You are on page 1of 16

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA: KHOA HỌC CHÍNH TRỊ VÀ NHÂN VĂN

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON NGƯỜI VÀ


VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Sinh viên thực hiện : Ngô Phương Thảo


Mã sinh viên : 2312530045
Số thứ tự : 84
Lớp tín chỉ : TRIH114K62.2
Giảng viên hướng dẫn : TS. Thân Thị Hạnh

Hà Nội, tháng 10/2023


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU...............................................................................................................3

NỘI DUNG....................................................................................................................4

I. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người......................................4


1. Bản chất của con người.................................................................................4
1.1.1. Quan điểm của các nhà triết học trước Mác – Lênin về con người.......4
1.1.2. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người...............................5

II. Vấn đề xây dựng nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở nước ta hiện nay...............................................................................8
1. Vai trò của con người trong phát triển xã hội.............................................8
2. Nguồn lực và nguồn lực con người trong phát triển kinh tế - xã hội........9
3. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong phát triển kinh tế - xã hội ở Việt
Nam.......................................................................................................................10

III. Giải pháp xây dựng nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.....................................................................11
1. Chủ nghĩa Mác – Lênin và công cuộc bồi dưỡng nguồn nhân lực Việt
Nam.......................................................................................................................11
2. Các giải pháp đề ra......................................................................................12

KẾT LUẬN.................................................................................................................15

2
LỜI MỞ ĐẦU
Con người là nhân vật trung tâm của xã hội, là chủ thể chân chính sáng
tạo ra mọi giá trị vật chất - tinh thần để phục vụ lại chính đời sống của mình.
Nhấn mạnh vai trò của con người trong quá trình sản xuất, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã từng khẳng định: “Xã hội có cơm ăn, áo mặc, nhà ở là nhờ lao động
của con người”.
Đặt vào tình hình đất nước ta hiện nay, không khó để nhận ra rằng sự
nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước đang đặt ra những yêu cầu cần
thiết cần phải có nhân tố con người có tri thức, kỹ năng, phẩm chất để phục vụ
sự nghiệp phát triển đất nước. Ở hầu hết các nước phát triển, nguồn lực là một
trong những mối quan tâm hàng đầu, tất cả các nước đều coi trọng yếu tố con
người và có chính sách phát triển nguồn nhân lực. Thấm nhuần chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã xác định thắng lợi của sự nghiệp
đổi mới cũng là thành công của quá trình xây dựng và phát triển con người
mang tính toàn diện, là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu đốivới
việc phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nước ta một nước công nghiệp, theo
hướng công nghiệp hóa-hiện đại hóa. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp
ứng thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa là chủ trương lớn của Đảng ta, là con đường thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Giáo dục, đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa luôn là nhiệm
vụ, yêu cầu cấp thiết, lâu dài của toàn Đảng và toàn hệ thống chính trị ở nước ta.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề con người, đặc biệt là vai trò
của con người đối với việc xây dựng nền kinh tế lớn mạnh, với sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, em quyết định chọn đề tài “Quan điểm của triết học
Mác – Lênin về con người và vấn đề xây dựng nguồn lực con người trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay”. Thông qua tiểu
luận này, em sẽ trình bày hiểu biết của mình về quan điểm của triết học Mác –
Lênin về con người và đề xuất một số giải pháp để phát triển nguồn nhân lực
bền vững cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta.

3
NỘI DUNG
I. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người
1. Bản chất của con người
1.1.1. Quan điểm của các nhà triết học trước Mác – Lênin về con người
Có thể nói vấn đề con người là một trong những vấn đề quan trọng nhất của
thế giới từ trước tới nay, một vấn đề mà luôn được các nhà khoa học, các nhà
nghiên cứu phân tích một cách sâu sắc nhất. Các lĩnh vực tâm lý học, sinh học,
y học, triết học, xã hội học….từ rất sớm trong lịch sử đã quan tâm đến con
người và không ngừng nghiên cứu về nó. Trong đó, lĩnh vực triết học có nhiều
nghiên cứu và nhiều quan điểm, nhìn nhận về con người hơn cả.
Khi đề cập tới vấn đề con người, các nhà triết học để tự hỏi: Thực chất con
người là gì và để tìm cách trả lời câu hỏi đó thì cần phải giải quyết hàng loạt
mâu thuẫn trong chính con người. Khi phân tích, các nhà triết học cổ đại coi con
người là một tiểu vũ trụ, là một thực thể nhỏ bé trong thế giới rộng lớn, bản chất
con người là bản chất vũ trụ. Con người là vật cao quý nhất trong trời đất, là
chúa tể của muôn loài và chỉ đứng sau thần linh. Con người được chia làm hai
phần là phần xác và phần hồn. Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo thì cho rằng:
Phần hồn là do thượng đế sinh ra, quy định, chi phối mọi hoạt động của phần
xác và linh hồn con người tồn tại mãi mãi. Chủ nghĩa duy vật thì ngược lại họ
cho rằng phần xác quyết định và chi phối phần hồn, không có linh hồn nào là
bất tử cả, và quá trình nhận thức đó không ngừng được phát hiện. Càng ngày
các nhà triết học tìm ra được bản chất của con người và không ngừng khắc phục
lý luận trước đó.
Triết học thế kỷ XV - XVIII phát triển quan điểm triết học về con người trên
cơ sở khoa học tự nhiên đã khắc phục và bắt đầu phát triển. Chủ nghĩa duy vật
siêu hình coi con người như một bộ máy vận động theo một quy luật cổ. Các
nhà triết học một mặt đề cao vai trò sáng tạo của lý tính người, mặt khác coi con
người, mặt khác coi con người là sản phẩm của tự nhiên và hoàn cảnh.
Các nhà triết học cổ điển Đức, từ Cartơ đến Heghen đã phát triển quan điểm
triết học về con người theo hướng của chủ nghĩa duy tâm. Đặc biệt Heghen
quan niệm con người là hiện thân của ý niệm tuyệt đối, là con người ý thức và
do đó đời sống con người chỉ được xem xét về mặt tinh thần. Song Heghen
cũng là người đầu tiên thông qua việc xem xét cơ chế hoạt động của đời sống
tinh thần mà phát hiện ra quy luật về sự phát triển của đời sống tinh thần cá

