) với 2 bộ, tổng cộng hai quyển; nhiều nhất có thể nhắc đến tác phẩm Ngự
Chế Tăng Đính Thanh Văn Giám (어제증정청문감 御製增訂淸文鑑) với 46 bộ, tổng cộng 48 quyển.
Như vậy ước tính, trong vòng hai thế kỉ, khi Joseon còn ràng buộc nặng nề với tư tưởng sùng bái nhà
Minh, ngôn ngữ Mãn Châu đã du nhập vào Joseon với khoảng trên dưới 350 quyển có độ dài ngắn khác
nhau (박상철 (Park Sang Cheol) 2017: 16). Điều này cho thấy nhu cầu cao của Joseon về nghiên cứu
ngôn ngữ và văn hoá nhà Thanh.
Chính vì nhu cầu đó, tại Joseon trong thế kỉ XVII - XVIII xuất hiện các viên quan thông dịch đảm
trách nhiệm vụ thông ngôn trong hoạt động ngoại giao giữa triều Joseon và triều đình nhà Thanh (Trung
Quốc). Trước đây, khi nhà Minh còn nắm quyền bá chủ khu vực, với sự thuần phục về chính trị và văn
minh đối với nhà Minh, vai trò của quan thông ngôn tiếng Hán hết sức quan trọng. Sau khi nhà Minh sụp
12
Chữ dùng Núi Cao Sơn (高山) được viết thành Cố Sơn (固山), chữ này được gắn vào đầu tước vị hoàng thất,
quý tộc Mãn Châu ở bậc cao nhất. Ví dụ: Cao sơn bối tử (固山貝子), Cao sơn ngạch chân (固山額眞).
104
đổ, Joseon buộc phải công nhận và bắt đầu quan hệ triều cống sắc phong với nhà Thanh (Trung Quốc),
số lượng người đăng kí học và thi tuyển vào thông ngôn tiếng Hàn giảm đi. Thuật ngữ “Cheonghak”
(청학 淸學) bắt đầu được nhắc nhiều đến trong Triều Tiên Vương Triều Thực Lục và Thừa Chính Viện
Nhật Kí (승정원일기) – hai bộ ghi chép lại công việc hàng ngày của nhà vua và quản lý điều hành quốc
gia chính thống của vương triều: “Quan thông ngôn tiếng Hán bỏ hẳn việc của mình (để chuyển sang học
ngành khác)” (譯官中漢語將絶種) và “hầu như không còn mấy ai muốn học hành đề trở thành giáo sư
dạy tiếng Hán nữa” (漢 學兼敎授, 全無爲官擇人之意) (국사편찬위원회 (Ủy ban Biên soạn Quốc sử
Hàn Quốc). (2023/01/12).『승정원일기』 (Thừa Chính Viện Nhật Kí 承政院日記) 영조 (Anh Tổ)
13 년 7 월 4 일 경인. http://sjw.history.go.kr/id/SJW-F13070040-01700).
Trong hệ thống quan chế thời Joseon, quan thông dịch (dịch quan 역관) tuy cần thiết nhưng lại
không đóng vai trò chính trong hoạt động ngoại giao giữa Joseon và các nước láng giềng xung quanh.
Vai trò của họ chủ yếu là hỗ trợ cho hoạt động của sứ thần, phẩm hàm của họ không cao, được xếp vào
hàng “tạp khoa” (잡과 雜科) trong hệ thống thi cử của vương triều. Do đó, khi tra cứu trên Triều Tiên
Thực Lục, vai trò của họ trong quan hệ ngoại giao giữa Joseon và nhà Thanh không được thể hiện rõ
ràng. Thế nhưng, đến tận thời vua Anh Tổ, nửa cuối thể kỉ 18, Triều Tiên Vương Triều Thực Lục vẫn có
đoạn ghi chép về chức quan này. Như vậy, sau hơn 100 năm kể từ khi chính thức tiếp nhận vai trò tôn
chủ của người Mãn Châu tại Đại lục Trung Hoa, việc nghiên cứu văn hoá nhà Thanh và ngôn ngữ Mãn
Châu vẫn liên tục diễn ra. Theo Triều Tiên Vương Triều Thực Lục, năng lực của thành phần tri thức
nghiên cứu ngôn ngữ và văn hoá Mãn Châu không hề “tạp” (tệ): “Năm Canh Tý, quan thông dịch thi
theo Tiết sứ Đường thượng quan và Đường hạ quan đến Yên Kinh tổng cộng gồm 20 người; trong những
quan nghiên cứu về Mãn Châu và Mông Cổ thì người thông minh, có hàng tam phẩm được tuyển lựa đặt
biệt đạt đến 5 – 6 người” (庚子以前節使赴燕時, 堂上堂下譯官, 合爲二十員, 其後有淸蒙兩學聰敏
及別選三等第, 元數外加出爲五六員) (국사편찬위원회 (Ủy ban Biên soạn Quốc sử Hàn Quốc).
(2023/02/14). 『조선왕조실록』『영조실록』(Triều Tiên Vương Triều Thực Lục, Anh Tổ Thực
Lục). https://sillok.history.go.kr/id/kua_13906019_001). Quan thông ngôn giỏi ngôn ngữ Mãn Châu
trong thế kỉ 17 ~18 đóng vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu ngôn ngữ, văn hoá Mãn Châu của
vương triều Joseon, giúp Joseon lựa chọn phương thức ứng xử đúng đắn đối với nhà Thanh trong quan
hệ ngoại giao hai nước.
Thế nhưng, cũng theo ghi chép trên Thừa chính viện Nhật kí (승정원일기 ) thì việc nghiên cứu
tiếng Mãn Châu không xuất phát từ tư tưởng sùng bái văn hoá nhà Thanh mà là phương tiện để đề phòng
“sự gian trá” về ngôn ngữ khi làm việc với người nhà Thanh mà thôi. “Đức Ngài Ngự nói: “Người nước
Thanh thành thạo Hán Ngữ, khi giao dịch với người dân nước ta, mới đầu họ dùng Hán Ngữ sau lại
chuyển sang dùng tiếng Mãn Châu hòng lừa gạt dân ta” (珽曰, 淸人能漢語, 故與我人酬酢之際, 或欲
欺我人, 則初以漢語爲之, 而雜以淸語矣.) (국사편찬위원회 (Ủy ban Biên soạn Quốc sử Hàn Quốc).
(2023/01/12). 승정원일기 (Thừa Chính Viện Nhật Kí 承政院日記))영조 (Anh Tổ) 13 년 7 월 4 일
경인. http://sjw.history.go.kr/id/SJW-F13070040-01700). Nhận định của triều đình Joseon cho thấy
quan niệm tiêu cực đối với dân tộc tính của người Mãn Châu. Điều này tạo nên một phong trào học ngành
“Thanh học”có tính thời vụ. Càng về sau thuật ngữ “Thanh học dịch quan” (quan thông ngôn tiếng Mãn
Châu 淸學 譯官 청학 역관) xuất hiện ngày càng ít, đến cuối thế kỉ thứ XVIII thì không còn tìm thấy
trong Triều Tiên Vương Triều Thực Lục nữa. Hiện tượng này trùng khớp với ghi chép việc các dịch quan
(quan thông thông 역관 譯官) vào thời kì Cao Tông không còn thành thạo tiếng Mãn Châu nữa như đã
đề cập ở trên. Vai trò của “Thanh học dịch quan” (淸學 譯官 청학 역관) dần mờ dạt khi chính người
105
Mãn Châu nắm quyền tại Bắc Kinh dần dần bị “Hán Hoá”. Quan chức ngoại giao Joseon tiếp tục sử dụng
chữ Hán để xuất bút đề thơ và đối tượng của họ là quan chức nhà Thanh gốc Hán vì cho rằng người gốc
Mãn không giỏi thi ca Hán Văn (김동석 (Kim Dong Seok) 2013: 227).
108
SỰ BIẾN ĐỔI NGỮ NGHĨA VÀ CÁCH DÙNG CỦA TỪ “BỊ”
TRÊN CƠ SỞ CỨ LIỆU TỪ ĐIỂN VIỆT - BỒ - LA (1651),
ĐẠI NAM QUẤC ÂM TỰ VỊ (1895) VÀ TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT (2013)
TÓM TẮT
Trong ba bình diện ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp của ngôn ngữ, từ vựng có lẽ là bình diện thể hiện
rõ nét tính chất “động” hơn cả. Bài báo này là một nghiên cứu trường hợp về sự biến đổi, phát triển ngữ
nghĩa của từ “bị” trong tiếng Việt theo dòng thời gian. Cứ liệu được thu thập để khảo sát là các biểu thức
ngôn ngữ có chứa từ “bị” được giải nghĩa trong Từ điển Việt - Bồ - La (1651), Đại Nam quấc âm tự vị
(1895) và Từ điển tiếng Việt (2013). Kết quả của việc so sánh đối chiếu ngữ nghĩa từ “bị” trong ba công
trình này cho thấy, từ “bị” đã có sự biến đổi mạnh mẽ về ngữ nghĩa cũng như cách dùng.
Từ khóa: “bị”, biến đổi, mở rộng nghĩa, ngữ nghĩa, thu hẹp nghĩa.
1. Tổng quan
Ngôn ngữ là một sinh thể, luôn vận động và biến đổi theo dòng chảy của lịch sử và xã hội. Trong
ngôn ngữ học, ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp trước nay vẫn được nhìn nhận là ba trụ cột cơ bản và quan
trọng. Xét về tính chất “động”, trong ba bình diện vừa nêu, có thể nói từ vựng là địa hạt thể hiện rõ ràng,
đậm nét nhất tính chất này. Bài báo này có thể được xem là một nghiên cứu trường hợp theo hướng
nghiên cứu sự biến đổi từ vựng tiếng Việt. Đối tượng khảo sát là các biểu thức ngôn ngữ có chứa từ “bị”
được thu thập từ ba công trình: (i) Từ điển Việt - Bồ - La (của Rhodes A.D. được xuất bản tại Rome năm
1651, phần bản dịch từ tiếng Bồ Đào Nha và tiếng La tinh ra tiếng Việt được Nhà xuất bản Khoa học xã
hội phát hành năm 1991; (ii) Đại Nam quấc âm tự vị (của Huình Tịnh Của được xuất bản lần đầu vào
năm 1895, in lại vào năm 2022 và (iii) Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học Vietlex tái bản lần
thứ năm vào năm 2013. Thông qua việc so sánh đối chiếu nghĩa của từ “bị” trong ba công trình ở ba giai
đoạn lịch sử (thế kỷ XVII, XIX, XXI), chúng tôi mong muốn góp thêm một mảnh ghép nhỏ vào bức
tranh toàn cảnh nghiên cứu sự phát triển từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt hiện đang có. Những kết quả của
nghiên cứu này có thể được sử dụng nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho giáo viên, sinh viên ngành
ngôn ngữ học cũng như những người có quan tâm đến tiếng Việt nói chung, từ vựng tiếng Việt nói riêng.
13
Theo chúng tôi, biểu thức ngôn ngữ thắt miệng bị trong tiếng Việt thế kỷ XIX được dùng theo nghĩa bóng, có nghĩa tương
đương nghĩa của từ “hà tiện”, “ki bo”. Chính ĐNQÂTV (Huình Tịnh Của, 2022, p. 396) cũng xác nhận điều này bởi “hà tiện”
được giải nghĩa là “bo bo giữ của, không dám ăn xài, lấy của làm trọng, rít róng, lo còn lo mất thới quá”. Trong Đại Nam
quấc âm tự vị không thấy có biểu thức ngôn ngữ “ki bo”.
111
ngữ (5), (6) được bảo lưu nguyên dạng thức nhưng nghĩa được mở rộng, chỉ hành động mang, xách cái
bị nói chung chứ không hẳn là với mục đích đi xin ăn như cách dùng được ghi nhận trong tiếng Việt thế
kỷ XIX. BTTT (7) ông bị không được ghi nhận mà thay vào đó là ba bị [d Tên gọi một hình người quái
dị do người ta bịa ra để dọa trẻ con] (VIETLEX Trung tâm Từ điển học, 2013, p. 28); biểu thức ngôn ngữ
tiên bị cũng không còn được dùng mà chỉ còn dùng bị cáo hay bị (nói tắt) (VIETLEX Trung tâm Từ điển
học, 2013, p. 85). Riêng binh bị tuy vẫn còn được bảo lưu nguyên dạng thức nhưng nghĩa thì đã khác
hoàn toàn, tiếng Việt hiện đại binh bị được dùng với nghĩa “vũ khí, trang bị, khí tài và quân số dùng vào
mục đích chiến tranh [nói tổng quát].” (VIETLEX Trung tâm Từ điển học, 2013, p. 93).
Từ điển tiếng Việt (2013) cũng ghi nhận các biểu thức ngôn ngữ mới trong vai trò danh từ có chứa
từ “bị” như: (1) bị can [d người, hoặc tổ chức, cơ quan đã bị khởi tố về hình sự. ĐN can phạm]; (2) bị
đơn [d [cũ] bên bị; phân biệt với nguyên đơn]; (3) bị thịt [d [tngt] ví người to xác mà đần độn, chậm
chạp]; (4) bị vong lục [d văn kiện ngoại giao, nói rõ lập trường và thái độ về phía mình đối với một vấn
đề nào đó, do chính phủ hay bộ ngoại giao công bố nhằm tranh thủ dư luận quốc tế] (VIETLEX Trung
tâm Từ điển học, 2013, p. 85); (5) dự bị đại học [chương trình học chuẩn bị thêm kiến thức để có thể vào
đại học] (VIETLEX Trung tâm Từ điển học, 2013, p. 361). (6) thiết bị [tổng thể nói chung những máy
móc, dụng cụ, phụ tùng cần thiết cho một hoạt động nào đó]; (8) trang bị [những thứ cần thiết để có thể
hoạt động] (VIETLEX Trung tâm Từ điển học, 2013, p. 1216). Có thể thấy các biểu thức ngôn ngữ mới
này chủ yếu thuộc vào lớp từ văn hóa (7/8 đơn vị), hình thành do yêu cầu của sự phát triển của xã hội ở
giai đoạn lịch sử tương ứng.
Ngoài chín biểu thức ngôn ngữ ở đó “bị” được dùng như một danh từ, Đại Nam quấc âm tự vị (Huình
Tịnh Của, 2022, p. 85-86): cũng cung cấp 38 biểu thức ngôn ngữ trong đó “bị” được dùng như một động
từ, với hai nghĩa chính: (a) “Đủ, sắm sanh, dự phòng” và (b) “Mắc phải”. Cụ thể như sau:
(a) “BỊ”: “Đủ, sắm sanh, dự phòng” (với 9 biểu thức ngôn ngữ minh họa): (1) dự bị [phòng, sắm
sẵn]; (2) cụ bị [như dự bị, nhưng ít dùng]; (3) tề bị [đều đủ, sẵn sàng]; (4) chỉnh bị [sắm sửa]; (5) bị biện
[như chỉnh bị, nhưng ít dùng]; (6) phòng bị [sắm sửa, ngăn ngừa (thường nói về việc binh)]; (7) bị vị
[cho có vì, ngồi cho đủ đầu, (không làm nên sự gì)]; (8) thủ bị [như binh bị, nhưng ít dùng]; (9) hữu bị
vô hoạn (có phòng trước thì khỏi lo).
Đối chiếu với Từ điển tiếng Việt, chúng tôi ghi nhận chỉ có hai biểu thức ngôn ngữ (1, 6) còn được
sử dụng, nhưng nghĩa cũng đã có sự biến đổi. Cụ thể là, trường hợp (1) dự bị, trong tiếng Việt hiện đại,
từ này đã có thêm cách dùng mới (như một tính từ), với nghĩa “ở thời kỳ chuẩn bị thêm cho đầy đủ điều
kiện để có thể được công nhận là thành viên chính thức của một tổ chức [thường là một chính đảng]. TN
chính thức. ◊ đảng viên dự bị” hay trong vai trò của một danh từ ở biểu thức ngôn ngữ dự bị đại học
(VIETLEX Trung tâm Từ điển học, 2013, p. 361). (6) phòng bị cũng được dùng với nghĩa rộng hơn “đề
phòng sẵn để ngăn ngừa, đối phó” (VIETLEX Trung tâm Từ điển học, 2013, p. 1009) nói chung chứ
không phải “thường nói về việc binh” nữa.
(b) “BỊ”: “Mắc phải”, Đại Nam quấc âm tự vị dẫn ra 26 biểu thức ngôn ngữ như sau: (1) bị trận
(thua trận, thất trận); (2) bị thương; (3) bị dấu [như bị thương nhưng ít dùng]; (4) bị gai [bị đạn bắn nhằm;
chết vì súng bắn]; (5) bị vây; (6) bị hại [người ta giết, (thường nói về người vô tội mà bị người ta giết).
Vua, quan bị giết thường kêu là bị hại)]; (7) bị bắt; (8) bị giặc [mắc phải giặc giã]; (9) bị bão; (10) bị
phong ba; (11) bị nạn; (12) bị lụy [khổ giập; hết nạn này tới nạn khác]; (13) bị hỏa tai [bị cháy nhà]; (14)
bị chết chém; (15) bị hùm ăn; (16) bị dịch khí [mắc dịch khí, mắc chứng thiên thì]; (17) bị mất mùa; (18)
bị trời nắng; (19) bị đày; (20) bị đuổi; (21) bị đấm bị đá; (22) bị ăn trộm; (23) bị ăn cướp; (24) bị chìm
ghe; (25) bị bối [bị quân gian vặt dưới ghe, dưới sông lấy của], (26) bị rị [buồn bã, rầu rĩ, biếng nói, biếng
cười] (Huình Tịnh Của, 2022, pp. 50-51).
Đối chiếu với Từ điển tiếng Việt, có thể thấy tình hình sau: Nếu như ở Đại Nam quấc âm tự vị , yếu tố
“bị” trong các biểu thức ngôn ngữ dẫn trên đây chỉ được giải nghĩa là “mắc phải” (không chú từ loại) thì
Từ điển tiếng Việt (VIETLEX Trung tâm Từ điển học, 2013, p. 85) đã xác định đây là động từ “biểu thị
chủ thể là đối tượng chịu sự tác động của việc không hay, không có lợi đối với mình”. Từ các ví dụ minh
họa của Từ điển tiếng Việt (2013) cũng như thực tế sử dụng ngôn ngữ hiện nay, có thể thấy các cách nói
(1), (3), (4), (8), (12), (16), (25) không còn được sử dụng. Các biểu thức ngôn ngữ còn lại, về cơ bản, vẫn
được dùng nguyên nghĩa, riêng (6) bị hại và (13) bị hỏa tai thì có sự biến đổi theo hướng mở rộng nghĩa
112
hơn. (6) được hiểu theo nghĩa đối tượng nào đó phải chịu tổn thất, tổn thương do sự tác động của một
đối tượng khác chứ không chỉ là người vô tội hay vua quan bị giết); (13) cũng được hiểu là tai nạn do
cháy nói chung chứ không phải chi là cháy nhà.
Trong tư cách động từ, Từ điển tiếng Việt ghi nhận ba biểu thức ngôn ngữ mới (không tìm thấy
trong Từ điển Việt - Bồ - La và Đại Nam quấc âm tự vị ) là (1) bị chú [chú thích thêm cho đầy đủ hơn];
(2) bị trị [id] [dân tộc, tầng lớp] bị thống trị, bị áp bức] (VIETLEX Trung tâm Từ điển học, 2013, p. 85)
và (3) trang bị [cung cấp cho mọi thứ cần thiết để có thể hoạt động] (VIETLEX Trung tâm Từ điển học,
2013, p. 1314). Theo chúng tôi, “bị” trong (1) và (3) vẫn được dùng với nghĩa gốc “Đủ, sắm sanh, dự
phòng” mà Đại Nam quấc âm tự vị đã giải thích, còn “bị” trong (2) được dùng với nghĩa gốc “Mắc phải”
theo cách giải thích của Đại Nam quấc âm tự vị (Huình Tịnh Của, 2022, pp. 50-51) hay “biểu thị chủ
thể là đối tượng chịu sự tác động của việc không hay, không có lợi đối với mình” theo cách giải thích
của Từ điển tiếng Việt (VIETLEX Trung tâm Từ điển học, 2013, p. 85).
Điều đặc biệt thú vị ở đây là, khi xem xét nghĩa và cách dùng từ “bị” ở ba lát cắt thời gian được
ghi nhận trong ba công trình Từ điển Việt - Bồ - La, Đại Nam quấc âm tự vị và Từ điển tiếng Việt, có thể
nhận thấy rất rõ tiếng Việt thế kỷ XVII (với Từ điển Việt - Bồ - La của Rhodes A.D) vai trò của động từ
“bị” thực sự mờ nhạt. Qua tìm hiểu, chúng tôi phát hiện ra rằng, để biểu thị nghĩa “mắc phải” hay “chịu
sự tác động của việc không hay, không có lợi đối với mình” như đã thấy trong Đại Nam quấc âm tự vị
và Từ điển tiếng Việt thì tiếng Việt thế kỷ XVII chủ yếu sử dụng từ “phải”, một từ thuần Việt. Điều này
được ghi nhận trong mục từ PHẢI của Từ điển Việt - Bồ - La (Rhosdes A.D., 1991, pp. 179) qua các biểu
thức ngôn ngữ: mlầm phải thịt <nhầm phải thịt> [vì lầm lẫn mà ăn thịt]; phải tàu [tàu bị đắm]; phải biẻn
<phải biển> [thuyền bị đắm ngoài khơi biển]; thuyèn phải cạn phải đá <thuyền phải cạn phải đá>
[thuyền bị mắc cạn hay đụng phải đá]; phải nước [nước làm hại nó]; phải gió [gió làm hại nó], phải vạ
[bất hạnh vì bị tố cáo và bị kết án]; phảị sấm sét [bị sét đánh]; phải nào chang <phải nào chăng> [có bị
tai nạn gì không?], chảng có phải nao <chẳng có phải nao> [chẳng bị tai nạn nào cả], phải trận [chết
trong xung đột hay trận chiến]. Thực tế ngữ liệu này cho thấy trong khoảng thời gian hơn 200 năm (từ
1651 đến 1895), đã có một sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa “phải” và “bị”. Nếu như ở thế kỷ XVII, từ “phải”
được sử dụng phổ biến, chiếm ưu thế tuyệt đối trong việc biểu thị nghĩa chủ thể vì lý do nào đó mà phải
chịu điều bất lợi đối với mình thì đến thế kỷ XIX cũng như đến nay (thế kỷ XXI), chức năng này đã được
san sẻ phần lớn sang cho từ “bị”.
Cuối cùng, với tư cách một tính từ, từ “bị” cũng có những biến đổi khá thú vị về nghĩa và cách
dùng. Đại Nam quấc âm tự vị (Huình Tịnh Của, 2022, pp. 50-51) ghi nhận ba biểu thức ngôn ngữ ở đó
“bị” được dùng như tính từ với nghĩa “rộng”: (1) miệng bị [miệng rộng quá]; (2) chẳng miệng bị [rộng
miệng, lớn tiếng; nhiều tiếng nói]; (3) khéo chẳng miệng bị [như chẳng miệng bị] và một biểu thức ngôn
ngữ là từ láy đôi có “bị” là thành tố đầu (bị rị) với nghĩa “buồn bã, rầu rĩ, biếng nói, biếng cười”. Ba cách
dùng đầu với nghĩa nêu trên hiện nay đều không còn tồn tại. Riêng biểu thức ngôn ngữ miệng bị hiện vẫn
được dùng với nghĩa hoàn toàn khác, chỉ bộ phận trên cùng, thông với bên ngoài của cái bị chứ không
có nghĩa như được ghi nhận trong Đại Nam quấc âm tự vị .
Ngữ liệu thu được từ Từ điển tiếng Việt cho thấy “bị” trong vai tính từ xuất hiện trong các biểu
thức ngôn ngữ sau: (1) bị động [ở tình thế buộc phải hành động theo sự chi phối của người khác hoặc
hoàn cảnh bên ngoài. ĐN thụ động. TN chủ động. Ví dụ: ◊ Rơi vào thế bị động, ◊ Đối phó một cách bị
động] (VIETLEX Trung tâm Từ điển học, 2013, p. 85); (2) dự bị với hai nghĩa (a) [ở trạng thái sẵn sàng
có thể thay thế hoặc bổ sung khi cần. ĐN trù bị. Ví dụ: ◊ cầu thủ dự bị, ◊ đại biểu dự bị, ◊ lực lượng dự
bị cho quân chính quy] và (b) [ở thời kỳ chuẩn bị thêm cho đầy đủ điều kiện để có thể được công nhận
là thành viên chính thức của một tổ chức (thường là một chính đảng). TN chính thức. Ví dụ: ◊ đảng viên
dự bị] (VIETLEX Trung tâm Từ điển học, 2013, p. 361); (3) bị sị [(vẻ mặt) xịu xuống, lầm lì do có điều
không vừa ý. ĐN bì sị] (VIETLEX Trung tâm Từ điển học, 2013, p. 85). Ở đây, có thể thấy bị động là
một từ mới, trong đó nghĩa của “bị” ít nhiều vẫn còn liên hệ với nghĩa “mắc phải” đã được nói đến trong
Đại Nam quấc âm tự vị . Đối với tính từ dự bị thì dấu vết nghĩa “dự phòng” của “bị” cũng vẫn còn khá
rõ ràng. Riêng trường hợp bị sị, theo chúng tôi là một dạng biến âm của bị rị trong Đại Nam quấc âm tự
vị.
113
4. Kết luận
Bài viết này khảo sát nghĩa và cách dùng từ “bị” trong ba công trình: Từ điển Việt - Bồ - La, Đại
Nam quấc âm tự vị và Từ điển tiếng Việt mà giá trị của chúng đã được giới ngôn ngữ học khẳng định.
Cái nhìn hồi quy về từ “bị” được ghi nhận trong Từ điển Việt - Bồ - La và Đại Nam quấc âm tự vị giúp
chúng ta phục dựng được diện mạo của từ “bị” trong tiếng Việt thế kỷ XVII và XIX. Những kết quả
nghiên cứu của bài viết này cho thấy ngữ nghĩa và cách dùng của từ “bị” đã thay đổi khá nhiều. Nếu như
ở thế kỷ XVII, phạm vi sử dụng của “bị” còn khá hạn chế, đặc biệt trong tư cách động từ thì đến thế kỷ
XIX và ngày nay (thế kỷ XXI), năng lực hoạt động của động từ “bị” đã mạnh hơn rất nhiều. Trong một
chừng mực nào đó, có thể nói “bị” đã “lên ngôi” trong cuộc cạnh tranh với “phải” để biểu thị nghĩa “mắc
phải” hay “chủ thể chịu sự tác động của việc không hay, không có lợi”. Kết quả phân tích ngữ liệu cũng
cho thấy một số cách nói có dùng từ “bị” ở thế kỷ XIX hiện nay đã hoàn toàn mai một. Số còn lại hầu
như vẫn được bảo lưu cho đến ngày nay nhưng có những biến đổi nhất định về hình thức và ngữ nghĩa.
Sự biến đổi này chủ yếu đi theo hướng mở rộng nghĩa. Về từ loại, “bị” cũng có sự mở rộng phạm vi đáng
kể. Từ điển Việt - Bồ - La thế kỷ XVII chỉ ghi nhận “bị” trong vai trò danh từ và động từ (rất hạn chế),
nhưng đến Đại Nam quấc âm tự vị và Từ điển tiếng Việt thì ngoài hai vai trò vừa nêu, “bị” còn đã hoạt
động với vai trò của tính từ.
Trong phạm vi bài báo này, chúng tôi chưa thể đi sâu phân tích cách dùng kết cấu hơi bị (biểu thị
mức độ cao của trạng thái, tính chất được diễn đạt bằng từ/ cụm từ đứng sau nó) hiện đã trở nên rất quen
thuộc trong giao tiếp khẩu ngữ cũng như chưa có điều kiện tìm hiểu trong khoảng thời gian từ 1651 đến
1895, quá trình “lên ngôi” của “bị” đã diễn ra như thế nào. Những vấn đề này, chúng tôi sẽ trở lại với
những bài viết khác trong tương lai.
114
SỰ SUY NGẪM VỀ BANG GIAO VÀ VỊ THẾ ĐẠI VIỆT TRONG
“TRẬT TỰ ĐÔNG Á” THỜI TRUNG ĐẠI
QUA MỘT SỐ BÀI THƠ SỨ TRÌNH
Nguyễn Thị Quỳnh Trang*
Khoa Văn hóa và Du lịch, Trường Đại học Sài Gòn
*Tác giả liên hệ: Điện thoại: 0913 664 482; Email: ntqtrang@sgu.edu.vn
TÓM TẮT
Sau đại thắng quân Nam Hán năm 938, Đại Việt bước vào giai đoạn độc lập tự chủ dưới chế độ
phong kiến. Rắp ranh nguy cơ xâm lược từ Trung Hoa trở thành một bài toán thử thách chiến lược bang
giao cho từng triều đại, từng giai đoạn lịch sử. Là một quốc gia thuộc “lằn ranh” giữa khu vực Đông Á
và Đông Nam Á, Đại Việt từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX đã tiến hành bang giao, từ đó chịu nhiều tác
động, ảnh hưởng từ các quốc gia trong “trật tự Đông Á”. Dẫu chịu nhiều sức ép từ Trung Hoa song Đại
Việt luôn khẳng định tâm thế tự cường, độc lập và cố gắng kết giao hòa hiếu với Triều Tiên, Nhật Bản,
Những tác phẩm thơ đi sứ được khảo sátcủa Mạc Đĩnh Chi, Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Trung Ngạn và
Nguyễn Du đã gửi gắm nhiều quan điểm, nhận thức về tình hình ngoại giao cũng như vị thế của Đại Việt
trong tương quan với các quốc gia trong khu vực này. Đây chính là trọng tâm nghiên cứu và tường minh
của tham luận khoa học này.
Từ khóa: Đại Việt, ngoại giao, trật tự Đông Á, thơ sứ trình.
1. Tổng quan
Chiến thắng Bạch Đằng lẫy lừng năm 938 mở ra một trang sử mới, một thời kì phát triển mới trong
lịch sử nước nhà, chấm dứt thời kì 1.000 năm Bắc thuộc để bước vào thời kì độc lập tự chủ dưới chế độ
phong kiến. Các triều đại phong kiến lần lượt kế tục với mục tiêu lớn nhất là giữ vững nền độc lập dân
tộc, khẳng định vị thế quốc gia đối với các nước trong khu vực Đông Á cũng như Đông Nam Á. Tuy
nhiên, trước một Trung Hoa đại lục với tham vọng bành trướng quá lớn và muốn làm một “cực” duy nhất
trong trật tự Đông Á, Đại Việt luôn đứng trước nguy cơ bị thôn tính, trở thành “bàn đạp” cho các triều
đại phong kiến phương Bắc tiến về phương Nam. Ý chí chiến đấu để vệ quốc đã giúp Đại Việt đẩy lui
những đoàn binh hung mạnh nhất của Trung Hoa, lần lượt đạo quân xâm lược của Tống, Nguyên, Minh,
Thanh đã phải thất bại, lui binh. Nhằm bảo vệ nền độc lập, giữ cho quần chúng một cuộc sống bình yên,
Đại Việt đã thực hiện rất nhiều chính sách bang giao, thậm chí phải chấp nhận nhiều thiệt thòi trong
những thời điểm không còn chiến sự. Trong số đó: sắch phong và triều cống là hai phương thức bang
giao trọng yếu để thực hiện mục tiêu trên.
Tình thế và cách thức ứng xử bang giao của Đại Việt từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX cũng là cảnh
huống chung của nhiều nước trong khu vực Đông Á. Trật tự Đông Á là cách định danh nhằm chỉ khu
vực địa lý và trục quan hệ quốc tế giữa một số nước bao gồm Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Mông
Cổ và Hàn Quốc. Bước sang thế kỉ XX, “trật tự Đông Á” được xác định thêm Đài Loan (một quốc gia
độc lập được li khai từ Trung Hoa) và Hàn Quốc (kết quả của sự phân tách từ Triều Tiên sau thế chiến
II). Có quan điểm cho rằng Việt Nam cũng thuộc vùng văn hóa Đông Á do có những ảnh hưởng hết sức
đậm nét của nền văn hóa Đông Sơn thời cổ đại cùng sự di cư, hình thành của cộng đồng người Hoa sinh
sống ổn định qua nhiều thế kỉ. Dù nhìn ở góc độ nào, từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX, Đại Việt luôn có
những kết nối bang giao quan trọng với một số nước Đông Á, cụ thể là Trung Quốc, Nhật Bản và Triều
Tiên. Mặc dù, không trực tiếp cử sứ bộ sang viếng thăm ngoại giao song quan hệ giữa Đại Việt và Triều
Tiên, Nhật Bản vẫn được thiết lập thông qua những giao hảo chân tình, trọng thị giữa sứ thần khi cùng
sang triều cống hoặc nhận sắc phong từ Trung Hoa. Theo thống kê từ nhiều tư liệu, Đại Việt và Triều
Tiên đã có đến 16 lần đối đáp thơ văn giữa sứ thần hai nước, trong đó có 126 bài thơ, 17 bài văn hoặc
đối đáp thể hiện rõ ý trọng tình thâm, bang giao hữu hảo.
115
2. Vai trò của thơ sứ trình trong quan hệ bang giao của Đại Việt
Quá trình bang giao với Trung Hoa và các quốc gia trong trật tự Đông Á tuy diễn biến phức tạp,
trải qua không ít thăng trầm nhưng Đại Việt vẫn khẳng định được vị thế độc lập, tự cường, linh hoạt và
mềm dẻo trong từng chính sách, chiến lược. Các triều vua Đại Việt đều cứ các đoán sứ bộ lặn lội sang
kinh đô của Trung Hoa. Vượt qua muôn dặm đường dài cheo leo, hiểm trở, việc đi sứ kéo dài đằng đẵng
cả năm trời. Tuy nhiên, khi được vua “chọn mặt gửi vàng”, các sứ thần nổi tiếng trong lịch sử như Đinh
Củng Viên, Mạc Đĩnh Chi, Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Công Hãng, Lê Quý Đôn, Hồ Sĩ Đống, Đoàn
Nguyễn Tuấn, Nguyễn Du… đều dốc hết tâm sức để thực hiện cách thức đối ngoại khéo léo mà không
làm mất đi hào khí của dân tộc, thể hiện trí tuệ ưu việt khiến quân thần Trung Hoa nể phục. Mỗi sứ thần
Đại Việt hội tụ đủ ba phẩm chất: một nhà ngoại giao mực thước, một nhà văn hóa uyên bác, một nhà thơ
tài năng. Thơ sứ trình là một bộ phận quan trọng trong kho tàng thư tịch cổ nước nhà thế hiện rõ những
cảm nhận, đánh giá, bản lĩnh của các sứ thần khi được cắt cử thực hiện nhiệm vụ trọng đại bên nước bạn.
Theo tổng kết của nhà nghiên cứu Nguyễn Công Lý đã có tổng cộng “53 tác giả với 79 tác phẩm gồm cả
vài ngàn bài thơ” (Nguyễn Công Lý, Diện mạo thơ sứ trình trung đại Việt Nam và thơ đi sứ của Nguyễn
Trung Ngạn) là bộ phận thơ sứ trình trong thời trung đại. Trong khuôn khổ giới hạn của tham luận, bài
viết giới thiệu một số chân dung sứ thần và tác phẩm tiêu biểu của họ, chứng minh rằng: thơ ca đã có
những ghi nhận và tác động đáng kể trong hoạt động ngoại giao của Đại Việt, tương hỗ cho những chính
sách về kinh tế và quân sự.
3. Sự suy ngẫm về hoạt động bang giao của Đại Việt qua thơ sứ trình
3.1 Nghiêm túc, chuẩn mực trong việc giữ gìn nghi thức ngoại giao
Qua những bài thơ sứ trình tiêu biểu, nghi thức ngoại giao là một trong những yêu cầu được khẳng
định, đề cao để xác lập quan hệ song phương giữa Đại Việt với Trung Hoa cùng các nước lân bang được
các nhà thơ khắc ghi, nhấn mạnh. Tiêu biểu là thi phẩm Đáp Triều Tiên quốc sứ Lý Túy Quang của sứ
thần Phùng Khắc Khoan. Hội ngộ bất ngờ tại “thiên triều” Trung Hoa vào năm 1597, sứ thần Đại Việt
(Phùng Khắc Khoan) và Triều Tiên (Lý Túy Quang) đã có những vần thơ xướng họa chân tình, thể hiện
tình cảm thân mật gắn bó. Thi phẩm này đã giúp Phùng Khắc Khoan nhấn mạnh được quan điểm bang
giao đầy đủ và chuẩn mực: “Giao lân tiện thị tín vi bản/ Tiến đức thâm duy kính tác dư” (Kết láng giềng
lấy tin làm gốc/ Kính trọng nhau nền đức dày thêm). Thi nhân đã nhấn mạnh về việc giữ chữ “tín” trong
quá trình thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Đại Việt với bất cứ quốc gia nào. Đây cũng chính là một yếu
tố thuộc “ngũ thường” (05 đức tính quan trọng) trong Nho giáo vốn xuất phát từ Trung Hoa đã lan tỏa
và ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều quốc gia châu Á.
Nghi thức bang giao giữa Trung Hoa với trật tự Đông Á nói chung và Đại Việt nói riêng chính là
sự áp đặt với muôn vàn thủ tục, yêu sách cả về khánh tiết lẫn vật phẩm. Với mong muốn hòa hiếu, giữ
yên ổn cuộc sống thanh bình cho dân chúng, đoàn sứ bộ Đại Việt luôn cung phụng đầy đủ. Trong thi
phẩm Xuất quan của sứ thần Phan Huy Ích phụng mệnh vua Quang Trung sang yết kiến vua triều đại
Mãn Thanh năm 1790, ông đã đặc tả cảnh đoàn người đi sứ cờ lọng áo mão rợp trời ở bên ngoài nhưng
trong nội tâm thì ủ dột: “Tái bắc tiên cao lục bí quân/ Mãn sơn kì cải hộ chinh trần/ Thị hành ung mục y
thường nội/ Tự ngã tầm thường hàn mặc nhân” (Ải Bắc trời cao bốn ngựa phi/ Đầy non cờ lộng bóng
người đi/ Chuyến đi xiêm áo thời bình trị/ Nghĩ phận văn nhân nào có gì”. Chôn xuống dưới đáy lòng
những phiền não, đoàn sứ bộ luôn thực thi nghi thức đầy đủ và long trọng với mong muốn quan hệ bang
giao thật êm đềm, tốt đẹp.
3.2 Ngầm ẩn thái độ bất bình trước sự nhũng nhiễu, áp chế của triều đình Trung Hoa
Từng được cử đi sứ nhiều lần, Mạc Đĩnh Chi đã phải vượt qua khá nhiều thử thách và yêu sách từ
vua nhà Nguyên. Song, ông không được phép phát lộ thành kiến và những bất bình của bản thân để giữ
yên hòa khí. Tuy nhiên, với tài năng thiên phú, ông đã vô cùng thông minh ngầm ẩn sự chê trách đến chế
độ phong kiến Trung Hoa với nhiều bất công trong đối sách với lân bang, với những chính nhân quân tử.
Tâm tư đó được ông lồng cài trong thi phẩm Phiến minh (Tán quạt) được xuất thần nảy sinh khi được
thử thách tài ứng đối: “Lưu kim thước thạch, thiên địa vị lô, nhĩ ư tư thời hề, Y Chu cự nho/ Bắc phong
kỳ lương, vũ tuyết tái đồ, nhĩ ư tư thời hề, Di Tề ngã phu” (Chảy vàng tan đá, trời đất như lò, người trong
116
lúc ấy, ngang hàng Y Chu/ Gió bấc lạnh lùng, mưa tuyết mịt mù, người trong lúc ấy, Di Tề đói xo”.
Mượn những câu chuyện cũ, Mạc Đĩnh Chi ngầm oán trách những lệch lạc, bất công trong đối xử trọng
dụng đối với người chính trực của chính quyền Trung Hoa. Với công dân thiên triều còn bị ghẻ lạnh như
vậy, huống hồ cư dân “man di” Đại Việt còn bị coi rẻ tính mạng hơn nữa. Ngầm ý ấy vua triều Nguyên
không kịp nhận chân vào thời điểm lúc bấy giờ.
Thời gian đi sứ của đại thi hào Nguyễn Du cho triều Nguyễn kéo dài hơn 1 năm (năm 1813) và kết
quả của chuyến hành trình được ghi chép thành tập thơ Bắc hành tạp lục với 132 thi phẩm. Nhà thơ đã
gửi gắm rất nhiều cảm nghĩ, bất bình trước xã hội Trung Hoa nhiều bất công, áp chế đối với số phận con
người và dân chúng Đại Việt. Bốn câu cuối bài Giáp Thành Mã Phục Ba miếu, Nguyễn Du tỏ ý phê phán
và mỉa mai ông dũng tướng nhà Hán chỉ lừa đàn bà và khi đã chết rồi vẫn còn làm luỵ đến vợ con: “Đồng
trụ cận năng khi Việt nữ,/ Châu xa tất cánh luỵ gia nhi./ Tính danh hợp thướng Vân Đài hạ,/ Do hướng
Nam trung sách tuế thì” (Cột đồng chỉ có thể lừa đàn bà đất Việt,/ Xe ngọc châu rốt cuộc làm luỵ đến
con cái trong nhà./ Họ tên ông đáng lẽ đã được ghi ở gác Vân Đài,/ Sao lại còn ngoảnh về phương Nam
đòi hỏi cúng tế hàng năm). Chi tiết cúng tế trong bài thơ cùng là sự ngầm ẩn cho sự nhũng nhiễu từ chính
phong kiến Trung Quốc qua chính sách triều cống.
Trong thi phẩm Thái Bình mại ca giả (Người hát rong ở đất Thái Bình), đại thi hào đặc tả cung
cảnh ăn chơi của quan lại dịch trạm, coi khinh rẻ rung gạo cơm mà đoàn sự bộ cung đốn, nhân dân nước
Việt chắt chiu để triều cống: “Quân bất kiến sứ thuyền triều lai cung đốn lệ/ Nhất thuyền, nhất thuyền
doanh nhục mễ/ Hành nhân bão thực tiện khí dư/ Tàn hào lãnh phạn trầm giang để” (Anh không thấy lệ
cung phụng thuyền đi sứ mỗi ngày/ Từng thuyền từng thuyền thịt gạo đầy/ Người đi thuyền ăn no thừa
vứt bỏ/ Cơm nguội, thức ăn đổ chìm xuống đáy sông). Đây chính là sự đối lập oái oăm và đầy day dứt
đối với sứ thần nước Việt khi phải chứng kiến cảnh tượng này.
Mượn câu chuyện gọi hồn Khuất Nguyên (một nhà thơ chính trực tài năng nước Sở thời cổ đại),
thi phẩm Phản chiêu hồn của Nguyễn Du gián tiếp phê phán xã hội phong kiến Trung Hoa đầy rẫy bất
công, vô luân, vô cảm, mục ruỗng, tha hóa: “Thành quách do thị, nhân dân phi,/ Trần ai cổn cổn vô nhân
y./ Xuất giả khu xa nhập cứ toạ,/ Toạ đàm lập nghị giai Cao, Quỳ/ Bất lộ trảo nha dữ giác độc,/ Giảo
tước nhân nhục cam như di” (Thành quách vẫn như cũ, song nhân dân đã khác rồi,/Bụi cuốn mù mịt bẩn
cả quần áo./ Khi ra đường thì rong ruổi xe, khi ở nhà thì ngồi vênh váo,/ Họ đứng ngồi bàn tán như ông
Cao, ông Quỳ./ Họ che giấu nanh vuốt và nọc độc,/ Nhưng cắn xé thịt người ngọt xớt như đường). Với
những chi tiết và ngôn ngử giàu tính tả thực, Nguyễn Du đã bóc trần toàn bộ sự giả dối và tàn ác của
thiên triều Trung Hoa.
3.4 Tinh thần nhân đạo vượt biên giới lãnh thổ
Với truyền thống yêu nước thương nòi va tinh thần nhân đạo cao cả, trong quá trình đi sứ, vượt lên
trên những mặc cảm và định kiến dân tộc, các sứ thần Đại Việt luôn tiến hành quan sát và đối chiếu cảnh
sống của nhân quần giữa hai quốc gia. Ấn tượng xuyên suốt được ghi nhận đó là sự lao khổ, nhọc nhằn
của đa số bộ phận nhân dân đối lập hoàn toản với cảnh sống xa xỉ, sung sướng của tẩng lớp quan lại
thống trị. Từ đây, tâm hồn giàu cảm xúc và tình yêu thương của những thi sĩ đã bộc phát niểm đồng cảm,
thương xót với số phận của nhân dân Trung Hoa, trở thành tinh thần nhân đạo vượt lên giới hạn lãnh thổ
và mâu thuẫn dân tộc. Trong thi phẩm Tự xướng tự họa, sứ thần Phùng Khắc Khoan đã có một niềm
mong mỏi: “Công thành sự nghiệp bằng trung nghĩa/ Ức vạn duy sinh hoạt Bắc Nam” (Thành công sự
nghiệp nhờ trung nghĩa/ Nam Bắc yên bình, trọng mệnh trao”. Không phân biệt Bắc – Nam, dân chúng
thiên triều và chư hầu, ông mong mỏi con người nói chung được thụ hưởng một cuộc sống an ổn, sung
túc.
Thi phẩm Sở kiến hành là một bài thơ giàu giá trị hiện thực của sứ thần Nguyễn Du. Bài thơ là một
bức tranh đối lập cảnh sống giữa kẻ quan lại quyền thế và mấy mẹ con nông dân tha phương cầu thực.
Nếu quan lại ăn uống thừa mứa, xa hoa lãng phí thì bốn mẹ con sắp chết đói và gục ngã bên vệ đường:
“Bát khí vô cố tích/ Lân cẩu yếm cao lương/ Bất tri quan đạo thượng/ Hữu thử cùng nhi nương” (Thức
ăn thừa đổ đi/ Quanh xóm no đàn chó/ Không biết bên đường kia/ Có mẹ con đói khổ). Dù được tiếp đãi
long trọng, với vị thế của một người có quyền, song thi nhân luôn đồng cảm với mọi nỗi khốn khổ của
quần chúng bất kể đó là người dân nước nào. Hơn thế, trong thơ sứ trình của Nguyễn Du, tinh thương,
tấm lòng nhân đạo của ông còn hướng đến mọi đối tượng: từ người tiểu thiếp tài hoa bị lăng mạ (Độc
Tiểu Thanh kí) đến người mù hát rong chỉ mong kiếm chút cơm thừa canh cặn (Thái Bình mại ca giả)…
Đó chính là tinh thần nhân đạo cao cả, vượt biên giới lãnh thổ và mọi định kiến dân tộc.
4. Cảm hứng tự tôn và khẳng định vị thế Đại Việt qua thơ sứ trình
4.1 Tự tôn, khẳng định vị thế độc lập của Đại Việt
Quá trình bang giao giữa Đại Việt và Trung Hoa cùng các quốc gia trong trật tự Đông Á không chỉ
nhằm tìm kiếm sự ổn định, bình yên, tránh được chiến tranh phi nghĩa mà càng về những giai đoạn sau
thời trung đại, ý thức chống tư tưởng Hoa – Di (tức tư tưởng của Trung Hoa tự xem mình là trung tâm,
chế giễu các nước lân bang là man di) càng nổi lên mãnh liệt. Ý thức đó khởi đầu từ tinh thần tự tôn dân
tộc, khẳng định vị thế độc lập tự chủ của Đại Việt. Từ thời vua Lê Hoàn, vị quân vương đã có những
phản ứng mạnh mẽ để chống đối lại quy định nhận sắc phong từ Trung Hoa. Sự lớn mạnh, độc lập của
Đại Việt đã từng được sứ thần Trung Hoa Lí Giác ghi nhận bằng hai câu thơ nổi tiếng: “Thiên ngoại hữu
thiên ưng viễn chiếu, Khê đàm ba tĩnh kiến thiềm thu” (Ngoài trời lại có trời soi chiếu, Khe đầm lặng
sóng bóng trăng thu). Quy tắc “trong xưng đế, ngoài xưng vương” đã được các đời vua Đại Việt thực thi
để nhắc nhở dân chúng về vị thế độc lập, hun đúc ý chí tự tôn, tự cường, không chấp nhận những áp chế
từ phong kiến phương Bắc.
Qua những giai thoại, tư liệu thơ phú ghi chép lại về tài ứng đối của sứ thần Đại Việt, lòng tự tôn
và khẳng định vị thế quốc gia đến từ những nỗ lực của mỗi sứ thần để đối đáp các câu hỏi bẫy lắt léo của
quân thần Trung Hoa. Trong bộ phận thơ sứ trình, những vần thơ xướng họa của thi nhân thể hiện quyết
tâm mãnh liệt về việc bộc lộ bản lĩnh, chính kiến của bản thân, quyết không nhường nhịn, không thua
kém về trí tuệ. Sứ thần Đoàn Nguyễn Tuấn trước câu hỏi của viên quan người Hán về phong cảnh nước
Nam đã trả lời bằng thi phẩm Hồi đáo Hán cảnh, Hán quan nhân thư thỉnh vấn, An Nam phong cảnh
như hà, dư độc dĩ đáp” (Trở về đến vùng đất Hán, quan người Hán viết thư hỏi phong cảnh nước Nam
ra sao, ta đọc thơ này để đáp): “Cảnh vật nước Nam, khách hỏi a?/Nước Nam cảnh vật, khác Trung Hoa/
Không tia bụi vẩn, quang sông núi/ Suốt bốn mùa xuân rạng cỏ hoa/ Ít bữa ngô khoai, nhiều thóc gạo/
Khinh hàng lông dạ, chuộng the là/ Tuy nhiên, có chỗ đồng nhau lớn/ Lễ nghĩa văn chương tựa một
118
nhà”. Tôn vinh vẻ đẹp quê nhà, dù là những khung cảnh bình dị nhất, đối lập hoàn toàn, tách biệt với
Trung Hoa đã được ông chuyển tải trong những tứ thơ đặc sắc này.
4.2 Tự hào về những chiến thắng lẫy lừng của quân dân chống xâm lăng
Cảm khái trước cảnh quan của thành Ung Châu trong thi phẩm Ung Châu (đã trích dẫn thơ ở mục
3.3), Nguyễn Trung Ngạn đã chạm khắc những cảnh huống có tính đối lập: nếu người lính già của mảnh
đất này ủ dột ngao ngán vì phải chinh phạt phương Nam (tức Đại Việt) thì trong cuộc kháng chiến chống
Tống của vua tôi triều Lý năm 1075 đã tiến vào nơi đây để chặt đứt âm mưu xâm lược từ trong trứng
nước. Với chủ trương “tiên phát chế nhân”, tướng Lí Thưởng Kiệt đã chiếm giữ được 03 châu, 4 động,
đôt kho lương thảo và lui về lập phòng tuyến Như Nguyệt. Nếu quân dân hiện tại của Trung Hoa ảo nảo,
ngán ngẩm, mất hết nhuệ khí thì quân và dân Đại Việt trong quá khứ dũng cảm, oai hùng. Thủ pháp đối
lập kết hợp ý tại ngôn ngoại của ngôn ngữ thơ đã giúp sứ thần Nguyễn Trung Ngạn kín đáo biểu đạt niềm
tự hào về những chiến tích trong các cuộc chiến tranh vệ quốc.
4.3 Tình yêu quê hương, đất nước nồng hậu, da diết
Như đã giới thiệu ở phần trên, quá trình đi sứ thường kéo dài đằng đẵng cả năm trời. Đoàn sứ bộ
phải vượt một chặng đường dài vất vả bằng đường bộ hoặc đường thủy. Thời gian nương náu tại đất
khách quê người khá lâu nên nhiều sứ thần đã không che giấu nổi nỗi nhớ thương quê hương xứ sở,
khẳng định vị trí của quốc gia luôn vĩnh hằng trong tâm khảm. Bài thơ Quy hứng của Nguyễn Trung
Ngạn là điển hình của nét tâm trạng này: “Lão tang diệp lạc, tàm phương tận/ Tảo đạo hoa hương, giải
chính phì/ Kiến thuyết tại gia bần diệc hảo/ Giang Nam tuy lạc bất như quy” (Dâu giả lá rụng tằm vừa
chín/ Lúa sớm bông thơm cua béo ghê/ Nghe nói ở nhà nghèo vẫn tốt/ Giang Nam vui mấy chẳng bằng
về”. Trên đường từ Yên Kinh, qua dịch trạm Giang Nam để về lại Đại Việt, thi nhân nôn nao hồi nhớ lại
biết bao hương vị thôn dã quê nhà: mùi lúa non thơm ngọt, vị béo ngậy của con cua đồng, hình ảnh con
tằm cuộn kén nhả tơ… Theo một số giai thoại, có những sứ thần tài giỏi, trí tuệ mẫn tiệp đã từng được
vua Trung Hoa chào mời ở lại nước bạn để phụng sự, song, dẫu Đại Việt còn vất vả nghèo khó, sứ thần
đất Việt vẫn chọn trở về lại quê hương xứ sở. Đó không chỉ là nét tâm lí “lá rụng về cội” mà quả thực
mỗi người dân Đại Việt nói chung và đoàn sứ bộ nói riêng thời trung đại đều yêu mến da diết mảnh đất
tươi đẹp, giàu truyền thống yêu thương nghĩa tình.
5. Kết luận
Thơ sứ trình là một bộ phận sáng tác độc đáo trong nền văn học trung đại Việt Nam: vừa mang tính
chính luận vừa giáu giá trị nghệ thuật. Những sứ thần tiêu biểu qua các thời kì lịch sử dùng thơ ca để gửi
gắm những suy ngẫm về hoạt động bang giao với Trung Quốc là chủ đạo, đồng thời mở rộng phạm vi
ảnh hưởng đến một số quốc gia trong trật tự Đông Á như Triều Tiên, Mông Cổ. Từ những nghi thức bắt
buộc phải thực hiện cho đến các đánh giá về bản chất của các triều vua trị vì, từ mong muốn khẳng định
vị thế Đại Việt cho đến việc bộc lộc tinh thần nhân đạo cao cả… đã được hòa quyện tạo thành những nội
dung đặc sắc và cảm xúc đa chiều trong những áng thơ này. Một nỗ lực đáng ghi nhận chính là nỗ lực
vượt thoát khỏi ảnh hưởng có tính bao trùm và áp chế của Trung Hoa theo từng giai đoạn lịch sử, đồng
thời tranh thủ kết nối hòa hảo với nhiều nước lân bang… của các đoàn sứ bộ nước Việt. Thơ sứ trình của
các tác giả như Mạc Đĩnh Chi, Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Trung Ngạn, Đoàn Nguyễn Tuấn, Nguyễn
Du là những di cảo có giá trị lớn trong lĩnh vực ngoại giao và văn chương nghệ thuật. Do giới hạn về
dung lượng, các tiểu mục được đề cập đang dừng ở việc điểm xuyết và gợi mở. Hi vọng tác giả có thể
trở lại vấn đề này trong một cái nhìn tổng thể và toàn diện hơn./.
119
3. Nguyễn Công Lý (2013), Diện mạo thơ sứ trình trung đại Việt Nam và thơ đi sứ của
Nguyễn Trung Ngạn, Tạp chí khoa học ĐHSP TP. Hồ Chí Minh số 49, trang 95 -108
4. Nguyễn Công Lý (2018), Văn học Việt Nam thời Lê – Mạc, Nam – Bắc phân tranh –
Những vấn đề về khuyng hướng, thể loại, tác gia tiêu biểu, NXB ĐHQG TP. Hồ Chí Minh.
5. Nguyễn Công Lý (2021), Thơ đi sứ triều Nguyễn: diện mạo và giá trị, Tạp chí Nghiên
cứu Văn học, số 7 (593)-2021, trang 3-18.
6. Nhiều tác giả (2000), Tổng tập Văn học Việt Nam, tập 13, 14, 15, 16, 17, NXB Khoa học
xã hội, Tái bản, Hà Nội.
7. Phạm Thiều – Đào Phương Bình (1993), Thơ đi sứ, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
8. Tạ Ngọc Liễn (2008), Danh nhân văn hóa trong lịch sử Việt Nam,. NXB Thanh Niên.
9. Wu Zai Zhao (2006), Thơ bang giao chữ Hán Việt Nam trong sự giao lưu văn hóa Việt
Nam và Trung Quốc trên lịch sử trung đại, Tạp chí Văn học, số 11/2006.
10. Viện Văn học (1979), Thơ văn Lý - Trần, NXB KHXH. Hà Nội.
120
VÀI NÉT VỀ CÁC THÀNH TỐ ĐÁNH DẤU Ý NGHĨA KẾT QUẢ
TRONG TIẾNG VIỆT
Đỗ Thị Liên*
Khoa Sư phạm, Trường Đại học Bạc Liêu
*Tác giả liên hệ: Điện thoại: 0984 926 648; Email: dtlien@blu.edu.vn
TÓM TẮT
Ý nghĩa kết quả trong ngôn ngữ là vấn đề được nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu. Nó
là trung tâm kết nối cú pháp - ngữ nghĩa của mỗi câu. Ý nghĩa kết quả được nhận diện rõ nét qua các
thành tố đánh dấu như vị từ kết quả, vị từ chỉ trạng thái kết quả và tác tử liên quan. Nghiên cứu về các
nguyên tắc hoạt động của các thành tố đánh dấu này trong giao diện cú pháp – ngữ nghĩa sẽ giúp cho
người đọc hiểu và tạo lập câu tiếng Việt hiệu quả theo đúng văn hóa tư duy của người bản ngữ.
Từ khóa: ý nghĩa kết quả, vị từ kết quả, vị từ chỉ trạng thái kết quả.
1. Tổng quan
Thực tế cho thấy, ý nghĩa kết quả (resultative meaning) là trọng tâm nghiên cứu về giao diện cú
pháp – ngữ nghĩa trong câu. Nghiên cứu ý nghĩa kết quả trong cấu trúc câu là vấn đề thu hút sự quan tâm
của nhiều nhà ngôn ngữ học trên thế giới. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này ở các góc độ
khác nhau như phân tích theo hướng cú pháp, phân tích theo hướng ngữ nghĩa – từ vựng, phân tích theo
hướng cú pháp – ngữ nghĩa,…(cf. Green, 1972; Randall, 1983; Carrier & Randall, 1992; Levin &
Rappaport Hovav, 1995; Wunderlich, 1997; Rappaport Hovav & Levin, 2001; Goldberg & Jackendoff,
2004; Wechler, 2005; Mateu, 2012, …). Trong tiếng Việt, vấn đề ý nghĩa kết quả cũng được nhiều nhà
nghiên cứu đề cập trực tiếp hay gián tiếp trong các bài viết của mình như Nguyễn Kim Thản (1997), Cao
Xuân Hạo (1991), Diệp Quang Ban (2005), Nguyễn Thị Quy (1995), Nguyễn Thị Thu Hương (2010),
Nguyễn Hoàng Trung (2006, 2021, 2014), Nguyễn Thị Hoàng Yến (2016), Lâm Quang Đông (2014),
Nguyễn Vân Phổ (2018),… Trong đó, Nguyễn Vân Phổ là tác giả đã đặt ra khái niệm khá rõ ràng về ý
nghĩa kết quả trong tiếng Việt, cụ thể như sau:
(i) thể hiện trạng thái, vị trí đạt được của đối thể do chủ thể tác động;
(ii) thể hiện trạng thái (kể cả mức độ, số lượng) đạt được do chính sự vận động của chủ thể đưa
đến.
(cf. Nguyễn Vân Phổ, 2018)
Như vậy, ý nghĩa kết quả là một phạm trù trừu tượng. Vậy một câu hỏi đặt ra ở đây là ý nghĩa kết
quả được hiện thực hóa bằng những thành tố đánh dấu nào và thành tố đó hoạt động ra sao trong giao
diện cú pháp – ngữ nghĩa của tiếng Việt. Trong khả năng nhận biết của người viết, chúng tôi nhận thấy
chưa có những công trình nghiên cứu riêng biệt về các thành tố đánh dấu ý nghĩa kết quả trong tiếng
Việt, mặc dù vấn đề này đã ít nhiều được nhắc đến trong các công trình nghiên cứu của một số tác giả.
Trên cơ sở xem xét các công trình nghiên cứu đi trước kết hợp cùng điều kiện khuôn khổ hẹp của bài
viết này, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề còn bỏ ngỏ hoặc chưa nghiên cứu sâu về ý
nghĩa kết quả, còn những vấn đề đã được các tác giả đi trước bàn kĩ thì chúng tôi sẽ không bàn lại. Cụ
thể, chúng tôi tập trung hướng đến nghiên cứu một số vấn đề trọng điểm sau:
(i) xác định rõ các thành tố đánh dấu ý nghĩa kết quả trong tiếng Việt, cụ thể là vị từ hàm ý kết quả,
vị từ chỉ trạng thái kết quả và tác tử đánh dấu “đã”;
(ii) xác định nguyên tắc hoạt động của các thành tố trong giao diện cú pháp-ngữ nghĩa để hình
thành ý nghĩa kết quả trong câu tiếng Việt.
2. Phương pháp
Để thực hiện bài viết này, trước tiên chúng tôi sử dụng phương pháp miêu tả để miêu tả các cấu
trúc cú pháp và ngữ nghĩa của câu có chứa các thành tố đánh dấu ý nghĩa kết quả; để phân tích làm rõ
các ví dụ minh chứng, tạo sức thuyết phục cho các luận điểm mà chúng tôi đưa ra trong bài viết. Bên
121
cạnh đó, chúng tôi cũng sử dụng thêm phương pháp so sánh đối chiếu để liên hệ đối sánh những hiện
tượng ngôn ngữ trong tiếng Việt với tiếng Anh (một ngôn ngữ quốc tế phổ quát) để có thể có những đánh
giá chuẩn xác hơn.
122
trạng thái “chết” của con vật trong (2d) không có gì là quan trọng hoặc cần nhấn mạnh, vì vậy vị từ chỉ
trạng thái kết quả “chết” không được đưa vào trong (2c).
Tương tự, trong tiếng Việt, chúng ta có thể thấy một số vị từ tự từ vựng hóa kết quả như tử hình,
sát hại, hành quyết, tàn sát, mở, đóng, khóa,… Với những vị từ này khi tồn tại trong câu, nó cũng không
cần có vị từ chỉ trạng thái kết quả đi kèm nhưng câu chứa nó vẫn biểu thị ý nghĩa kết quả rõ ràng.
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng xin lưu ý thêm trường hợp biến thể sau:
(3) a. Canh này hâm rồi.
b. Canh này hâm nóng rồi.
c. *Canh này hâm rồi nhưng chưa nóng.
Tương tự như trường hợp của vị từ chỉ trạng thái kết quả “chết” như đã phân tích ở trên, vị từ
“nóng” trong (3b) nếu có tồn tại trong câu thì phục vụ chủ yếu cho mục đích ngữ dụng: ngầm ý như nhắc
nhở người ăn hãy yên tâm khi dùng món canh này vì đã “hâm” rồi. Xét ở (3a), vị từ “hâm” ở đây ngầm
ý vừa chỉ phương thức thực hiện “hâm” vừa chỉ luôn kết quả biến đổi trạng thái của “canh này” trở nên
“nóng”. Do đó, nếu không vì mục đích ngữ dụng thì không cần phải thêm vị từ “nóng” vào trong phát
ngôn (3a), phát ngôn vẫn ngầm thể hiện được ý nghĩa kết quả. Ví dụ (3c) cho thấy cách diễn đạt đó là
bất bình thường, trạng thái “nóng” vốn tiềm ẩn trong hoạt động “hâm”, do đó không thể sử dụng cú phủ
định đi kèm được. Bên cạnh đó, trong (3a) và (3b), cấu trúc cú pháp của câu được tổ chức khác với thông
thường, nhằm để nhấn mạnh đối tượng “canh này” và tinh gọn câu chữ trong giao tiếp. Theo đó, Bị thể
“canh này” được chuyển vị lên đầu câu thế vị trí của Tác thể và Tác thể, người hâm canh, đã bị lược đi
trong phát ngôn. Có thể khôi phục dạng đầy đủ hơn như sau: Mẹ hâm canh này rồi.
3.2 Ý nghĩa kết quả được đánh dấu bằng vị từ chỉ trạng thái kết quả
Trong tiếng Anh, vị từ chỉ trạng thái kết quả (verb indicating the result state) thường được tạo ra
bởi quá trình “x causes y to become z by doing w” trong quá trình đó, “z” chỉ vị trí của vị từ chỉ trạng thái
kết quả, ví dụ như trong câu John wiped the table clean thì vị từ “clean” được xác định là vị từ chỉ trạng
thái kết quả (cf. Ausensi, J., 2020).
Trong tiếng Việt, vị từ chỉ trạng thái kết quả (V2) thường đi sau vị từ chuyển tác và có khả năng
tồn tại luân phiên ở hai dạng cụ thể sau:
a. [NP1 – V1 – V2 - NP2]
b. [NP1 – V1 – NP2 - V2]
Xét trong hai mô hình cú pháp trên thì dù ở vị trí nào V2 cũng chính là thành tố đánh dấu sự thay
đổi trạng thái của NP2. Trong đó, theo thông thường, NP1 là danh ngữ đóng vai trò chủ ngữ ngữ pháp của
câu và đảm nhận vai nghĩa Tác thể (Agent); V1 là vị từ chính, là vị từ chuyển tác (transitive) và có khả
năng gây khiến hóa (causativize), thông thường là vị từ hàm ý chỉ phương thức (implied-manner); V2 là
vị từ chỉ trạng thái kết quả, luôn xuất hiện sau vị từ chính để thể hiện trạng thái thay đổi của đối thể sau
khi bị tác động; NP2 là danh ngữ bổ ngữ trực tiếp chịu tác động bởi lực gây ra ở V1, đóng vai trò là Bị
thể (Patient).
Như vậy có thể thấy trong câu có chứa vị từ chuyển tác chỉ phương thức thì vị từ chỉ trạng thái kết
quả đi kèm chính là thành tố để chúng ta xem xét ý nghĩa kết quả được thể hiện như thế nào trong phát
ngôn. Nếu không có nó, chắc chắn ý nghĩa kết quả không thể xảy ra. Để rõ hơn, chúng ta sẽ đi vào tìm
hiểu từng trường hợp cụ thể.
(4) a. Hắn đâm chết người hàng xóm cạnh nhà.
b. Nó đập vỡ cái bát.
c.? Nó đập cái bát vỡ.
d. Nó đập cái bát vỡ làm đôi.
e. Nó đánh vỡ cái bát.
f. Tóc nó cắt ngắn rồi.
Xem xét các ví dụ trên chúng ta thấy, ở ví dụ (4a) và (4b) khi vị từ “chết”, “vỡ” xuất hiện thì sự tình
được thể hiện trong hai câu mang ý nghĩa kết quả thể hiện qua sự thay đổi trạng thái tồn tại của “người
hàng xóm” dưới tác động của hành động “đâm”, của “cái bát” dưới tác động của hành động “đập”. Nếu
123
lược đi hai vị từ này thì ý nghĩa kết quả trong câu chỉ còn ở dạng tiềm năng, chúng cho phép sự xuất hiện
của cú phủ định kết quả với liên từ nhưng:
(5) a. Hắn đâm người hàng xóm nhưng may ông ấy không chết.
b. Nó đập cái bát nhưng không vỡ.
Tiếp tục xét đến trường hợp (4e), mặc dù giữa (4b), (4c) và (4e) cùng miêu tả chung một trạng thái
“vỡ” của cái bát nhưng vị từ chính ở hai trường hợp (4b), (4c) và (4e) có cơ chế hoạt động khác nhau.
Trong (4b), có thể tỉnh lược vị từ kết quả “vỡ”, câu vẫn hợp lí về mặt logic ngữ nghĩa; tuy nhiên, trong
(4e) nếu tỉnh lược vị từ “vỡ”, câu trở nên bất hợp lí về mặt logic ngữ nghĩa (? Nó đánh cái bát.). Điều
này chứng tỏ rằng vị từ “đánh” là một vị từ khuyết thiếu, nó cần có một vị từ khác đi kèm để bổ sung ý
nghĩa. Một vấn đề đặt ra là khi nào thì dùng phát ngôn “Nó đập vỡ cái bát.” và khi nào thì dùng phát
ngôn “Nó đánh vỡ cái bát.”. Phân tích theo cảm quan ngôn ngữ của người bản địa thì khi nào chúng ta
biết rõ phương thức làm vỡ cái bát (là dùng tay để đập) thì chúng ta dùng vị từ “đập”, còn khi nào chúng
ta không rõ bằng phương thức nào mà cái bát bị vỡ thì chúng ta dùng cách miêu tả “đánh vỡ”.
Ở (4c) có sự luân phiên chuyển vị vị từ chỉ trạng thái “vỡ” ra sau bổ ngữ “cái bát”. Trong trường
hợp này, chúng ta sẽ loại bỏ cách hiểu bất bình thường (ngoại trừ các trường hợp đặc biệt ra): nó đập cái
bát và cái bát này đã vỡ từ trước rồi (không ai làm một việc dư thừa như vậy); cách hiểu thứ hai có thể
xảy ra: nó đập cái bát và khiến cái cái bát vỡ, tuy nhiên cách diễn đạt của câu (4c) theo cách hiểu này thì
không được tự nhiên, tự nhiên nhất vẫn là cần kèm theo bổ ngữ chỉ mức độ “làm đôi” đi kèm như trong
diễn đạt của câu (4d).
Ở trường hợp (4f) là một hiện tượng biến thể, cũng có sự chuyển vị bổ ngữ trực tiếp đóng vai Bị
thể “tóc nó” lên đầu câu thế vào vị trí Tác thể. Trong trường hợp này vị từ chuyển tác “cắt” chỉ hoạt động
của Tác thể “người cắt” (đã bị tỉnh lược trong câu). Theo đó, vị từ “cắt” không phải chỉ hoạt động của
“tóc nó” [+vô sinh] [+không chủ ý], chỉ có vị từ “ngắn” là chỉ trạng thái kết quả của “tóc nó”. Nếu xét
trong mô hình cấu trúc cú pháp tiêu biểu [NP1 – V1 – V2 - NP2] thì NP1 mặc dù giữ vai trò chủ ngữ ngữ
pháp trong câu nhưng không giữ vai nghĩa Tác thể như thông thường mà ở trường hợp này nó giữ vai trò
là Bị thể.
Kiểu câu này cũng khá phổ biến trong tiếng Việt như:
(6) a. Quần áo giặt sạch rồi.
b. Nhà quét sạch rồi.
c. Đầu tóc chải xong rồi.
Ngoài ra, chúng tôi cũng xin bàn thêm về một số cấu trúc câu đã được bàn bấy lâu nay:
(7) a. Con mèo cắn chết con chuột.
b.? Con mèo cắn con chuột chết.
c. Anh ấy đập chết con chuột.
d. Anh ấy đập con chuột chết.
Theo như một số bài viết trước đây đã dẫn thì diễn đạt trong (7a) là ổn, còn diễn đạt trong (7b) mắc
lỗi sai chập cấu trúc, gây mập mờ ở hai cách hiểu: (i) con mèo cắn con chuột khiến con chuột chết hay
(ii) con mèo cắn con chuột mà con chuột đã chết từ trước rồi. Nếu hiểu theo trường hợp thứ nhất thì vị
từ “chết” ở đây chính là vị từ chỉ trạng thái kết quả đánh dấu ý nghĩa kết quả trong câu. Còn nếu hiểu
theo trường hợp thứ hai thì vị từ “chết” chỉ là thành phần bổ nghĩa trong danh ngữ “con chuột chết”, theo
đó (7b) không mang ý nghĩa kết quả. Tương tự, vậy vấn đề đặt ra cho (7d) là thế nào, liệu (7d) có phải
mắc lỗi sai tương tự như (7b) hay không. Để giải thích vấn đề, nhìn ở góc độ ngữ nghĩa tri nhận chúng
tôi nhận thấy (7d) là một câu hoàn toàn chấp nhận được và chắc chắn không mắc lỗi sai như ở trường
hợp (7b). Lí do như sau, trong (7b) Tác thể “con mèo” là một động vật bậc thấp thực hiện tác động “cắn”
lên Bị thể “con chuột” theo một bản năng săn bắt mồi của nó: cho dù con chuột còn sống hay con chuột
đã chết rồi thì con mèo đều có thể “cắn” và thậm chí ăn. Tuy nhiên ở trường hợp (7d), Tác thể “anh ấy”
ý thức được hành động của mình, chỉ thực hiện hành động “đập” lên Bị thể “con chuột” khi nó còn sống,
khi nó đã chết rồi thì “anh ấy” chắc chắn không đập nữa (Ngoại trừ trường hợp anh ấy cố tình đập thêm
khi nó đã chết rồi, trường hợp này không phải là phổ biến, chúng tôi không tính đến). Theo cách giải
thích này thì vị từ “chết” ở cả (7c) và (7d) đều thể hiện trạng thái kết quả của Bị thể “con mèo” sau khi
bị Tác thể “anh ấy” tác động. Do vậy ở cả hai câu này đều mang ý nghĩa kết quả.
124
3.3 Ý nghĩa kết quả được đánh dấu bằng tác tử đã
Trước đây, một số tài liệu Việt ngữ học và thậm chí cả trong quan niệm của một số người Việt thì
“đã” thường được xem là yếu tố chỉ thì (tức chỉ thời gian quá khứ của sự việc được đề cập tới). Vấn đề
này đã được Cao Xuân Hạo bác bỏ mạnh mẽ: tiếng Việt không có phạm trù thì. Sau Nguyễn Vân Phổ
cũng đã ủng hộ quan điểm này và trình bày khá rõ nét trong công trình nghiên cứu của mình (cf. Nguyễn
Vân Phổ, 2018). Theo tác giả “đã” là một tác tử tình thái đánh dấu ý nghĩa hiện thực hoặc có thật xét ở
thời điểm quy chiếu của sự tình được miêu tả trong ngữ đoạn sau đó; “đã” có thể xuất hiện trong tiếng
Việt ở ba trường hợp tiêu biểu, trong đó có trường hợp thứ nhất: đã + ngữ vị từ [+động] [+hữu kết] cũng
đồng thời thể hiện rõ ý nghĩa kết quả trong câu tiếng Việt.
(8) a. Cháu đã ăn cơm rồi.
b. Cháu đã ăn cơm xong.
c. Chị ấy đã về nhà rồi.
Trong các trường hợp của (8), xem xét kĩ chúng ta sẽ thấy, “đã” không phải là yếu tố bắt buộc xuất
hiện trong câu để thể hiện phạm trù thì, thậm chí nếu ta tỉnh lược chúng đi thì cấu trúc cú pháp – ngữ
nghĩa của câu vẫn được đảm bảo ở mức cơ bản. “Đã” ở đây tồn tại luôn mang một tình thái riêng. Ở (8a)
sử dụng kết cấu […đã…rồi…] có thể hiểu là “cháu” đang ngầm thông báo đã kết thúc bữa ăn và có một
trạng thái kết quả mới của cơ thể ở thời điểm hiện tại so với tiền giả định trước đó (lúc chưa ăn): không
còn đói và không muốn ăn nữa. Ở (8b) sử dụng kết cấu […đã…xong…] cũng ngầm thông báo đã kết
thúc bữa ăn và có một trạng thái mới của cơ thể: không còn bận việc ăn và sẵn sàng nhận nhiệm vụ tiếp
theo. Như vậy có thể thấy sự xuất hiện của các tác tử “xong’ và “rồi” ở cuối câu (8a) và (8b) đã ít nhiều
ảnh hưởng tới cấu trúc ngữ nghĩa, ngữ dụng của câu trong giao tiếp. Ở (8c) thể hiện sự di chuyển “về”
của “chị ấy” đã đạt đến điểm đích “nhà” và cũng đồng thời thể hiện ý nghĩa việc di chuyển của chị ấy đã
đạt đến điểm đích.
Một vấn đề nữa cũng đặt ra ở đây, không phải cứ xuất hiện tác tử đã trong câu thì câu đó sẽ mang
ý nghĩa kết quả. Chúng ta thử xem các trường hợp sau:
(9). a. Mẹ tôi đã già hơn.
b. Thằng bé đã cao hơn.
c. Cây đã ra lộc.
Ở (9a), tình trạng “già” của mẹ đã khởi tạo và sẽ còn tiếp tục già nữa, ở (9b) chiều cao của thằng
bé sẽ còn tiếp tục phát triển tiếp, ở (9c) cây còn tiếp tục ra thêm lộc nữa, chúng ta không thể biết khi nào
thì các quá trình phát triển này kết thúc hoàn thành. Theo đó, các câu trong (9) đều không chứa ý nghĩa
kết quả.
