Professional Documents
Culture Documents
Vợ Nhặt
Vợ Nhặt
Phân tích tác phẩm Vợ nhặt để làm nổi rõ những sáng tạo nghệ thuật
độc đáo của nhà văn Kim Lân.
2.3. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật : Đặt nhân vật vào một tình huống éo le,
KL đã miêu tả thành công nhân vật với những tâm trạng, nét tính cách khác nhau
mỗi người một vẻ.
- Nhân vật bà cụ Tứ
+ Nhân vật bà cụ Tứ thể hiện tài năng miêu tả tâm lí sắc sảo của nhà văn
Kim Lân. Diễn biến tâm lí của bà cụ Tứ trước việc đứa con trai ngờ nghệch của
mình có vợ đầy phức tạp “theo kiểu vận động gấp khúc, phù hợp với tâm lí người
từng trải, nhân hậu” (Nguyễn Quang Trung).
+ Diễn biến: Từ ngỡ ngàng, ngạc nhiên không giải thích nổi sự có mặt của
người đàn bà kia trong nhà mình, đến cúi đầu nín lặng tủi thân, xót xa cho thân
phận khi hiểu ra tất cả, từ sự lo lắng cho cuộc sống quá mong manh của đôi trẻ đến
niềm vui mừng khi nhận ra sự may mắn của con trai mình, từ nỗi xót thương thông
cảm với người con dâu đến niềm lạc quan tin tưởng vào tưong lai.
+ Kim Lân xoáy sâu vào dòng suy nghĩ triền miên của nhân vật. Nhà văn để
bà cụ Tứ cảm nhận về hạnh phúc bất ngờ của đứa con trai bằng cả cuộc đời làm
vợ, làm mẹ cay cực của mình, bằng nhận thức của người từng trải. Tâm trạng ấy
cũng được thể hiện ra nét mặt, cử chỉ, cung cách sinh hoạt hằng ngày…(Chi tiết
giọt nước mắt, nồi cháo cám…)
+ Qua việc miêu tả diễn biến tâm lí, nhân vật bà cụ Tứ hiện lên một cách
sinh động, đó là một người phụ nữ từng trải nhân hậu, ấm áp tình người, lạc quan,
hi sinh, chia sẻ…một người phụ nữ, người mẹ điển hình.
- Nhân vật Tràng:
+ Diễn biến tâm lí của anh cu Tràng có phần đơn giản hơn nhân vật ngươì
mẹ. Đó là tâm lí phát triển theo chiều thẳng đứng, phù hợp với một chàng rể đang
tràn trề hạnh phúc.
+ Diễn biến: Hồi hộp, ngỡ ngàng và có chút ngập ngừng khi thấy người đàn
bà theo mình về; Cảm xúc bâng khuâng, lâng lâng với niềm vui bất ngờ của chàng
trai có vợ trên đường trở về nhà. Niềm vui đó khiến Tràng quên hết những cảnh
sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát đang đe doạ, quên cả những
tháng ngày trướcmặt…Một cái gì mới mẻ lắm, chưa từng thấy, ..nó ôm ấp, mơn
man khắp da thịt như có bàn tay vuốt nhẹ sống lưng; Hạnh phúc trọn vẹn với ý
thức về trách nhiệm của một người con trai, người chồng trong gia đình: Bây giờ
hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau
này.
+ Điểm nhìn trần thuật đã được di chuyển một cách linh hoạt. Nếu ở nhân
vật bà cụ Tứ, điểm nhìn di chuyển từ nội tâm nhân vật đến cử chỉ lời nói thì ở nhân
vật người con trai, điểm nhìn lại bắt đầu từ bên ngoài rồi di chuyển đến điểm nhìn
bên trong. Điều này đã giúp cho nhà văn phân tích được tinh tế những trạng trạng
thái tâm lí của những con người trong một hoàn cảnh đặc biệt: sự đói khát có thể
làm biến dạng hình hài, thân xác con người nhưng không huỷ diệt được khát khao
hạnh phúc, nhu cầu được sốg và hi vọng về một cuộc đời tươi đẹp hơn.
- Nhân vật người vợ nhặt (bổ sung ở bài phân tích nhân vật)
+ Tâm trạng người vợ nhặt không được tập trung miêu tả trực tiếp như anh
cu Tràng và bà cụ Tứ, mà chỉ được cảm nhận qua vẻ bên ngoài: rón rén, e thẹn,
khó chịu, thở dài, ngượng ngiụ, mặt bần thần, khẽ nhúc nhích, ngồi mớm, khép
nép…Đó là những động từ, cụm động từ, tính từ miêu tả trạng thái cảm xúc của
người vợ.