4
nhân. Đồng thời Heghen cũng đã nghiên cứu bản chất quá trình tư duy khái quát
các quy luật cơ bản của quá trình đó.
Sau khi đoạn tuyệt với chủ nghĩa duy tâm Heghen, Feurerbach đã phê phán
tính siêu tự nhiên, phi thể xác trong quan niệm triết học Heghen, ông quan niệm
con người là sản phẩm cảu tự nhiên, có bản năng tự nhiên, là con người sinh
học trực quan, phụ thuộc vào hoàn cảnh, ông đã sử dụng thành tựu của khoa học
tự nhiên để chứng minh mối liên hệ không thể chia cắt của tư duy với những
quá trình vật chất diễn ra trong cơ thể con người, song khi giải thích con người
trong mối liên hệ cộng đồng thì Feurerbach lại rơi vào lập trường của chủ nghĩa
duy tâm.
Trong lịch sử triết học trước Mác, các quan niệm về con người, cơ bản là
những quan niệm duy tâm, tôn giáo hoặc siêu hình. Mặc dù, triết học duy vật
trước Mác coi con người là một thực thể tự nhiên – thực thể xã hội. Song họ
cũng không vượt qua tính chất siêu hình và thậm chí còn là duy tâm. Bởi vì họ
đã quy đặc trưng bản chất con người theo khuynh hướng tuyệt đối hóa những
thuộc tính tự nhiên hoặc thuộc tính xã hội, mà không thấy được vai trò của hoạt
động thực tiễn xã hội. Tuy nhiên, một số trường phái triết học vẫn đạt được
những thành tựu trong việc phân tích, quan sát con người, đề cao lý tính, xác lập
các giá trị nhân bản học để hướng con người tới tự do. Đó cũng chính là những
tiền đề có ý nghĩa cho việc hình thành tư tưởng về con người trong triết học
Mác-Lê nin.
1.1.2. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người
Ta đều biết rằng chủ nghĩa xã hội do con người và vì con người. Do vậy,
hình thành mới quan hệ đúng đắn về con người về vai trò của con người trong
sự phát triển xã hội nói chung, trong xã hội chủ nghĩa nói riêng là một vấn đề
không thể thiếu được của thế giới quan Mác – Lênin.
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, con người là khái niệm chỉ những cá thể người
như một chỉnh thể trong sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội của nó.
Con người là sản phẩm của sự tiến hoá lâu dài từ giới tự nhiên và giới sinh vật.
Do vậy nhiều quy luật sinh vật học cùng tồn tại và tác động đến con người. Để
tồn tại với tư cách là một con người, trước hết con người cũng phải ăn, phải
uống... Điều đó giải thích vì sao Mác cho rằng con người trước hết phải ăn,
mặc, ở rồi mới làm chính trị. Nhưng chỉ dừng lại ở một số thuộc tính sinh học
của con người thì không thể giải thích được bản chất của con người. Không chỉ
có “con người là tổng hoà các quan hệ xã hội” mà thực ra quan điểm của Mác là
một quan điểm toàn diện.
5
Tiếp thu một cách mang tính phê phán những quan điểm có tính hợp lý và
khắc phục những thiếu sót hạn chế quan niệm về con người trong lịch sử triết
học trước đó, triết học Mác khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất
giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội. Bởi vì, con người không phải là cái gì đó
đồng nhất tuyệt đối về chất, đó là sự đồng nhất bao hàm trong mình sự khác biệt
giữa hai yếu tố đối lập nhau: con người với tư cách là sản phẩm của giới tự
nhiên, là sự phát triển tiếp tục của giới tự nhiên, mặt khác con người là một thực
thể xã hội được tách ra như một lực lượng đối lập với giới tự nhiên, sự tác động
qua lại giữa cái sinh học và cái xã hội tạo thành con người.
Thứ nhất, con người là thực thể sinh học – xã hội
Ở con người tồn tại quá trình tạo thành phương diện sinh học và khả năng
thoả mãn những nhu cầu sinh học như: ăn, mặc, ở; hoạt động và nhu cầu tái sản
sinh con người. Như vậy, con người trước hết là một thực thể sinh vật, con
người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh học, tính loài. Yếu tố sinh
học trong con người, trước hết là tổ chức cơ thể và mối quan hệ của nó với tự
nhiên, là những thuộc tính, những đặc điểm sinh học, quá trình tâm sinh lý, các
giai đoạn phát triển khác nhau thể hiện bản chất sinh học của cá nhân con
người. “Bản thân cái sự kiện là con người từ loài động vật mà ra, cũng đã
quyết định việc con người không bao giờ hoàn toàn thoát ly khỏi những đặc
tính vốn có của con vật”. Con người cũng như mọi động vật khác phải tìm kiếm
thức ăn, nước uống, phải “đấu tranh sinh tồn” để ăn uổng, sinh đẻ con cái, tồn
tại và phát triển. Nhưng không được tuyệt đối hóa điều đó. Không phải đặc tính
sinh học, bản năng sinh học, sự sinh tồn thể xác là cái duy nhất tạo nên bản chất
của con người, mà con người còn là một thực thể xã hội. Khi xem xét con
người, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, không thể tách rời hai
phương diện sinh học và xã hội của con người thành những phương diện biệt
lập, duy nhất, quyết định phương diện kia.
Con người còn là một thực thể xã hội có các hoạt động xã hội, trong đó
hoạt động xã hội quan trọng nhất đối với con người là hoạt động sản xuất. Triết
học Mác – Lênin cho rằng, “Người là giống vật duy nhất có thể bằng lao động
mà thoát khỏi trạng thái thuần tuý là loài vật”. Nhờ có lao động sản xuất mà về
mặt sinh học con người có thể trở thành thực thể xã hội, thành chủ thể của “lịch
sử có tính tự nhiên”, có lý tính, có “bản năng xã hội”. Lao động đã khiến con
người trở thành con người đúng nghĩa của nó và là điều kiện tiên quyết, cần
thiết và chủ yếu quyết định sự hình thành và phát triển của con người về cả
phương diện sinh học và phương diện xã hội. Bên cạnh đó, con người còn có