Trước những hiện trạng xảy ra ở (8) và (9), chú ý kĩ chúng ta sẽ thấy rõ các vấn đề sau. Trong các
câu (8), các ngữ vị từ đi sau “đã” đều chỉ những hoạt động có thời đoạn rõ ràng: ăn cơm hay di chuyển
về nhà cũng chỉ cần một thời gian nhất định. Khi kết hợp với “đã” thì các sự tình đoạn tính đấy đều trở
thành các sự tình hữu đích có kết điểm (endpoint) rõ ràng, đặc biệt lại được kết hợp thêm với “rồi, xong”
– các tác tử chỉ sự hoàn tất thì ngữ đoạn kết hợp đã + ngữ vị từ [+đoạn tính] + rồi/xong chắc chắn sẽ
mang ý nghĩa kết quả. Ngược lại, với các câu ở (9), các ngữ đoạn theo sau “đã” là những ngữ đoạn thể
hiện sự tình động không thời hạn, lúc này “đã” xuất hiện trong câu cũng chỉ có ý nghĩa đánh dấu về sự
khởi tạo cho quá trình phát triển vô thời hạn sau đó của chủ thể được đề cập trong câu mà thôi. Vậy nên
ý nghĩa kết quả không xuất hiện trong (9).
4. Kết luận
Bài viết giới thiệu một số trọng điểm cơ bản về các thành tố đánh dấu ý nghĩa kết quả trong câu
tiếng Việt theo hướng ngữ nghĩa học và cú pháp học, đồng thời kết hợp thêm yếu tố ngữ dụng và tri nhận
để giải thích vấn đề nghiên cứu rõ hơn. Những thành tố đánh dấu ý nghĩa kết quả trong câu tiếng Việt
ảnh hưởng trực tiếp đến giao diện ngữ nghĩa và cú pháp, mỗi sự thay đổi của chúng cũng đồng thời kéo
theo sự sắp xếp lại cấu trúc câu. Việc nhận diện và hiểu rõ nguyên tắc hoạt động của các thành tố này sẽ
giúp cho người học tiếng Việt biết cách hiểu, phân tích và tạo lập câu tiếng Việt hiệu quả, phục vụ đắc
lực cho hoạt động giao tiếp hàng ngày của mỗi người.
125
5. Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Thị Thu Hương (2010), Cấu trúc gây khiến – kết quả trong tiếng Anh và tiếng
Việt, Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học KHXH&NV, ĐH Quốc gia Hà Nội.
2. Nguyễn Vân Phổ (2018), Ngữ pháp tiếng Việt – ngữ đoạn và từ loại, Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Nguyễn Thị Quy (1995), Vị từ hành động, Hà Nội: Khoa học xã hội.
4. Nguyễn Kim Thản (1997), Động từ trong tiếng Việt, Hà Nội: Khoa học Xã hội.
5. Nguyễn Hoàng Trung (2014), Vài nét về kết cấu gây khiến trong tiếng Việt, Khoa học
ĐHSP TP. Hồ Chí Minh, 63, 16-27.
6. Nguyễn Hoàng Trung (2021), Xác định thuộc tính hữu đích, Từ điển học & Bách khoa
thư, 2, 136-144.
7. Nguyễn Thị Hoàng Yến (2016), Các kiểu cấu trúc kết quả tiếng Việt, Khoa học ĐHSP
TP. Hồ Chí Minh, 2, 33-42.
8. Ausensi, J. (2020), Resultatives and the architecture of event structure,
https://www.researchgate.net/publication/343162816.
9. Hovav, R.M. & Levin, B. (2001), An event structure account of english resultatives,
file:///C:/Users/DELL/Downloads/An_Event_Structure_Account_of_English_Resultatives%20(1).pdf
10. Hovav, R., M., Doron, E., & Sichel, I. (2010), Lexical Semantics, Syntax, and Event
Structure. United States, NY: Oxford University Press.
11. Kaufmann, I. & Wunderlich, D. (1998), Cross-linguistic patterns of resultatives,
https://www.academia.edu/26609149/Cross_linguistic_patterns_of_resultatives.
12. Levin, B. (2009), Lexical Semantics of Verbs II: The Structure of Event Structure,
https://web.stanford.edu/~bclevin/lsa09event.pdf.
13. Levin, B. (2020), Resultatives and Constraints on Concealed Causatives,
https://link.springer.com/chapter/10.1007/978-3-030-34308-8_6.
14. Josep Ausensi, J. (2020), Resultatives and the Architecture of Event Structure,
lingbuzz.net/lingbuzz/005325.
15. Thepkanjana, K. & Uehara, S. (2010), Syntactic and Semantic Discrepancies among the
Verbs for ‘kill’ in English, Chinese and Thai, https://aclanthology.org/Y10-1033/.3.
126
NGÔN NGỮ CHAT CỦA GEN Z Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Lê Thị Thùy Vinh*1, Nguyễn Thị Bích Phương2, Lê Thu Thảo2, Nguyễn Thị Hoàng Yến2
1
TS, Khoa Ngữ văn, Trường ĐHSP Hà Nội 2
2
SV K45A SP Ngữ văn, Trường ĐHSP Hà Nội 2
*Tác giả liên hệ: Điện thoại: 0982 058 702; Email: lethithuyvinh@hpu2.edu.vn
TÓM TẮT
Một trong những vấn đề được bàn luận khá sôi nổi trên các diễn đàn mạng và truyền thông đại
chúng hiện nay là việc sử dụng ngôn ngữ trong văn hóa giao tiếp thường ngày của giới trẻ như nhắn tin
trên điện thoại, chat trên mạng, hội thoại ngoài đời sống... Giới trẻ và đặc biệt là Gen Z đã sáng tạo ra
cho mình một kiểu loại ngôn ngữ riêng không theo quy chuẩn của tiếng Việt và có những tác động lớn
đến tiếng Việt. Không ít người cho rằng loại hình ngôn ngữ đặc biệt này khiến cho tiếng Việt mất đi sự
trong sáng nhưng cũng có ý kiến cho rằng ngôn ngữ chat là sản phẩm tất yếu của quá trình phát triển
ngôn ngữ. Với ý nghĩa đó, báo cáo này hướng đến tìm hiểu về “Ngôn ngữ chat của Gen Z ở Việt Nam
hiện nay” nhằm làm rõ các dạng thức sử dụng ngôn ngữ chat của Gen Z đồng thời đưa ra nguyên nhân
cũng như những giải pháp nhằm hạn chế việc lạm dụng ngôn ngữ chat trong giao tiếp nói chung và thói
quen sử dụng ngôn ngữ nói riêng.
Từ khóa: ngôn ngữ chat, Gen Z, tiếng lóng, từ vay mượn, trộn mã.
1. Đặt vấn đề
Việt Nam đang dần hòa nhịp cùng với sự phát triển của thế giới. Bên cạnh sự hòa nhập về kinh tế
thì sự giao thoa về văn hóa và ngôn ngữ cũng là một điều dễ hiểu. Trong xu hướng hội nhập đó, trên cơ
sở sự phát triển của các trang mạng xã hội cũng như việc tìm kiếm và trao đổi thông tin trên internet,
ngôn ngữ “chat” đã ra đời đáp ứng nhu cầu giao tiếp của giới trẻ Gen Z, tạo thêm nét vui tươi dí dỏm
trong giao tiếp.
Gen Z là bộ phận giới trẻ có năm sinh trong khoảng từ 1996 đến 2010 đã được tiếp xúc với mạng
xã hội từ khá sớm. Trên các không gian mạng xã hội, giới trẻ đã sáng tạo ra những từ ngữ mới, cách viết
mới để giao tiếp, từ đó hình thành ngôn ngữ giới trẻ. Ngôn ngữ giới trẻ là phương ngữ xã hội có sự mới
mẻ và khác lạ, tuy nhiên phương ngữ xã hội này đem đến nhiều ý kiến trái chiều trong dư luận. Vì những
lí do trên, trong báo cáo này “Ngôn ngữ chat của Gen Z Việt Nam hiện nay” chúng tôi sẽ đưa ra một số
biểu hiện cụ thể của ngôn ngữ chat, nguyên nhân và một số biện pháp khắc phục thực trạng sử dụng ngôn
ngữ chat trong giới trẻ.
2. Tổng quan
2.1 Quan niệm về ngôn ngữ chat
Ngôn ngữ chat (còn gọi là ngôn ngữ mạng, ngôn ngữ @,…) xuất phát từ từ “chat” trong tiếng Anh
“chat” nghĩa là “chuyện phiếm, tán ngẫu”. Với lẽ đó, ngôn ngữ chat được hiểu là ngôn ngữ trò chuyện
giữa hai hay nhiều người thông qua mạng Internet.
Hiện nay, “ngôn ngữ chat” có sức lan tỏa rất mạnh mẽ trong xã hội. Nó phát triển theo trào lưu
phát triển của mạng xã hội và người dùng internet, điện thoại di động. Nó liên tục biến đổi và xâm nhập
vào lời ăn tiếng nói của giới trẻ trong giao tiếp. Những tranh cãi về ngôn ngữ chat cũng vì thế mà xuất
hiện. Hai luồng ý kiến đánh giá về tính tích cực và tính tiêu cực về kiểu loại ngôn ngữ này đã đặt ra cho
chúng ta nhiều suy nghĩ.
128
- Mức độ 4: 26 người 4: không bao giờ.
3 Nếu đã sử dụng ngôn ngữ chat thì Đáp án 1: 6 người
đối tượng bạn hướng đến là những Đáp án 2: 130 người
nhóm người nào sau đây? Đáp án 3: 0 người
1. Tất cả mọi người Đáp án 4: 19 người
2. Bạn thân, người yêu
3. Người lớn tuổi như cha mẹ, thầy
cô
4. Đồng nghiệp, bạn bè xã giao.
4 Bạn đã sử dụng ngôn ngữ chat Đáp án 1: 148 người
trong những trường hợp nào sau Đáp án 2: 95 người
đây? (có thể chọn nhiều đáp án) Đáp án 3: 26 người
1. Khi nhắn tin, trò chuyện với bạn Đáp án 4: 57 người
bè trên mạng xã hội
2. Khi giao tiếp trong cuộc đối
thoại nhằm tạo sự trẻ trung, hài
hước.
3. Trong bài viết, bài thi, bài kiểm
tra.
4. Trong lời ăn tiếng nói hằng
ngày.
5 Bạn có hài lòng với sự phát triển Mức độ 1: 8 người 1. Ủng hộ
không ngừng của ngôn ngữ chat Mức độ 2: 25 người 2. Hài lòng.
hiện tại không? Mức độ 3: 64 người 3. Không quan tâm.
Mức độ 4: 58 người 4. Không hài lòng và muốn
có các giải pháp hạn chế.
Kết quả khảo sát cho thấy hầu hết các bạn trẻ trong độ tuổi Gen Z đều biết hoặc sử dụng “ngôn ngữ
chat” ở mức độ phổ biến, chiếm 97,4%. Trong đó, chỉ có 4 người không biết ngôn ngữ trên, chiếm tỉ lệ
rất ít (2,6%). Về mức độ sử dụng, số người sử dụng rất thường xuyên tuy không chiếm đa số nhưng cũng
không hề nhỏ (9,6%), người sử dụng thường xuyên là 21,3 % và mức độ sử dụng thỉnh thoảng chiếm đại
đa số là 81 người chiếm 52,3 %. Ngoài ra, cũng có những Gen Z không sử dụng “ngôn ngữ chat” bao
giờ chiếm 16,8%. Ngôn ngữ chat thật sự đang trở thành niềm say mê và kiêu hãnh của giới trẻ. Từ trong
thế giới ảo, thế hệ Gen Z đang ra sức “sáng tạo” không ngừng ngôn ngữ của mình.
Theo kết quả khảo sát, chúng tôi nhận thấy bạn bè thân thiết là đối tượng sử dụng ngôn ngữ “chat”
nhiều nhất (84%). Sau đó là bạn bè xã giao đơn thuần. Bên cạnh đó, những số liệu khảo sát trong biểu
đồ dưới đây cũng chứng minh một thực tế là có rất ít người sử dụng ngôn ngữ mạng trong phạm vi giao
tiếp chính thức bởi đây là ngôn ngữ mang tính khẩu ngữ, thường chỉ được sử dụng trong phạm vi một
nhóm xã hội có ngữ vực thân tình.
Theo như khảo sát, Gen Z sử dụng phần lớn ngôn ngữ này khi nhắn tin, chat chit; nếu có sử dụng
cho mục đích giao tiếp đa phần để tạo không khí vui vẻ, hài hước, bắt xu hướng. Tuy nhiên, vẫn có những
trường hợp lạm dụng ngôn ngữ chat quá đà, đưa ngôn ngữ chat vào môi trường kiểm tra, thi cử và chiếm
số lượng khá lớn 16,7%. Đây là một con số đáng báo động thể hiện ngôn ngữ chat đang vượt quá phạm
vi môi trường ảo của mình và làm ảnh hưởng đến sự trong sáng của tiếng Việt.
Với sự phổ biến nhanh chóng của ngôn ngữ mạng hiện nay, dư luận nổi lên nhiều luồng ý kiến
khác nhau, có ý kiến ủng hộ, có ý kiến phản đối hoặc thậm chí là cả hai. Tuy nhiên thực tế cho thấy số
người bày tỏ thái độ không quan tâm hoặc không hài lòng chiếm đa số (79,8%). Có 21,2 % Gen Z hiện
nay hài lòng, hoặc ủng hộ với sự phát triển không ngừng của ngôn ngữ chat. Việc hình thành các mạng
xã hội đã tạo điều kiện cho các bạn trẻ tự xây dựng một thế giới riêng mình. Trong thế giới đó, nhiều
chuẩn mực, lễ nghi trong giao tiếp ngoài đời đã không còn nữa.
3. Kết luận
Ngôn ngữ chat của Gen Z nổi lên như một hiện tượng, trào lưu mới đã tạo nên một hiệu ứng khiến
nhiều người cũng bắt đầu sử dụng chúng với sự tò mò, cuối cùng là sử dụng loại ngôn ngữ đó một cách
tự nhiên với cường độ liên tục trên các trang mạng xã hội. Điều này chắc chắn sẽ gây nên nhiều tranh cãi
khó tránh khỏi không chỉ trong cộng đồng mạng mà còn ở phạm vi ngoài xã hội. Vì vậy, ngôn ngữ chat
của Gen Z có thể chấp nhận được nếu điều này chỉ dừng lại ở mức độ vừa phải bằng cách giảm tần suất
sử dụng chúng xuống đến mức cho phép.
Chúng tôi mong rằng giới trẻ Việt Nam hiện nay sẽ nhanh chóng nhận thức được giới hạn trong
hành động của mình và có cho mình sự lựa chọn đúng đắn trong việc sử dụng ngôn ngữ để tạo nên ấn
tượng đẹp cho bản thân, gia đình, cộng đồng mạng hiện nay và tương lai.
131
CÁCH ĐẶT TÊN CHO NHÂN VẬT TRONG
TÁC PHẨM “BẾN KHÔNG CHỒNG” CỦA DƯƠNG HƯỚNG
TÓM TẮT
Nhân vật là “đứa con tinh thần” của nhà văn, được nhà văn hoài công, hoài sức “thai nghén”.
Mỗi nhân vật thường được nhà văn đặt cho một cái tên theo những cách khác nhau nhằm gửi gắm những
tâm tư, tình cảm của tác giả về con người và cuộc đời. Việc đặt tên cho nhân vật được xem là một trong
những thủ pháp nghệ thuật góp phần thể hiện chủ đề tác phẩm, gợi ra phong cách nhà văn. Vì vậy, tên
nhân vật là một vấn đề cần được nghiên cứu để tiếp cận gần hơn với tác phẩm.
1. Tổng quan
Nhân vật văn học luôn giữ vai trò quyết định nội dung, tư tưởng trong tác phẩm, vì vậy, nhà văn
luôn dồn tâm huyết và tài năng của mình vào việc khắc họa nhân vật. Để nhận biết các nhân vật trong
tác phẩm, nhà văn buộc phải đặt cho mỗi nhân vật một cái tên cũng như cha mẹ đặt tên cho đứa con mình
sinh thành. Đặt tên cho các nhân vật là một thao tác quan trọng trong sáng tác bởi nó thể hiện năng lực
tư duy, sự liên tưởng, mục đích của người đặt tên cho nhân vật, đây được xem là một “không gian nghệ
thuật” để các nhà văn phát huy trí sáng tạo và độc giả thưởng thức, cảm nhận ý vị sâu xa của chính những
cái tên trong mối quan hệ với hình tượng nhân vật và nội dung tư tưởng của cả tác phẩm. Bài viết này sẽ
đi vào tìm hiểu cách đặt tên cho các nhân vật trong diễn ngôn “Bến Không Chồng” của Dương Hướng
để cho thấy tên nhân vật cũng là một trong những thủ pháp nghệ thuật thể hiện tư tưởng nội dung tác
phẩm cũng như tài năng sáng tạo của Dương Hướng.
1.1. Nhân vật là đứa con tinh thần, là sản phẩm của trí tuệ của nhà văn. Thông qua nhân vật, nhà
văn gửi gắm những suy tưởng, ước vọng về con người, cuộc đời. Vì vậy, có thể nói nhân vật chính là
điểm nút nối liền nhà văn với người đọc.
Nhân vật văn học thường có một “căn cước” xác định, biểu hiện trước hết bằng những tên gọi giúp
độc giả hình dung về hình tượng của mình, như Tấm, Cám… Tên nhân vật có thể gợi ra đặc điểm hình
dáng bề ngoài nhân vật (Thị Nở, Chí Phèo…), gắn với nghề nghiệp, địa vị của nhân vật (quan huyện,
ông giáo…) hoặc thể hiện đặc điểm hình dáng, tính cách nhân vật (chàng Ngốc, anh Khoai, anh Ngố…)
hay mang ý nghĩa, nhan đề tác phẩm như nhân vật Lãm, Nguyệt trong “Mảnh trăng cuối rừng” của
Nguyễn Minh Châu. Tuy nhiên, trong tác phẩm văn học thường có cả những nhân vật “không tên” (không
được đặt tên). Sự xóa bỏ “căn cước” này xuất phát từ sự hiện diện quá mờ nhạt của những nhân vật phụ,
hoặc đôi khi cũng thể hiện dụng ý nghệ thuật của nhà văn: nó thể hiện tính chất “dưới đáy” của những
phận người (thị, người đàn ông, người đàn bà…) như trong “Vợ nhặt” của Kim Lân hay “Chiếc thuyền
ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu… ngoài ra còn thể hiện tính chất phổ biến, đại chúng của các nhân
vật (anh thanh niên, cô kỹ sư…) trong “Lặng Lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long.
1.2. Theo Đinh Trọng Lạc, có rất nhiều cách đặt tên nhân vật khác nhau, song phổ biến nhất là đặt
tên nhân vật sử dụng phép cải danh – “một biến thể của lối chuyển nghĩa có tính chất ẩn dụ, dùng tên
riêng thay cho tên chung hoặc dùng tên chung thay cho tên riêng” [1; tr 60]. Theo tác giả, có thể đặt tên
cho nhân vật theo một số cách như: Đặt tên nhân vật gắn với hình dáng, đặc điểm của nhân vật (Khổng
lồ, Tí hon, Sọ Dừa…); đặt tên nhân vật gắn với nghề nghiệp, công việc của nhân vật (Thần gió, thần
mưa…); đặt tên nhân vật gắn với chức vụ, địa vị của nhân vật (Quan huyện, thầy Lý, Bà lớn…); đặt tên
nhân vật gắn với đặc điểm tính cách nhân vật (Chàng Ngốc, anh Khoai…). Ngoài ra cũng có thể dùng
tên nhân vật để thể hiện số phận hoặc ẩn ý về cuộc đời nhân vật.
Trong văn xuôi hiện đại, tên nhân vật không chỉ gắn với ngoại hình mà còn thể hiện được tính cách,
xuất thân, số phận cuộc đời của nhân vật hoặc quan điểm về con người, cuộc đời của tác giả. Trong
132
“Không có vua”, Nguyễn Huy Thiệp đã rất dụng công khi “thiết kế” tên các nhân vật: lão Kiền – người
cha cai quản cả gia đình với tác phong nửa lưu manh nửa hiền từ - đại diện cho quẻ Càn là trời, đứng đầu
bát quái. Cái bát quái sứt mẻ trong một gia đình mà nền tảng đang trên đà băng hoại, các quẻ Cấn, Đoài,
Khảm, Tốn lạc loài, chỉ có anh Khiêm mổ lợn, có lẽ đại diện cho quẻ Khôn, giữ được chút đạo đức trong
tác phẩm.
Có thể thấy việc khảo sát hệ thống tên gọi của các nhân vật trong tác phẩm văn học nói chung và
trong “Bến không chồng” nói riêng là một thao tác hữu ích nhằm bóc tách lớp vỏ ngôn từ để thấy được
sự dụng công, dụng ý của nhà văn đối với việc xây dựng hình tượng nhân vật. Đây sẽ là bước đầu để tiếp
cận sâu hơn tác phẩm từ góc độ xây dựng nhân vật trên bình diện ngôn ngữ.
3.1 Đặt tên nhân vật theo đặc điểm tính cách nhân vật
Bà Nhân: Theo từ điển Thiều Chửu, có khoảng 17 từ nhân đồng âm nhưng khác nghĩa (người,
lòng thương, nhân nhượng, nguyên nhân, cái nhân nằm giữa quả chín...). Trong quan niệm của người
Việt, đặt tên Nhân thường để chỉ con người hoặc lòng thương người. Nhân (仁 - bộ nhân 人) (chữ hội
ý, chỉ mối quan hệ giữa con người (bộ 人) với đồng loại (chữ 二: hai, chỉ số nhiều) nghĩa là nhân đức,
tức chỉ sự thương yêu, khoan dung, luôn giúp đỡ người khác vậy nên cả cuộc đời bà Nhân sống có nhân,
có đức, hiền lành, vị tha. Chồng đi chiến trận, bà ở nhà chăm lo việc đồng áng và nuôi dạy các con khôn
lớn. Ngày cả làng chia của cải của địa chủ Hào, bà Nhân sẵn sàng không lấy vì biết “làng mình bao người
còn khó khăn hơn”. Ngay cả khi bi kịch chồng chất bi kịch (chồng và hai con chết trận), bà vẫn thương
cho số phận của Dâu, Thắm và thể hiện lòng nhân ái, bao dung của người phụ nữ Việt Nam. Nhưng nhân
(人 – bộ nhân: chữ tượng hình, hình một người đang đi trên đôi chân của mình) trước tiên và sau cùng
vẫn là con người. Theo triết lý đạo Phật, con người (hay chúng sinh) đều khổ. Cái khổ của bà Nhân đến
từ sự mất mát đớn đau khi chồng rồi hai đứa con trai lần lượt tử trận và sự mất mát hạnh phúc của đứa
con gái mà bà xem như hy vọng cuối cùng. Ngay cả tình cảm riêng tư bà cũng phải kìm nén bao năm vì
mặc cảm “gái nạ dòng”. Thế mới biết, sức chịu đựng của con người thật ghê ghớm.
Biền (弁- bộ củng 廾: chữ tượng hình, hình hai tay nâng mũ) là mũ quan võ ngày xưa (đồng thời
cũng chỉ quan cấp dưới hoặc quan võ thời xưa) nên tiếng Việt có từ võ biền nghĩa hoán dụ chỉ những
người ưa dùng sức mạnh mà không có đầu óc, học thức. Điều này cũng đúng với anh Biền: học hành
không đỗ đạt dám “ra đường tát tai một thằng khốn nạn”, sẵn sàng nghỉ học để đưa một người bạn đi
cấp cứu và với khả năng xoay sở của mình nên dù thời chiến nhưng anh Biền rất suôn sẻ trong việc tìm
cách về thăm nhà, thăm vợ con mà không hề bị phát hiện nội dung giả trong những bức điện nhà gửi lên.
133
Tính cách này cũng khiến đời anh quẩn quanh trong những điều vụn vặt, tủn mủn vì Biền (平 - bộ can
干: chữ tượng hình, hình một cái thang đo mức độ) còn có nghĩa là bằng phẳng, yên ổn.
3.3 Tên nhân vật vừa thể hiện đặc điểm tính cách nhân vật vừa ẩn ý về số phận cuộc đời
nhân vật
134
Hạnh: Tên Hạnh có 5 từ đồng âm khác nghĩa (may mắn, hạnh phúc, rau hạnh, cây hạnh, phẩm
hạnh) nhưng Hạnh trong quan niệm của người Việt thường là may mắn, hạnh phúc, hi vọng và phẩm
hạnh. Hạnh (行: bộ hành 行, vốn là chữ Hành 行, có nghĩa là “đi” hay “đường đi”, sau mượn làm chữ
hạnh (biểu hiện ra ngoài của đức) là đức hạnh, chỉ chung các nết tốt, cũng là tiết hạnh (節行) chỉ nết
trong sạch ngay thẳng không dời. Mang hàm ý nghĩa này, nhân vật Hạnh được nhà văn xây dựng với tất
cả những nết tốt mà một người con gái, người con dâu, người vợ cần có. Hạnh (幸 - bộ can 干) (danh)
còn là may mắn, hạnh phúc. May mắn khi có một tuổi thơ yên ấm trong tình yêu thương của mẹ và anh,
có một tình yêu bền chắc, thủy chung vượt lên trên thù hận để mà chờ đợi, để mà hy vọng. Đó là nửa
phần tốt đẹp, yên ấm trong tính chất lưỡng diện của tên gọi nhân vật này. Thêm vào đó hạnh trong từ
hạnh phúc (幸福) là sung sướng, vui sướng. Đó là cảm giác sung sướng trong đêm tân hôn của Hạnh
“Hạnh nắm lấy tay Nghĩa đặt lên khuôn ngực đang phập phồng của mình và thấy cuộc đời đẹp hơn bao
giờ hết” và trong những lần Nghĩa ghé thăm nhà “có lẽ thiên đường là ở đây, ở ngay bộ ngực non trẻ và
làn da mịn màng trên thân thể Hạnh”. Những cảm xúc này cả Dâu, Thắm, Cúc, Thao… đều chẳng thể
có được dù chỉ một lần. Hạnh (幸 –bộ can 干) cũng là hi vọng, kì vọng. Do đó, Hạnh chính là hi vọng
và là hi vọng cuối cùng của mẹ Nhân bởi sau khi chồng và hai con trai hi sinh “chị lại đặt mọi hi vọng
vào người con gái duy nhất là Hạnh”. Bà Khiên và cả gia tộc luôn mong, hi vọng một ngày Hạnh sẽ sinh
cho họ Nguyễn một đứa cháu đích tôn nối dõi tông đường. Mỗi lần Nghĩa về qua nhà, hai vợ chồng lại
thắp lên hi vọng có con. Và ở cuối tác phẩm, người đọc có cảm giác như Hạnh chính là hi vọng cuối
cùng để có thể thay đổi những “khuyết tật tâm hồn” của Nguyễn Vạn, để Vạn có thể lần đầu tiên cảm
nhận được những “phút giây sung sướng” của con người cũng như chú Vạn đã thắp lên hi vọng được
làm vợ, làm mẹ, có một mái ấm gia đình bao năm qua của Hạnh. Nhưng Hạnh cũng có trong bất hạnh (
不幸) tức gặp sự không thuận lợi, tai họa bất ngờ. Nhân vật Hạnh được xây dựng với đầy đủ những nét
đẹp của người phụ nữ đức hạnh nhưng cuộc đời của Hạnh bất hạnh nhiều hơn là hạnh phúc, sung sướng.
Từ tuổi thơ thiếu vắng hơi ấm của cha đến mối tình “nguyền rủa” từ lời nguyền gia tộc Nguyễn - Vũ và
cả sự chờ đợi mỏi mòn người chồng đi chiến trận hơn mười năm có lẻ. Ngay cả những ham muốn rất bản
năng của con người Hạnh cũng phải kìm nén, kìm nén cả khao khát có một đứa con, một hạnh phúc đủ
đầy mà chỉ khi lao vào vòng tay chú Vạn – người bạn chiến đấu năm xưa của bố, cô mới tìm thấy chút
hy vọng. Nhưng hy vọng về ngôi nhà hạnh phúc đã tan vỡ ngay trong ngày Hạnh dắt con về làng gặp
cha, chỉ có bất hạnh là ở lại mãi trong cuộc đời cô.
Vạn: Có 3 nghĩa khác nhau: chỉ số đếm (ý chỉ rất nhiều), chữ Vạn của Phật giáo và chỉ sự tuyệt
đối, cực hạn. Trong quan niệm của người Việt, Vạn (萬 – bộ thảo 艸: vốn ban đầu là chữ tượng hình, vẽ
hình con bọ cạp. Sau được mượn để chỉ nghĩa “mười nghìn”) (danh) thường chỉ số mục: muôn, mười
nghìn tức là nhiều lắm (tính), tức chỉ số lượng rất lớn, không xác định được. Vậy nên cuộc đời Vạn có
ngàn vạn điều cay đắng, khổ đau: Vạn khổ đau vì tuổi thơ cơ cực; Vạn khổ đau vì lạc loài giữa họ hàng,
làng xóm; Vạn khổ đau vì không được sống thật với cái bản ngã tự nhiên vốn có, bởi đó là những “sai
lầm không đáng có”; Vạn đau khổ kìm nén dục vọng bản thân nên “cả đời chả biết mùi đàn bà ra sao”;
Vạn thấy mình là kẻ khốn nạn, sa đọa khi hủy hoại cuộc đời của cô cháu gái khi lỡ xảy ra quan hệ với
Hạnh. Ngày gặp lại Hạnh và con gái cũng là ngày chấm dứt những khổ đau, xiềng xích trong cuộc đời
của Vạn. Ông tự tìm đến cái chết nơi Bến Không Chồng để chấm dứt cho ngàn vạn đớn đau trong cuộc
đời. Ngoài ra, Vạn (卍) còn là dấu của nhà Phật, mang nghĩa là rất tốt lành nhưng cuộc đời của Vạn lại
hoàn toàn trái ngược với cái tên gọi này.
Ông Xung: Xung (冲: bộ băng 冫 biểu ý (nghĩa “nước đá, băng, lạnh buốt) và chữ Trung 中 biểu
âm (để cho âm đọc là Xung) chỉ sự cứng rắn, mạnh mẽ) là mạnh mẽ, hăng hái nên nhân vật ông Xung
được xây dựng là một trong những “cây đa cây đề” của dòng họ Nguyễn, với tính cách hăng hái, luôn có
vị thế cũng như tiếng nói trong gia tộc. Xung (沖: bộ thủy 氵 biểu ý (nghĩa “vọt lên, tràn, cuốn, xối, dội,
trút...” liên quan đến nước) và chữ Trung 中 biểu âm (để cho âm đọc là Xung) mang nghĩa nước vọt lên,
cuốn đi, dội xuống) (động) còn là xung đột, đụng chạm. Điều này thể hiện trong những xung đột giữa
ông Xung với với các tuyến nhân vật chính, như: phản đối mối tình của chú Vạn với bà Nhân; phản đối
chuyện tình của Nghĩa – Hạnh; phản đối vợ chồng Nghĩa xây nhà mới trên đất từ đường họ, thậm chí
135
ông còn dám đốt từ đường để phản đối thói đời đảo điên. Chính những xung đột này phần nào là nguồn
cơn bi kịch của tác phẩm.
Nghĩa: có 4 từ đồng âm khác nghĩa (lẽ phải, ý nghĩa, cùng chung (vật), tình nghĩa…). Với người
Việt thì Nghĩa là lẽ phải và tình nghĩa. Nghĩa (义 - bộ chủ 丶 giản thể của chữ 義) là việc nghĩa, lẽ phải
chăng hay việc đáng phải làm, việc chính nghĩa (正义), thể hiện ở việc Nghĩa đã vượt qua mối thù giữa
hai họ để đến với Hạnh, chấp nhận bỏ nhà cao cửa rộng để tối tối được hẹn hò với người yêu nơi bờ sông,
bến nước. Anh cũng sẵn sàng từ bỏ vị trí trưởng nam dòng họ để lên đường vì nghĩa lớn dù cho bố không
đồng ý. Đó đều là nghĩa khí của chàng trai trẻ họ Nguyễn. Nghĩa (義: bộ dương 羊 chỉ phép tắc/ sự tình
hợp với lẽ phải, thích hợp với đạo lý) là tình, tình nghĩa nên anh luôn sống có tình có nghĩa, có trước có
sau với làng xóm cũng như trong dòng họ. Từ chuyện ông Xung, chú Xeng cho đến chú Vạn, anh đều cố
gắng chu toàn, trọn tình trọn nghĩa. Tuy nhiên, Nghĩa cũng có thể là bất nghĩa (不義). Vì hoàn cảnh
chiến tranh, vì sự hy vọng đứa con nối dõi cho dòng họ mà “ông thiếu tá” Nghĩa đã phạm từ sai lầm này
đến sai lầm khác: phản bội lại vợ khi không vượt qua được sự mê hoặc của bác sĩ Thủy; chạy trốn khỏi
làng Đông lên thành phố sống cùng Thủy sau khi ly hôn với Hạnh; chạy trốn khỏi Thủy khi biết mình
mang di chứng chiến tranh, không còn khả năng sinh con. Sự thiếu dứt khoát của anh đã tạo nên bi kịch
cho cả hai người phụ nữ, đó chính là bất nghĩa.
Thủy (水 - bộ thuỷ 水) là sao thủy - một ngôi sao ở gần mặt trời nhất với các đặc điểm về khả năng
giao tiếp, tư duy suy nghĩ logic, khả năng học tập, khéo léo… hay Thủy (水) cũng chỉ trình độ, mức…
mà những điều này ở Thủy đều có cả “Thủy có đôi môi tươi tắn, mắt đen, miệng chum chím cười”. Thủy
trong từ chung thủy (終始) chỉ sự không thay đổi, lòng dạ trước sau như một nên Thủy – “cô gái già” đã
cố giữ trinh tiết suốt hơn ba mươi năm có lẻ “Thủy dễ dàng vượt qua mọi chuyện, giữ mình giữa cảnh
nhộn nhạo mà dưới con mắt người đời thường cho là mấy ai giữ nổi”. Biết Nghĩa từ thời đi học, yêu
Nghĩa ngay lần đầu gặp mặt, Thủy quyết thủy chung một lòng một dạ chờ để cho Nghĩa cái quý giá nhất
đời người “chính Nghĩa cũng không ngờ thời gian trôi đi đã ba năm kể từ ngày gặp Thủy lần đầu tiên
đến nay Thủy vẫn còn nguyên vẹn”. Nhưng cuối cùng, Thủy vẫn phải “biến mình thành con đĩ – con đĩ
không cần tiền” chấp nhận lừa dối chồng, lừa dối gia đình chồng khi nhiều lần ra bến xe tìm “người đàn
ông xa lạ” hi vọng “tự kiếm một đứa con” để gây lại niềm tin cho cả gia tộc Nghĩa. Thủy đã không còn
chung thủy nữa. Thủy (始 - bộ nữ 女) còn là chỗ bắt đầu. Điều này như hàm ý đánh dấu cho một khởi
đầu mới trong cuộc đời của Thủy khi gặp Nghĩa cũng như sự thay đổi cuộc đời của Nghĩa và Hạnh khi
Nghĩa gặp Thủy. Nhưng “chỗ bắt đầu” cũng có thể hiểu đi đủ vòng rồi trở về chỗ cũ. Thủy phải trở về
vạch xuất phát ban đầu bởi ngay khi Nghĩa biết mình mang di chứng chiến tranh, không thể mang lại
hạnh phúc cho vợ, Nghĩa đã chọn ra đi, bỏ lại Thủy một mình nơi phố thị.
Thành (誠: bộ ngôn 言 chỉ nghĩa (sự thành thật biểu hiện ra ở lời nói), và chữ Thành 成 để biểu
âm) là chân thành, thành thật. Dù gương mặt đã bị đạn bom hủy hoại nhưng với tính nết chân thành,
hiền hậu nên anh vẫn được mọi người yêu quý, nhất là những người đã sống cùng anh trong thời bom
đạn, như lời chị Loan nói “người như anh ấy tốt lắm”. Thành (城: bộ thổ 土 chỉ nghĩa (thành ngày xưa
thường được đắp bằng đất), và chữ Thành 成 để biểu âm) cũng là thành quách, thành trì, ngụ ý chỉ sự
vững chãi, kiên cường. Thế nên Thành đã vững vàng bước ra khỏi cuộc chiến mang theo gương mặt dị
dạng, mà vẫn giữ thái độ sống tích cực, lạc quan. Thành (成 – bộ qua 戈) còn có nghĩa là “làm công
việc gì đến lúc xong đều gọi là thành”. Đây là sự tương phản, trái ngược giữa tên gọi và cuộc đời của
anh: tên Thành nhưng cả đời anh luôn gắn liền với sự lỡ dở, chẳng thể hoàn tất dù là trong binh nghiệp,
trong mối tình với Cúc hay trong cuộc sống thường ngày... Thành mà bất thành. Tính tương phản này
cũng là đặc điểm chung dễ nhận thấy trong các nhân vật ở mục này, như đã nêu trên.
Có thể thấy, hệ thống tên gọi của nhân vật trong “Bến Không Chồng” đã được tác giả Dương
Hướng sắp đặt một cách có chủ ý nhằm làm nổi bật nội dung tư tưởng của tác phẩm. Ở cái bến nước vốn
dĩ là bến tình- nơi hò hẹn của trai gái đã hóa thành cái bến không chồng ám ảnh cuộc đời của biết bao
thân phận. Bến ấy có những cái tên như Hạnh, tuy có hạnh phúc nhưng bất hạnh nhiều hơn; bà Nhân phải
chịu những nỗi đau quá sức chịu đựng của con người, Dâu với biết bao thăng trầm trong cuộc sống,
Thành nhưng lại bất thành trong mọi chuyện, Vạn với ngàn vạn khổ đau… Những bất hạnh, đau khổ,
136
hay sự bất thành ấy là do chiến tranh, do những sai lầm trong cách nghĩ một thời (Vạn, ông Xung) do
những xung đột, mâu thuẫn giữa người với người hoặc sự bất nghĩa bất tình của bạn đời…. đã bóp nghẹt
cuộc sống của con người làng quê và tạo ra một bến không chồng đúng theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng.
Ngoài ra, trong “Bến Không Chồng” có sự xuất hiện dày đặc lớp tên gọi gắn liền với đặc điểm bề ngoài
của nhân vật, như cô Lùn, anh Ngốc, Huy Thọt, tay Tẹo chột mắt... Điều này được lý giải bằng cách xem
xét nội dung trọng tâm của tác phẩm, ở “Bến Không Chồng”, đó là bóng ma chiến tranh bao trùm hết
thảy, chiến tranh của đất nước, chiến tranh của lòng người đã “khắc” vào cơ thể con người những vết
thương không mong muốn. Điều đó cũng chỉ ra hệ thống tên gọi được tác giả dụng công sáng tạo ấy đã
giúp làm bật lên nội dung cũng như tư tưởng chính của toàn bộ tác phẩm, xét từ góc độ ngôn ngữ.
4. Kết luận
Đặt tên cho nhân vật là một công việc vừa vất vả, vừa thú vị của nghề văn bởi đó là một hoạt động
mang tính sáng tạo rất quan trọng. Và một trong những thành công về mặt xây dựng nhân vật nhằm thể
hiện tư tưởng, nội dung tác phẩm “Bến Không Chồng” là sự dày công kiếm tìm và lựa chọn từng từ, từng
chữ để có được những cái tên nhân vật mang đầy ý nghĩa sâu sắc của nhà văn Dương Hướng. Nghệ thuật
đặt tên nhân vật trong tác phẩm có thể coi là một trong những thủ pháp tu từ góp phần thể hiện tư tưởng
nội dung của tác phẩm. Do vậy, đây sẽ là một hướng đi khả thể và hứa hẹn khoảng trống nghiên cứu ở
tương lai.
137
NHẠC CỤ CỔ TRUYỀN RABANA CỦA DÂN TỘC CHĂM AN GIANG,
BẢO TỒN VÀ THÁCH THỨC TRONG THỜI ĐẠI HIỆN NAY
Hồ Lưu Phúc*
Khoa Du lịch, Trường Đại học Văn Hiến
*Tác giả liên hệ: Điện thoại: 0904 155 887; Email: phucluuho@gmail.com;phuchl@vhu.edu.vn
TÓM TẮT
Âm nhạc Chăm từ lâu được biết đến với sự tồn tại lâu đời, gắn với quá trình hình thành và phát
triển tộc người Chăm. Yếu tố đóng góp cho âm nhạc Chăm thăng hoa, phát triển chính là nhạc cụ cổ
truyền Chăm xuất hiện trong các nghi lễ, lễ hội cộng đồng Chăm. Một số nhạc cụ truyền thống cộng đồng
Chăm An Giang hiện nay như trống Rabana đang trong quá trình mai một, cần sự quan tâm, định hướng
nghiên cứu phục hồi. Trong giới hạn bài viết này, từ việc nhận định giá trị văn hóa nghệ thuật của nhạc
cụ dân tộc Chăm An Giang nhằm mục đích định hướng các chiến lược duy trì, phát triển loại hình nhạc
cụ này trong động đồng Chăm ở An Giang.
Từ khóa: di sản văn hóa Chăm, Chăm Muslim, trống Rabana, nhạc cụ Chăm.
1. Đặt vấn đề
Người Chăm là tộc người có vốn di sản văn hóa độc đáo. Trong tiến trình phát triển văn hóa, người
Chăm ở An Giang còn lưu giữ các nhạc cụ truyền thống như trống Rabana mà hiện nay chưa được tìm
hiểu đầy đủ về ý nghĩa khoa học cũng như lịch sử hình thành và phát triển của các loại nhạc cụ này. Sự
hình thành và phát triển trống Rabana gắn với quá trình hình thành và phát triển cộng đồng Chăm An
Giang. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn nhiều nhận định và ý kiến trái chiều nhau về nguồn gốc lịch sử hình
thành nhạc cụ Rabana của người Chăm An Giang. Hơn nữa, nhạc cụ Rabana đang đứng trước nguy cơ
mai một, mất dần cần được nghiên cứu, phục hồi cấp thiết.
Vì thế, bài viết này một lần nữa khẳng định những giá trị khoa học về lịch sử hình thành và phát
triển của nhạc cụ Chăm An Giang, là cơ sở khẳng định trống Rabana là sản phẩm văn hóa của người
Chăm ở An Giang. Điều đó giúp cho người Chăm, ngành văn hóa Chăm ở An Giang có cơ sở tin cậy
thuyết phục trong cộng tác làm hồ sơ công nhận nhạc cụ Chăm An Giang là di sản văn hóa, nghệ thuật
Chăm An Giang.
Thông qua nghiên cứu này, thực hiện công tác triển khai hoạt động sưu tầm, tập hợp, hệ thống,
phân loại giá trị vật chất và tinh thần của trống Rabana để có được kết quả, hiện trạng trong việc bảo tồn
và phát huy bản sắc văn hóa âm nhạc của trống Rabana hiện nay. Trên kết quả đó, có được chứng cứ đề
xuất giải pháp cho việc bảo tồn, phục hồi trống, truyền lại nghề làm trống, phục hồi giá trị âm nhạc, bài
bản của trống Rabana trong cộng đồng Chăm An Giang.
138
Bài viết dựa trên phương pháp thu nhập, tổng hợp và phân tích tài liệu qua nhiều công trình nghiên
cứu khoa học. Đặc biệt, phương pháp điền dã dân tộc học qua hoạt động tham gia một số nghi lễ, lễ hội
của cộng đồng Chăm An Giang. Qua quá trình khảo sát thực tế hiện nay cho thấy, cộng đồng Chăm An
Giang còn duy trì hai đội trống biểu diễn cho cộng đồng, một là đội trống Chăm Châu Phong ở thị xã
Tân Châu, tỉnh An Giang và đội trống Chăm Lama Vĩnh Trường ở huyện An Phú, tỉnh An Giang. Từ
quan sát, tham dự một số nghi lễ, lễ hội, sinh hoạt cộng đồng Chăm như một số nghi lễ tôn giáo, lễ cưới
cũng như một số sinh hoạt văn hóa, ngày hội văn hóa Chăm An Giang, tác giả có điều kiện gặp gỡ, phỏng
vấn bằng bảng hỏi một số chức sắc tôn giáo, nghệ nhân làm trống và biểu diễn trống Rabana trong cộng
đồng Chăm, cũng như tham vấn một số chuyên gia đầu ngành về lĩnh vực văn hóa dân tộc.
3.1.2 Chất keo gắn kết cộng đồng qua lễ hội truyền thống
Nhu cầu tôn giáo đã gắn nhạc cụ trống Rabana vào mục đích biểu diễn cho hoạt động trong các
nghi lễ, lễ hội mang màu sắc Islam. Từ việc xướng kinh Qur’an trong ngày kỷ niệm ngày sinh Nabi
Mohammed, tiếng trống cất lên khi đệm nhịp nhàng cùng các câu kinh Selawat cầu bình an cho vị Tiên
tri đáng kính này. Nghi lễ cắt bì, một nghi lễ đánh dấu sự trưởng thành của một đứa trẻ Chăm cũng là
nơi hiện diện tiếng trống Rabana đưa đường dẫn lối. Nhạc cụ Rabana xuất hiện trong các nghi lễ này
không làm cho không khí mất đi phần trang trọng mà còn góp phần giúp cho hành động của cá nhân, tập
thể người Chăm được thêm phần linh thiêng, gắn kết con người với Thượng Đế Allah.
Sau tháng nhịn chay Ramadan, đến ngày cuối được gọi là Roya Iadil Fitrah, ngày người Chăm ăn
mừng vượt qua tháng quan trọng nhất của một người theo Islam. Người Chăm đến Thánh đường cầu
139
nguyện cùng Thượng Đế, sau đó tụ họp ăn uống, trò chuyện, giao lưu ca hát qua tiếng trống vỗ Rabana
suốt cả đêm ăn mừng đại lễ. Tính chất hân hoan, tươi vui nhưng cũng rất trang trọng của việc biểu diễn
Rabana phổ biến nhất khi các đám cưới trong làng Chăm được tổ chức. Sự hiện diện của các nhóm biểu
diễn trống Rabana trong ngày vui mừng cô dâu chú rể nên duyên chồng vợ. Trong không khí ngày cưới,
những lời kinh trích từ kinh Qur’an được ca xướng và được đệm cùng trống Rabana bởi những người
biểu diễn giúp cho cặp đôi Chăm thêm phần hạnh phúc vì những ước vọng cầu cho bình an, hạnh phúc,
sung túc.
Giá trị âm nhạc nghệ thuật còn nằm ở lời ca, tiếng hát, ngâm hay xướng các lời kinh Qur’an của
những người biểu diễn. Các đội nhóm Chăm làm công việc biểu diễn thường là những người am hiểu rất
rõ về giáo lý Islam, hiểu rõ về nội dung của lời ca, tiếng hát phải phù hợp với mục đích, tôn chỉ của tôn
giáo Islam. Truyền thống Islam đã chọn ra những người nam giới để phục vụ cho công việc biểu diễn
trống Rabana trong cộng đồng Chăm, những người yêu thích công việc phục vụ cộng đồng, am hiểu văn
hóa âm nhạc, nhạc cụ dân tộc để hợp lại thành một đội nhóm để biểu diễn. Việc hình thành đội nhóm
biểu diễn dựa trên tinh thần tự nguyện và sự phân chia nhiệm vụ đến từ người đại điện. Nhưng cơ bản,
đội hình biểu diễn Chăm bao gồm một người sử dụng trống dẫn nhịp Jumak và nhiều trống Rabana không
cần theo quy tắc số lượng người tham gia. Trong các đám cưới, họ ngồi vòng tròn hoặc hai hàng đối diện
nhau, tiện bề quan sát, nhắc nhở nhau trong lúc biểu diễn. Quá trình biểu diễn cho thấy, họ là những con
người biểu diễn ăn ý, nhịp nhàng và được cộng đồng Chăm ưu ái mỗi khi có dịp lễ hội tổ chức trong
cộng đồng.
Hoạt động Ngày Hội Văn hóa, thể thao và du lịch cộng đồng Chăm An Giang khi được tổ chức thì
hoạt động biểu diễn trống Rabana được chính quyền địa phương khuyến khích người Chăm biểu diễn
nhằm phục vụ văn hóa, văn nghệ cho ngày hội. Chính hoạt động của các buổi lễ tôn giáo, lễ hội truyền
thống cộng đồng có sự hiện diện của nhạc cụ trống Rabana làm cho người Chăm trong cộng đồng thêm
phần gắn kết. Người tham dự hiện diện trong các nghi lễ, sinh hoạt cộng đồng được chứng kiến, thấu
hiểu văn hóa tộc người mình. Không chỉ được quan sát mà còn được cha ông chọn lựa để truyền dạy,
hướng dẫn sử dụng nhạc cụ cổ truyền của dân tộc, góp phần kế thừa, tiếp nối văn hóa dân tộc. Đó chính
là mục đích giáo dục nhân cách, lối sống cao cả cho thanh thiếu niên Chăm từ chính hoạt động biểu diễn
Rabana trong cộng đồng.
3.1.3 Một số kết luận về giá trị nghệ thuật truyền thống của nhạc cụ Rabana
Tóm lại, trống Rabana chính là sản phẩm văn hóa được người Chăm. Người Chăm đã linh hoạt,
sáng tạo trong cách vận dụng các môi trường khác nhau để làm nên chiếc trống cổ truyền mang đậm sắc
thái văn hóa tộc người, góp phần làm cho nhạc cụ Chăm có nhiều điểm khác biệt so với các tộc người ở
Đông Nam Á dù chung một xuất phát điểm về nguồn gốc. Chính chất keo gắn kết cộng đồng đã giúp cho
nhạc cụ này được tồn tại, phục vụ cho lợi ích chung của cộng đồng. Có thể nhận thấy những giá trị văn
hóa nghệ thuật khác biệt của trống Rabana tộc người Chăm An Giang trong sự so sánh với trống Rabana
tộc người Melayu Muslim và nhạc cụ cổ truyền của người Chăm ở khu vực miền Trung qua bảng sau:
Bảng so sánh trống Rabana trong cộng đồng Melayu Muslim và Chăm Muslim và trống
Baranưng của người Chăm miền Trung (Ninh Thuận; Bình Thuận)
Người Chăm miền
Tiêu chí so sánh Người Melayu Muslim Người Chăm Muslim
Trung
Nguồn gốc ban đầu chưa
Tiếp nhận qua quá trình
Tiếp nhận trực tiếp từ các rõ.
giao lưu văn hóa, tôn giáo
thương buôn, nhà truyền Sự sáng tạo của người
Nguồn gốc trống với người Melayu Islam
đạo Islam ở Ả Rập, Ấn Chăm vùng Pandaranga
và được người Chăm sáng
Độ. (Ninh Thuận; Bình
tạo, mang đặc trưng riêng.
Thuận).
Gỗ, da, mặt trống thường Gỗ “lũa”, da trâu,
Cấu tạo, nguyên Gỗ và da, dây mây là
được đóng bằng đinh vào dây mây là nguyên liệu
liệu chế tác nguyên liệu làm trống. Chỉ
thành trống. Trống nhiều chính. Việc làm trống
140
hình dạng, nhiều kích có trống hình dạng tròn xuất hiện các gia đình
thước, đôi khi có gắn với nhiều kích thước. làm nghề truyền thống,
thêm luc lạc tạo âm Việc làm trống tự phát, lâu đời, có sự kế thừa.
thanh. riêng lẻ.
Có nhiều làng nghề làm
trống ở khắp Malaysia.
4 âm: Tak, Gum, Dum,
2 âm: bum, pak.
Tông âm Pak. 3 âm: Tìn, Tâm, Tắc.
Họ màng rung, chi màng rung vỗ (cách chia của Hội đồng âm nhạc Truyền thống
Phân loại (ITCM) thuộc Tổ chức giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc
(UNESCO).
Nhiều nhạc cụ khác nhau Bộ ba kết hợp: Trống
Một trống dẫn Jumak và
Biên chế khi biểu diễn cùng trống Baranưng; Cặp trống
nhiều trống Rabana.
Rabana. Ginăng; Kèn Saranai.
Nam giới; Chức sắc tôn
Người biểu diễn Nam và nữ giới. Nam giới. giáo Chăm Bani;
Balamon.
Đám cưới; Lễ cắt bì cho
thanh thiếu niên; Lễ cắt
tóc và đặt tên cho đứa trẻ;
Tháp Chăm trong các lễ
Lễ kỷ niệm ngày sinh Đám cưới; Ngày cuối
hội Katê; Rija Nagar;
Tiên tri Mohammed; Lễ trong tháng Ramadan.
Rija Harei; Lễ tang,…
ăn mừng thanh thiếu niên Ngày hội Văn hóa thể thao
Nơi và thời gian Sân khấu trong các sự
hoàn thành khóa học và du lịch Chăm An Giang
biểu diễn kiện văn hóa, ngày hội
Kinh Qur’an; Các ngày lễ – Sân Khấu.
văn hóa Chăm thường
lớn, quan trọng của quốc Kỷ niệm ngày sinh Tiên tri
niên; Các điểm tham
gia: lễ Quốc Khánh v.v; Mohammed.
quan đền tháp Chăm.
Các sự kiện khai trương,
hội nghị, hội thảo, các sự
kiện thể thao…
Trống cầm trên tay hoặc
được ôm gọn vào lòng Ngồi xếp bằng, ôm gọn
Người biểu diễn có thể Người biểu diễn ngồi xếp trống vào lòng hoặc đeo
Tư thế biểu diễn đứng hay ngồi xếp bằng. bằng, ôm gọn trống vào trống vào cổ, kết hợp
Khi biểu diễn có thể kết lòng mình. cùng các đội nhóm múa,
hợp giữa vỗ trống, hát và hát.
múa.
Các bài táng ca, tụng ca;
Các bài ngâm Selawat; Các bài thánh ca Nasheeds với
Dân ca Chăm mang màu
nội dung:
sắc u buồn:
Ca ngơi đạo Islam
Nội dung bài hát Ca ngơi các vị vua, anh
Ca ngơi Thượng đế Allah
hùng dân tộc, người có
Ca ngơi Tiên tri Mohammed
công với dân tộc, đất
Dân các Malaysia và dân ca Chăm Islam (Việt Nam)
nước.
3.2 Thực trạng bảo tồn nhạc cụ Rabana trong cộng đồng Chăm An Giang
Hiện nay, số lượng trống hiện tại trong cộng đồng Chăm rất khiêm tốn, chỉ còn lại số lượng hơn
20 trống phân bổ ở các xóm Chăm Châu Phong, Vĩnh Trường ở An Giang. Các trống Rabana đều có
chung tình trạng bị hư hại và thất lạc trong khi kỹ thuật làm trống dường như tự phát từ một số bộ phận
người Chăm nên dễ bị thất truyền. Các trống được làm mới không đảm bảo chất lượng khi biểu diễn, khó
141
khăn trong việc giá thành cao và tìm kiếm nguyên liệu thay thế khi trống hư hại khó khăn. Bên cạnh đó,
việc sao chép nội dung bài hát biểu diễn bằng việc truyền khẩu, không được ghi chép cẩn thận làm cho
việc ghi nhớ nội dung khi biểu diễn thêm phần khó khăn.
Người làm trống cũng như các đội trống Chăm hiện tại đã mất đi nhiều người, những người còn
lại tuổi đã cao, không đủ sức truyền dạy hay việc ghi nhớ truyền dạy có phần hạn chế. Hơn nữa, dù có ý
định truyền dạy thì bộ phận giới trẻ Chăm lại không hứng thú trong khi việc học biểu diễn cần có thời
gian cố định, luyện tập thường xuyên. Người trẻ ngày nay bị lôi cuốn vào âm nhạc hiện đại, các nhạc cụ
hiện đại thu hút sự quan tâm của giới trẻ nhiều hơn, làm thanh thiếu niên Chăm không mặn mà với nhạc
cụ cổ truyền dân tộc. Ngoài ra, áp lực kinh tế, chăm lo cho đời sống gia đình đang đè năng lên đôi vai
người trẻ làm cho giới trẻ cuốn vào vòng xoáy đồng tiền để duy trì đời sống hằng ngày.
Sự giao lưu, tiếp xúc với văn hóa bên ngoài cũng phần nào thay đổi cấu trúc văn hóa truyền thống,
điển hình lễ cưới của người Chăm hay các nghi lễ, lễ hội truyền thống ngày càng giản lược hay bỏ quên
đi phần biểu diễn trống Rabana truyền thống, có chăng khi đem ra biểu diễn thì chưa mang tính bài bản,
đầu tư về nội dung biểu diễn. Nhạc cụ Rabana từng được xem là linh hồn của lễ hội cộng đồng thì giờ
đây là những hình thức âm nhạc hiện đại hiện diện trong các lễ cưới, lễ hội truyền thống Chăm.
4. Kết luận
Qua bài nghiên cứu này còn cho thấy: Âm nhạc dân gian, trong đó có nhạc cụ dân tộc là một mảnh
ghép quan trọng góp phần làm nên đặc sắc riêng của văn hóa của mỗi tộc người. Bài viết góp phần làm
rõ các giá trị nhạc cụ Rabana, một nhạc cụ cổ truyền hiện diện trong một số nghi lễ, lễ hội, sinh hoạt văn
hóa cộng đồng Chăm An Giang. Từ việc xác định tầm quan trọng của sự đóng góp của nhạc cụ Rabana
trong tiến trình phát triển văn hóa của dân tộc CHăm, sẽ có nhiều định hướng giúp cho nhạc cụ này không
chỉ góp mặt trong các hoạt động sinh hoạt văn hóa cộng đồng mà còn là nhạc cụ đóng góp cho sự phát
triển kinh tế của người Chăm An Giang. Đặc biệt, đối với cộng đồng Chăm Muslim ở An Giang, trống
Rabana có nhiều tiềm năng khi được sử dụng để biểu diễn nhiều hơn trong các hoạt động giao lưu văn
hóa văn nghệ và phục vụ phát triển du lịch địa phương, đây được xem là một di sản văn hóa tộc người
142
đặc trưng cho người Chăm Muslim ở An Giang trong tương lai cần được nghiên cứu, định hướng trong
bảo tồn và phát triển.
143
SỨC MẠNH NGÔN NGỮ VÀ GIỚI TÍNH TRONG TIẾNG VIỆT -
TÌNH HUỐNG CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC
Vũ Quốc Anh*
Khoa Khoa học Xã hội và Quan hệ Công chúng, Trường Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh
*Tác giả liên hệ: Điện thoại: 0908 072 372 ; Email: vq.anh@hutech.edu.vn
TÓM TẮT
Giới tính có sự liên quan quan niệm và đời sống, vị thế ở cả gia đình cũng như ở ngoài xã hội giữa
nam và nữ. Giới tính còn có sự liên quan đến ngôn ngữ một cách tự nhiên do vai trò của từng giới trong
xã hội được phân chia vai trò từ nhiều năm qua cũng như cách giáo dục về giao tiếp ứng xử của từng giới
cũng khác nhau dẫn đến ngôn ngữ của mỗi giới có những đặc thù riêng. Một trong những môi trường có
thể phân biết sự khác nhau về sức mạnh ngôn ngữ và giới là trong trường học. Trường học là nơi có nhiều
nhóm học sinh nam và nữ, đồng lứa tuổi và cách dùng ngôn ngữ cũng diễn ra tự nhiên, vô tư, theo bối
cảnh mà ít có sự sắp đặt, cân nhắc trước khi nói. Để hiểu rõ thêm mối liên hệ này, tác giả bài viết thực
hiện sự phân tích thông qua hai bài hội thoại ngắn của giáo viên và học sinh trung học.
Từ khóa: giới tính, sức mạnh ngôn ngữ, ngữ điệu, phép lịch sự, nhân xưng.
1. Giới thiệu
Bất cứ phương tiện giao tiếp nào đều chứa đựng sức mạnh tác động đến những người tham gia giao
tiếp một cách trực tiếp và gián tiếp. Thậm chí tiếng kêu của động vật, biển báo hoặc một mẫu quảng cáo
đều mang theo những thông điệp của riêng mình cho những mục đích nhất định. Ngôn ngữ loài người là
một phương diện giao tiếp rộng rãi và được đánh giá có sức mạnh hơn bất cứ phương tiện giao tiếp nào
khác. Balogun và Murana (2018) dẫn lời Lakoff (1990) đề cập sức mạnh của ngôn ngữ khi cho rằng ngôn
ngữ là chính trị, chính trị trao quyền lực, và quyền lực chi phối cách mọi người nói chuyện và cách họ
được hiểu. Phân tích ngôn ngữ theo quan điểm này không chỉ là một bài tập học thuật: ngày nay, hơn
bao giờ hết, đó là một kỹ năng sinh tồn. Do đó, người nào sử dụng tốt sức mạnh của ngôn ngữ sẽ thành
công hơn trong giao tiếp.
Có nhiều yếu tố liên hệ với ngôn ngữ như chính trị, quyền lực, vai trò giao tiếp. Ở một khía cạnh
khác, sức mạnh ngôn ngữ còn có mối liên hệ đặc biệt với giới tính về ngữ điệu, cách xưng hô, tính lịch
sự và thể thức. Lê Hồng Linh (2010) nhận định mối quan hệ giữa giới tính với ngôn ngữ không thể chỉ
xem xét trong nội bộ ngôn ngữ ở các bình diện ngữ pháp, từ vựng mà phải nhìn rộng ra theo cách tiếp
cận ngôn ngữ - xã hội liên quan đến hàng loạt vấn đề khác như, địa vị, vai trò trong xã hội của mỗi giới
nói chung và từng thành viên cụ thể ở mỗi giới. Về mặt thực tiễn, vấn đề giới tính liên quan mật thiết
đến sự thay đổi về quan niệm và đời sống, vị thế ở cả gia đình cũng như ở ngoài xã hội giữa nam và nữ.
Giới tính có sự liên quan đến ngôn ngữ một cách tự nhiên do vai trò của từng giới trong xã hội được phân
chia vai trò từ nhiều năm qua cũng như cách giáo dục về giao tiếp ứng xử của từng giới cũng khác nhau
dẫn đến ngôn ngữ của mỗi giới có những đặc thù riêng.
Một trong những môi trường có thể phân biết sự khác nhau về sức mạnh ngôn ngữ và giới là trong
trường học. Trường học là nơi có nhiều nhóm học sinh nam và nữ, đồng lứa tuổi và cách dùng ngôn ngữ
cũng diễn ra tự nhiên, vô tư, theo bối cảnh mà ít có sự sắp đặt, cân nhắc trước khi nói. Để hiểu rõ thêm
mối liên hệ này, tác giả bài viết thực hiện sự phân tích thông qua hai bài hội thoại ngắn của giáo viên và
học sinh trung học.
145
Đối với sức mạnh ngôn ngữ của nam giới có xu hướng thể hiện quyền lực mạnh trực tiếp hơn nữ.
Ví dụ, trong bài hội thoại thứ nhất, Dũng quát “Mày đi ra!” với chất giọng rất cao và lớn ở cuối câu.
Tương tự vậy, trong bài hội thoại thứ hai, giọng nói của của thầy Đức và Dũng thể hiện sức mạnh nhiều
hơn với giọng nói lớn và cao. Dũng sử dụng nhiều sức mạnh trong lời nói vì Dũng có ý định tự bảo vệ
mình cũng như muốn lấn át và quy trách nhiệm cuộc đánh nhau giữa hai người cho Hòa. Tương tự vậy,
thầy Đức cũng dùng sức mạnh ngôn ngữ trực tiếp và giọng nói lên cao để duy trì nội quy học đường “Em
im đi! Có nghe chưa!” Điều này khiến cho Dũng và Hòa sợ, mất bình tĩnh. Lý do thầy Đức và Dũng có
ngữ điệu cao và lớn như vậy do tâm lý xã hội khác nhau ở giới tính, người ta cho rằng trong hoàn cảnh
này người đàn ông lớn tiếng quát tháo dễ chấp nhận hơn, trong khi đó, nếu là nữ to tiếng quát như vậy
sẽ có thể bị đánh giá là nóng tính hoặc dữ tính.
3.3 Lịch sự
Sức mạnh ngôn ngữ còn ẩn trong cuộc nói chuyện trực tiếp. Có những sự khác biệt về ngữ pháp
làm lời phát biểu trở nên lịch sự hoặc kém lịch sự hơn. Có những lời nói có tính trực diện và đánh dấu
quan hệ quyền lực mềm dẻo, trong khi có những cách gián tiếp làm lời nói ít nhiều trở nên ẩn ý hơn
(Fairelough, 1996). Rõ ràng rằng so sánh sự lịch sự trong ngôn ngữ của nam và nữ cần được tìm hiểu
trong những ngữ cảnh nhất định.
Khi Lan đề xuất mua hai hộp sữa nói “ Dạ. Chúng em sẽ mua cho bạn Tuấn hai hộp sữa nha cô?”
Câu hỏi này ẩn chức sự lịch sự, lễ phép vì nó vừa là câu đề xuất mà vừa xin phép, hỏi ý kiến chừ chưa
dám tự quyết định, nhất là trong đó có từ “Dạ”, “nha cô”. Lan sẽ trở nên thiếu lễ phép khi chỉ nói “Em
sẽ mua hai hộp sữa cho Tuấn” do có tính quyết định bất chấp cô có đồng ý hay không. Tương tự, cô Thủy
hỏi lại “Hai hộp đủ không?”, nghe như một câu hỏi đề lấy thông tin. Thực tế ngoài việc cô muốn nhấn
mạnh rằng hai hộp không đủ và muốn mua nhiều hơn, nhung cô không chỉ đạo một cách trực tiếp như
“Em mua nhiều hơn đi, mua 4 hộp”. Cách đặt câu hỏi như vậy khiến cô có ý tôn trọng Lan hơn hoặc
cũng là cách giúp Lan tập cách suy nghĩ, tính toán trong công việc tổ chức.
146
Khác với cô Thủy và Lan, thầy Đức không thể hiện sự lịch sự nhiều khi nói chuyện với học sinh
mà chỉ thể hiện sức mạnh quyền lực đầy căng thẳng của thầy giám thị (“Câm miệng lại! Không được gọi
là “mày, tao”. Phải gọi là “bạn” Nghe chưa?”). Cụm từ “Nghe chưa!” trong ngữ cảnh này tạo nên bầu
không khí căng thẳng và lấn át người nghe. Kết quả là thầy không thể thay đổi thái độ của Dũng. Do đó,
với khuôn mặt có ý đe dọa tạo ra sự căng thẳng và sự lo lắng hoặc với sự ảnh hưởng tiêu cực sẽ dẫn đến
mối quan hệ xã hội xa cách hơn là đoàn kết và việc đẩy sự căng thẳng lên cao trào không phải là công cụ
giao tiếp lịch sự và tích cực (Holmes, 2000).
4. Kết luận
Trong thời gian và khuôn khổ cho phép bài tham luận chỉ đề cập đến một phần rất nhỏ về phạm trù
ngôn ngữ và giới. Bài viết tìm hiểu sự liên hệ giới tính và sức mạnh ngôn ngữ trong tiếng Việt, trường
hợp trong bối cảnh bài hội thoại của giáo viên và học sinh trong một trường trung học cơ sở nhằm phân
tích sự khác nhau giữa nam và nữ về ngữ điệu, tính lịch sự, cách xưng hô và sự diễn đạt trong giao tiếp,
ứng xử qua lời nói. Mối liên hệ ngôn ngữ và giới tính cần được tìm hiểu thêm trong những bối cảnh khác
như trong một cuộc thương lượng kinh doanh, trong buổi thuyết trình hoặc trong nhưng bài viết truyền
thông.
Phụ lục 1
Đoạn hội thoại giữa cô Thủy, Lan và Dũng.
(… nội dung trước không được đề cập…)
Ms Thủy: Chủ nhật này các em nhớ ghé qua nhà thăm Tuấn giúp cô. Nói với bạn ấy là cô bận đi
dạy, không qua thăm bạn được.
Lan: Dạ. Chúng em sẽ mua cho bạn ấy hai hộp sữa nha cô?
Cô Thủy: Ừhm. Hai hộp có đủ không em?
Lan: Dạ…
(Lan bị cắt ngang do tiếng quát của Dũng)
Dũng (quát lớn khi đang chơi gần đó):Mày đi ra đi!
Cô Thủy (bất ngờ với tiếng quát lớn của Dũng): Dũng, em vào đây. Sao em quát lên vậy? Mà em
gọi bạn là gì? Em không nên gọi bạn là “mày”. Em nên gọi là “bạn” nha.
Dũng (nhìn cô hơi sợ, nguôi giận và cười nhẹ): Dạ. Em biết rồi ạ. (Chạy ra chơi tiếp).
Lan: Thưa cô. Em có chuyện muốn kể cô nghe.
Cô Thủy: Có chuyện gì vậy em?
Lan: Lúc nãy Dũng đánh bạn Hòa.
Cô Thủy: Sao vậy em?
Lan: Vì Hòa không cho Dũng mượn banh nên nó đánh Hòa, rồi đánh nhau.
Cô Thủy: Không gọi bạn là ‘nó’ em. Em nhắn hai bạn lên phòng giám thị gặp cô nhé.
Phụ lục 2
Đoạn hội thoại giữa cô Thủy, Thầy Đức, Dũng, Hòa, Lan.
(… nội dung trước không được đề cập…)
Hòa: Thưa cô. Thằng Dũng đánh em trước.
Cô Thủy: Đúng không Dũng? Sao em lại đánh Hòa vậy Dũng?
Dũng: Ai biểu nó không không chịu cho em mượn banh nên em đánh nó!
Cô Thủy: Nhưng Hòa đang chơi sao cho em mượn được? Nhưng nếu bạn ấy không cho mượn đi
nữa, em cũng không thể đánh bạn được.
Hòa: Mày nói xạo. Mày không mượn tao mà mày giựt banh của tao.
Dũng: Táo có nói mượn mày rồi tao mới lấy chứ bộ.
Hòa: Mày xạo vùa thôi.
Dũng: Mày mới xạo.
Thầy Đức: Im miệng hết đi! Không được “mày – tao” ở đây! Phải gọi là “bạn” nghe chưa? Để
nhắc hoài vậy!
Dũng và Hòa có vẽ sợ nên bớt nóng giận lại…
Hòa: Thưa thầy, cô. Em đang chơi thì bạn Dũng lại giựt banh của em.
Dũng: Em không có giựt.
Hòa (bình tĩnh hơn): Dũng không nói là Dũng mượn banh của mình đâu. Dũng chỉ giựt thôi.
Dũng (giận lại): Tao mượn mày rồi!
Thầy Đức (quát lên): Lại nữa!
Cô Thủy (nói cùng lúc): Dũng, anh có nói chuyện đàng hoàng lại không? Anh có thôi “mày – tao”
không?
Lan (nói chen vào): Em thấy Dũng giựt banh của bạn Hòa. Mấy bạn khác cũng thấy đó cô.
Dũng: Bà nói xạo. Bà bênh Hòa.
Lan: Tui bênh Hòa làm chi. Tui thấy sao thì nói vậy.
Thầy Đức: Vậy cuối cùng có giựt banh của bạn không Dũng?
Dũng: Dạ có.
Cô Thủy: Vậy Dũng xin lỗi Hòa đi. Rồi hòa cũng xin lỗi Dũng vì hai bạn đánh nhau.
148
TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN CỦA NGƯỜI HOA
Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG: NỘI DUNG VÀ GIÁ TRỊ
Phạm Văn Thịnh, Hoàng Văn Nam, Nguyễn Minh Trí*
Trung tâm Giáo dục Chính trị - Quốc phòng,
Trường Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh
*Tác giả liên hệ: Điện thoại: 0903 320 779; Email: nm.tri@hutech.edu.vn
TÓM TẮT
Văn hóa là nguồn lực nội sinh quan trọng để phát triển bền vững đất nước, đồng thời cũng là
thước đo, tiêu chí để đánh giá phát triển bền vững. Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là cái nôi của
các loại hình tín ngưỡng dân gian. Trong đời sống tinh thần của người dân nơi đây, sinh hoạt tín ngưỡng
chiếm vai trò quan trọng. Từ thế kỷ XVII, ĐBSCL đã tiếp nhận nhiều dân tộc đến cộng cư như người
Hoa, người Khmer, người Chăm. Các dân tộc đến đây mưu sinh, họ mang theo tín ngưỡng dân gian của
dân tộc mình như một sự chở che giúp họ vững bước nơi đất khách. Mỗi dân tộc có những tín ngưỡng
khác nhau, trong đó, người Hoa thờ Bà Thiên Hậu, thờ Đức Quan Thánh, thờ Bà Quan Âm… Tất cả
những yếu tố văn hóa tín ngưỡng tốt đẹp trên cần được gìn giữ, bảo vệ và lưu truyền.
Từ khóa: đồng bằng sông Cửu Long, giá trị, nội dung, người Hoa, tín ngưỡng dân gian.
1. Mở đầu
ĐBSCL có diện tích tự nhiên gần 4 triệu ha, với hơn 18 triệu dân sinh sống, chiếm 19,8% dân số
cả nước, trong đó, người Kinh chiếm hơn 90% dân số; người Khmer có khoảng 1,2 triệu người, chiếm
6,7% dân số; người Hoa có khoảng 192.000 người, chiếm 1,1%; người Chăm có khoảng 15.000 người,
chiếm 0,08% (Tổng cục Thống kê, 2021, tr.90). Người Việt là dân tộc chủ chốt đã khai phá đặt nền tảng
quản lý hành chính ở ĐBSCL. Người Khmer đã có mặt rất sớm ở Đồng bằng sông Cửu Long, họ đã chọn
những nẻo đất cao trên những giồng dọc theo bờ sông Tiền, sông Hậu, nương nhờ vào thiên nhiên để
sinh tồn. Người Hoa sát cánh với người Việt trong quá trình khẩn hoang ở ĐBSCL và xây dựng vùng đất
này.
Người Hoa đến ở ĐBSCL chủ yếu từ các tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến, đảo hải Nam vào nhiều
thời điểm khác nhau, có thể kể đến một số đợt di dân lớn vào Đàng Trong từ thế kỷ XVII đến nay, như
cuộc di dân vào năm 1671, của Mạc Cửu (Mạc Kính Cửu), một thương nhân người gốc Lôi Châu, Quảng
Đông chuyên buôn bán đường dài trên biển dẫn đầu đoàn lưu dân Trung Hoa và gia đình đến vùng đất
Mang Khảm (nay là Hà Tiên, thuộc tỉnh Kiên Giang). Năm 1679, nhóm các tướng Trung Hoa là Trần
Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch từ Quảng Đông cùng với 3.000 người, trên 50 chiến thuyền tìm
đến xứ đàng Trong xin được tị nạn chính trị vì không chịu sự khuất phục của triều đình Mãn Thanh bởi
họ là thần dân của nhà Minh. Khi đó, Chúa Nguyễn cho họ vào vùng đất phương Nam khai khẩn được
chia làm hai nhóm, nhóm của Trần Thượng Xuyên và Trần An Bình đến định cư ở Trấn Biên (Biên Hòa
ngày nay). Dương Ngạn Địch định cư ở Mỹ Tho (tỉnh Tiền Giang). Đến thế kỷ XIX, người Pháp tạo điều
kiện cho người Hoa vào định cư ở Sài Gòn, Chợ Lớn…. Năm 1949, Đảng Cộng Sản Trung Quốc giải
phóng Trung Hoa, khi đó một số người Hoa đã sang Việt Nam. Ở Đồng bằng sông Cửu Long, cộng đồng
người Hoa sử dụng 5 nhóm ngôn ngữ: Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam và Hẹ. Người Hoa
ở ĐBSCL phần đông là người gốc Triều Châu. Vì vậy, ngôn ngữ chính là tiếng Triều Châu (tiếng Tiều).
Phần lớn người Hoa ở ĐBSCL đều biết tiếng Việt và sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp hằng ngày. Riêng
ở ĐBSCL người Hoa định cư nhiều nhất ở các tỉnh: Sóc Trăng, tỉnh Kiên Giang, Bạc Liêu, Cần Thơ, An
Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long, Bến Tre…
Hoa ở ĐBSCL đã góp phần thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt văn hóa, tinh thần của nhân dân, nâng cao
giá trị đạo đức, lối sống của người Việt góp phần cũng cố, bảo tồn các giá trị văn hóa của dân tộc. Văn
kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII cho rằng: “Tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt đúng quy
định của pháp luật; chủ động giúp đỡ, giải quyết các nhu cầu hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh
của quần chúng, đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín
149
ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước về công tác tôn giáo” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, tr.141).Vì vậy, việc nhận
diện tín ngưỡng dân gian, giá trị của nó trong đời sống tinh thần của người Hoa ở ĐBSCL. Bài viết góp
phần làm rõ thêm tín ngưỡng dân gian, giá trị của nó trong đời sống tinh thần của người Hoa ở ĐBSCL.