+ Sự thay đổi của người vợ từ chỗ ngoa ngoắt, cong cớn khi ở chợ trở thành
ngoan hìên, đảm đang cũng được thể hiện ở hành động bên ngoài: chi tiết nén tiếng
thở dài, và bát cháo cám vào miệng, quét những nhát chổi sàn sạt…
Đề luyện:
Phân tích nhân vật người vợ nhặt trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân để
thấy được khát vọng sống mãnh liệt của người phụ nữ trong hoàn cảnh éo le.
3. Kết luận
+ Với nhân vật người vợ nhặt, tác phẩm đã lên tiếng tố cáo xã hội thực dân
phong kiến đã gây ra nạn đói biến con người thành bèo bọt, rẻ rúng. Nhưng cũng
qua đó, nhà văn khẳng định niềm tin dù trong bất cứ hoàn cảnh nào con người vẫn
sống, vẫn khao khát, vẫn vươn lên xứng đáng làm người. Cùng với hai nhân vật
Tràng và bà cụ Tứ, nhân vật vợ nhặt góp phần làm nên chiều sâu trong tư tưởng
nhân đạo của tác phẩm “Vợ nhặt” .
Đề luyện:
Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt.
Nhận xét về nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật của nhà văn Kim Lân.
2.2. Tâm trạng nhân vật Tràng khi giới thiệu nàng dâu mới với bà cụ Tứ
+ Tràng đã lắng nghe tiếng húng hắng ho của bà cụ Tứ, lật đật chạy ra đón,
rồi reo lên như một đứa trẻ…Kim Lân đã thật tinh tế khi phát hiện ra những biến
động trong tâm lý anh cu Tràng. Khi có hạnh phúc, con người bỗng trở nên hồn
nhiên như trẻ thơ, tâm hồn tươi trở lại…Hạnh phúc đã biến người đàn ông thô
vụng thành đứa trẻ hìên lành ngờ nghệch…
+ Tràng giới thiệu với mẹ về nàng dâu mới: Kìa nhà tôi nó chào u, một lời
tưởng giản đơn nhưng đầy yêu thương và trân trọng. Đón một người đàn bà về làm
vợ không có rước dâu, không có cỗ bàn đình đám. Cô dâu không có lấy một bộ
quần áo lành lặn, ngược lại rách như tổ đỉa. Vậy mà mấy tiếng: nhà tôi nó chào u,
Nhà tôi nó mới về làm bạn vói tôi đấy u ạ. Chúng tôi phải duyên, phải kiếp với
nhau…chẳng qua nó cũng là cái số cả…nghe thật gần gũi thân thương. Không còn
một cu Tràng ngờ ngệch, thô vụng, mà rất tế nhị, chân thành và khôn khéo…Một
lời khéo ràng buộc đã khiến họ chính thức nên vợ nên chồng, một lời giản đơn,
mộc mạc thay cho một đại lễ trịnh trọng, nghiêm túc. Đó là cách để những người
khốn khổ về với nhau trong ngày đói.
2.3. Tâm trạng nhân vật Tràng trong buổi sáng đầu tiên khi anh có vợ
+ Tâm trạng của Tràng sau đêm tân hôn được nhà văn khắc hoạ một các thật
tinh tế mà chân thực. Trước hết đó là cảm giác lạ chưa từng thấy tràn ngập trong
anh: Trong người êm ái, lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có
vợ đến hôm nay vẫn còn ngỡ ngàng như không phải…Nhà văn đã dùng nhiều từ
ngữ để cố gắng diễn tả trạng thái tâm lí của Tràng: êm ái, lửng lơ, ngỡ ngàng. Đó
là trạng thái hạnh phúc đến không tin được, hạnh phúc đến bât ngờ khiến con
người như mất đi ý niệm về thời gian, về cảm giác, hạnh phúc có thật mà cứ ngỡ là
mơ…
+ Tiếp đó là cảm giác thấm thía, xúc động. Khi chứng kiến ngôi nhà, khu
vườn có sự thay đổi, mới mẻ, khác thường…(). Tràng thấy bà mẹ lúi húi giẫy cỏ,
nàng dâu quét tước, nấu nướng. Cảnh tượng gia đình, đơn sơ mà thân thuộc, đối
với Tràng lúc này, nó là cảnh tượng ấm áp nhất, khiến Tràng xúc động nhất. Bỗng
nhiên hắn thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia
đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy…
+ Có lẽ giờ đây, Tràng mới thực sự hiểu được giá trị của một gia đình hạnh
phúc đầy đủ. Niềm vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập tâm hồn anh, anh bỗng
thấy yêu và gắn bó với ngôi nhà dù còn bao thương khó. Nhưng nó là nơi che mưa
che nắng cho cả gia đình anh. Tràng thấy mình phải có trách nhiệm với người mẹ
già cả cuộc đời dằng dặc khổ đau, với người vợ mới dù nghèo nhưng chăm chỉ
hiền thục.