2. Nội dung
2.1 Tín ngưỡng dân gian người Hoa ở Đồng bằng sông Cửu Long
Theo Đại từ điển Tiếng Việt: “Tín ngưỡng là lòng tin và sự tôn thờ một tôn giáo” (Nguyễn Như Ý,
1998, tr.1646). Nghĩa là tín ngưỡng chỉ tồn tại trong tôn giáo và cũng có nghĩa là tôn giáo. Còn theo Lưu
Bành (Trung Quốc) cho rằng: Nội hàm của khái niệm “tôn giáo” và “tín ngưỡng” không giống nhau.
“Tôn giáo” là khái niệm liên quan đến hữu thần luận, còn “tín ngưỡng” thì rộng hơn nhiều, có thể là hữu
thần luận, nhưng cũng có thể là vô thần luận, hoặc là một quan niệm, một hình thái ý thức nào đó, thậm
chí có thể chỉ hình thái hoạt động tư tưởng trong lĩnh vực tinh thần. Trong “tôn giáo” đã bao hàm nhân
tố “tín ngưỡng”, còn “tín ngưỡng” thì không bao hàm nhân tố “tôn giáo”.
Mặc dù vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau, song có thể hiểu: Tín ngưỡng là khái niệm dùng để
chỉ những hành vi cúng tế trong dân gian, sùng bái đa thần, không tuân theo một nghi thức nhất định
(tùy theo từng vùng miền, địa phương có những nghi lễ khác nhau); không có giáo chủ/người khai đạo,
không có giáo lý, giáo luật và không có tín đồ hoặc tín đồ không ổn định.
Trong nhân sinh quan của người Hoa tin rằng ngoài thế giới hiện hữu, còn có một thế giới khác,
đó là thế giới của thần linh, ma quỷ. Thế giới này có sức mạnh và chi phối thế giới hiện thực của con
người. Thần linh sẽ giúp đỡ con người, do vậy phải kính trọng thần linh. Có thể thấy, khi nhận thức của
con người về thế giới, về vạn vật còn hạn chế, con người không thể lý giải các sự vật, hiện tượng trong
tự nhiên, xã hội và tưu duy ở góc độ khoa học, thì thế giới quan tâm linh sẽ thay thế, giúp con người
mạnh mẽ, vững tin nơi đất khách. Khi các bậc tiền nhân đến ĐBSCL khẩn hoang lập ấp, họ đã mang theo
các loại hình tín ngưỡng dân gian đến vùng đất mới. Vùng đất này, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt phủ
màn huyền bí, thú dữ hoành hành…do vậy, là “mảnh đất” cho các loại hình tín ngưỡng dân gian nảy sinh
và phát triển. Vùng ĐBSCL có hơn 1.230 lễ hội, trong đó, lễ hội dân gian, truyền thống chiếm gần 70%,
lễ hội tôn giáo chiếm hơn 21%, lễ hội lịch sử cách mạng hơn 8%, còn lại là các lễ hội khác (Nguyễn
Xuân Hồng 2010, tr.48).
Người Hoa lập miễu, đền, phủ… để thờ các chư vị thần linh không chỉ tiếp nối truyền thống tâm
linh ở quê nhà, mà còn là một “liều thuốc tinh thần” giúp con người đứng vững trước thiên nhiên khắc
nghiệt vào buổi đầu nơi đất khách. Con người dựa vào quyền năng vô hình để trụ vững trong đời sống,
tin vào nhân quả để làm những điều tốt; lúc cùng cực, khó khăn họ khấn vái để được giúp đỡ, chở
che. Song, thiên nhiên bao quanh họ chứa đựng đầy những huyền bí và thường xuyên đe dọa cuộc sống
của họ mà họ không thể nào lý giải và khắc phục được. Và, thế là họ đã khoác lên tự nhiên một sức mạnh
thần thánh, những lực lượng thiên nhiên ấy đã được nhân cách hóa một cách hết sức nhiều vẻ và hết sức
hỗn tạp. Sức mạnh tự nhiên đã được thần thánh hóa dưới nhiều hình thức tín ngưỡng khác nhau.
Người Hoa đến ĐBSCL mưu sinh chủ yếu là thương nghiệp, do vậy, người Hoa ở vùng này rất tin
vào sự bảo trợ của các vị thần trong gia đình cũng như trong cộng đồng. Có hai hình thái tín ngưỡng
truyền thống rất phổ biến của người Hoa là thờ cúng thần linh trong gia đình, dòng họ và thờ cúng thần
linh trong cộng đồng như sau: (i) Thờ cúng tổ tiên và các vị thần bảo hộ tại gia. Gia đình Người Hoa nào
cũng có bàn thờ tổ tiên, được đặt nơi trang trọng nhất trong nhà. Thể hiện lòng biết ơn của con cháu tới
ông bà, tổ tiên, những người đã khuất. Bên cạnh việc thờ cúng tổ tiên trong từng gia đình, người Hoa còn
có niềm tin mãnh liệt vào sự thờ phụng các vị thần bảo hộ cho gia đình với ước vọng sự bình an, may
mắn cho gia đình. Người Hoa thờ ông Thiên (thờ Trời - Ngọc Hoàng Thượng Đế); thờ ông Địa và Thần
Tài; thờ ông Táo (tam vị Táo quân). (ii) Thờ các thần linh được thờ cúng trong cộng đồng. Đó là các vị
thần bảo hộ cho cộng đồng người Hoa trong mọi mặt của cuộc sống, như: Thờ Bà Thiên Hậu; Thờ Quan
Thánh Đế Quân; Thờ Ông Bổn.
Biểu hiện 2 hình thái trên thông qua sinh hoạt lễ hội, văn hóa tín ngưỡng cộng đồng của người Hoa
được tổ chức tại các thiết chế tín ngưỡng trên, gồm: Tết Nguyên đán, Nguyên tiêu, Thanh minh, Ðoan
150
ngọ, Trung nguyên (Vu Lan), Trung thu, trong đó có hai lễ hội lớn nhất, đặc trưng nhất của người Hoa
là lễ Nguyên Tiêu (Rằm tháng Giêng) và lễ Vu Lan (Rằm tháng Bảy).
Một số lễ hội mang ý nghĩa cầu mong sự an lành, hạnh phúc, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội
thu, giúp người ta nhớ về cội nguồn tổ tiên, ông bà đã sống chan hòa và yêu thương nhau hơn trên mảnh
đất này, tín ngưỡng Thờ cúng tổ tiên và các vị thần bảo hộ tại gia như: thờ ông Thiên (thờ Trời - Ngọc
Hoàng Thượng Đế); thờ ông Địa và Thần Tài; thờ ông Táo (tam vị Táo quân); Quan Thế Âm Bồ Tát.
Thờ các thần linh được thờ cúng trong cộng đồng như: Thờ Bà Thiên Hậu; Thờ Quan Thánh Đế Quân;
Thờ Ông Bổn. Cụ thể: Thờ cúng tổ tiên và các vị thần bảo hộ tại gia.
* Thờ cúng tổ tiên và các vị thần bảo hộ tại gia
- Bàn thờ Thiên: Trời được người Hoa tôn xưng là Ngọc Hoàng Thượng Đế, một vị thần đứng đầu
trong các thần có quyền năng chi phối, quyết định các công việc ở trần gian cũng như số phận con người.
Bàn thờ Trời, Phật ở trước sân nhà ở nông thôn” (Huỳnh Công Tín, 2007, tr. 116), trước cửa các ngôi
nhà trong thành phố, đó là một cái tran nhỏ, bên trong có 4 chữ (quan trời ban phước) gồm có bát nhang,
bình hoa ly nhỏ đựng nước cúng. Như vậy, bàn Thiên chính là bàn thờ Trời. Ở ĐBSCL, hình thức thờ
Trời được thể hiện bằng bàn Thiên được đặt trước cửa nhà - nơi gửi gắm những ước nguyện của con
người đến đấng trời cao. Đây là một dạng tín ngưỡng sơ khai của con người khi làm nông nghiệp, với
ước nguyện trời sẽ ban cho mưa thuận, gió hòa, để được mùa màng bội thu, cuộc sống sung túc, đủ đầy.
Bàn thờ Thiên có một ý nghĩa vô cùng đặc biệt khi cộng đồng người Hoa lưu lạc nơi đất khách, với biết
bao nỗi lo âm thầm, cộng đồng người Hoa gửi gắm sự bình an, mưa thuận, gió hòa, có những vụ mùa bội
thu đến đấng trời cao. Bàn thờ Thiên của người Hoa, nay đã phổ biến trong các gia đình của người Việt
ở ĐBSCL. Quá trình cộng cư với các cộng đồng các dân tộc khác Kinh, Khmer, Chăm… văn hóa Hoa
đã có sự thẩm thấu, hội nhập, tiếp nhận và giao lưu với các văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt. Quá
trình đó đã giúp các dân tộc hiểu hơn về người Hoa và người Hoa hiểu thêm về các cộng đồng cộng cư.
Từ đó mối quan hệ đoàn kết gắn bó giữa người Hoa với các dân tộc ở ĐBSCL ngày càng bền chặt, cùng
nhau xây dựng vùng đất này ngày càng giàu mạnh.
- Tập tục thờ cúng Ông Địa - Thần Tài. Ông Địa được xem là vị thần trông coi khu đất nơi ngôi
nhà của gia chủ đang tọa lạc, ông là vị phúc thần ngăn trừ ma quỷ xâm nhập vào nhà. Thần Tài được
xem là vị thần phù hộ tài lộc và may mắn trong làm ăn mua bán thu được nhiều lợi nhuận. Hai vị thần
thường được thờ chung trong một trang thờ đặt trên nền nhà, bên trong có hai pho tượng. Trong văn hóa
Việt đã có những vị thần đất đai với các danh xưng khác nhau như Thổ Địa, Thổ Thần, Thổ Công, Ông
Địa… Trong đó, hình tượng Ông Địa ở phương Nam đã đưa quan niệm Thổ Thần trừu tượng thành một
hình ảnh cụ thể và mang đậm văn hóa ĐBSCL.
Khi người Hoa di cư sang ĐBSCL, trong văn hóa Việt đã có thần đất đai, còn trong văn hóa người
Hoa thì thần đất đai cũng là thần tài lộc. Do đó, người Việt đã đón nhận hình tượng Thổ Địa của người
Hoa, nhưng chỉ tiếp nhận chức năng thần tài lộc của vị thần ấy. Đi vào văn hóa Việt là hình ảnh ông cụ
râu dài và bạc, mặc quan phục, đầu đội mão, tay cầm thỏi vàng… được người Việt gọi là Thần Tài, chứ
không phải Thổ Địa như nguyên bản. Song song đó, người Việt vẫn giữ lại hình tượng Ông Địa của
mình. Sau khi người Việt tiếp biến, hình thành nên hình tượng Ông Địa - Thần Tài đầy độc đáo ở ĐBSCL,
cộng đồng người Việt và Hoa cũng ảnh hưởng nhau trong hình thức thờ cúng. Người Hoa chịu ảnh hưởng
từ người Việt trong việc cúng Ông Địa bằng những vật phẩm như trái cây, cà phê, thuốc lá, thậm chí là
cá lóc nướng trui… Ngược lại, người Hoa cho rằng Thổ Thần thích ăn tỏi, nên khi cúng Ông Địa có tập
tục cúng tỏi, điều này cũng được người Việt tiếp nhận.
- Tập tục thờ ông Táo. Truyền thuyết về Táo quân có khá nhiều dị bản nhưng hầu khắp các vùng
miền ở Việt Nam việc thờ Táo quân hay Thần Bếp như một tín ngưỡng không thể thiếu trong đời sống
người Việt. Ông Táo hay Thần Bếp là vị thần được thờ phổ biến trong mỗi gia đình người Việt Nam nói
chung và ở ĐBSCL nói riêng. Phong tục này có liên quan mật thiết đến tín ngưỡng thờ lửa thời cổ xưa,
hay nói cách khác tục thờ Ông Táo là một dạng cụ thể hóa tín ngưỡng thờ lửa của con người thời sơ khai.
*Tục thờ các thần linh trong cộng đồng
- Tục thờ Mẫu của người Hoa. Thờ Mẫu của người Hoa ở ĐBSCL được biểu hiện khá phong phú
qua các hình thức biểu hiện khá phong phú qua các hình thức: Thiên Hậu Thánh Mẫu, Long Mẫu Nương
Nương, Tây Vương Mẫu, Cửu Thiên Huyền Nữ, Nữ Oa, Bà Chúa Xứ… Song, đối với Người Hoa, trong
151
số các nữ thần, quan trọng nhất là Thiên Hậu Thánh Mẫu. Thiên Hậu là mẫu thần cộng đồng hình thành
từ vùng Bồ Điền, Phúc Kiến, sau mở rộng khắp vùng duyên hải Hoa Nam, Đài Loan và hạ lưu sông
Trường Giang và lan rộng khắp thế giới. Theo “Đại Nam nhất thống chí”: “Đền thờ Thiên Hậu”, có tài
hô mưa, gọi gió, từng bay ra biển cứu giúp những thuyền bị nạn. Thiên Hậu hiểu thiên văn, khí tượng,
nắm rõ thủy tính, dự đoán khí trời biến hóa, thương thuyền hoặc ngư thuyền vùng ấy thường được chỉ
điểm cứu trợ. Khi người Hoa theo chiến thuyền vượt biển, được Chúa Nguyễn cho phép ĐBSCL định
cư, nhằm tưởng nhớ công ơn Thiên Hậu cứu giúp những thuyền gặp nạn bị sóng to, gió giữ giữa biển
khơi. Do vậy, việc thờ phụng mẫu thần Thiên Hậu cũng là điều dễ hiểu. Tại ĐBSCL, có rất nhiều nơi thờ
bà Thiên Hậu nhằm ghi nhớ công ơn cứu giúp của bà khi người Hoa theo chiến thuyền vượt biển. Ở
Thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp có chùa Bà Thiên Hậu của nhóm Phúc Kiến, ở Vĩnh Long chùa Thiên
Hậu được xây dựng bởi cộng đồng người Hoa Quảng Đông, ở Rạch Giá có chùa Bà của nhóm Hải Nam,
Quảng Đông… Có thể thấy, ở những thành phố, thị xã lớn nhỏ của người Hoa ở ĐBSCL, hầu như những
nơi có người Hoa cư ngụ đều có chùa Bà. Ngày 23 tháng 3 âm lịch hang năm là ngày vía Bà, người Hoa
thường tập trung đông đảo đến “chùa Bà” để làm lễ và mở hội.
Các miếu Thiên Hậu được gọi tên dưới nhiều dạng thức khác nhau, như: Thiên Hậu cung, Thiên
Hậu miếu, Ma Tổ miếu, Ma Tổ các, Thánh Mẫu miếu,… được coi là nơi gặp gỡ của những những ước
vọng dân gian mộc mạc, bình dị (như an lành, hạnh phúc, tài lộc, tai qua nạn khỏi…), của các cộng đồng
cư dân địa phương. Bà Thiên Hậu là một biểu tượng có hệ thống ý nghĩa khá phong phú, nhưng tập trung
chủ yếu ở ý nghĩa của thần biển, thần ban phát phúc lành. Tuy nhiên, các giá trị của tục thờ này sẽ thay
đổi tùy theo khách thể - tức cộng đồng thờ tự Bà Thiên Hậu. Chẳng hạn: Vào tháng 5 năm Nhâm Ngọ
(1882) tại Vĩnh Long xảy ra trận dịch lớn. Trước tình thế nguy cấp, hai bang Quảng- Triệu cùng nhau
lên Chợ Lớn cung thỉnh Thiên Thái Hậu Nguyên Quân giá lâm toạ trấn cứu nguy và sau đó vì nhiều
nguyên nhân, trận dịch được dập tắt.
Cũng tại Bạc Liêu Phước đức Cổ miếu hay (Chùa bang), còn gọi Bổn Đầu Công (Ông Bổn), Quan
Đế, Thần Nông, Thổ công, Ông bà Công Mẫu, v.v…Cũng vì Ông Bổn được thờ chính, nên gọi là “miếu
Ông Bổn”; về sau đổi là “Phước Đức cổ miếu”, vì người Hoa tin rằng Bổn Đầu Công cũng chính là
Phước Đức chánh thần – một vị thần được coi là có công khai hoang đất đai và phù trợ cho mọi người
sinh cơ lập nghiệp có cuộc sống an lành tại vùng đất mới.
- Tục thờ Quan Thế Âm Bồ Tát. Người phụ nữ thứ hai cũng được các di dân người Hoa ở vùng
ĐBSCL đặc biệt tôn thờ, là Quan Âm. Quan âm tự, cơ sở tín ngưỡng dành cho bà, thường bị đồng hóa
với cơ sở của đạo Phật, vì bà thường được xem là Bồ tát Avalokitecvara, vị Bồ tát “cứu khổ cứu nạn”
của đạo Phật, “người luôn quan tâm đến những lời than thở của chúng sinh”. Quan Âm không phải là vị
nữ thần riêng biệt trong tín ngưỡng của người Hoa vùng đồng bằng sông Cửu Long. Bà là Quan Âm Thị
Kính trong tín ngưỡng của người Việt. Bà cũng được người Nhật, người Triều Tiên thờ cúng. Song phải
thừa nhận ưu thế và sự luôn luôn có mặt của bà trong điện thờ của tôn giáo người Hoa. ở gia đình người
Hoa vùng đồng bằng sông Cửu Long, ta thường bắt gặp ảnh thờ bà bên cạnh ảnh Quan Công và bàn thờ
tổ tiên. Phụ nữ Hoa xem bà là “nữ thần của sự ban phát con cái”. Họ đến cầu khẩn bà mỗi khi muốn có
nhiều con, do đó bà thường được hình dung ở giữa nhiều trẻ con. Trên bình diện cộng đồng, trong tiềm
thức của người Hoa di dân, Quan Âm không chỉ là nữ thần ban phát con cái, không chỉ là Bồ tát “cứu
khổ cứu nạn”, không chỉ là vị “đại từ đại bi”, mà còn là vị Bồ tát Từ Hải phổ độ cứu giúp những người
gặp gian nguy khi vượt biển khơi.
- Thờ Quan Thánh Đế Quân còn gọi là Quan Công, một nhân vật trong lịch sử cổ đại Trung Quốc,
tên thật là Quan Vũ, hiệu là Quan Vân Trường. Quan Công là hiện thân của những đức tính tốt đẹp của
nhân cách trượng phu, tấm lòng trung, hiếu, tiết nghĩa, được xem là người có chữ tín nên được người
Hoa kính tín và suy tôn lên hàng Thánh, được thờ phụng ở mọi nơi có cộng đồng người Hoa, gọi là miếu
Quan Thánh hoặc chùa Ông. Ngày vía Quan Công là ngày 24 tháng 6 âm lịch, ngoài ra ngày rằm tháng
giêng người Hoa làm lễ cúng Ông rất long trọng. Nơi nào có đông đảo người Hoa sinh sống, họ đều lập
Hội quán để thờ ông như là sự hiện thân cho tâm tính và lối sống của họ. Người Hoa còn quan niệm,
Quan Thánh Đế Quân là vị thần hộ mạng của người đàn ông trong gia đình, cuộc sống cơ cực nơi đất
khách quê người. Tín ngưỡng mang theo từ quê nhà kết hợp với tín ngưỡng bản địa nơi họ đến sống làm
cho đời sống tinh thần của người Hoa thêm phong phú. Tại ĐBSCL, khi người Hoa đến vùng đất này
152
định cư với sự kính trọng về lòng trung nghĩa và chí khí anh hùng. Họ mang theo hình ảnh vị thánh với
những đức tính tốt đẹp để thờ phụng, với hy vọng Quan Thánh Đế Quân sẽ đem đến sự may mắn, tốt
lành, hộ mạng của người đàn ông nơi đất khách. Miếu Quan Thánh Đế không chỉ là nơi đông đảo đồng
bào Việt - Hoa đến chiêm bái mà còn là nơi đánh dấu cho sự định cư, phát triển của người Hoa trên vùng
đất ĐBSCL.
Có thể nói ngoài các tín ngưỡng cộng đồng người Hoa ở tại ĐBSCL, còn có các miếu thờ, các thần
thánh khác như: Ngũ Hành nương nương, Mười Hai bà mẹ thai sinh, Khổng tử, Lão tử v.v…ngoài nghững
ngày lễ vía chính, các dịp lệ, tết, rằm, mùng một người Hoa tập trung khá đông đến cúng lễ và cầu khẩn
tại các miếu, chùa.
2.2 Giá trị tín ngưỡng dân gian người Hoa ở vùng Đồng bằng Sông Cửu Long
Một là, góp phần giữ gìn, xây dựng tình yêu quê hương, đất nước. Tín ngưỡng, văn hóa đồng bào
người Hoa ở ĐBSCL, không chỉ đáp ứng nhu cầu văn hóa, tâm linh của nhân dân, mà còn góp phần củng
cố, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc cũng như xây dựng, bảo vệ tổ quốc. Lễ hội không chỉ giúp
người dân ĐBSCL thể hiện lòng biết ơn đối với các thế hệ cha ông đã khai hoang, lập ấp, mà còn nhắc
nhở đồng bào về trách nhiệm giữ gìn, xây dựng tình yêu quê hương, đất nước. Do vậy, yêu nước trở
thành “Tiêu điểm của các tiêu điểm, giá trị của các giá trị” là “động lực tình cảm lớn nhất của đời sống
dân tộc, đồng thời là bậc thang cao nhất trong hệ thống các giá trị đạo đức của dân tộc ta” (Phạm Phương
Hạnh, 2013, tr.99). Khi thực dân Pháp xâm lược, chứng kiến sự hèn nhát của triều đình nhà Nguyễn,
nhân dân ĐBSCL đã kiên cường tham gia phong trào khởi nghĩa, chiến đấu chống giặc Pháp bảo vệ quê
hương đất nước, do các sỹ phu yêu nước Trương Định, Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Trung Trực, Đỗ
Thừa Luông, Đỗ Thừa Tự... lãnh đạo. Sau năm 1945, thực dân Pháp trở lại xâm lược Nam Bộ, cuộc
kháng chiến toàn diện chống thực dân Pháp đã thu hút đông đảo đồng bào tham gia. Thông qua Hội Đoàn
kết Sư sãi Yêu nước, ĐBSCL, đã xuất hiện nhiều tấm gương chống thức dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Hai là, thúc đẩy ý thức cố kết các dân tộc Kinh - Khmer – Hoa – Chăm. Khi vào vùng đất mới,
làng của ngươi Kinh cùng với Sóc của người Khmer và Bang, Hội của người Hoa đã tạo nên sự cố kết
cộng đồng bền chặt. Chính các lễ hội văn hóa, tín ngưỡng của đồng bào Chăm, Hoa, Khmer, cùng với lễ
hội của người Việt đã tạo sự gắn kết cộng đồng bền chặt. Đến vùng đất mới định cư, các dân tộc đều hiểu
rằng vùng đất này với đầy rẫy những hiểm nguy đang rình rập, với tâm trạng: “Ra đi là sự đánh liều/Dại
như con trẻ chơi diều đứt dây” không biết ngày mai rồi sẽ ra sao… Do vậy, muốn sinh tồn họ phải liên
kết những con người xa lạ với nhau. Khi nghiên cứu về vấn đề này, Sơn Nam cũng cho rằng: “Nói chung,
tâm trạng của người nghèo, người bị lưu đày khẩn hoang đến nơi “xứ sở lạ lùng”, là muốn ra sức biến
đầm lầy, rừng tràm, rừng cây tạp trở thành ruộng lúa, sau đó cất một căn chòi để được an cư lạc nghiệp.
Tương lai thì như thế nào chưa rõ…” (Sơn Nam, 2018, tr.188). Người Hoa có tinh thần cố kết rất cao,
tương thân tương ái trong cuộc sống cộng đồng. Họ sẵn sàng giúp đỡ cho những người có hoàn cảnh khó
khăn hay bất cứ việc gì nếu có thể. Tại Sóc Trăng các Hội quán, Hội tương tế… của người Hoa từ rất lâu
đã thể hiện được tinh thần đoàn kết, tính cố kết cộng đồng rất cao.
Ngày nay, cộng đồng các dân tộc đã có sự giao hòa, cố kết giữa ba dân tộc Kinh, Hoa và Khmer
bản địa qua giao tiếp, qua lao động sản xuất, bảo vệ quê hương, qua ngôn ngữ và cả quan hệ huyết thống,
văn hóa, tín ngưỡng. Ý Thức cố kết cộng đồng của người Kinh còn được thể hiện qua tín ngưỡng tâm
linh đó là đình, chùa, vào tháng giêng, tuy không phải phật tử nhưng người Việt thấy mình có trách nhiệm
phải đến chùa, thắp nhang, khấn vái đó là cử chỉ để nhớ đạo đức dân tộc, tình yêu tổ quốc… Hơn nữa,
đặc trưng chung của trong quần cư của ĐBSCL là tính mở, do vậy trong cuộc sống, sinh hoạt, tín ngưỡng
hàng ngày cũng có sự hỗn dung rõ nét. Theo nghiên cứu của Trần Minh Thương và Bùi Túy Phượng:
“…Người ta dễ nhận thấy nhiều bàn thờ Ông Thiên đôi khi còn có kết hợp thờ ông Tà. Bên cạnh lư
hương, hay dưới chân bàn thờ Trời có khi là mấy hòn đá, biểu tượng của Neak Tà. Gặp ngày giỗ ông bà,
hoặc ngày lễ, ngày tết, cúng tổ nghề, tổ nghiệp…người ta cũng cúng luôn Ông Trời” (Trần Minh Thương
& Bùi Túy Phượng, 2016, tr.47).
Ba là, thúc đẩy lòng nhân ái, tinh thần nghĩa hiệp, trọng đạo lý trong lối sống người dân ĐBSCL. Lòng
nhân ái của nhân dân ĐBSCL được thể hiện qua lăng kính của những người đi “khai hoang, mở cõi”, đó
chính là lòng yêu thương con người, giúp người khác vượt qua khó khăn, hòa nhập ở vùng đất mới, là sự
153
cưu mang người khác khi “sa cơ, lỡ vận nơi đất khách”… Trong lúc khó khăn, hoạn nạn chính lòng nhân
ái, tinh thần nghĩa hiệp, sẻ chia lẫn nhau đã giúp họ vượt qua hoàn cảnh thực tại. Vì vậy, đối với những
người khi xa xứ, lòng yêu thương con người chính là “thương người như thể thương thân”; “một con
ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”…từ lâu đã trở thành nếp nghĩ, cách ứng xử, triết lý sống của con người nơi đây,
chi phối mối quan hệ giữa người với người nơi đây. Trọng nghĩa tình, đạo lý là đặt cái chung lên cái
riêng và nếu cần cũng sẵn sàng hy sinh cái riêng vì cái chung. Khi lưu dân người Việt cùng với người
Hoa và người Khmer cộng cư tại Sóc Trăng, tư tưởng trọng nghĩa tình, đạo lý đã trở thành một nguyên
tắc đạo đức, một nguyên tắc sống. Có thể thấy, đây là vùng đất của dân cư tứ xứ, con người không quen
biết nhau, nhưng cũng có nhu cầu tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, do vậy cơ sở của quan hệ giữa họ ở đây
không phải tình mà là nghĩa.
Bốn là, tinh thần lạc quan, nhìn cuộc sống đầy ý nghĩa trong văn hóa người Hoa ĐBSCL. Đối với
người Hoa tại Sóc Trăng, tinh thần lạc quan, nhìn cuộc sống đầy ý nghĩa còn bắt nguồn từ xuất thân của
họ, vì phong trào “phản Thanh phục Minh” mà sang đây. Khi xin chúa Nguyễn khai hoang vùng đất Sóc
Trăng, những người gốc ở Quảng Tây - Quảng Đông, đều mang theo tinh thần lạc quan, hy vọng vùng
đất mới sẽ tốt đẹp, thuận lợi trong sinh hoạt, an cư, bình yên hơn cố quốc.
Ở một khía cạnh khác, nơi quê cha, đất tổ họ đã gặp biết bao rủi ro, trong hoàn cảnh đó, họ phải
lạc quan và hài hước tự động viên chính mình “hết mưa trời sẽ nắng lên thôi”, “có công mài sắt có ngày
nên kim”... Đối với người Hoa tại Sóc Trăng, tinh thần lạc quan, nhìn cuộc sống đầy ý nghĩa còn bắt
nguồn từ xuất thân của họ, vì phong trào “phản Thanh phục Minh” mà sang đây. Khi xin chúa Nguyễn
khai hoang này, người Hoa đều mang theo tinh thần lạc quan, hy vọng vùng đất mới sẽ tốt đẹp, thuận lợi
trong sinh hoạt, an cư, bình yên hơn cố quốc.
3. Kết luận
Tín ngưỡng dân gian của người Hoa ở ĐBSCL là một trong những thành tố không thể thiếu tạo
nên bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam.Thông qua nghiên cứu một số nét về tín ngưỡng và các loại
hình tín ngưỡng của người Hoa ở ĐBSCL, chúng ta thấy người Hoa tin và thờ cúng nhiều thần linh, thể
hiện quan niệm của họ về vũ trụ và con người rất phong phú. Qua các hình thức tín ngưỡng, cũng thể
hiện xu thế giao lưu và tiếp biến trong quá trình cộng cư với người bản xứ tại ĐBSCL. Các loại hình tín
ngưỡng, văn hóa của người Hoa tại ĐBSCL góp phần giáo dục cho cộng đồng về cách sống biết trọng
nhân nghĩa, giúp đỡ cộng đồng và có nghĩa khí, xây dựng thế giới quan lạc quan, nhân văn, nhân ái, tinh
thần nghĩa hiệp, trọng đạo lý, uống nước nhớ nguồn, tri ân các bậc tiền nhân cũng như ý thức cố kết dân tộc,
tình yêu quê hương đất nước những giá trị đó cần được giữ gìn, phát huy tạo sức mạnh nội sinh phát triển
đất nước, cùng với bản sắc văn hóa, tín ngưỡng các dân tộc khác trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
155
SỰ KHÁC NHAU TRONG ẨM THỰC MÓN ĂN SÁNG - XÔI THẬP CẨM
CỦA NGƯỜI SÀI GÒN VIỆT NAM VÀ NGƯỜI ĐÀI LOAN
Đào Thị Châu Giang*
Khoa Trung Quốc học, Trường Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh
*Tác giả liên hệ: Điện thoại: 0968 756 518; Email: dtc.giang@hutech.edu.vn
TÓM TẮT
Nhắc đến ẩm thực Việt Nam không thể không nhắc đến phở, bánh mì, cơm tấm… Nhưng dường
như “người họ hàng” của chúng là xôi lại ít được nhắc đến. Sự phong phú của xôi về nguyên liệu, về
cách chế biến khó có thể liệt kê hết trong ẩm thực Việt Nam nói riêng và các nền ẩm thực của các nước
có văn hóa sử dụng lúa gạo nói chung như Đài Loan. Xôi quá quen thuộc với người Việt Nam từ món ăn
sáng đến món chính, từ vỉa hè đến nhà hàng, từ đời thường đến lễ tết, từ dân dã đến bàn tiệc. Và bài viết
này chỉ đề cập đến một khía cạnh nhỏ của xôi trong nét ẩm thực của người Sài Gòn Việt Nam và người
Đài Loan - ẩm thực món ăn sáng xôi thập cẩm.
Từ khóa: ẩm thực Đài Loan, ẩm thực Việt Nam, món ăn sáng, xôi, xôi thập cẩm...
1. Tổng quan
1.1 Mục đích nghiên cứu đề tài
“Có thực mới vực được đạo”, câu tục ngữ của ông bà ta đúc kết từ bao đời nay đã thể hiện rõ tầm
quan trọng của việc ăn uống. Chúng ta không thể làm tốt bất kỳ việc gì với một cái bụng rỗng, đặc biệt
là sau một giấc ngủ dài, cơ thể đã tiêu thụ hết năng lương từ thức ăn của ngày hôm trước thì bữa ăn sáng
là buổi ăn cực kỳ quan trọng để khởi đầu cho một ngày mới tràn đầy sức sống. Văn hóa người Việt Nam
thường ăn sáng nhẹ, ăn điểm tâm, không mang tính chất no như bánh mì, phở, bún, cháo... nhưng nếu
cần “chắc bụng” để có đủ năng lượng làm việc hay học tập thì mọi người sẽ lựa chọn cho mình những
món ăn từ cơm hay xôi. Và một món ăn dân giã mà bất kỳ một người con đất Việt nào cũng biết – xôi
đã gắn liền với bữa ăn sáng của đám học trò, của anh công nhân, của chị nhân viên, của cô y tá, của bác
bảo vệ... hay cả các cụ già thỉ thoảng cũng thưởng thức món xôi để nhớ đến món ăn quê hương. Trong
một lần tình cờ tác giả phát hiện ra món xôi của Đài Loan và vô cùng thích thú với sự giống nhau và
khác nhau với xôi thập cẩm của Việt Nam, nên tác giả hy vọng qua bài viết này mọi người có thể hiểu
thêm về ẩm thực xôi trong bữa ăn sáng của người Sài Gòn Việt Nam và người Đài Loan.
2. Thảo luận
2.1 Xôi thập cẩm trong bữa ăn sáng của người Sài Gòn Việt Nam
2.1.1 Đặc điểm ẩm thực Sài Gòn
Vùng đất Sài Gòn (tên hành chính thành phố Hồ Chí Minh) và vùng đất mới được khai phá từ thời
phong kiến nhà Nguyễn, nên vùng đất này quy tụ những con người từ nhiều nơi hội tụ lại sinh sống và
phát triển. Ẩm thực của người Sài Gòn cũng chịu ảnh hưởng của những con người này tạo nên nét ẩm
thực riêng trên cơ sở ẩm thực truyền thống của người Việt. Các món ăn Sài Gòn nguyên liệu rất phong
phú đa dạng nhưng lại rất đơn giản trong khâu chế biến nên mùi vị của món ăn cơ bản được giữ nguyên
156
vị gốc. Và món xôi thập cẩm của người Sài Gòn đã thể hiện sâu sắc được nét riêng trên nền truyền thống
đó.
2.2 Xôi thập cẩm trong bữa ăn sáng của người Đài Loan
2.2.1 Sự hình thành của xôi nắm - xôi thập cẩm trong bữa ăn sáng của người Đài Loan
Xôi thập cẩm của người Đài Loan được gọi là “xôi nắm”, món xôi này cũng là món ăn sáng truyền
thống của người Đài Loan, bắt nguồn từ vùng Giang Nam Trung Quốc, theo chân của dòng người di cư
đến Đài Loan, và thích nghi với môi trường làm việc ở công trường, tất cả thành phần của xôi đều gói
chung trong lá tre để tiện đi lại và tiện ăn uống. Dần dần xôi nắm càng được biến tấu đa dạng với những
hương vị đặc trưng thu hút sự yêu thích của đông đảo người dân Đài Loan.
2.2.2 Xôi nắm – xôi thập cẩm trong bữa ăn sáng của người Đài Loan
Xôi nắm truyền thống là nắm xôi trắng trải trên màng bọc thực phẩm, (dưới có lót miếng khăn
bông hay mành tre cuộn sushi), trải thành hình vuông, đặt lần lượt một đoạn quẩy (dầu cháo quẩy), chà
bông, thịt băm, cải chua, củ cải trắng chua vào chính giữa phần xôi đã trải, sau đó cuộn tròn mành tre
hay miếng khăn, phần nhân được nằm giữa lớp xôi trắng, và đúng như tên gọi của nó, sản phẩm hoàn
thành là một nắm xôi.
Xôi nắm của Đài Loan có nhiều biến tấu trong các món ăn kèm, tùy vào khẩu vị khách hàng có thể
thay đổi hay thêm món ăn kèm như lạp xưởng, trứng chiên (trứng ốp la, trứng kho xì dầu), thịt kho...
Nhưng dù có biến tấu như thế nào thì xôi nắm vẫn toát lên được sự đơn giản, tiện lợi và “chắc bụng”.
Social Lab dựa vào các số liệu trên OpView đã tiến hành thống kê về các món ăn kèm với xôi nắm,
gồm có lạp xưởng, chà bông, trứng kho (xì dầu), cải chua, củ cải trắng chua, rong biển, phô mai, dầu
cháo quẩy... Trong đó dầu cháo quẩy được coi là linh hồn của món ăn này, độ xốp giòn béo ngậy của dầu
cháo quẩy kèm với xôi nóng thực sự mang lại cảm giác vui sướng trong miệng. Đứng ở vị trí thứ hai là
chà bông, độ bùi ngọt của thịt khiến chà bông hòa quyện với độ dẻo mềm của xôi nóng thì lại mang đến
sự hạnh phúc cho đầu lưỡi, một sự kết hợp đơn giản nguyên vị nhưng hoàn hảo. Vị trí thứ ba là rong
157
biển, vị tanh tanh mằn mặn của rong biển là sự kết hợp tươi mới với xôi nóng. Tuy không nằm trong top
ba những món ăn kèm với xôi nắm được yêu thích nhất nhưng trứng kho (xì dầu), phô mai, lạp xưởng,
cải chua ... cũng được tranh luận sôi nổi và có không ít lời khen ngợi.
2.3 So sánh nét tương đồng và khác biệt của Xôi thập cẩm trong bữa ăn sáng của người
Sài Gòn Việt Nam và người Đài Loan
2.3.1 Nét tương đồng
Xôi thập cẩm của người Sài Gòn Việt Nam và xôi nắm của người Đài Loan tuy xa về khoảng cách
địa lý nhưng lại có nhiều nét tương đồng thú vị. Xôi là món ăn đơn giản không cầu kỳ, nhưng đều đa
dạng trong các món ăn kèm, thuận tiện trong việc mang đi. Xôi thập cẩm hay xôi nắm đều dùng lá cây
để gói xôi, các món ăn kèm đều có chà bông, thịt, đồ chua, đậu phộng...
3. Kết luận
Dẫu ở Việt Nam hay Đài Loan thì nền nông nghiệp lúa nước đã mang đến cho xôi sự dân dã, đơn
giản, nhưng chắc lòng. Trải qua bao giai đoạn lịch sử, xôi vẫn còn lưu giữ những nét văn hóa ẩm thực từ
tổ tiên ông bà truyền lại, và sự phát triển của xã hội đã làm phong phú thêm ẩm thực xôi nhưng cũng
đồng thời làm phai nhạt đi hương vị truyền thống của xôi. Hy vọng trong tương lai văn hóa ẩm thực của
Việt Nam và Đài Loan nói riêng và các nước trên thế giới nói chung sẽ có hướng đi mới trong việc bảo
tồn và phát huy những giá trị văn hóa ẩm thực.
158
TÌM HIỂU VỀ PHÉP HỒI CHỈ TRONG ĐOẠN VĂN TIẾNG TRUNG
TÓM TẮT
Trong tiếng Trung cũng như những ngôn ngữ khác, phép hồi chỉ là một cách thức diễn đạt quan
trọng. Bài viết cung cấp một số thông tin về phép hồi chỉ trong tiếng Trung, đặc biệt là trong đoạn văn;
đồng thời giới thiệu về phép hồi chỉ danh từ, hồi chỉ đại từ và hồi chỉ tỉnh lược trong tiếng Trung. Việc
tìm hiểu về phép hồi chỉ trong đoạn văn tiếng Trung sẽ giúp người học hiểu thêm về logic giữa các câu
trong một đoạn văn, hỗ trợ cho việc biểu đạt một đoạn văn đúng ngữ pháp và phù hợp với ngữ dụng, từ
đó nâng cao năng lực biểu đạt tiếng Trung.
Từ khóa: đoạn văn, phép hồi chỉ, tiếng Trung
Trong giao tiếp ngôn ngữ, khi người nói muốn dùng hình thức quy chiếu nào đó, muốn người nghe
hiểu được một cách chính xác ý chỉ xưng của mình, thì phải lựa chọn hình thức quy chiếu dưới góc độ
của người nghe; còn người nghe nếu muốn hiểu được hình thức quy chiếu của người nói, thì phải tìm ra
được một đối tượng chỉ xưng thích hợp đã từng được nhắc đến ở ý trước đó. Quá trình hiểu rõ được hồi
chỉ trong một đoạn văn là một hoạt động nhận thức tâm lý điển hình. Phép hồi chỉ giúp tăng tính liên kết
trong đoạn văn và giúp người nghe hiểu rõ hơn về đối tượng được đề cập đến.
1. Đặt vấn đề
Ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói là hai hình thức biểu hiện của ngôn ngữ, là công cụ quan trọng
dùng để biểu đạt kinh nghiệm, tư tưởng, cảm nhận của con người cho người đọc hoặc người nghe. Trong
giới hạn bài viết này, vấn đề nghiên cứu sẽ chủ yếu tập trung ở trong đoạn văn của cả ngôn ngữ nói và
viết.
Trong lĩnh vực giảng dạy tiếng Trung, nghiên cứu về giảng dạy đoạn văn hiện nay chưa được quan
tâm đúng mức. Những nghiên cứu hiện nay vẫn đang tập trung nhiều vào từ và câu, đoạn văn vẫn chưa
được nghiên cứu nhiều. Sự lặp lại của các chủ thể giữa các câu trong một đoạn văn là một biện pháp liên
kết quan trọng, và chúng cũng đề cập đến một hiện tượng ngôn ngữ gọi là “hồi chỉ”. Bài viết sẽ tiến hành
tìm hiểu về phép “hồi chỉ” trong tiếng Trung, cũng như giới hạn thảo luận những đặc điểm của phép “hồi
chỉ” trong chuỗi câu hoặc đoạn văn.
159
Hồi chỉ chịu ảnh hưởng của những nhân tố như ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng, chức năng, tâm
lý nhận thức... đồng thời bản thân nó cũng khá phức tạp. Khi nghiên cứu về những nhân tố ảnh hưởng
đến hồi chỉ, lý thuyết về “tính liên tục của chủ đề” (topic continuity) của Givón (1983) và lý thuyết về
“tính tiếp cận” (accessibility) của hồi chỉ của Ariel (1994) là hai lý thuyết được ứng dụng rộng rãi.
2.1.3 Hai phương pháp phân loại hồi chỉ trong tiếng Trung
Phương pháp đầu tiên phân loại dựa trên mức độ khác biệt giữa tiền đề và cách thức biểu đạt sau
nó, bao gồm cách biểu đạt giống nhau, cách biểu đạt giống nhau cục bộ và cách biểu đạt khác nhau (gồm
từ đồng nghĩa, đại từ chỉ định, tỉnh lược...) , theo 廖秋忠( 1986).
Phương pháp thứ hai phân loại dựa trên hình thức ngữ pháp, chủ yếu bao gồm hồi chỉ danh từ,
hồi chỉ đại từ và hồi chỉ tỉnh lược (陈平, 1987), đây cũng là phương pháp được sử dụng phổ biến đối với
những nghiên cứu trong lĩnh vực giảng dạy tiếng Trung như ngôn ngữ thứ hai.
160
2.2.3 Tần suất xuất hiện của các loại hồi chỉ trong tiếng Trung
Xét theo loại từ: Dù là trong khẩu ngữ hay văn viết tiếng Trung, hồi chỉ đại từ đều là loại hồi chỉ
có số lượng chiếm tỷ lệ cao nhất trong các loại hồi chỉ.
Xét theo đoạn văn: Trong khẩu ngữ, hồi chỉ đại từ có mức độ hồi chỉ cao nhất, tiếp sau đó là hồi
chỉ tỉnh lược, cuối cùng là hồi chỉ danh từ. Trong văn viết, hồi chỉ danh từ có mức độ hồi chỉ cao nhất,
tiếp theo là hồi chỉ tỉnh lược, cuối cùng là hồi chỉ đại từ.
3. Kết luận
Quy chiếu nhân vật hoặc hẹp hơn là hồi chỉ là nhân tố quan trọng trong giao tiếp tiếng Trung, cũng
là phương pháp diễn đạt cơ bản, nếu sử dụng không xác đáng sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả diễn đạt. Sử
dụng phép hồi chỉ chuẩn xác sẽ giúp cho người đọc hoặc người nghe dễ dàng nắm bắt nội hàm trong đó,
đồng thời giúp họ có ấn tượng sâu hơn và ghi nhớ lâu hơn. Còn ngược lại, nếu như hồi chỉ nhân vật
không hoàn chỉnh, không chính xác sẽ cản trở diễn đạt, thậm chí có thể khiến cho người đọc hoặc người
nghe hiểu nhầm.
Việc hiểu rõ về phép hồi chỉ sẽ giúp người học nâng cao khả năng tiếp nhận (nghe hiểu cũng như
đọc hiểu) và khả năng diễn đạt (nói và viết) tiếng Trung. Người học tiếng Trung có thể tăng khả năng lý
giải tình huống và hiểu rõ dụng ý của người diễn đạt, đồng thời tiếp cận sâu hơn với tư duy diễn đạt của
người bản địa, từ đó nâng cao ngữ cảm tiếng Trung.
161
NGHIÊN CỨU VĂN HÓA BIỂN HIỆU CỬA HÀNG
TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
Khuất Thị Tú Anh*
*Khoa Trung Quốc học, Trường Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh
*Tác giả liên hệ: Điện thoại: 0352 581 724; Email: ktt.anh@hutech.edu.vn
TÓM TẮT
Việt Nam - Trung Quốc đều nằm trong vòng triết học nho giáo, có mối liên hệ lâu dài và thân thiết.
Tìm hiểu, hiểu rõ về văn hóa Trung Quốc là niềm đam mê của các cá nhân yêu thích nền văn hóa Trung
Quốc nói chung, sinh viên ngành Trung Quốc học nói riêng. Biển hiệu (hay còn gọi “Chiêu hoảng”) có
thể được nhìn thấy ở khắp mọi nơi, hằng ngày hằng giờ trong cuộc sống hằng ngày của cả Việt Nam lẫn
Trung Quốc. Thiết kế biển hiệu ở Trung Quốc cổ đại khá đặc biệt và có liên quan mật thiết đến phong
tục tập quán Trung Quốc cổ đại. Tìm hiểu về biển hiệu cửa hàng Trung Quốc cổ đại chính là tìm hiểu
thêm về một phương diện văn hóa từ những điều quen thuộc nhất, giúp đọc giả hiểu sâu hơn về văn hóa
Trung Quốc, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc đào tạo tiếng Trung Quốc.
Từ khóa: biển hiệu, văn hóa Trung Quốc cổ đại.
162
được bán, như một chiếc mũ treo bên ngoài cửa hàng bán mũ, và một dải lụa đỏ được buộc ở dưới cùng
của chiếc mũ, cho thấy đó là một món hàng để bán ( Hình 1-3). Trong quá trình phát triển lâu dài, các
ngành nghề khác nhau đã dần hình thành các dấu hiệu đặc trưng cho nghành nghề đó: Quán rượu treo cờ
rượu hoặc mành rượu , quán trọ nhỏ treo một cái thìa lớn, quán trà treo bảng hiệu bằng gỗ viết chữ “ Trà”
hoặc vẽ hình ảnh lá trà, hiệu thuốc treo quả bầu,… Ngoài ra, hình dáng bảng hiệu cũng có thể phân biệt
được đẳng cấp và dân tộc của cửa hàng. Lấy quán trọ thời cổ đại làm ví dụ, nếu treo bốn bảng hiệu chỉ
đây là quán trọ lớn, treo bảng hiệu màu xanh là quán trọ của người hồi,… Như vậy, vừa sinh động vừa
đơn giản dễ hiểu.
Có rất nhiều ghi chép về các loại biển hiệu trong các bài văn và thơ ca Trung Quốc cổ đại, trong
đó nổi tiếng nhất là 《清明上河图》(Hình 1-4) . Trong tranh chia các loại cửa hàng thành bốn loại, cho
thấy sự thịnh vượng của Biện Kinh ( Nay là thành phố Khai Phong) vào thời Bắc Tống và cảnh tượng sử
dụng biển hiệu ở nhiều cửa hàng (《清明上河图》看北宋的广告行为,2003 年第 4 期,开封教育学
院学报) .
Bảng 1. Phân loại các cửa hàng trong 《清明上河图》
Phân loại cửa hàng Số lượng và tên gọi biển hiệu
10 loại (Chỉ tính số lượng có đặc điểm cửa hàng ăn uống rõ ràng) .
Cửa hàng ăn uống 十千脚店、孙羊正点、河边雅座、坊间茶铺、码头新店 ( Đa số
không có tên gọi rõ ràng nên không được ghi chép tại đây)
4 loại.
Quầy thuốc
国医赵太丞家、杨大夫家、杨家应诊、刘家上色沉檀拣香
2 loại.
Quán trọ
久住王员外家、曹三家
6 loại.
Dịch vụ tạp hóa
肉铺、“解”字商店、李家家具工坊、盐铺、大车修理铺、王家
纸马铺
163
Về kiểu dáng, bản hiệu truyền thống có hình dáng đơn giản nhẹ nhàng, phong cách sinh động, màu
sắc tươi sáng bắt mắt. Được phân thành bức hoành, biển hiệu ngang và biển hiệu treo ba loại chính cùng
một số kiểu dáng khác ( Hùng Nghiên, 2017, tạp chí Tây Bộ Bì Hoa). Các bản hiệu ban đầu, như bản
hiệu rượu, thường sử dụng vải xanh và trắng để làm bản hiệu hình tam giác hoặc chữ nhật dài, xung
quanh được trang trí bằng các hình răng cưa để thu hút khách hàng, nói chung, chúng tương đối đơn giản
( Hình 2-1). Theo sự phát triển của xã hội, các chủ cửa hàng bắt đầu thêu tên cửa hàng và hoa văn lên
bản hiệu, hoặc viết một số từ có thể kích thích mong muốn mua hàng của khách hàng.
Hình 2-1
Thiết kế bảng hiệu ở Trung Quốc cổ đại coi trọng mỹ quan, hào phóng và bắt mắt, cố gắng làm nổi
bật phạm vi kinh doanh và đặc điểm của cửa hàng, không chỉ rất thiết thực mà còn phản ánh được ngụ
ý, tình cảm trong lối tư duy, quan điểm nghệ thuật và tính thẩm phong phú, thể hiện đầy đủ vẻ đẹp của
cuộc sống và vẻ đẹp nghệ thuật, đại diện cho cảnh quan văn hóa buôn bán đặc sắc truyền thống của Trung
Quốc. Cụ thể:
Thứ nhất, tính trung thực. Là cái nôi của nên tư tưởng triết học nho giáo, triết lý trong kinh doanh
của các thương nhân Trung Quốc cổ đại luôn xoay quanh “ Nhân” “Nghĩa” “ Đức” “Tín” , chú trọng tư
tưởng “ Lấy nghĩa làm lời (以义取利)” . Biểu hiện rõ nhất trong chính nội dung của biển hiệu, họ
thường xuyên sử dụng các từ “ Nhân” “Nghĩa” “ Đức” “Tín” đặt tên. Như “Đồng Nhân Đường(同仁
堂)”,“(Đức Nhân Đường 德仁堂)”,“Chính Nghĩa Đức(正义德)”, …
Thứ hai, chú trọng xây dựng và bảo vệ thương hiệu. Biển hiệu là một công đoạn quan trọng trong
việc thiết lập thương hiệu, là cách các thương gia tuyên truyền và bảo vệ danh tiếng của cửa hàng mình.
Vì thế, các thương nhân Trung Quốc cổ đại không những kỳ công trong việc lựa thiết kế hình thức bản
hiệu mà còn đặc biệt mời các danh nhân đặt bút viết tên bản hiệu. Như cửa hàng bán tương “ Lục Bất Cư
(六必居” hay cửa hàng tơ lụa “ở Bắc Kinh cũ, Cửa hàng tơ lụa “Thụy Phù Tường(瑞蚨祥”,…
Thứ ba, tính văn hóa dân tộc. Xuất phát từ tâm lý dân tộc coi trọng phước lành, cầu phúc tránh họa,
trong quá trình thiết kế bản hiệu người Trung Quốc cổ đại đã tận dụng triệt để hàm ý của các hình tượng
164
Hình 2-2
thiên nhiên khác nhau như bàn long, đào trường thọ, chim hạc,…; Các màu sắc như màu đỏ may mắn,
màu vàng an nhiên, màu đen trang trọng và các tông màu khác, tạo ra nhiều hình tượng nghệ thuật cát
tường thuận mắt, kết hợp hoàn hảo giữa văn hóa truyền thống và gu thẩm mỹ của dân tộc Trung Hoa.
Như, cửa hàng giày “Nội Liên Thăng(内联升” được mở vào năm Hàm Phong thứ ba của triều đại nhà
Thanh. Trên bản hiệu vẽ một chiếc ủng và một chiếc giày, và chúng được nâng đỡ bởi những đám mây
(Hình 2-2), ngụ ý rằng, đi giày của “Nội Liên Thăng(内联升” có thể “Đường mây nhẹ bước(平步青
云” , điều này phù hợp với văn hóa tâm lí của những cá nhân mong muốn thăng tiến lúc bấy giờ (ùng
Nghiên, 2017, Tạp chí Tây Bộ Bì Hoa).
3. Đặc điểm phong cách nghệ thuật thư pháp trong biển hiệu
Có thể chia kiểu chữ thư pháp trong biển hiệu Trung Quốc cổ đại thành hai loại “Sở thư (署书)”
và “Bảng thư (榜书)”.
“Sở thư (署书) là loại ký tự kích thước lớn, có thể nhìn thấy từ khoảng cách xa, được viết trong
một không gian hạn chế, nét chữ đậm, dày nhưng đơn giản bởi cẩu tạo bởi các nét cơ bản dọc, ngang,
chấm, móc… truyền tải thông tin nhanh chóng.
Khác với “Sở thư (署书)” tự do, phóng thoáng, cách viết của “Bảng thư (榜书)” cần tuân theo
những quy tắc và yêu cầu đặc biệt riêng, trong “Đại thư tràng ngữ (大书长语)”, Bí Doanh ghi chép rằng
quy tắc viết của “榜书” bắt buộc được truyền thụ từ danh sư. Cách viết tỉ mỉ, chi tiết, đúng quy tắc đến
từng nét dọc, ngang, chấm, móc…. Người viết nhất định phải thành thạo nghệ thuật chữ thư pháp, càng
xem càng thấy hay.
Thư pháp trong biển hiệu quảng cáo cửa hàng Trung Quốc cổ đại vừa khác với tác phẩm thư pháp
thuần túy, vừa khác với thiết kế biển hiệu đơn thuần, nó mang một giá trị nghệ thuật độc đáo riêng biệt.
Sự kết hợp cao giữa quảng cáo và nghệ thuật thư pháp là một kỹ thuật và đặc điểm quan trọng trong các
hoạt động quảng cáo của Trung Quốc cổ đại, phù hợp với quan điểm thẩm mỹ truyền thống và phương
pháp tiếp cận của người Trung Quốc, đồng thời chứa đựng những giá trị văn hóa nghệ thuật sâu sắc. Hiểu
và nắm bắt kiến thức và đặc điểm của thư pháp trong các quảng cáo thương mại truyền thống có giá trị
tham khảo quan trọng cho việc sáng tạo và thiết kế biển hiệu hiện đại.
4. Kết luận
Dân tộc Trung Hoa lấy chữ “Tín” làm báu vật để phát triển kinh doanh, minh chính điển hình nhất
chính là nội dung trong biển hiệu cửa hàng từ thời cổ đại. Đối với người Trung Quốc, biển hiệu không
chỉ đơn giản là một công cụ quảng cáo trong kinh doanh, mà trong góc độ văn hóa bản thân biển hiệu
còn là một sản phẩm tư tưởng triết học, một chứng nhân lịch sử của dân tộc, thể hiện sự chuyển mình
mạnh mẽ của thời đại. Theo quy luật tự nhiên, xã hội càng phát triển, con người càng hướng về văn hóa
cội nguồn. Biển hiệu cửa hàng Trung Quốc cổ đại đã, đang và sẽ là biểu mẫu, là cảm hứng cho các thiết
kế biển hiệu hiện đại học tập và phát huy.
5. Tài liệu tham khảo
1. Lâm Nham & Hoàng Yến Sinh, 中国店铺幌子研究, Tạp chí thư viện lịch sử Trung Quốc,
Trung Quốc, 1995 (2):72-88.
2. Hùng Nham, 中国古代招幌的设计观念对现代视觉传达设计的启示, Tạp chí Tây Bộ
Bì Hoa, Trung Quốc, 2017:77.
3. Hứa Bình, 造物之门, Nhà xuất bản nhân dân Thiển Tây, Trung Quốc, 2000:368.
4. Khúc Ngạn Bân, 中国招幌与招徕市声, Nhà xuất bản nhân dân Liêu Ninh, Trung Quốc,
2000:13.
5. Trương Thị Mai, Đặc trưng ngôn ngữ quảng cáo trên các biển hiệu ở địa bàn thành phố
Vinh, Nghệ An, Việt Nam, 2010: 9.
165
MỘT VÀI NÉT TƯƠNG ĐỒNG VỀ VĂN HÓA TRẦU CAU
CỦA VIỆT NAM VÀ ĐÀI LOAN
TÓM TẮT
Ăn trầu không chỉ là phong tục của người Việt Nam mà còn còn xuất hiện trên nhiều vùng miền,
quốc gia châu Á, trong đó có Đài Loan. Tuy nhiên ý nghĩa văn hóa cũng như ảnh hưởng đến đời sống
của phong tục này giữa các quốc gia không hoàn toàn đồng nhất hay khác biệt. Triết lý nhân sinh, tư duy
về vũ trụ được thể hiện phần nào qua tập tục, thói quen của con người và văn hóa trầu cau đã thể hiện rất
rõ điều đó. Bài viết làm rõ một vài điểm tương đồng trong tư duy văn hóa của Việt Nam và Đài Loan.
Từ khóa: trầu cau, văn hóa, phong tục.
Tại nhiều quốc gia châu Á, trầu cau mang nội hàm văn hóa phong phú, là vật không thể thiếu trong
nhiều nghi lễ quan trọng của đời sống; những nghi lễ tập tục đó đã truyền từ nhiều thế hệ cho đến tận
ngày nay, tạo nên văn hóa trầu cau rất độc đáo, có ảnh hưởng sâu rộng. Người dùng trầu cau chủ yếu vì
hai mục đích chính: một là sử dụng dược tính, coi như một loại thuốc; hai là ý nghĩa tượng trưng, để thể
hiện tình vợ chồng, nghĩa anh em, giao tế xã hội...
166
Ngoài ra, ở vùng Bình Đông nơi trồng rất nhiều cau, người dân ở đây còn trồng cau thành hàng dài
để chia ranh giới đất đai. Vì vậy, cau không chỉ có tác dụng chắn gió, mà còn là cột mốc đánh dấu ranh
giới ruộng đất, địa bàn của người nông dân.
4. Những thăng trầm và sức sống bền bỉ của văn hóa trầu cau
4.1 Việt Nam
Đã từng là một vật không thể thiếu được trong đời sống hàng ngày của người Việt, bất kể từ người
giàu đến người nghèo, từ làng quê đến thành phố; nhưng theo thời gian, tập tục ăn trầu dần dần phai nhạt.
Giới trẻ ngày nay vì nhịp sống hối hả, cũng không còn thời gian để tĩnh lặng thưởng thức hay cảm nhận
hương vị của miếng trầu. Chỉ còn số ít người lớn tuổi và chủ yếu ở những vùng quê vẫn còn giữ thói
quen ăn trầu. Tuy nhiên, không phải vì thế mà trầu cau sẽ bị lãng quên. Thậm chí ngược lại, văn hóa trầu
cau đã được nâng lên một tầm cao khác.
167
Dù không còn nhiều người ăn trầu, nhưng trầu cau vẫn là thứ không thể thiếu trong hôn nhân, cưới
hỏi; trong việc thờ cúng tổ tiên, thần linh. Chính về đặc điểm thiên về tinh thần này, trầu cau càng được
chú ý hơn về hình thức. Những buồng cau, lá trầu phải đẹp mắt; phải được trình bày tinh tế và trịnh trọng.
Ngoài ra, trầu cau đã đi vào thơ ca, ca dao, tục ngữ; truyền từ đời này qua đời khác, mang tính ước
lệ đặc trưng cho tình yêu đôi lứa. Vì vậy, dù không trực tiếp ăn trầu, nhưng giới trẻ Việt Nam hiện nay
vẫn rất quen thuộc với cây cau, lá trầu bởi những hình ảnh đó vẫn có thể nhìn thấy trong đời sống và
thường được nghe qua lời ca tiếng hát. Sức sống trường tồn của văn hóa trầu cau cũng dựa vào yếu tố
này.
168
Tại Đài Loan, người bán và têm trầu đều là phụ nữ. Đến thập kỷ 60 của thế kỷ trước thì những
người phụ nữ đó thường được gọi với một cái tên rất đẹp “Tây Thi trầu cau”, bắt nguồn từ một sạp bán
cau của hai chị em tại Song Đông, một vùng đất thuộc huyện Nam Đầu, thị trấn Thảo Đồn. Hai chị em
này có thái độ phục vụ rất tận tình, chu đáo khiến cho khách hàng vô cùng hài lòng. Lúc đầu sạp bán trầu
cau chỉ có một biển hiệu rất đơn giản, sau đó bắt đầu thêm đèn lấp lánh để thu hút ánh nhìn của khách
qua đường. Rồi việc bán trầu cau ngày càng phát đạt, có thêm nhiều cửa hàng khác, và mỗi cửa hàng đều
có cách thu hút khách hàng bằng các loại đèn màu. Việc này đã khiến một vùng đất nghèo nàn trở nên
sôi động có sức sống, tạo nên một phong cách phục vụ của vùng đất và cũng nổi tiếng vì thế.
Có một thời kỳ việc kinh doanh trầu cau phát triển mạnh, chủ yếu là những năm 1990, các điểm
bán trầu cau mọc lên san sát cạnh các đại lộ, bán cho khách đi đường dài. Mỗi một cửa hàng đều có ánh
sáng bắt mắt và các cô gái ăn mặc gợi cảm, thậm chí là lộ liễu đứng bán. Việc này đã dẫn tới nhiều ý
kiến trái chiều, và phần lớn đều có cái nhìn phiến diện về các “Tây Thi trầu cau”. Tuy nhiên, nếu phân
tích từ góc độ xã hội học, thì hiện tượng “Tây Thi trầu cau” đã thể hiện quyền nữ giới mạnh mẽ. Phụ nữ
hiện đại ý thức về nét đẹp hình thể, tự do lựa chọn và bảo vệ công việc của mình. Điều này đã khiến
nhiều người cần phải suy nghĩ lại về ý nghĩa và ảnh hưởng mà các “Tây Thi trầu cau” tạo nên trong xã
hội.
6. Kết luận
Tuy hiện nay việc ăn trầu, mời trầu không còn phổ biến như trước; nhưng văn hóa trầu cau đã đi
sâu vào đời sống tinh thần của người Việt cũng như người Đài Loan. Trầu cau mang tính tượng trưng,
biểu tượng nhiều hơn thực tế. Trầu cau giữ vai trò quan trọng trong nghi lễ truyền thống như cưới hỏi,
giỗ chạp, thờ cúng…. Ngoài ra, trong văn học dân gian, ca dao, tục ngữ hay thơ ca; hình tượng trầu cau
luôn gần gũi, gắn liền với đời sống của con người. Từ cơ sở đó, trầu cau mang tính ước lệ cao, khiến cho
những tác phẩm hiện đại bây giờ cũng trực tiếp dùng những hình ảnh này để biểu đạt cảm xúc, tâm trạng
của mình. Vì vậy, theo suốt chiều dài lịch sử, văn hóa trầu cau là món ăn tinh thần không thể thiếu của
nhiều thế hệ.
169
VĂN HÓA TIỆC “RƯỢU” TRONG GIAO TIẾP CÔNG SỞ VIỆT - TRUNG
TÓM TẮT
Quan hệ giao thương kinh tế Việt Nam và Trung Quốc là trong những quan hệ chủ đạo ảnh hưởng
mạnh mẽ đến nền kinh tế nước ta, từ sản xuất, kinh doanh, và tỉ lệ lao động… Xu hướng đầu tư kinh tế
hóa toàn cầu, và việc Việt Nam mở cửa cho các nhà đầu tư quốc tế đã tạo nên làn sóng các doanh nghiệp
nước ngoài đầu tư mạnh mẽ vào Việt Nam, ngoài các doanh nghiệp lớn ở các nước phát triển phương
Tây, thì Trung Quốc cũng là một trong các quốc gia có tỉ lệ đầu tư cao ở thị trường Việt Nam. Với quy
mô lớn và đa dạng ngành nghề, lượng lao động làm việc tại các doanh nghiệp Trung Quốc cũng tăng cao
qua các năm gần đây. Chính vì thế, văn hóa làm việc và giao tiếp công sở là một đề tài mà chúng ta cần
chú trọng nghiên cứu, giúp cho sinh viên khi ra trường có cái nhìn khách quan và nhanh chóng hòa nhập
vào môi trường làm việc tại các doanh nghiệp Trung Quốc. Một trong những văn hóa giao tiếp công sở
này, thì văn hóa tiệc “rượu” cũng là một điểm văn hóa nổi bật tại các doanh nghiệp Trung Quốc nói riêng
và các doanh nghiệp Châu Á nói chung. Ngoài ra, bài viết cũng là tài liệu tham khảo cho người lao động
và các doanh nghiệp trong nước có cách tiếp cận tốt hơn với các doanh nghiệp đầu tư Trung Quốc.
Từ khóa: văn hóa làm việc, giao tiếp công sở, doanh nghiệp Trung Quốc, văn hóa tiệc “rượu”.
(14)
李争平《中国酒》五洲传播出版社,2010 年 06 月.
170
Đưa tiễn, khi tiễn biệt bằng hữu người thân, người Trung Hoa cũng dùng ly rượu để nói lời chúc
bình an, hy vọng người đi xa thuận buồm xuôi gió.
Trong tác phẩm điện ảnh “Tây du ký”, vua Đông thổ Đại Đường đã dùng ly rượu để tiễn biệt Đường
Tam Tạng – Trần Huyền Trang.
Rượu còn là một tác nhân xúc tác cho các nho sĩ sáng tác hoặc bàn luận thơ ca, điển hình chúng ta
thường nghe nói nhà thơ Lý Bạch luôn sáng tác thơ lúc ông uống rượu. Thông qua các tác phẩm văn học
điện ảnh Trung Quốc, hình ảnh rượu còn được dùng trong thôi thúc binh sĩ khi ra chiến trường. 凉州词
của 王翰 có viết: “葡萄美酒夜光杯,欲饮琵琶马上催。醉卧沙场君莫笑,古来征战几人。”(15).
Trong tác phẩm võ hiệp của Kim Dung chúng ta còn thấy, kết bái giao tình bằng hữu cũng dùng chén
rượu nhỏ thêm giọt máu để thể hiện lời hẹn thề.
Tất các các hình ảnh trên đều cho thấy được, “rượu” tồn tại như một văn hóa lễ nghi, là một thứ
không tách rời trong cuộc sống tinh thần của người Trung Hoa.
(15)
王翰《凉州词》。唐
171
cũng là vị trí gần cửa, là nơi để lên các món ăn. Chính vì thế, vị trí này tuyệt nhiên không để khách ngồi
tại vị trí này. Thông thường chủ nhà sẽ để người được tin tưởng hoặc được việc nhất ngồi tại đây. Đối
với các vị trí còn lại thì tương đối thoải mái hơn trong sắp xếp, khách mời có thể tùy ngồi vào các vị trí
này.
Qua thứ tự và vị trí ngồi, chúng ta có thể thấy, người Trung Hoa khá chú trọng việc tiếp đãi theo
tuổi tác, địa vị. Đây cũng là sự ảnh hưởng mạnh mẽ từ Nho giáo trong văn hóa của người Trung Hoa.
3. Văn hóa bàn “rượu” trở thành văn hóa nơi công sở
Văn hóa bàn rượu đã trở thành một nét văn hóa giao tiếp diễn ra thường xuyên trong cuộc sống đời
thường của người Trung Hoa. Thế nên, ngày nay với sinh hoạt của đại đa số người trong độ tuổi lao động
là sinh hoạt chốn công sở, nơi diễn ra nhiều các mối quan hệ trong cuộc sống. Văn hóa bàn rượu cũng từ
đó mà trở thành một văn hóa giao tiếp trong nơi công sở.
3.1 Quan hệ đồng nghiệp
Quan hệ đồng nghiệp là quan hệ được diễn ra thường xuyên nhất trong các mối quan hệ công sở,
tương quan trong công việc không thể thiếu đi các mối quan hệ này. Ngoài thời gian làm việc tại đơn vị,
xử lý sự vụ, thì để mối quan hệ này được gắn kết hơn, người Trung Hoa xưa và nay thường dùng tiệc
rượu để gắn kết các mối quan hệ tương giao xã hội này. Không chỉ ở tại Trung Quốc, văn hóa này chúng
ta cũng thường bắt gặp ở các nước châu Á khác như Nhật, Hàn và cà Việt Nam,… Trong chốn công sở
Trung Quốc, nhiều nơi còn cho rằng việc từ chối tiệc rượu với đồng nghiệp là có ý né tránh mối quan hệ
này, điều này dẫn đến sự thiếu gắn kết trong công việc.
172
3.2 Quan hệ lãnh đạo
Quan hệ giữa đồng nghiệp với nhau là việc thường xuyên, với người Trung Hoa, quan niệm lãnh
đạo và đồng nghiệp là hai mối quan hệ khác nhau và có sự phân thứ bật quan trọng đối đãi. Nếu đã nói
quan hệ đồng nghiệp thì khó có thể từ chối tiệc rượu, thì quan hệ lãnh đạo lại càng là một trách nhiệm.
Người Trung Hoa cho rằng mối quan hệ tốt với lãnh đạo được coi là một trong những bước nhanh nhất
để dẫn đến thành công trong sự nghiệp. Chính vì vậy việc tiếp rượu mời rượu lãnh đạo dần trở thành một
nét văn hóa dân gian trong cuộc sống thường nhật của người Trung Hoa.
5. Kết luận
Trong bất kỳ loại hình văn hóa nào, thì cái đẹp cái hay luôn là cái đáng để chúng ta tìm hiểu, gìn
giữ và phát triển. Đó là những giá trị đời sống tinh thần, giá trị văn hóa con người. Nhưng trước tiên
chúng ta cần hiểu rõ bản chất và cái đẹp trong mỗi loại văn hóa đó, đừng đẩy nét đẹp văn hóa vào những
mục đích không tốt.
Văn hóa uống rượu để thưởng thức, rượu để làm chất xúc tác cho văn học nghệ thuật, rượu làm
cầu nối cho các mối quan hệ, các câu chuyện. Thông qua bài viết, hy vọng có thể đem lại cho tất cả chúng
ta có cái nhìn lại về cách dùng văn hóa rượu để giao tiếp, để hòa nhập, không phải để trở thành một hệ
lụy trong cuộc sống.
173
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH HỢP
ĐƯỢC ÁP DỤNG TRONG VIỆC GIẢNG DẠY TIẾNG TRUNG
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC
TÓM TẮT
Tiếng Trung Quốc vốn khá phổ biến ở Việt Nam, số người học ngôn ngữ này chỉ đứng sau số
người học tiếng Anh, vì thế công tác nghiên cứu về phương pháp giảng dạy tiếng Trung Quốc trong các
trường đại học luôn được chú trọng và không ngừng đổi mới. Những năm gần đây, nhờ sự phát triển
vượt bật của ngành công nghệ thông tin, giờ đây việc tiếp cận các hệ tư tưởng - văn hóa - tri thức của
các nước trên chưa bao giờ dễ dàng đến vậy.
Nhận ra công nghệ thông tin có thể tạo nên bước đột phá trong dạy – học, các ban ngành giáo dục
dần quan tâm, nghiên cứu các phương thức ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy. Để tối ưu hóa
công tác giảng dạy cũng như tạo điều kiện cho người học có thể theo dõi và hoàn tất chương trình học
của mình trong mọi lúc mọi nơi, các ban ngành giáo dục đặc biệt chú ý nghiên cứu về “Phương pháp dạy
– học tích hợp”, và dần áp dụng vào công việc giảng dạy, giảng dạy tiếng Trung cũng không ngoại lệ.
Việc áp dụng phương pháp dạy tích hợp này vào việc giảng dạy tiếng Trung Quốc diễn ra sao, đã
mang lại hiệu quả như thế nào và những khó khăn khi sử dụng phương pháp này vào việc giảng dạy tiếng
Trung Quốc là chủ đề đang được quan tâm. Trong bài viết này, tác giả chia sẻ một vài quan điểm của
mình và mong muốn có thể giúp cho việc áp dụng phương pháp dạy học tích hợp trong việc dạy tiếng
Trung đạt hiệu quả tốt nhất.
Từ khóa: dạy học tích hợp, đại học, giảng dạy, tiếng Trung Quốc.
1. Tổng quan
Trong giảng dạy, giảng viên đóng vai trò chính trong việc hình thành kĩ năng học tập của học sinh.
Vì vậy, năng lực giảng dạy của đội ngũ giảng viên đóng vai trò quyết định đối với việc đảm bảo chất
lượng đào tạo. Cho đến nay, phương pháp dạy học tích hợp vẫn chưa được sử dụng rộng rãi vì nhiều cản
trở vô hình và hữu hình: như thiếu điều kiện chuyên môn, như chương trình, giáo trình, sách giáo khoa,
sách hướng dẫn giảng dạy theo hướng tích hợp; giáo viên thiếu kĩ năng và tư duy theo kiểu dạy học tích
hợp; giáo viên được đào tạo theo cách dạy học truyền thống, tách riêng từng môn học, cách nhìn nhận
vấn đề trong phạm vi từng môn riêng biệt,…
Cùng với sự ra đời của công nghệ thông tin – truyền thông và sự tiến bộ của khoa học liên ngành
là sự xuất hiện của rất nhiều vấn đề mới, đòi hỏi chúng ta phải tư duy, tìm ra cách giải quyết các vấn đề
đó theo hướng tổng thể. Ví dụ, dịch bệnh covid 19 diễn ra vô cùng phức tạp trong 3 năm gần đây đã ảnh
hưởng nặng nề đến mọi lĩnh vực trong xã hội, và để thích ứng với thời đại, việc ứng dụng phương pháp
dạy học tích hợp vào chương trình đào tạo là điều cấp thiết hiện nay. Định hướng xây dựng chương trình
theo năng lực người học đã phản ánh sự thay đổi trọng tâm của giáo dục, nhấn mạnh mục tiêu cần đạt
được hơn là chú ý đến nội dung vốn có của các khóa học. Nhưng phương án này lại chưa được giải quyết
triệt để vì chương trình giảng dạy hiện tại vẫn đang được triển khai theo từng môn học.
Phương pháp dạy tích hợp không phải chỉ là cách dạy - học tích hợp một cách đơn lẻ mà phải kết
hợp giữa dạy học truyền thống và trực tuyến, phía người học cũng phải kết hợp cả hai phương pháp học
truyền thống và học trực tuyến.
Internet từ lâu đã là một phần không thể thiếu trong cuộc sống, lao động, học tập của mọi người,
vì thế việc học tích hợp sẽ mang lại nhiều lợi ích cho cả giáo viên và người học: học trực tuyến bất kể
khoảng cách địa lý, tiết kiệm thời gian - nhân lực - cơ sở vật chất,… Thực hiện trên tiêu chí: hoạt động
dạy - học phải linh hoạt - phong phú - thoải mái, nhưng vẫn đảm bảo lượng kiến thức, kỷ luật và duy trì
tinh thần hiếu học của người học.
174
Ngoài ra, đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng đào tạo là một trong những vấn
đề trọng tâm hàng đầu ở các cơ sở giáo dục, đặc biệt là chương trình đại học ở các trường đại học ngoài
công lập đi theo định hướng ứng dụng. Yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi giảng viên
đóng nhiều vai trò hơn, vừa là người huấn luyện, người định hướng, người cố vấn cho sinh viên, vừa là
người nghiên cứu, tìm tòi phát hiện cái mới trong quá trình giảng dạy, mở rộng - liên hệ với thực tế công
việc - đời sống để cập nhật cho chính bản thân và người học. Vận dụng, phát huy triệt để một cách hiệu
quả quan điểm dạy học này có thể xem là một sự đổi mới cấp thiết và kịp thời nhằm phát triển năng lực,
độ nhạy bén cho sinh viên.
2.2 Sự kết hợp giữa dạy trực tuyến và dạy truyền thống
Vai trò của người dạy và người học hầu như được thay đổi và hoán vị cho nhau, và đây cũng là
nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả dạy – học. Trong quá trình dạy-học truyền thống, Người dạy
là một chủ thể truyền đạt kiến thức, người dạy luôn lấy những học sinh có trình độ ở mức trung bình để
tham khảo, thiết kế bài giảng, nội dung giảng dạy ở trình độ trung bình... trong các hoạt động dạy học vị
trí của người dạy hầu như chiếm ưu thế, còn người học (học sinh) là người tiếp thu kiến thức và phương
pháp dạy một cách bị động, nhưng hình thức dạy học truyền thống dần dần xảy ra một số hạn chế, ví dụ:
các môn học như Nghệ thuật, ngôn ngữ... một cách riêng biệt, chỉ trong khuôn khổ kiến thức của môn
học mình dạy.
Thời đại “Internet +” đã đến , cho nên việc sử dụng các phương pháp giảng dạy và nội dung giảng
dạy bài điện tử cũng là sự thử thách cho người dạy và học. Mọi hoạt động dạy – học đều có sự thay đổi
về kiến thức, phương pháp giảng dạy, nội dung giáo án bài giảng, và cách tiếp thu kiến thức của người
học cũng có sức ảnh hưởng lớn, làm cho sự chú ý của người học dễ dàng hơn.
176
Dạy học Dạy học Dạy học
truyền trực Tích hợp
thống tuyến
3. Ưu nhược và điểm của phương pháp dạy học tích hợp là gì?
Bất kỳ phương pháp giảng dạy nào đều có thế mạnh và nhược điểm tiêng, phương pháp dạy học
tích hợp cũng không ngoại lệ.
3.2 Nhược điểm của phương pháp dạy – học tích hợp
- Gặp nhiều khó khăn trong việc áp dụng thực tế bởi các năng lực chính cần được xác định và
phân loại cho từng lớp.
- Giáo viên phải chủ động trong việc sáng tạo nội dung giảng dạy và phương thức truyền đạt.
Bởi vì phương pháp này ngoài việc giảng dạy cung cấp thông tin, giáo viên còn đóng vai trò là người tổ
chức kiểm tra, đánh giá và định hướng học tập cho học sinh
- Giáo viên luôn giám sát, theo dõi sự tiến bộ của học sinh để đạt được tiêu chuẩn đầu ra về
năng lực.
3.3 Lợi ích dạy học tích hợp với giáo viên
Sự kết hợp của hai hình thức dạy học này (dạy tích hợp) là quá trình thực hiện từ nông đến sâu, từ
đơn giản đến phức tạp, từ cao đến thấp. Dạy học tich hợp là hướng dẫn cho người học thực hiện việc học
có chiều sâu hơn. Trong phương pháp dạy tích hợp là sự kết hợp dạy - học trực tuyến và ngoại tuyến,
học trực tuyến là sự chủ động của người học và người dạy, người dạy truyền đạt các kiến thức cơ bản
cho người học, sau khi rời khỏi lớp học trực tuyến thì học ngoại tuyến, có nghĩa là người học có thể tự
do phát huy các kiến thức vừa mới lình hội trong lớp học trực tuyến một cách triệt để và tự đo không
phải vào khuôn phép, là sự thăng hoa của người học. Người học có thể tự giác học độc lập thông qua các
bài giảng, nguồn tài nguyên giáo dục có trên truyền thông, nếu gặp phải vấn đề gì thì người học có thể
hỏi trực tiếp và được người dạy giải quyết một cách triệt để trên lớp để đạt được mục tiêu giảng dạy, từ
đó tối ưu hóa việc giảng dạy hiệu quả học tập.
Các giáo viên có liên quan chủ động tương tác, phối hợp và hỗ trợ nhau trong quá trình giảng dạy,
đem lại hiệu quả giáo dục tốt nhất.
Phương pháp này giúp thầy cô dễ dàng tổng hợp kiến thức, tinh giản nội dung, tập trung nội dung
trọng yếu giúp dễ hình dung và không bị trùng lập
Phương pháp dạy học khoa học này còn tăng tính tương tác giữa thầy và trò. Giáo viên có nhiều
thời gian để sáng tạo và trải nghiệm với học sinh. Học sinh thoải mái đặt câu hỏi, trình bày thắc mắc và
được giáo viên giải đáp kịp thời.
Giảm áp lực nghề nghiệp, tăng khả năng chuyên môn của giáo viên. Tạo nên mối quan hệ thầy trò
gần gũi, thân thiết và tốt đẹp qua từng trải nghiệm học tập thực tế.
3.4 Tầm quan trọng của tích hợp trong dạy học
Trước tiên là do mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội đều ít nhiều có mối liên hệ với
nhau. Nhiều sự vật, hiện tượng có những điểm tương đồng và cùng một nguồn cội … Để nhận biết và
giải quyết các sự vật, hiện tượng ấy, cần huy động tổng hợp các kiến thức và kĩ năng từ nhiều lĩnh vực
khác nhau. Không phải ngẫu nhiên mà hiện nay đang ngày càng xuất hiện các môn khoa học “liên ngành”.
Tiếp theo, trong quá trình phát triển của khoa học và giáo dục, nhiều kiến thức, kĩ năng chưa hoặc
178
chưa cần thiết trở thành một môn học trong nhà trường, nhưng lại rất cần trang bị cho HS để họ có thể
đối mặt với những thách thức của cuộc sống. Do đó cần tích hợp giáo dục các kiến thức và kĩ năng đó
thông qua các môn học.
Và do tích hợp mà các kiến thức gần nhau, liên quan với nhau sẽ được nhập vào cùng một môn học
nên số đầu môn học sẽ giảm bớt, tránh được sự trùng lặp không cần thiết về nội dung giữa các môn học
nhằm giảm tải cho học sinh.
Cuối cùng, khi người giáo viên kết hợp tốt phương pháp dạy học tích hợp, sử dụng các hiện tượng
trong thực tiễn cuộc sống, ngoài giúp học sinh chủ động, tích cực say mê học tập còn lồng ghép được
các nội dung khác nhau như: bảo vệ môi trường, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe con người thông qua các
kiến thức thực tiễn đó. Từ đó giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ phát triển toàn diện về mọi mặt. Và môn học
cũng trở nên phong phú và đa dạng.
Hình 2: Quá trình thực hiện phương pháp dạy tích hợp
Nguồn: 柳兰芳 (2020)
Để đáp ứng nhu cầu này, chúng ta phải thiết kế bài giảng theo quan điểm dạy tích hợp.
Việc vận dụng quan điểm dạy học tích hợp trong đào tạo theo hướng ứng dụng/thực hành phải có
cấu trúc chương trình, mục tiêu đào tạo là năng lực thực hiện và sự phát triển toàn diện của người học,
nguyên tắc cấu trúc là quy luật của lĩnh hội và hình thành năng lực, và năng lực là sự kết hợp 3 phương
diện: kiến thức, kĩ năng và tình huống. Từ đó, chúng ta có những bước tiến hành thiết lập kế hoạch
như sau:
Khâu lập kế hoạch dạy học các môn học theo hướng tích hợp kiến thức và các module năng lực
người học thực hiện và đảm bảo khối kiến thức có mối liên hệ giữa chúng theo sơ đồ được mô tả trong
chương trình đào tạo. Chứ không phải dạy hết tất cả các nội dung, các sự kiện trong chương trình và yêu
cầu sinh viên phải ghi nhớ Fourez (2002).
Trong quá trình dạy học tích hợp, người dạy thường thiết kế chiến lược dạy học theo 3 bước:
Bước 1, người dạy đặt người học vào tình huống có vấn đề, có gắn liền thực tiễn. Mục đích đặt
người học vào tình huống phải xây dựng kiến thức, kĩ năng mới. Ngoài ra, còn thông báo cho người học
sẽ chuyển kiến thức đã lĩnh hội để giải quyết các vấn đề tương tự trong thực tiễn.
Bước 2, người dạy hỗ trợ người học lĩnh hội các kiến thức, kĩ năng liên quan đến tình huống đưa
ra ở bước 1, các kiến thức này có thể là các khái niệm, định nghĩa...
Bước 3, người dạy tạo ra tình huống tích hợp để cho người học chuyển kiến thức đã lĩnh hội ở bước
179
2 sang giải quyết vấn đề.
Tiến hành nghiên cứu phân tích để thấy được những kiến thức, kỹ năng và các phẩm chất người
học cần có để phối hợp giải quyết nhiệm vụ học tập, xác định chuẩn năng lực tương ứng với công việc,
yêu cầu ở mỗi bước công việc để xây dựng các phương án và phương tiện kiểm tra đánh giá.
Việc hình thành năng lực thực hiện đòi hỏi các điều kiện về cơ sở vật chất phục vụ cho việc lên lớp
lý thuyết và hướng dẫn thực hành phải đủ và thuật lợi cho việc triển khai ý đồ phương pháp như học tập
theo nhóm, học tập theo hình thức cá nhân, dạy học bằng sử dụng phiếu hướng dẫn và dạy học bằng dự
án... Số lần luyện tập phải đủ để người học thực hiện hoạt động đến mức độ tự tin trong các tình huống
thực tế.
Ngoài ra, cần đa dạng hóa các kênh thông tin đặc biệt là sử dụng đa phương tiện trong truyền thông
dạy học.
Áp dụng các phương pháp dạy học định hướng vào tính tích cực của người học như: dạy học nêu và
giải quyết vấn đề, dạy học bằng tình huống điển hình, dạy học bằng dự án và học tập theo nhóm...
Cấu trúc bài giảng cần có sự linh hoạt và hài hòa, xen kẽ với các tình huống nhận thức mới là các
tình huống củng cố, vận dụng để nâng cao sự chú ý tích cực và hình thành năng lực thực hiện cho người
học.
Vận dụng quan điểm dạy học định hướng năng lực thực hiện trong xây dựng cấu trúc các bước lên
lớp và trong hoạt động phương pháp. Như vậy, để dạy học tích hợp thành công chúng ta phải vận dụng
quan điểm tích hợp từ khâu xây dựng chương trình, biên soạn sách giáo khoa đến khâu tổ chức dạy học
(nhất là lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức dạy học) đưa người học vào trong những tình huống
thực tế tìm tòi và tự phát hiện, giải quyết vấn đề qua đó phát triển năng lực vận dụng kiến thức cho người
học.
5. Kết luận
Tóm lại, phương pháp dạy học tích hợp là một khái niệm còn tương đối mới, đang được cụ thể hóa
ở nhiều cấp độ khác nhau trong các chương trình giáo dục. Tùy theo vấn đề, nội dung cũng như nhu cầu
thực tế và trình độ của người dạy mà mức độ tích hợp trong giảng dạy là khác nhau. Có những nội dung
chỉ tích hợp trong một môn học như dạy học theo chủ đề; có những nội dung được tích hợp đa môn hoặc
xuyên môn, ví dụ: trong tiếng tiếng Trung sẽ có rất nhiều môn cần dùng đến phương pháp dạy tích hợp
như: tiếng Trung du lịch, kỹ năng biên phiên dịch, thương mại, thư tín thương mại....
Mặc khác, khi thiết kế bài giảng phải chú ý đến nội dung truyền tải của bài giảng phải có sự hỗ trợ
và tính chân thật, bài giảng điện tử phải rõ ràng, nội dung cụ thể, và người dạy chú ý đến những thao tác
khi thực hiện trên lớp phải thành thạo, đơn giản và dễ làm, dễ hiểu, như vậy mới đem lại hiệu quả cho
buổi học đó. Cho người học làm việc theo nhóm, báo cáo, thảo luận, như vậy người học mới có thể phát
huy hết khả năng tính sáng tạo vốn có của mình. Ngoài ra, người dạy cũng phải truyền lửa và luôn tạo ra
không khí vui tươi thoải mái, trong quá trình học không nên tạo áp lực cho người học. Phải để người học
phát triển tự nhiên và nhẹ nhàng trong buổi học đó.
Dạy học theo phương pháp tích hợp trong trường học sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người học phát
triển năng lực sáng tạo trong quá trình huy động và kết nối hệ thống kiến thức đã lĩnh hội để giải quyết
vấn đề thực tiễn. Mặc khác, người dạy còn phải có kỹ năng tin học tốt, kỷ năng sử dụng công nghệ truyền
thông thành thạo, kỹ năng soạn bài giảng điện tử thêm phần sinh động và thú vị.
181
NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ SỰ ẢNH HƯỞNG
CỦA PHIM ẢNH TRUNG QUỐC ĐẾN VIỆT NAM
TÓM TẮT
Không thể phủ nhận một điều rằng phim ảnh là công cụ, là phương tiện hữu hiệu để truyền bá văn
hóa của một quốc gia. Thói quen xem phim truyền hình, phim chiếu mạng, phim chiếu rạp với những bộ
phim được sản xuất từ Trung Quốc của đông đảo khán giả Việt Nam đã và đang cho thấy sự phát triển
không ngừng của nền điện ảnh đến từ đất nước này. Từ những bộ phim kinh điển độc chiếm trên sóng
truyền hình của các kênh truyền hình quốc gia (VTV) như Tây Du Ký, cho đến sự bùng nổ mạnh mẽ của
Diên Hi Công Lược trên các nền tảng phát phim trực tuyến, có thể thấy sự ảnh hưởng của những bộ phim
này không đơn thuần chỉ dừng lại ở sự giải trí, mà qua đó là cả một chiến lược truyền bá văn hóa quốc
gia của một đất nước có bề dày lịch sử hơn 5000 năm – Trung Quốc.
Từ khóa: phim ảnh, phim truyền hình, Trung Quốc, văn hóa.
1. Các giai đoạn phát triển của phim ảnh Trung Quốc ở Việt Nam
Có thể thấy, phim ảnh Trung Quốc, mà ở đây là phim truyền hình, phim chiếu rạp và các bộ phim
chiếu mạng, đã và đang nhận được sự hưởng ứng tích cực của đông đảo khán giả Việt, điều đó được thể
hiện qua sự phát triển mạnh mẽ và không ngừng của phim ảnh Trung Quốc tại Việt Nam trong suốt hơn
30 năm qua, kể từ khi Tây Du Ký, Khát Vọng được công chiếu lần đầu tại Việt Nam vào đầu những năm
1990.
1.1 Giai đoạn mở đầu của phim ảnh Trung Quốc ở Việt Nam (1992 – 2000)
Trong giai đoạn từ năm 1992 đến đầu những năm 2000, đã có tổng cộng hơn 20 bộ phim truyền
hình Trung Quốc với đa dạng các thể loại, phong phú về hình thức lẫn nội dung được phát sóng tại Việt
Nam.
Trong giai đoạn này, có thể chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của các phim truyền hình Trung
Quốc thuộc thể loại phim cổ trang, một số phim cổ trang kinh điển có thể kể đến như: Tây Du Ký (1992
– VTV1), Hồng Lâu Mộng (1993 – VTV1), Võ Tắc Thiên (1997 – VTV1), Tam Quốc Diễn Nghĩa (1997
– VTV1), Đông Chu Liệt Quốc (1997 – VTV1), Hoàn Châu Cách Cách (1999 – Hanoi TV), Thủy Hử
(1999 – VTV1),… Bên cạnh các bộ phim cổ trang, một số phim thuộc thể loại gia đình, tâm lý xã hội
Trung Quốc cũng được đông đảo khán giả Việt Nam hưởng ứng đón xem và theo dõi như: Khát Vọng
(1992 – VTV1), Tay Trong Tay (1998 – Hanoi TV), Cha Mẹ Chúng Ta (1996 – VTV1), Nghiệp Chướng
(1996 – Hanoi TV), Dòng Thời Gian (1995 – VTV1); Phim tâm lý xã hội: Một gia đình Thượng Hải
(1994 – Hanoi TV), Bí Mật Ngôi Nhà Cổ (1999 – VTV3),…
Đại đa số các bộ phim Trung Quốc được nhập về Việt Nam trong giai đoạn này đều được phát sóng
trên các kênh thuộc Đài truyền hình quốc gia (VTV) như VTV1, VTV3,… Điều đó cho thấy các bộ phim
này đã nhận được không ít sự ưu ái đến từ VTV. Trong số những bộ phim này, nổi tiếng nhất có thể kể
đến là phim Khát Vọng. Đây là một bộ phim truyền hình dài tập (50 tập), đề cập đến các vấn đề đạo đức,
lối sống trong một gia đình nhiều thế hệ, trải qua những biến cố khắc nghiệt của lịch sử. Bộ phim đạt tỉ
suất 90,78% lượng khán giả đón xem, được phát sóng lần đầu tiên tại Việt Nam vào năm 1992.
Một cái tên khác mà khi nhắc đến, không ai là không xem qua bộ phim này, đó chính là Tây Du
Ký. Tại thời điểm được phát sóng tại thị trường Việt Nam, Tây Du Ký đã trở thành một hiện tượng trong
xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, bộ phim này là món ăn tinh thần đặc biệt quan trọng của đông đảo khán giả
Việt. Bộ phim được chiếu từ đầu những năm 1992, và đã được chiếu lại hàng trăm lần trên các kênh
truyền hình khác nhau, trong đó bản sản xuất năm 1986 vẫn được coi là phiên bản xuất sắc nhất.
182
1.2 Giai đoạn bùng nổ của phim ảnh Trung Quốc ở Việt Nam (2000 – 2010)
Trong giai đoạn này, phim truyền hình Trung Quốc chiếm tới 50% lượng phim nước ngoài mà Việt
Nam nhập về16. Điều đó được thể hiện qua việc một loạt các bộ phim Trung Quốc không chỉ được phát
sóng trên các kênh truyền hình quốc gia (VTV), mà còn được phát sóng trên các kênh truyền hình ở nhiều
tỉnh thành khác nhau như Lộc Đỉnh Ký (2000 – VTV3), Thái Bình Thiên Quốc (2001 – VTV1), Vương
Triều Khang Hy (2002 – VTV1), Như Ý Cát Tường (2003 – VTV1), Ngọc Quan Âm (2003 – HTV7),
Tiểu Ngư Nhi và Hoa Vô Khuyết (2004 – HTV7), Thiên Long Bát Bộ (2005 – Hanoi TV), Liêu Trai
(2005 – VTV3), Tiên Kiếm Kỳ Hiệp (2005 – HTV7), Ly Hôn Kiểu Trung Quốc (2006 – VTV3), Anh
Hùng Xạ Điêu (2008 – THVL), Võ Đang (2008 – BTV), Tương Kế Tựu Kế (2008 – BTV), Tam Thiên
Kiêm Hạ Gia (2009 – VTV9), Chung Cư Tình Yêu (2009 – SCTV), Không Kịp Nói Yêu Em (2010 –
Today TV),…
1.3 Giai đoạn đỉnh cao của phim ảnh Trung Quốc ở Việt Nam (2010 – Nay)
Tiếp nối sự thành công của hai giai đoạn trước, các bộ phim truyền hình Trung Quốc tiếp tục chiếm
thế thượng phong trên các đài truyền hình, số đó có thể kể đến như Mỹ Nhân Tâm Kế (2011 – HTV7),
Bộ Bộ Kinh Tâm (2011 – Today TV), Nhật Ký Cuộc Sống (2013 – VTC), Hán Sở Tranh Hùng (2013 –
VTVcab1), Tâm Kế Người Mẹ (2014 – HTP), Tam Sinh Tam Thế Thập Lý Đào Hoa (2017 – VTV3),
Diên Hi Công Lược (2018, 2019 – HTV7 và VTC1), Như Ý Truyện (2018 – HTV7),…
Không dừng lại ở đó, sự thành công của phim ảnh Trung Quốc ở Việt Nam còn được thể hiện qua
doanh thu phòng vé. Năm 2012, phim “Họa Bì 2” đạt doanh thu hơn 20 tỷ đồng. Năm 2013, phim “Tây
Du Giáng Ma” đạt doanh thu hơn 22 tỷ đồng. Năm 2016, phim “Mỹ Nhân Ngư” đạt doanh thu tới hơn
100 tỷ đồng và phim “Diệp Vấn 3” cũng đã đạt hơn 47 tỷ đồng doanh thu,…
Các bộ phim Trung Quốc được phát sóng trên các kênh truyền hình không còn sức hút với các khán
giả Việt Nam, nhưng điều đó lại không có nghĩa các bộ phim của nước này đang dần bị bão hòa, thực tế
cho thấy những bộ phim đến từ Trung Quốc đang ngày một được khán giả chú ý và săn đón hơn ở các
nền tảng giải trí trực tuyến, mà chủ yếu là phim ảnh, hay nói một cách đơn giản hơn là “phim chiếu
mạng”.
Từ năm 2010 cho đến nay, cơ sở hạ tầng cũng như hệ thống mạng lưới internet của Việt Nam bước
vào giai đoạn phát triển mạnh mẽ. Đây là môi trường lý tưởng để các bộ phim Trung Quốc tiếp tục được
truyền phát rộng rãi đến khắp khán giả Việt ở mọi miền đất nước. Đồng thời đây cũng chính là giai đoạn
mà phim Trung Quốc được truyền bá với tốc độ nhanh nhất từ trước đến nay, thông qua các trang web
phát phim trực tuyến như Hayhay TV, HD Viet, Pub; các mạng xã hội chia sẻ thông tin, video như
Facebook, Youtube,… và các ứng dụng phát phim như Netflix, iQiyi, Youku, Bilibili, We TV, Zing
TV…
Một số bộ phim có sức ảnh hưởng lớn trên các nền tảng này có thể kể đến như Thương Lan Quyết,
Tinh Hán Xán Lạn, Trầm Vụn Hương Phai, Chiếc Bật Lửa và Váy Công Chúa, Diên Hi Công Lược,…
Về thể loại phim, phim cổ trang là một trong những thể loại phim được Trung Quốc đầu tư sản
xuất và đẩy mạnh xuất khẩu. Đây cũng là thể loại phim đã góp phần không nhỏ trong chiến lược truyền
bá văn hóa của nước này đến khắp các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Qua số lượng phim
Trung Quốc được phát sóng trên các đài truyền hình của Việt Nam, chiếm số lượng áp đảo nhất vẫn là
những bộ phim thuộc thể loại cổ trang được lấy từ bối cảnh lịch sử của Trung Quốc. Các bộ phim cổ
trang này có thể được chia làm các thể loại nhỏ khác như: phim lịch sử, phim kiếm hiệp, phim thần thoại,
phim cung đấu. Một số bộ phim nổi tiếng, có sức ảnh hưởng nhất ở Việt Nam có thể kể đến như Tây Du
Ký, Liêu Trai, Hoàn Châu Cách Cách, Thủy Hử, Thiên Long Bát Bộ, Hồng Lâu Mộng, Võ Tắc Thiên,
Bao Thanh Thiên,… đây đều những bộ phim có thể xem như là món ăn tinh thần đặc biệt không thể thiếu
của nhiều khán giả tại Việt Nam. Những bộ phim này có sự dàn dựng công phu từ bối cảnh tới diễn viên,
được lấy bối cảnh từ những sự kiện lịch sử diễn ra trong suốt hơn 5000 năm của đất nước Trung Hoa.
Đây đồng thời cũng là thể loại phim mà các nhà làm phim trong nước gần như bỏ ngỏ.
16
Tingting Huang (2018). TV and Film Industry Discuss Chinese Drams'Ups and Downs in Vietnamese Market, Global
Times, 20 (12): 51-54
183
2. Nguyên nhân cho sự bùng nổ của phim ảnh Trung Quốc tại Việt Nam
Nguyên nhân do đâu mà phim Trung Quốc lại tạo được sức hút với khán giả Việt Nam đến vậy?
Vì lí do gì mà những bộ phim này khiến những ai đã xem sẽ khó lòng dứt ra được? Qua thời gian theo
dõi và tìm hiểu, chúng tôi nhận định các bộ phim Trung Quốc vẫn có chỗ đứng trong lòng khán giả Việt
là bởi các yếu tố sau:
Thứ nhất, kịch bản độc đáo, có sự đan xen khéo léo giữa lịch sử và hiện đại. Khi nhắc đến những
bộ phim Trung Quốc, đặc biệt là những bộ phim thần thoại, phim cổ trang, khán giả thường liên tưởng
đến những cảnh quay hào hùng với những cung điện tráng lệ, ở đó đã xảy ra biết bao sự kiện xoay quanh
các nhân vật chính trong phim được khoác lên mình những bộ trang phục được đầu tư công phu, thể hiện
rõ nét văn hóa Trung Hoa. Đây chính là thế mạnh độc tôn của Trung Quốc khi họ sở hữu và bảo tồn được
các công trình kiến trúc cổ xưa, từ đó tạo nên những cảnh quay chân thật nhất về xã hội phong kiến lúc
bấy giờ - một điều mà ngay cả các đất nước bị ảnh hưởng bởi nền văn hóa Trung Hoa như Nhật Bản,
Hàn Quốc hay thậm chí là Việt Nam khó mà làm được. Những bộ phim như Bao Thanh Thiên, Tam
Quốc Diễn Nghĩa, Thủy Hử, Hoàn Châu Cách Cách, Diên Hi Công Lược, Như Ý Truyện, Hoa Thiên
Cốt,…là những minh chứng rõ nét nhất cho sự thành công của thể loại phim cổ trang Trung Quốc.
Thứ hai, thời lượng phim phù hợp với nhu cầu của khán giả. Có thể nói, bộ phim dài bao nhiêu tập,
nhiều hay ít được xem là một trong những tiêu chí hàng đầu của khán giả Việt trong quá trình lựa chọn
phim để theo dõi. Đại đa số các bộ phim truyền hình nhiều tập của Trung Quốc đều rơi vào khoảng 20 –
80 tập và trung bình trên dưới 2 giờ cho mỗi bộ phim lẻ. Đơn cử có thể kể đến bộ phim có sức ảnh hưởng
lớn trong năm 2022 là Tinh Hán Xán Lạn với 56 tập và phim Na Tra: Ma Đồng Giáng Thế được ra mắt
năm 2019 với thời lượng phim dài 1 giờ 50 phút. Những bộ phim lẻ khác có sức ảnh hưởng lớn ở Việt
Nam như các bộ phim của diễn viên hài danh tiếng Châu Tinh Trì cũng có độ dài trung bình 2 giờ. Nhìn
chung, những bộ phim có thời lượng kể trên luôn có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với khán giả Việt, nhất là
những khán giả trẻ vì diễn biến phim được đẩy nhanh, không rườm rà và rất kịch tính.
Thứ ba, dàn diễn viên thu hút giới trẻ. Cũng tương tự như những bộ phim Hàn Quốc từng nổi đình
nổi đám ở Việt Nam trong suốt một thời gian dài, các bộ phim được sản xuất bởi Trung Quốc không chỉ
thành công trong việc khai thác và xây dựng kịch bản, mà còn xuất sắc trong việc quy tụ dàn diễn viên
trẻ có ngoại hình, nhan sắc lẫn tên tuổi trong làng giải trí xứ sở Trung Hoa.
Thứ tư, phục trang – thế mạnh của Trung Quốc. Trung Quốc từ lâu đã được nhìn nhận là cái nôi
của dòng phim cổ trang, sự thành công của những bộ phim thuộc thể loại này luôn gắn liền với những bộ
phục trang, đây là chi tiết được các nhà làm phim Trung Quốc cực kỳ chú trọng và ra sức đầu tư. Những
bộ trang phục lộng lẫy, mang đậm chất văn hóa Trung Hoa được đội ngũ sản xuất phim chuẩn bị bài bản,
cầu kỳ có thể xem là một trong những điểm nhấn tạo nên sức hút đặc biệt của các bộ phim Trung Quốc.
Xét trên góc độ nghệ thuật, rất khó để phủ nhận tài năng của các nhà làm phim Trung Quốc.
3. Ảnh hưởng của phim ảnh Trung Quốc đến Việt Nam
Về sự ảnh hưởng của các bộ phim được sản xuất từ Trung Quốc, chúng tôi cho rằng sự ảnh hưởng
được thể hiện qua các mặt sau:
Thứ nhất, phim ảnh Trung Quốc góp phần làm thêm phong phú từ vựng tiếng Việt. “Soái ca”, “Phú
nhị đại”, “trạch nam”, “trạch nữ”, “nam thần”, “nữ thần”, “nằm thẳng”, “hảo hán”,… là những từ mà
giới trẻ Việt đang sử dụng hằng ngày trong từng câu nói của mình, tất cả cũng đều xuất phát từ các bộ
phim của Trung Quốc. Điều đó cho thấy, những bộ phim Trung Quốc đã và đang làm cho lời ăn tiếng
nói của khán giả Việt ngày một trở nên phong phú hơn trong cách diễn đạt của mình.
Thứ hai, truyền bá mạnh mẽ văn hóa, lịch sử đất nước Trung Quốc. Phim ảnh Trung Quốc nắm thế
“thượng phong” trên màn ảnh tại Việt Nam cho thấy, đằng sau sự bành trướng đó là những chiến lược
quảng bá mạnh mẽ, làm tác động mạnh mẽ đến suy nghĩ về hình tượng Trung Quốc trong lòng khán giả.
Điều đó được thể hiện qua những thước phim sau khi lên sóng và được đông đảo khán giả đón nhận, từ
các món ăn như “vịt quay Bắc Kinh”, “sủi cảo”, “kẹo hồ lô” cho đến những cảnh quay hùng vĩ về những
thắng cảnh như Tử Cấm Thành (Cố Cung), Vạn Lý Trường Thành, Phượng Hoàng Cổ Trấn, Tây Hồ,…
Khán giả Việt đón nhận bộ phim, và yêu cả nền văn hóa ẩm thực phong phú, và tất nhiên say đắm luôn
184
cả những địa điểm “không thể không đi” ở Trung Quốc. Từ đó thu hút thêm nhiều người Việt quyết định
đến Trung Quốc đi du lịch, làm việc hay thậm chí là cả việc đi du học.
Thông qua các cảnh quay thắng cảnh, ẩm thực, phục trang, Trung Quốc đã thành công trong việc
tạo dựng hình ảnh, xây dựng cho riêng mình một quyền lực mềm, dần dần xâm nhập và làm “khuynh
đảo” không nhỏ bộ phận khán giả Việt.
4. Kết luận
Phim ảnh Trung Quốc đã và đang dần trở nên gần gũi hơn với khán giả Việt Nam hơn bao giờ hết.
Sự đầu tư công phu về hình ảnh, trang phục, dàn diễn viên thuộc thế hệ trẻ, nội dung kịch bản gay cấn,
bám sát thực tế đời sống xã hội là những yếu tố mang tính quyết định cho sự thành công của phim ảnh
Trung Quốc tại Việt Nam. Sự bùng nổ mạnh mẽ của hàng loạt từ vựng gốc Trung xuất phát từ phim ảnh
Trung Quốc trên các phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội,… phần nào cũng đã cho ta thấy được
chiến lược truyền bá văn hóa của Trung Quốc bước đầu đã có sự thành công rõ rệt.
185
NGHIÊN CỨU SO SÁNH VỀ CÁCH ĐẶT TÊN CÁC KHU DÂN CƯ TẠI
QUẢNG CHÂU (TRUNG QUỐC) VÀ HÀ NỘI (VIỆT NAM)
Sú Xuân Thanh*
Khoa Trung Quốc học, Trường Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh
*Tác giả liên hệ: (Điện thoại: 0985 062 570; Email: sx.thanh@hutech.edu.vn)
TÓM TẮT
Quảng Châu và Hà Nội là những thành phố cấp 1 của Trung Quốc và Việt Nam, tên gọi các khu
dân cư cũng thể hiện những đặc điểm riêng. Bài viết thông qua việc phân tích so sánh tên gọi của khu
dân cư ở quận Hải Châu và quận Hoàn Kiếm để tìm ra những điểm giống và khác nhau trong ngôn ngữ
và văn hóa của Trung Quốc và Việt Nam, nhằm thúc đẩy giao lưu văn hóa kinh doanh giữa hai nước.
Từ khóa: tên gọi khu dân cư; so sánh; văn hóa .
1. Đặt vấn đề
Tên gọi là một hiện tượng ngôn ngữ cũng như một hiện tượng văn hóa. Ở một mức độ nào đó, tên
gọi của các khu dân cư đô thị là hình ảnh thu nhỏ của sự phát triển đô thị, phản ánh màu sắc của thời đại
và văn hóa khu vực cũng như dân tộc, chính vì thế nó cũng đã khơi dậy sự quan tâm và chú ý của các
nhà nghiên cứu ngôn ngữ. Nhiều học giả đã tiến hành nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau về tên gọi
của các khu dân cư. Ví dụ: “Nghiên cứu tu từ tên gọi của các khu dân cư ở Quảng Châu” của Zhang
Manyi (2007) đã thảo luận về đặc điểm của tên gọi của các tòa nhà dân cư từ góc độ tu từ, và “Ý nghĩa
thẩm mỹ của tên của các khu dân cư đô thị mới” của Zheng Xiaoyun (2009) thảo luận về đặc điểm của
tên gọi của các khu dân cư từ góc độ thẩm mỹ. Nhưng cho đến nay ít người nghiên cứu nó từ góc độ so
sánh giữa Trung Quốc với nước ngoài, đặc biệt là so sánh giữa Trung Quốc và Việt Nam. Bài viết này
chủ yếu tập trung vào việc so sánh tên gọi của các khu dân cư ở Quận Hải Châu, Quảng Châu (Trung
Quốc) và quận Hoàn Kiếm của Hà Nội (Việt Nam), thông qua đó tìm hiểu những điểm tương đồng và
khác biệt giữa hai nền văn hóa được phản ánh trong tên gọi của các khu dân cư ở Trung Quốc và Việt
Nam.
Các loại hình khu dân cư tương đối phức tạp, có loại là nhà ở thông thường, có loại là căn hộ chung
cư hoặc biệt thự, để thuận tiện cho việc so sánh và nghiên cứu, bài viết giới hạn đối tượng nghiên cứu
chính là tên các khu chung cư bán cho nhóm người tiêu dùng bình thường ở giai đoạn từ tháng 1 đến
tháng 6 năm 2015. cụ thể thông qua các dự án khu dân cư để bán ở quận Hải Châu được công bố trên
trang web “Sunshine Home Edge” trong thời gian giai đoạn tương ứng và thu thập tổng cộng 236 tên
khu dân cư, sau khi xóa tên các dự án khu dân cư được phát triển theo các giai đoạn khác nhau và tên
của các bất động sản thương mại, còn lại tổng cộng 82 tên khu dân cư, được liệt kê là đối tượng nghiên
cứu chính của bài viết. Đối với tên các khu dân cư trên địa bàn quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, bài viết tập
trung thu thập tên các khu dân cư đang rao bán trên địa bàn từ tháng 1 đến tháng 6 năm 2015. Tuy nhiên,
do mạng lưới thông tin các khu nhà ở Hà Nội chưa hoàn chỉnh, thông qua nghiên cứu và thực tế khảo
sát, bài viết tổng cộng thu thập được 99 tên gọi của các khu dân cư trên địa bàn Quận Hoàn Kiếm, Hà
Nội.
2. Phân tích đặc điểm từ vựng của tên gọi các khu dân cư ở Quảng Châu và Hà Nội
2.1 Phân tích đặc điểm từ vựng của tên khu dân cư ở quận Hải Châu
Một cái tên hay nhìn chung là phải ngắn gọn, sinh động để dễ gây ấn tượng và dễ nhớ. Do đó, độ
dài của tên và sự sắp xếp thứ tự của các âm tiết là một trong những yếu tố quyết định. Để phân tích đặc
điểm từ vựng về tên gọi các khu dân cư ở quận Haizhu, bài viết này đã thu thập 82 tên khu dân cư ở quận
Hải Châu và sắp xếp theo số lượng âm tiết, kết quả thống kê như sau:
186
Bảng 2.1 Thống kê số lượng tên khu dân cư Quận Hải Châu theo số lượng âm tiết
Số âm tiết Tên gọi (ví dụ) Số lượng Tỉ lệ(%)
2 Dung Uyển (榕苑) 1 1.22
3 Phương Thảo HIên(芳草轩), NgựNhã Đình(御雅庭) 24 29.27
4 Tử Long hoa viên(紫龙花园) 54 65.85
5 Hòa bình gia hoa viên (和平家花园), 3 3.66
Tổng cộng 82 100.00
Qua bảng 2.1 chúng ta có thẻ thấy tên khu dân cư ở quận Hải Châu phân bố từ 2 đến 5 âm tiết,
phần lớn từ 3 đến 4 âm tiết chiếm 95,12%. Nghiên cứu cũng cho thấy tên có bốn âm tiết có lợi thế tuyệt
đối, cao tới 65,85%. điều đó cho thấy tên của các khu dân cư ở quận Hải Châu bị chi phối bởi tên có bốn
âm tiết, và đây cũng là dạng âm tiết cơ bản của chúng. Tuy nhiên, tỷ lệ sử dụng tên hai và năm âm tiết
rất thấp và không thể so sánh với tên gọi có 4 âm tiết. Nguyên nhân chính là do người Trung Quốc chủ
yếu quan tâm đến sự cân đối, hài hòa giữa tâm lý nhận thức và thẩm mỹ, nên tên gọi bốn âm tiết chiếm
vị trí chủ đạo để dễ nhớ và hài hòa hơn.
Xét về sự phân chia theo “chẵn lẻ” của tên khu dân cư, chẵn là 55, lẻ có số lượng là 27, chiếm tỷ
lệ tương ứng là 67,07% và 32,93%. Có thể thấy rằng tên của các khu dân cư ở quận Hải Châu có xu
hướng được đặt theo âm số chẵn.
2.2 Phân tích đặc điểm từ vựng của tên khu dân cư quận Hoàn Kiếm
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, đời sống kinh tế Việt Nam dần dần đi theo chuẩn mực quốc
tế, và chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa quốc tế, tên gọi các khu dân cư cũng bị “Tây hóa”, Hà Nội là
một trong những thành phố chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Bài viết này thu thập 99 tên gọi khu dân cư
trên địa bàn quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, thống kê cụ thể như sau:
Bảng 2.2 Thống kê số lượng tên khu dân cư Quận Hoàn Kiếm theo số lượng âm tiết
Số lượng âm tiết Tên gọi (ví dụ) Số lượng Tỷ lệ(%)
2 Năm Sao, Đại Thanh 62 62.63
3 Lý Thường Kiệt, Phạm Hùng boulevard 22 22.22
4 Tân Phú Bình An, Thăng Long HàNội 9 9.09
5 Khu tập thể Hoa Mai 5 5.05
6 Chung cư Hoàng Quốc Việt Residentials 1 1.01
Tổng cộng 99 100.00
Thông qua số liệu bảng 2.2, chúng ta có thể thấy, trong số tất cả các tên khu dân cư ở quận Hoàn
Kiếm, phần lớn là tên hai âm tiết hoặc ba âm tiết, chiếm 84,85%, và tên khu dân cư hai âm tiết giữ vai
trò chủ đạo, chiếm 62,63%. Tên gọi 4, 5 âm tiết và 6 âm tiết có tỷ lệ tương đối thấp, lần lượt là 9,09%,
5,05% và 1,01%, chiếm 15,15% tổng số. Trong mắt người Việt Nam, số đôi là số tốt, vả lại hai âm tiết
vừa ngắn gọn lại dễ nhớ. Vì vậy, dù là tên tiếng Việt hay tên tiếng Anh, tên gọi hai âm tiết nghiễm nhiên
trở thành lựa chọn hàng đầu cho việc đặt tên các khu dâ cư ở Việt Nam.
2.3 So sánh đặc điểm từ vựng của tên khu dân cư ở quận Hải Châu và quận Hoàn Kiếm
Bất luận là tên dân cư ở quận Hải Châu hay quận Hoàn Kiếm, tên gọi có số âm tiết chẵn chiếm tỷ lệ
khá cao, tên gọi của khu dân cư quận Hải Châu có số chữ chẵn chiếm 67,07%, quận Hoàn Kiếm chiếm
72,73%. Ngược lại, tỷ lệ tên khu dân cư có số âm tiết lẻ rõ ràng là yếu thế hơn, tỷ lệ tên gọi khu dân cư
có số âm tiết lẻ ở quận Hải Châu là 32,93% và của quận Hoàn Kiếm là 27,27%. Điều này cho thấy, cách
đặt tên ở hai nơi này chủ yếu đặt theo số chẵn; sở dĩ có xu hướng này là vì số chẵn cân đối, gọn âm hơn,
dễ nhớ, phù hợp với quan niệm tâm lý thẩm mỹ của người dân hai nước.
Sự khác biệt giữa hai nơi nằm ở sự lựa chọn số lượng âm tiết. Người Trung Quốc thích tên gọi có
bốn âm tiết, trong tên thường xuất hiện những từ như “hoa viên 花园”, “uyển 苑”. Thống kê cho thấy,
tên có 4 âm tiết chiếm tỷ lệ tương đối lớn 65,85%. Tuy nhiên, người Việt Nam thích đặt tên nhà có 2 âm
tiết, chiếm 62,63% tổng số.
187
3. Phân tích nguồn gốc các từ trong tên gọi các khu dân cư ở Quảng Châu và Hà Nội
Người ta hay nói “ngựa tốt phải đi với yên tốt”, một khu dân cư hay bất động sản tốt tất nhiên phải
có tên gọi hay, phản ánh đặc điểm của nó, khiến người ta nghe qua là khó quên tức là vừa ý, dễ nghe, dễ
nhớ, dễ đọc, dễ viết, dễ nhận biết.
Nghiên cứu cho thấy nguồn gốc của các từ trong tên khu dân cư ở Trung Quốc và Việt Nam có
những đặc điểm riêng. Tên gọi của các khu dân cư ở Việt Nam hầu hết đều liên quan đến tên người và
tên địa danh. Tuy nhiên, tên của các khu dân cư ở Trung Quốc hầu hết đều liên quan đến phong cảnh
thiên nhiên, sự giàu có, vẻ đẹp và niềm vui.
3.1. Nguồn gốc từ ngữ trong tên gọi của các khu dân cư ở quận Hải Châu
Để khơi dậy mong muốn mua bất động sản của người tiêu dùng, các chủ đầu tư hay nhà kinh doanh
bất động sản đã vắt óc và dày công đặt tên cho bất động sản đó một cách tự nhiên, đa dạng và phong phú
hơn. Sau khi quan sát 82 tên gọi khu dân cư thu thập được ở quận Hải Châu, bài viết nhận thấy nguồn
gốc từ của các tên gọi của khu dân cư có thể chia thành các loại sau:
Bảng 3.1 Thống kê nguồn gốc từ ngữ trong tên khu dân cư ở quận Hải Châu
Nguồn gốc từ vựng Số lượng Tỷ lệ(%)
3.1.1 Nguồn gốc từ tâm lý hướng tới sự tốt lành của người dân
“Cát tường như ý”, “phúc thọ khang ninh”, “quan vận hanh thông” là nguyện vọng và mục tiêu
muôn thuở của dân tộc Trung Hoa. Để phục vụ nhu cầu xã hội và tâm lý của con người và khơi dậy mong
muốn mua hàng của người tiêu dùng, các nhà đầu tư thường chọn những từ tốt lành hoặc sử dụng những
hình ảnh mang ý nghĩa tốt lành khi đặt tên cho khu dân cư, như: Thụy bảo hoa viên 瑞宝花园, Bảo long
uyển 宝龙苑, Cư lạc uyển 居乐苑…, số lượng tên này chiếm tỷ lệ lớn, tổng cộng có 34 cái tên trong
thống kê này, chiếm 41,46%.
Trong tiếng Trung Quốc, vàng và bạc tượng trưng cho cuộc sống cao quý và giàu có, còn màu tím
là biểu tượng của sự cao quý, quyền lực và điềm lành. Do đó, các từ liên quan thường được sử dụng trong
tên gọi các khu dân cư, chẳng hạn như: Tử long hoa viên 紫龙花园, Ngân hỷ hoa viên(富力)银禧花
园, Kim vực hoa đình(万科)金域华庭 v.v
3.2. Nguồn gốc từ ngữ trong tên gọi của các khu dân cư ở quận Hoàn Kiếm
Hầu hết các từ dùng trong tên gọi khu dân cư ở Việt Nam đều có liên quan đến tên riêng, địa danh
hoặc từ mượn của nước ngoài. Số liệu thống kê cụ thể nguồn từ vựng về tên các khu nhà ở để bán trên
địa bàn quận Hoàn Kiếm như sau:
Bảng 3.2 Thống kê nguồn gốc từ ngữ trong tên khu dân cư ở quận Hoàn Kiếm
Nguồn gốc từ vựng Số lượng Tỷ lệ(%)
Từ mượn 18 18.18
Khác 3 3.03
合计 99 100.00
3.2.1 Nguồn gốc từ tâm lý hướng tới sự tốt lành của người dân
Với sự phát triển của xã hội loài người và nhận thức của con người ngày một được nâng cao, việc
đặt tên bắt đầu mang nhiều màu sắc tình cảm và mang nhiều ý nghĩa đặc biệt hơn, tập trung vào việc thỏa
mãn tâm lý cầu may, lành dữ của con người, vì vậy việc đặt tên cho các khu dân cư nhà đầu tư thường
chọn một số từ ngữ đẹp và tốt lành, hay mang ý nghĩa may mắn.
Trong thống kê tên gọi khu dân cư tại quận Hoàn Kiếm, Hà Nội thuộc nhóm tên này có 21 tên gọi,
chiếm 21,21% như: Phúc Khang, Phúc Thịnh, Hưng Phú, Phú Mỹ Hưng, Tân Phú Bình An, Thành Công,
Hào Huê, Phi Long…
4. Phân tích ý nghĩa văn hóa của tên gọi khu dân cư ở Quảng Châu và Hà Nội
Người dân ở các khu vực khác nhau có văn hóa khu vực khác nhau và bị ảnh hưởng bởi suy nghĩ
của người dân nơi đó. Cách đặt tên khác nhau có thể phản ánh các nền văn hóa khu vực khác nhau, những
cái tên hay, có ý nghĩa sẽ thu hút và có tác dụng tích cực đói với người tiêu dùng. Việc đặt tên cho các
khu dân cư mang ý nghĩa văn hóa sẽ mang lại cho người dân cảm giác sảng khoái, mang lại cho mọi
người niềm vui và khiến mọi người hài lòng.
4.1.2 Yếu tố văn hóa truyền thống trong tên gọi các khu dân cư quận Hoàn Kiếm
Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với Trung Quốc trong việc tìm kiếm điềm lành, người Việt
Nam quan niệm “có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Vì vậy, trong thực tế, người Việt Nam và người
Trung Quốc đều thích từ ngữ tốt lành. Nó chủ yếu tập trung vào phúc, lộc, thọ, tài,…, Những từ như vậy
cũng được sử dụng rộng rãi trong các tên bất động sản, chẳng hạn như Hoàng Kim, Phú Mỹ An Hưng,
Phúc Khang, Phúc Thịnh...
Người Việt Nam cũng thích dùng từ chỉ màu sắc khi đặt tên khu dân cư, phổ biến nhất là xanh lá
cây và xanh da trời. Màu xanh tượng trưng cho sự an tâm, thư thái và hạnh phúc, thanh thản và trang
190
nghiêm giúp hồi phục sức khỏe. Đồng thời, màu xanh lá cây cũng tượng trưng cho hy vọng và là màu
của sự khao khát về tương lai. Ngoài ra, màu xanh lá cây còn tượng trưng cho sự tự do, rất gần với ý
nghĩa màu xanh lá cây ở Trung Quốc. Ở đâu có đèn giao thông, đèn xanh nghĩa là vượt, và “bật đèn
xanh” nghĩa là cho tự do, buông bỏ. Màu xanh lam thường gợi nhớ đến đại dương, bầu trời, nước, vũ trụ
và thiên nhiên, đồng thời cũng là biểu tượng của sự điềm tĩnh, sáng suốt, thanh bình và rộng mở. Do đó,
những từ đại diện cho màu sắc như vậy thường được sử dụng trong tên của các khu dân cư, chẳng hạn
như Blue Tower, Bầu Trời Blue, Green tower, Green city...
Văn hóa truyền thống Việt Nam đề cao “uống nước nhớ nguồn”, tên gọi của các khu dân cư lấy
tên của một số người có công với nước như Tôn Thất Thuyết (tướng nhà Nguyên và là thủ lĩnh chính của
phong trào Tần Vương), Lý Thường Kiệt (danh tướng nhà Lý, danh nhân anh hùng)… Người Việt Nam
thích lấy tên của các danh nhân lịch sử được coi là nguyên khí của quốc gia này để đặt tên cho các khu
dân cư nhằm phản ánh đặc điểm lịch sử và văn hóa của dân tộc Việt Nam.
5. Kết luận
Là một hiện tượng của ngôn ngữ xã hội, tên khu dân cư là một thể thống nhất bao gồm nhiều yếu
tố, đồng thời với vai trò là công cụ để chủ đầu tư quảng bá bất động sản, tên khu dân cư còn mang một
chức năng thương mại nhất định. Chính sự pha trộn giữa ngôn ngữ, văn hóa và thương mại này đã tạo ra
nhiều tên gọi dân cư như vậy.
Thông qua việc phân tích, so sánh tên gọi khu dân cư tại quận Hải Châu, thành phố Quảng Châu
và quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, bài viết nhận thấy có nhiều điểm giống và khác nhau trong cách gọi tên
khu dân cư của Trung Quốc và Việt Nam.
Đầu tiên, việc lựa chọn số âm tiết có xu hướng là tên được đánh số chẵn, nhưng tên của các khu
dân cư ở quận Hải Châu chủ yếu là bốn ký tự, trong khi tên ở quận Hoàn Kiếm chủ yếu là hai ký tự.
Thứ hai, hầu hết các khu dân cư ở quận Hải Châu đều có những từ như “Hoa viên 花园” “uyển”
“loan 湾” trong tên gọi, trong khi những khu dân cư ở quận Hoàn Kiếm, Hà Nội không có những từ phổ
biến như vậy.
Thứ ba, tên của các khu dân cư ở hai nơi thường được đặt tên với những từ tốt lành hoặc những từ
có ý nghĩa tốt lành.
Thứ tư, các từ như từ màu sắc, địa danh, cảnh sắc thiên nhiên rất phổ biến trong việc đặt tên khu
dân cư ở hai nơi trên.
Thứ năm, tên khu dân cư ở Hà Nội sử dụng một lượng lớn từ nước ngoài và tên riêng, những từ
như vậy rất hiếm trong tên khu dân cư ở Trung Quốc.
Thứ sáu, tên gọi của các tổ dân phố ở cả hai nơi đều phản ánh nhiều dấu ấn văn hóa truyền thống
hơn.
192
TÌM HIỂU CÁC MỐI QUAN HỆ GIA ĐÌNH
TRONG XÃ HỘI PHONG KIẾN TRUNG QUỐC
THÔNG QUA TỤC NGỮ TRUNG QUỐC
TÓM TẮT
Ngôn ngữ được dùng để truyền tải các vấn đề về văn hóa và xã hội. Đối với việc học một ngôn
ngữ mới thì ngoài việc học ngôn ngữ ra chúng ta còn có thể tìm hiểu về các vấn đề liên quan nhằm để
nắm rõ hơn về phong tục, văn hóa của người sử dụng loại ngôn ngữ đó. Học tiếng Trung cũng vậy, như
chúng ta đã biết, Trung Quốc là một đất nước có nền văn hóa vô cùng lâu đời, bên cạnh đó là những
quan niệm bắt nguồn từ thời kì phong kiến đã có ảnh hưởng rất lớn đến xã hội đất nước này. Bài viết
thông qua việc tìm hiểu những câu tục ngữ Trung Quốc thường dùng có liên quan đến các mối quan hệ
trong gia đình đề từ đó tìm hiểu về văn hóa trong gia đình thời kì này. Cụ thể trong bài viết sẽ tìm hiểu
về mối quan hệ giữa cha mẹ và con, giữa mẹ chồng và con dâu, giữa vợ và chồng, cũng từ đó cho thấy
được nguyên do những mâu thuẫn trong gia đình phong kiến xưa.
Từ khóa: gia đình phong kiến, mối quan hệ gia đình, ngôn ngữ, tục ngữ, văn hóa.
194
Chính vì lẻ đó, mối quan hệ này lại càng khó thở cho người con dâu khi ngày ngày giờ giờ đối mặt
trực tiếp với mẹ chồng trong việc quán xuyến chuyện nhà cửa và trong mọi việc, cảm giác này hoàn toàn
trái ngược với cảm giác ở nhà mẹ đẻ “住娘家唱台戏,住婆家活受气”“娘家碗三两重,夫家碗千斤
重”“娘家的饭香,婆家的饭长”.
Mẹ chồng và con dâu tuy sống chung một nhà, cùng nhau làm việc nhưng mẹ chồng lại không coi
con dâu như người một nhà và cũng luôn có sự phân biệt đối xử với con dâu, con dâu sẽ không nhận
được tình cảm như người nhà từ mẹ chồng “女儿一声哭,撕心裂肺;儿子一哭,惊天动地;媳妇一
哭,心口不一”,“儿子哭惊天动地,媳妇哭虚情假意”,“ 崽哭心肝到,媳哭狗吠灶”. Vì lẽ mối quan
hệ này rất chơi vơi, không là huyết thống cũng không là vợ chồng, mà đây chỉ là hai người sống với
nhau vì những người khác bên cạnh họ trong gia đình, vì vậy mà giữa họ luôn là một khoảng cách nào
đó. Khi nhắc đến con gái mình, mẹ chồng rất vui, nhưng khi nhắc đến con dâu thì thái độ sẽ rất khác “提
起闺女笑盈盈,提起媳妇牙根疼”, thậm chí “烂梨给闺女,烂栗子给儿媳”, thái độ mẹ chồng như
người dưng đối xử với con dâu.
Còn con dâu, như trên có nhắc đến, con dâu cũng nói đến mẹ chồng với thái độ xa cách, không có
nhiều tình cảm gắn bó “玻璃不算墙,婆婆不算娘”,“板子挡风不胜墙,千好的婆子不如娘”,“宁肯
在娘屋里吃粥,不肯在婆屋里吃肉”. Số phận của người con dâu cứ như lạc lõng trong gia đình chồng,
mà nhất là luôn phải đối mặt với mẹ chồng hà khắc.
Quả thật, mẹ chồng con dâu là một mối quan hệ đặc biệt cũng là một mối quan hệ đầy bi thương
trong xã hội phong kiến. Qua đó cho thấy được số phận đầy bi đát của con dâu trong gia đình chồng cũng
như trong xã hội thời bấy giờ.
5. Kết luận
196
Thông qua việc tìm hiểu về những câu tục ngữ Trung Quốc thường dùng về các mối quan hệ trong
gia đình chúng ta có thể thấy được tình cảm gia đình quý giá như thế nào, và bên cạnh đó còn cho chúng
ta thấy được vai trò của các thành viên trong gia đình và sự ảnh hưởng của các quan niệm xưa đến tư
tưởng của họ ra sao. Đồng thời cũng cho chúng ta thấy được số phận bi đát của những người phụ nữ nhỏ
bé trong gia đình và trong xã hội phong kiến Trung Quốc hà khắc đến dường nào.
197
BUSINESS CULTURE IN KOREAN ENTERPRISES AND
RECOMMENDATIONS FOR VIETNAM
Nguyen Minh Tri*
*
Faculty of International Relations, Ho Chi Minh City University of Foreign Languages –
Information Technology
* Corresponding Author: Mobile: 0342 584 045, Email: trinm@huflit.edu.vn
ABSTRACT
With its open-door policy and many incentives in investment issues for foreign enterprises,
Vietnam has attracted many foreign enterprises to invest in Vietnam, including many enterprises from
Korea. The investment of Korean enterprises has contributed significantly to the strong development of
Vietnam’s economy in recent years. Moreover, the growth of Korean businesses, not only in Vietnam
but also in the world, is known mainly thanks to the Korean business culture. Korean business culture
has many unique characteristics that make them successful and highlight Korea’s cultural identity
worldwide. Through this paper, the author will systematically evaluate the business culture and find out
the features of the business culture of Korean enterprises, thereby having a basis for comparison with
Vietnamese enterprises.
Keywords: business culture, Korean enterprises, comparative culture, Vietnamese enterprises.
1. Introduction
Korea is a country that is considered a successful model in economic development by the “soft
power” of culture and has a strong team, business community, and businesses. (Ha, 2018, p. 2). Within
40 years, Korea has had the great experience of building the country from a pile of ashes due to war and
invasion to become the Asian power it is today. Vietnam-South Korea’s friendship over the past 20 years
has developed rapidly in many fields, especially economics and politics. In 2001, the enduring
partnership between Vietnam and The Republic of Korea upgraded to a “comprehensive partnership”; in
2009, it upgraded to a “strategic cooperation partner”.
From practice, the influence of Korean businesses is growing through investment in the economy
of Vietnam. Korea is the leading investor in Vietnam, with more than 9,000 enterprises. The total
accumulated investment capital since October 2020 reached nearly 70.4 billion USD, accounting for
18.5% of the total FDI invested in Vietnam with 8,934 projects. (Invest Vietnam, 2020). These
impressive numbers are also why many scientific researchers in many fields interested in business culture
in general and Korean businesses, in particular, have worked hard to study. After only a few decades,
they constantly question what makes an agricultural, poor, backward country like Vietnam become the
world’s 10th most significant power. This remarkable development is known as the Miracle of the Han
River. (Kleiner, 2001, p. 254).
Within the confines of this paper research, we will briefly cover how to understand key concepts
such as business culture and the components that make up business culture. From there, identify Korean
enterprises' outstanding elements and business culture characteristics. Finally, combined with practices
from Vietnam to make proposals and recommendations to help promote the development of Vietnam’s
economy in general and Vietnamese business culture in particular.
2. Theoretical foundation
2.1 Business culture
The term business culture only appeared in the world’s 90s of the 20th century. Nevertheless, many say
that “business culture and corporate culture are identical” (Hung & Vien, 2014, p. 63). Because if the
concept of business culture is understood in a narrow sense, as the Japanese idea is “a characteristic of
cultural values, behaviours based on a certain goal that members of the business share and preserve”
(Son, 2001, p. 82) it is indeed easy to confuse business culture and corporate culture.
198
However, when looking at business culture in a broad sense, business culture is organically
systemic, “is the process of integration and promotion” (Thang, 2002) material and spiritual, cultural
values, inherited and developed in the process of production and distribution of goods exchange built by
socio-political institutions and business cultural actors concerning nature and social communities, under
specific historical conditions. Although business culture subjects always belong to an ethnic community
with characteristic cultural identity values, they carry traditional cultural values in their minds, which are
baggage in producing goods that bring personal benefits, collectives and communities.
Thus, business culture is a system of material and spiritual cultural values that socio-political
institutions and business entities integrate and develop from people’s traditional and modern cultural
values in the business process of commodity production, demonstrating the relationship of interaction
with the natural, social, and scientific-technological environment. They aimed at seeking material
benefits but ensuring the sustainable development of society.
199
Moreover, Korean businesses also care about the loyalty and honesty of employees. However,
this loyalty is understood according to the ethics of traditional Confucianism, such as devotion to the
assigned work, keeping internal information secret, and obeying superiors’ orders. Valuing the creativity
and professionalism of its staff are also the core values that Korean businesses aim to and value. The
above statements are universal and easily seen through mass media channels from sources of large
Korean companies and corporations.
Thus, the core values in Korean businesses are discipline, honesty, dedication, loyalty, obedience
to superior orders, and valuing creativity and professionalism. With these characteristics, Korean
enterprises have become highly focused on business activities, increasing their strength and creating high
economic value.
4.3. Building and developing an entrepreneurial culture that demonstrates bravery and
wisdom
Entrepreneurial culture is pivotal in building and promoting corporate culture, expressing their
aspirations for success and the pride in human intelligence expressed in business activities. Firstly,
entrepreneurs need to understand their career trends, although associated with the interests of individuals,
and also ensure the community’s interests. It will lead to the formation of positive motives and needs in
each entrepreneur’s business. Upholding the ethical values in entrepreneurs’ companies will help
improve citizenship, honesty, and the spirit of independence - autonomy and preserve the prestige and
conscience of the entrepreneur. Enhancing knowledge of business, law, politics, and foreign languages
will be a springboard for entrepreneurs to access new technologies and integrate quickly into the
constantly moving world economy.
When entrepreneurs become leaders for their businesses, they must be proponents, leaders in
implementing and running companies that implement a culture of behaviour. Their behaviour will be a
good example, a condition to stimulate the industry. Therefore, managers’ behaviour towards employees
must base on the business’s distinctive culture That manifests through behaviours such as strategic
planning of personnel; carrying out the selection, training and remuneration of personnel; commanding
201
and administering personnel; treating personnel and winning people’s hearts, make them admire, respect
and obey.
Leaders must always be aware of building a good reputation and employee relationship on a
suitable basis and for the benefit of the team; building management ethics and professional capacity to
improve the credibility of the organisation itself constantly; listen attentively and continuously change to
suit the position and operation of the business. All of which is the key to helping entrepreneurs gain the
trust and trust of workers. Then, they will be willing to support and follow what the leadership has set
out.
5. Conclusion
Thus, in addition to clarifying the concept of business culture in this presentation, Korea is a typical
example of outstanding development in the economic field thanks to its unique business cultural
characteristics, leading to the cultural identity of the land of kimchi is also widely promoted on a global
scale. Therefore, developing Vietnam’s business culture is inevitable in the current context of cultural
globalisation.
Suppose Vietnam’s business culture wants to take a giant leap. In that case, it must base on
inheriting and developing inherent cultural values and economic activities, ensuring the country’s stable
development combined with the quintessence of the times, building a knowledge economy. That is why
Vietnamese businesses need to promote cultural exchange and learn from experiences between Vietnam
and countries worldwide, with Korea as an example.
6. References
1. Ha, L. T. (2018). Văn hóa doanh nhân Hàn Quốc và kinh nghiệm đối với Việt Nam
(Translate: Korean business culture and experience for Vietnam). Doctoral thesis, Vietnam National
University Ha Noi, University of Economics & Business.
2. Hien, P. T. (2020). Văn hóa doanh nghiệp & Văn hóa doanh nghiệp Hàn Quốc (Translate:
Corporate Culture & Korean Corporate Culture). Vietnam National University Ho Chi Minh City.
3. Hung, N. K., & Vien, L. D. (2014). Giáo trình Xây dựng văn hóa & Văn hóa doanh nghiệp
(Translate: Curriculum Building culture & corporate culture. Thai Nguyen University Publisher.
4. Huy, D. (1996). Văn hóa kinh doanh ở nước ta - Thực trạng và một số giải pháp (Translate:
Business culture in our country - Situation and some solutions). In Culture and Business (pp. 187-196).
Ha Noi: Social science Publisher.
5. Invest Vietnam. (2020). Tình hình đầu tư của các doanh nghiệp Hàn Quốc vào Việt Nam
năm 2020 (Translate: Investment situation of Korean enterprises in Vietnam in 2020). (Investment
Promotion Center for Industry and Trade in Vietnam) Retrieved 2022, from Invest Vietnam:
https://investvietnam.gov.vn/vi/su-kien.nd/tinh-hinh-dau-tu-cua-cac-doanh-nghiep-han-quoc-vao-viet-
nam-nam-2020.html
6. Kleiner, J. (2001). Korea, a Century of Change (Vol. 6). Singapore: World Scientific
Publishing.
7. Lieu, D. T., & Ha, N. V. (2008). Hội nhập và văn hóa kinh doanh Việt Nam (Translate:
Integration and Vietnamese business culture). The 3rd International Conference on Vietnamese Studies
(p. 117). Vietnam National Unversity Ha Noi.
8. Loc, N. V. (2008). Văn hóa kinh doanh trong doanh nghiệp có vốn đầu tư Hàn Quốc tại
Việt Nam (Translate: Business culture in Korean-invested enterprises in Vietnam). Master Thesis,
Vietnam National University Hanoi, University of Economics & Business.
9. Park Jeongbae. (2018). Văn hóa doanh nghiệp Hàn Quốc ở Việt Nam: Nghiên cứu trường
hợp Công ty Chosun Vina và Buwon Vina (Translate: Korean corporate culture in Vietnam: A case study
of Chosun Vina and Buwon Vina). Master Thesis, Vietnam National University Ho Chi Minh City -
University of Social Sciences and Humanities, Vietnamese Studies.
202
10. Phuc, N. D. (2015). Tuyển dụng trọn đời, một 'đặc sản' Nhật Bản (Translate: Lifetime
recruitment, a Japanese 'specialty'). Retrieved 12 30, 2022, from https://news.zing.vn/tuyen-dung-tron-
doi-mot-dac-san-nhat-ban-post578048.html
11. Son, D. (2001). Văn hóa kinh doanh trong xu thế hội nhập nền kinh tế tri thức (Translate:
Business culture in the trend of integrating the knowledge economy). In Culture and Business (p. 82).
Ha Noi: Lao Dong Publisher.
12. Thang, H. Q. (2002). Thu hoạch từ một lớp "Văn hóa doanh nghiệp" đầu tiên (Translate:
Harvest from a first layer of "Corporate Culture"). Training course on corporate culture of Mai Linh
Company.
13. Tri, N. M. (2020). Văn hóa doanh nghiệp trong việc phát triển nguồn nhân lực (Translate:
Corporate culture in human resource development). Journal of Tri Thuc Xanh(4-2020), 88.
203
THE SITUATION OF INTRODUCTION OF VIETNAMESE
CULTURAL TOURISM PRODUCTS TO KOREAN
TOURISTS FROM THE INBOUND TOURIST GUIDE
ABSTRACT
One of the factors that attract tourists to a country or destination is the differences or similarities in
culture. Vietnam is in the process of deep international integration. Tourism and international exchanges
are taking place strongly, especially among countries in Northeast Asia. The number of Korean tourists
to Vietnam increased rapidly and took second place after Chinese tourists before the Covid-19 pandemic.
Tourism activities not only the introduction, preserve and promote the good cultural values of the nation
but also actively promote and introduce the image and culture of Vietnam to Korean tourists. In the limit
of the article, the author uses analytical research methods, synthesizing secondary documents to
determine the current status of introducing Vietnamese cultural tourism products to Korean tourists and
some implementation solution suggestions.
Keywords: Vietnamese culture, tourism culture, tourism activities, Korean tourists
1. Introduction
In countries with developed tourism industries, tourism is seen as a means of awakening and
reviving the pride of national culture, preventing the risk of cultural loss, or invasive activities. culture,
majestic culture. Tourism is an integrated cultural activity or in other words, tourism is an economic
sector with profound cultural connotations, which is reflected in the development orientation of our Party:
"Building an advanced culture, imbued with national identity, comprehensive development, unity in
diversity, deeply imbued with the spirit of humanity, democracy, and progress; make culture closely
linked and permeate the entire social life, becoming an endogenous force of development”. Thanks to
the policy of innovation, creativity, and consistency of the Party and State during the past time, combined
with the increasing tourism business environment. Vietnam fighting "actively integrates internationally
to develop the country; improve Vietnam's position and prestige in the region and the world” (Communist
Party of Vietnam, 2016). Along with the process of international integration, Vietnam's tourism has been
focused on development as Decision No. 2473/QD-TTg, dated December 30, 2011, by the Prime
Minister approved. approved the "Strategy for tourism development in Vietnam to 2020, with a vision to
2030" and most recently, the issuance of Resolution No. 08-NQ/TW dated January 16, 2017, of the
Politburo "on the development of tourism becomes a spearhead economic sector” and see “The
development of the tourism industry has been contributing to promoting economic restructuring and local
exports; preserve and promote the value of cultural heritage and natural resources; create many jobs,
improve people's living standards; promote the process of international integration, promote the image
of the country and people of Vietnam". Over the years, Korea has always been the leading customer
market of Vietnam's tourism industry, ranking second after China (Thu & Lee, 2022). In 2019, before
the Covid-19 epidemic, Vietnam welcomed 4.3 million Korean visitors, an increase of 23.1% compared
to 2018, accounting for 23.9% of Vietnam's total international visitors. In 2015 - 2019, Korean visitors
to Vietnam increased by 3.9 times, an average increase of 40.1% per year, the highest among source
markets. When Vietnam reopens to international visitors after the pandemic, Korea has always been
Vietnam's largest market.
In the first 11 months of 2022, Vietnam welcomed more than 763,000 Korean visitors, accounting
for 26% of the total number of international visitors, making it the largest tourist market in Vietnam. In
204
the 11 months of 2022, Vietnam welcomed more than 2.95 million international visitors. These
outstanding results have been greatly contributed by inbound travel businesses, actively advertising and
promoting trade in target markets, and regularly improving service quality directly. Indirectly "exporting
culture" to tourists, protecting the image and brand of Vietnam's tourism, and contributing to promoting
the country's economic development. Besides the positive aspects, the human resources in the field of
inbound still have many limitations; not yet aware of the mission's role as a cultural bridge, the foreign
language level is not high, for immediate economic purposes, at the expense of national interests, aiding
for foreign tourism business units organizing zero Dong tours to Vietnam. This problem occurs
commonly in Quang Ninh, Nha Trang, and Da Nang. Hiring a guide at the spot (sitting guide), and
delegating to foreign tour leaders to guide and introduce leads to distorted information, and wrong orders.
Besides, the sense of protecting the tourism resources of the tourists themselves is not good, leading to a
part of foreign tourists disrespecting the local culture and laws such as buying and selling antiques,
hunting, and consuming wild animals. This significantly impacts the country's position, destination
quality, and confidence in Vietnamese products. By extension, the national position of power includes
many factors; indicators of the economy, population, military, and diplomacy to factors related to culture,
tradition, national unity, ideology, and lifestyle. For business activities, and guiding Korean tourists need
to have a scientific and sustainable development strategy.
2. Theory overview
2.1 Culture
Culture is an extremely large field of human life. Nowadays, there are many different definitions
of culture. There are perceptions cultural differences are due to reasons such as different levels of
awareness different, different cognitive purposes, different cognitive motivations or angles different
approaches… of each person. In recent years, a number of researchers in Vietnam and even in foreign
countries, when it comes to culture, they often use the definition of culture by UNESCO in 1994. “Culture
today can be considered as a whole distinctive spiritual and material, intellectual and emotional
characteristics that determine the character of a society or of a group of people in a society. Culture
includes arts and literature, ways of life, fundamental human rights, systems of values, customs and
beliefs”.
3. Research methods
The main research object of the article is the reality of introducing of Vietnamese cultural products
to Korean tourists in Vietnam. In conducting the research, to ensure scientific and practicality, the author
has applied the knowledge of travel in combination with several other subjects and disciplines such as
tourism management, marketing tourism, destination management, risk management, media
management, event and festival management, culinary management, and destination branding based on
specific methods as follows:
+ Document research method: Find out all scientific articles, and domestic and foreign specialized
books related to guides and Korean guests through the google scholar search engine (Google scholar and
citations). the source according to End Note X9 APA software).
+ Methods of collecting, inheriting documents, selecting information, and researching secondary
documents related to the current topic such as articles, journals, and theses of previous authors to serve
as a basic rationale for the article.
5. Conclusion
Cultural tourism products effectively convey the cultural values of a country, ethnic group, region,
locality, or destination. So that Korean tourists can explore, experience, and enjoy the tourism values
that the destination brings. It is necessary to soon be deeply aware in the tourism community of the great
power of culture to have appropriate information, guidance, advertising, and communication methods.
The inbound travel business is a direct activity with inbound tourists in general and Korean tourists in
particular. Tourism products cannot exist without the core values of national culture. All tourism products
must be cultural tourism products. If this is understood and done well, tourism will significantly
contribute to preserving and promoting the good values left by our forefathers, creating a soft power that
is resistant enough to balance travelers’ culture. Culture is a broad concept. The article is limited to
cultural tourism products or integrating cultural elements into tourism products. Therefore, we look
forward to receiving more contributions from scientists for introducing our country's cultural tourism
products to Korean tourists.
6. References
1. Collins-Kreiner, N., & Ram, Y. J. A. o. t. r. (2020). National tourism strategies during the
Covid-19 pandemic.
2. Sáu, D. V. (2004). Lễ hội Việt Nam trong sự phát triển du lịch. In: Nhà xuất bản văn hóa
Hà Nội.
3. Smith, M. K. (2015). Issues in cultural tourism studies: Routledge.
4. Smith, S. L. J. A. o. t. r. (1987). Regional analysis of tourism resources. 14(2), 254-273.
5. Thu, H. T. Q., & Lee, J. J. 호. (2022). The Perceived Attractiveness of Vietnam Tourism
Destinations for Korean Tourists: A Comparison between Visitors and Non-visitors. 31(7), 237-252.
209
VĂN HÓA HÀN QUỐC VÀ VIỆT NAM
QUA TỤC NGỮ HÀN VÀ VIỆT VỀ BẠN BÈ
Nguyễn Thị Hồng Hạnh*
Trường Đại học Đà Lạt
*Tác giả liên hệ: Điện thoại: 0989 106 882; Email: hanhnth@dlu.edu.vn
TÓM TẮT
Tục ngữ là một trong những thể loại văn học dân gian ra đời sớm nhất trong lịch sử văn học. Tục
ngữ hàm chứa nội dung, ý nghĩa sâu sắc, là những lời khuyên, lời răn dạy chí tình chí lý, có sức thuyết
phục cao. Qua khảo sát một số tài liệu về tục ngữ của Hàn Quốc và Việt Nam, tác giả phát hiện có khá
nhiều tục ngữ của người Hàn và người Việt về bạn bè. Đặc biệt, đối với người Hàn và người Việt, bạn
bè đóng vai trò rất quan trọng và có sức ảnh hưởng rất lớn trong cuộc sống. Vì vậy, bài viết này tập trung
tìm hiểu lối tư duy và bản sắc văn hóa của hai dân tộc Hàn và Việt được thể hiện trong ngôn ngữ nhằm
giúp cho nhân dân hai nước hiểu nhau hơn, hai quốc gia giao lưu, hợp tác tốt đẹp hơn cũng như đóng
góp một tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến ngôn ngữ, văn hóa Hàn Quốc và Việt Nam.
Từ khóa: văn hóa, Hàn Quốc, Việt Nam, tục ngữ, bạn bè.
1. Mở đầu
Tục ngữ là hiện tượng của ngôn ngữ, hiện tượng của tư duy, hiện tượng của văn học dân gian, và
hiện tượng của văn hóa. Ở Hàn Quốc, đa số các công trình nghiên cứu trên phương diện ngôn ngữ: Từ
điển tục ngữ (속담사전) (2005) của Lee Gi Moon, 4000 tục ngữ Hàn Quốc (우리말속담 4000) (2009)
của Lớp học tục ngữ Hàn Quốc; Từ điển ứng dụng tục ngữ Hàn Quốc (한국속담활용사전) (2009) của
Gim Do Hwan... Cũng có các đề tài so sánh văn hóa dân tộc qua tục ngữ Hàn với tục ngữ của dân tộc
khác hoặc phương pháp giảng dạy tục ngữ Hàn cho sinh viên nước ngoài, một số khác lại tập trung vào
phương pháp giảng dạy tiếng Hàn và văn hóa Hàn: Yang Ji Sun (2007) với công trình Phương pháp giáo
dục tiếng Hàn qua so sánh tục ngữ Hàn Quốc và Đông Nam Á - Trọng tâm là so sánh văn hóa (한국어
교육을 위한 한국과 동남아시아 속담 비교 연구 – 문화 비교를 중심으로); Hwang Ji Min (2011) với
công trình Tìm hiểu phương pháp giảng dạy văn hóa Hàn và tiếng Hàn qua tục ngữ (속담을 통한
한국어와 한국문화 교육 방법 연구).
Ở Việt Nam có một vài công trình nghiên cứu về tục ngữ Hàn. Tiêu biểu là luận án tiến sĩ ngữ văn
của Trần Văn Tiếng (2006) với đề tài “So sánh một số đặc điểm cú pháp, ngữ nghĩa của tục ngữ tiếng
Việt và tiếng Hàn”. Tuy nhiên, công trình này chủ yếu nghiên cứu tục ngữ Hàn và tục ngữ Việt trên
phương diện ngôn ngữ so sánh chứ không đi sâu phân tích, lý giải đặc trưng văn hóa dân tộc của hai
nước thông qua tục ngữ.
Gần đây, có một số đề tài nghiên cứu văn hóa Hàn Quốc qua tục ngữ được đăng trong Kỷ yếu Hội
thảo quốc tế KF Friends Networking 2020: Nguyễn Thị Nga (2020) nghiên cứu đặc trưng về ẩm thực
vùng miền ở Hàn Quốc thông qua tục ngữ, Hoàng Thị Yến, Hoàng Thị Hải Anh (2020) nghiên cứu về
hình ảnh biểu trưng mang sắc thái tích cực của con giáp qua ngữ liệu tiếng Hàn, tiếng Việt...
Văn hóa và ngôn ngữ luôn tồn tại song hành và có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, mật thiết với nhau.
Ngôn ngữ là phương tiện truyền tải, chuyên chở văn hóa, đồng thời văn hóa được thể hiện, phản ánh
thông qua ngôn ngữ, văn hóa là cơ sở, nền tảng để hình thành nên ngôn ngữ. Vì vậy, bài viết này tìm
hiểu về quan hệ bạn bè của người Hàn và người Việt qua tục ngữ nhằm tìm hiểu những điểm tương đồng
và khác biệt trong văn hóa góp phần giúp cho người Việt Nam và người Hàn Quốc hiểu rõ hơn về văn
hóa của hai bên. Đặc biệt, trong bối cảnh quan hệ ngoại giao của Việt Nam và Hàn Quốc hiện nay, việc
210
nghiên cứu mối quan hệ bạn bè trong tục ngữ, thành ngữ Hàn và Việt cũng chính là góp phần vào việc
xây dựng cơ sở, nền tảng tư tưởng vững chắc để duy trì và phát triển sâu sắc quan hệ đối tác hợp tác toàn
diện chiến lược của Hàn Quốc và Việt Nam.