+ Ở đoạn cuối truyện, một chi tiết có thể làm người đọc thấy thương cảm xót
xa cho những hoàn cảnh tội nghiệp của gia đình Tràng, đó là bữa cơm ngày đói
khiến Tràng “mặt chun lại, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”. Nhưng
trên tất cả, vẫn là niềm hạnh phúc đang hiện hữu và có thật của Tràng. Hình như để
nhân vật của mình sẽ thực sự vượt lên hoàn cảnh và được sống hạnh phúc, nhà văn
đã để cái đầu ngờ nghệch của Tràng phút chốc vụt đến trong ý nghĩ “Cảnh những
người nghèo đói ầm ấm kéo nhau đi trên con đê Sộp” cùng lá cờ đỏ to lắm… Đó là
đoàn người đi phá kho thóc của Nhật, hình ảnh đó như dẫn mở Tràng vào một
bước ngoặt mới trong cả nhận thức và con đường đi lên. Nó là tín hiệu của sự đổi
đời, nhất định anh và bao người nông dân đói khổ khác sẽ được sống trong hạnh
phúc nếu biết đứng dậy mà đoàn kết đấu tranh. Đó không phải là một mơ ước viển
vông mà thực tế đã chứng minh ở cuộc cách mạng Tháng Tám của dân tộc.
2.4. Nhận xét về nhân vật Tràng và qua nhân vật Tràng nhà văn gửi gắm ý tưởng
gì?
Đề luyện
Phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ từ khi Tràng đưa người đàn bà
về nhà giới thiệu cho đến buổi sáng hôm sau. Nhận xét về nghệ thuật miêu tả tâm
lý của nhà văn Kim Lân.
Đề luyện:
Cảm nhận về hai nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ và người vợ nhặt trong
Vợ nhặt của nhà văn Tô Hoài.
Đề luyện:
Phân tích tình huống truyện trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân
3.2.2. Ý nghĩa của tình huống truyện đối với vịệc thể hiện vẻ đẹp phẩm chất nhân
vật
- Nhân vật Tràng: Tình huống nhặt vợ đã làm hiện rõ những phẩm chất tốt đẹp bên
trong con người xù xì và thô kệch, nhưng nổi bật hơn tất cả vẫn là một niềm khát
khao hạnh phúc và sự trân trọng hạnh phúc của Tràng.
+ Câu chuyện bắt đầu từ một câu chuyện đùa, nhưng đùa mà hoá ra thật.
Một câu hò bâng quơ trở thành một lời hứa hẹn, một lời mời trở thành một lời cầu
hôn, bốn bát bánh đúc trở thành lễ vật ngày cưới…Mọi chuyện có vẻ ngẫu nhiên,
tầm phào nhưng trong đó lại chứa đựng một sự tất nhiên nghiêm túc. Hai con
người ấy, rất cần cho nhau, người này cần người kia để được sống, người kia cần
người này để có được hạnh phúc. Trong hoàn cảnh đói khát và tăm tối ấy, hạnh
phúc là một sự mạo hiểm, nhưng Tràng sẵn sàng chậc kệ- mạo hiểm để có được
hạnh phúc.
+ Tràng đã vét hết những đồng xu cuối cùng để mua một cái thúng, cùng
nhau ăn một bữa cơm và mua một chai dầu về thắp. Trong hoàn cảnh ấy, ta thấy
Tràng không phải vì lấy được vợ quá dễ dàng mà Tràng rẻ rúng hạnh phúc. Như
thế trong tình cảnh ngay cả mạng sống của mình cũng chưa chắc đã được đảm bảo
mà con người vẫn không thôi nghĩ về hạnh phúc chăm lo cho hạnh phúc. Đó là tư
cách làm người bất diệt trong mỗi con người.
+ Sau khi cưới vợ, Tràng cũng trở nên vui vẻ hơn, hào hứng hơn. Đặc biệt,
lần đầu tiên anh có được những cảm xúc rất hạnh phúc, những suy nghĩ sâu sắc
đúng đắn và ý thức nghiêm túc về tư cách con người của bản thân mình, có trách
nhiệm với gia đình mình…
- Nhân vật người vợ nhặt
+ Đằng sau tình cảnh vất vưởng là một niềm ham sống mãnh liệt. Đằng sau
vẻ ngoài chao chát chỏng lỏn lại là một sự hiền thục, đúng mực, đảm đang…Sau
khi trở thành vợ nhăt, người đàn bà đã trở lại với bản chất của người phụ nữ trong
gia đình (…) Tham khảo bài học trước.
- Nhân vật bà cụ Tứ
+ Hiện rõ là một người mẹ thương con, thấu hiểu, nhân hậu, bao dung..