211
quen biết lâu thì càng gắn bó và tình cảm càng sâu nặng: 친구는 옛 친구가 좋고 옷은 새 옷이 좋다 –
Bạn cũ, áo mới (Bạn cũ thì tốt, áo mới thì đẹp); 옷은 새 옷이 좋고 사람은 정든 사람이 좋다 – Áo mới,
người quen (Áo mới thì đẹp, người thân quen thì tốt).
Trong quan hệ bạn bè, người Hàn rất coi trọng sự quen biết, hiểu nhau lâu ngày. Tương tự người
Việt cũng vậy, trong tình bạn, quan trọng nhất là sự thân thiết, gần gũi và hiểu nhau: “Bạn bè là nghĩa
tương tri”; “Bạn nối khố”.
Chữ Tín cũng là một yếu tố quan trọng trong mối quan hệ bạn bè, trong quan hệ bạn bè cần phải
tin tưởng lẫn nhau: 벗을 사귀는 데는 신의를 귀히하라 - Trong việc kết bạn, hãy coi trọng tín nghĩa.
Theo kết quả của một điều tra xã hội học cho thấy, ở Hàn Quốc, bạn trung học thường gắn bó, thân
thiết hơn, đáng tin tưởng hơn bạn đại học:
“Việc ưu tiên sử dụng người trong truyền thống văn hóa Korea được đánh giá theo thang điểm 100
như sau: Độ tin cậy tuyệt đối (điểm 100) rơi vào cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh chị em. Mức điểm 99
thuộc về những người cháu (cháu trai cháu gái). Anh em họ thì được tin cậy ở mức 97 điểm; những người
họ hàng xa khác được 96 điểm. Bạn trung học được 97 điểm, trong khi bạn đại học thì chỉ có 85 điểm.
Những thành viên cùng tôn giáo, cùng nhà thờ đạt độ tin cậy là 95 điểm, trong khi những người lớn tuổi
ở cùng quê thì nằm ở mức 70 điểm. Những người Hàn xa lạ có độ tin cậy là 5 điểm, còn người nước
ngoài chẳng có quan hệ gì cả thì độ tin cậy chỉ được có một điểm (De Mente, Boyé 1998: 352-53)”.2
Người Việt cũng rất đề cao chữ Tín, bạn bè cốt ở chữ Tín: “Bằng hữu chỉ ư tín”. Bên cạnh đó,
người Việt còn coi trọng chữ Nghĩa, khi kết bạn quan trọng là xuất phát từ tình cảm chứ không phải vì
tiền bạc: “Giao nghĩa, mạc giao tài”.
Đồng thời, người Hàn quan niệm bạn bè thì cần giúp đỡ nhau, nâng đỡ nhau nhất là lúc hoạn nạn,
nguy khó: 어려움을 당해야 누가 정말 좋은 친군지 안다 - Gặp khó khăn mới biết ai là bạn.
Người Việt cũng tương tự, nhờ sự tương trợ của bạn bè, bằng hữu có thể giúp nhau làm giàu, làm
nên việc lớn cũng như chia sẻ khó khăn, hoạn nạn: “Vui bè vui bạn, cũng tát cạn biển đông”; “Giàu vì
(về) bạn, sang vì vợ”; “Anh em khi túng, chúng bạn khi cùng”; “Gian nan mới biết bạn hiền”; “Bạn bè
hiểu nhau khi hoạn nạn”, “Bạn rượu là bạn đắng, bạn chung đau khổ mới là bạn thân”… Vì vậy, người
bạn đích thực chính là người đồng hành cùng ta, luôn ở bên ta, sẵn sàng giúp đỡ ta khi ta gặp khó khăn
chứ không phải những lúc ta vui vẻ nhất.
Theo người Hàn, bất kỳ ai cũng đều cần có bạn bè, có khi bạn bè cũng được xem là mối quan hệ
quan trọng, thân thiết gần gũi như người thân trong gia đình: 어미 팔아 동무 산다 - Bán mẹ mua bạn.
Trong mối quan hệ bạn bè gần gũi, thân thiết có thể dễ dàng chia sẻ kinh nghiệm và giúp nhau học tốt.
Vì vậy, trong học tập, không những học với thầy cô mà còn có thể học tập với bạn bè: “Học thầy không
tày học bạn”. Người Hàn với truyền thống coi trọng học vấn, họ quan niệm giáo dục là một trong những
con đường quan trọng nhất để tiến thân, bạn bè chính là những người có thể hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau
trong học tập và công việc hiệu quả nhất. Xuất phát từ điều đó mà ở Việt Nam và Hàn Quốc đều có
“những mạng lưới hội đoàn xây dựng trên mối liên hệ đồng môn giữa những người cùng trường học
cũng rất quan trọng và phổ biến, nhất là đối với những trường lớn và nổi tiếng”.3
Đối với người Việt, bình thường vì quá nể nang anh em bạn bè, không dám nói thẳng ra, có khi bạn
còn được xem trọng hơn vợ, ví dụ: “Khôn với vợ, dại với anh em”.
Điểm khác nhau xuất phát từ sự tiếp thu, ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo quá sâu đậm của người
Hàn dẫn đến việc quá đề cao chữ Tín, còn người Việt tuy cũng có đề cao chữ Tín nhưng nhìn chung vẫn
nghiêng về chữ Tình, chữ Nghĩa nhiều hơn. Như vậy, điểm chung của hai bên là trọng chữ Tín, chữ Tình,
trọng thân quen. Tuy nhiên, trong sự tương đồng vẫn có nét khác biệt, trong khi người Hàn đề cao sự
thân quen, hiểu biết nhau lâu ngày, thì người Việt đặc biệt chú trọng đến sự gắn bó, giúp đỡ, tương trợ
nhau. Trong khi người Hàn thiên về chữ Tín, thì người Việt thiên về chữ Nghĩa. Chính là vì văn hóa Hàn
và văn hóa Việt chịu ảnh hưởng sâu sắc chữ Tín và chữ Nghĩa của Nho giáo.
212
Theo người Hàn, một người bạn chỉ đến với ta khi vui vẻ, thỏa mãn những thú vui của họ thì không
phải là người bạn thực sự, không phải là bạn tốt: 술친구는 친구가 아니다 (Bạn rượu không phải là
bạn).
Bên cạnh đó, trong tục ngữ Hàn còn phản ánh bạn bè đôi khi đối xử với nhau không tốt, không chỉ
phản ánh sự tính toán về tiền bạc mà còn có cả sự giết hại lẫn nhau: 닷돈추렴에 두돈 반 내었다 - Gom
5 tiền trả 2 tiền rưỡi; 닷돈추렴에 두돈 오푼을 내었나 - Gom 5 tiền trả 2 tiền 5 xu; 망둥이 제동무
잡아 먹는다 - Cá bóng ăn thịt bạn.
Tương tự trong tục ngữ Việt, đó là sự tính toán thiệt hơn, sự bội tín, bất nghĩa, sự thay lòng đổi dạ
khi giàu sang, thậm chí là hại nhau: “Làm ơn nên oán, làm bạn thiệt mình”; “Thua trời một vạn không
bằng thua bạn một ly”; “Tin bợm mất bò, tin bạn mất vợ nằm co một mình; “Cùng bạn ăn mày tranh
nhau chiếu dày chiếu mỏng”; “Bạn bè vuốt ve cây nứa” …
Như vậy, quan niệm về bạn xấu của người Hàn và người Việt rất tương đồng, vì tiền bạc, danh lợi
mà nảy sinh sự đố kỵ, tính ích kỷ, ganh ghét dẫn đến làm hại nhau. Có thể nhận thấy, quan hệ bạn bè là
quan hệ dễ dàng hình thành nhất, ít chịu sự ràng buộc, chi phối bởi bất cứ luật lệ nào so với tất cả các
mối quan hệ khác nên cũng dễ thay đổi nhất. Đây cũng là đặc điểm chung dễ nhận thấy trong quan hệ
bạn bè của người Hàn cũng như người Việt.
213
Có thể nói, tính ảnh hưởng, liên quan trong quan hệ bạn bè của người Hàn và người Việt bắt nguồn
từ đặc điểm chung của những cư dân nông nghiệp - luôn có quan hệ mật thiết, tác động lẫn nhau, luôn
cần sự chung tay, giúp sức cho nhau.
4. Kết luận
Thông qua việc tìm hiểu, phân tích so sánh tục ngữ về mối quan hệ bạn bè của người Hàn và người
Việt, có thể khẳng định văn hóa ứng xử của người Hàn so với người Việt có nhiều điểm tương đồng bên
cạnh một vài nét khác biệt. Hai dân tộc Việt Nam và Hàn Quốc có chung một nguồn gốc là sống chủ yếu
bằng nghề nông nghiệp lúa nước. Tuy nhiên, với điều kiện tự nhiên không thuận lợi, người Hàn không
thể gắn kết hoàn toàn với nông nghiệp như người Việt nên tính chất văn hóa nông nghiệp trong văn hóa
Hàn không điển hình bằng văn hóa Việt. Vì vậy, sự tương đồng và khác biệt của hai dân tộc nhiều khi
đan xen lẫn nhau, trong tương đồng có khác biệt và trong khác biệt lại có tương đồng.
Nhìn chung, lối ứng xử trong quan hệ bạn bè của người Hàn cơ bản phần lớn được thể hiện dựa
trên các tiêu chí như Trung, Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín.... Trong đó, người Hàn đặc biệt coi trọng Trung,
Lễ, Trí, Tín. Người Việt cũng có những tiêu chí tương tự người Hàn, tuy nhiên, khác với người Hàn,
người Việt đặc biệt đề cao Nhân, Nghĩa. Trước hết về sự tương đồng, do có sự gần gũi về mặt địa lý, lịch
sử của Hàn Quốc và Việt Nam đối với Trung Quốc nên hai nền văn hóa Hàn Quốc và Việt Nam đều có
sự giao thoa với văn hóa Trung Hoa. Cùng chịu ảnh hưởng Nho giáo nên có nhiều điểm tương đồng về
văn hóa giữa hai dân tộc Hàn và Việt, nhưng mỗi bên tiếp nhận và phát triển văn hóa theo chiều hướng
khác nhau, hình thành nên điểm khác biệt trong sự tương đồng văn hóa. Khi xem xét sự khác biệt trong
tương đồng, thì văn hóa ứng xử của người Hàn và người Việt đều chịu ảnh hưởng Nho giáo nhưng người
Hàn chịu ảnh hưởng sâu đậm hơn người Việt nên tính lễ nghi, tính trọng lý của người Hàn cũng cao hơn
người Việt. Tính trọng tình là điểm chung giữa hai dân tộc. Tuy nhiên, nếu so với người Việt, thì người
Hàn thiên về trọng lý hơn tình, còn người Việt thì ngược lại.
Trong thời hiện đại, mối quan hệ bạn bè trong xã hội Hàn Quốc và Việt Nam đã có nhiều thay đổi
so với truyền thống. Song, bản sắc, cội nguồn văn hóa truyền thống tốt đẹp trong mối quan hệ bạn bè của
hai dân tộc vẫn tồn tại, vẫn hiện hữu. Vì vậy, việc khơi dậy, phát huy những truyền thống ấy là việc làm
rất cần thiết và có ý nghĩa trong xã hội ngày nay. Hiểu rõ về văn hóa của dân tộc Hàn và Việt chắc chắn
sẽ tạo tiền đề, cơ sở cho mối quan hệ của Việt Nam và Hàn Quốc phát triển lên một tầm cao mới.
215
NGHỆ THUẬT XĂM HÌNH TRONG VĂN HÓA NHẬT BẢN
TÓM TẮT
Khi đề cập đến các hình thức trang trí và thay đổi cơ thể trong hệ thống xã hội của hầu hết các nền
văn hóa trên thế giới đều rất phong phú và đa dạng như sơn cơ thể, xỏ lỗ và trang trí bằng mặt nạ, quần
áo hoặc đồ trang điểm,... Tuy nhiên các hình thức này có điểm chung là không lâu dài. Bên cạnh đó, xăm
mình là hình thức trang trí cơ thể vĩnh viễn và được phổ biến rộng rãi trên thế giới từ rất lâu đời trong đó
có Nhật Bản. Trong nghiên cứu này, tác giả tập trung chủ yếu về việc tìm hiểu quá trình hình thành và
phát triển của nghệ thuật xăm hình ở Nhật Bản. Phân tích các thể hiện của hình xăm để thấy sự thay đổi
của văn hóa này từ góc nhìn của lịch sử và xã hội Nhật Bản và quan điểm của xã hội Nhật Bản đối với
hình xăm trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Từ khóa: hình xăm, horimono, nghệ thuật xăm hình, văn hóa Nhật Bản.
1. Dẫn nhập
Nghệ thuật xăm hình hay việc xăm mình đã trở thành một nét văn hóa của nhiều quốc gia trên thế
giới. Tuy nhiên, khi nhắc đến việc xăm mình hoặc người có hình xăm trên cơ thể thì từ xưa đến ngày nay
cũng còn có rất nhiều sự đánh giá trái chiều và có nhiều định kiến của xã hội hiện đại. Cũng giống như
văn hóa trà đạo, kiếm đạo, thư đạo,… cùng các nét văn hóa khác, xăm mình cũng đã và đang là một trong
những nét văn hóa truyền thống của Nhật Bản tồn tại đến thời điểm hiện tại. Trải qua quá trình hình thành
và phát triển theo dòng lịch sử của đất nước, quan điểm và cách tiếp cận của xã hội Nhật bản đối với việc
xăm mình cũng có nhiều sự thay đổi. Trong nghiên cứu này của tác giả, không phải tập trung vào việc
trả lời các câu hỏi như “Tại sao bạn lại xăm mình?”, “Ai đang xăm mình và ai được xăm mình?” hay
“Xăm mình như thế nào?”,… Ở đây, mối quan tâm của tác giả không phải nghiên cứu tìm ra lý do hay
cách thức xăm hình, bởi để trả lời cho các câu hỏi này phải đặt vào thời gian và bối cảnh từng giai đoạn
để phân tích. Điều mà tác giả muốn thực hiện trong nghiên cứu này là việc khái quát lại quá trình hình
thành và phát triển của nghệ thuật xăm hình ở Nhật bản. Ở từng giai đoạn trong lịch sử Nhật bản, văn
hóa xăm mình đã có những thay đổi và chuyển biến như thế nào, các biểu hiện mang tính văn hóa của
hình xăm ra sao, để có thể thấy được một bối cảnh bao quát về nghệ thuật xăm hình. Từ đó, liên hệ với
thực tiễn để tìm hiểu các quan điểm tiêu biểu về việc xăm mình trong xã hội Nhật Bản hiện nay.
Trong nghiên cứu này, tác giả thực hiện phương pháp tổng hợp các công trình nghiên cứu đã được
công bố trước và phương pháp quan sát từ thực tiễn của cá nhân tác giả. Từ đó phân tích dựa trên các tài
liệu tổng hợp và kinh nghiệm thực tiễn để làm sáng tỏ các vấn đề trong nghiên cứu này.
3. Bối cảnh ra đời và phát triển của nghệ thuật xăm hình tại Nhật Bản
Khi bắt đầu nghiên cứu về lịch sử xăm hình từ các quốc gia trên thế giới thì việc xăm hình đã có
từ rất lâu đời và trải qua bề dày của lịch sử. Theo Deter-Wolf (2013) cho rằng, từ các bằng chứng của
khảo cổ học, thông qua các dụng cụ xăm hình và đất được tìm thấy ở miền nam của Châu Phi có thể thấy
khả năng xăm mình đã được thực hiện cách đây từ một 100 nghìn năm trước và hàng loạt các dẫn chứng
khảo cổ từ các quốc gia khác. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này của tác giả không phải khái quát về lịch
sử xăm hình trên thế giới mà chỉ tập trung chính đến lịch sử xăm hình ở Nhật bản từ thời cổ đại.
Hiện nay, cũng có khá nhiều nghiên cứu lịch sử hình xăm ở Nhật bản nhưng chưa có nghiên cứu
nào là khẳng định chính xác hoàn toàn về sự ra đời của hình xăm trên đất nước này. Tuy nhiên, trong
nghiên cứu về lịch sử hình xăm bằng các bằng chứng khảo cổ học của hai tác giả Van Gulik (1982) và
McCallum(1988) đã chỉ ra rằng: Hình xăm ở Nhật bản có thể xuất hiện từ thời kỳ Jomon [縄文時代 ]
(14.000 – 400 TCN) liên tục cho đến ngày nay. Van Gulik còn nhấn mạnh là sự chuyển giao văn hóa
giữa người Jomon, người Ainu và người Nhật ngày nay từ sự giống nhau những hoa văn hình xăm Ainu
với hoa văn hình xăm Nhật Bản (Van Gulik, 1982, tr.259-263). Mặt khác, McCallum thì cho rằng quan
điểm của Van Gulik thiếu bằng chứng mang tính liên kết cụ thể giữa các nền văn hóa khác nhau, cụ thể
là văn hóa của người Jomon, người Ainu và người Nhật ngày nay, bởi McCallum đưa ra quan điểm này
dựa trên thuyết nghiên cứu của ông về nguồn gốc người Nhật ngày nay là cưỡi ngựa băng qua bán đảo
Triều Tiên từ Trung Quốc. Do vậy, người Nhật ngày nay, không liên quan đến người Jomon và Ainu
(McCallum, 1988, tr.133).
Do đó, lịch sử nguồn gốc hình xăm ở Nhật Bản được xem như là một mảnh ghép từ các phong tục
khác nhau. Tuy nhiên, dù bất kể là quan điểm nào, việc giao thoa giữa các nền văn hóa khác nhau cũng
đã có những tác động đáng kể đến ý nghĩa nguồn gốc lịch sử và văn hóa hình xăm ở Nhật Bản.
Tiếp theo giai đoạn thời kỳ Kofun [古墳時代] (từ năm 250 đến năm 538), đã tìm thấy đồ gốm hình
trụ được gọi là haniwa cũng được xem là bằng chứng của hình xăm Nhật Bản ở thời kỳ này. Có nhiều
loại haniwa được tìm thấy như mô hình nhà ở, động vật và đồ vật sử dụng hàng ngày (Van Gulik, 1982,
tr.264). Tuy nhiên, từ cuối thời kỳ Kofun cho đến đầu thời kỳ Edo [江戸時代] (Từ năm 1600 đến năm
1868) đã có rất ít bằng chứng nghiên cứu về hình xăm trong giai đoạn này. Từ thời kỳ Edo, hình xăm
truyền thống Nhật bản được biết cho đến ngày nay thực sự xuất hiện và có nhiều sự thay đổi trong văn
hóa Nhật Bản. Đây cũng là giai đoạn được xem là mảnh đất màu mỡ của sự phát triển hình xăm.
Thế nhưng, việc kết thúc của Mạc phủ Tokugawa [徳川幕府] và việc mở cửa của Nhật Bản vào
năm 1868, mở ra thời kỳ Minh Trị [明治時代] – thời kỳ đặc trưng của sự hiện đại hóa ở Nhật Bản bởi sự
giao thoa của văn hóa Đông – Tây. Trong thời kỳ này thì cũng đã có lệnh cấm chính thức về việc xăm
hình theo Luật Minh trị (1868) và sang đến thế kỷ XX thì những người thực hiện việc xăm hình sẽ bị tịch
thu dụng cụ hành nghề và có thể bị phạt tù.
Qua đó có thể thấy, hình xăm ở Nhật Bản đã có từ rất sớm và đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau.
Bởi trong từng giai đoạn lịch sử, bối cảnh của xã hội mà văn hóa của một quốc gia sẽ có nhiều sự chuyển
dịch từ tích cực thành tiêu cực và ngược lại. Tuy nhiên, dù góc nhìn xã hội có sự thay đổi với văn hóa đó
thế nhưng cũng phải thừa nhận sự tồn tại và phát triển của văn hóa đó và những giá trị văn hóa đã tạo
nên một bức tranh đa văn hóa cho một dân tộc.
217
4. Sự biến đổi của văn hóa xăm mình trong xã hội Nhật Bản
Từ bối cảnh tổng quan ở phần trên, tác giả chỉ khái quát sơ lược về sự xuất hiện và quá trình phát
triển của văn hóa xăm mình qua từng giai đoạn. Trong nội dung này, sẽ phân tích rõ văn hóa xăm mình
đã có những sự chuyển mình thay đổi như thế nào và quan điểm của người dân Nhật Bản về văn hóa xăm
mình ra sao từ góc nhìn của xã hội.
218
Từ giữa thế kỷ XVII, ở Nhật Bản xuất hiện một loại hình xăm gọi là kishobori [起請彫] có nghĩa
là đây được xem là hình xăm cam kết và là tiền thân để phát triển của những hình xăm phức tạp hơn
horimono [彫り物] bởi hình xăm này chỉ bao gồm một chấm nhỏ gợi nhớ đến nốt ruồi được đặt trên
bàn tay giữa ngón cái và ngón trỏ giữa ở vị trí hai bàn tay gặp nhau khi chắp lại. Những hình xăm cam
kết này thường được tìm thấy trong số những cô gái điếm muốn thể hiện sự tận tâm với người yêu hoặc
khách hàng thân quen. Ngoài ra, tính lâu dài của hình xăm còn được cho là biểu thị tính lâu dài và lòng
sùng kính của kỹ nữ với nghề bán hoa. (Seigle,1993, tr.194)
4.4 Hình xăm Yakuza [やくざ] thể hiện lòng trung thành với tổ chức
Trong một nghiên cứu về yakuza của tác giả Jacob Laz từ góc độ nhân học văn hóa và đã viết
cuốn “Nhân chủng học văn hóa của Yakuza” ông đã nói rằng “nếu một yakuza tập sự chi nhiều tiền để
xăm một hình, tức là anh ta đã tạo dựng, củng cố và đồng thời thể hiện địa vị của mình (bởi xăm hình
thời bấy giờ rất tốn tiền) và là dấu ấn vĩnh cửu của sự tồn tại. Một yakuza được khắc trên cơ thể thì vị
trí của anh ta trong nhóm sẽ tăng lên cũng như sẽ được thăng tiến khi chịu đựng để trải qua nổi đau của
xăm mình” (được dẫn bởi Yamamoto, 2005).
Nhìn chung, văn hóa xăm mình ở Nhật bản đã tồn tại và phát triển cho đến tận ngày nay. Sự tiếp
nhận của xã hội Nhật Bản cũng đã có nhiều sự thay đổi về văn hóa này. Qua đây cũng có thể thấy rõ hơn,
hình xăm Nhật bản đã thể hiện nhiều khía cạnh khác nhau về quan điểm của xã hội Nhật từ cổ-cận hiện
đại, từ việc xem hình xăm là một nét đẹp không thể thiếu đến việc hình xăm trở thành hình phạt, bị cấm
và còn bị nhiều giới hạn trong sinh hoạt công đồng ở thời điểm hiện tại.
5. Quan điểm về xăm mình trong xã hội Nhật Bản hiện nay
Ngày nay, văn hóa xăm mình tại Nhật cũng đã có nhiều chuyển biến theo chiều thay đổi của hội
nhập. Tuy cũng còn nhiều quan điểm kỳ thị và phản đối hình xăm như việc xem người có hình xăm
thường được gán cho mối liên hệ với tội ác và những hoạt động của các băng đảng phi pháp như yakuza.
Những người sở hữu hình xăm bị cấm đến các nơi công cộng, khu nghỉ dưỡng suối nước nóng, một số
bãi biển, thậm chí một số phòng tập thể dục và hồ bơi cũng không đón khách xăm mình. Thế nhưng trong
những năm gần đây, cụ thể trong một nghiên cứu của McCabe (2005) đã nhận định hình xăm hiện nay
được coi là mốt ở Nhật Bản theo xu hướng toàn cầu bởi do sự ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, đặc
biệt là văn hóa Mỹ đã làm tăng sự phổ biến của hình xăm. Cụ thể là nhạc Pop của Mỹ đã có ảnh hưởng
lớn đến văn hóa giới trẻ Nhật Bản bởi sự bắt chước theo phong cách bao gồm quần áo, phụ kiện, kiểu
tóc và hình xăm. Cùng quan điểm với McCabe, thì Bradshaw (2007) cũng đưa ra ý kiến rằng hiện nay
những người nổi tiếng ở Nhật Bản có hình xăm tự tin xuất hiện trên các phương tiện truyền thông và giới
trẻ cũng có xu hướng chạy theo phong cách đó. Từ các thực trạng trên có thể thấy hình xăm đang dần
phát triển trở lại ở Nhật Bản và theo một diện mạo khác so với truyền thống.
Bởi chính sự pha trộn và ảnh hưởng của văn hóa phương Tây nên hình xăm của Nhật Bản hiện đại
cũng khác nhiều so với trước, trong giới trẻ Nhật Bản hiện nay, xuất hiện kiểu xăm “hình xăm một điểm”
có nghĩa là chỉ xăm một điểm trên cơ thể thay vì xăm kín như truyền thống. Ngoài ra còn có các hình
thức nghệ thuật cơ thể khác như xỏ lỗ và hình xăm tạm thời (hình xăm dán) cũng đang dần trở nên phổ
biến hiện nay (Bradshaw, 2007).
Quan điểm ngày nay về sự xăm mình khác nhiều so với các biểu hiện của truyền thống như đề cập
phần trên, xăm mình và các hình thức sửa đổi cơ thể khác đã trở thành một phương tiện để khẳng định
quyền tự quyết, tự thể hiện bản thân, người chọn việc xăm mình như một hình thức nghệ thuật, thời trang
và lối sống cá nhân hoặc cũng có người xăm mình để lưu giữ những kỷ niệm trên da. Ngoài ra, cũng
không ít trường hợp gặp phải bởi những vết thâm và sẹo trên da không muốn có nên đã lựa chọn dùng
hình xăm để che đi (Yamada, 2008).
Trước sự phát triển của xã hội và sự toàn cầu hóa như ngày nay, hầu hết các giá trị văn hóa điều có
sự biến đổi giữ truyền thống và hiện đại. Trong một bài báo của tác giả Moto (2007) chỉ ra ý nghĩa xã
hội gắn liền với hình xăm, tác giả cho biết ngày càng nhiều Yakuza cố gắng xóa bỏ hình xăm bị kỳ thị
219
để phù hợp với xã hội hiện đại trong khi hình xăm đã trở thành một tiểu văn hóa ở Nhật Bản.
6. Kết luận
Văn hóa xăm mình có một lịch sử lâu đời và phức tạp ở Nhật Bản. Trong nghiên cứu này tác giả
đã khái quát sơ lược về lịch sử hẹp trong phạm vi của hình xăm nhưng cũng phần nào cho thấy lịch sử
của văn hóa xăm mình ở Nhật Bản bị phân mảnh đa dạng: từ phong tục tập quán, hình phạt trong thời cổ
đại đến các dấu hiệu của tội phạm sau này. Ngoài ra, hình xăm còn thể hiện cho nghề gái bán hoa, lòng
trung thành với tổ chức. Tuy nhiên, dưới sự phát triển của xã hội theo xu hướng toàn cầu hóa và có nhiều
sự giao thoa văn hóa của nhiều quốc gia nên đã dẫn đến quan điểm về văn hóa xăm mình trong xã hội
Nhật Bản hiện nay cũng đã có nhiều điểm khác so với truyền thống. Tuy cũng còn nhiều điều hạn chế
cho những người có hình xăm tại Nhật từ góc nhìn của xã hội và quan điểm về văn hóa xăm mình cũng
không còn quá gây gắt. Bởi chính sự ảnh hưởng của văn hóa phương Tây mà ngày nay, xăm mình được
giới trẻ tiếp nhận như một nghệ thuật và nét riêng theo sở thích và cá tính chứ không còn liên quan đến
những quan điểm về hình xăm trong xã hội truyền thống.
220
NGỮ NGHĨA ĐỘNG TỪ いる (IRU) TRONG TIẾNG NHẬT
TÓM TẮT
Động từ là một trong những đơn vị từ loại phức tạp trong nhiều ngôn ngữ nói chung và tiếng
Nhật nói riêng. Động từ tiếng Nhật là từ loại có quy định về hình thái cụ thể và có nhiều dạng thức
thay đổi khác nhau tùy vào ý nghĩa ngữ pháp mà nó biểu thị và tùy thuộc vào sự kết hợp cùng các
đơn vị từ vựng khác trong câu. Động từ tiếng Nhật do ý nghĩa, khả năng biến đổi và kết hợp mà nó
được phân chia thành nhiều nhóm động từ khác nhau tùy vào các tiêu chí phân loại. Trong bài nghiên
cứu này chúng tôi tiến hành phân loại động từ tiếng Nhật dựa trên chức năng và tính chất sự tình để
làm rõ ngữ nghĩa của động từ いる (iru).
Từ khóa: động từ, tồn tại, trạng thái, tiếng Nhật.
1. Dẫn nhập
Theo khảo sát của Sở nghiên cứu chữ quốc ngữ quốc gia Nhật Bản (1971) bằng hình thức khảo sát
tần suất xuất hiện của các động từ trên các bài báo thì động từ いる[iru] xếp hạng 4 cùng với ある [aru]
xếp hạng 5. Bên cạnh đó trong khảo sát Từ vựng tiếng Nhật cần thiết trong giảng dạy (1984) thì cả hai
động từ này đều thuộc nhóm được đánh giá cao về mức độ cần thiết và quan trọng trong hoạt động giảng
dạy tiếng Nhật. Từ đó cho thấy, hai động từ biểu thị ý nghĩa tồn tại này trong tiếng Nhật cực kì quan
trọng đối với người học tiếng Nhật. Động từ いる[iru] (tồn tại con người/ động vật có sự sống) và ある
[aru] (tồn tại vật thể/ sự kiện) là hai trong ba động từ thuộc nhóm động từ Stative (状態動詞) – động từ
biểu thị trạng thái trong tiếng Nhật, đồng thời bản thân nó cũng vừa là một Động từ thực (本動詞) và là
một Động từ bổ trợ (補助動詞).
2. Cơ sở lý luận
2.1 Tổng quan về động từ trong tiếng Nhật
Trong bất kì ngôn ngữ nào, động từ luôn đóng vai trò quan trọng trong hệ thống từ loại. Cũng như
các ngôn ngữ khác, đặc trưng của động từ trong tiếng Nhật là biểu thị ý nghĩa hành động, động tác, trạng
thái, … của một chủ thể nào đó. Khác với tiếng Việt là ngôn ngữ mà động từ được nhận diện căn cứ vào
mặt ý nghĩa và khả năng kết hợp với các yếu tố khác, trong tiếng Nhật, động từ là từ loại có hình thái đặc
thù, dùng để biểu thị các nét nghĩa hành động, thao tác, tồn tại, trạng thái... Động từ tiếng Nhật ở dạng
nguyên thể (hay còn gọi là dạng từ điển) được cấu tạo từ một bộ phận thân từ (căn tố) mang ý nghĩa từ
vựng và một bộ phận cuối từ (biến tố) là một hình vị thuộc dòng phát âm「う」(u), biến tố này có chức
năng linh hoạt biến đổi tùy vào vị trí của động từ trong câu và tùy vào sự kết hợp của động từ với các từ
loại khác. Dưới dạng văn tự, bộ phận thân từ được viết bằng chữ Hán, hoặc có một phần là chữ Hán và
một phần là chữ Hiragana, còn bộ phận cuối từ luôn luôn được viết bằng chữ Hiragana.
Động từ tiếng Nhật có đặc điểm đặc trưng đó là phần biến tố có thể biến đổi thành nhiều dạng thức
khác nhau nhằm thể hiện các ý nghĩa ngữ pháp khác nhau. Động từ tham gia vào nhiều vị trí trong câu
như làm vị trí vị từ, chủ từ, hay là một thành phần bổ ngữ trong câu.
Động từ tiếng Nhật có thể được phân loại thành nhiều nhóm động từ dựa trên các cơ sử như :
Đặc điểm ý nghĩa (Tự động từ - Tha động từ); Đặc điểm biến đổi (Động từ ngũ đoạn); Chức năng
của động từ (Động từ thực – Động từ bổ trợ); ... Trong bài nghiên cứu này chúng tôi tiến hành phân
loại động từ tiếng Nhật dựa trên chức năng và tính chất sự tình để làm rõ ngữ nghĩa của động từ い
221
る (iru).
2.2 Phân loại động từ tiếng Nhật dựa trên chức năng
Các nhà nghiên cứu Nhật ngữ đã chỉ ra rằng, dựa trên hoạt động trong câu và khả năng kết hợp với
các động từ khác, có thể chia động từ thành hai loại: động từ thực (本動詞 (principal verb) - hondoushi
) và động từ bổ trợ (補助動詞 (subsidiary verb) - hojodoushi).
Bảng 1 Ví dụ cho Động từ thực và Động từ bổ trợ
本動詞 – Động từ thực 補助動詞 – Động từ bổ trợ
STT Động từ
(Principal verb) (Subsidiary verb)
1.1 部屋に人がいる 1.2 公園で遊んでいる
VD1 いる (heya ni hito ga iru) (kouen de asonde iru)
Trong phòng có người Đang chơi (trò chơi) trong công viên
2.1 テレビをみる 2.2 やってみる
VD2 みる (terebi wo miru) (yatte miru)
Xem tivi Làm thử
3.1 机の上に本をおく 3.2 机の上に本をおいておく
VD3 おく (Tsukue no ue ni hon wo oku) (Tsukue no ue ni hon wo oite oku)
Đặt quyển sách lên bàn Đặt sẵn quyển sách lên bàn
4.1 荷物をしまう 4.2 寝てしまう
VD4 しまう (nimotsu wo shimau) (nete shimau)
Đóng hành lí Lỡ ngủ mất
5.1 やることがある 5.2 書いてある
VD5 ある (yarukoto ga aru) (kaite aru)
Có việc cần làm Có viết sẵn
Trong đó, Động từ thực là các động từ biểu thị một hay một số nghĩa nào đó, xuất hiện trong câu
một cách riêng lẻ còn Động từ bổ trợ là các động từ có sự chuyển hóa về mặt ý nghĩa so với nghĩa gốc,
sau khi kết hợp cùng một động từ thực khác. Các động từ bổ trợ này có chức năng biểu thị các ý nghĩa
ngữ pháp chỉ thời, thể, tình thái ... cho động từ thực mà nó kết hợp cùng. Tuy nhiên, nếu xuất hiện một
cách riêng lẻ, các động từ bổ trợ này vẫn hoạt động với tư các là một động từ thực.
Xét các ví dụ ta thấy, động từ いる (iru) trong VD 1.1 khi đứng riêng lẻ trong câu với tư cách là
một động từ thực có nghĩa là “có” chỉ sự tồn tại của con người/động vật trong không gian, tuy nhiên ở
VD 1.2 ta có いる (iru) xuất hiện trong sự kết hợp cùng động từ 遊ぶ (asobu) tạo ra kết cấu 遊んでいる
(asonde-iru) biểu thị ý nghĩa thời hiện tại tiếp diễn “đang chơi (trò chơi)” .
Hay trong VD 2.1 động từ みる(miru) đứng riêng lẻ trong câu biểu thị ý nghĩa “nhìn/ xem” thì trong
VD 2.2 lại kết hợp cùng động từ thực やる (yaru) tạo thành kết cấu やってみる (yatte-miru) có nghĩa ngữ
pháp là “làm thử”.
Tương tự như vậy, động từ おく (oku) ở VD3.1 khi xuất hiện với vai trò là động từ thực thì mang
nghĩa là “đặt /để”, nhưng khi xuất hiện với vai trò động từ bổ trợ khi kết hợp với một động từ thực cho
ra kết cấu おいておく (oite-oku) ờ VD 3.2 biểu thị ý nghĩa “để sẵn (nhằm chuẩn bị cho hoạt động tiếp
theo)”. VD 3.2 có động từ bổ trợ và động từ thực là cùng một động từ おく (oku) tuy nhiên lại mang hai
chức năng và ý nghĩa khác nhau khi được kết hợp cùng nhau. Trường hợp này cũng là trường hợp khá
phổ biến trong cách kết hợp giữa động từ thực và động từ bổ trợ trong tiếng Nhật.
222
Các động từ bổ trợ luôn đứng sau các động từ thực đã được chuyển về dạng て (te) của động từ
tạo thành kết cấu V1 -て V2 với V1 là động từ thực chứa nội dung sự tình và V2 là động từ bổ trợ có chức
năng xác định nghĩa ngữ pháp như tình thái, thể cho các động từ thực.
2.3 Phân loại động từ tiếng Nhật dựa trên nội dung sự tình
Vendler (1967) phân loại động từ tiếng Anh thành 4 nhóm căn cứ trên nội dung sự tình mà các
động từ biểu thị, bằng các trạng từ chỉ thời gian, thời của động từ và quan hệ logic (logical entailments)
trong câu. Dowty (1979) đã phát triển hơn về lý thuyết này và 4 nhóm động từ bao gồm :
1/ Statives (nhóm biểu thị sự tình tĩnh) : desire (ao ước), want (muốn), love (yêu), believe (tin
tưởng), own (sở hữu), ...
2/ Activities ( nhóm biểu thị sự tình hoạt động/ sự tình đoạn tính vô đích) : run (chạy), walk (đi
bộ), swim (bơi), ...
3/ Accomplishment (sự tình đoạn tính hữu đích): paint a picture (vẽ tranh), make a chair (đóng
ghế), write a letter (viết thư), recite a poem (ngâm thơ), ...
4/ Achievements ( nhóm biểu thị sự tình điểm tính hữu đích): recognize, realize, die, lose, find ...
Kindaichi (1954) đã thực hiện một nghiên cứu độc lập với Vendler và cho ra kết quả phân chia
động từ tiếng Nhật thành 4 nhóm tương tự. Tuy nhiên điểm đặc trưng trong nghiên cứu của Kindaichi đó
là phân chia nhóm động từ tiếng Nhật dựa trên cách sử dụng và ý nghĩa của kết cấu V て-いる (te-iru) của
động từ. Kindaichi cũng tiến hành phân loại động từ thành 4 nhóm tương tự như Vendler tuy nhiên có
một chút khác biệt trong sự phân loại này đối với động từ tiếng Nhật. Điểm khác biệt đầu tiên, đó là có
2 nhóm động từ chỉ trạng thái, một nhóm là Statives I (Nhóm động từ biểu thị trạng thái I) và nhóm còn
lại là Statives IV (Nhóm động từ biểu thị trạng thái IV). Điểm khác biệt còn lại đó là không có sự phân
chia nhóm động từ Accomplishment (sự tình đoạn tính hữu đích). Ta có sự phân loại được mô tả cụ thể
như sau:
1/ Statives I (nhóm biểu thị trạng thái I):いる (iru) (biểu thị sự tồn tại của người và động vật – có
sự sống), ある (aru) (biểu thị sự tồn tại của vật – không có sự sống).
2/ Activities (nhóm biểu thị sự tình hoạt động/ sự tình đoạn tính vô đích) :はしる (hasiru - chạy), お
よぐ(oyogu - bơi), ...
3/ Achievements ( nhóm biểu thị sự tình điểm tính hữu đích):いく (iku – đi), しぬ(shinu - chết).
4/ Stative IV (nhóm biểu thị trạng thái IV) : にる(niru – giống/tương tự), そびえる (sobieru – vượt
hẳn lên/ cao hơn)
Dựa theo sự phân loại trên, ta có các động từ thuộc nhóm Stative I (状態動詞 – joutai doushi)
không thể biến đổi sang kết cấu ている (te-iru). Tương tự như các động từ thuộc nhóm Stative trong tiếng
Anh, các động từ tiếng Nhật thuộc nhóm Stative I được mô tả bằng đặc điểm “biểu thị các sự tình có sự
khởi đầu và kết thúc (open-endedness)”. Tuy nhiên các động từ này trong tiếng Nhật lại rất hữu hạn, chỉ
gồm các động từ いる (iru) - biểu thị sự tồn tại của người và động vật – có sự sống, ある (aru) - biểu thị
sự tồn tại của vật – không có sự sống, 要る(iru) – cần (be in need).
4. Một số vấn đề thường gặp trong quá trình chuyển dịch ngữ nghĩa của động từ いる
và hướng khắc phục
Do sự khác biệt về mặt loại hình ngôn ngữ, Tiếng Việt là ngôn ngữ đơn lập, lấy ý nghĩa của từ và
sự sắp xếp từ làm cơ sở tạo lập câu, trong khi đó tiếng Nhật là loại hình ngôn ngữ chắp dính, lấy sự biến
đổi cấu tạo từ và kết hợp từ làm cơ sở tạo lập câu, dẫn đến sự khó tiếp thu của người Việt khi học tiếng
Nhật. Bên cạnh đó, trong quá trình học tiếng Nhật, người Việt không những chỉ dựa trên bề mặt ý nghĩa
để phân biệt và sử dụng từ, họ còn cần phải lưu ý đến yếu tố từ loại, và các tiểu loại của từ loại. Cụ thể,
trường hợp sử dụng động từ, người học cần biệt được sự tình mà mình diễn đạt là sự tình miêu tả trạng
thái hay miêu tả hoạt động để lựa chọn động từ phù hợp. Vì trong tiếng Nhật, các động từ miêu tả hoạt
động và miêu tả trạng thái là 2 tiểu loại có tính chất kết hợp khác nhau và quy ước về cách sử dụng khác
nhau. Chẳng hạn, đối với sự tình “Tôi đang sinh sống tại Nhật”, khi tiến hành chuyển dịch sự tình này
sang tiếng Nhật, ta cần xác định rõ “sinh sống” là trạng thái hay là hoạt động. Sau khi xác định “sinh
sống” là một dạng hoạt động, ta tiến hành lựa chọn động từ phù hợp như là động từ “生活する” [seikatsu
suru] (sinh sống, sinh hoạt), “住む” [sumu] (cư trú). Tiếp theo cần xác định tính chất trên trục thời gian
của sự tình, trong trường hợp trên là sự tình đang diễn ra dưới dưới góc quan sát của người phát ngôn là
“tôi”. Chính vì thế, khi chuyển dịch câu trên thành tiếng Nhật ta sẽ có câu hoàn chỉnh là:
VD 11: 私は日本で生活している。
Tạm dịch: Tôi đang sinh sống tại Nhật.
VD 12: 私は日本に住んでいる。
Tạm dịch: Tôi đang cư trú tại Nhật.
Hoặc trường hợp khi được yêu cầu chuyển nét nghĩa “Đối với cô ấy, ở thành thị hay ở nông thôn
đều được” thì trường hợp này, từ “ở” trong Tiếng Việt có nhiều lớp nghĩa, cần người học đưa ra phán
đoán, “ở” là “tồn tại trong không gian, thời gian” hay là “sinh hoạt, cư trú”. Bởi tương đương tron tiếng
Việt, nếu xét “ở” là “tồn tại” ta có động từ “いる” là động từ trạng thái không chịu ảnh hưởng của yếu tố
thời gian, trong khi đó, nếu xét “ở” là “sinh hoạt, cư trú” thì lúc này tương ứng trong tiếng Nhật là “生
活する” hay “住む ”, là 2 động từ biểu thị hoạt động có chứa tính chất của thể ngữ pháp, tức chịu ảnh
hưởng của người phát ngôn và thời gian diễn ra sự tình. Đối với câu “Đối với cô ấy, ở thành thị hay ở
nông thôn đều được” có ý đề cập đến điều kiện sống của 2 nơi,1 nơi là đô thị tấp nập và 1 nơi là hẻo lánh
nghèo nàn, nếu không có các yếu tố khác tác động, có thể xem như câu trên thiêng về biểu thị nơi sinh
sống. Vì vậy ta có thể lựa chọn cách dịch như sau:
225
VD 13: 彼女にとって、都市に住んでいるか、それとも田舎に住んでいるかということは、どうでも良いこ
とだ。
Tạm dịch: Đối với cô ấy, sống ở thành thị hay sống ở nông thôn, cái nào cũng ổn cả.
Tuy nhiên, trường hợp chuyển dịch nét nghĩa “Tôi ở văn phòng đến 4 giờ chiều, anh cứ đến nhé !”,
thì trường hợp “ở” này cho thấy “sự tồn tại của chủ thể” trong không gian “văn phòng” và thời gian “đến
4 giờ chiều”. Lúc này ta cần lựa chọn động từ tồn tại là “いる”. Và động từ này là động từ không chịu tác
động của thời gian diễn ra sự tình tại thời điểm phát ngôn, nên dù sự tình trên là tình trạng kéo dài của
trạng thái tồn tại trong không gian, ta không không cần phải chuyển đổi về dạng ている (teiru) của thể
ngữ pháp. Ta có cách dịch tương ứng như sau:
VD 14: 私は午後4時まで事務所にいるから、来てください。
Tạm dịch: Vì tôi ở văn phòng đến 4h chiều nên anh cứ đến nhé.
Tại đây, việc quan trọng trước khi học các cú pháp liên quan đến động từ “いる” ở trình độ sơ cấp,
người học cần phân biệt được tất cả các nét nghĩa mà động từ này biểu thị, hiểu được vị trí của động từ
này trong sự phân chia động từ tiếng Nhật để có thể lựa chọn hướng chuyển dịch phù hợp.
Kết luận: Bài nghiên cứu đã chỉ ra các nét nghĩa mà động từ いる (iru) biểu thị với vai trò là một
động từ thực và chức năng của いる (iru) khi là một động từ bổ trợ. Việc hiểu rõ ý nghĩa và các trường
hợp sử dụng của động từ này là bước đệm quan trọng trong kiến thức tiếng Nhật ở bậc sơ cấp, nhưng là
nền tảng để kết nối với các kiến thức ở bậc cao hơn.
226
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
KỸ NĂNG PHIÊN DỊCH TIẾNG NHẬT
TẠI KHOA NHẬT BẢN HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HUTECH
Hồ Tố Liên*
Khoa Nhật Bản học, Trường Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh
*Tác giả liên hệ: Điện thoại: 0913 936 091; Email: ht.lien@hutech.edu.vn
TÓM TẮT
Việc giảng dạy kỹ năng phiên dịch cho sinh viên ngành Ngôn ngữ Nhật phải dựa trên các lý thuyết
dịch thuật và phương pháp giảng dạy cơ bản về kỹ năng dịch thuật, đồng thời còn phải thể hiện được một
cách đầy đủ nhất những đặc trưng của tiếng Nhật như kiểu hình ngôn ngữ, cấu trúc cú pháp cũng như
nguyên tắc về văn hóa giao tiếp. Bài viết tập trung thảo luận các vấn đề về mục tiêu giảng dạy, đề xuất
một số phương pháp giảng dạy, việc biên soạn giáo trình trong giảng dạy kỹ năng phiên dịch cho sinh
viên ngành Ngôn ngữ Nhật. Giảng viên cần lựa chọn các phương pháp giảng dạy có thể phát huy vai trò
hướng dẫn của giảng viên và vai trò chủ thể của sinh viên, giúp sinh viên có trạng thái học tập tốt nhất,
nâng cao tính chủ động và tích cực học tập của sinh viên, bồi dưỡng cho sinh viên năng lực sáng tạo.
Từ khóa : chuyển mã ngôn ngữ, dịch thuật, kỹ năng dịch, phiên dịch.
1. Tổng quan
Trong chương trình đào tạo của Khoa Nhật Bản học hiện nay, Biên - phiên dịch là một trong những
chuyên ngành quan trọng của ngành Ngôn ngữ Nhật. Việc giảng dạy kỹ năng biên - phiên dịch cho sinh
viên ngành Ngôn ngữ Nhật phải dựa trên các lý thuyết dịch thuật và phương pháp giảng dạy cơ bản về
kỹ năng biên phiên dịch, đồng thời còn phải thể hiện được một cách đầy đủ nhất những đặc trưng của
tiếng Nhật như kiểu hình ngôn ngữ, cấu trúc cú pháp cũng như nguyên tắc về văn hóa giao tiếp. Bài viết
tập trung thảo luận các vấn đề về việc đề xuất một số phương pháp giảng dạy trong việc giảng dạy kỹ
năng phiên dịch cho sinh viên ngành Ngôn ngữ Nhật.
Qua việc học tập các học phần Phiên dịch tiếng Nhật sơ cấp và Phiên dịch tiếng Nhật trung cấp,
sinh viên có thể chuyển hóa các kiến thức tiếng Nhật đã được học trong các môn học khác thành năng
lực ứng dụng tiếng Nhật trong thực tế của ngành nghề phiên dịch. Có thể nói, hai học phần kỹ năng Phiên
dịch tiếng Nhật này là cơ sở giúp sinh viên ôn tập, củng cố các kiến thức tiếng Nhật đã học và nâng cao
kỹ năng sử dụng tiếng Nhật hiện tại của sinh viên. Việc giảng dạy kỹ năng phiên dịch cho sinh viên
ngành Ngôn ngữ Nhật nhằm thực hiện hai mục tiêu đào tạo: Một là, nâng cao trình độ tiếng Nhật của
sinh viên bằng phương pháp giảng dạy chuyên sâu về kỹ năng dịch thuật của Biên – Phiên dịch. Hai là,
giúp sinh viên nâng cao năng lực chuyển mã song ngữ (năng lực biên phiên dịch).
Trước đây, từ năm học 2017 đến 2021, trong 3 tiết đầu buổi học, theo mục tiêu trọng tâm của từng
bài học được xây dựng (CLO), các giảng viên thường tiến hành dạy phiên dịch từ tiếng Nhật sang tiếng
Việt và trong 2 tiết còn lại nửa sau của buổi học thì dạy phiên dịch tiếng Việt sang tiếng Nhật. Thông
thường thì giáo viên thường dành nhiều thời gian cho phần dịch ra tiếng Việt hơn là cho phần dịch ra
tiếng Nhật, và thường dạy phiên dịch theo các bài task thiết kế cho các học phần môn Nghe 1 – 2 – 3 –
4 tiếng Nhật trước đó. Điều này dẫn đến hiệnn trạng bất cập khi giáo trình phiên dịch không có điểm
mới, phương pháp giảng dạy theo lối mòn và khiến giờ học phiên dịch đối với sinh viên trở thành môn
Nghe nâng cao chứ không phải môn phiên dịch, do đó làm sai lệch mục tiêu giảng dạy cũng như chuẩn
đầu ra của học phần phiên dịch.
5. Kết luận
Việc giảng dạy kỹ năng phiên dịch ở các trường đại học hoặc các trung tâm đào tạo ngoại ngữ hiện
nay có sự đa dạng về môn học (như Lý thuyết dịch, Thực hành dịch, Kỹ năng phiên dịch,…) và nội dung
(như thương mại, tin tức, văn bản hành chính…). Tuy nhiên, do hạn chế về đội ngũ giảng dạy cũng như
trình độ phiên dịch thực chiến của giảng viên, các học phần về kỹ năng phiên dịch hiện nay vẫn chưa thể
đáp ứng hoàn toàn nhu cầu của người học. Công tác giảng dạy biên phiên dịch cho sinh viên ngành Ngôn
ngữ Nhật còn phải tiếp tục nghiên cứu, hướng đến mục tiêu giảng dạy biên phiên dịch như một ngành
nghề chuyên nghiệp. Do đó, việc xây dựng chương trình giảng dạy có chuẩn đầu ra đáp ứng thực tiễn,
việc biên soạn giáo trình chất lượng, sử dụng phương pháp giảng dạy hợp lý để nâng cao năng lực biên
phiên dịch của sinh viên, phát huy tính chủ động, tích cực và sáng tạo của sinh viên. Đồng thời, đa dạng
hoá phương thức kiểm tra, đánh giá, tìm kiếm các phương pháp kiểm tra, đánh giá hiệu quả và khách
quan.
230
phiên dịch bậc đại học. Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 346
– 356.
5. Nguyễn Thị Như Ngọc, Nguyễn Thị Kiều Thu, Lê Thị Ngọc Ánh. (2015).Khảo sát thực
trạng hoạt động đào tạo biên phiên dịch tiếng Anh tại một số trường đại học tại Việt Nam hiện nay. NXB
Đại học Quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh.
231
LỤC THẬP HOA GIÁP TRONG LỊCH Á ĐÔNG
VÌ SAO THỎ LẠI THÀNH MÈO?
TÓM TẮT
Trong bài nghiên cứu này, người viết muốn đề cập đến một cách tính thời gian (giờ, ngày, tháng)
đặc trưng của các quốc gia Đông Á, trong đó tập trung thảo luận một chi tiết khác biệt rất thú vị đã và sẽ
còn được tranh luận sôi nổi trong giới học giả và nghiên cứu văn hóa cũng như ngôn ngữ. Cho đến nay,
một số giả thuyết và câu trả lời đã được đưa ra, nhưng có vẻ chúng vẫn chưa thỏa mãn những câu hỏi
quanh sự khác biệt này.
Từ khóa: can – chi, con giáp, thỏ/mèo.
232
Chi (支) hay còn gọi là Địa Chi (地支) hay Thập Nhị Chi (十二支) do có đúng mười hai yếu tố.
Đây là mười hai từ chỉ 12 con vật của hoàng đạo Trung Quốc, được dùng để chỉ phương hướng, bốn mùa,
ngày, tháng, năm và giờ ngày xưa (gọi là canh: gấp đôi giờ hiện đại). Mười hai chi bao gồm: Tý (chuột),
Sửu (trâu/bò), Dần (hổ), Mão (thỏ/mèo), Thìn (rồng), Tỵ (rắn), Ngọ (ngựa), Mùi (dê/cừu), Thân (khỉ),
Dậu (gà), Tuất (chó), Hợi (heo / lợn rừng). Việc liên kết các yếu tố liên quan đến cuộc sống con người
với Chi là rất phổ biến ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á.
Ta có bản tóm lược của Chi như dưới đây:
Thứ Hán Hán- Bính Âm - Tháng Giờ (hệ
Con giáp Hướng Mùa
tự tự Việt âm Dương âm lịch 24)
11 (đông
1 子 Tý zǐ Dương chuột 0° (Chính Bắc) đông 23 - 01
chí)
30° (Bắc Đông
2 丑 Sửu chǒu Âm trâu bò đông 12 01 - 03
Bắc)
60° (Đông
3 寅 Dần yín Dương hổ xuân 1 03 - 05
Đông Bắc)
90° (Chính 2 (xuân
4 卯 Mão mǎo Âm mèo thỏ xuân 05 - 07
Đông) phân)
120° (Đông
5 辰 Thìn chén Dương rồng xuân 3 07 - 09
Đông Nam)
150° (Nam
6 巳 Tỵ sì Âm rắn hè 4 09 - 11
Đông Nam)
180° (Chính 5 (hạ
7 午 Ngọ wǔ Dương ngựa hè 11 - 13
Nam) chí)
210° (Nam
8 未 Mùi wèi Âm dê cừu hè 6 13 - 15
Tây Nam)
240° (Tây Tây
9 申 Thân shēn Dương khỉ thu 7 15 - 17
Nam)
270° (Chính 8 (thu
10 酉 Dậu yǒu Âm gà thu 17 - 19
Tây) phân)
300° (Tây Tây
11 戌 Tuất xū Dương chó thu 9 19 - 21
Bắc)
lợn 330° (Bắc Tây
12 亥 Hợi hài Âm lợn nhà đông 10 21 - 23
rừng Bắc)
Con giáp là gì?
Hai tiếng con giáp là một lối nói của phương ngữ Nam Bộ. Trong phương ngữ này, con giáp là
một chu kỳ 12 năm âm lịch gọi bằng tên của 12 địa chi từ Tý đến Hợi. Nghĩa này đã cho ra một nghĩa
rộng là chu kỳ thời gian đã cho đến năm cùng một tên chi với nó sau đó 12 năm. Ví dụ: từ năm Nhâm
Thìn 1832 đến năm Giáp Thìn 1844, hoặc từ năm Đinh Hợi 1947 đến năm Kỷ Hợi 1959… Do đó, người
ta nói người sinh năm Nhâm Thìn 1832 lớn hơn người sinh năm Giáp Thìn 1844 một con giáp, còn người
sinh năm Kỷ Hợi 1959 nhỏ hơn người sinh năm Đinh Hợi 1947 một con giáp. Ngoài ra, trong khẩu ngữ
của tiếng địa phương Nam Bộ, con giáp còn có nghĩa là con vật tượng trưng của mỗi chi trong 12 địa chi
(ví dụ như con chuột cho năm Tý, con trâu cho năm Sửu…). Do đó trong dân gian có câu nói “Mười hai
con giáp không giống con nào!”
Vậy tại sao lại gọi là con giáp? Ngày xưa, người ta đã theo thứ tự trước sau của tập can và thập nhi
chi mà phối hợp các can và các chi với nhau sao cho có được một chu kỳ gồm 60 đơn vị bắt đầu từ Giáp
233
Tý cho đến Quý Hợi, trong đó mỗi đơn vị được gọi bằng một tên kép gồm một tên can và một tên chi.
Chu kỳ này được trình bày thành một bảng gồm có 60 ô (xem hình minh họa). Bảng này được gọi là hoa
giáp. Có tất cả 60 hoa giáp nên ta gọi là lục thập hoa giáp (60 là bội số chung nhỏ nhất của 10 (thập
thiên can) và 12 (thập chi địa chi). Con số 60 còn tượng trưng cho một chu kỳ vòng đời của người xưa
(vốn không sống thọ bằng người thời nay) nên mới có câu 60 năm cuộc đời. Theo phương ngữ Bắc Bộ,
hoa giáp đã được nói tắt thành giáp. Giáp thoạt đầu vẫn được hiểu là một chu kỳ 12 năm như cách hiểu
thông thường hiện nay. Tuy cũng cùng một cách chuyển nghĩa như trên nhưng trong phương ngữ Nam
Bộ thì hoa giáp lại trở thành con giáp vì hai lý do. Một là người ta vẫn bị ảnh hưởng bởi các con vật
tượng trưng cho mỗi chi khi nói đến hoa giáp. Hai là tiếng con vừa có tác dụng nhắc nhở đến các con
vật như đã nói ở trên lại vừa đồng âm với một từ khác cũng chỉ chu kỳ như trong con nước, con trăng…
mà hoa giáp thì rõ ràng là một chu kỳ. Vì hai lý do đó mà con đã thay thế cho hoa. (Chuyện Đông chuyện
Tây tập 1 – An Chi – Nhà xuất bản Tổng Hợp Thành phố Hồ Chí Minh 2019, tr. 27-28).
234
các kho hàng hoá này hấp dẫn các loài chuột, sâu bọ và ngay cả chim chóc cũng đến tìm lương thực và
quấy phá … Đến nỗi nhà nông chúng ta phải ra lời ta thán:
Cái cò cái vạc cái nông
Sao mày giẫm lúa nhà ông hỡi cò? (ca dao)
Mèo đã đến như vị cứu tinh để giải quyết vấn nạn trên; Khác hẳn với loài thỏ chỉ ăn rau cải và phá
hoại mùa màng – như hiện nay, đến nỗi chính phủ Úc phải tìm các phương pháp hoá học (như dùng thuốc
độc) hay sinh học (như cấy vi trùng bệnh) để kiểm soát dân số loài thỏ – thay vì săn bắn chúng một cách
dã man. Loài thỏ thuần hoá không thể tồn tại khi nhiệt độ môi trường chung quanh lên trên 32oC, so với
loài mèo có thể sống sót với môi trường ở nhiệt độ 52oC; Thân nhiệt của mèo thì từ 38oC đến 39oC tương
thích với một xã hội nông nghiệp với khí hậu ôn hoà, còn thỏ lại là nguồn thực phẩm có lượng prôtêin
cao, được sử dụngcho xã hội du mục và săn bắn
3.1.2 Tư duy nông nghiệp được tổng hợp và cụ thể qua ngôn ngữ
Liên hệ Mão Mẹo và mèo rất dễ hiểu: các âm này đều thuộc thanh vực trầm (trọc) và nguyên âm e
(của Mẹo/ mèo) là dạng cổ hơn của nguyên âm a (của Mão) như hè hạ (Hán Việt), xe xa, keo giao, vẽ
hoạ, mè (vừng) ma, chè trà, beo báo …v.v… Tương quan tự nhiên còn thể hiện qua cách dùng lòng (bụng
dạ) – bộ phận thấp nhất trong cơ thể con người – thay vì tim hay não bộ (óc): lòng tốt hay tốt bụng (hảo
tâm HV), buộc lòng, mất lòng … Khi nhập vào tiếng Hán, lòng trở thành ‘đảm’: theo GS Axel
Schuessler4 thì ‘đảm’ (膽) có gốc phương Nam (Nam Á, Austroasiatic) và một dạng âm cổ phục nguyên
là *tlam?. Schuessler ghi nhận âm cổ Bahna Bắc/ProtoNorthBahnar là *klàm (gan/liver), tiền Việt-
Mường/Proto Viet-Muong *lɔ:m, Katuic *luam hay dạng khác hơn với phụ âm đầu t- như tiền
Palaunic/proto Palaunic *kơntɔ:m (gan). Tra thêm các ngôn ngữ láng giềng ta thấy klơm (gan, tiếng
Kơho), tho-lom (gan, tiếng Khme) so với LÒNG tiếng Việt gồm các bộ phận như ruột, gan … ‘Phật
Thuyết Đại Báo Ân Trọng Kinh’ còn dùng ‘lòng gan đều nát’ (lòng chữ Nôm thường dùng lộng (弄), làõ
theo Việt Bồ La 1651) phản ánh tương quan can đảm (Hán) và lòng gan/ruột gan (Việt); Ngoài ra cách
dùng lõm súng (lòng súng, nòng súng), lõm chuối, lõm cây (lòng cây)… cho thấy liên hệ trực tiếp giữa
dạng LÒNG – LÕM, thật ra khi phát âm LÒNG bây giờ – tiếng Việt luôn đóng môi lại (môi hoá, như
LÒNG) chứ không để môi mở như các dạng LONG của tiếng Anh, Pháp … Tiếng Mường (Bi) còn dùng
‘lòm’ là gan: ‘ho ưa ăn lòm củi’ (tôi thích ăn gan heo). ‘klơm là gan (tiếng Biat), k’lơm (gan, tiếng
Boloven) …v.v… Tóm lại, ta có cơ sở đề nghị cấu trúc dạng cổ phục nguyên *tlam? hay *klam? đã nhập
vào tiếng Hán cho ra dạng ‘đảm. Trường hợp âm cổ phương Nam *tlam?/klam? (lòng, một lòng) trở
thành đảm (can đảm, đảm lược …) khi nhập vào tiếng Hán không phải là hiếm, ta còn có những trường
hợp như *krong (sông) khi nhập vào tiếng Hán trở thành *kong hay jiāng (giang trong từ Hán Việt),
…v.v… Nhìn rộng ra hơn, tên 12 con giáp Tý, Sửu, Dần, Mão … Tuất, Hợi khi nhập vào tiếng Hán đã
mất đi phần nào ý nghĩa nguyên thuỷ của tên gọi các loài động vật rất gần gũi với nhà nông. Không
những thế, chúng còn được tô son điểm phấn (Hán hóa) và rất khó nhận ra các liên hệ cụ thể nguyên
thủy: chúng trở thành những khái niệm trừu tượng (được ‘nâng cấp’) trong bói toán và cách ghi ngày
tháng (kết hợp với Thập Can); Đây cũng là một lợi thế của nhóm thống trị có chữ viết sẵn (chữ Hán) và
khả năng tổ chức. Lợi thế của một hệ thống chữ viết có sẵn như chữ ô vuông (chữ Hán) có thể là chỉ
thêm một dấu phẩy nhỏ mà nghĩa lại đổi hẳn đi. Hiện tượng ‘thay đổi chữ viết’ một cách thâm thuý trên
có thể giải thích được chữ thố/thỏ (兔) đã dùng thay cho chữ miễn/*mãn/ vãn (免) – âm *mãn đã từng
có nghĩa là mèo trong tiếng Việt7. Sự lẫn lộn giữa mèo và thỏ còn thấy trong cách dùng ‘dã miêu’ để chỉ
loài thỏ hoang và mèo hoang trong văn hoá TQ và đáng được đào sâu hơn.
3.1.3 Tình trạng lẫn lộn thỏ - mèo trong văn hóa Trung Quốc
Thố tôn (thỏ tôn) là loài mèo hoang đang từ từ biến mất: loài thú này ở Trung Á, Tây Bá Lợi Á,
Kashmir, Nepal, Thanh Hải , Nội Mông Cổ , Hà Bắc , Tứ Xuyên , Tây Tạng , Tân Cương … Khi người
Hán tràn xuống phía Nam và Tây, ta thấy hiện tượng lẫn lộn ‘trông/nhìn mèo ra thỏ’ (trông gà hoá
cuốc) như cách gọi Thố tôn này: các lẫn lộn trên giải thích được phần nào tại sao chi thứ tư Mão/ Mẹo
liên hệ đến mèo chứ không phải là thỏ từ nguyên thuỷ.
235
Thố tôn còn được gọi là “dương xá lị’, “ô luân”, “mã não”, “mã não tặc”… ‘Xá lị’ là loài mèo
hoang (lynx).
Miêu là từ Hán Việt nghĩa là mèo, nhưng nghĩa Hán cổ đại của miêu là loài hổ ít lông chứ không
phải là mèo; Dữ kiện này hỗ trợ cho khả năng Mão chỉ là một cách ký âm của một tiếng nước ngoài
(tiếng Việt cổ) nhập vào tiếng Hán.
‘Sạn’/’sàn’ theo Ngọc Thiên cũng là mèo. Sạn/sàn chỉ loài mèo hoang có vằn.
‘Thố’/’thỏ’ nghĩa cổ là một loài chim.
‘Vãn’ hay *’mãn’ (chữ hiếm) chỉ một loài cây theo cổ thư TQ; Nhưng giọng Hẹ lại đọc là t’ù (như
âm thổ) – so với hai âm mãn (mèo) và thố/thỏ.
Để hiểu tại sao người Việt lại dùng mèo cho chi Mão, một cách giải thích thường gặp trong tài
liệu Trung Quốc là âm Mão khi nhập vào tiếng Việt đọc giống như mèo hay miêu theo âm Hán Việt nên
người Việt dùng mèo làm biểu tượng thay vì thỏ. Điều này không hợp lý vì các lý do sau:
* Mèo là ‘maew’ (tiếng Thái), ‘maaw’ (Lào) … nhưng thỏ lại là loài vật biểu tượng cho chi Mão
ở Thái, Lào! Điều lầm lẫn giữa Mão và mèo lại càng rất khó xẩy ra khi đất Giao Chỉ có những liên hệ rất
gần với các triều đại phương Bắc (Hán … Đường) so với các dân tộc khác ở phía tây Giao Chỉ.
* Nếu mèo đọc gần như Mão và được dùng làm loài vật tượng trưng cho chi thứ tư này, rất khó
giải thích tại sao ‘nga’ (ngỗng trời … cò biển) gần gũi với dân ta (đánh cá, gần biển …), đọc gần giống
âm cổ *ngwa của ‘Ngọ’, lại không là loài vật biểu tượng cho chi Ngọ? Còn âm cổ ‘Mùi’ (Vị) của chi
thứ tám đọc gần với âm ‘muỗi’, tại sao người Việt lại dùng ‘dê’ chứ không là ‘muỗi’ … và còn nhiều
các âm giống khác nữa ….v.v… Ngoài ra, tuy chữ Nôm còn quá ‘trẻ’ để phân tích liên hệ ngữ âm của
tên gọi 12 con giáp, nhưng cũng có vài điểm đáng chú ý là ‘mèo’ (cũng như ‘meo’) thường dùng chữ
‘miêu’ HV như:
‘Lẻo lẻo doành xanh con mắt mèo’ (Bạch Vân Thi Tập, Nguyễn Bỉnh Khiêm 1491-1585)
Nhưng ‘méo’ thì chữ Nôm dùng ‘Mão’ (có khi cộng thêm dấy nháy)
‘Tròn tròn méo méo in đòi thuở’ (Hồng Đức Quốc âm Thi Tập, soạn bởi quần thần và Lê Thánh
Tông 1442-1497).
Do đó, hai âm ‘Mão’ và ‘mèo’ đã có sự phân biệt ít nhất từ thời nhà Lê, và xác suất nhầm lẫn
giữa ‘Mão’ (âm Hán trung cổ, nhập ngược vào Việt Nam khoảng từ thời Đường Tống) và ‘mèo’ (âm
thượng cổ) trong tiếng Việt rất nhỏ!
* Khuynh hướng tổng quát và tự nhiên của chữ viết loài người tiến hoá từ cụ thể và đơn giản đến
trừu tượng12. Thí dụ như tên gọi các loài vật được dùng với nghĩa mở rộng hơn, trừu tượng hơn như mặt
chuột (so với mặt rồng), thân trâu ngựa, ăn như mèo ngửi, tính tình như rắn rít … Thành ra, suy luận từ
âm ‘Mão’ cho ra ‘mèo’ thì không phù hợp với khuynh hướng tự nhiên; Đáng lẽ là từ ‘mèo’ (loài vật, cụ
thể) cho ra âm ‘Mão’ (hệ thống ghi thời gian, trừu tượng, bói toán/số mệnh) mới hợp lý hơn. Hệ thống
gọi tên các con vật cụ thể (đơn giản) và rất gần gũi với nhà nông khi nhập vào văn hoá Hán đã trở thành
hệ thống ghi nhận thời gian, bói toán (trừu tượng, phức tạp); Hệ thống 12 con giáp này cùng khởi sắc khi
văn hoá Hán phát triển cực mạnh (Tần, Hán … Đường, Tống …) và ảnh hưởng đến các khu vực chung
quanh, đây lại là hiện tượng nhập ngược mà ít người ý thức được trong trường hợp Việt Nam.
Từ những góc độ nhìn khác nhau như trên, ta thấy khả năng nguồn gốc tên gọi 12 con giáp có thể
đến từ tiếng Việt cổ. Thật ra thì người Việt chúng ta không cần phải lý giải tương quan rất tự nhiên giữa
‘Mão’ ‘Mẹo’ và ‘mèo’, cũng như Tý/chuột, Ngọ/ ngựa, Hợi/heo, Sửu/trâu … Người Việt không phải
dùng các từ ghép so với văn hoá TQ như Mão Thố, Tý Thử, Sửu Ngưu để giúp ta nhớ đến tương quan
Mão/mèo, Tý/chuột, Sửu/trâu ….. Chính các ngôn ngữ hay dân tộc nào dùng thỏ thay vì mèo cho chi
Mão/ Mẹo mới cần phải giải thích sự khác biệt này: đây là sự vay mượn hay cố tình thay đổi?
Như vậy, học giả Nguyễn Cung Thông cho rằng 12 con giáp xuất phát từ tiếng Việt cổ, du nhập
sang Trung Quốc và đã bị Hán hóa, dẫn đến việc Mèo trở thành Thỏ.
https://tuldinh.wordpress.com/2011/02/12/t%E1%BA%A1i-sao-th%E1%BB%8Fmeo-trong-12-
con-giap/
236
Đối với người Trung Quốc, theo An Chi, ứng với chi Mão / Mẹo lại là con thỏ chứ không phải con
mèo. Trong Chuyện Đông chuyện Tây tập 1 – Nhà xuất bản Tổng Hợp Thành phố Hồ Chí Minh 2019 –
tr. 444, An Chi đã viết:
Những tộc người nói các ngôn ngữ Tày – Thái chịu ảnh hưởng của văn hóa Trong Quốc từ xa xưa
cũng xem con vật ứng với chi Mão/Mẹo là con thỏ. Trong ngôn ngữ hàng ngày và ngôn ngữ văn học của
tiếng Lào, con thỏ được gọi là ka tài. Nhưng ứng với chi Mão/Mẹo, con vật đó không được gọi là ka tài
mà được gọi là thó. Và pi thó là năm con Thỏ (pi là năm). Trong tiếng Xiêm, tức tiếng Thái Lan, con thỏ
gọi là kra tài và năm con thỏ cũng gọi là pi thó như trong tiếng Lào (hai ngôn ngữ Lào – Thái được coi
là đồng tộc và người nói tiếng Lào và người nói tiếng Xiêm có thể hiểu nhau đến hơn 70%). Thó của
tiếng Lào và tiếng Xiêm bắt nguồn từ một từ tiếng Hán ghi bằng chữ 兔 mà âm Hán Việt xưa là thỏ còn
âm nay là thố. Các ngôn ngữ Miêu – Dao cũng chịu ảnh hưởng hưởng của tiếng Hán và văn hóa Hán nên
cũng có hệ thống năm, tháng, ngày, giờ tính theo thập thiên can và thập nhị địa chi. Chẳng hạn, trong
tiếng Dao ở Việt Nam thì tên của chi Mẹo là Mão và ứng với chi này cũng là con thỏ mà tiếng Dao gọi
là thù. Đây cũng là một từ Dao bắt nguồn từ tiếng Hán.
Một chi tiết thú vị hơn là trong tâm thức của mình, nhiều người Việt còn vô hình trung đồng nhất
con thỏ với con mèo mà đoạn trích dẫn sau đây là một bằng chứng cụ thể:
“Trong số 28 vị tinh tú (nhị thập bát tú) quán xuyến bốn phương, trên, dưới, trước, sau có các
nguyên thần tính, biểu hiện cho thời khắc của một ngày đêm cũng được vẽ trên tranh: Hư nhật thử (con
chuột – giờ Tý – nửa đêm), Mão nhật kê (con gà – giờ Dậu – hoàng hôn), Tinh nhật mã (con ngựa – giờ
Ngọ - trưa) và Phòng nhật thố (con mèo – giờ Mão – rạng đông) (theo Phan Nhật Khuê, “Tranh Đạo giáo
ở Việt Nam”, Mỹ thuật thời nay, số 37, 1993, tr. 4). Thử là con chuột, kê là con gà, mã là con ngựa, đó
là chuyện hoàn toàn bình thường. Đến như thố mà là con mèo thì quả là ngược đời. Chẳng qua vì người
Trung Quốc cho rằng con thỏ ứng với chi Mão/Mẹo còn người Việt Nam thì lại cho rằng đó là con mèo
nên mới sinh ra cái đẳng thức phản thực tế như vậy.
Tuy nhiên, nếu xét theo lịch đại thì rất có thể là thoạt kỳ thủy, trong tâm thức của người Trung
Quốc, con mèo mới đúng là con vật ứng với chi Mão/Mẹo vì:
- Mèo chính là âm xưa nhất của chữ Mão, xưa hơn cả Mẹo;
- Thập nhị địa chi chính là tên của mười hai con vật tương ứng (sinh tiếu) chứ không phải là gì
khác.
Như vậy, học giả An Chi không thống nhất với học giả Nguyễn Cung Thông.
4. Kết luận
Lục thập hoa giáp là một hệ thống tính lịch riêng, rất đặc trưng của các nước Đông Á. Cách tính
này hàm chứa những yếu tố về thiên (can), địa (chi), âm dương, ngũ hành, và nhân (các con vật có liên
quan đến đời sống con người). Trong cách tính ấy tồn tại những bản sắc, nét thú vị của văn hóa từng
quốc gia và một trong những khác biệt thú vị ấy chính là sự tồn tại song song của chi thứ tư (Thỏ/Mèo).
Những tranh luận vẫn diễn ra, nhất là mỗi khi đón Tết Nguyên Đán có chi Mão. Và Quý Mão 2023 năm
nay có lẽ cũng không phải là ngoại lệ.
238
HÁN TỰ TRÊN BÌNH DIỆN TỪ VỰNG
TRONG NGÔN NGỮ HÀN, NHẬT, VIỆT
Trần Thị Kiều Oanh*
Khoa Nhật Bản học, Trường Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh
*Tác giả liên hệ: Điện thoại: 0905 180 168; Email: ttk.oanh83@hutech.edu.vn
TÓM TẮT
Ngôn ngữ là cầu nối văn hóa. Trong quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa không thể không nhắc đến
sự giao lưu tiếp biến về ngôn ngữ. Việt Nam (VN), Nhật Bản (NB), Triều Tiên, Hàn Quốc (HQ),.. là
những nước nằm trong vùng ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa nói chung và nằm trong vùng văn hóa
Hán tự nói riêng. Xét về họ ngôn ngữ thì các nước nêu trên đều có họ ngôn ngữ khác nhau nên trong quá
trình giao lưu sự ảnh hưởng của ngôn ngữ ở mỗi nước có độ chệch về nhiều mặt như ngữ âm, chữ viết,
ngữ nghĩa, hình thái,… Bài viết trình bày cơ bản một số nét giống và khác nhau của chữ Hán trong tiếng
Nhật, tiếng Hàn và tiếng Việt với mục đích cung cấp một số kiến thức liên quan đến Hán tự, giúp người
học, người nghiên cứu có thêm một tài liệu để tham khảo.
Từ khóa: Hán tự, tiếng Nhật, tiếng Hàn, tiếng Việt.
1. Đặt vấn đề
Văn hóa Hán tự có thể định nghĩa là những khu vực chịu ảnh hưởng của chữ Hán trên phương diện
chữ viết, ngữ nghĩa,.. Mỗi chữ Hán có một âm đọc gọi chung là âm tiếng Hán. Về cơ bản, khi học bất kỳ
một ngôn ngữ nào, người học cần phải học đủ 4 kỹ năng nghe, nói, đọc viết của ngôn ngữ đó. Tuy nhiên,
khi chữ Hán du nhập vào các nước nó trở thành một yếu tố của sự giao lưu với ngôn ngữ bản địa và được
tiếp nhận, sử dụng cùng với các yếu tố của ngôn ngữ bản địa, trở thành một phần của ngôn ngữ bản địa.
Vì vậy, sự ảnh hưởng của văn hóa Hán tự đối với từng quốc gia có những nét đặc trưng riêng.
Trên thực tế, việc cùng một chữ nhưng cách phát âm của những vùng miền khác nhau cũng có
nhiều khác biệt, chữ Hán cũng không phải là một ngoại lệ. Ngoài ra, theo cách ký âm khác nhau nên âm
Hán tại mỗi quốc gia nằm trong vùng ảnh hưởng của văn hóa Hán tự cũng có sự khác nhau.
Bài viết được thực hiện dựa trên các phương pháp nghiên cứu gồm phương pháp mô tả, phân tích tổng
hợp để thu thập tài liệu, phân tích và tổng hợp những thông tin liên quan đến đề tài, phương pháp lịch sử
logic để tìm hiểu về Hán tự trong ngôn ngữ các nước NH, HQ, VN, phương pháp so sánh đối chiếu để
so sánh đối chiếu các từ Hán với ngôn ngữ gốc và với ngôn ngữ các nước khác.
239
Chữ Hán được du nhập vào bán đảo Triều Tiên vào những năm đầu công nguyên và được bán đảo
Triều Tiên sử dụng trong một thời gian dài, gọi là chữ Hán Hàn (Hanja). Từ thế kỷ 15, chữ Hàn Quốc
(Hangul) đã được tạo ra, tuy nhiên chữ Hangul chỉ được sử dụng đối với những từ thuần Hàn và một số
phụ tố đóng vai trò ngữ pháp trong tiếng Hàn. Vì vậy, trong giai đoạn này chữ Hàn được viết dạng hỗn
dung Hangul và Hanja. Sau năm 1945, sau khi bán đảo Triều Tiên bị tách thành hai nước Cộng hòa dân
chủ nhân dân Triều Tiên (Triều Tiên) và Đại Hàn Dân Quốc (Hàn Quốc) thì việc sử dụng chữ Hán của
hai nước đã có sự phân hóa. Triều Tiên chuyển sang sử dụng hoàn toàn chữ Hangul và chú trọng sử dụng
những từ gốc Hàn. Tại Hàn Quốc việc này diễn ra từ từ hơn. Từ vựng trong tiếng Hàn cũng được phân
chia gồm các từ thuần Hàn, từ vay mượn và từ Hán Hàn. Từ Hán Hàn chiếm khoảng 60%. Cũng giống
như từ vựng trong tiếng Nhật, trong tiếng Hàn cũng có những từ Hán Hàn được sinh ra tại Hàn Quốc và
được sử dụng theo ý nghĩa của người Hàn Quốc. Hiện nay, trong tiếng Hàn Quốc chữ Hán chỉ còn được
sử dụng ở yếu tố âm và nghĩa giống tiếng Việt.
Việt Nam là một quốc gia có vị trí địa lý giáp với Trung Quốc. Từ giai đoạn trước công nguyên
đến thế kỷ 19 Việt Nam đã sử dụng chữ Hán. Về mặt lịch sử, Việt Nam đã tiếp xúc với chữ Hán sớm
hơn các nước Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc nhiều thế kỷ. Chữ Hán khi du nhập vào Việt Nam cũng
được phiên âm theo âm của người Việt. Cách phiên âm chữ Hán sang tiếng mẹ đẻ, giúp việc học chữ
Hán dễ hơn nhưng cũng không quá xa so với cách phát âm trong tiếng Hán. Trong thời phong kiến gọi
là chữ Nho. Người học chữ Nho học hai kỹ năng đọc viết và học ý nghĩa của chữ Hán nhưng không cần
học hai kỹ năng nghe nói của chữ Hán. Từ đầu thế kỷ XX trở đi, sau khi thực dân Pháp đã thiết lập được
chế độ thực dân tại Việt Nam. Thực dân Pháp đã tiến hành nhiều thay đổi, đặc biệt vào từ năm 1917 thực
dân Pháp bắt đầu đưa hình thức trường học theo kiểu Pháp vào áp dụng tại Việt Nam, sử dụng tiếng Pháp
trong giảng dạy. Thêm vào đó, chính quyền cũng đưa hệ thống chữ quốc ngữ (ký âm tiếng Việt theo chữ
La tinh) vào dạy để thay thế cho chữ Nho, kỹ năng đọc chữ Hán cũng dần bị mai một. Tuy nhiên, về mặt
ngữ nghĩa và tần xuất sử dụng âm Hán Việt vẫn chiếm khoảng 70 phần trăm trong tiếng Việt. Nghĩa là
hiện tại tiếng Việt sử dụng chữ Hán ở yếu tố âm và nghĩa.
240
Với tư cách là yếu tố cấu tạo từ, ngôn ngữ NB và HQ có nét tương đồng, chữ Hán đóng vai trò là
căn tố giữ vai trò chuyển tải thông tin, chữ NB HQ thường là hậu tố, dễ thay đổi, đóng vai trò biểu thị ý
nghĩa ngữ pháp. Với tư cách này, trong ngôn ngữ NB, Hán tự được sử dụng với âm kun.
Một số ví dụ:
青い →「 青」 thân từ Hán tự, âm Hán Việt: Thanh, nghĩa là màu xanh, 「い」 hận tố, tính từ
高い →「 高」 thân từ Hán tự, âm Hán Việt: Cao, nghĩa là cao, đắt, 「い」 hận tố, tính từ
食べます →「食」 thân từ Hán tự, âm Hán Việt: Thực, nghĩa là ăn, 「べます」 hận tố, động từ
聞きます →「聞」 thân từ Hán tự, âm Hán Việt: Văn, nghĩa là nghe, 「きます」 hận tố, động
từ
Trong chữ Hán có bộ thủ đóng vai trò cấu tạo từ. Hầu hết bộ thủ cũng chính là những chữ Hán cơ
bản. Trong một chữ Hán, về mặt cấu tạo thường có hai phần, bộ phận chỉ ý tức bộ thủ và bộ phận chỉ
âm. Việc hiểu bộ thủ giúp người học ngoại ngữ có thể liên tưởng về mặt ý nghĩa.
Một số ví dụ:
「会」 âm Hán Việt: Hội, nghĩa là gặp, hoặc những việc liên quan đến hội nhóm, tập thể. Từ đó,
có các từ như 「会員 」hội viên, 「会話」 hội thoại, 「会費」 hội phí,…trong tiếng Nhật. Tương tự,
trong tiếng Hàn cũng có các từ: 「회원」,「 회화」,「회비」.
5. Kết luận
Tiếp xúc ngôn ngữ và hiện tượng vay mượn các yếu tố văn hóa Hán là điểm chung trong ngôn ngữ
NB, HQ, VN. Trong ngôn ngữ của 3 nước, ở cùng một chữ Hán giống nhau thì có sự giống nhau về âm
Hán ở yếu tố âm và nghĩa nên về mặt từ vựng, đôi khi chỉ cần nghe phát âm là có thể đoán được nghĩa
của từ. Tuy nhiên, Hán tự ở mỗi quốc gia cósự bản địa hóa một số và được sử dụng với ý nghĩa của từ
khác so với từ gốc, cũng như so với các nước nằm trong vùng ảnh hưởng của Hán tự. Việc hiểu âm Hán
đối với người học tiếng Trung, Nhật, Hàn ở trình độ trung cấp là một thuận lợi trong việc học ngôn ngữ.
241
Trên thực tế, đối với người Việt Nam học ngôn ngữ Nhật hiện nay, nhiều người học vẫn chưa tìm ra
phương pháp học Kanji phù hợp, đây cũng là một trong những lý do khiến người học khó nâng cao năng
lực Nhật ngữ của bản thân. Chính vì vậy, việc hiểu từ Hán Việt và từ đó tạo thành một cầu nối khi học
tiếng Nhật, tiếng Hàn sẽ giúp người học tăng thêm vốn từ cho bản thân.
242
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN NHẰM TĂNG HỨNG THÚ
TRONG GIỜ HỌC TIẾNG NHẬT CỦA SINH VIÊN KHOA NHẬT BẢN
HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thị Bé*
Khoa Nhật Bản học, Trường Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh
*Tác giả liên hệ: Điện thoại: 0896 676 038; Email: nt.be@hutech.edu.vn
TÓM TẮT
Ngày này cùng với sự hội nhập quốc tế và xu hướng toàn cầu nên việc tăng cường ngoại ngữ nói
chung và tiếng Nhật nói riêng đang được mọi người hết sức quan tâm. Đặc biệt số lượng người học tiếng
Nhật ngày càng tăng cao cho nên các trung tâm đào tạo tiếng Nhật đang có xu hướng tăng lên. Bên cạnh
đó, Trường Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh đã đang đào tạo sinh viên chuyên ngành ngôn
ngữ Nhật. Vì là sinh viên chuyên ngành ngôn ngữ nên việc giảng dạy sinh viên học đạt được hiệu quả là
nhiệm vụ trọng yếu của giảng viên. Với thời đại bùng nổ công nghệ thông tin (CNTT) và cuộc cách mạnh
công nghệ 4.0 thì ngoài việc giảng dạy theo phương pháp truyền thống giảng viên có thể áp dụng CNTT
vào việc giảng dạy. Trong bài nghiên cứu này, tác giả sẽ nghiên cứu về việc ứng dụng CNTT nhằm tăng
hứng thú cho sinh viên Khoa Nhật Bản học, Trường Đại học Công nghệ TP. Hồ Chí Minh.
Từ khóa: công nghệ thông tin, hứng thú, ứng dụng, giảng dạy tiếng Nhật.
1. Đặt vấn đề
Trên thế giới hiện nay khi cách mạng công nghệ 4.0 đang phát triển như vũ bão thì việc ứng dụng
CNTT trong tất cả các lĩnh vực là điều tất yếu. Trong lĩnh vực giáo dục thì việc áp dụng CNTT chủ yếu
vào việc giảng dạy và học tập. Theo Chỉ thị số 29/2011/CT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo (ngày
30/7/2001) về tăng cường và ứng dụng CNTT vào nhà trường nêu rõ: “Ứng dụng và phát triển CNTT
trong giáo dục và đào tạo sẽ tạo nên một bước chuyển cơ bản trong quá trình đổi mới nội dung, chương
trình, phương pháp giảng dạy, học tập và quản lý giáo dục”. “Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong giáo dục
và đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng sử dụng CNTT như một công cụ hỗ trợ
đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập ở tất cả các môn học”. Chỉ thị số 55/2008/CT-
BGDĐT ngày 30/09/2008 của Bộ trưởng Bộ Bộ Giáo dục và Đào tạo về tăng cường giảng dạy, đào tạo
và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành giáo dục giai đoạn 2008-2012. Bên cạnh đó, chiến lược
phát triển giáo dục 2011-2020 chỉ rõ: “Đẩy mạnh ứng dụng CNTT và truyền thông trong dạy và học đến
năm 2015, 100% giảng viên đại học, cao đẳng và đến năm 2020, 100% giáo viên giáo dục nghề nghiệp
và phổ thông có khả năng ứng dụng CNTT và truyền thông vào dạy học”. Thông qua đây có thể thể thấy
rằng việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy và học tập luôn được chú trọng và đề cao.
Việc giảng dạy tiếng Nhật là hoạt động giảng dạy mang tính đặc thù bởi nó không chỉ cung cấp
kiến thức mà còn giúp sinh viên cảm thụ một nền văn hóa thông qua việc học ngôn ngữ. Do vậy, để tạo
ra một giờ học tiếng Nhật sống động, lôi cuốn và có hiệu quả cao đòi hỏi giảng viên phải thay đổi các
phương pháp giảng dạy, tìm hiểu, cập nhật thông tin và trau dồi kiến thức. Vì vậy việc ứng dụng CNTT
vào việc học tiếng Nhật đã trở thành một yếu tố quan trọng và cần thiết nhằm đạt được các mục tiêu nói
trên. Trong bài nghiên cứu này, tác giả muốn tình hiểu thực trạng ứng dụng CNTT trong quá trình dạy
và học tiếng Nhật. Từ đó, bài nghiên cứu sẽ làm rõ vai trò của việc ứng dụng CNTT để tạo ra một môi
trường học hứng thú, sôi động,...cũng như đề xuất, thảo luận một số ứng dụng CNTT hữu ích cho việc
dạy và học tiếng Nhật.
3.2 Kết quả khảo sát thông qua bảng câu hỏi
Bảng câu hỏi về việc ứng dụng CNTT cũng như vai trò của ứng dụng CNTT trong việc tạo ra
hứng thú cho sinh viên được thực hiện đối với 30 sinh viên đang theo học ngành ngôn ngữ Nhật của
Khoa Nhật Bản học tại Trường Đại học Công nghệ TP. Hồ Chí Minh. Kết quả khảo sát cho thấy:
- Hầu hết sinh viên (trên 95%) đều hiểu rõ về khái niệm ứng dụng CNTT vào quá trình dạy và học
ngoại ngữ (Theo bạn, ứng dụng CNTT trong việc dạy và học ngoại ngữ nói chung là như thế nào?)
- Trên 90% sinh viên đã từng tham gia các lớp học tiếng Nhật có ứng dụng CNTT trong lớp học
(Bạn đã từng tham gia các giờ học tiếng Nhật có sử dụng CNTT hay chưa?)
- Có khoảng 25 sinh viên đang sử dụng các thiết bị CNTT là điện thoại thông minh có kết nối mạng
cho việc học tiếng Nhật (Bạn đang sử dụng các thiết bị ứng dụng CNTT nào?)
- Số vinh viên trả lời câu hỏi: “Bạn có thường sử dụng các thiết bị CNTT để học tiếng Nhật hay
không?” chiếm 80% với câu trả lời là “có” và 100% sinh viên cho rằng việc ứng dụng CNTT thực sự
hiệu quả trong các giờ học tiếng Nhật (Theo bạn việc ứng dụng CNTT có hiệu quả đối với các giờ học
tiếng Anh hay không?). Thông qua khảo sát có thể thấy rằng việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy và học
tập có tính hiệu quả trong việc tạo hứng thú cho sinh viên trong quá trình học tập.
4. Một số ứng dụng CNTT hỗ trợ các hoạt động dạy và học tiếng Nhật
Việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy giúp cho giảng viên nâng cao tính sáng tạo và linh hoạt hơn
trong quá trình giảng dạy của mình. Cụ thể, giảng viên không chỉ bó buộc trong khối kiến thức hiện có
244
mà còn được tìm hiểu thêm về các chuyên ngành khác như tin học và học hỏi các kỹ năng sử dụng hình
ảnh, âm thanh trong việc thiết kế giáo án. Đối với bên thứ hai được hưởng lợi trực tiếp từ việc ứng dụng
CNTT trong dạy học đó chính là sinh viên. Sinh viên được tiếp cận phương pháp dạy học mới hấp dẫn,
lôi cuốn hơn hẳn phương pháp đọc – chép truyền thống. Ngoài ra, sự tương tác giữa giảng viên với sinh
viên cũng được cải thiện đáng kể, sinh viên có nhiều có hợi thể hiện quan điểm cũng như chính kiến
riêng của bản thân. Điều này giúp cho sinh viên trở nên tự tin hơn về năng lực, tính cách và mức độ tiếp
thu kiến thức từ đó điều chỉnh cho phù hợp và khoa học. CNTT còn là trợ thủ đắc lực giúp cho sinh viên
đa dạng, sáng tạo trong các buổi thuyết trình trước lớp, đồng thời tăng khả năng tìm kiếm thông tin.
Tuy nhiên, việc giảng dạy và học tập ngoại ngữ nói chung và tiếng Nhật nói riêng ở mọi cấp độ
học không phải là việc có thể muốn làm là thực hiện ngay trong bối cảnh Việt Nam hiện nay. Thực tế
cho thấy, để ứng dụng CNTT đòi hỏi các cơ sở giáo dục cần phải chuẩn bị đầu tư cơ sở vật chất và có
các buổi tập huấn nhân lực trong quá trình ứng dụng CNTT. Trong quá trình giảng dạy của tác giả và
thông qua việc quan sát các giờ giảng của những giảng viên khác tác giả nhận thấy rằng: việc ứng dụng
CNTT chỉ dừng ở mức sử dụng hình ảnh để mình họa để lý giải cho kiến thức đó mà không tạo được
hiệu ứng hứng thú trong giờ học, đối với tiếng Nhật để đem đến hiệu quả hơn trong quá trình giảng dạy,
tác giả xin giới thiệu một số ứng dụng CNTT có tính kích thích hứng thú, lôi cuốn, sáng tạo cho sinh
viên trong giờ học tiếng Nhật như sau:
- Audio: Đây là ứng dụng CNTT nhằm giúp sinh viên trong các giờ luyện kỹ năng nghe – nói tiếng
Nhật. Âm nhạc, hiệu ứng âm thanh,….trong audio sẽ tạo ra hiệu ứng kích thích thính giác của người học,
giúp người học hứng thú, tập trung vào các chủ đề. Thêm vào đó, sinh viên có thể ghi âm lời nói hoặc
bài giảng làm dữ liệu học tập và ghi nhớ thông tin, hay tự kiểm tra khả năng nghe – nói của mình. Giảng
viên có thể sử dụng audio để đánh giá sự tiến bộ của sinh viên và tự điều chỉnh các hoạt động giảng dạy
sao cho phù hợp với mục tiêu và trình độ của sinh viên.
- Video: Video được xem là sự thể hiện lại các dữ kiện được quay và ghi trên màn hình. Nếu nội
dung của video được thiết kế phù hợp với hoạt động giảng dạy sẽ tạo được hứng thú cho sinh viên. Bởi
video sẽ mang đến sinh viên những gì chân thực nhất trong cuộc sống, giúp sinh viên có thêm những
kiến thức từ thực tế. Đặc biệt, sinh viên có cơ hội nghe và cảm nhận hoặc bắt chước ngữ điệu, sử dụng
đúng ngữ cảnh nói tiếng Nhật của người bản ngữ. Bên canh đó, có thể tận dụng video vô tận trên Youtube
để làm phong phú hơn các hoạt động giảng dạy tiếng Nhật.
- Các ứng dụng mạng xã hội: Facebook, Zalo, Intergram, Twitter,…cũng là kênh học tiếng Nhật
khá hiệu quả. Thông qua việc trao đổi trực tuyến, giảng viên lẫn sinh viên có thể thu thập được những
thông tin hữu ích trong việc dạy và học tiếng Nhật. Thông qua các ứng dụng mạng xã hội này, giảng viên
và sinh viên cũng có thể tạo ra không gian tương tác với nhau ngoài lớp học nhằm trao đổi thông tin,
hướng dẫn tự học và giao bài tập về nhà để có nhiều thời gian thực tập tiếng Nhật trên lớp hơn.
- Kahoot: Ứng dụng này thật sự gây ấn tượng và kích thích khả năng tự học của sinh viên, bởi nó
được thiết kế theo dạng trò chơi vừa để kiểm tra kiến thức bài học. Thêm vào đó, ứng dụng này còn tạo
ra sự tương tác rộng, tinh thần ganh đua học tập giữa các thành viên trong lớp. Thông qua ứng dụng này
sinh viên có thể phản hồi với giảng viên về chất lượng giảng dạy cũng như đưa ra các ý kiến trao đổi trực
tiếp với giảng viên để việc học tiếng Nhật đạt hiệu quả cao.
- Các ứng dụng tra cứu thông tin: google.com, coccoc.com…Đây là những ứng dụng tra cứu thông
tin tuyệt vời, vô cùng quý báu và hiệu quả đối với quá trình tiếp nhận tri thức nói chung và tiếng Nhật
nói riêng. Chỉ cần gõ từ khóa là sinh viên có thể tiếp cận được vô vần trang tài liệu tiếng Nhật. Với khả
năng sàng lọc thông tinh sinh viên có thể tích lũy dần tri thức cho riêng mình.
Có rất nhiều ứng dụng CNTT khác có thể áp dụng trong các hoạt động dạy và học tiếng Nhật trên
lớp. Tuy nhiên, trong quá trình dạy và học nên cân nhắc và lựa chọn cho phù hợp với trình độ sinh viên
và nội dung giảng dạy. Bên cạnh đó, để đạt được hiệu quả cao trong việc ứng dụng CNTT giảng viên
cần giới thiệu và hướng dẫn sinh viên cách sử dụng với từng nội dung học tập cho phù hợp.
5. Giải pháp
Để việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy và học tập đạt kết quả cao, cần có những biện pháp như
sau:
245
Đối với giảng viên: Bản thân giảng viên cần phải tự trau dồi, cập nhật không ngừng những kiến
thức mới về CNTT. Nên tham gia các vào các trang mạng xã hội, qua đó giảng viên có thể chia sẻ những
kinh nghiệm giảng dạy của mình, chia sẻ baid giảng hay và tâm đắc, gửi những đề xuất và góp ý để nâng
cao chất lượng giảng dạy.
Đối với sinh viên: Cần lựa chọn cho mình phần mềm CNTT phù hợp với đặc trưng của từng môn
học, thường xuyên sử dụng các ứng dụng tự học để có thể vừa học vừa chơi giúp bản thân có hứng thú
trong việc học và ghi nhớ lâu hơn. Nên tham gia vào các trang mang xã hội liên quan tới tiếng Nhật để
có thể nghe những chia sẻ kiến thức từ các giáo viên, và cũng có thể trao đổi kiến thức với các bạn khác.
6. Kết luận
Có thể thấy mặc dù có những tồn tại cần được xem xét nhưng sự phát triển của CNTT đã và đang
mang đến một cuộc cách mạng đào tạo ngoại ngữ. Công cụ dạy và học này đang trở nên ngày càng phổ
biến và đáng tin cậy hơn. Internet chứa một lượng thông tin khổng lồ chưa từng thấy trong lịch sử loài
người. Tuy nhiên, do bản chất đặc thù của chủ thể, tài nguyên và công cụ hiện đại này cần được hỗ trợ
của chuyên gia nhằm tối ưu hóa tính ưu việt của Internet trong đào tạo ngoại ngữ nói chung và tiếng Nhật
nói riêng. Giảng viên tiếng Nhật cần lưu ý rằng giống như bất cứ tài nguyên và công cụ hỗ trợ giảng dạy
nào khác, giảng viên vẫn luôn là yếu tố quan trọng nhất cho việc thành công hay thất bại của một bài
học.
Với bài nghiên cứu này, tác giả mong muốn các ứng dụng CNTT đã đề xuất phần nào giúp ích cho
người dạy lẫn người học trong hành trình chinh phục một ngôn ngữ được xem là khó như tiếng Nhật.
Đồng thời, việc ứng dụng CNTT rộng rãi sẽ đẩy mạnh môi trường học tập tiếng Nhật đa chiều, hòa nhập,
sáng tạo góp phần nâng cao năng lực tiếng Nhật cho sinh viên.
246
SEXUALITY AND MARRIAGE INSTITUTION IN EKUNI KAORI’S
TWINKLE TWINKLE (1991)
Vu Le Bao Trinh*
Bộ môn Ngôn ngữ Nhật, Trường Đại học FPT tại Thành phố Hồ Chí Minh
*Tác giả liên hệ: (Điện thoại: 0399 499 401; Email: trinhvlb@fe.edu.vn)
ABSTRACT
Using her award-winning debut novel Kirakira hikaru (1991, trans. Twinkle Twinkle) by
contemporary writer Ekuni Kaori (b.1964) as a case study, this paper explores how traditional gender
roles and sexuality shapes intimate and family relationships in contemporary Japanese literary works.
Even though Ekuni does not necessarily follow a feminist agenda herself, this paper argues that her
literature can be examined from a feminist perspective, for the development of most of Ekuni‘s (almost
exclusively female) characters are clearly shaped by the power of patriarchy. Through the portrayal of
these characters, Ekuni is reinforcing patriarchal values but at the same time, reinscribing the socially
laden figure of the Japanese young woman. For Japanese women, the influence of patriarchy is thus most
visible through marriage and their roles as mothers, which is clearly described in Twinkle Twinkle. Via
close analysis of imagery and symbolism in the novel, the paper shows that love and marriage institution
are closely connected with gender and sexuality, under the influence of patriarchal values.
Key words: Ekuni Kaori, family, love, marriage, sexuality
1. Introduction
This paper looks at how the traditional perception of gender roles and sexuality in Japanese society
shapes the formation of family and intimate relationships in Ekuni Kaori’s Twinkle Twinkle. It argues
that in the novel, marriage and family are closely connected under social expectations; and there is a
parallel depiction of homosexuality along with heterosexuality, albeit stereotypical and romanticized.
Ekuni Kaori is considered one of influential authors among female writers of contemporary Japanese
literati, who became widely read after her debut novel Twinkle Twinkle awarded a Murasaki Shikibu
Prize in 1992. She has an exquisite taste in depicting family and romance relationship. Her novels are
considered jouou (女王), or novels in which women rule; these novels talk about women without
victimizing women. In most of Ekuni’s stories, the narratives are from the female characters.
Twinkle Twinkle (Kirakira hikaru, 1991) is a story about the strange relationship between Shōko –
an alcoholic wife, Mutsuki – a homosexual husband and Kon – Mutsuki’s lover. The story’s timeline
begins ten days after Shōko and Mutsuki’s marriage. They meet through an arranged meeting when
Shōko is advised by her doctor that, in order to cure her anxiety and alcoholism, should get married.
Shōko develops a special interest in Kon, Mutsuki’s lover. As the story progresses Shōko gradually has
feelings for Mutsuki. After Shōko’s conflicts with people around her, Mutsuki feels troubled and with
the pressures from his mother for a child, he decides to reveal his secret. Mutsuki tells Shōko’s best friend
he is homosexual, and with her revelation to Shōko’s father, Shōko’s parents demand a meeting with
both families. Both parents, especially Mutsuki’s mother, became enraged by “the secrets” they have
been hidden from – that is, Mutsuki’s homosexuality and Shōko’s emotional instability. At the end of
the meeting, Shōko’s father asks if Mutsuki will break up with Kon. He intends to, but Shōko is strongly
against it by saying that they will also get divorced if Mutsuki does so. Mutsuki returns home four days
later, getting himself beaten up by Kon. The next morning they receive a postcard from Kon, saying that
he will go away for a while. In the final chapter, Kon returns and moves into the apartment downstairs
Shōko and Mutsuki’s. They are now neighbors, and the story ends with Mutsuki thinking they will
“continue living like this, tomorrow, the day after tomorrow and then”.
Since the novel was published in 1991, when marriage of convenience was a common phenomenon
in Japanese society, the paper first introduces its theoretical background of gender roles in postwar Japan
247
and especially, the institution of marriage in the 1990s. Ekuni is known for her simple but flexible word
choices and uses of meaningful imagery, thus here, through the examination of water and stars as
symbolic images in the novel, the paper examines how love, the characters and their relationship are
associated with their gender roles.
248
In Twinkle Twinkle, Ekuni challenges the traditional notion of heterosexual relationship in Japan
by creating a triangle connection between Shōko, Mutsuki and his lover Kon. She builds a model of an
ideal marriage based on love and care rather than sex. In the next section I will continue with a literary
analysis of symbolic images – water and the stars – to make clear how the connection between sexuality
and marriage is depicted.
5. Discussion
From the above analysis of the symbolic images of water and stars, we can see that in Twinkle
Twinkle, marriage is built on the basis of heterosexuality and traditional gender roles. The novel is written
in the time when marriage is necessary for reproduction, which can only be done via the heterosexual
connection between a man and a woman. To marry means to form a family with your partner, which
obviously should lead to giving birth to a child. This is expressed via the expectation of Mutsuki’s mother,
that even though she knows her son is homosexual – which means he has no interest in sleeping with
women – she demands Shōko a child because Mutsuki is the only son and for her, “No healthy woman
would not care about such things [having children]” (Ekuni, 1991/2003, p. 19).
However, by showing that homosexuality also plays an important role in creating and maintaing
intimacy, Ekuni has raised an interesting question whether a “gender-free” family is possible. In fact,
this idea was suggested by Yazawa (2006) in her review of the novel that in such family, relationship is
built based on sympathy and love rather physical contacts. That way, living with a lover’s lover has
become something acceptable, which is discussed not only in Twinkle Twinkle but another of Ekuni’s
novel Falling into the evening (Rakkasuru yūgata, 1999) as well. Collaborating upon Yazawa’s idea that
the yucca tree is Kon’s representation, Kubo (2009) suggests that the Cezanne painting is instead Shōko’s
representation, and in the final chapter, along with Kon and the yucca tree, it becomes parts of Shōko
and Mutsuki’s family.
To a larger extent, the representation of heterosexuality, homosexuality and the conflict between
them all fall under the influence of patriarchy. The ideology and institution of marriage in Japan, despite
changing over the years, is founded on heterosexual relationships conforming to heteropatriarchy. This
system of heteropatriarchy stigmatizes the sexual minorities, single mothers, and single women overall,
placing them at a lower level compared to heterosexual men and couples. Romantic love serves as the
250
foundation for heteropatriarchy, and the modern family based on heterosexual love becomes essential to
social stability. Love thus becomes an exclusive heterosexual judgment (McLelland, 2016). In Twinkle
Twinkle, Ekuni’s ideal of a gender-free family is an opposition to compulsory heteropatriarchy. The
discourse of normative heteropatriarchy forces Mutsuki and Shōko into entering a marriage of
convenience. Their relationship aims at conforming to the established heteropatriarchy and indeed,
becomes a mechanism that makes them appear “normal” to the society. These characters’ choices of
fighting against this sociaetal oppression is to compromise with it. Thus, Ekuni is indirectly criticizing
Japanese society of the 1990s for making them go this far to conform to the established social norm. The
novel’s open ending leaves a blank space for evaluation by its readers.
6. Conclusion
Twinkle Twinkle has questioned how social perception of gender and sexuality shapes the
institution of marriage and family in 90s Japanese society. Even though the situation has largely changed
since then, it is common to think that women are born, and are trained, to conform with heteropatriarchy
and to act with their assigned gender roles. Not only women, sexual minorities are also expected to
comply with the society’s patriarchal values in order to be accepted. Considering the background in
which Twinkle Twinkle was written, the novel has raised a voice to empower those marginality, and its
words stand still today. In the novel, the issues of marriage, gender and sexuality are intertwined to create
a “simple love story” yet with strong message about family and love relationship.
7. References
1. Ekuni, K. (2003). Twinkle Twinkle (E. Shimokawa, Trans.). New York, NY: Vertical.
(Original work published 1991).
2. Horiguchi, M. (2014). Murakami Haruki, Ekuni Kaori shōsetsu kenkyū: Shinmitsusei wo
megutte [A study of Murakami Haruki and Ekuni Kaori’s novels: On intimacy] [Doctoral dissertation,
Nagoya University]. https://ci.nii.ac.jp/naid/500000917001.
3. Koyama, S. (2013). Ryōsai kenbo: The educational ideal of “Good wife, wise mother” in
modern Japan (S. Filler, Trans.). Leiden, Netherlands: Brill. (Original work published 1991).
4. Kubo, S. (2009). Ekuni Kaori 『Kirakira hikaru』 kara miru fūfu to renai [Examining love
and husband – wife relationship from Ekuni Kaori’s “Twinkle Twinkle”]. Nagano kokubun, 17, 63-80.
5. McLelland, M. (2000). Male homosexuality in modern Japan: Cultural myths and social
realities. Richmond, UK: Curzon.
6. McLelland, M. (2016). Love, sex, and democracy in Japan during the American
occupation. New York, NY: Palgrave Macmillan.
7. Rebick, M., & Takenaka, A. (2009). The changing Japanese family. In M. Rebick & A.
Takenaka (Eds.), The changing Japanese family (pp. 3-16). New York, NY: Routledge.
8. Ronald, R., & Alexy, A. (2011). Continuity and change in Japanese homes and families.
In R. Ronald & A. Alexy (Eds.), Home and family in Japan: Continuity and transformation (pp. 1-24).
New York, NY: Routledge.
9. Sechiyama, K. (2013). Patriarchy in East Asia: A comparative sociology of gender (J.
Smith, Trans.). Leiden, Netherlands: Printforce. (Original work published 1996).
10. Yazawa, M. (2006). <Gisoukekkon> to iu kyōdōtai [Marriage in disguise – “Twinkle
Twinkle” by Ekuni Kaori]. In H. Iwabuchi & K. Hasegawa (Eds.), Jendā de yomu ai, sei, kazoku
[Reading sex, love and family] (pp. 174-185). Tokyo, Japan: Tokyo Dōshuppan.
251
ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ
CÁC HỌC PHẦN NGÔN NGỮ NHẬT
Lưu Thế Bảo Anh*
Khoa Nhật Bản học, Trường Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh
*Tác giả liên hệ: Điện thoại: 0937 501 588; Email: ltb.anh@hutech.edu.vn
TÓM TẮT
Trong tất cả quá trình hoạt động của con người đều tạo ra sự thay đổi, để hiểu được những thay đổi đó
diễn biến ở mức độ nào đều cần thông qua việc kiểm tra, đánh giá (KT,ĐG). Về lĩnh vực giáo dục, KT,ĐG
có vai trò tích cực trong việc điều chỉnh hệ thống, kiểm chứng chất lượng chương trình đào tạo (CTĐT) trong
quá trình giảng dạy, là cơ sở cho việc đổi mới, là sự đo lường sự tiến bộ của sinh viên (SV). Ngành Ngôn
Ngữ Nhật (NNN) hiện nay là ngành học đang được quan tâm trong xu thế hội nhập quốc tế vì tạo ra cơ hội
việc làm phát triển, môi trường làm việc chuyên nghiệp. Để đào tạo những cử nhân ngành NNN đạt yêu cầu
nhà tuyển dụng cần phải có những CTĐT mang tính ứng dụng cao. Bên cạnh đó, tiến hành khảo sát SV về
hoạt động KT, ĐG trong quá trình đào tạo để thấy được hiện trạng hiệu quả hoạt động kiểm tra, đánh giá hiện
hành. Bên cạnh đó, đề xuất phương pháp hiệu quả thiết thực nhất cho các học phần NNN. Bài viết phân tích
những quy tắc cơ bản của hoạt động KT,ĐG kết quả người học và đề xuất các phương pháp kiểm tra đánh
giá phù hợp, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, dạy học đến các học phần của ngành NNN
hiện hành nay.
Từ khóa: kiểm tra, đánh giá, Ngôn Ngữ Nhật, đổi mới
1. Tổng quan
Dạy học là một quá trình hoạt động có mục đích, bao gồm các thành tố cơ bản: xây dựng mục tiêu,
thiết kế nội dung, tổ chức hoạt động dạy- học và kiểm tra đánh giá.
KT,ĐG là một thành tố không thể tách rời của hoạt động dạy học, để giảng viên (GV) hoàn thành
giảng dạy một học phần cần xác định rõ mục tiêu của bài học, nội dung và phương pháp tổ chức lớp học.
Để biết được quá trình dạy- học đạt được kết quả như thế nào đều cần hoạt động KT,ĐG.
Đổi mới hoạt động KT,ĐG theo định hướng ứng dụng nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, bảo đảm đánh
giá trung thực, khách quan, góp phần hướng dẫn, điều chỉnh cách học của SV và phương pháp giảng dạy
của GV.
2. Cơ sở lý thuyết
2.1 Khái niệm
Trong tiếng Nhật, theo từ điển “Shinban Nihongo Kyouiku Jiten” (2005) cụm từ kiểm tra, đánh giá “評
価” ( hyouka ) có nghĩa hẹp là “assessment” mang nghĩa thẩm định đánh giá, và nghĩa rộng hơn là
“evaluation” là sự đánh giá. Trong đó từ “assessment” thì được Norris ( 2006) cho rằng hoạt động KT,
ĐG là chuỗi quá trình đem lại kết quả học tập qua các công cụ: bài kiểm tra, bài thi, bài tập cá nhân, quan
sát. Nhưng trước đó, theo Brown (1995) lại cho rằng KT, ĐG là toàn bộ các hoạt động từ hoạt động giảng
dạy của GV đến kết quả học tập của SV kể cả môi trường học tập: phòng ban hỗ trợ ( phòng tuyển sinh,
phòng đào tạo, phòng hỗ trợ SV, phòng thanh tra…..), cơ sở vật chất ( chất lượng phòng học, thư viện,
nguồn học liệu……)
2.2 Các loại hình kiểm tra, đánh giá trong giáo dục
2.2.1 Phương pháp kiểm tra viết
Đây được xem là phương pháp nền tảng sử dụng qua các kỳ kiểm tra điểm quá trình và cuối kỳ, phương
pháp này sử dụng phương pháp tự luận và trắc nghiệm, phần nội dung câu hỏi được đúc kết trong quá
trình giảng dạy và một phần câu hỏi nâng cao. Đây được xem là phương pháp truyền thống của quá trình
dạy học.
252
Trong chương trình đào tạo ngành Ngôn Ngữ Nhật đang vận hành phương pháp kiểm tra viết
chiếm đa số.
3. Thực trạng kiểm tra, đánh giá học phần Ngôn Ngữ Nhật bằng bảng khảo sát
3.1. Nơi nghiên cứu
Ngôn ngữ Nhật đào tạo tiếng Nhật trình độ đại học chính quy theo quy định dành cho những SV
chưa từng học qua tiếng Nhật hay có kiến thức nền tảng trước, hai năm đầu của chương trình đào tạo đào
tạo chuyên sâu về bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc viết, những năm sau đào tạo về chuyên ngành.
Trong các bài kiểm tra đánh giá học phần đào tạo đều ứng dụng 3 phương pháp đã nêu bên trên để
KT,ĐG năng lực SV.
Bảng khảo sát được thực hiện dành cho các bạn học ngành NNN tại các trường: Đại học Công nghệ
tp HCM, Đại học FPT tp HCM, Đạ học Khoa học xã hội và Nhân Văn tp HCM.
Theo thống kê bảng khảo sát thì có 127 SV tham gia khảo sát “Đánh giá hoạt động kiểm tra, đánh
giá trong quá trình học tập của sinh viên ngành Ngôn Ngữ Nhật” trong đó có 29 SV nam, và 98 SV nữ.
Các năm học của các SV tham gia khảo sát như sau:
SV năm nhất : 29 SV
SV năm hai: 38 SV
SV năm ba: 36 SV
SV năm tư: 24SV
Kết quả bảng khảo sát như sau:
b. Kết quả mẫu khảo sát
Nội dung câu hỏi Hoàn toàn Không Bình Đồng ý Hoàn toàn
không đồng ý đồng ý thường đồng ý
SL % SL % SL % SL % SL %
Phương pháp kiểm tra, đánh giá 17 13.4 16 12.6 39 30.7 26 20.5 29 22.8
viết luận hiệu quả
Phương pháp kiểm tra, đánh giá 12 9.4 11 8.7 45 35,4 34 26,8 25 19.7
viết trắc nghiệm hiệu quả
Phương pháp kiểm tra, đánh giá 8 6,3 25 19.7 34 26,8 38 30 22 17.3
viết kết hợp viết và trắc nghiệm
hiệu quả
Thời lượng kiểm tra bài thi 14 11 11 8.7 46 36.2 29 22.8 27 21.2
hiện nay phù hợp
Quy chế kiểm tra, đánh giá phù 17 13.4 29 22.8 45 35.4 12 9.4 24 18,9
hợp với năng lực người học
Bài kiểm tra có kết hợp lý 11 8,6 26 20.5 32 25.2 43 33.9 15 11.8
thuyết và bài tập
Bài kiểm tra liên tục cập nhật 21 16.5 15 11.8 46 36.2 29 22.8 16 12.6
nội dung bài học mới
253
Nội dung bài kiểm tra phù hợp 18 14.2 21 16.5 35 27.6 24 18.9 29 22.8
năng lực người học
Lượng bài tập trên lớp phù hợp 19 15 23 18.1 37 29.1 27 21.3 21 16.5
Câu hỏi vấn đáp trong mỗi buổi 13 10.2 17 13.4 45 35.4 36 28.3 16 12.6
học phù hợp
Nội dung kiểm tra đánh giá 19 15 16 12.6 54 42.5 17 13.4 21 16.5
được mức độ tích lũy kiến thức
môn học, năng lực giải quyết
vấn đề
Đánh giá chuyên cần, quá trình 9 7,1 23 18,1 61 48 22 17.3 12 9.4
và cuối khóa; tỷ trọng điểm phù
hợp
Kết quả kiểm tra, đánh giá 9 7,1 18 14,2 48 37.8 29 22.8 23 18.1
chuyên cần khách quan, chính
xác, công bằng
Theo kết quả khảo sát cho thấy hơn 50% SV tham gia khảo sát lựa chọn bậc bình thường, đồng ý,
hoàn toàn đồng ý cho thấy về CTĐT hiện nay về KT, ĐG là phù hợp, tuy nhiên vẫn còn một số ít SV
không đồng ý với thực trạng hiện nay.
Trong kết quả khảo sát ý kiến khác thì đưa ra một số ý kiến như sau:
GV cần đặt câu hỏi liên quan bài học nhiều hơn, GV cần tương tác nhiều hơn với người học, Cần
nhiều giáo trình sinh động hơn, Bài kiểm tra cần được ngắn hơn.
4. Một số đề xuất đổi mới hoạt động kiểm tra đánh giá các học phần ngành Ngôn Ngữ
Nhật
4.1 Nhận thức đúng về thi, kiểm tra, đánh giá
Nhận thức đúng về chuẩn đầu ra của thi, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập sẽ giúp cho việc thi,
kiểm tra, đánh giá mang tính xác thực. Trong trường hợp thi, kiểm tra, đánh giá với mục đích đo lường
kiến thức của SV thu nhận được thì sử dụng các phương pháp truyền thống như: thi viết dạng tự luận, thi
trắc nghiệm, thi vấn đáp. Trong trường hợp thi, kiểm tra, đánh giá mới kết quả mong muốn đo lường kỹ
năng phải sử dụng phương pháp thực hành. Việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của SV cần được
xác định nhằm nâng cao chất lượng hoạt động học tập của SV và thông qua việc thi, kiểm tra, đánh giá
kết quả học tập sẽ giúp GV điều chỉnh hoạt động giảng dạy và giúp SV điều chỉnh hoạt động học tập.
Ngoài ra, kiểm tra, đánh giá cần được xem xét trong tổng thể quá trình quản lý hoạt động đào tạo của các
trường đại học, cao đẳng. Điều này có nghĩa là việc đổi mới KT,ĐG phải đi đôi với việc đổi mới: chương
trình đào tạo, phương pháp giảng dạy, phương pháp học tập,…
254
4.3 Đổi mới nội dung thi, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
Nội dung thi, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập là một thành phần quan trọng trong việc đánh giá
được thay đổi, nội dung cần được lựa chọn sao cho đánh giá được kiến thức của SV thông qua bài thi .
Nội dung thi phải hướng đến việc vận dụng kiến thức, kỹ năng và thái độ của SV để thực hiện một nhiệm
vụ cụ thể, nội dung phải thể hiện tính toàn diện, đúng trọng tâm và sát với yêu cầu chuyên môn. Vì vậy,
cần có sự liên kết, khảo sát thường xuyên với doanh nghiệp để CTĐT luôn được cập nhật mới đúng với
yêu cầu chuyên môn.
4.4 Cải tiến chất lượng công tác tiến hành thi, kiểm tra, đánh giá
Để đảm bảo chất lượng thi, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên theo năng lực thì các
trường đại học hiện nay cần phải:
Thứ nhất, cấp quản lý cần xây dựng kế hoạch cho các các cấp quản lý và đặt nhiệm vụ cho GV về
tầm quan trọng, mục đích, nội dung và phương pháp thi, kiểm tra, đánh giá theo năng lực người học.
Thường xuyên tổ chức, tập huấn cho cán bộ quản lý và GVphương pháp KT,ĐG.
Thứ hai, nhà trường cần có các hoạt động tham vấn, ký kết các chương trình hợp tác, xây dựng các
CTĐT gắn với các yêu cầu của các doanh nghiệp để đào tạo theo nhu cầu thực tế.
Thứ ba, GV cần đầu tư cho công tác nghiên cứu, cập nhật tài liệu, xây dựng các tiêu chuẩn đánh
giá, lựa chọn các phương pháp đánh giá phù hợp và sử dụng kết quả thi, kiểm tra, đánh giá để điều chỉnh
phương pháp giảng dạy. Ngoài ra, đề thi phải xây dựng theo đúng quy trình, đáp ứng yêu cầu của đánh
giá theo năng lực
Cần sử dụng linh hoạt các phương pháp KT,ĐG sau trong các học phần
1.Kiểm tra vấn đáp
2.Trắc nghiệm khách quan
3. Tự luận
4. Kiểm tra thực hành
5. Quan sát
6.Thảo luận nhóm
7. Đóng vai
8. Seminar
9. Dự án học tập
10. SV tự đánh giá
11. SV đánh giá lẫn nhau
5. Kết luận
KT, ĐG quá trình học tập của SV đóng vai trò quan trọng trong hoạt động dạy học, chi phối đến
quá trình nâng cao chất lượng đào tạo. Việc KT, ĐG kết quả học tập mang tính khách quan, đúng cách,
đúng hướng sẽ đme lại kết quả học tập chính xác của SV, thúc đẩy sáng tạo của SV. Không ngừng cải
tiến, đổi mới quy trình KT, ĐG kết quả học tập của SV đòi hỏi phải thống nhất với quá trình đổi mới căn
bản toàn diện hoạt động đào tạo trong trường đại học từ hoạt động đổi mới CTĐT thiết kế đầu ra hoàn
chỉnh, đổi mới phương pháp dạy học, xây dựng kỹ năng chuyên ngành theo hướng phát triển năng lực
của cá nhân người học đáp ứng được bối cảnh xã hội ngày nay.
255
TỪ VỰNG TIẾNG NHẬT CÓ NGUỒN GỐC TỪ PHẬT GIÁO
Lê Thị Kim Dung*
Bộ môn Tiếng Nhật, Trường Đại học FPT, Campus Hà Nội
*Tác giả liên hệ: (Điện thoại: 0987 971 010 ; Email: dungltk4@fe.edu.vn)
TÓM TẮT
Từ vựng tiếng Nhật có nguồn gốc từ Phật giáo chiếm số lượng không phải quá nhiều. Nhưng cũng
không ít những từ được sử dụng trong cuộc sống hàng ngày của người Nhật là những từ có nguồn gốc từ
Phật giáo. Mỗi từ đều mang trong nó những câu chuyện liên quan tới Phật giáo rất riêng. Khi tìm hiểu
về từ, biết được nghĩa gốc và câu chuyện sâu xa ẩn sau nghĩa từ đó, thì vẻ đẹp của từ ngữ hiện lên khiến
chúng ta thêm yêu ngôn ngữ ấy hơn, yêu con người đất nước, cách suy nghĩ, lối tư duy của cộng đồng
đó hơn. Trong bài viết có đưa ra 6 từ tiếng Nhật có nguồn gốc từ phật giáo, từ đó để khuyến khích những
ai quan tâm tới đề tài sẽ tiếp cận và mở rộng hướng nghiên cứu mà hiện nay ở Việt Nam có rất ít nghiên
cứu về nó.
Từ khóa: Từ vựng, tiếng Nhật, Phật giáo, ngôn ngữ, nguồn gốc
1. Tổng quan
Nhắc tới Nhật Bản, người ta nói tới một quốc gia đa tôn giáo. Trong đó Thần giáo, Phật giáo, Thiên
chúa giáo là ba tôn giáo phổ biến và có lượng tín đồ nhiều nhất. Theo số liệu thống kê tính đến ngày 31
tháng 12 năm 2020, trong ấn bản “Niên giám tôn giáo” (2021) thì lượng tín đồ Phật giáo ở Nhật Bản là
83.971.139 người (chiếm 46,4%), xếp thứ hai sau Thần giáo với lượng tín đồ là 87.924.087 người (chiếm
48,4%). Số lượng tín đồ theo đạo Thiên chúa giáo là 1.915.294 người, chiếm 1,1%. Có những người là
tín đồ của nhiều tôn giáo khác nhau. Như vậy, chúng ta có thể thấy tôn giáo có vai trò vô cùng quan trọng
trong đời sống tâm linh của người dân Nhật Bản. Trong đó, Phật giáo là một tôn giáo có sức ảnh hưởng
mạnh mẽ lên khắp các mặt như văn hóa, tư tưởng, đạo đức, văn học, kiến trúc, mĩ thuật,…của người
Nhật.
Chính do sự ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng Phật giáo trong đời sống của người dân Nhật Bản mà ngay
cả tiếng Nhật - một ngôn ngữ có vốn từ vựng vô cùng rộng lớn và phong phú, cũng tồn tại không ít những
từ ngữ có nguồn gốc từ Phật giáo. Có thể kể ra một số ví dụ như các từ: “thế gian”, “tri thức”, “nhân
duyên”, “vô ngã”, “ an tâm”, “an lạc”,….
Đối với những người đã và đang học tiếng Nhật, thậm chí cả người Nhật bản địa thì những từ như:
“arigatou” (có nghĩa là: “cảm ơn”), “sumimasen” ( có nghĩa là “xin lỗi”) là những từ rất quen thuộc, được
sử dụng với tần suất nhiều nhất trong hội thoại hàng ngày. Nhưng không phải ai trong số họ cũng biết
được câu chuyện ẩn sâu bên trong chứa đựng triết lí nhà Phật mang tính nhân văn sâu sắc của những từ
này.
Thực tế cho thấy, có rất nhiều nghiên cứu về Phật giáo hay về ngôn ngữ nói riêng. Tuy nhiên, ở
Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu sâu, rộng về đề tài từ vựng tiếng Nhật có nguồn gốc từ Phật
giáo. Trong phạm vi của bài viết, tôi muốn đề cập tới những từ vựng được sử dụng trong cuộc sống hàng
ngày có nguồn gốc từ Phật giáo. Số lượng từ có nhiều nhưng trong phần chính của bài viết, tôi xin đưa
ra 6 ví dụ và giải thích ý nghĩa Phật giáo của 6 từ đó dựa trên các tài liệu được tổng hợp từ các cuốn sách
được xuất bản tại Nhật có liên quan đến đề tài.
Thông qua việc giải thích một số những từ vựng tiếng Nhật có nguồn gốc từ Phật giáo này, tôi
muốn mở ra những góc nhìn, hướng tiếp cận và hướng nghiên cứu mới liên quan đến đề tài này.
256
中村元 Nakamura(1977)『仏教語源散策』東京書籍
大谷大学 Ootanidaigaku(2001)『仏教が生んだ日本語』毎日新聞社
草木舎 Somokusha(2006)『知ってびっくり!仏教由来の日本語』アーツアンドクラフツ
Lê Thị Kim Dung (2012), Khảo sát nghĩa của từ Engi có nguồn gốc từ Phật giáo, Luận văn Thạc
sĩ, Đại học Hà Nội.
Nakamura (1977) đã đưa ra rất nhiều từ có nguồn gốc từ Phật giáo và phân loại những từ thành
nhiều chủ đề khác nhau. Công trình nghiên cứu là tuyển tập 3 cuốn sách viết về những từ có nguồn gốc
từ Phật giáo. Mỗi từ đều chứa đựng một câu chuyện nhà Phật của riêng nó, được tác giả viết, giải thích
một cách chi tiết, dễ hiểu.
Trường đại học Ootani (2001) có viết về ý nghĩa của các từ tiếng Nhật có nguồn gốc từ Phật giáo.
Tác giả chia ra và sắp xếp các từ đó theo 7 chương, mỗi chương là một chủ đề khác nhau. Ví dụ : chương
1 là “những thứ không nhìn thấy được” như những từ : “shusse” (dịch: “sự thăng tiến”), “Daiji” ( dịch:
“quan trọng”), “Aisatsu” ( dịch: “lời chào, sự chào hỏi”) ; Chương 2 có chủ đề là “những vật có hình
dạng” như “Gakusei” ( dịch: “sinh viên”), “Ningen” ( dịch: “con người”),...Các giải thích về từ vựng chi
tiết và dễ đọc.
Somokusha (2006) đã đưa ra 212 từ có nguồn gốc từ Phật giáo như là “Aisatsu” (dịch: “lời chào,
sự chào hỏi”), “Anshin” ( dịch: “sự an tâm”), “Arigatou” ( dịch: “Cảm ơn”),….Tác giả giải thích ngắn
gọn ý nghĩa phật giáo của 212 từ kèm theo nghĩa được dùng hiện tại của những từ này. Tuy nhiên, các
giải thích còn quá ngắn gọn và chưa sâu. Cách sắp xếp các từ theo thứ tự Alphabet nên chưa tìm được
mối liên quan của những từ cùng có nguồn gốc từ Phật giáo này.
Lê Thị Kim Dung (2012) đã tập trung nghiên cứu nghĩa của từ Engi ( dịch: “duyên khởi”). Luận
văn này chỉ ra các ý nghĩa của từ thông qua ba chương. Chương 1 tóm lược về thuyết duyên khởi trong
nhà Phật, lịch sử tư tưởng “duyên khởi”qua các thời kì Phật giáo. Chương 2 làm rõ nghĩa của “duyên
khởi” trong Kinh pháp hoa. Chương 3 tập trung vào ý nghĩa hiện tại của từ “duyên khởi” đang được sử
dụng trong cuộc sống hàng ngày. Như vậy, luận văn này đã đề cập tới từ vựng có nguồn gốc từ Phật giáo
nhưng là nghiên cứu chuyên sâu về một từ duy nhất. Luận văn chưa mở rộng thêm các từ để có cái nhìn
bao quát hơn, tổng hợp hơn về lớp từ này. Do đó cũng chưa thấy được ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo
tới ngôn ngữ, cụ thể ở đây là tiếng Nhật và ngược lại, ngôn ngữ Nhật phản ánh triết lí sâu xa, chứa đựng
những bài học giá trị lớn lao của đạo Phật.
Bài viết này dựa trên các nghiên cứu trước đây, tổng hợp kiến thức và chắt lọc ra một số từ có
nguồn gốc từ Phật giáo hay sử dụng nhất trong cuộc sống hàng ngày của người Nhật. Qua đó, để thấy
được nét nghĩa gốc của từ vựng trong ngôn ngữ Nhật, thấy được những điều bất ngờ và những điều thú
vị mà trước đây có thể chúng ta chưa từng biết tới.
257
3.2 “Aisatsu” 挨拶
Trong thiền tông, khi một bậc thầy tranh luận với một tu sĩ là môn đệ của mình để đánh giá mức
độ giác ngộ của môn đệ thì cuộc tranh luận đó người ta gọi là「一挨一拶」(cách đọc: “ ichiai
ichisatsu”). Chữ 挨 có âm Hán- Việt là “Ai, ải” ( chỉ việc “đẩy”- 押すosu), ở đây nó mang nghĩa “đặt
câu hỏi”. Còn chữ 拶 có âm Hán- Việt là “Tạt” ( “tới gần, tiến lại gần” 近づく、せまる) , ở đây có nghĩa
là “trả lời ngay” câu hỏi đó. Sự kết hợp giữ hỏi và đáp tạo thành từ “Aisatsu”.
Ngày nay thì từ “ aisatsu” được dùng để chỉ những lời nói, câu chào hỏi thân mật khi gặp gỡ hoặc
chia tay ai đó. Ví dụ những lời chào nhau như: “chào buổi sáng” , “chào buổi trưa”,…chính là “aisatsu”.
Hay trong đại dịch Covid 19 vừa qua, khi xã hội bị giãn cách, không có nhiều cơ hội gặp người thân hay
bạn bè thì không chỉ những câu chào hỏi trên mà một nụ cười tươi, một ánh mắt trìu mến, một giọng nói
ấm áp cũng chính là những “Aisatsu” để tình cảm hai bên trở nên thân thiết hơn.
Nghĩa hiện tại: Sự chào hỏi, lời chào, câu chào.
3.6 Shusse 出世
“Shusse” 出世 là từ thường xuất hiện trong bài đọc hay hội thoại tiếng Nhật. Nhắc tới từ “shusse”
người ta hay nghĩ ngay tới việc như: một đô vật môn đấu võ Sumou được lên thi đấu hạng cao nhất, đạt
được danh hiệu Yokozuna (cấp cao nhất trong sumou) hay Ooseki (cấp bậc cao thứ hai sau Yokozuna);
nhắc tới shusse, người ta nói tới người làm công ăn lương được thăng chức từ nhân viên lên phó phòng,
từ làm chuyên môn lên làm giám đốc,…nghĩa là shusse chỉ việc thành công và thăng tiến lên một địa vị
xã hội cao hơn.
Sự trưởng thành hay phát triển của con người qua từng giai đoạn cũng giống như sự phát triển,
trưởng thành của một số loài cá ở Nhật. Ví dụ: con cá rô biển ( suzuki) ở Nhật có tên gọi theo từng giai
đoạn là: seigofukkosuzuki. Con cá cam Nhật Bản (Buri) có tên theo thứ tự:
Wakashiinagowarasaburi. Tuy nhiên, xét cho cùng, tất cả mọi hoạt động của con người như: học
tập, làm việc,.. cũng đều là vì muốn đạt được sư thành công, thăng tiến.
Chữ 出 có âm Hán-Việt là “xuất” ( trong từ “xuất hiện”), Chữ 世 có âm Hán-Việt là “thế” ( trong
từ “ thế giới, thế gian”).
Trong Phật giáo, nghĩa của từ “shusse” lại là: “sự xuất hiện của Đức Phật trên cõi đời này, sau đó
xuất gia, tu theo đạo Phật”. Trong kinh “ Đại vô lượng thọ” có viết: “Sở dĩ Như Lai xuất hiện trên đời
này là để khai sáng giáo pháp, cứu độ chúng sinh và hơn nữa là để ban phước lành, lợi lạc thực sự cho
259
con người”. Lợi lạc thực sự không phải là sự thỏa mãn mong muốn của bản thân với thế giới mà là cho
dù trong hoàn cảnh như thế nào đi chăng nữa, chúng ta trân trọng sự tồn tại của bản thân mình trong cõi
đời, nhận thức được sự khắc nghiệt của cuộc đời và sống an vui, trọn vẹn từng giây phút của hiện tại
Đức Phật vốn là thái tử của vua Tịnh Phạn- người đứng đầu dòng tộc Shakya ở Ấn Độ. Tương lai
của ngài hứa hẹn sẽ trở thành một người đầy quyền lực và đầy vinh quang hiển hách. Nhưng do ngài thấy
được đời là bể khổ, quy luật sinh lão bệnh tử chẳng chừa một ai. Hơn nữa ngài cũng nhận ra rằng chẳng
có hạnh phúc thực sự nào trong tuổi trẻ, sức khỏe, địa vị và sự giàu có nên ngài đã rời lâu đài để theo
đuổi hạnh phúc thực sự.
Đạo Phật rao giảng chân lí mà Đức Phật đã thức tỉnh, giác ngộ. Trong kinh Phật cũng chỉ ra rằng:
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã xuất hiện trên thế giới này (Lai 来 ) từ thế giới thực ( Như 如). Và đây
chính là ý nghĩa hoản toàn khác so với ý nghĩa mà Shusse được dùng như hiện nay.
Nghĩa của từ Shusse được dùng hiện nay là: Sự thăng tiến, sự thành đạt.
4. Kết luận
Chúng ta vừa tìm hiểu qua ý nghĩa 6 từ trong số nhiều từ vựng tiếng Nhật có nguồn gốc từ Phật
giáo.
Qua tìm hiểu ý nghĩa của các từ đó, chúng ta thấy được vẻ đẹp của ngôn ngữ Nhật, vẻ đẹp tinh tế
thấm đượm chữ “đạo” trong tư tưởng, suy nghĩ của người dân xứ sở hoa anh đào. Ẩn sau từng từ là từng
câu chuyện mang ý nghĩa kèm theo những lời chỉ dạy sâu sắc của nhà Phật. Ngay cả những cái hữu hình
như Genkan (lối vào, cửa ra vào) , đến những thứ vô hình như “ Aisatsu” ( lời chào, chào hỏi) “ Arigatou”
( cảm ơn) , “ Sumimasen” (xin lỗi) , “Daiji”( quan trọng) hay “Shusse” ( thăng tiến) đều chứa đựng bài
học nhân sinh quan giá trị. Chúng ta ra hay vào đâu đó, cần lễ phép chào hỏi, với các mối quan hệ xã hội
cần biết đối nhân xử thế, biết nói lời cảm ơn, nói lời xin lỗi khi cần, biết trân trọng cuộc sống và đánh
giá xem điều gì quan trọng nhất với mình để tiến đến thành công, thăng tiến trong sự nghiệp. Chỉ 6 từ
tưởng chừng đơn giản thôi nhưng là cả bài học quý báu cho cuộc đời mỗi người. Qua đó chúng ta lại có
thêm bằng chứng để khảng định chắc chắn rằng: Phật giáo ảnh hưởng to lớn tới đời sống tinh thần của
người dân Nhật Bản. Và ngược lại, ngôn ngữ là công cụ phản ánh đời sống tinh thần phong phú đó một
cách rõ nét nhất.
Hiểu được nguồn gốc ý nghĩa của từ vựng sẽ góp phần khiến cho việc dạy và học ngôn ngữ trở nên
thú vị hơn, tránh sự nhàm chán khi ngày qua ngày chỉ dạy và học chay nghĩa của những từ đó. Hơn nữa,
điều này cũng góp phần tạo động lực cho giảng viên và sinh viên có những nghiên cứu và học tập chuyên
sâu hơn liên quan đến đề tài.
Hiểu được lớp nghĩa gốc của từ vựng như trên, chúng ta không chỉ thấy vẻ đẹp hay sự thú vị trong
ngôn ngữ mà chúng ta còn học được những bài học nhân sinh quan sâu sắc. Xét cho cùng, con người tôn
tại trên thế gian này, để học và hiểu “giá trị” của chính mình và ý nghĩa của cuộc đời. Điều này không
cần tìm kiếm ở đâu đó xa xôi, chúng ta đã, đang thấy nó trong cuộc sống hàng ngày qua những từ ngữ
giản dị mà đúc kết kinh nghiệm sâu sắc, chứa đựng giá trị đạo đức to lớn.
Như vậy, nếu xét ở tầm vĩ mô, từ vựng tiếng Nhật thuộc phạm vi nghiên cứu liên quan đến Từ
vựng học và Phật giáo nằm trong tôn giáo. Có nghĩa đây là một đề tài nghiên cứu liên quan đến ngôn
ngữ và tôn giáo. Tôn giáo và ngôn ngữ có mối quan hệ mật thiết với nhau nhưng xét trên bình diện chung
của Ngôn ngữ học thì các nghiên cứu về nó chưa được chú trọng. Ở Việt Nam, vấn đề ngôn ngữ và tôn
giáo lại càng mới mẻ. Nên việc nghiên cứu cần xem xét ở nhiều góc cạnh để có cái nhìn bao quát và đánh
giá khách quan hơn.
Để mở rộng hướng nghiên cứu trong tương lai, chúng ta không chỉ nghiên cứu thêm nhiều từ vựng
khác có nguồn gốc từ Phật giáo mà còn có thể nghiên cứu xem trong kho tàng thành ngữ, tục ngữ và từ
tượng thanh, tượng hình tiếng Nhật có những trường hợp nào có nguồn gốc từ Phật giáo; phân tích những
đặc điểm chung của lớp từ vựng tiếng Nhật có nguồn gốc từ Phật giáo đó; hoặc chúng ta khảo sát sự thay
đổi ý nghĩa của lớp từ vựng này trong quá trình phát triển hay lịch sử phát triển của nó. Thông qua đó,
chúng ta có thể am hiểu hơn về ngôn ngữ Nhật, hiểu hơn về đất nước, con người Nhật Bản.
261
TRÀ ĐẠO CỦA NHẬT BẢN VÀ THIỀN TRÀ CỦA VIỆT NAM
TÓM TẮT
Trà đạo là một nét văn hóa truyền thống độc đáo của người Nhật Bản. Trà đạo không chỉ là một
nghệ thuật mang đến hương vị thơm ngon khi thưởng thức trà, mà còn ẩn chứa cả những triết lý sống
nhân văn. Có rất nhiều bài báo, nghiên cứu giới thiệu về Trà đạo Nhật Bản. Tuy nhiên, không có nhiều
tài liệu, bài viết về Thiền trà. Thiền trà có nguồn gốc từ Phật giáo, được các nhà sư tổ chức ở trong tu
viện nhưng hiện nay đã được phổ biến rộng rãi hơn tới các gia đình và mọi người đều có thể tham dự.
Trong bài viết này, người viết sẽ khái quát chung về Trà đạo và Thiền trà, đồng thời, chỉ ra những
nét tương đồng và sự khác biệt giữa trà đạo Nhật Bản và Thiền trà của Việt Nam trong đời sống hàng
ngày.
Từ khóa: Nhật Bản, Trà đạo, Thiền trà,...
262
Sau bữa ăn nhẹ (kaiseki) là Lễ dâng trà đậm koicha (goza-iri): chủ nhân dùng chày gỗ gõ vào khánh
đồng treo trong trà thất, báo hiệu lễ chính bắt đầu. Khi nghe thấy tiếng gõ, khách sẽ cung kính đứng dậy,
ra khu vực hồ nước để rửa tay và súc miệng một lần nữa rồi trở vào trà thất.
Chủ nhân chuẩn bị một chậu đựng nước nóng để tráng bát, một gáo múc nước và một giá kê gáo
hoặc nắp siêu, một hộp mứt bánh đặt trước mặt vị quan khách quan trọng nhất.
Bước 1: dùng khăn fukusa lau sạch hộp đựng trà chaire và thìa tre xúc trà cha-shaku, rồi lấy chổi
tre cha-sen cho vào nước nóng.
Bước 2: tráng Bát to cha-wan bằng nước nóng, sau đó, lấy khăn vải gai mịn chakin lau lại cả mặt
trong và mặt ngoài bát.
Bước 3: lấy thìa tre chuyên dụng cha-shaku xúc 3 thìa trà từ hộp trà bột cha-ire ra bát. Rồi lấy gáo
tre múc đầy nước sôi trong siêu nhưng chỉ rót 1/3 vào bột trà đựng trong bát, nước còn thừa thì đổ lại
vào siêu. Dùng chổi tre cha-sen khuấy cho trà tan đến khi sền sệt là được. Sau đó, đặt bát trà cạnh bếp
lửa.
Khách mời, sau khi dùng mứt, sẽ đến quỳ và nâng bát trà lên. Để thực hiện đầy đủ các nghi lễ trên
thì ít nhất cũng cần tới 4 giờ. Nếu chỉ thực hiện lễ usacha thì cũng gần một giờ [4; 107 -108].
4. Kết luận
Uống trà là một hình thức uống phổ biến trên thế giới, người Nhật đã đưa các nghi thức uống trà,
pha trà thành một nghi lễ gọi là Trà đạo. Khi uống trà tâm hướng về chén trà, có sự hòa hợp giữa con
người và thiên nhiên, thể hiện sự tôn kính đối với người tham gia và cảnh vật xung quanh giúp cho tâm
trở nên tĩnh lặng, sâu sắc hơn. Còn trong thiền trà thông qua hoạt động uống trà, mọi người có cơ hội
sống chậm lại, ý thức về hơi thở và coi trọng phút giây hiện diện lúc đó. Mọi người chia sẻ cho nhau
những câu chuyện trong cuộc sống, hát bài hát hoặc ngâm thơ cho nhau nghe điều này giúp tăng trưởng
tình yêu thương, sự thấu hiểu và hạnh phúc.
Cùng là một chén trà nhưng Trà đạo và Thiền trà đã đưa được những giá trị nhân văn sâu sắc, thể
hiện tinh thần biết ơn, trân quý tới cuộc sống hiện tại đồng thời giúp người tham gia trải nghiệm được
cảm giác an lạc, hạnh phúc.
266
ẢNH HƯỞNG CỦA BỐI CẢNH XÃ HỘI VÀ NGÔN NGỮ
ĐẾN GIAO TIẾP TIẾNG NHẬT
Nguyễn Anh Thư*
Giảng viên Bộ môn Du lịch, Trường Đại học Trà Vinh
*Tác giả liên hệ: Điện thoại: 0974 164 080; Email: nathu@tvu.edu.vn
TÓM TẮT
Tiếng Nhật là một trong những ngôn ngữ phổ biến ở Việt Nam hiện nay. Ngôn ngữ này được sử
dụng ngày càng nhiều trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là văn hóa, giáo dục và du lịch. Tuy nhiên, việc giao
tiếp tiếng Nhật không chỉ phục thuộc vào việc từ vựng hay ngữ pháp, mà còn nhiều yếu tố khác. Bài
tham luận tập trung vào hai yếu tố đó là: Bối cảnh xã hội và ngôn ngữ. Bằng phương pháp nghiên cứu lý
thuyết và tổng hợp tài liệu, tác giả nhận thấy bối cảnh xã hội và ngôn ngữ là hai yếu tố có ảnh hưởng đến
cách sử dụng từ ngữ, thái độ trong giao tiếp với người Nhật.
Từ khóa: bối cảnh xã hội, giao tiếp tiếng Nhật, ngôn ngữ Nhật.
1. Đặt vấn đề
Tiếng Nhật được nói bởi 125 triệu người và hầu hết họ đều cư trú ở Nhật. Ngôn ngữ là cội nguồn
của văn hóa, không có phong tục, nghi lễ hay nghi thức nào thực sự có ý nghĩa, có giá trị mà không được
thể hiện bằng ngôn ngữ.
Việt Nam và Nhật Bản đã xây dựng được mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp nhất từ trước đến nay, tin
tưởng về chính trị, tăng cường hợp tác và hỗ trợ kinh tế, hợp tác tại các diễn đàn quốc tế và khu vực. Đó
là nhận định chung được lãnh đạo hai nước đưa ra khi đánh giá về mối quan hệ đã có bề dày gần 50 năm
phát triển.
Các sản phẩm văn hóa của Nhật Bản từ cổ điển, như nghệ thuật cắm hoa ikebana, nghệ thuật kiếm
đạo kendo, nghệ thuật gấp giấy origami…, đến hiện đại như truyện tranh manga, phim hoạt hình anime,
thời trang cosplay, ngắm hoa anh đào… được thanh thiếu niên Việt Nam rất thích.
Tính theo quốc gia/khu vực, số lượng sinh viên Trung Quốc đang học tập tại Nhật Bản vào đầu
tháng 5-2020 là 121.845 người, giảm 2,1% so với cùng kỳ năm trước đó. Việt Nam đứng thứ hai với
62.233 người, giảm 15,2% [1]. Theo thống kê, tính đến cuối tháng 10/2020, tổng số lao động nước ngoài
tại Nhật Bản là hơn 1,72 triệu, trong đó người số lượng lao động Việt Nam lần đầu tiên ở mức cao nhất
khoảng 444.000 người [2]. Điều này chứng tỏ tiếng Nhật cũng phát triển theo và mở rộng đối tượng học
tập. Ở Việt Nam, Số lượng học viên tiếng Nhật khoảng 174.000 người, trong đó 31.200 người là sinh
viên đại học, 26.200 người là học sinh trung học phổ thông và trung học cơ sở, 2.000 người là học sinh
tiểu học, 115.000 học viên từ các trường tiếng và trung tâm đào tạo thực tập sinh (Theo khảo sát của Quỹ
Giao lưu Quốc tế Nhật Bản năm 2018 [3]. Với độ phổ biến của tiếng Nhật, việc học tiếng Nhật là cần
thiết và hơn thế nữa chúng ta cũng cần tìm hiểu về các yếu tố ảnh hưởng đến giao tiếp tiếng Nhật. Trên
thực tế có nhiều yếu tố khách nhau ảnh hưởng đến việc giao tiếp tiếng Nhật, tuy nhiên trong phạm vi bài
tham luận này, tác giả đề cập đến 2 yếu tố là: bối cảnh xã hội và ngôn ngữ. Theo tác giả đây là 2 yếu tố
quan trọng ảnh hưởng đến giao tiếp tiếng Nhật hiện nay.
2. Nội dung
2.1 Khái quát về tiếng Nhật
Trong hệ thống chữ viết Nhật có 4 bộ chữ:
- Hiragana: còn gọi là bộ chữ mềm, với các nét chữ mềm mại, đây là những chữ thể hiện những từ
thuần Nhật, có khoảng 50 ký tự, và được sử dụng nhiều nhất.
- Katakana: Còn gọi là bộ chữ cứng, với các nét cứng hơn, thường được dùng để thể hiện những từ
vay mượn từ nước ngoài, cách đọc giống hiragana.
267
- Kanji: Là những chữ Hán được vay mượn từ hệ thống chữ viết của Trung Quốc, được sử dụng
rất nhiều trong tiếng Nhật. Tuy chữ viết là chữ Hán, nhưng sẽ đọc theo âm Nhật và ý nghĩa có đôi chút
khác biệt.
- Romaji: là những chữ la – tinh, được dùng để phiên âm quốc tế tiếng Nhật. Các ký tự này ban
đầu khá thuận lợi cho người học, tuy nhiên khi đã thuộc chữ Nhật thì phần Romaji không thật sự cần
thiết.
2.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến giao tiếp tiếng Nhật
2.2.1 Bối cảnh xã hội
Điểm khởi đầu cho trải nghiệm của người Nhật nằm ở xã hội. Ở Nhật, việc thích nghi với xã hội,
tương tác với xã hội là xu hướng thích nghi chính, dù không phải là duy nhất, nhưng đó là cách đào tạo
con người hướng đến tập thể, vì tập thể. Mối quan hệ giữa bản thân và xã hội được đặc trưng ở đây có
thể làm sáng tỏ các khía cạnh khác nhau của cuộc sống ở Nhật Bản. Không ai hoàn toàn tách khỏi xã hội,
ngược lại xã hội được xác định bởi các cá nhân.
Nhà phân tâm học người Nhật: Takeo Doi (1920-2009), Ông được biết đến nhiều nhất với cách
giải thích có ảnh hưởng về xã hội Nhật Bản đương đại trong tác phẩm The Anatomy of Dependence, xuất
bản năm 1971, tập trung chủ yếu vào khái niệm “Amae” tức là “sự phụ thuộc” những cảm xúc và hành
vi bên trong thể hiện mong muốn bẩm sinh của cá nhân được thấu hiểu và quan tâm [4]. Theo thuyết
Amae sẽ có ít nhất hai cá nhân và mối quan hệ qua lại về tâm lý và cảm xúc. Người muốn chìm đắm
trong sự phụ thuộc về cảm xúc, còn người kia sẵn sàng có dấu hiệu hợp tác với tư cách hỗ trợ trong mối
quan hệ amae [5]. Người Nhật luôn định hướng nhóm, và liên kết chặt chẽ với những khái niệm như:
uchi và soto. Uchi (内 - うち) trong tiếng Nhật có nghĩa là trong, bên trong. Soto (外 - そと) có nghĩa là
ngoài, bên ngoài. Những người cùng một nhóm sẽ coi mình là uchi, trong khi họ nghĩ về những người
bên ngoài nhóm là những người soto. Khi họ đã phân biệt được những cùng nhóm và ngoài nhóm, họ sẽ
có các giao tiếp phù hợp để thể hiện họ thuộc về một nhóm nào đó. Ví dụ trong tiếng Nhật, khi người
nào đó muốn câu: “công ty của chúng tôi”, họ sẽ nói “うちの会社” (uchi no kaisa).
Theo Takie Sugiyama Lebra, bà chia ra thêm 2 khái niệm nữa là omote (表 - おもて) và ura (裡 - う
ら), tạo thành 4 cặp phạm trù góp phần định hướng các tình huống giao tiếp trong xã hội Nhật Bản là:
- Uchi/omote: thân thiện, thoải mái, hai bên tương tác là người của cùng một nhóm nhưng có sự
quan sát của người khác.
- Uchi/ura: có mối quan hệ thân mật khi hai người có mối quan hệ thân thiết là thành viên của một
nhóm và không có sự quan sát của người khác trong quá trình họ giao tiếp.
- Soto/omote: nghi lễ, nghi thức diễn ra khi hai người tương tác không thuộc cùng một nhóm và có
người quan sát trong quá trình họ giao tiếp
- Soto/ura: tình huống diễn ra khi hai người giao tiếp không cùng một nhóm và quá trình giao
không có người quan sát. [5]
268
thực tế. Trang tin TBS của Nhật có bài đăng: [成人式改め“二十歳のつどい”「次は私たちの番」意気込み
語る], trong bài có đoạn trò chuyện của bố mẹ của những người trưởng thành như sau:
[僕らの時の 20 歳はほとんど子どもだったと思うので、今の子は案外しっかりしていると思う] [6]có nghĩa
là “Tôi nghĩ hầu hết những người 20 tuổi trong thời đại chúng ta đều là những đứa trẻ, vì vậy tôi nghĩ
rằng những đứa trẻ ngày nay trưởng thành một cách đáng ngạc nhiên”. Câu này diễn đạt mang tính chủ
quan và có những từ ngữ chỉ cảm xúc cá nhân. Đồng thời, người nói cũng sử dụng văn phong thông dụng
thay vì sử dụng văn phong trang trọng, lịch sự.