+ Bà cụ cũng trở nên tươi tỉnh hơn trong nét mặt, nhanh nhẹn hơn trong cử
chỉ và vui vẻ hơn, tin tưởng, hi vọng vào cuộc sống tương lai…
- Người dân xóm ngụ cư: cảm nhận được một điều mới mẻ, “có cái gì lạ lùng tươi
mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ”
3.2.3. Ý nghĩa của tình huống đối với việc thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm:
- Ý nghĩa nhân bản: Qua câu chuyện nhặt vợ của anh cu Tràng, Kim Lân muốn gửi
gắm tư tưởng nhân đạo sâu sắc và mới mẻ của mình: Dù trong bất kì tình huống và
hoàn cảnh nào, con người vẫn không từ bỏ niềm tin vào cuộc sống. Chính tình yêu
thương là tất cả, tất cả là tình yêu thương và khát vọng sống Niềm tin ấy được thể
hiện ở các khía cạnh sau:
+ Cuộc hôn nhân kì lạ này như một đám cưới nhỏ nhoi giữa một đám ma
khổng lồ. Đám cưới là sự kiện khi hai cá thể tự nguyện đến với nhau để bắt đầu
một cuộc sống chung, nên nó là sự kiện khởi đầu cho sự sống, còn đám ma lại là sự
kiện kết thúc một chu trình sống. Bởi lẽ đó ta cũng có thể gọi tình huống này là :
sự sống nảy sinh giữa cái chết. Đó cũng là tư tưởng sâu sắc mà KL muốn guỉ gắm
qua truyện ngắn này: dù trong tình huống nào, con người cũng tin ở cuộc sống,
tương lai. Niềm khao khát cuộc sống gia đình khiến Tràng vượt qua hoạn nạn để
lấy vợ, bản năng tự nhiên giúp con người tuyên chiến với cái chết để giữ bằng
hạnh phúc.
+ Cuộc giao tranh giữa sự sống và cái chết: Khi đôi trai gái dẫn nhau về
xóm ngụ cư, họ đã đi giữa sự bủa vây của cái chết. cái chết hiện ra với rất nhiều bộ
mặt. Khi thì hiện ra với hình ảnh xác chết nằm la liệt trên đường, bóng những
người đói dật dờ như những bóng ma, khi thì hiện ra với hình ảnh bầy quạ bi kín
trên ngọn cây, có lúc lại hiện ra với hình ảnh khói của những nhà đốt đống rấm để
xua mùi tử khí…Tận đến lúc đôi trai gái sắp sửa lên giường ngủ, cái chết vẫn chưa
buông tha họ. Nó lại hiện ra ở tiếng khóc hờ. Nhưng sự sống vẫn không hề chán
nản, những con người vẫn lạc quan, vẫn tự tin vẫn gắn bó với nhau, và hướng về
tương lai phía trước.
+ Cuộc giao tranh giữa bóng tối và ánh sáng: Trước khi đôi trai gái dẫn
nhau về thì bao trùm lên xóm ngụ cư là cái bóng âm u ảm đạm chết chóc. Nhưng
đôi trai gái đi đến đâu, cảnh vật sáng lên đến đó. Có một cái gì tươi mát làm cho
gương mặt u tối hốc hác bỗng sáng hẳn lên. Rồi những chi tiết miêu tả ánh sáng:
ánh đèn vàng đục hắt hai cái bóng lên vách đêm tân hôn, khuôn mặt bủng beo u ám
của bà cụ Tứ bỗng nhiên rạng rỡ…và cuối cùng là ánh nắng của buổi sáng mùa hè
sáng loá chói vào mắt…Rõ ràng truyện ở đầu bằng buổi chiều xám xịt, kết thúc
bằng buổi sáng bình minh rực rỡ với hình ảnh lá cờ đỏ thắm, điều đó chúng tỏ sự
vận động của cốt truyện đã đi từ bóng tối ra ánh sáng. Và trong cuộc giao tranh
này, sự sống, ánh sáng luôn chiến thắng. Đó cũng chính là biểu hiện sâu sắc của tư
tưởng nhân đạo Kim Lân.
- Ý nghĩa tố cáo
+ Do đói khát, cùng quẫn, người đàn bà kia mới lấy Tràng, vậy ra cái trớ
trêu lại trở thành cơ hội may để Tràng lấy được vợ một cách đáng thương. Giá trị
người vợ cũng chỉ được ví như một thứ miệng ăn, một gánh nặng đèo bòng Như
vậy, tác giả đã tố cáo chế độ thực dân, phong kiến, đẩy xã hội và con người vào
bước đường cùng, dẫn đến nạn đói và cái chết khủng khiếp nhất, làm cho mọi giá
trị bị đảo lộn, nhân phẩm con người bị hạ bệ một cách rẻ rúng.
4.Kết luận
+ Vợ nhặt là truyện ngắn đầy xúc động về tình người, trong đói nghèo vẫn
biết sống cho ra người, đến với nhau bằng tình thương yêu sâu nặng.