Một cách dung hợp khác trong ngôn ngữ Nhật Bản đó là sự dung hợp giữa văn nói và văn viết.
Trong lối viết đương đại của Nhật Bản, cách viết sử dụng văn nói vẫn được ứng dụng. ví dụ, các tạp chí
phong cách thời trang hướng đến các bạn trẻ là nam thì thường sử dụng phong cách diễn đạt thông dụng
của nam giới. Còn tạp chí dành cho nữ giới sẽ sử dụng ngôn ngữ nói thông dụng của nữ giới. Trong các
tác phẩm tiểu thuyết lãng mạng cho nữ giới, cách viết như thể nói với giọng điệu thân thiện, tạo ấn tượng
như thể người viết đang trao đổi, trò chuyện với người đọc [5].
Những ai đã từng học tiếng Nhật đều biết rằng trong tiếng Nhật có nhiều mức độ thể hiện sự lịch
sự, trang trọng khác nhau, tùy thuộc vào mức độ thân thiết, bối cảnh giao tiếp giữa các đối tượng. Thông
thường, trong giao tiếp tiếng Nhật sẽ chia ra làm 3 mức độ:
- Một là thân mật sẽ dùng văn phong thông dụng trong các trường hợp như: bạn bè thân thiết, người
trong gia đình, người có tuổi tác, địa vị cao hơn nói với người có tuổi tác, địa vị thấp hơn. Trong trường
hợp này, người nói dùng thể ngắn như: V る, V て, V た, V ない,…
- Hai là văn phong lịch sự: thường được sử dụng trong các trường hợp như: Nhân viên giao tiếp
với khách hàng, giám đốc, đối tác làm ăn; đi phỏng vấn xin việc; khi muốn tỏ thái độ kính trọng đối với
người nghe. Trong những trường hợp này, người Nhật thường dùng các từ kiểu desu và masu (です và ま
す).
- Cuối cùng là dùng kính ngữ: thường được sử dụng trong các trường hợp như nói đến hành động
hay trạng thái của người trên mình. Trong trường hợp này thường dùng những cách chia từ như: [お V ま
す/ご VN] になります; V られます; お + 食事、洗濯、掃除、電話…đồng thời người nói khi đề cập đến
mình và người thuộc nhóm mình sẽ dùng khiêm tốn ngữ.
Ngoài việc sử dụng lời nói, người Nhật còn sử dụng giọng điệu để thể hiện thái độ của mình khi
giao tiếp. ví dụ như khi muốn nhờ vả, người Nhật sẽ nói sumimasen (すみません) một cách ngập ngừng,
ngắt quảng thể hiện sự ngại ngùng, gây phiền khi mình nhờ người khác giúp mình.
Những trường hợp dùng không đúng văn phong sẽ tạo ấn tượng không tốt đối với người nghe và
những người đang quan sát. Nếu người nói dùng văn phong thông dụng để trò chuyện với những người
lớn tuổi hơn sẽ bị đánh giá là thiếu lễ phép, không được giáo dục tốt. Ngược lại nếu người nói dùng kính
ngữ trong những trường hợp không thật sự cần thiết sẽ tạo khoảng cách giữa người nói và người nghe.
Sự khác biệt ngôn từ sử dụng giữ nam và nữ trong tiếng Nhật là yếu tố cần được chú trọng. 男性
語 – Danseigo hay “ngôn ngữ của nam giới” là thuật ngữ dùng để chỉ xu hướng sử dụng từ hoặc cụm từ
thể hiện sự nam tính (男らしい – Otokorashii), bao gồm cách nói thẳng hoặc thậm chí có chiều hướng đe
dọa giữa nam giới đối với các mối quan hệ bạn bè thân thiết. Nguồn gốc của Danseigo được cho là xuất
phát từ lối nói chuyện của các Samurai, ngôn ngữ phổ biến trong tầng lớp hầu cận của gia đình Samurai
thời đầu cận đại, cách giao tiếp của nam sinh từ cuối thời Edo đến thời kỳ Minh Trị và ngôn ngữ dùng
trong quân đội Nhật Bản. Nhưng tùy thuộc vào phương ngữ, nhiều khu vực gần như không có sự khác
biệt về giới tính trong từ ngữ sử dụng [7]
269
“女性語 – Joseigo” hay ngôn ngữ của phụ nữ có phần nhẹ nhàng, lịch sự hơn và phần nào thể hiện
sự mềm yếu của phái nữ (女らしい – Onnarashii). Ở Nhật Bản trước thời cận đại, ngôn ngữ nói của phụ
nữ có sự khác biệt rất nhiều theo khu vực và cấp bậc.
Phụ nữ Nhật thời xưa rất hiếm khi thẳng thắn xưng “わたし – Watashi – Tôi”, mà họ sẽ dùng “あた
し – Atashi” như một cách nói có phần mềm mỏng hơn. Ở khu vực phía Tây Nhật Bản, “うち – Uchi”
cũng được sử dụng như ngôi thứ nhất, mặc dù trong ngôn ngữ thường ngày, từ này còn có nghĩa là “công
ty của chúng tôi”, “nhà tôi” [4].
Sự phân chia ngôn ngữ theo giới này một phần xuất phát từ tư tưởng phụ nữ là phái yếu, thường
làm hậu phương cổ vũ cho chồng (người nam) nên họ sẽ dùng từ ngữ mềm mỏng, nhu mì hơn. Trong khi
nam giới được xem là phái mạnh, trở thành trụ cột của gia đình nên ngôn từ cần kiên quyết, cứng rắn
hơn để thể hiện quyền lực.
Trong ngôn ngữ Nhật Bản, cũng giống như những ngôn ngữ khác luôn có sự vay mượn từ ngôn
ngữ nước ngoài. Đầu tiên là Trung Quốc, từ thời Nara người Nhật đã vay mượn nhiều từ của Trung Quốc.
Hiện nay Kanji trở thành một phần không thể thiếu trong ngôn ngữ Nhật với hai cách đọc: Cách đọc chữ
Kanji theo âm Nhật (Thuần Nhật) - Kunyomi, đọc chữ Kanji theo âm Hán (Hán Nhật) - Onyomi. Ví dụ:
chữ 食 sẽ có cách đọc theo âm Kun là た - べる [食べる]; cách đọc theo âm On sẽ là ショク (食堂 - しょくど
う). Riêng các từ vay mượn từ các ngôn ngữ khác như tiếng Anh sẽ được viết bằng katakana, ví dụ: コン
ピューター (computer).
3. Kết luận
Qua phần trình bày trên, chúng ta có thể thấy rõ sự ảnh hưởng của bối cảnh xã hội và ngôn ngữ
đến giao tiếp trong tiếng Nhật. Dù học tập và làm việc với người Nhật ở Việt Nam hay Nhật Bản thì đây
thật sự là những điều cần biết khi chúng ta học và giao tiếp bằng tiếng Nhật. Vì để hiểu một ngôn ngữ
thì điều rất khó nên hy vọng bài viết sẽ góp phần nhỏ vào nghiên cứu tiếng Nhật ở Việt Nam hiện nay.
270
SỰ KHÁC NHAU VỀ ÂM TIẾT TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG NHẬT
TÓM TẮT
Tiếng Việt và tiếng Nhật thuộc hai loại hình ngôn ngữ khác nhau. Sự khác nhau về loại hình ngôn
ngữ dẫn đến sự khác nhau về âm tiết của hai ngôn ngữ này. Bài viết này trước hết nêu ra khái niệm về
âm tiết, cấu tạo âm tiết sau đó phân tích các đặc trưng của âm tiết trong tiếng Việt và tiếng Nhật để tìm
ra điểm khác nhau giữa chúng. Bài viết hi vọng trở thành một thông tin tham khảo có giá trị cho người
dạy và người học để hiểu hơn về âm tiết tiếng Nhật và tiếng Việt từ đó khắc phục được những khó khăn
về phát âm của người Việt Nam khi học tiếng Nhật.
Từ khóa: âm tiết, âm tiết khép, âm tiết mở, mora.
1. Đặt vấn đề
Tiếng Nhật và tiếng Việt thuộc hai loại hình ngôn ngữ khác nhau. Tiếng Nhật thuộc ngôn ngữ chắp
dính còn tiếng Việt thuộc loại ngôn ngữ đơn lập. Sự khác biệt về loại hình ngôn ngữ này tạo ra sự khác
nhau về âm tiết trong hai ngôn ngữ. Cho đến nay, các bài nghiên cứu thường tập trung vào việc tìm hiểu
âm tiết trong tiếng Nhật hoặc tiếng Việt. Có một số ít bài có đề cập đến sự khác nhau về âm tiết trong
hai ngôn ngữ nhưng chưa đi sâu vào phân tích kỹ từ đặc trưng âm tiết trong hai ngôn ngữ. Chính vì vậy,
chúng tôi muốn làm sáng tỏ sự khác nhau về âm tiết trong tiếng Việt và tiếng Nhật dựa trên sự phân tích
kỹ các đặc trưng âm tiết trong mỗi ngôn ngữ. Bài viết này trước hết nêu ra khái niệm về âm tiết, cấu tạo
âm tiết rồi đi phân tích các đặc trưng về âm tiết trong tiếng Việt và tiếng Nhật để rút ra điểm khác nhau
về âm tiết trong hai ngôn ngữ này.
3.1 Cấu trúc âm tiết tiếng Việt chặt chẽ, ranh giới âm tiết rõ ràng
Mỗi âm tiết gồm 3 phần chính là [âm đầu + vần + thanh điệu]. Phần vần lai gồm âm đệm, âm chính
và âm cuối. Như vậy, ta cũng có thể chia nhỏ cấu trúc âm tiết thành 05 phần. Có thể thể hiện cấu trúc âm
tiết tiếng Việt và ví dụ minh họa trong bảng dưới đây:
Bảng 1: Cấu trúc âm tiết tiếng Việt
Thanh điệu: thanh không (zero), thanh huyền (\), thanh hỏi (?), thanh sắc(/), thanh
ngã (~), thanh nặng (.)
Vần
âm đầu âm đệm âm chính âm cuối
T O A N
T A M
L I NH
Q U Â N
H O A
3.2 Trong tiếng Việt, phần lớn một âm tiết tương đương với một từ.
Để minh họa cho điều này, ta xem xét hai ví dụ dưới đây:
Ví dụ 1: Hôm qua, bố mua máy tính mới.
Câu trên có 7 âm tiết là [hôm], [qua], [bố], [mua], [máy],[tính], [mới] và có thể tách thành 6 từ là
“hôm qua”, “bố”, “mua”, “máy tính”, “mới”.
Ví dụ 2: “Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta”
Câu thơ trên có số lượng âm tiết và từ như sau:
Số âm tiết Số từ
Trâu ơi ta bảo trâu này 6 6
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta 8 8
Từ hai ví dụ trên có thể thấy, số lượng âm tiết và số lượng từ tương đương với nhau trong tiếng
Việt.
Tiếng Việt có 13 nguyên âm đơn (/i, e, ε, ɤ, ɤˇ, a, ɯ, ă, u, o, ɔ, ɔˇ, εˇ/) và 03 nguyên âm đôi (/ ie,
ɯɤ, uo/) nên từ số lượng nguyên âm này có thể tạo ra số lượng tương đối nhiều các âm tiết mở.
Mặt khác, khi âm tiết có âm cuối là một phụ âm thì sẽ tạo ra âm tiết khép. Có thể thống kê âm cuối
là phụ âm để hình thành nên âm tiết khép như bảng dưới đây:
Bảng 2: “Hệ thống âm cuối tiếng Việt”
Như vậy có thể thấy tiếng Việt có cả hai loại âm tiết khép và âm tiết mở. Số lượng âm tiết mở nhiều
hơn do số lượng nguyên âm nhiều hơn phụ âm đứng làm âm cuối nhưng số lượng âm tiết đóng trong
tiếng Việt cũng khá nhiều sau khi được tổ hợp với thanh điệu.
275
TÌM HIỂU QUAN HỆ GIAO LƯU VIỆT - NHẬT NHỮNG NĂM 1990
THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG TRUYỀN BÁ KAMISHIBAI
Nguyễn Thị Quế Hường*
Bộ môn tiếng Nhật, Đại học FPT Hà Nội
*Tác giả liên hệ: Điện thoại: 0985 055 628; Email: ms.quehuong@gmail.co
TÓM TẮT
Trong bối cảnh giao lưu văn hoá Việt – Nhật diễn ra khá sôi nổi vào thập niên 90, Kamishibai- một
loại hình văn hoá giaỉ trí thiếu nhi độc đáo của Nhật đã được du nhập mạnh mẽ vào Việt Nam. Nhờ hoạt
động của “Hội hỗ trợ phổ cập Kamishibai Việt Nam”, Nhà xuất bản Kim Đồng, hoạt động của một số cá
nhân tích cực, từ tính chất “một chiều” trong quan hệ “truyền bá”, “phổ cập”giữa hai nước qua
Kamishibai trong giai đoạn đầu, cho đến nửa cuối thập niên 90, Kamishibai ở Việt Nam đã trưởng thành,
tiến tới quan hệ “giao lưu” với nước bạn. Hơn nữa, các thành tựu của hoạt động truyền bá ở Việt Nam
đã tác động ngược trở lại với Nhật Bản, tạo dấu ấn và trở thành cơ sở thực tiễn giúp Kamishibai hình
thành cơ sở lý luận. Nhìn chung, hoạt động truyền bá, giao lưu Kamishibai những năm 1990 vừa là một
ví dụ điển hình thể hiện những đặc trưng trong quan hệ giao lưu văn hoá Việt – Nhật giai đoạn này, vừa
chỉ ra những bài học kinh nghiệm quý báu cho những giai đoạn phát triển ở những thập niên tiếp theo.
Từ khoá: Kamishibai, giao lưu văn hoá Việt Nhật, truyền bá Kamishibai.
276
2. Giới thiệu Kamishibai
Kamishibai trong tiếng Nhật được tạo thành bởi hai chữ “Kami”(紙:giấy) và “Shibai”(芝居: kịch),
với ý nghĩa là kịch được vẽ và biểu diễn bằng giấy. Nguồn gốc Kamishibai có ý kiến cho rằng bắt nguồn
từ hình thức kể chuyện bằng tranh Emaki xuất hiện từ thời kỳ Heian với bộ tiểu thuyết Genji Mono Gatari
Emaki, hay hình thức dùng các tấm tranh treo tường để kể chuyện “Etoki”dùng trong thuyết giảng Phật
giáo ở các cơ sở chùa chiền thịnh hành từ thời kỳ Heian cho đến trung kỳ Muromachi (Theo Kumiko
Bingushi (2015)). Từ thời kỳ Edo cho đến đầu thời kỳ Taisei, loại hình “tranh nhòm” (Nozoki-karakuri)
(người xem những bức tranh được đặt trong một chiếc hộp thông qua lỗ nhỏ, vừa xem vừa nghe kể
chuyện) trở nên phổ biến, và nó cũng được coi là tiền thân của Kamishibai hiện nay. Cũng trong thời kỳ
này hình thức “vừa cho xem tranh vừa kể chuyện” được sử dụng ở một số loại hình biểu diễn như “tranh
phản chiếu” (utsushi-e), “tranh đứng” (tachi-e) hay tiền thân gần nhất của Kamishibai là “tranh bằng”
(hira-e). Cho đến những năm 1930, sau khi Nhật Bản trải qua cuộc khủng hoảng kinh tế Chiêu Hoà bắt
đầu từ năm 1929, số người thất nghiệp ở các thành phố lớn gia tăng, khi đó biểu diễn Kamishibai ngoài
đường phố đã trở thành công cụ kiếm sống của họ. Bởi thế, bước vào những năm 1930, Kamishibai
đường phố ra đời,và bùng nổ mạnh mẽ vào thời kì sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai.
Từ những năm 60 trở đi, Kamishibai bị thoái trào trước sự phổ biến của truyền thông mới như tivi,
internet… Kamishibai được sử dụng chủ yếu trong các cơ sở giáo dục mầm non hay những năm đầu cấp
tiểu học như một công cụ giảng dạy.
Cho đến những năm 1990, trước bối cảnh Nhật Bản đẩy mạnh việc giới thiệu văn hoá ra nước
ngoài, các nhà hoạt động Kamishibai với mong muốn “tận dụng” cơ hội đó đưa Kamishibai ra ngoài biên
giới Nhật Bản. Với mục đích cuối cùng chính là khẳng định “chỗ đứng” của Kamishibai trong nước, đưa
Kamishibai trở thành một “nghệ thuật biểu diễn”, là phương tiện hỗ trợ đắc lực trong giáo dục và giải trí
của trẻ em. Bởi thế, bước vào những 90, song song với việc thúc đẩy hoạt động nghiên cứu lý luận và
“chuẩn hoá” phương thức biểu diễn thực tiễn, các nhà hoạt động Kamishibai đã bắt đầu công tác giới
thiệu, truyền bá Kamishibai ra nước ngoài, mà khởi đầu là ở các nước Đông Nam Á như Việt Nam (1991),
Lào (1994), sau đó đến Trung Quốc (1998), Ý (1998), Pháp, Hà Lan…
Như vậy có thể thấy, Việt Nam là nước đầu tiên được chọn để truyền bá Kamishibai lúc bấy giờ.
Vậy, có nhiều câu hỏi được đặt ra như là: Tại sao Việt Nam trở thành nước đầu tiên của hoạt động này?
Hoạt động truyền bá đã diễn ra như thế nào, hiệu quả ra sao? Và điểm đáng chú ý nhất, là những hoạt
động truyền bá Kamishibai ở Việt Nam có ý nghĩa thế nào đối với hoạt động Kamishibai trong nước nói
riêng, đối với quan hệ giao lưu văn hoá hai nước nói chung. Nói cách khác, thông qua hoạt động
Kamishibai ở Việt Nam những năm 1990 sẽ thấy được sự ảnh hưởng ngược lại của hoạt động này từ phía
Việt Nam tới Nhật Bản, từ đó thấy rõ tính chất “hai chiều” trong quan hệ giao lưu văn hoá hai nước thông
qua Kamishibai.
3. Hoạt động truyền bá và giao lưu Kamishibai trong những năm 1990
Kamishibai lần đầu tiên được giới thiệu đến Việt Nam thông qua Khoá tập huấn Xuất bản Nhi đồng
do Trung tâm Văn hoá Châu Á UNESCO kết hợp với Nhà xuất bản Kim Đồng tổ chức vào tháng 10 năm
1991 tại Hà Nội. Tại đây, tác giả của những cuốn truyện Ehon và Kamishibai nổi tiếng Matsui Noriko
(1934 - 2017) đã biểu diễn tác phẩm đạt giải thưởng Gozan (Giải thưởng cao quý nhất dành cho tác phẩm
Kamishibai xuất sắc ở Nhật Bản). “Okiku okiku okiku nare” (Về sau được dịch sang tiếng Việt với tên
gọi “To, to, to lên nào”). Các tác giả sáng tác truyện thiếu nhi, các hoạ sĩ tham gia khoá học lúc bấy giờ,
đặc biệt là ông Nguyễn Thắng Vu – nguyên Giám đốc Nhà xuất bản Kim Đồng đã nhận định Kamishibai
“là loại hình văn hoá tuyệt vời, nó không chỉ là một màn biểu diễn bằng tranh, mà nó như một phương
tiện giao tiếp được tạo ra bởi người biểu diễn và khán giả” (Theo tờ tin tức của Hiệp hội Kamishibai.
Nhật Bản). Sau đó, ông đã cùng với các nhà hoạt động Kamishibai của Nhật Bản lên kế hoạch phổ cập,
đưa Kamishibai đến với trẻ em, mà trước hết là việc lập ra kế hoạch tổ chức các khoá huấn luyện sáng
tác Kamishibai ngay tại Việt Nam. Ngay trong tháng 12/1991, Khoá tập huấn sáng tác Kamishibai đầu
tiên đã được tổ chức tại Hà Nội với gần 20 hoạ sĩ, tác giả tranh truyện thiếu nhi tham gia. Kể từ đó đến
năm 2001, có tổng cộng 6 Khoá tập huấn được tổ chức ở Hà Nội, Nha Trang, SaPa. Bên cạnh đó là các
277
Triển lãm Kamishibai, buổi Giao lưu Kamishibai cũng được tổ chức ở cả hai nước Việt Nam và Nhật
Bản. Cụ thể, về thành quả của quá trình phổ cập Kamishibai ở Việt Nam có thể kể đến trên bốn phương
diện chính: Sáng tác, Xuất bản, Biểu diễn – phổ cập và Giao lưu cụ thể như dưới đây.
Trước hết là thành tựu trên lĩnh vực sáng tác. Việt Nam là nước đầu tiên và duy nhất cho đến nay
tổ chức được các khoá Tập huấn sáng tác. Thông qua 6 khoá tập huấn, đã có hơn 30 tác giả từ Bắc chí
Nam được tập huấn các kiến thức cơ bản về Kamishibai như đặc trưng trong phương thức sáng tác, cách
thức biểu diễn và tương tác giữa người biểu diễn với khán giả…từ đó cho ra đời hơn 100 tác phẩm
Kamishibai trong khoảng thời gian 10 năm (Matui Noriko 1998). Với những đặc trưng của thể loại,
phương thức sáng tác của Kamishibai Nhật Bản, việc các tác giả Việt Nam cho ra đời các tác phẩm
Kamishibai của chính mình phải chăng đó là yếu tố “tiếp biến văn hoá”. Nó giúp đưa Kamishibai trở nên
gần gũi hơn đối với trẻ em Việt Nam bởi những yếu tố “thuần Việt” trong các tác phẩm. Thành tựu về
sáng tác phải kể đến thành công của hai tác phẩm “Mặt trời mọc từ đâu” (1996) (“Taiyou wa dokokara
deruno”, tác giả Trương Hiếu) đã đạt giải Gozan năm 1996, trở thành tác phẩm nước ngoài đầu tiên đạt
giải thưởng này. Hay tác phẩm “Chiếc lược ngà” (2001) là tác phẩm đầu tiên viết về đề tài chiến tranh
nói chung và chiến tranh Việt Nam nói riêng, đã mang đến một đề tài mới cho Kamishibai hai nước.
Theo như báo Asahi nhận định “Không ở đâu có nhiều những tác phẩm Kamishibai độc đáo như ở Việt
Nam”17. Như vậy có thể nói rằng, hoạt động sáng tác ở Việt Nam không chỉ dừng lại ở việc sáng tác phục
vụ khán giả trong nước, mà đã có thể xuất bản tại Nhật, được đánh giá cao bằng giải thưởng uy tín, phần
nào đó tạo được ảnh hưởng ngược lại với phía Nhật Bản. Từ đó cho thấy sự trưởng thành, độc lập của
các tác giả và sáng tác trong nước.
Về xuất bản, trong những năm 1990, Nhà xuất bản Kim Đồng đã xuất bản hơn 60 tác phẩm
Kamishibai bằng tiếng Việt (bao gồm cả các tác phẩm dịch và các sáng tác trong nước). Tính đến năm
1996, đã có 200.000 bản được xuất bản tại Việt Nam.Trong số các tác phẩm Kamishibai Việt Nam, có 8
tác phẩm xuất sắc được phía Nhật Bản lựa chọn để xuất bản song ngữ (Nhật- Việt), hoặc đơn ngữ (Tiếng
Nhật) tại Nhật Bản. Có thể kể đến các tác phẩm như: “Mặt trời mọc từ đâu” (1996) (“Taiyo ha doko kara
deruno”) (tác giả Trương Hiếu), “Thằng Bờm” (1996) (“Nonbiri bouya” hoặc “Taisetsu na uchiwa”)
(tác giả: Bùi Đức Liễn)…Đặc biệt, Việt Nam là đất nước duy nhất xuất bản hình thức “Kamishibai gia
đình” – tức phiên bản “thu nhỏ” của Kamishibai truyền thống, với kích thước chỉ bằng ¼ kích thước
thông thường để dễ dàng tiếp cận với nhiều đối tượng hơn.
Thành tựu quan trọng nhất chính là hoạt động giao lưu của hai nước thông quan Kamishibai. Năm
1992, với mục đích hỗ trợ cho hoạt động truyền bá Kamishibai ở Việt Nam, “Hội hỗ trợ phổ cập
Kamishibai Việt Nam” đã được thành lập. Trong giai đoạn đầu, hoạt động chính của hội là kêu gọi tài
trợ, quyên góp từ phía Nhật Bản để cung cấp chi phí cho hoạt động sáng tác, xuất bản ở Việt Nam. Ví
như giai đoạn từ 12/1992 đến tháng 11/1994, số tiền quyên góp được là hơn 166 vạn yên, từ 12/1994 đến
10/1995 số tiền lên tới hơn 212 vạn yên… Năm 1996, hội được Chính phủ Việt Nam trao tặng giải thưởng
dành cho tổ chức có đóng góp lớn trong lĩnh vực văn hoá. Đặc biệt, hội đóng vai trò trung tâm trong việc
tổ chức các buổi tập huấn sáng tác, lễ hội Kamishibai, hay các buổi “thưởng thức” Kamishibai cả ở Nhật
Bản và Việt Nam. Có thể kể đến “Lễ hội Kamishibai” diễn ra tại Nha Trang vào tháng 8/1994, hay đoàn
giao lưu Kamishibai Việt Nam đến Nhật Bản biểu diễn tại Tokyo, Osaka, Kyoto vào tháng 7/1995, và
tháng 10/2001.
Có thể thấy sự trưởng thành, độc lập từng bước của Kamishibai Việt Nam thông qua chính hoạt
động của “Hội hỗ trợ phổ cập Kamishibai Việt Nam”. Năm 1998, hội đổi tên thành “Hội giao lưu
Kamishibai Việt – Nhật”, chính thức chuyển từ hoạt động “hỗ trợ” “ủng hộ” sang hoạt động “giao lưu”.
Điều này có nghĩa rằng, quan hệ giữa hai nước thông qua Kamishibai không còn là quan hệ “một chiều”
“chủ yếu dựa vào viện trợ từ phía Nhật Bản” mà đã phát triển lên một bước mới, đó chính là quan hệ
“ngang hàng”, phía Việt Nam đã đủ “chín” để có thể “giao lưu” với Nhật Bản. Hay nói cách khác, giai
đoạn nửa sau những năm 1990 trở đi, Kamishibai Việt Nam đã cho thấy được sự trưởng thành của mình,
trở lại một nhân tố trong giao lưu văn hoá hai nước.
278
Đóng góp cho quá trình phổ cập, giao lưu Kamishibai giữa hai nước những năm 1990 phải kể đến
hoạt động của các tổ chức như: NXB Doushinsha, Trung tâm nghiên cứu văn hoá trẻ em của Nhật Bản
và NXB Kim Đồng phía Việt Nam. Trong đó, tiêu biểu là hoạt động của hai cá nhân là ông Nguyễn
Thắng Vu – Nguyên Giám đốc NXB Kim Đồng; và bà Matsui Noriko – tác giả Ehon, Kamishibai, nhà
hoạt động văn hoá, đồng thời cũng là người sáng lập ra “Hội hỗ trợ phổ cập Kamishibai Việt Nam”.
279
- Việc Kamishibai được đón nhận ở nước ngoài bởi cả cơ quan chính phủ, NXB số một với thiếu
nhi như NXB Kim Đồng…đã góp phần giúp Kamishibai được “nhìn nhận lại” “đánh giá lại” về giá trị,
củng cố “chỗ đứng” trong văn hoá thiếu nhi tại Nhật Bản.
- Hoạt động phổ cập Kamishibai ở Việt Nam đã cho thấy tính cấp thiết của việc hình thành cơ sở
lý luận của loại hình văn hoá này, thêm vào đó, cung cấp cơ sở thực tiễn cho việc hình thành cơ sở lý
luận. Và cuốn sách lý luận “Kamishibai – niềm vui cộng cảm” cũng được ra đời sau quá trình thực tiễn
ở Việt Nam.
3) Từ những năm 2000, hoạt động Kamishibai bị thoái trào ở Việt Nam. Cũng giống như ở
Nhật Bản,Kamishibai có phần trở nên “lỗi thời” trước những loại hình giải trí khác như Manga, Anime,
trò chơi điện tử…Cần thẳng thắn nhìn nhận rằng, trước sự thay đổi của bối cảnh truyền thông giải trí,
nhu cầu của trẻ em, Kamishibai chưa có sự biến cải tiến, “thức thời” để duy trì sức hấp dẫn của mình.
Nói cách khác, Kamishibai đứng trước thách thức về “sức hấp dẫn” “sự thuận tiện” “tính phổ biến” trước
giai đoạn mới. Hơn nữa, quá trình 10 năm diễn ra hoạt động phổ cập ở Việt Nam có thể nói là chưa đủ
cho một loại hình văn hoá “bén rễ” sâu, cộng với việc việc truyền bá Kamishibai vẫn chỉ dừng lại ở một
số cá nhân, chưa có sự vào cuộc của các cơ quan chính phủ hai nước, nên hoạt động rơi vào trình trạng
suy yếu dần vào thập niên 2000. Từ đây có thể rút ra bài học kinh nghiệm trong quá trình truyền bá, giao
lưu văn hoá cho Nhật Bản. Đó là việc cần tranh thủ sự đồng tình, hỗ trợ của các cơ quan chính phủ trong
việc tạo dựng mạng lưới, duy trì hoạt động trong thời gian dài và thường xuyên. Hơn nữa còn là bài học
về việc duy trì tính hấp dẫn nội tại của một loại hình văn hoá, để bản thân nó không bị “tụt hậu” ngay cả
ở trong nước hay mang ra nước ngoài. Về phía Việt Nam, trong quá trình giao lưu văn hoá, với tư cách
một quốc gia còn đang nhiều khó khăn về kinh tế trong những năm đầu đổi mới, việc bị phụ thuộc nhiều
vào kinh phí hỗ trợ phía Nhật Bản trong hoạt động giao lưu chính là “điểm yếu” lớn nhất làm cho hoạt
động bị dừng lại sau khi kinh phí hỗ trợ dừng lại vào những năm 2000. Điều này có nghĩa là, dù là quốc
gia truyền bá văn hoá hay quốc gia tiếp nhận văn hoá, thì vấn đề nguồn kinh phí luôn cần được chú trọng
duy trì, cần tạo sự độc lập trong kinh phí duy trì hoạt động giữa hai bên.
5. Tổng kết
Tóm lại, trong suốt những năm 90 của thế kỷ XX, cùng với Trà đạo, Hoa đạo, Manga… Kamishibai
cũng đã đến Việt Nam với tư cách là một loại hình văn hoá độc đáo dành cho thiếu nhi. Và Kamishibai
đã nhanh chóng được phổ cập rộng rãi ở các trường mầm non, được “bén rễ” bởi các hoạt động tập huấn
sáng tác, biểu diễn, giao lưu…Thông qua Kamishibai, sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai nước Việt – Nhật
được tăng lên, cùng với đó là những bài học kinh nghiệm được rút ra cho cả hai quốc gia sau quá trình
giao lưu văn hoá ấy. Cho đến ngày nay, Kamishibai vẫn đang tìm cho mình những hướng đi để truyền
bá nhiều hơn ra thế giới, và Việt Nam hơn bao giờ hết cũng có nhiều nhóm hoạt động, tổ chức mong chờ
sự quay trở lại của Kamishibai. Thế nhưng, để Kamishibai quay trở lại, thực sự đi sâu vào văn hoá Việt
Nam thì việc nhìn nhận quá trình Kamishibai ở Việt Nam những năm 1990 là cần thiết. Bởi thế, cần hơn
nữa những nghiên cứu chuyên sâu ở Việt Nam về Kamishibai nói chung, về quá trình truyền bá
Kamishibai, sức hấp dẫn, thách thức với Kamishibai… để góp phần vào việc hình thành cơ sở lý luận,
nghiên cứu cho hoạt động thực tiễn Kamishibai về sau.
281
31. 『日本・ベトナム紙芝居交流の会』のニュース(1999〜2003)日本・ベトナム紙芝居交流の
会が発行。
32. Tờ tin tức thường niên của “Hội giao lưu Kamishibai Nhật – Việt” từ năm 1999 đến 2003
do hội phát hành).
282
NHỮNG THUẬN LỢI VÀ THÁCH THỨC TRONG ĐÀO TẠO NGUỒN
NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO TIẾNG NHẬT
Hoàng Liên
Trường Đại học Hà Nội
*Tác giả liên hệ: Điện thoại: 0915 138 301; Email: lienh@hanu.edu.vn
TÓM TẮT
Quốc tế hóa trong đào tạo ngoại ngữ, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao là những cụm từ được
nhắc đến thường xuyên và là nhiệm vụ quan trọng của mỗi đơn vị giảng dạy, trong đó có Khoa tiếng
Nhật, Trường Đại học Hà Nội. Ngoài việc chú trọng về giảng dạy ngôn ngữ, giới thiệu văn hóa bản địa,
định hướng nghề nghiệp, rèn luyện các kỹ năng cần thiết, tăng thời lượng thực hành, thực tập cho người
học, thì công tác hợp tác quốc tế, trao đổi sinh viên, giao lưu học thuật cần được đẩy mạnh.
Qua bài viết này, tác giả khái lược về hoạt động giảng dạy của một đơn vị đào tạo tiếng Nhật có uy
tín, cung cấp số lượng các chuyên ngành tiếng Nhật đang đào tạo tại các trường đại học của Việt Nam.
Từ đó cho thấy được thực trạng, cũng như những thách thức và cơ hội cho người học tiếng Nhật. Bài viết
cũng đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác trao đổi học thuật, nâng cao năng lực nghiên cứu,
phương pháp giảng dạy dành cho giảng viên và hợp tác quốc tế trong chương trình liên kết đào tạo tiếng
Nhật.
Từ khóa: tiếng Nhật, Nhật Bản, nguồn nhân lực, chuyên ngành đào tạo.
1. Mở đầu
Trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa, liên thông đào tạo và bối cảnh nhu cầu ngày càng cao về chất
và lượng của các doanh nghiệp Việt Nam và Nhật Bản đối với nguồn nhân lực tiếng Nhật, các đơn vị đào
tạo tiếng Nhật chuyên và không chuyên cần xác định có sự phát triển đột phá về số lượng cũng như đảm
bảo chất lượng trong giảng dạy, cập nhật nội dung chương trình đào tạo và cải tiến phương pháp giảng
dạy để đáp ứng nhu cầu của người học và yêu cầu của các nhà tuyển dụng.
Để nâng cao cả về chất và lượng nguồn nhân lực tiếng Nhật, cũng như làm sao để các đơn vị đào
tạo tiếng Nhật tại Việt Nam nói chung và Khoa tiếng Nhật, Trường Đại học Hà Nội nói riêng có thể bắt
kịp và đáp ứng yêu cầu cuộc cách mạng 4.0 về hội nhập quốc tế là vấn đề bài viết đề cập. Để làm được
việc đó, chúng ta cần tranh thủ tối ta sự hỗ trợ đắc lực của một số tổ chức Nhật Bản hỗ trợ về giáo dục
tiếng Nhật cũng như phát huy nội lực của mình.
Qua bài viết này, tác giả tổng quan về tình hình giảng dạy tiếng Nhật tại Khoa tiếng Nhật, Trường
Đại học Hà Nội - nơi tác giả đang công tác, điểm qua số lượng các chương đào tạo tiếng Nhật tại các
trường đại học tại ba miền Bắc, Trung, Nam và đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác đào
tạo tiếng Nhật trong giai đoạn mới.
2. Tình hình giảng dạy tiếng Nhật và những điểm mới trong đào tạo thời kỳ hội nhập
của Khoa tiếng Nhật, Trường Đại học Hà Nội
2.1 Tổng quan về đơn vị và chương trình đào tạo
Khoa tiếng Nhật, Trường Đại học Hà Nội là một trong số ít những cơ sở công lập đào tạo chuyên
ngành ngôn ngữ Nhật đầu tiên của cả nước. Khoa được thành lập năm 1993. Hiện nay, Khoa có 5 tổ bộ
môn: Thực hành tiếng, Biên - Phiên dịch, Lý thuyết tiếng, Tiếng Nhật chuyên ngành, Văn học và Văn
hóa văn minh. Tổng số sinh viên hằng năm của Khoa những năm gần đây dao động trong khoảng 1.000
sinh viên các loại hình đào tạo và theo xu hướng ổn định hoặc tăng lên. Khoa có quan hệ hợp tác với trên
50 trường đại học, viện nghiên cứu và cơ sở đào tạo tại Nhật Bản. Số sinh viên được chọn tham gia các
chương trình trao đổi từ 6 tháng đến một năm tại các trường đại học Nhật Bản cũng tăng lên hàng năm.
Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp loại khá giỏi rất cao, 100% các em có việc làm đúng chuyên ngành và nhận
mức lương khá cao so với mặt bằng xã hội.
Khoa hiện có 27 giảng viên cơ hữu, hai cán bộ trợ lý, một giảng viên tình nguyện người Nhật Bản,
283
trong đó có 6 tiến sĩ, 21 thạc sĩ. Hầu hết các giảng viên đều có thời gian tu nghiệp tại Nhật Bản. Việc chú
trọng đào tạo, nghiên cứu, nâng cao chất lượng giảng viên luôn được Nhà trường và đơn vị đặt lên hàng
đầu. Khoa luôn có ưu tiên, có chính sách và động viên, tạo điều kiện cho mỗi giảng viên được học hỏi,
tham gia các khóa học, hội thảo trong và ngoài trường để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư
phạm, kinh nghiệm thực tế.
Chương trình đào tạo ngành ngôn ngữ Nhật của Trường Đại học Hà Nội luôn được đánh giá cao,
là một trong 03 chương trình đào tạo được Trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục thuộc ĐHGQ Hà
Nội đánh giá đạt năm 2019. Tổng số tín chỉ của chương trình đào tạo chuyên ngành Ngôn ngữ Nhật là
151 tín chỉ (TC). Trong đó Giáo dục thể chất và Quốc phòng chiếm 11 TC; Khối kiến thức giáo dục đại
cương là 37 TC; Khối kiến thức chung 27 TC; Khối kiến cơ sở ngành 10 TC; Khối kiến thức ngành: 66
TC (Bắt buộc: 60 Tc và Tự chọn: 6/22 TC); Khối kiến thức chuyên ngành 28 tín chỉ (Bắt buộc 22 TC và
Tự chọn 6 TC); Chương trình đào tạo có thiết kế học phần Thực tập và khóa luận tốt nghiệp 09 TC (Thực
tập 03 TC và Khóa luận tốt nghiệp là 06 TC).
Khoảng ba năm một lần, chương trình đào tạo chuyên ngành Ngôn ngữ Nhật sẽ được rà soát, điều
chỉnh hoặc bổ sung, thay thế một số học phần cho phù hợp với nguyện vọng của người học, nhu cầu của
xã hội và đáp ứng được yêu cầu ngày càng khắt khe của nhà sử dụng lao động.
2.2 Điểm mới trong đào tạo tiếng Nhật thời kỳ hội nhập
Chương trình đào tạo chuyên ngành Ngôn ngữ Nhật tại Trường Đại học Hà Nội từ năm học 2017-
2018 có điểm mới đáng ghi nhận là sinh viên theo học tại đây có thêm hai lựa chọn mới cho mình. Khoa
đã mở thêm hai định hướng mới ngoài định hướng biên phiên dịch truyền thống, đó là Ngôn ngữ Nhật
định hướng phương pháp giảng dạy và Ngôn ngữ Nhật định hướng thương mại nhằm tăng tính nghề
nghiệp, tăng sự lựa chọn cho người học và đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội, của người
học và của nhà tuyển dụng.
Sau khi tốt nghiệp, cử nhân ngành Ngôn ngữ Nhật có thể đảm nhận những vị trí công tác, tùy thuộc
theo định hướng lựa chọn.
Đối với định hướng Biên - Phiên dịch, sau khi tốt nghiệp người học có đủ năng lực để đảm nhận
các vị trí như phiên dịch viên, biên dịch viên, nhân viên văn phòng, cán bộ ngoại giao, biên tập viên tại
các cơ quan, doanh nghiệp trong và ngoài nước thuộc các lĩnh vực văn hóa, kinh tế - xã hội hoặc có thể
phát huy các Kĩ năng biên-phiên dịch để làm cán bộ nghiên cứu về khoa học, ngôn ngữ và văn hóa Nhật
tại các trường đại học, viện nghiên cứu.
Với định hướng Phương pháp giảng dạy, các em có thể đảm nhận các vị trí giáo viên, giảng viên
tại các cơ sở giáo dục có giảng dạy tiếng Nhật; có thể bước đầu làm cán bộ nghiên cứu về khoa học giảng
dạy ngoại ngữ, về ngôn ngữ và văn hóa Nhật Bản tại các trường đại học, viện nghiên cứu ... và có thể
làm việc ở các tổ chức, cơ sở có yêu cầu sử dụng tiếng Nhật.
Sinh viên tốt nghiệp định hướng tiếng Nhật thương mại có thể đảm nhiệm các công việc thuộc các
lĩnh vực kinh doanh, xuất nhập khẩu, marketing, kiểm toán, kế toán, ngân hàng, nhân sự, biên-phiên dịch,
thư ký, trợ lý ... tại các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và tài chính trong nước hoặc quốc tế, các cơ
quan, ban ngành nhà nước, văn phòng đại diện, công ty Nhật Bản tại Việt Nam.
Việc có ba định hướng đào tạo chuyên sâu trong chuyên ngành Ngôn ngữ Nhật tại Trường Đại học
Hà Nội là “thức thời”, phù hợp với xu hướng và nhu cầu xã hội. Các định hướng này được các nhà tuyển
dụng trong và ngoài nước đánh giá cao và đã sẵn sàng “đặt hàng” cho những lứa cử nhân đầu tiên.
2.3 Công tác hợp tác quốc tế với các đối tác, tổ chức, trường đại học, viện nghiên cứu,
doanh nghiệp Nhật Bản, là cơ hội dành cho sinh viên thông qua các chương trình trao đổi
Qua 50 năm giảng dạy tiếng Nhật như một ngoại ngữ 2 tại Trường Đại học ngoại ngữ (năm 1973),
nay là Trường Đại học Hà Nội và 30 năm đào tạo chuyên ngành cử nhân Ngôn ngữ Nhật (năm 1993), 13
năm đào tạo bậc sau đại học Ngôn ngữ Nhật (năm 2010), Khoa tiếng Nhật đang đào tạo các loại hình từ
cử nhân hệ chính quy, cử nhân hệ Vừa làm vừa học, đào tạo sau đại học... Khoa tiếng Nhật luôn khẳng
định được uy tín, chất lượng và vị thế của mình. Trong đó, công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học và
hợp tác quốc tế được đặt lên hàng đầu.
284
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, Khoa luôn chú trọng phát triển các mối quan hệ hợp
tác tốt đẹp với nhiều tổ chức Chính phủ, tổ chức phi chính phủ và các đối tác trong và ngoài nước như:
Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam; Trung tâm Giao lưu văn hoá Nhật Bản thuộc Quỹ Giao lưu Quốc tế
Nhật Bản tại Việt Nam (Japan Foundation); Tổ chức phái cử giáo viên tình nguyện tiếng Nhật – ICEA
(International cross – cultural exchange association); Hiệp hội Quảng bá Kế toán bằng tiếng Nhật tại Việt
Nam (ABPV - Association for Book-keeping Promotion in Vietnam ); Trung tâm hợp tác nguồn nhân
lực Việt Nam – Nhật Bản (JVCC); Hội hữu nghị Việt Nam - Nhật Bản; Hội Hữu nghị hòa bình Nhật Bản
- Việt Nam tại tỉnh Fukuoka, Nhật Bản v.v …
Khoa đã và đang không ngừng mở rộng các quan hệ hợp tác với 53 đối tác, ký kết 102 văn bản hợp
tác với các cơ sở đào tạo là các trường đại học của Nhật Bản. Người được hưởng lợi nhiều nhất từ các
Thỏa thuận hợp tác đã ký kết với các trường đại học Nhật Bản chính là sinh viên của khoa tiếng Nhật và
sinh viên của một số khoa khác trong trường. Hằng năm có khoảng 50 sinh viên được tham gia các
chương trình trao đổi với những ưu đãi như miễn toàn bộ học phí; một số trường đối tác sẽ hỗ trợ ký túc
xá, cung cấp học bổng, hỗ trợ sinh hoạt phí. Khi tham gia các chương trình trao đổi tại Nhật Bản, ngoài
việc tích lũy kiến thức chuyên ngành, nâng cao năng lực ngôn ngữ, các em được trải nghiệm cuộc sống,
tìm hiểu văn hóa, giao lưu học hỏi, tham quan địa danh và có thêm rất nhiều người bạn quốc tế. Bên cạnh
đó, tất cả những học phần tương đương với chương trình đào tạo tại Trường Đại học Hà Nội mà các em
theo học sẽ được chuyển điểm tương đương và công nhận điểm.
Kết quả học tập của sinh viên cũng góp phần khẳng định chất lượng đào tạo tiếng Nhật của Khoa
cũng như vị thế của Khoa với trong nước và quốc tế. Phải khẳng định, Khoa tiếng Nhật là khoa có số lượng
sinh viên được chọn tham gia các chương trình trao đổi, thực tập ngắn hạn tại Nhật Bản nhiều nhất trường
và con số này vẫn tăng đều hàng năm. Đây cũng chính là điểm nhấn của chương trình đào tạo, là lý do
mà rất nhiều học sinh ưu tú sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học đã lựa chọn Trường Đại học Hà Nội
là ngôi trường mà mình sẽ theo học 4 năm đại học.
Khoa tiếng Nhật không ngừng phấn đấu phát triển qui mô đào tạo, nâng cao năng lực cho cán bộ
giảng dạy và nghiên cứu, nâng cấp cơ sở vật chất, duy trì quan hệ với các đối tác lâu năm và mở rộng
các mối quan hệ hợp tác song phương, đa phương phù hợp với xu thế của thời đại. Những thỏa thuận
hợp tác với các tổ chức, với các trường đại học Nhật Bản là cơ hội vô cùng quý báu không chỉ mang lại
lợi ích cho sinh viên, mà giảng viên có thêm cơ hội nâng cao kiến thức chuyên môn, học hỏi phương
pháp giảng dạy tiên tiến; cơ hội nâng cao năng lực nghiên cứu hoặc được tham gia vào các dự án đồng
nghiên cứu.
2.4 Một số hoạt động giao lưu, hợp tác phục vụ cho học tập và giảng dạy
Khoa tiếng Nhật luôn kêu gọi và hỗ trợ sinh viên tích cực tham gia các cuộc thi hùng biện tiếng
Nhật có uy tín tại Việt Nam như Lễ hội tiếng Nhật, NASIC Cúp, KAKE Cúp, HOSEI Cúp….. Các cuộc
thi này được tổ chức thường niên và được đông đảo sinh viên, học sinh đang theo học tiếng Nhật tại các
trường đại học và trung học phổ thông tham gia. Sinh viên Khoa luôn tự hào là quán quân, á quân trong
các cuộc thi danh tiếng này. Những em giành được giải thưởng cao đều có hội thăm quan ngắn hạn tại
Nhật Bản. Các cuộc thi hùng biện tiếng Nhật là sân chơi vô cùng bổ ích, là động lực để các em có hứng
thú và đam mê hơn với tiếng Nhật, khích lệ sự cố gắng trong quá trình học tập của mình.
Ngoài ra, Khoa tích cực phối hợp với các nhà tài trợ lớn của Nhật Bản tổ chức nhiều cuộc thi hùng
biện tiếng Nhật với quy mô nhỏ hơn nhằm mang lại nhiều cơ hội cho sinh viên của Khoa được thể hiện
khả năng, thành quả học tập. Khoa là đơn vị tổ chức thành công nhiều hoạt động của sinh viên như: Tuần
lễ Văn hoá Nhật Bản, Lễ hội Nhật Bản, Câu lạc bộ tiếng Nhật v.v …
Bên cạnh các cuộc thi, các chương trình giao lưu, tham quan học tập ngắn ngày tại Nhật Bản do
một số tổ chức, tập đoàn của Nhật Bản tài trợ đã mang lại cơ hội quý báu cho mỗi đoàn từ 6 đến 10 sinh
viên. Ví dụ như Quỹ tưởng nhớ Konosuke Matsushita, Chương trình giao lưu Thanh thiếu niên
"JENESYS 2.0"…
Trong quá trình học tập tại trường, sinh viên năm 3 hoặc 4 có thể đăng ký tham gia các chương
trình thực tập (internship) từ 6 tháng tới 1 năm do Hội liên hiệp các nghiệp đoàn ngành dịch vụ lưu trú
Ryokan và Khách sạn toàn Nhật Bản phối hợp với Trung tâm Ngôn ngữ - Văn hóa Nhật Bản và Phát
285
triển hợp tác tổ chức. Đây là cơ hội để các em có thể thực tập tại các doanh nghiệp, vừa học tập vừa kết
hợp làm việc tại Nhật Bản.
Ngoài các hoạt động phục vụ công tác đào tạo, hỗ trợ sinh viên kể trên, Khoa tiếng Nhật đã và sẽ
thực hiện được một số hợp tác đào tạo và nghiên cứu khoa học có hiệu quả, như tổ chức Hội thảo khoa
học quốc tế 5 năm một lần. Ba hội thảo được tổ chức vào năm 2008, 2013, 2018 đã thu hút được sự quan
tâm của rất nhiều học giả trong và ngoài nước, của các nhà nghiên cứu hàng đầu về Giáo dục tiếng Nhật,
Ngôn ngữ Nhật và Nhật Bản học.
Hội thảo khoa quốc tế là cơ hội quý báu để tạo điều kiện cho giảng viên, sinh viên trao đổi học
thuật, chuyên môn cũng như nâng cao năng lực nghiên cứu, trình bày kết quả nghiên cứu và tăng cơ hội
hợp tác quốc tế. Khoa tiếng Nhật luôn xác tính chú trọng tính Quốc tế hóa trong đào tạo vì điều đó được
thể hiện rất rõ thông qua việc dày công tổ chức các hội thảo có uy tín và chất lượng.
3. Tổng hợp số lượng các trường đại học tại Việt Nam đào tạo tiếng Nhật
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và mối quan hệ Việt Nam-Nhật Bản đang bước vào giai đoạn tốt đẹp
nhất, phát triển hợp tác toàn diện và là đối tác chiến lược của nhau. Mối quan hệ này có ảnh hưởng lớn
đến nguồn nhân lực tiếng Nhật, nên công tác giảng dạy tiếng Nhật và nghiên cứu Nhật Bản rất được chú
trọng.
Nhiều trường đại học của Việt Nam đã nắm bắt cơ hội, nhanh chóng mở thêm chuyên ngành đào
tạo liên quan đến nguồn nhân lực sử dụng tiếng Nhật. Ba chuyên ngành tập trung nhất ở thời điểm hiện
tại là Ngôn ngữ Nhật/tiếng Nhật; Nhật Bản học và Đông Phương học.
Tác giả đã thực hiện khảo sát từ nhiều nguồn tư liệu để có được danh sách tổng hợp số lượng tất
cả các trường đại học tại Việt Nam có đào tạo tiếng Nhật.
Số lượng các trường đại học tại Việt Nam có đào tạo tiếng Nhật kể từ những năm 1990 đến nay đã
gia tăng nhanh chóng và vẫn tiếp tục tăng trong những năm tới. Số lượng được thể hiện ở bảng sau:
Bảng tổng hợp số lượng các chuyên ngành tiếng Nhật đang đào tạo tại các trường đại học
Việt Nam*
Chuyên
Số Chuyên ngành ngôn Chuyên ngành
STT Khu vực/miền ngành Nhật
trường ngữ Nhật/tiếng Nhật Đông Phương học
Bản học
Tính đến thời điểm hiện tại có 41 trường đại học đào tạo hệ cử nhân tiếng Nhật. Miền Bắc và miền Nam
có số lượng nhiều nhất, với 34 trường. Các chuyên ngành đào tạo tiếng Nhật đã đáp ứng được nhu cầu tuyển
dụng và vị trí việc làm. Ngành Ngôn ngữ Nhật/tiếng Nhật có số lượng nhiều hơn cả, với con số 23; Nhật
Bản học 06 chương trình và Đông Phương học 15 chương trình.
Ngoài ba chuyên ngành đào tạo tiếng Nhật nêu trên, theo tác giả, qua quá trình làm việc với đối tác và
khảo sát sơ bộ nhu cầu của các nhà tuyển dụng, tác giả nhận thấy thị trường lao động đang thiếu hụt nguồn nhân
lực tiếng Nhật công nghệ thông tin, tiếng Nhật du lịch, tiếng Nhật trong Công nghệ - Kỹ thuật, tiếng Nhật
thương mại... Đây là cơ hội, nhưng cũng là thách thức. Mỗi đơn vị đào tạo cần lựa chọn cho mình hướng
đi riêng, cách thức triển khai, nâng cao chất lượng đào tạo chương trình đã có, hoặc cần khu biệt cho
mình chương trình đào tạo dựa trên thế mạnh sẵn có hoặc nhanh chóng phát triển thêm chương trình mới
286
để tận dụng thời cơ.
Một số trường đã dần chuyển hướng đào tạo tiếng Nhật theo những định hướng cụ thể, hoặc đang
chuẩn bị mở thêm các chuyên ngành đào tạo mới bên cạnh chuyên ngành đã mở. Các trường đại học
ngoài công lập có ưu thế lớn trong việc nắm bắt cơ hội này. Liên kết đào tạo, kết nối với nhà tuyển dụng,
đào tạo theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp là xu hướng tất yếu để đảm bảo đầu ra và cung cấp nguồn nhân
lực dồi dào cho nhu cầu của thị trường lao động.
4. Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo tiếng Nhật trong tình hình mới
Ngôn ngữ Nhật là ngành học hiện đang được xã hội quan tâm và có tiềm năng phát triển lâu dài.
41 trường đại học có vai trò chủ lực trong đào tạo nguồn nhân lực tiếng Nhật chất lượng cao. Việc tăng
cường hợp tác, liên kết đào tạo sẽ giúp các trường xây dựng và phát triển vững chắc đội ngũ cán bộ giảng
dạy, tạo cơ sở đào tạo không chỉ ở bậc đại học mà còn ở bậc sau đại học. Tìm thêm cơ hội, hỗ trợ sinh
viên đi học, đi thực tập tại Nhật Bản theo các chương trình trao đổi, tăng cơ hội giao lưu, đi thực tế cho
sinh viên, góp phần khẳng định vị trí của các cơ sở đào tạo tiếng Nhật.
Xác định được nhiệm vụ đó, các trường cần đưa ra một số giải pháp cụ thể: chú trọng bồi dưỡng
và nâng cao chất lượng giảng dạy của giảng viên; mở thêm các học phần chuyên ngành phù hợp với
chương trình đào tạo để có thể đáp ứng, nắm bắt nhanh nhạy nhu cầu của xã hội.
Tranh thủ sự giúp đỡ, tài trợ của các cơ quan thuộc Nhà nước, Chính phủ, các tổ chức Quốc tế như:
Bộ Ngoại Giao, Đại sứ quán Nhật Bản; Quỹ Giao lưu Quốc tế Nhật Bản, các tổ chức phi chính phủ và
nhiều doanh nghiệp lớn của Nhật Bản; chương trình đào tạo cũng nên mở, có tính liên thông và quốc tế
hóa cao hơn; Luôn tích cực chủ động tìm kiếm các dự án quốc tế, các chương trình trao đổi sinh viên,
giảng viên với các đối tác nước ngoài, thông qua nhiều kênh khác nhau; sẵn sáng đón tiếp nhiều đoàn
khách trong nước và ngoài nước đến thăm và làm việc. Kí kết thỏa thuận hợp tác với nhiều đối tác trong
và ngoài nước để tăng hơn nữa cơ hội cho sinh viên, học viên Sau đại học và giảng viên được tham gia
các khóa học trao đổi, giao lưu tại Nhật Bản và các nước; tiếp nhận nhiều sinh viên, học viên, trợ giảng và
chuyên gia Nhật Bản đến học tập, nghiên cứu và làm việc.
Tăng cường quảng bá nhiều hình ảnh hoạt động thực tế của cơ sở đào tạo để từng bước khẳng đinh
và nâng cao vị thế với bạn bè, đối tác và xã hội; phối hợp, tham gia, làm tốt công tác hướng nghiệp và
quảng bá tuyển sinh, giới thiệu việc làm cho sinh viên sắp ra trường; chú trọng và thường xuyên tổ chức
các chương trình thực tập ngắn hạn internship dành cho sinh viên; tổ chức thường xuyên các hoạt động
quảng bá, các chương trình giao lưu văn hoá, các khóa học ngắn hạn dành cho sinh viên đến từ các trường
đại học Nhật Bản. Thông qua các hoạt động này, sinh viên có nhiều cơ hội giao lưu, sử dụng tiếng Nhật
và quảng bá được hình ảnh của nhà trường.
Tổ chức đa dạng hơn các hội thảo chuyên đề, workshop, semina, sinh hoạt chuyên môn có sự tham
gia của các chuyên gia, nhà nghiên cứu, doanh nhân, phiên dịch viên, dịch giả uy tín; tích cực tìm kiếm,
kết nối, tiến hành các hợp tác nghiên cứu với các nhà nghiên cứu đến từ các trường đại học uy tín trong
và ngoài nước; tăng cường quan hệ hợp tác trong và ngoài nước với các tổ chức, doanh nghiệp và các cơ
sở đào tạo; thiết kế thêm các học phần tự chọn để bồi dưỡng các kỹ năng cho người học; mời thêm các
chuyên gia, doanh nghiệp cùng giảng dạy cho một số học phần hoặc theo chuyên đề.
Tầm nhìn đến năm 2030 và xa hơn, các trường cần có lộ trình phấn đấu trở thành đơn vị đào tạo
và nghiên cứu khoa học về tiếng Nhật mạnh của cả nước, có vai trò nòng cốt trong đào tạo, nghiên cứu
và giảng dạy tiếng Nhật cho khu vực, đạt chuẩn chất lượng đào tạo theo các chuẩn mực của các trường
đại học tiên tiến và các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục trong khu vực và thế giới.
288
TÌM HIỂU PHƯƠNG THỨC CẤU TẠO TỪ DANH TỪ
TRONG TIẾNG NHẬT
Nguyễn Đoàn Hương Thủy*, Đoàn Thị Minh Nguyện
Khoa Nhật Bản học, Trường Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh
*Tác giả liên hệ: Điện thoại: 0903 942 565; Email: ndh.thuy@hutech.edu.vn
TÓM TẮT
Danh từ trong hệ thống từ loại là một phần thiết yếu trong ngôn ngữ. Để có thể giao tiếp thì người
học cần một lượng từ vựng nhất định cũng như cần hiểu và phân loại chính xác loại từ như danh từ riêng,
danh từ chung hay danh từ đơn, danh từ ghép... để có thể giao tiếp tốt và truyền đạt thông tin chính xác.
Tuy nhiên việc ghi nhớ và sử dụng danh từ trong giao tiếp của người học hiện nay vẫn còn rất nhiều hạn
chế mà nguyên nhân có thể kể ra như: phương pháp học thụ động, rập khuôn theo sách vở mà chưa có
tính liên kết; hệ thống sách học và dạy tiếng chưa cung cấp ngữ nghĩa chính xác rõ ràng; vì vậy người
học tiếng đang chỉ hiểu nghĩa của từ nói chung của danh từ nói riêng theo phạm vi nhỏ hẹp, nghĩa đơn
lập riêng lẻ nên không thể phân biệt và phân loại chính xác, từ đó dẫn đến việc sử dụng sai chức năng và
ngữ nghĩa của từ, sâu xa hơn người học không thể truyền tải thông tin chính xác trong khi giao tiếp.
Trong bài nghiên cứu này, tác giả mong muốn đóng góp một cái nhìn tổng quát về phương thức tạo lập
Danh từ trong tiếng Nhật và tiếng Việt thông qua phương thức ghép và phương thức phụ gia, rút ra những
điểm tương đồng và khác biệt để giúp người học có thể học tốt hơn và người dạy có thể vận dụng vào
thực tế giảng dạy tiếng Nhật ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: phương thức tạo lập từ, phương thức ghép, phương thức phụ gia, tiếng Nhật, tiếng Việt.
1. Dẫn nhập
Trong học tập và rèn luyện kỹ năng ngôn ngữ thì từ vựng đóng vai trò quan trọng giúp sinh viên
hiểu được hầu hết các thông tin được truyền đạt qua các bài đọc, các bài nghe cũng như trong giao tiếp.
Trên cơ bản các từ giống nhau về mặt đặc điểm ngữ pháp và ý nghĩa biểu đạt khái quát được gọi là từ
loại. Từ loại trên cơ bản được chia thành nhiều loại như danh từ và động từ, tính từ, chỉ từ, số từ, lượng
từ…Ngoài ra còn có quan hệ từ, phó từ, tình thái từ…
Câu luôn có một nòng cốt, và có thể có thành phần phụ ngoài nòng cốt. Câu có thể cấu tạo từ một
từ, cụm từ chính phụ hay cụm từ đẳng lập nhưng phổ biến nhất là cụm từ chủ vị. Trong đó đơn vị nòng
cốt cấu tạo nên cụm chủ - vị là một thực từ và có ý nghĩa.
Tiếng Việt là ngôn ngữ đơn lập và tiếng Nhật là ngôn ngữ chắp dính, trên các bình diện chung hai
ngôn ngữ này có rất nhiều sự khác biệt về hình thái của từ. Trong tiếng Việt, Từ được cấu tạo nhờ các
hình vị. Nói cách khác từ được tạo ra nhờ một hoặc một số hình vị có nghĩa hoặc không có nghĩa kết hợp
với nhau theo nguyên tắc nhất định Tuy nhiên khi so sánh ngữ nghĩa của danh từ trong hai ngôn ngữ này
thì vẫn có một số nét tương đồng trong cách tạo lập từ mà từ đó người học tiếng Nhật có thể hiểu được
và tiếp thu từ vựng tiếng Nhật tốt hơn.
2. Cơ sở lý luận
Từ những từ đơn thông qua các phương thức tạo lập từ như phương thức ghép, phương thức phụ
gia sẽ tạo lập ra từ mới. Do đó những từ mới này không phải là những từ được tạo ra một cách lẻ tẻ, rời
rạc, ngẫu nhiên mà thường được tạo ra theo những khuôn mẫu cấu tạo nhất định và làm thành những hệ
thống hay kiểu từ có chung đặc điểm cấu trúc và nghĩa. Từ loại danh từ trong tiếng Nhật bao gồm các
danh từ là từ nguyên và các danh từ là từ ghép hay từ phái sinh dựa trên phương thức cấu tạo từ mới.
Cũng giống như các ngôn ngữ khác, phương thức cấu tạo từ mới (danh từ) trong tiếng Nhật thường được
thực hiện bằng các phương thức:
a. Phương thức ghép: Ghép là phương thức kết hợp các hình vị cùng tính chất với nhau (chủ yếu
là các căn tố với nhau) theo một trật tự nhất định để tạo ra từ mới – từ ghép.
289
b. Phương thức phụ gia: Phương thức phụ gia là phương thức kết hợp một căn tố hoặc một phức
thể căn tố với phụ tố để tạo ra từ mới. Những từ được tạo ra theo phương thức này thường được gọi là từ
phái sinh.
c. Phương thức láy: Láy là phương thức lặp lại toàn bộ hay một bộ phận từ gốc để tạo ra từ mới –
gọi là ‘từ láy’.
Trong bài nghiên cứu này chúng tôi tiến hành phân tích và làm rõ phương thức cấu tạo từ mới –
danh từ bằng cách kết hợp thêm từ. Chính vì vậy, phương thức được vận dụng và làm rõ là phương thức
phụ gia và phương thức ghép.
② 寝る [neru] có 寝 [ne] là căn tố và る [ru] là vĩ tố kết thúc từ. Động từ 寝る có nghĩa là ngủ.
③ 話す [hanasu] có 話 [hana] là căn tố và す[su] là vĩ tố kết thúc từ. Động từ 話す có nghĩa là trò
chuyện.
Động từ tiếng Nhật có thể biến đổi về nhiều dạng khác nhau tùy theo chức năng và ý nghĩa ngữ
pháp mà nó biểu đạt, chẳng hạn như dạng た (ta) biểu thị ý nghĩa ngữ pháp của thì quá khứ, dạng ない
(nai) biểu thị ý nghĩa phủ định, dạng ます (masu) biểu thị ý nghĩa phạm trù lịch sự ... Đồng thời, động
290
từ tiếng Nhật ở dạng ます (masu) khi ta tiến hành lượt bỏ vĩ tố ます(masu) sẽ còn lại phần căn tố mang
ý nghĩa của từ vựng, lúc này phần căn tố của động từ có khả năng hành chức tương đương với một danh
từ, và ta có thể gọi đây là một danh từ chuyển loại (substantive).
Ví dụ:
④ 彼の走りを見て、私はとても感動した。
Tạm dịch: Nhìn thấy anh ấy chạy, tôi thật sự cảm động.
Ta có 走り(hashiri) là danh từ chuyển loại của động từ 走る(hashiru), trong câu ví dụ trên, 走り
(hashiri) tham gia vào câu nhằm biểu thị hoạt động “chạy” của “anh ấy” dưới dạng danh từ. Danh từ
chuyển loại có nguồn gốc từ động từ có thể tham gia làm bổ ngữ trực tiếp cho động từ, đồng thời có thể
kết hợp cùng các yếu tố từ loại khác để cấu tạo nên từ mới.
3.1 Phương pháp cấu tạo từ danh từ bằng phương thức thêm phụ gia
Trong tiếng Nhật số lượng danh từ ghép được cấu tạo ra bằng phương thức thêm một phụ gia vào
phía trước hay phía sau của căn tố để tạo lập nên một từ mới là phương thức chiếm đa số. Phương thức
thêm tiền tố hay thêm hậu tố vào căn tố để tạo lập nên một danh từ ghép mang nghĩa mới vừa tạo lập nên
danh từ mới với nét nghĩa được phát triển căn cứ vào nghĩa gốc của căn tố. Ví dụ Tiền tố 新(TÂN – mới)
kết hợp với các căn tố sẽ tạo ra các danh từ mang nét nghĩa “MỚI ~” như 新年(Shinnen – năm mới)、
新製品 (Shinseihin – sản phẩm mới).
Hay khi căn tố kết hợp với Hậu tố -員(nhân viên)sẽ có các từ như 会社員(kaishain)、銀行員
(ginkouin) để chỉ nhân viên của một công ty; Hậu tố -屋(Ốc – hàng quán)khi kết hợp với các căn tố
sẽ tạo thành các danh từ ghép chỉ các quán bán hàng như 魚屋(sakanaya – tiệm bán cá)本屋(honya
– tiệm sách)
Ta có thể thấy đa số các tiền tố, hậu tố dùng để kết hợp với các căn tố của Danh từ có xuất phát
điểm là từ gốc Hán. Vì vậy khi đứng một mình thì các thành phần phụ gia này cũng đã có một lớp nghĩa
của riêng mình. Ví dụ: Các tiền tố như 再_(Tái_) có nghĩa là “Lại”; 最_(Tối_) có nghĩa là “Cao nhất”;
未_(Vị_) có nghĩa là “Chưa xong”...
Khi các tiền tố và hậu tố này kết hợp với các căn tố sẽ tạo ra các từ mới và tạo thành trường từ
vựng. Trường từ vựng này có sẽ có chung một lớp nghĩa do ảnh hưởng của nghĩa của tiền tố hoặc hậu tố
tạo nên chúng.
Ví dụ: Các tiền tố như 再_(Tái_) có nghĩa là “Lại” khi kết hợp với các căn tố sẽ tạo ra trường từ
vựng có bao hàm ý nghĩa “Lại một lần nữa” như 再利用(Tái sử dụng) 再放送(Phát lại) ; Hay như
các tiền tố mang ý nghĩa phủ định như 無(Vô)不(Bất)thì khi kết hợp với các căn tố sẽ tạo ra trường
292
từ vựng bao hàm ý nghĩa “Không có, thiếu” như “無関係”(Không liên quan) ”無責任”(Vô trách nhiệm)
不公平(Không công bằng)
再〜/Tái~ 再 – Tái 再利用- さいりよう Tái sử dụng
最〜 /Tối~ 最 – Tối 最後 - さいご Cuối cùng, Sau cùng
未〜 / Chưa~ 未 – Vị 未完成み - みかんせい Chưa hoàn thành
新〜 / Tân Mới 新商品 - しんしょうひん Sản phẩm mới
不〜 / Bất 不〜 Không 不健康 - ふけんこう Không khỏe
無〜 / Vô 無 – Vô 無関係 - むかんけい Không liên quan
Thiếu kiến thức, thiếu
非〜 / Phi 非 – Phi 非常識 - ひじょうしき suy nghĩ
〜者/ Giả 者 – Giả 医者-いしゃ Bác sĩ
〜員 / Nhân viên~ 員 – Viên 銀行員- ぎんこういん Nhân viên ngân hàng
〜品/ ~Phẩm, Hàng ~ 品 – Phẩm 食品-しょくひん Thực phẩm
294
GIAO THOA VĂN HOÁ ẨM THỰC VIỆT NAM - NHẬT BẢN
TÓM TẮT
Nghệ thuật ẩm thực là một trong những hình thức biểu đạt văn hóa lâu đời tại nhiều quốc gia khác
nhau. Văn hóa ẩm thực không phải là thực thể độc lập mà thường gắn liền với một dân tộc cụ thể. Quá
trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế đã tạo điều kiện để các nền văn hóa ẩm thực tại nhiều quốc gia
giao thoa với nhau phát triển thành những sự kiện được tổ chức bao gồm cả truyền thông tổ chức và lịch
sử văn hóa. Do đó, nghiên cứu về giao thoa văn hóa ẩm thực giữa các quốc gia đòi hỏi một cách tiếp cận
liên ngành, sử dụng văn hóa tổ chức, lịch sử và quá trình phát triển các giá trị văn hóa ẩm thực. Nghiên
cứu này cung cấp một cái nhìn tổng quan về giao thoa văn hóa ẩm thực của con người giữa Việt Nam và
Nhật Bản theo thời gian, với sự nhấn mạnh đặc biệt vào các sự kiện ẩm thực văn hóa.
Từ khóa: ẩm thực, Nhật Bản, sự kiện, văn hóa, Việt Nam.
1. Tổng quan
Văn hóa ẩm thực có thể đóng một vai trò quan trọng đối với sức khỏe và hạnh phúc. Điều này đặt
ra câu hỏi liệu các ranh giới quốc gia có hợp nhất các nền văn hóa ẩm thực của các vùng và nhóm dân
tộc khác nhau hay không, điều gì tạo nên nét đặc trưng cho các nền văn hóa ẩm thực từ các khu vực rất
khác nhau trên thế giới, và những điểm tương đồng và khác biệt nào tồn tại (Boutaud, Becuţ and
Marinescu, 2016). Nhiều nghiên cứu trong giai đoạn gần đây chỉ ra rằng các truyền thống ẩm thực và ăn
uống có khả năng lan nhanh khá cao tại nhiều quốc gia và khu vực địa lý khác nhau do khả năng truyền
bá rộng rãi và nhanh chóng (Sproesser et al., 2022). Đối với các quốc gia khác nhau thường có sự tương
đồng nhất định về văn hóa ẩm thực, đặc biệt là các quốc gia có khu vực địa lý gần gũi hoặc có sự liên
kết về kinh tế, xã hội hoặc chính trị văn hóa. Mỗi quốc gia hầu như đều có văn hóa ẩm thực được đặc
trưng bởi một mô hình độc đáo về tập quán ăn uống truyền thống và hiện đại. Ngoài ra, các văn hóa ẩm
thực đa dạng hơn trong cách ăn uống truyền thống của họ so với cách ăn uống hiện đại của họ; và có sự
tiếp dẫn từ văn hóa ẩm thực truyền thống kết hợp với giá trị hiện đại hoặc được giao thoa với ẩm thực
nước ngoài (Samuel and Makhani, 2016). Những kết quả này có thể thúc đẩy sự hiểu biết tốt hơn về mối
liên hệ giữa văn hóa ẩm thực và sức khỏe và hạnh phúc vượt ra ngoài chất dinh dưỡng đơn thuần đối với
con người. Văn hóa ẩm thực có thể được liên kết với hạnh phúc thông qua việc củng cố ý thức về bản
sắc văn hóa của mọi người tại mỗi dân tộc trên thế giới (Altarriba et al., 2020). Hơn nữa, các kết quả hiện
tại góp phần hiểu rõ hơn về sự tương tác phức tạp giữa thực phẩm và văn hóa, đồng thời có thể giúp phát
triển các biện pháp can thiệp có thẩm quyền về mặt văn hóa để cải thiện chế độ ăn uống và giảm nguy
cơ mắc các bệnh liên quan đến ăn uống (Rudd et al., 2006).
Việt Nam và Nhật Bản có nhiều lợi ích chung và hai nền kinh tế hỗ trợ lẫn nhau. Trong đó, Nhật
Bản hiện là nhà cung cấp viện trợ phát triển chính thức (ODA) lớn nhất, nhà đầu tư lớn thứ hai, đối tác
du lịch lớn thứ ba và thương mại lớn thứ tư của Việt Nam. Cộng đồng người Việt Nam tại Nhật Bản đã
trở thành cộng đồng người nước ngoài lớn thứ ba tại Nhật Bản với gần 400.000 người. Năm 2019, hơn
900.000 khách du lịch Nhật Bản đã đến Việt Nam, cũng như hơn 400.000 lượt người Việt Nam đến thăm
Nhật Bản. Trong giai đoạn vừa qua thì Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
(CPTPP) đã thúc đẩy Việt Nam tăng cường kết nối kinh tế với Nhật Bản, giúp doanh nghiệp hai bên hợp
tác đầu tư, chuyển giao công nghệ, phát triển thị trường, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Hợp tác và kết
nối ngày càng mạnh mẽ giúp Việt Nam và Nhật Bản có thêm động lực đưa quan hệ Đối tác chiến lược
sâu rộng song phương lên tầm cao mới vì lợi ích của nhân dân hai nước cũng như vì hòa bình, ổn định,
hợp tác và phát triển ở khu vực và thế giới. Năm 2019, hơn 1.400.000 lượt người đã tham dự các hoạt
động giao lưu văn hóa giữa hai nước.
295
Tại Việt Nam, cũng như ở các quốc gia khác trên thế giới, xuất hiện sự giao thoa văn hóa ẩm thực
với nhiều quốc gia xung quanh hoặc các nền văn hóa ẩm thực lớn khác; trong đó có sự giao thoa văn hóa
ẩm thực giữa Việt Nam và Nhật Bản (Kornicki, 2019). Trước đó, đã có nhiều lễ hội ẩm thực được diễn
ra tại hai quốc gia này nhằm quảng bá hình ảnh ẩm thực tới cộng đồng thế giới. Sự giao thoa ẩm thực đã
được thúc đẩy mạnh mẽ trong thời kỳ trước dịch bệnh giữa hai quốc gia; thông qua các lễ hội văn hóa
ẩm thực được tổ chức tại mỗi quốc gia. Chính vì vậy, nghiên cứu này được phát triển nhằm mục tiêu
đánh giá thực tiễn phát triển giao thoa văn hóa ẩm thực giữa Việt Nam và Nhật Bản trong giai đoạn gần
đây.