+ Nhà văn cũng đã xây dựng được một tình huống độc đáo dồn nén, có tính
kịch cao thể hiện bản lĩnh của một ngòi bút tài năng.
Đề luyện
Về nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim
Lân, có ý kiến cho rằng: Đó là hiện thân của người phụ nữ nghèo, cùng đường,
liều lĩnh. Ý kiến khác khẳng định: Đó là người phụ nữ tiềm ẩn vẻ đẹp của khát
vọng sống mãnh liệt và phẩm chất đức hạnh.
Qua nhân vật người vợ nhặt, anh chị hãy bình luận.
3.2. Đó là người phụ nữ tiềm ẩn vẻ đẹp của khát vọng sống mãnh liệt và phẩm chất
đức hạnh.
+ Thế nhưng, ngay sau khi được anh cu Tràng chấp nhận cho theo về nhà
với thân phận vợ nhặt, người đàn bà đã không còn những biểu hiện như khi còn ở
chợ, thị dường như đã trở thành một người khác hẳn, là bản tính hàng ngày của thị
bị cái đói che lấp đi hay chính sự bao dung, nhân hậu của mẹ con Tràng đã làm
biến đổi thị? Có lẽ là do cả hai nguyên nhân.
+ Thật vậy, đằng sau tình cảnh vất vưởng của người đàn bà là cả một khát
vọng sống mãnh liệt. Ngay cả việc sưng sỉa ở chợ, hay theo anh cu Tràng về nhà
đều là biểu hiện của bản năng ham sống mạnh mẽ đó. Trong người đàn bà đó, đã
xảy ra một sự đấu tranh để lựa chọn giữa bản năng ham sống và nhân cách làm
người. Ở trong bước đường cùng, bản năng ham sống trỗi dậy, nó lấn át đi nhân
cách làm người của cô. Nhưng những phẩm chất của một người phụ nữ đức hạnh k
mất đi, nó đã sớm được bộc lộ ngay từ những bước chân đầu tiên theo anh cu
Tràng về xóm ngụ cư.
+ Trên đường về nhà, thị đi sau Tràng mấy bước, rất e thẹn ngại ngùng. Vẻ
táo tợn, đanh đá khi gặp Tràng giữa chợ đã hoàn toàn mất đi. Khi bị đám trẻ con
trêu ghẹo, thị càng xấu hổ, ngượng ngiụ, chân nọ đá vào chân kia trong khi Tràng
khi phởn phơ, sung sướng. Chính những biểu hiện ấy của người đàn bà kia đã cho
thấy chị không phải là người đánh mất hoàn toàn nhân phẩm, vì nó là biểu hiện của
nữ tính, và là ý thức xót xa trước thân phận mình. Điều này đã làm cho người đọc
tin tưởng vào hạnh phúc nhỏ nhoi mà Tràng đang có được.
+ Thái độ của người đàn bà khi về đến nhà Tràng càng thể hiện rõ điều đó.
Lúc theo Tràng vào nhà, nhìn “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc
lổn nhổn những búi cỏ dại”, chị đã nén một tiếng thở dài trong lồng ngực, như tự ý
thức được sự tự nguyện gắn bó, châp nhận hoàn cảnh nhà chồng không một lời oán
thán, phê phán. Chị cũng cư xử rất ý tứ : từ chuyện chào hỏi mẹ chồng lễ phép, cư
đứng khép nép, không dám ngồi, khi được bà cụ tứ cho phép ngồi cũng chỉ dám
ngồi mớm ở mé giường, hay khuôn mặt bần thần nghĩ ngợi, cho đến sáng hôm sau,
điềm nhiên ăn bát cháo cám mẹ chồng đưa cho dù trong lòng, trong miệng đắng
chát. Chị không nỡ làm mất đi niềm vui tội nghiệp của một người mẹ già… Tất cả
những điều ấy chứng tỏ người đàn bà kia không phải là vô tâm, vô tình, cạn nghĩ.
Phải tinh tế, ý nhị lắm, phải đầy tình thương, trách nhiệm lắm chị mới có được
những ứng xử như thế.
+ Sau đêm tân hôn, người vợ nhặt đã thực sự trở thành người vợ đảm đang,
Chị dậy sớm cùng mẹ chồng quét dọn vườn tược thật sạch sẽ. Tràng cũng thấy
người vợ của mình nhanh nhẹn, hiền hậu đúng mực khiến anh thêm vui vẻ, tự hào.
Chi tiết chị quét sân được nhà văn miêu tả: tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên
mặt đất. Đó là những hát chổi của lòng tự tin. Người vợ nhặt ấy như đang khẳng
định sự có mặt của mình nơi ngôi nhà này- sự có mặt đem lại vẻ sáng sủa, sạch sẽ
cho một cuộc sống mới. (có thể phân tích thêm chi tiết người vợ kể về chuyện
cướp kho thóc trên mạn Thái Nguyên để thấy thêm một phẩm chất khác của người
đàn bà này như mạnh mẽ, và có ý thức thay đổi vận mệnh… )
3.3. Bình luận
+ Như thế, có thể thấy rằng hai ý kiến không hề đối lập nhau mà bổ sung cho
nhau. Cái liều lĩnh trong bước đường cùng lại chính là sự mạo hiểm để có được
hạnh phúc. Cái chao chát chỏng lỏn chỉ là lớp vỏ bên ngoài mà người đàn bà tự tạo
ra để thích ứng, để tự vệ, để chống chọi với cuộc sống. Còn bên trong vẫn có
những đức tính của một người phụ nữ Việt Nam đúng mực: cam chịu, chịu thương,
chịu khó, chăm chỉ, lo toan…Với nhân vật người vợ nhặt, Kim Lân mang đến cho
người đọc một niềm tin: người phụ nữ, dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, vẫn mang
thiên tính nữ. Một cách tự nhiên, họ khát khao một tổ ấm gia đình và vun vén cho
cái tổ ấm ấy.
+ Hai ý kiến hợp nhất tạo thành cái nhìn hoàn chỉnh về nhân vật người đàn
bà cũng là nhân vật điển hình cho số phận của con người trong hoàn cảnh éo le,
tăm tối. Hai ý kiến góp phần định hướng cho người đọc khi khám phá những giá trị
hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
4. Kết luận
+ Với nhân vật người vợ nhặt, tác phẩm đã lên tiếng tố cáo xã hội thực dân
phong kiến đã gây ra nạn đói biến con người thành bèo bọt, rẻ rúng. Nhưng cũng
qua đó, nhà văn khẳng định niềm tin dù trong bất cứ hoàn cảnh nào con người vẫn
sống, vẫn khao khát, vẫn vươn lên xứng đáng làm người. Cùng với hai nhân vật
Tràng và bà cụ Tứ, nhân vật vợ nhặt góp phần làm nên chiều sâu trong tư tưởng
nhân đạo của tác phẩm “Vợ nhặt” .
Đề luyện
Về nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim
Lân, có ý kiến cho rằng: Đó là hiện thân của người phụ nữ nghèo, cùng đường,
liều lĩnh. Ý kiến khác khẳng định: Đó là người phụ nữ tiềm ẩn vẻ đẹp của khát
vọng sống mãnh liệt và phẩm chất đức hạnh.
Qua nhân vật người vợ nhặt, anh chị hãy bình luận.
3.2. Đó là người phụ nữ tiềm ẩn vẻ đẹp của khát vọng sống mãnh liệt và phẩm chất
đức hạnh.
+ Thế nhưng, ngay sau khi được anh cu Tràng chấp nhận cho theo về nhà
với thân phận vợ nhặt, người đàn bà đã không còn những biểu hiện như khi còn ở
chợ, thị dường như đã trở thành một người khác hẳn, là bản tính hàng ngày của thị
bị cái đói che lấp đi hay chính sự bao dung, nhân hậu của mẹ con Tràng đã làm
biến đổi thị? Có lẽ là do cả hai nguyên nhân.
+ Thật vậy, đằng sau tình cảnh vất vưởng của người đàn bà là cả một khát
vọng sống mãnh liệt. Ngay cả việc sưng sỉa ở chợ, hay theo anh cu Tràng về nhà
đều là biểu hiện của bản năng ham sống mạnh mẽ đó. Trong người đàn bà đó, đã
xảy ra một sự đấu tranh để lựa chọn giữa bản năng ham sống và nhân cách làm
người. Ở trong bước đường cùng, bản năng ham sống trỗi dậy, nó lấn át đi nhân
cách làm người của cô. Nhưng những phẩm chất của một người phụ nữ đức hạnh k
mất đi, nó đã sớm được bộc lộ ngay từ những bước chân đầu tiên theo anh cu
Tràng về xóm ngụ cư.
+ Trên đường về nhà, thị đi sau Tràng mấy bước, rất e thẹn ngại ngùng. Vẻ
táo tợn, đanh đá khi gặp Tràng giữa chợ đã hoàn toàn mất đi. Khi bị đám trẻ con
trêu ghẹo, thị càng xấu hổ, ngượng ngiụ, chân nọ đá vào chân kia trong khi Tràng
khi phởn phơ, sung sướng. Chính những biểu hiện ấy của người đàn bà kia đã cho
thấy chị không phải là người đánh mất hoàn toàn nhân phẩm, vì nó là biểu hiện của
nữ tính, và là ý thức xót xa trước thân phận mình. Điều này đã làm cho người đọc
tin tưởng vào hạnh phúc nhỏ nhoi mà Tràng đang có được.