4. Kết luận
Thị trường Việt Nam vẫn là điểm đến lý tưởng của các chuỗi nhà hàng Nhật Bản, thể hiện qua việc
ngày càng có nhiều công ty Nhật Bản tìm kiếm cơ hội mở rộng sang Việt Nam, đặc biệt nhắm vào phân
khúc thu nhập trung bình và cao. Tiềm năng của thị trường là khá rõ ràng, tuy nhiên, những doanh nghiệp
Nhật Bản mới đến thị trường Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh từ các đối thủ từ Hàn Quốc và
Thái Lan, những doanh nghiệp đã tạo dựng được chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Dễ dàng nhận thấy,
297
ẩm thực mỗi quốc gia đều có những ưu điểm riêng. Đáng chú ý, đồ ăn Thái Lan rất hợp khẩu vị của
người Việt Nam, trong khi đồ ăn Hàn Quốc đã trở thành xu hướng như một sản phẩm phụ của âm nhạc
như K-Pop và ngành công nghiệp điện ảnh. Văn hóa Nhật Bản nổi tiếng với sự sang trọng và tinh tế,
cũng như các tiêu chuẩn chất lượng của cả món ăn và dịch vụ – điều này rõ ràng là phải trả giá đắt. Do
đó, các nhà hàng Nhật Bản nhắm đến đối tượng có thu nhập trung bình và cao. Trong khi đó, tầng lớp
trung lưu Việt Nam tiếp tục phát triển, tập trung nhiều hơn vào các sản phẩm có chất lượng cao, tốt cho
sức khỏe và có địa vị xã hội. Các công ty Nhật Bản khi mở nhà hàng tại Việt Nam, họ muốn trực tiếp
quản lý, mở rộng chuỗi hoặc lựa chọn đối tác nhượng quyền, bởi họ muốn giữ nguyên cái hồn của thương
hiệu, từ bí quyết đến cách bài trí trong mỗi nhà hàng. Các nhà hàng Việt Nam có thể được tìm thấy ở
nhiều khu vực tại Nhật Bản. Ẩm thực Việt Nam đã có một chỗ đứng nhất định trong văn hóa ẩm thực
Nhật Bản trong nhiều năm qua. Đối với nhiều người tiêu dùng Nhật Bản và Việt Nam thì đồ ăn Việt Nam
có những nét độc đáo ẩm thực riêng. Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất là tìm nguyên liệu phục vụ cho các
món ăn Việt Nam tại Nhật Bản; nhưng nhờ sự phát triển giao thương giữa Việt Nam và Nhật Bản, giờ
đây nhiều cửa hàng ăn uống có thể mua tất cả các nguyên liệu để tạo ra món ăn mang hương vị Việt
Nam.
Hiện nay, Đại sứ quán Việt Nam phối hợp với các hội người Việt Nam tại Nhật Bản tổ chức các
sự kiện quảng bá văn hóa nhân các ngày lễ, kỷ niệm. Hiện có khoảng 20 hội đoàn tại Nhật Bản với các
nhóm doanh nghiệp riêng, góp phần củng cố sự hiện diện của văn hóa ẩm thực Việt Nam tại xứ người.
Món ăn Việt Nam dần chuyển hóa để có sự hợp khẩu vị với người Nhật. Người dân Nhật trước đó cũng
ít ăn rau xào, nhưng bây giờ khi vào các nhà hàng Việt, món rau muống xào tỏi là lựa chọn hàng đầu.
Các sản phẩm nông nghiệp khác của Việt Nam đang thâm nhập thị trường Nhật Bản theo cách này. Người
Nhật rất coi trọng vấn đề an toàn thực phẩm và không bao giờ mua một sản phẩm đã biết là không an
toàn đến hai lần. Chúng ta phải giữ được lòng tin của khách hàng bằng cách đảm bảo chất lượng, ngay
cả khi làm như vậy là thua lỗ. Việc cố gắng bán một sản phẩm kém chất lượng để thu hồi vốn khiến
chúng ta phải trả giá đắt trong tương lai. Cho đến nay, các hiệp định như CPTPP và RCEP đã mở ra
nhiều thị trường hơn cho các sản phẩm của Việt Nam. Vì vậy, điều quan trọng là ẩm thực Việt Nam cần
phải tuân thủ các tiêu chuẩn an toàn, cũng như xây dựng thương hiệu sản phẩm toàn diện từ chất lượng,
mẫu mã, bao bì; để có thể phù hợp với thị hiếu của các nước sở tại.
299
GIẢNG DẠY KÍNH NGỮ TIẾNG NHẬT TRONG GIAO TIẾP
NGÀNH DỊCH VỤ HÀNG KHÔNG
Lê Nguyễn Minh Thanh*
Viện Công nghệ Việt - Nhật, Trường Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh
*Tác giả liên hệ: Điện thoại: 0933 060 310; Email: lnm.thanh@hutech.edu.vn
TÓM TẮT
Mục đích cuối cùng của việc học ngoại ngữ là người học có thể sử dụng ngoại ngữ đã học để giao
tiếp trao đổi thông tin, tìm hiểu về con người, văn hoá với những người có thể cùng nói ngôn ngữ đó.
Tuy nhiên, số lượng học viên có thể sử dụng tiếng Nhật sau khi học để giao tiếp thực tế chiếm tỉ lệ rất ít
trong tổng số học viên đã và đang học tiếng Nhật tại Việt Nam. Một trong những nguyên nhân dẫn đến
khó khăn khi giao tiếp tiếng Nhật mà người Việt Nam gặp phải là việc sử dụng kính ngữ, vì thế việc làm
thế nào giúp người học dễ dàng tiếp thu, hiểu rõ về hệ thống kính ngữ trong tiếng Nhật để có thể giao
tiếp một cách tự nhiên là vấn đề được đặt ra. Trên cơ sở hệ thống kiến thức về kính ngữ trong tiếng Nhật,
cụ thể là kính ngữ sử dụng trong ngành dịch vụ hàng không ở bộ phận mặt đất, tác giả đưa ra các kiến
nghị cụ thể về thiết kế chương trình, tổ chức các hoạt động dạy học trên lớp cho người học.
Từ khóa: kính ngữ, ngành dịch vụ hàng không, tiếng Nhật, giao tiếp thương mại.
1. Đặt vấn đề
Hiện nay, Nhật Bản là quốc gia có vốn đầu tư FDI lớn thứ hai vào Việt Nam và nhu cầu về nguồn
nhân lực biết tiếng Nhật để làm việc tại các công ty Nhật Bản cũng tăng cao. Vì thế, số lượng học viên
người Việt Nam tham gia học tiếng Nhật ngày càng tăng cao. Tuy nhiên, số lượng học viên sau khi học
xong có thể sử dụng tiếng Nhật trong giao tiếp, trong công việc lại rất ít. Điều đó cho thấy thực tế rằng:
học viên người Việt Nam học ngôn ngữ Nhật gặp không ít khó khăn trong việc ứng dụng kiến thức ngôn
ngữ đã học vào giao tiếp thực tế. Trong đó, nổi bật là khó khăn về việc ứng dụng kiến thức kính ngữ
trong tiếng Nhật vào giao tiếp ở các môi trường làm việc khác nhau. Chính vì vậy, cần phải có những
giải pháp nâng cao khả năng ứng dụng kính ngữ cho người học tiếng Nhật ngay từ khi còn tham gia hoạt
động học tập tại các cơ sở đào tạo. Vì vậy, bài viết hệ thống lại những công thức tạo thành kính ngữ trong
tiếng Nhật và sử dụng bối cảnh giao tiếp cụ thể tại bộ phận mặt đất ở sân bay để thiết kế chương trình,
tổ chức các hoạt động dạy học trên lớp để người học sau khi học xong có thể tự thực hành sâu hơn ở
những môi trường làm việc khác.
300
+ Khiêm nhường ngữ 2: sử dụng khi nói về những hoạt động, sự vật sự việc của bản thân,
thể hiện rõ thái độ khiêm nhường khi nói về hành động, sự việc của bản thân với đối tượng đang giao
tiếp.
Theo “Jiyu jizai Quốc ngữ” (自由自在中学国語,2012) định nghĩa: Kính ngữ là một nét đặc trưng
trong văn hoá giao tiếp của người Nhật, được sử dụng để thể hiện sự kính trọng đối với đối phương. Có
3 loại kính ngữ: “tôn kính ngữ”, “khiêm nhường ngữ” và “lịch sự ngữ”.
+ Tôn kính ngữ: Kính trọng người đang giao tiếp hay chủ thể của cuộc hội thoại.
+ Khiêm nhường ngữ: đề cao đối phương bằng cách nói hạ mình xuống.
+ Lịch sự ngữ: cách nói lịch sự và thể hiện sự kính trọng đối tượng giao tiếp.
Trong bài viết này, vì tiếng Việt không có định nghĩa về kính ngữ và phân loại cụ thể, tác giả dựa
trên định nghĩa kính ngữ trong tiếng Nhật đưa ra khái niệm kính ngữ như sau: Kính ngữ là cách sử dụng
từ ngữ, cú pháp câu thích hợp dùng để diễn đạt thái độ quý trọng, tôn kính với đối tượng giao tiếp hoặc
người được nhắc tới trong nội dung giao tiếp. Kính ngữ có 3 loại:
+ Lịch sự ngữ: là cách nói lịch sự và thể hiện sự kính trọng đối tượng giao tiếp.
+ Khiêm nhường ngữ: là cách nói khiêm nhường về những hoạt động, sự vật sự việc của
bản thân, thể hiện rõ thái độ hạ mình xuống.
+ Tôn kính ngữ: là cách nói trang trọng về những hoạt động, sự vật sự việc của đối tượng
giao tiếp hoặc chủ thể được nhắc đến trong cuộc hội thoại, thể hiện thái độ tôn kính.
3. Cơ sở lý thuyết
3.1 Một số cách biểu đạt kính ngữ trong tiếng Nhật
STT Thông thường Lịch sự ngữ
1 「〜です」 「〜でございます」
2 「〜ですか」 「〜でしょうか」
3 「いい」 「よろしい」
4 「どう」 「いかが」
5 Danh từ/ tính từ お/ご + Danh từ/ tính từ
STT Thông thường Khiêm nhường ngữ
1 〜します お/ご 〜致します
2 〜てもらいます 〜ていただきます
3 〜させてもらいます 〜させていただきます
4 〜ています 〜ております
5 承知します かしこまります
STT Thông thường Tôn kính ngữ
1 〜します お/ご 〜になります
2 〜てください お/ご 〜ください
3 〜ています 〜ていらっしゃいます
*Giáo trình Tiếng Nhật du lịch – Khoa Nhật Bản học, trường Đại học Công nghệ Tp.HCM
và một số tổng hợp của tác giả
3.2 Kính ngữ sử dụng theo ngữ cảnh tại bộ phận mặt đất ở sân bay
1. Khi đón tiếp khách:
301
お待たせ致しました。 Xin lỗi, đã để quý khách chờ ạ.
1.
[自分の名前] でございます。 Em là [Tên nhân viên].
それから、チェックインの 手続きを 作り続ける Để tiếp tục hoàn tất thủ tục lên máy bay, sau
5. khi đóng tiền xong mời quý khách quay lại
ために、こちらに お戻りください。 quầy này.
6. お預け荷物は ございますか。 Quý khách có hành lý kí gửi không ạ?
3. Khi hỏi khách về yêu cầu ghế ngồi:
ご希望は 窓側の座席でございますか。通路側の Quý khách muốn ngồi ghế cạnh cửa sổ hay
1.
座席でございますか。 ghế ngoài lối đi ạ?
Quý khách có muốn lấy ghế ngồi cạnh nhau
2. 隣同士の席を お取りしましょうか。 không ạ?
(Dùng khi khách làm thủ tục 2 người)
Quý khách có muốn lấy ghế ở cửa thoát hiểm
3. 非常口 座席を お取りしましょうか。 không ạ?
(Dùng khi khách làm thủ tục có em bé nhỏ)
4. かしこまりました。 Vâng, em hiểu rồi ạ.
4. Khi xuất vé lên máy bay:
今、お客様の 搭乗券*を 発券します から、 Dạ hiện tại em đang in thẻ lên máy bay cho
1. quý khách, xin quý khách vui lòng đợi một
少々 お待ちください。 chút.
これは お客様の 搭乗券と 預ける荷物 受 Đây là thẻ lên máy bay và thẻ hành lý kí gửi
2.
取所の チケットでございます。 của quý khách ạ.
搭乗 ゲートは 〜番で、搭乗時刻は 〜時〜 Cửa lên máy bay là (số hiệu cửa), Giờ lên máy
3.
分で、座席番号は〜でございます。 bay là (giờ và phút), số ghế là (số hiệu ghế).
302
Hành lý của quý khách gồm (số kiện hành lý)
4. お荷物は 〜個で、[到着地]への でございます。
và sẽ được gửi tới (nơi đến).
お客様の 預ける荷物を 検察された まで、税 Xin quý khách vui lòng đợi ở chỗ hải quan cho
5. đến khi hành lý kí gửi của quý khách được
関事務所で お待ちください。 kiểm tra xong.
出発 20 分前に 搭乗ゲートにて お越しくださ Xin quý khách vui lòng đến cửa lên máy bay
6.
い。 trước 20 phút.
303
Thay cho những câu chào hỏi 「おはようございます」、「こんにちは」、「こんばんは」thì để người học bắt
đầu hội thoại bằng câu 「お待たせしました, đồng thời cũng phải giải thích với người học dùng câu này để
xoa dịu khách hàng sau khoảng thời gian dài chờ đến lượt làm thủ tục. Trường hợp người học đã thuần
thục câu trên, có thể hướng dẫn người học sử dụng câu kính ngữ lịch sự hơn như : 「お待たせ致しました」、
「大変お待たせ致しました」.
2. かしこまりました。
Sử dụng「かしこまりました」để biểu hiện việc đã tiếp nhận mong muốn của người khác. Đây là cách
nói lịch sự hơn so với câu「わかりました」、「了解しました」.
3. 少々お待ちくださいませ。
Trong trường hợp đang giao tiếp mà cần phải rời đi hay trong trường hợp cần thời gian để xử lý
nghiệp vụ thì phải lịch sự hỏi xin phép. Những trường hợp đó, không được nói 「ちょっとお待ちください」
mà phải nói nhẹ nhàng「少々お待ちください」. Ngoài ra, cần hướng dẫn thêm cho người học các cách nói
lịch sự hơn như:「少々お待ちいただけますでしょうか」trong đó 「〜いただけますでしょうか」là cách nói lịch sự
của 「〜もらえるんですか」; hay 「少々お待ちくださいませ」trong đó「〜ませ」là thể mệnh lệnh của 「〜ます」
thể hiện ý mong mỏi một việc làm nào đó của đối phương với tất cả sự kính trọng.
4. 申し訳ございません。
Khi khách hàng phiền lòng hay cảm thấy bất tiện thì không được dùng 「すみません」mà phải nói
「申し訳ございません」để tỏ rõ sự thành khẩn xin lỗi của bản thân. Đồng thời, hướng dẫn người học vừa
nói 「申し訳ございません」vừa cúi người xin lỗi.
5. ありがとうございます。
Trong giao tiếp với khách hàng thì có thể dùng câu 「ありがとうございます」hay 「いつもありがとうござ
います」để diễn tả sự biết ơn. Tuy nhiên, cũng cần phải hướng dẫn sinh viên vừa nói câu cám ơn vừa kết
hợp với việc cúi người chào kính cẩn một góc 45 độ.
304
Bước 4: Người dạy cùng học viên xem lại video và cắt những đoạn đối thoại hay, cũng như những
đoạn đối thoại cần chỉnh sửa nội dung, chú trọng phần nội dung về kính ngữ để sửa kĩ trên lớp.
5. Kết luận
Bài viết hệ thống lại kiến thức về kính ngữ, đặc biệt những câu kính ngữ sử dụng trong ngành dịch
vụ hàng không ở bộ phận mặt đất. Thông qua các tình huống giao tiếp trong ngành dịch vụ hàng không
giữa nhân viên mặt đất với khách hàng, tác giả khuyến nghị các bước giảng dạy, luyện tập để giúp người
học hiểu rõ hơn về kính ngữ, áp dụng được kính ngữ trong một tình huống cụ thể. Bài viết gợi ý cho
người dạy một số cách tổ chức hoạt động giảng dạy để người học có thể tiếp thu kính ngữ một cách tự
nhiên mà không cần phải bắt ép thuộc lòng các quy tắc tạo nên kính ngữ. Thông qua cách giảng dạy đó,
người học cũng có thể áp dụng tương tự vào các tình huống thực tế khác để tìm hiểu thêm về kính ngữ
trong tiếng Nhật.
305
HÌNH TƯỢNG “ĐÔI ĐŨA” TRONG VĂN HOÁ XÃ HỘI
VIỆT NAM - NHẬT BẢN
TÓM TẮT
Đôi đũa là một vật dụng không thể thiếu trong văn hoá Ẩm thực của người Phương Đông, gắn liền
với nền văn minh gốc nông nghiệp lúa nước. Chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc, các đất nước
Nhật Bản, Việt Nam, Hàn Quốc… chủ yếu sử dụng đôi đũa làm công cụ trong bữa ăn hàng ngày. Tuy
nhỏ bé, mộc mạc, đơn sơ là vậy, nhưng đôi đũa mang trong mình những triết lý nhân sinh to lớn phản
ánh đời sống tinh thần, quan niệm văn hoá của mỗi quốc gia. Thậm chí trong đời sống hằng ngày, người
ta còn có thể phần nào đánh giá văn hoá nhận thức của một ai đó thông qua cách sử dụng đũa trong bữa
ăn. Về hình thức và chủng loại, đũa Việt Nam hay Nhật Bản thường được làm bằng gỗ, tre…với nhiều
kích thước, hình dáng trang trí từ bình dị đến tinh xảo tuỳ vào nhu cầu sử dụng chúng. Vốn nổi tiếng bởi
sự sạch sẽ, lễ nghi và nguyên tắc, người Nhật Bản cẩn trọng hơn trong các quy định sử dụng đũa. Ví dụ
như một món ăn truyền thống, nổi tiếng là món Sashimi sẽ dễ bị hỏng nếu như người Nhật sử dụng các
dụng cụ ăn bằng kim loại như dao, dĩa… theo kiểu phương Tây. Trên bàn ăn, người Nhật dùng một đôi
đũa chung để gắp thức ăn vào bát ăn của riêng mình chứ không dùng đũa cá nhân, không gắp và truyền
thức ăn cho nhau. Cũng giống như ở Việt Nam, khi sử dụng đũa cũng có những quy tắc cấm kỵ như:
không cắm đũa vào bát cơm, không chọc đũa vào thức ăn, không gõ đũa vào cốc chén,...Dù tương đồng
trong nguồn gốc hình thành đũa hay việc dùng đũa có quen thuộc và phổ biến ra sao thì vẫn luôn có sự
khác biệt nhất định về quan niệm và về cách sử dụng. Bởi vì, mỗi dân tộc, đất nước đều có một nét văn
hóa riêng. Hình ảnh đôi đũa trong quan niệm nhân sinh, xã hội của người Việt Nam và Nhật Bản cũng
ẩn chứa nhiều nét tương đồng thú vị. Bài viết này sẽ chỉ ra những triết lý, những liên tưởng đặc sắc thông
qua hình tượng “đôi đũa”.
Từ khoá: đôi đũa, triết lý, tương đồng, văn hoá.
1. Đặt vấn đề
Muôn đời nay, đôi đũa trở thành vật dụng không thể thiếu trong bữa cơm thường ngày của người
Việt Nam và Nhật Bản – hai trong số nhiều quốc gia sử dụng gạo làm nguồn lương thực chính. Bên mâm
cơm gia đình sau một ngày dài cũng là lúc các thành viên sẻ chia những câu chuyện thường nhật và hơn
hết là niềm vui của sự đoàn tụ. Đôi đũa, dù chỉ là một vật dụng nhỏ bé nhưng lại chứa đựng trong đó cả
một lịch sử lâu đời cùng những triết lý sâu sắc trong những “nếp nhà”. Bài học đầu tiên của những đứa
trẻ trên bàn ăn là bài học cầm đũa, thông qua bữa cơm, đôi đũa đã trở thành một vật dụng để ông bà, cha
mẹ có thể dạy con cháu những bài học về nề nếp, lễ nghi. “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”, đũa cả xới
cơm mời ông bà, mời cha mẹ, cầm đũa sao cho khéo kẻo rơi vãi thức ăn, khi gắp thức ăn đôi đũa không
xới không đảo đồ ăn, không khuya khoắng đũa trước mặt người khác… Hẳn là những điều trên không
còn xa lạ với bất kỳ ai trong chúng ta.
306
Hình 1.1: Mâm cơm gia đình Việt (baohatinh.vn)
Về nguồn gốc, đũa - một cặp thanh có chiều dài bằng nhau, thon dài và là tên gọi một loại dụng cụ
ăn uống cổ truyền ở các quốc gia Đông Á như Trung Quốc, Nhật Bản,Việt Nam,.... Đũa thường được
làm bằng gỗ, tre, kim loại, ngà voi,… và ngày nay đũa được làm bằng cả chất dẻo. Được biết đũa và
dụng cụ ăn uống bằng bạc khác được dùng để phát hiện chất độc trong thức ăn của vua quan thời phong
kiến.
2. Các triết lý nhân sinh thông qua hình tượng đôi đũa
2.1 Triết lý đoàn kết
“Ngày xưa, có một ông già sinh được bốn người con trai. Một hôm, ông để một bó đũa và một túi
tiền lên bàn rồi gọi các con đến bảo: “Trong số các con, ai bẻ gãy bó đũa sẽ được cha thưởng cho túi tiền
này”. Nghe vậy bốn người con lần lượt thử cầm bó đũa bẻ, nhưng người nào người nấy đều cố hết sức
mà vẫn không sao bẻ nổi bó đũa. Lúc ấy, người cha mới rút ra từng chiếc đũa một, rồi bẻ gãy một cách
dễ dàng. Ông bảo: “Các con đều thấy đó. Khi bị chia ra thì cái gì cũng yếu, nhưng khi hợp lại thì cái gì
cũng thành cái mạnh. Vì vậy các con phải yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau. Có đoàn kết thì mới có sức
mạnh”. Bốn người con trai nghe xong vô cùng thấm thía lời cha dạy và cùng hứa sẽ đoàn kết và mãi
thương yêu lẫn nhau.”
Chắc hẳn người Việt Nam ta ai cũng thuộc nằm lòng câu chuyện “Bó đũa” – bài học sâu sắc về
tình thân ruột thịt và sức mạnh của đoàn kết. Người Nhật Bản lại truyền tai nhau câu nói : “ 箸折り屈み
307
の兄弟” (hashi orikagami no kyoudai) tạm dịch, nghĩa đen: đũa gãy chính là anh em , nghĩa bóng: hai
người có tình cảm sâu đậm mới là anh em. Câu nói này cũng nói lên tình cảm anh em ruột thịt, biết tương
thông giúp đỡ nhau mới là tình anh em.
2.2. Triết lý nhân sinh
Bài học đầu tiên trên bàn ăn của một đứa trẻ, chính là việc học cầm đũa. Đúng như câu nói “ăn
trông nồi, ngồi trông hướng”, người ta thậm chí sẽ đánh giá sự nết na của một ai qua việc dùng đũa và
thói quen ăn uống. Trong mâm cơm, dù người Việt hay người Nhật, đều biết mời người lớn dùng bữa
trước khi bắt đầu bằng những câu chào “ con mời ông bà, cha mẹ, anh chị ăn cơm”, hay là câu “いただき
ます”(itadakimasu), tạm dịch: xin phép dùng (xin phép ăn). Vốn dĩ gánh chịu hậu quà nặng nề từ chiến
tranh, thiên tai động đất, sóng thần nên người Nhật dạy con luôn biết trân quý thức ăn, biết cảm ơn khi
nhận và biết ơn vì bữa ăn ngon mà mình đang có - “ごちそうさまでした”(gochisousamadeshita). Trên bàn
ăn, các hành động như: chọc đũa vào thức ăn, cắm đũa trên chén cơm, hay gõ đũa, dùng đũa đảo xới thức
ăn…đều được cho là kém tế nhị, không lịch sự.
Ngoài ra, qua hình ảnh đôi đũa, chúng ta dễ dàng nhận thấy những triết lý nhân sinh ẩn dụ được
vận dụng nhiều trong đời sống hàng ngày. Người Việt Nam khi muốn phê phán cách nhận xét, khái quát
vấn đề một cách hồ đồ, thiếu cơ sở, thiếu phân tích, thiếu dữ liệu thì hay ví von tình huống đó bằng câu
tục ngữ: “Vơ đũa cả nắm” . Hoặc trong những trường hợp cần phải chọn giải pháp tình thế, cần phải chọn
lựa trong đám đông thì dùng câu: “So bó đũa chọn cột cờ”. Người Việt xưa cũng phê phán những ảo
tưởng, những ý muốn không thực tế về hôn nhân bằng câu nói: “Đũa mốc lại chòi mâm son”.
Tương đồng trong những quan niệm này, người Nhật cho rằng con người “khởi đầu từ đũa và kết
thúc bằng đũa” qua câu nói “箸に始まり、箸で終わる”(Hashi ni hajimari, hashi de owaru). Theo phong
tục của họ, sau khi một đứa trẻ được sinh ra, người Nhật thường tổ chức lễ sơ thực okuizome có sử dụng
đũa. Đến cuối đời, trong tang lễ, người Nhật dùng đũa để gắp xương người chết.
Khi nói đến một người kém cỏi, năng lực yếu kém thì có câu: “箸にも棒にも掛からな” (Hashi ni mo
bou ni mo kakaranai), theo nghĩa đen là: đũa cũng không cầm được, gậy cũng không cầm được. Chỉ trích
sự nuông chiều thái quá, dựa dẫm, ỷ lại thì họ ví von như: “箸より重い物を持った事が無い” (Hashi yori
omoi mono o motta koto ga nai), nghĩa đen là: chưa cầm một cái gì nặng hơn đôi đũa, nghĩa bóng là được
bố mẹ quá nuông chiều nên không biết tự làm việc gì dù là dễ dàng.
308
Hình 2.2. Đôi đũa làm quà cưới ở Nhật Bản giá khoảng 2 triệu đồng (yamada-heiando.jp)
4. Kết luận
Đôi đũa - vốn chỉ là vật dụng rất bình dị nhưng từ lâu đã vượt qua các phạm vi vật chất vô cùng
nhỏ bé, khiêm nhường, vượt qua cả ý nghĩa, tập quán ăn uống thông thường để trở thành hình tượng sinh
động, công cụ sắc bén trong diễn đạt những quan niệm về nhân sinh.
Mặc dù người Việt Nam sử dụng đôi đũa hằng ngày, nhưng không phải ai cũng có thể hiểu rõ được
hết các nguyên tắc và chủng loại của chúng. Tuy đũa chỉ là một vật dụng tương đối nhỏ và đơn giản,
nhưng chứa đựng bên trong là linh hồn của cả một nền văn hóa dùng đũa có lịch sử ngàn đời. Hình ảnh
đũa Việt gắn liền với cây tre, khóm trúc, với ruộng đồng, hạt gạo…Người Việt ta dùng đũa với niềm tự
hào dân tộc và lòng biết ơn sâu sắc ngàn đời.
Đối với các quốc gia Châu Á nói chung và Nhật Bản nói riêng, đôi đũa cũng là một vật dụng không
thể thiếu trong nếp sống của họ. Chính nét tương đồng này đã tạo nên sự kết nối nền ẩm thực và văn hoá
giữa các nước với nhau. Do cùng truyền thống hay bởi ảnh hưởng giao lưu văn hóa nên từ nhiều thế kỷ,
nay đôi đũa xuất hiện trong đời sống ẩm thực của những gia đình phương Đông như một nét đẹp văn hóa.
Có người cảm thấy đó như một thói quen, cũng có người coi đôi đũa là cả triết lý sống, là tình cảm gia
309
đình keo sơn, tình nghĩa vợ chồng bền chặt, tình đoàn kết… Và dù ở quốc gia, miền đất nào, đôi đũa vẫn
thể hiện nét đẹp trong truyền thống ngàn đời nay.
Như vậy, văn hoá dùng đũa có nhiều điểm thật phong phú và thú vị. Quan niệm văn hóa dùng đũa
cũng như cách dùng đũa của mỗi nước lại có những nét vừa tương đồng vừa khác biệt nhau. Tuy nhiên,
về bản chất, văn hoá dùng đũa có thể được hiểu chung là không chỉ đơn thuần giúp người ta ăn sao cho
tiện, cho ngon, gắp sao cho khéo, mà còn làm cho bữa ăn thi vị hơn, qua bữa ăn mà gần gũi, gắn bó nhân
ái với nhau hơn.
310
CHỦ NGHĨA VỊ THA - TINH THẦN CHUNG CỦA CÁC TÔN GIÁO
TÓM TẮT
Việt Nam và Nhật Bản là hai quốc gia Đông Á có nhiều tương đồng trong hệ tư tưởng truyền thống
xuyên suốt từ thời cổ trung đại, đã và đang tìm thấy ở nhau những tinh hoa văn hóa có thể học hỏi, bổ
sung cho nhau để cùng nhau phát triển. Nhật Bản đã tiến nhanh và thành công trên con đường hiện đại
hóa, để lại nhiều bài học đáng quý cho Việt Nam. Do vậy việc nghiên cứu phát hiện những giá trị tương
đồng giữa hai dân tộc là hết sức cần thiết trong bối cảnh quan hệ Việt – Nhật đi vào chiều sâu trên nhiều
phương diện như hiện nay. Giao thoa văn hóa được xem là một hiện tượng tất yếu của quá trình toàn cầu
hóa, hội nhập quốc tế mà không một nền văn hóa nào có thể đứng ngoài. Việc giao thoa văn hóa giúp
cho mỗi nền văn hóa tiếp nhận những “luồng gió” văn hóa mới, tiến bộ để làm phong phú, sâu sắc hơn
giá trị văn hóa của mình, đồng thời mở ra cơ hội quảng bá hình ảnh và những giá trị văn hóa của mình
ra bên ngoài. Khi tham gia viết bài cho “Hội thảo Ngôn ngữ và Văn hoá Đông Á 2023”, tác giả muốn
mang đến cái nhìn khái quát về “Chủ nghĩa vị tha – Tinh thần chung của các tôn giáo” để làm đề tài
cho bài viết này. “Chủ nghĩa vị tha” không chỉ là của riêng các quốc gia tín ngưỡng Phật giáo, Thần
giáo… như Việt Nam hay Nhật Bản, mà nó là tinh thần chung của các tôn giáo trên toàn cầu.
Từ khóa: chủ nghĩa vị tha, giao thoa văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng.
1. Đặt vấn đề
Việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, kế thừa truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại là một nội dung xuyên suốt trong quá trình
hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách tổng quan, sâu sắc
hiện tượng giao thoa văn hóa, quá trình giao thoa văn hóa trên thế giới và vận dụng lý luận, thực tiễn
giao thoa văn hóa một cách hiệu quả vào việc hoạch định chính sách ngoại giao văn hóa trong điều kiện,
hoàn cảnh trong nước, bối cảnh quốc tế là một việc làm hết sức cần thiết. Trong đó, triết lý khoan dung
của mỗi nền văn hóa được kết tinh, hội tụ bên dưới cấu trúc tầng sâu của lịch sử, ký ức xã hội, phong tục
tập quán, cung cách ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội, trong đó hàm chứa sâu sắc các tri thức
bản địa của từng dân tộc qua suốt chiều dài lịch sử. Có thể nói rằng, xã hội loài người đang phải đối mặt
với nhiều nguy cơ về thảm họa, thiên tai, bệnh tật... do chính con người gây ra do sự biến đổi khí hậu ở
quy mô toàn cầu. Chúng ta cần phải làm gì để hiện thực hóa khả năng duy trì môi trường toàn cầu và nền
văn minh nhân loại?
Trong thế kỷ XXI ngày nay, các cuộc phân tranh vẫn tiếp tục diễn ra khắp nơi trên thế giới. Nguồn
gốc của các cuộc phân tranh này được cho rằng bắt nguồn từ sự khác biệt về quan điểm giá trị trên nền
tảng tôn giáo. Mỗi tôn giáo thực hiện vai trò kết nối các tín đồ trong một dân tộc hoặc một cộng đồng,
làm cho họ đoàn kết với nhau. Lực gắn kết của lòng tin càng mạnh thì mối liên hệ gắn bó giữa các tín đồ
càng chặt chẽ. Song, sự kết nối hướng tâm này càng mạnh bao nhiêu thì hiện tượng bài xích đối với các
tín đồ tôn giáo khác lại càng tăng lên. Chúng ta cần phải tôn trọng tính đa dạng của tôn giáo và văn hóa.
Từ đó, con người nên hướng đến chủ nghĩa vị tha – một nguyên lý đạo đức, được thể hiện khi con người
hành động đặt lợi ích của người khác trên lợi ích của bản thân. Hệ tư tưởng này là khía cạnh nền tảng
của nhiều nền văn hóa và tôn giáo. Những tôn giáo lớn trên thế giới như: Phật giáo, Thiên Chúa giáo,
Hồi giáo, Ấn Độ giáo đều đề cao “chủ nghĩa vị tha” như một giá trị đạo đức quan trọng.
312
tính vị tha chính là “thiền định”, các rèn luyện này đúng theo sự kết hợp giữa Phật giáo và khoa học về
não bộ.
2.3. Biết ơn và hạnh phúc
“Chúng ta nên nghĩ thế nào về hạnh phúc?” Tác giả nghĩ dù mỗi chúng ta có khác nhau về cách
nghĩ, khác nhau về tôn giáo thì chúng ta đều có chung một tâm trạng là mong muốn được hạnh phúc. Có
thể nói “hạnh phúc” là mục tiêu mà ai ai cũng đều hướng đến. Có câu nói cho rằng “Người ta biết ơn khi
hạnh phúc”. Vậy liệu có thật sự là hạnh phúc sẽ làm con người ta cảm thấy biết ơn hay không? Theo
Steindl-Rast “có rất nhiều người chiếm hữu mọi thứ để có thể hạnh phúc, nhưng rồi lại không hạnh phúc
vì càng ham muốn thêm nhiều thứ khác nữa. Mặt khác, cũng có những người gánh chịu nỗi bất hạnh mà
chẳng ai mong muốn, nhưng lại cảm thấy hạnh phúc từ tận đáy lòng”. Tại sao lại có lập luận vô lý như
thế? Theo Steindl-Rast thì bởi vì người ấy có lòng biết ơn. Ông nói “không chỉ là hạnh phúc tạo ra sự
biết ơn, mà là sự biết ơn làm cho chúng ta hạnh phúc. Nếu bạn nghĩ rằng hạnh phúc tạo ra sự biết ơn thì
hãy thay đổi cách nghĩ này. Thật ra là sự biết ơn đã làm cho chúng ta hạnh phúc”. Ông cho rằng chúng
ta đang sống trong hiện tại, được ban cho cuộc sống và duy trì cuộc sống, và dẫu có bị rơi vào tình huống
khó khăn thì cũng hãy xem như đó là sự thử thách nhân từ của thượng đế mà đón nhận bằng tấm lòng
biết ơn, đối diện với hoàn cảnh bằng tinh thần lạc quan luôn hướng về phía trước. Ông bà xưa có câu
“Vạn sự khởi đầu nan” – để đạt được vạn sự trên đời này quả thật không phải là điều dễ dàng, “hạnh
phúc” là điều mà vạn người mong muốn. Đôi khi trong cuộc sống gặp rất nhiều điều khó khăn, nhưng
chúng ta hãy cố gắng sống tích cực, lấy “hạnh phúc” làm mục tiêu phấn đấu. Đạo lý này đã vượt qua sự
khác biệt về văn hóa và tôn giáo, là “đạo lý toàn cầu” cần được nhấn mạnh và lan rộng khắp xã hội ngày
nay.
4. Kết luận
Ở bài viết này, tác giả muốn nêu lên “chủ nghĩa vị tha” không chỉ làm tăng thêm hạnh phúc của
người khác mà cũng là một nhân tố quan trọng có ảnh hưởng tốt đối với những người nuôi dưỡng những
giá trị này ở trong tâm họ và thể hiện chúng nơi hành xử của họ. Khái niệm này không chỉ trọng tâm đối
với triết học và thực hành Phật giáo, mà trong những năm gần đây đã được chứng thực bởi việc nghiên
cứu sâu rộng ở nơi tâm lý học và khoa học thần kinh. Do đó, chúng ta không những cần phải thúc đẩy
lòng vị tha và từ bi ở đời sống cá nhân của mình, mà cũng cần phát triển nó bên trong giáo dục và lan
rộng ra đời sống xã hội nói chung. Điều này rất cần thiết và là cách trực tiếp giải quyết những thách thức
của thế giới hiện đại.
“Chủ nghĩa vị tha” là như thế, song, bài viết không chỉ dừng lại ở việc ca ngợi lòng vị tha mà còn
được xem như lời phản tỉnh cho những ai chưa hướng đến chủ nghĩa này. Sự ích kỷ, việc chú trọng vào
bản thân quá mức, làm tăng thêm chủ nghĩa cá nhân, và việc tự quá yêu mình rõ ràng có những tác dụng
ngược với lòng vị tha, gây ra tác dụng ngược với hạnh phúc. Khi chúng ta quá coi trọng “chủ nghĩa cá
nhân” – đó là hình thức của thói vị kỷ mà nó nhằm tách mình ra khỏi bất kỳ ý nghĩa trách nhiệm nào đối
với người khác và khuyến khích cá nhân chỉ đơn giản theo đuổi tham muốn và những xu hướng của mình
mà không xem xét nhiều đối với xã hội. Một chủ nghĩa cá nhân như vậy, đặc biệt ở những quốc gia phát
triển cao, đưa đến những ảnh hưởng tiêu cực như được mô tả bởi nhà tâm lý học Jean Twenge ở trong
The Narcissism Epidemic (Twenge 2011). Theo Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders
(DSM-IV-TR, 2000), một trong trong những đặc điểm của việc quá yêu bản thân là sự thiếu cảm thông.
Chủ nghĩa cá nhân và sự vị kỷ thiếu quan tâm người khác cùng những vấn đề toàn cầu chẳng hạn như
môi trường, là một đặc điểm mà nhà tâm lý học người Mỹ Tim Kasser nhìn thấy trong số những người
314
mà họ dành sự ưu tiên cho những giá trị bên ngoài và sự bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Kasser và
những đồng nghiệp của mình tại Đại học Rochester phát hiện thông qua những nghiên cứu mà nó kéo
dài hai thập kỷ và bên trong một nhóm dân số đại diện rằng, những cá nhân tập trung đời sống của họ
vào tài sản, hình ảnh, địa vị xã hội, và những giá trị vật chất khác mà chúng được đẩy mạnh bởi xã hội
tiêu thụ thì ít thỏa mãn với đời sống của họ (Kasser 2003 và 2008). Bám chấp vào tiêu thụ không chỉ liên
quan đến những mức độ khổ đau cao hơn, mà cũng liên quan đến những mức độ hạnh phúc thấp hơn.
Những người bám vào tiêu thụ cho thấy họ có ít cảm xúc dễ chịu chẳng hạn như hạnh phúc, hài lòng, vui
vẻ, thỏa mãn. Họ càng trở nên buồn chán và lo lắng, và dễ bị đau đầu và đau bao tử hơn. Họ uống nhiều
rượu và hút nhiều thuốc hơn. Họ thích cạnh tranh hơn, ít đóng góp vào lợi ích chung khi họ chủ yếu tập
trung vào bản thân, và họ ít quan tâm đến những vấn đề môi trường. Những mối quan hệ xã hội của họ
bị suy yếu và họ có ít đi những người bạn chân thật. Họ thể hiện ít cảm thông và thương yêu đối với
những người khổ đau, họ quỷ quyệt và có khuynh hướng thoái thác người khác cho lợi ích của họ. Thậm
chí sức khỏe của họ kém hơn so với phần còn lại của dân chúng. Họ cũng ít quan tâm đến những giải
pháp mà chúng cần đến một cái nhìn tổng quát về các vấn đề và một tinh thần hợp tác.
Tuy nhiên, “chủ nghĩa cá nhân” cũng có một khía cạnh khác được hiểu ngầm, nó đưa đến quan
niệm rằng mọi người xứng đáng được tôn trọng và không thể bị sử dụng như một công cụ vì những lợi
ích của người khác. Quan niệm này đã đưa đến sự nhận thức về các quyền cơ bản của con người và nó
cho phép con người thực hiện những chọn lựa về cách họ muốn sống cuộc đời của họ mà không bị ràng
buộc bởi những quy phạm độc đoán áp đặt lên họ. Chính vì vậy, vạn vật trên đời này không có gì là tốt
hoặc xấu tuyệt đối, chỉ cần con người chúng ta có thể điều khiển nó thật tốt thì tác giả nghĩ chúng ta có
thể giải quyết được tất cả mọi việc.
315
TƯƠNG QUAN TRIẾT LÝ ẨM THỰC VIỆT – NHẬT
TRONG GIAO LƯU VĂN HÓA
Nguyễn Thị Phong Nhã*
Viện Công nghệ Việt - Nhật - Trường Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh
*Tác giả liên hệ: Điện thoại: 0909 009 400; Email: nha.ntp@hutech.edu.vn
TÓM TẮT
Văn hóa ẩm thực Nhật Bản (和食―Washoku ) là văn hóa phi vật thể được UNESCO công nhận
năm 2013. Nhật Bản là một trong ba quốc gia trên thế giới có nền ẩm thực độc đáo nhờ những nét tinh
tế và thẩm mỹ trong phong cách ẩm thực, cũng như trong phong cách trình bày ẩm thực. Văn hóa
Washoku không chỉ là một thể loại ẩm thực đơn thuần, mà là một nét văn hóa quan trọng, định hình nên
nhiều khía cạnh khác nhau của cuộc sống Nhật Bản dựa trên tinh thần “tôn trọng thiên nhiên” mà người
Nhật đã kế thừa từ xa xưa.
Trong giao lưu văn hóa, Việt Nam cũng có những nét tương đồng như trong văn hóa ẩm thực Nhật
Bản và biến đổi thành một nét riêng biệt của Washoku thành phong cách ẩm thực Việt Nam riêng biệt,
đặc sắc và tinh tế từ trong hương vị đến cách bài trí.
Từ khóa: giao lưu văn hóa Nhật Bản, triết lý ẩm thực, Washoku, văn hóa ẩm thực, Việt Nam.
1. Đặt vấn đề
Washoku (和食) có nghĩa là Hòa Thực, ngay trong tên gọi cũng đã chuyển tải tính triết lý ẩm thực
của người Nhật Bản “hòa, kính, thanh, tịnh” mà sau này nâng cấp lên thành bốn nguyên tắc triết lý sử
dụng trong Trà đạo Nhật Bản. Washoku hoàn toàn không phải là tên món ăn cụ thể nào mà chính là cách
gọi chung cho những bữa cơm truyền thống ở Nhật. Thông qua bữa ăn Washoku của Nhật Bản, chúng ta
có thể nhận thấy sự tinh tế của người Nhật không dừng lại trong phạm vi món ăn nhỏ hẹp mà là một tinh
thần ham học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu khi tiếp nhận và giao thoa ẩm thực với các nước Trung Quốc, Triều
Tiên và các nước Tây Âu, đặc biệt là Việt Nam.
Nói về văn hóa ẩm thực Nhật Bản không chỉ đơn giản là liệt kê các món ăn, các nguyên liệu thực
phẩm chế biến hoặc các cách thức chế biến món ăn mà còn là cả một nghệ thuật độc đáo thông qua các
món ăn và hương vị của chúng. Hơn thế nữa, việc nhận định vai trò văn hóa trong ẩm thực mang lại giá
trị lớn lao trong việc quảng bá hình ảnh Nhật Bản ra bên ngoài thế giới và định danh cho Nhật Bản ở một
vị trí danh giá nhất định khi giá trị dinh dưỡng, thẩm mỹ của Washoku mang lại đã chinh phục sự hài
lòng và cả sự thán phục của những thực khách khó tính trên thế giới.Và hơn nữa, tính triết lý ẩm thực
Nhật Bản được hình thành từ thái độ trân trọng môi trường sống của người Nhật trong việc khai thác,
chế biến hải, và tái tạo môi trường tự nhiên gần như tuyệt đối của họ.
316
Ngũ sắc: trắng, vàng, đỏ, xanh, đen (trong đó sắc trắng của cơm gạo, sắc vàng của củ cải muối, sắc
đỏ của thịt cá hoặc gừng chua, sắc xanh của rau củ, và sắc đen là của hạt vừng được xem như thần dược
trong việc lọc máu và tránh sơ vữa động mạch ở người cao tuổi.)
Ngũ pháp : tươi sống, ninh (hầm) nướng, chiên, hấp.
4. Kết luận
Giao lưu và tiếp biến văn hóa là những yếu tố cần thiết để bổ sung những điều mới, tiến bộ và hiện
đại vào nền văn hóa truyền thống, làm phong phú hơn, hiện đại hơn nền vănhóa dân tộc. Sự tiếp xúc văn
hóa Việt – Nhật, tạo ra một sự phát triển mới có tính đột biến. Trước hết là những thay đổi về kinh tế và
cùng với sự phát triển kinh tế đã kéo theo những thay đổi về văn hóa. Tiếp nhận những nét mới của văn
hóa ngoại lai để tạo nên một sự đa dạng, hài hòa hơn trong một bản sắc văn hóa riêng. Bên cạnh đó, ở
Việt Nam, tính dung hòa của văn hóa Việt Nam và Nhật Bản đã tạo ra sự thuận lợi cho sự giao lưu kinh
tế và văn hóa theo các hướng Đông - Tây - Nam - Bắc. Nhật Bản là trung tâm Đông Bắc Á, cũng là nơi
thuận lợi để hội tụ nhiều nền văn hóa. Việt Nam và Nhật Bản đều có bờ biển dài. Yếu tố văn hóa biển
cũng đã tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu kinh tế và văn hóa của cả hai nước, đã khiến cho nền văn
hóa của hai nước đã tiếp nhận những tinh hoa văn hóa của nhiều dân tộc trong khu vực và thế giới. Trong
quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa khu vực và thế giới, một đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa nhân văn
trong văn hóa Việt Nam và Nhật Bản đã tạo nên một nền văn hóa khoan dung, văn hóa “trọng tình” và
thấm sâu vào máu thịt bao đời của dân tộc Việt Nam và Nhật Bản./.
318
ẢNH HƯỞNG LỐI SỐNG TỐI GIẢN CỦA NGƯỜI NHẬT
ĐẾN GIỚI TRẺ VIỆT NAM HIỆN NAY
Đỗ Xuân Hồng*
Viện Công nghệ Việt - Nhật (VJIT), Trường Đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh
* Tác giả liên hệ: Điện thoại: 0342 335 577; Email: dx.hong@hutech.edu.vn
TÓM TẮT
Lối sống tối giản là tư duy sàng lọc để loại bỏ điều thứ yếu và tập trung vào những thứ thật sự quan
trọng. Triết lý này mang đến góc nhìn điềm tĩnh, cởi mở và lạc quan hơn về công việc cũng như cuộc
sống, đồng thời giúp chúng ta xây dựng phong cách sinh hoạt lành mạnh, tìm thấy sự bình yên tỏng tâm
hồn và tận hưởng một cuộc sống tự do, hạnh phúc. Trong cuộc sống hiện đại, lối sống tối giản sẽ hàm chứa
nhưng ý nghĩa khác nhau, tùy theo cảm nhận của mỗi người. Song, không phải ai cũng hiểu được hết tất cả
mặt tích cực của một lối sống tối giản đúng nghĩa thậm chí còn có những quan niệm sai lệch và những biểu
hiện tiêu cực về lối sống này.
Từ khóa: chủ nghĩa tối giản, lối sống tối giản, minimalism, tạm biệt đồ đạc.
1. Đặt vấn đề
Cuộc sống vận hành theo hướng phát triển đi lên và con người cũng phát triển theo cuộc sống.
Nhiều người cho rằng, một cuộc sống hạnh phúc là cuộc sống phải đầy đủ cả vật chất lẫn tinh thần. Thế
nhưng với lối sống tối giản, việc sở hữu càng nhiều thứ được cho rằng sẽ khiến cuộc sống của bạn trở
nên ngột ngạt, bị ràng buộc phải ra quyết định, lựa chọn cho những điều không cần thiết.
Với Joshua Becker – một trong những tác gải hàng đầu về xu hướng sống tối giản hiện đại – đã
chia sẻ trong cuốn sách “Sống tối giản” thì nguyên lý sống tối giản là quan tâm và ưu tiên những điều có
ý nghĩa với mình nhất và loại bỏ bất cứ thứ gì khiến mình xao nhãng điều tốt đẹp đó. Ông viết: “ Khi nói
đến lối sống tối giản, tôi nghĩ tới tự do, sự bình yên và niềm vui. Đó là những khoảng trống mới được
mở ra để chào đón những cơ hội mới”.
Thực tế, cuộc sống hiện đại đang khá phức tạp, có rất nhiều vấn đề mà chúng ta cần phải bận tâm.
Nó dường như đã chiếm hết thời gian của mỗi người, tạo ra những áp lực về tài chính, stress, sự cô độc,
khoảng cách giữa con người với nhau,… Chính vì vậy, giới trẻ muốn thoát ra khỏi cuộc sống chật hẹp,
mệt mỏi này và hướng đến phong cách sống thoải mái, đơn giản hơn từ vật chất đến tinh thần.
Lối sống tối giản bên cạnh những lợi ích chung đã đề cập ở trên còn mang đến cho các bạn trẻ một
không gian sống tuyệt vời, loại bỏ đi chốn thị thành đắt đỏ, xa hoa, đơn giản hóa mọi thứ trong căn phòng,
trong chính suy nghĩ của bản thân.
2. Cơ sở lý luận
2.1 Các khái niệm
2.1.1 Khái niệm về “lối sống”
Theo Tạ Ngọc Tấn trong Cơ sở lý luận báo chí (2005) có nói: “Lối sống là tổng hợp toàn bộ các
mô hình, cách thức và phong cách sống của con người thể hiện trong mọi phương thức cũng như lĩnh
vực hoạt động, từ sản xuất, tiêu dùng, sinh hoạt đến thái độ, hành vi, cách tư duy, lối ứng xử giữa con
người với con người, giữa chủ thể với đối tượng, giữa điều kiện với phương tiện và mục đích sống. Trong
lối sống tổng hoà những nét cơ bản, khắc hoạ những đặc điểm cuộc sống của các cá nhân, các nhóm
người, của giai cấp, dân tộc trong một xã hội nhất định”.
Theo nhà tâm lý học người Áo Alfred Adler thì: “Lối sống là một thân cây cá nhân, trong đó thân
cây cá nhân lớn lên và phải tạo dáng để phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thiên nhiên. Theo ông chúng
ta chỉ có thể nhận diện ra lối sống của mình so với các tiêu chuẩn ứng xử của đời sống xã hội”.
319
Joshua Fields Millburn, tác giả của cuốn sách Love People, Use Things: Because the Opposite
Never Works chỉ ra, chủ nghĩa tối giản không phải là sống trong một ngôi nhà trắng với những bức tường
trống và không có đồ nội thất. Định nghĩa đúng về chủ nghĩa tối giản là giữ những gì nâng cao cuộc sống
của bạn và loại bỏ những gì không mang ý nghĩa đó.
Với Phạm Quỳnh Giang, tối giản tức là “cởi bỏ đi những định kiến, dấu ấn xã hội vốn hằn sâu
trong tâm trí khiến con người không còn cảm thấy tự do và hạnh phúc”. Những triết lý, luận giải tưởng
chừng hàn lâm song lại được Phạm Quỳnh Giang chuyển tải qua hơn 50 câu chuyện khá chân thực trong
cuốn Người tối giản – Hành trình trở về số 0.
2.3 Giới trẻ chọn cho mình phong cách sống tối giản
Lối sống giản đơn, thân thiện với môi trường, khiêm tốn đang dần định hình trong ý thức đối của các
bạn trẻ Việt Nam những thời gian gần đây. Trong một cuộc sống quá chật chội và đông đúc thường xuyên
phải dịch chuyển do chúng ta cứ mãi quay cuồng với công việc, trôi chảy theo dòng đời như làm nghề nhiếp
ảnh gia, chăm sóc sức khỏe, du lịch,…
Việc để có một không gian thoải mái, thuận tiện mà vẫn gọn gàng dù sống ở bất kỳ nơi đâu, thì chúng
ta phải chọn lối sống Danshari, làm cuộc “cách mạng” cho chính nhà cửa của bản thân nhằm giảm tải chi phí
di chuyển, với không gian thoáng đãng, không vướng víu bộn bề đồ đạc.
2.3.1 Dọn dẹp và bỏ bớt những vật dụng không cần thiết
Điều đầu tiên và cần thiết nhất để bắt đầu trở thành một người sống tối giản đó là dọn dẹp lại nơi
mình ở, bỏ đi những vật dụng không cần thiết, sắp xếp lại mọi thứ cho gọn gàng, ngăn nắp.
Cần tập trung dọn dẹp những vị trí sau: bàn học, bàn làm việc, tủ quần áo…
Một căn phòng nhỏ trống trải với vài ba đồ dùng thiết yếu chỉ gói gọn trong một chiếc ba lô, lúc nào cũng
sẵn sàng lên đường đi phượt, là phong cách sống mà nhiều giới trẻ Việt Nam hiện đang theo đuổi. Thay vì chất
thật nhiều đồ đạc, quần áo trong căn phòng nhỏ thì nhiều bạn trẻ Việt Nam đang tìm cách vứt bớt đồ đi để có
không gian sống khoáng đạt nhất. Việc rũ bỏ vật chất, sẽ khiến cho những điều chúng ta thật sự yêu thích
và trân trọng trong cuộc đời sẽ thật sự trở nên rõ ràng. Thay vì lãng phí thời gian mua sắm những thứ
không cần thiết thì chúng ta sẽ gặp gỡ bạn bè nhiều hơn hoặc đi du lịch thường xuyên hơn.
Như bạn Hoàng Thị Minh Thư, sinh viên Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP. Hồ
Chí Minh, trong một hội chợ trao đổi sách cũ diễn ra tại Trung tâm hỗ trợ đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp
TP. Hồ Chí Minh. Thư nói: “Đây là sách cũ bao nhiêu năm, cứ mua về đọc xong một lần là mình lại để
lên kệ, kệ đầy quá rồi vứt khắp nơi. Nhưng giờ mình nhận ra, chỉ vì thói quen mua sách vô tội vạ, nhiều
khi mua về chẳng đọc vì không có thời gian. Chưa đọc hết cuốn này đã mua cuốn khác về, rồi có khi đọc
xong thấy tiếc lại tích trữ, và vì thế mà vô tình mình đang lãng phí rất nhiều nguồn sách”. Thư cho biết
bản thân đang tập làm quen với lối sống tối giản “để tinh gọn cuộc sống hơn và nói không với lãng phí”.
Thư cũng cho biết, cô có cả một nhóm bạn với 6 thành viên, mỗi ngày cùng thử thách nhau để tập thói
quen tinh giản những thứ không cần thiết, những nhu cầu mà các bạn cho rằng thừa thãi.
321
2.3.2 Dọn dẹp những thứ phi vật chất khác
Không chỉ việc dọn dẹp lại những thứ vật chất hữu hình, cuộc sống của chúng ta còn được bao
quanh bởi rất nhiều thứ phi vật chất khác như không gian số, mạng xã hội, ảnh, video, kho lưu trữ trên
laptop… Những điều đó thoạt nhìn có vẻ không quan trọng, nhưng chính chúng mới là thủ phạm lấy đi
của bạn nhiều thời gian, tâm trí và sự tập trung cho những điều quan trọng khác.
2.3.3 Chọn các giải pháp đơn giản cho những công việc hằng ngày
Tối giản trong việc tạo thói quen và phát triển bản thân. Theo quyển sách “ Nghịch lý của sự lựa
chọn” thì khi con người gặp quá nhiều sự lựa chọn, não bộ sẽ chọn việc dễ dàng nhất là không làm gì cả.
Bắt đầu đơn giản và tạo thành thói quen, sau một thời gian chúng ta sẽ biết bản thân cần gì và muốn thay
đổi như thế nào để cải thiện thêm. Việc tạo thói quen hằng ngày còn quan trọng hơn cả việc thực hiện
đúng phương pháp.
3. Kết luận
Giới trẻ hiện nay gắn liền với sự bùng nổ của công nghệ thông tin và mạng xã hội, cuộc sống “ảo”
hơn và cũng bận rộn hơn. Tuy nhiên, nhịp sống nhanh và hối hả đôi khi khiến con người dễ choáng ngợp,
mất cân bằng. Cùng với ảnh hưởng của dịch COVID–19, sau dịch, nhiều bạn trẻ lựa chọn lối sống giản
đơn, quay về với những giá trị cơ bản. Sống tối giản hiện nay đang rất thịnh hành trên thế giới và Việt
Nam, được rất nhiều bạn trẻ đón nhận. Sống tối giản là loại bỏ đi những điều không cần thiết hoặc không
cần dùng đến, tạo một không gian sống gọn gàng từ đó cuộc sống cũng trở nên đơn giản hơn. Không
chỉ là trào lưu cho những người trẻ Nhật trong độ tuổi 20-30, lối sống tối giản đã lan rộng ra toàn thế
giới, những người ưa trải nghiệm, muốn giải phóng mình khỏi tất cả những vướng bận đời thường.
323
VĂN HOÁ Ả RẬP QUA THỰC PHẨM ISLAM GIÁO (HALAL FOOD)
Ở NHẬT BẢN
TÓM TẮT
Islam giáo là tôn giáo có vị thế chính thức tại hầu hết các quốc gia Ả Rập. Islam giáo cũng là tôn
giáo lớn phát triển nhanh nhất thế giới và cùng với đó thì nhu cầu về thực phẩm Islam giáo cũng tăng
cao. Chính vì thế là cơ hội cho thị trường thực phẩm Hồi giáo phát triển không chỉ ở các quốc gia Hồi
giáo mà còn ở các nước gần kề các quốc gia Malaysia và Indonesia đó là thị trường tiềm năng như Nhật
Bản. Mặc dù, loại thực phẩm của người Islam giáo (halal food) đến Nhật từ những năm 80 của thế kỉ
XIX song đến thế kỉ XX trở lại đây thị trường này lan rộng trở và halal food trở thành vấn đề nóng ở
Nhật Bản. Thông qua phương pháp thu thập, tổng hợp, phân tích và so sánh sẽ nêu lên thực trạng thực
phẩm halal food ở Nhật Bản và những chính sách chiến lược sản xuất hahal food của Nhật Bản, qua đó
cho thấy sức ảnh hưởng của Ả Rập đến các nước Đông Nam Á đã lan ra các nước khác, mà cụ thể ở đây
là thị trường Nhật Bản.
Từ khoá: Islam, thực phẩm Islam giáo,halal food, thị trường Nhật Bản.
1. Tổng quan về thị trường thực phẩm Islam giáo trên thế giới
Hồi giáo (tiếng Ả Rập: اإلسالمal-'islām), còn gọi là đạo Hồi, đạo Islam là một tôn giáo khởi nguồn
từ Abraham, độc thần, dạy rằng chỉ có một Thiên Chúa (tiếng Ả Rập: Allah), và Muhammad là sứ giả
của Thượng đế trong John L. Esposito biên tập (2009). Đây là tôn giáo lớn thứ hai thế giới với hơn 1,8
tỷ người theo tương đương 24% dân số thế giới.
Tại Bắc Mỹ, số lượng người Hồi giáo ở Hoa Kỳ là khoảng 2,6 triệu người và dự kiến sẽ tăng lên
6,2 triệu người vào năm 2030. Thị trường halal chủ yếu nằm gần các thành phố lớn như New York, New
Jersey, Long Island, Los Angeles, Chicago, Houston và Detroit. Canada cũng có nhiều người Hồi giáo
nhập cư, thị trường halal food sẽ tăng trưởng theo từng năm.
Tại Nam Mỹ, số lượng người Hồi giáo theo dự tính sẽ tăng 2 triệu người vào năm 2030, khu vực
này theo thứ tự xếp hạng đông người Hồi giáo đông nhất là Argentina, Brazil, Mexico. Ở Brazil nhiều
người Hồi giáo sống ở Sao Paulo, Parana, Mato Grosso, Rio de Janeiro. Brazil là nhà sản xuất thịt gà lớn
nhất thế giới và nước xuất khẩu thịt gà lớn nhất thế giới (tính theo trọng lượng, FAOSTAT). CIBAL
Halal (Central Islâmica Brasileira de Alimentos Halal), FAMBRAS là tổ chức chứng nhận Haral hàng
đầu của Brazil.
Ở châu Âu, người Hồi giáo chiếm khoảng 6% tổng dân số và tỷ lệ này dự kiến sẽ tăng lên 32,5%
vào năm 2030. Năm 2010, khoảng 16 đến 25 triệu người Hồi giáo sống ở Nga, và quy mô thị trường thực
phẩm Halal ước tính là 21,9 tỷ đô la Mỹ. Hầu hết các chợ halal đều nằm xung quanh Moscow, với những
người nhập cư Hồi giáo từ các nước Trung Á thời Liên Xô cũ là những người tiêu thụ thực phẩm halal.
Ở Pháp, người Hồi giáo hầu hết trong số họ nhập cư từ Algeria, Morocco, Tunisia, Thổ Nhĩ Kỳ,…
khoảng 4,7 triệu (năm 2009). Quy mô của thị trường Hồi giáo Pháp ước tính là 17,4 tỷ USD. 30 đến 40%
người Pháp theo đạo Hồi sống ở ngoại ô Paris, và các sản phẩm Halal, vốn từng là thực phẩm bày bán ở
các cơ sở nhỏ lẻ, giờ đây đã có mặt tại các siêu thị lớn. Pháp là cường quốc nông nghiệp từ lâu đã giữ vị
trí số một về xuất khẩu nông sản trong EU và thị trường Halal được cho là tăng trưởng 7-10% hàng năm.
Vương quốc Anh có dân số theo đạo Hồi chủ yếu là người nhập cư từ Ấn Độ và Pakistan. Đặc biệt, nhiều
người Hồi giáo sống ở London và Birmingham, thực phẩm Halal được xếp hàng dài trong các cửa hàng
tại các siêu thị lớn như Tesco, Calfur, Sainsbury.
Tại Thổ Nhĩ Kỳ, người Hồi giáo chiếm hơn 90% dân số, có 4 - 5 tổ chức chứng nhận như TSE và
GIMDES, là các tổ chức chứng nhận trực thuộc chính phủ. Tại Thổ Nhĩ Kỳ chứng nhận Halal đã tồn tại
324
đợc hơn 10 năm, do đó có thể xem là đạt chuẩn, được gia hạn theo từng năm và chi phí đạt được chứng
chỉ cũng tùy thộc vào mục đích.
Ở châu Phi, người Hồi giáo chủ yếu nhập cư từ Ấn Độ, Pakistan, chiếm trên 500 triệu người (2009).
Các tổ chức chứng nhận Haral ở các nước Châu Phi thường dưới dạng các tổ chức phi chính phủ và các
công ty tư nhân. Ngoài ra, không có chứng nhận Haral chung cho toàn châu Phi và từng khu vực. Theo
dự kiến thị trường halal ở châu Phi cũng sẽ tăng trưởng đáng kể do sự phát triển kinh tế của các nước
châu Phi và sự gia tăng sức mua của người Hồi giáo với tỷ lệ tăng dân số cao.
Indonesia là quốc gia có người theo đạo Hồi nhiều nhất thế giới, đồng thời là một trong những quốc
gia Đông Nam Á có mối quan hệ ngoại giao thân thiết với Nhật Bản. Indonesia đã được Ngân hàng Thế
giới (WB) xếp vào nhóm các nước có thu nhập trung bình cao kể từ ngày 01/7/2020 khi tổng thu nhập
quốc dân (GNI) bình quân đầu người của quốc gia Đông Nam Á này tăng lên 4.050 USD vào năm 2019
từ mức 3.840 USD trước đó của Hữu Chiến (2020).
Ở Trung Quốc có khoảng 10 người thiểu số tin theo đạo Hồi, tổng dân số theo đạo Hồi ước tính là
23 triệu người, chủ yếu sống ở Tân Cương và Ninh Hạ. Theo ước tính của WHC, quy mô thị trường thực
phẩm halal ở Trung Quốc khoảng 21,2 tỷ USD. Thị trường ngành Thực phẩm và đồ uống Trung Quốc
có hơn 120.000 (năm 2012) công ty và chủ doanh nghiệp cá nhân kinh doanh thực phẩm, sản phẩm và
nhà hàng halal, trong đó thực phẩm halal được sản xuất chuyên nghiệp với hơn 6.000 công ty bán loại
này. Các nhà hàng và sản phẩm halal trên khắp Trung Quốc không chỉ được người theo đạo Hồi sử dụng
mà còn những người tiêu dùng thuộc các tôn giáo khác như người Hán tin dùng. Tại đây, không có tiêu
chuẩn chứng nhận halal thống nhất và chứng nhận cho thị trường nội địa thường được chứng nhận bởi
các hiệp hội Hồi giáo (tổ chức tôn giáo) ở mỗi khu vực. Trung Quốc kỳ vọng thúc đẩy xuất khẩu bằng
cách mở rộng thị trường tiêu thụ của người Hồi giáo không chỉ trong nước mà còn trên toàn thế giới.Tại
Nhật Bản người Islam giáo khoảng 200 nghìn người bao gồm cả sinh viên quốc tế và thực tập sinh đang
làm việc tại các nhà máy xí nghiệp Nhật Bản. Quy mô của thị trường thực phẩm halal trong nước ước
tính là 120 tỷ và sẽ còn mở rộng hơn nữa trong tương lai.
325
Nhập khẩu thực phẩm ハラール関連食品の輸出
liên quan đến halal
Quốc gia (2013)
(năm 2013)
Số tiền(1.000 USD) 額(1,000ドル)
1 Indonesia 1.098.699 750,145
2 Campchia 59.689 7,926
3 Singapore 1.946.682 1,739,031
4 Thái Lan 1.171.340 3,926,809
5 Philippines 1.186.725 138,854
6 Brunei 115.177 2,176
ASEAN 7 Việt Nam (2012) 487.047 310,874
8 Malaysia 1.814.649 1,761,357
9 Myanmar (2010) 25,677 16,910
10 Lào n.a. n.a.
11 Ả Rập Xê Út 4.907.156 637,602
12 UAE (2011) 2.405.533 683,969
13 Bahrain (2011) 321.308 151,606
GCC 14 Oman 529.930 124,630
15 Qatar (2012) 654.543 10,450
16 Kuwait (Nhập:2008, 596.956 18,611
xuất:2009)
Hình 1: Biểu đồ Giá trị thương mại thực phẩm liên quan đến Halal (giá trị ước tính): sản phẩm thịt
chế biến, phẩm chăn nuôi khác, thực phẩm, đồ uống đã điều chỉnh (HS 分類).
Nhập khẩu thực phẩm
ハラール関連食品の
liên quan đến halal
Quốc gia (năm 2013) 輸出(2013)
Số tiền(1.000 USD ) 額(1,000ドル)
1 Indonesia 3.621.554 2,766,401
2 Campuchia 127.890 61,287
3 Singapore 3.275.477 4,088,350
4 Thái Lan 2.161.745 8,210,863
5 Philippines 1.766.789 689,387
ASEAN
6 Brunei 196.926 5,282
7 Việt Nam (2012) 1.325.956 893,394
8 Malaysia 4.665.244 4,424,740
9 Myanmar (2010) 41.904 26,679
10 Lào n.a. n.a.
Ả Rập Xê Út
11 7.605.214 1,385,955
326
Qua những số liệu khảo sát liên quan đến thực phẩm halal cho thấy rằng, thế giới đang rất quan
tâm đến thị trường có nhiều tiềm năng này không phân biệt tôn giáo, đặc biệt khi tham gia vào thị trường
này điều mà các nhà kinh doanh luôn quan tâm đó là chứng nhận đạt chuẩn halal.
Ngành Số lượng
Nhà hàng 15
Khách sạn 9
Quán cà phê 1
Căn tin 1
Tổng 26
Hình 6: Dịch vụ ăn uống khách sạn đạt chuẩn halal của tổ chức trong nước
Tổ chức chứng nhận Số lượng
MUI(Indonesia) 20
JAKIM(Malaysia) 12
CICOT(Thái Lan) 5
MUIS(Singapore) 4
329
IDCP(Philippines) 1
IFANCA(Mỹ) 1
HELALDER(Thổ Nhĩ Kỳ) 1
Tổng 44
Hình 7: Phân phối các sản phẩm sản xuất và gia công tại các nhà máy ở nước ngoài đã đạt được
chứng nhận halal của tổ chức chứng nhận ở nước ngoài (HS 分類)
3. Chính sách, chiến lược sản xuất thực phẩm halal food của Nhật Bản
3.1. Môi trường thực phẩm thân thiện với người Hồi giáo
Sản xuất thực phẩm halal cần thiết truy xuất nguồn gốc của nguyên liệu trước khi sản xuất, chế
biến ra sản phẩm cuối cùng trong toàn bộ quy trình.
Trên thực đơn của các nhà hàng đều ghi rõ nguồn gốc, thành phần các chất cho việc đảm bảo chứng
nhận sản phẩm an toàn vệ sinh, tuân thủ đúng theo luật Hồi giáo. Việc làm này cung cấp thông tin cụ thể
như vậy có thể coi như một phản ứng thân thiện với người Hồi giáo.
Trong các siêu thị, cửa hàng tiện lợi sẽ bố trí khu vực giành cho thực phẩm halal để khách hàng
yên tâm mua sắm. Hàng hóa không phải là thực phẩm đặc biệt tin vào một tôn giáo đặc biệt, nguyên liệu
(thịt lợn) luôn chú ý cách giết mổ đúng theo luật Hồi giáo và gia vị (nước tương) hạn chế việc sử dụng
rượu mà sản phẩm Nhật thường sản xuất.
Hình 8: Mối giao nhau giữa halal food với các nhóm khái niệm theo tổ chức HAVO
Bản thân các doanh nghiệp cần hiểu thực phẩm halal giống như thực phẩm hữu cơ lành mạnh tốt
cho cơ thể. Hiệp hội halal Nhật Bản đang ủng hộ khái niệm HAVO (halal, hữu cơ, ăn chay, dị ứng) trong
kinh doanh halal. Đây là ý tưởng hướng đến các sản phẩm và dịch vụ bất cứ ai cũng có thể sử dụng không
phân biệt tôn giáo hay chủng tộc.
3.2. Thực hiện giáo dục halal
Việc hiểu được rằng halal sẽ không khó nếu các doanh nghiệp, công ty nắm rõ giáo lý Hồi giáo,
nâng cao giáo dục để hiểu người Hồi giáo.Có rất nhiều khóa học được tổ chức với các tiêu chuẩn đặt ra:
Học cách ủng hộ người Hồi giáo, học halal cùng với nhân viên chuyên nghiệp, nâng cao kỹ năng làm
việc liên quan đến du lịch, bổ sung các kỹ năng mới cho việc làm trong ngành du lịch, học thêm các dịch
vụ và thực đơn của người Hồi giáo.Tạo cơ hội việc làm cho các sinh viên Hồi giáo tại các trường học
Nhật Bản có việc làm để làm cầu nối giữa người Hồi giáo với Nhật Bản.
Tổ chức các bữa ăn halal tại trường đại học, đồng thời hỗ trợ tư vấn bếp, đào tạo nhân viên, đảm
bảo nguồn lực, xây dựng thực đơn và rà soát nguồn cung cấp.
Tổ chức các tour trải nghiệm halal qua hoạt động dạo phố thưởng thức các món ăn Hồi giáo, qua
việc thưởng thức món ăn đó thì việc tiếp nhận, học hỏi về halal sẽ trở nên dễ dàng. Ngoài ra, có thể xem
330
sự kiện, báo cáo các công ty, thu thập thông tin mới nhất về halal miễn phí qua việc bấm “theo dõi” và
“thích” trên Facebook của Hiệp hội halal Nhật Bản.
Lớp học gia sư về halal giúp giải đáp các thắc mắc liên quan đến kinh doanh thực phẩm Hồi giáo,
chiến lược kinh doanh sau khi hiểu rõ về Hồi giáo.
Thống nhất các tổ chức chứng nhận.
Tại Nhật Bản có rất nhiều tổ chức chứng nhận, để mục đích ban đầu giống nhau nên thành lập một
tổ chức chứng nhận thống nhất do chính phủ lãnh đạo. Các Hiệp hội hiểu rằng dù thị trường halal lớn
nhưng người Hồi giáo ở khắp nơi trên thế giới, do vậy thị hiếu cũng khác nhau. Do đó, việc tiếp thị trước
thử nghiệm các sản phẩm địa phương là điều quan trọng hàng đầu như một điều kiện tiên quyết để đạt
được chứng nhận.
4. Kết luận
Trong lịch sử, Hồi giáo ở Nhật Bản phải mất một thời gian dài để phát triển. Mặc dù lần hoàn
nguyên đầu tiên được ghi lại vào năm 1909,Nhận thức về nhu cầu của cư dân Hồi giáo vẫn còn thấp ngay
cả sau một thập kỷ.Bài viết về bối cảnh và tiềm năng phát triển thị trường halal tại Nhật Bản. Tuy nhiên,
cần những nỗ lực hơn nữa để nâng cao sự quan tâm và hiểu biết đúng đắn về halal để có thể trở thành
một lĩnh vực thích hợp phát triển trong tương lai tại thị trường halal ở Nhật Bản.
Thông qua so sánh, đối chiếu, khảo sát các tài liệu, có thể thấy thị trường thực phẩm Islam giáo là
một tiềm năng lớn trong tương lai, nó như một lĩnh vực thúc tiến hóa và toàn cầu hóa đối với Nhật Bản.
Tác giả hi vọng bài viết sẽ có ý nghĩa cho những ai yêu thích nghiên cứu về thị trường Hồi giáo
nói chung và thực phẩm Hồi giáo nói riêng, đặc biệt trên quốc đảo - Nhật Bản từ chủ nghĩa cô lập đến
đa văn hóa. Đồng thời, tác giả cũng hi vọng những kết quả tìm thấy Islam giáo và ảnh hưởng của Ả Rập
lên Đông Nam Á sẽ góp phần nâng cao khả năng nhìn nhận về một Islam giáo và halal food cụ thể, rõ
ràng trước khi đi vào kinh doanh mặt hàng này.
331
13. Pete Seda (1427), اإلسالم هوIslam là, Abu Zaytune Usaman Ibrahim dịch, Islamhouse.com,
tr 7.
14. Routledge (2016), Halal matters Islam, Politics and markets in global perspective.
15. Salimur Rahman Khan (2019), Khutab Al-Yaban (Sermons in Japan): Topic-wise
Selections of Quran and Hadith and of Speeches and Addresses, Independently Published Shazlinda,
M.Y. (2008), The emergence of global halal food sector: finding a lifeline in Malaysia for Japanese food
companies, Unpublished thesis, Japan: Kyushu University Business school.
16. Sharifah Alhabshi University of Malaysia (2016), Could Japan Excel In The Halal Food
Industry, The international Journal Research Publication’s Research Journal of Commerce and
Behavioural Science, 05, 10, 2251- 1547.
Sách và tạp chí tiếng Nhật
17. Arita Mariko (2018), 食のハラール入門今日からできるムスリム対応.
18. Báo cáo cuối kì của phòng kế hoạch, cục công nghiệp thực phẩm, bộ nông nghiệp,lâm
nghiệp và thủy sản (2015),平成 26 年度ハラール食品に係る実態調査事業. 農林水産省食料産業局企
画課, truy xuất: https://www.maff.go.jp/j/kokusai/kokkyo/food_value_chain/pdf/sankou_4.pdf.
19. Higuchi naoto,Tanno kiyoto (2000), 食文化の越境とハラール食品産業の形成―在日ムス リム
移民を事例としてー徳島大学社会科学研究, 2000 Insight tr1-2, tháng 1 năm 2011.
20. Nihonkeizaishimbun. (2016). ハラル認証ラーメン 秀穂、工場に専用設備,地方経済版 千
葉、ngày 4 tháng 2 năm 2016.
21. Sougou Hourei (2013), ハラルマーケットがよくわかる本.総合法令.
22. Tsuruoka Kimiyuki (2017), 我が国におけるハラール食品市場の現状と課題, 417- 429. 神
田外語大学紀要 higeno Ayami (2011),日系企業によるハラール市場開拓に向けて NRI knowledge.
Website
23. https://jhba.jp/halal/business/ truy cập ngày 28/11/2020.
24. https://jhba.jp/halal/certification truy cập ngày 11/11/2020.
25. https://bnews.vn/wb-xep-indonesia-vao-nhom-cac-nuoc-co-thu-nhap-trung-binh-
cao/161533.html truy cập ngày 12/11/2020.
332
NHÀ XUẤT BẢN GIAO THÔNG VẬN TẢI
Số 8 phố Tăng Bạt Hổ, phường Phạm Đình Hổ, quận Hai Bà Trưng, TP. Hà Nội
ĐT: 024.39424620 / 39423346 * Fax: 024.38224784
Website: www.nxbgtvt.vn * Email: nxbgtvt@fpt.vn
In 15 cuốn khổ 20,5 x 29,5 cm, tại Công ty In Giao thông, Nhà xuất bản Giao thông vận tải
Địa chỉ: Số 8 phố Tăng Bạt Hổ - phường Phạm Đình Hổ - quận Hai Bà Trưng - TP. Hà Nội
Số xác nhận đăng ký xuất bản: 1335-2023/CXBIPH/2-21/GTVT
Mã số sách tiêu chuẩn quốc tế - ISBN: 978-604-76-2733-2
Quyết định xuất bản số: 20 LK/QĐ-XBGT ngày 5 tháng 5 năm 2023.
In xong và nộp lưu chiểu Quý 2 năm 2023.
333
1