+ Thái độ của người đàn bà khi về đến nhà Tràng càng thể hiện rõ điều đó.
Lúc theo Tràng vào nhà, nhìn “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc
lổn nhổn những búi cỏ dại”, chị đã nén một tiếng thở dài trong lồng ngực, như tự ý
thức được sự tự nguyện gắn bó, châp nhận hoàn cảnh nhà chồng không một lời oán
thán, phê phán. Chị cũng cư xử rất ý tứ : từ chuyện chào hỏi mẹ chồng lễ phép, cư
đứng khép nép, không dám ngồi, khi được bà cụ tứ cho phép ngồi cũng chỉ dám
ngồi mớm ở mé giường, hay khuôn mặt bần thần nghĩ ngợi, cho đến sáng hôm sau,
điềm nhiên ăn bát cháo cám mẹ chồng đưa cho dù trong lòng, trong miệng đắng
chát. Chị không nỡ làm mất đi niềm vui tội nghiệp của một người mẹ già… Tất cả
những điều ấy chứng tỏ người đàn bà kia không phải là vô tâm, vô tình, cạn nghĩ.
Phải tinh tế, ý nhị lắm, phải đầy tình thương, trách nhiệm lắm chị mới có được
những ứng xử như thế.
+ Sau đêm tân hôn, người vợ nhặt đã thực sự trở thành người vợ đảm đang,
Chị dậy sớm cùng mẹ chồng quét dọn vườn tược thật sạch sẽ. Tràng cũng thấy
người vợ của mình nhanh nhẹn, hiền hậu đúng mực khiến anh thêm vui vẻ, tự hào.
Chi tiết chị quét sân được nhà văn miêu tả: tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên
mặt đất. Đó là những hát chổi của lòng tự tin. Người vợ nhặt ấy như đang khẳng
định sự có mặt của mình nơi ngôi nhà này- sự có mặt đem lại vẻ sáng sủa, sạch sẽ
cho một cuộc sống mới. (có thể phân tích thêm chi tiết người vợ kể về chuyện
cướp kho thóc trên mạn Thái Nguyên để thấy thêm một phẩm chất khác của người
đàn bà này như mạnh mẽ, và có ý thức thay đổi vận mệnh… )
3.3. Bình luận
+ Như thế, có thể thấy rằng hai ý kiến không hề đối lập nhau mà bổ sung cho
nhau. Cái liều lĩnh trong bước đường cùng lại chính là sự mạo hiểm để có được
hạnh phúc. Cái chao chát chỏng lỏn chỉ là lớp vỏ bên ngoài mà người đàn bà tự tạo
ra để thích ứng, để tự vệ, để chống chọi với cuộc sống. Còn bên trong vẫn có
những đức tính của một người phụ nữ Việt Nam đúng mực: cam chịu, chịu thương,
chịu khó, chăm chỉ, lo toan…Với nhân vật người vợ nhặt, Kim Lân mang đến cho
người đọc một niềm tin: người phụ nữ, dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, vẫn mang
thiên tính nữ. Một cách tự nhiên, họ khát khao một tổ ấm gia đình và vun vén cho
cái tổ ấm ấy.
+ Hai ý kiến hợp nhất tạo thành cái nhìn hoàn chỉnh về nhân vật người đàn
bà cũng là nhân vật điển hình cho số phận của con người trong hoàn cảnh éo le,
tăm tối. Hai ý kiến góp phần định hướng cho người đọc khi khám phá những giá trị
hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
4. Kết luận
+ Với nhân vật người vợ nhặt, tác phẩm đã lên tiếng tố cáo xã hội thực dân
phong kiến đã gây ra nạn đói biến con người thành bèo bọt, rẻ rúng. Nhưng cũng
qua đó, nhà văn khẳng định niềm tin dù trong bất cứ hoàn cảnh nào con người vẫn
sống, vẫn khao khát, vẫn vươn lên xứng đáng làm người. Cùng với hai nhân vật
Tràng và bà cụ Tứ, nhân vật vợ nhặt góp phần làm nên chiều sâu trong tư tưởng
nhân đạo của tác phẩm “Vợ nhặt” .
Đề luyện: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo của truyện ngắn Vợ nhặt
3. Kết luận
+ Xét theo phương diện thực tế lịch sử, cái thời được miêu tả trong truyện
ngắn Vợ nhặt đã lùi xa về dĩ vãng. Nhưng trên những trang văn của Kim
Lân, thời khắc ẫy vẫn còn sống động và gợi lên biết bao suy nghĩ trong
chúng ta. Chính giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm đã
tạo nên sự ám ảnh kì diệu này ở người đọc. Sức sống bền bỉ của tác phẩm
phải chăng cũng chính nhờ những giá trị đó.
Đề luyện:
Phân tích tác phẩm Vợ nhặt để làm nổi rõ những sáng tạo nghệ thuật độc
đáo của nhà văn Kim Lân.
2.3. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật : Đặt nhân vật vào một tình huống éo le,
KL đã miêu tả thành công nhân vật với những tâm trạng, nét tính cách khác nhau
mỗi người một vẻ.
- Nhân vật bà cụ Tứ
+ Nhân vật bà cụ Tứ thể hiện tài năng miêu tả tâm lí sắc sảo của nhà văn
Kim Lân. Diễn biến tâm lí của bà cụ Tứ trước việc đứa con trai ngờ nghệch của
mình có vợ đầy phức tạp “theo kiểu vận động gấp khúc, phù hợp với tâm lí người
từng trải, nhân hậu” (Nguyễn Quang Trung).
+ Diễn biến: Từ ngỡ ngàng, ngạc nhiên không giải thích nổi sự có mặt của
người đàn bà kia trong nhà mình, đến cúi đầu nín lặng tủi thân, xót xa cho thân
phận khi hiểu ra tất cả, từ sự lo lắng cho cuộc sống quá mong manh của đôi trẻ đến
niềm vui mừng khi nhận ra sự may mắn của con trai mình, từ nỗi xót thương thông
cảm với người con dâu đến niềm lạc quan tin tưởng vào tưong lai.
+ Kim Lân xoáy sâu vào dòng suy nghĩ triền miên của nhân vật. Nhà văn để
bà cụ Tứ cảm nhận về hạnh phúc bất ngờ của đứa con trai bằng cả cuộc đời làm
vợ, làm mẹ cay cực của mình, bằng nhận thức của người từng trải. Tâm trạng ấy
cũng được thể hiện ra nét mặt, cử chỉ, cung cách sinh hoạt hằng ngày…(Chi tiết
giọt nước mắt, nồi cháo cám…)
+ Qua việc miêu tả diễn biến tâm lí, nhân vật bà cụ Tứ hiện lên một cách
sinh động, đó là một người phụ nữ từng trải nhân hậu, ấm áp tình người, lạc quan,
hi sinh, chia sẻ…một người phụ nữ, người mẹ điển hình.
- Nhân vật Tràng:
+ Diễn biến tâm lí của anh cu Tràng có phần đơn giản hơn nhân vật ngươì
mẹ. Đó là tâm lí phát triển theo chiều thẳng đứng, phù hợp với một chàng rể đang
tràn trề hạnh phúc.
+ Diễn biến: Hồi hộp, ngỡ ngàng và có chút ngập ngừng khi thấy người đàn
bà theo mình về; Cảm xúc bâng khuâng, lâng lâng với niềm vui bất ngờ của chàng
trai có vợ trên đường trở về nhà. Niềm vui đó khiến Tràng quên hết những cảnh
sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói khát đang đe doạ, quên cả những
tháng ngày trướcmặt…Một cái gì mới mẻ lắm, chưa từng thấy, ..nó ôm ấp, mơn
man khắp da thịt như có bàn tay vuốt nhẹ sống lưng; Hạnh phúc trọn vẹn với ý
thức về trách nhiệm của một người con trai, người chồng trong gia đình: Bây giờ
hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau
này.
+ Điểm nhìn trần thuật đã được di chuyển một cách linh hoạt. Nếu ở nhân
vật bà cụ Tứ, điểm nhìn di chuyển từ nội tâm nhân vật đến cử chỉ lời nói thì ở nhân
vật người con trai, điểm nhìn lại bắt đầu từ bên ngoài rồi di chuyển đến điểm nhìn
bên trong. Điều này đã giúp cho nhà văn phân tích được tinh tế những trạng trạng
thái tâm lí của những con người trong một hoàn cảnh đặc biệt: sự đói khát có thể
làm biến dạng hình hài, thân xác con người nhưng không huỷ diệt được khát khao
hạnh phúc, nhu cầu được sốg và hi vọng về một cuộc đời tươi đẹp hơn.
- Nhân vật người vợ nhặt (bổ sung ở bài phân tích nhân vật)
+ Tâm trạng người vợ nhặt không được tập trung miêu tả trực tiếp như anh
cu Tràng và bà cụ Tứ, mà chỉ được cảm nhận qua vẻ bên ngoài: rón rén, e thẹn,
khó chịu, thở dài, ngượng ngiụ, mặt bần thần, khẽ nhúc nhích, ngồi mớm, khép
nép…Đó là những động từ, cụm động từ, tính từ miêu tả trạng thái cảm xúc của
người vợ.
+ Sự thay đổi của người vợ từ chỗ ngoa ngoắt, cong cớn khi ở chợ trở thành
ngoan hìên, đảm đang cũng được thể hiện ở hành động bên ngoài: chi tiết nén tiếng
thở dài, và bát cháo cám vào miệng, quét những nhát chổi sàn sạt…
3. Kết luận