6
hàng loạt các quan hệ xã hội khác. Những quan hệ đó phát triển phong phú, đa
dạng phát triển nên tư duy, ý thức của con người. Ngôn ngữ và tư duy của con
người là hai yếu tố thể hiện tập trung và nổi trội tính xã hội của con người, biểu
hiện rõ con người chính là một thực thể xã hội.
Thứ hai, con người khác biệt với con vật ngay từ khi con người bắt đầu sản
xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình
Mác và Ăngghen khẳng định: “Điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài
người với xã hội loài vật là ở chỗ: Loài vượn may mắn lắm chỉ hái lượm trong
khi con người lại sản xuất”. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người
đã làm thay đổi, cải biến toàn bộ giới tự nhiên: “con vật chỉ tái sản xuất ra bản
thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”. Quan niệm của
triết học Mác – Lênin về sự khác biệt giữa con người và các loài động vật khác
đã thể hiện tính chất duy vật nhất quán: Xác định sự khác biệt đó trên nền tảng
của sản xuất vật chất.
Thứ ba, con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người
Kế thừa các quan niệm tiến bộ trong lịch sử tư tưởng nhân loại và dựa
vào những thành tựu của khoa học, chủ nghĩa Mác khẳng định con người vừa là
sản phẩm của sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên, vừa là sản phẩm của lịch sử
xã hội loài người và của chính bản thân con người. Mác đã khẳng định rằng tiền
đề của lý luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là những con người hiện
thực đang hoạt động, lao động sản xuất và làm ra lịch sử của chính mình. Điều
đáng chú ý là con người khác với các động vật khác, con người không thụ động
để lịch sử làm mình thay đổi mà con người còn là chủ thể của lịch sử.
Thứ tư, con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử
Con người là sản phẩm phát triển của tự nhiên và lịch sử phát triển của xã
hội. Song, điều quan trọng hơn cả là con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử
xã hội. Với tính cách chủ thể của lịch sử, thông qua hoạt động thực tiễn, con
người biến đổi giới tự nhiên, biến đổi xã hội và bản thân mình.
Trong quá trình cải biến giới tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình.
Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử.
Hoạt động sản xuất vật chất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa
là phương thức dẫn đến sự biến đổi xã hội. Đó là quá trình con người nhận thức
và vận dụng các quy luật khách quan để khẳng lịch sử vận động phát triển của
xã hội là lịch sử của phát triển của các phương thức sản xuất vật chất khác nhau.
Không có con người trừu tượng, con người là cụ thể trong mỗi giai đoạn phát

7
triển nhất định của lịch sử và bản chất của con người trong tính hiện thực của nó
là tổng hòa những mối quan hệ xã hội. Bản chất con người không phải là một hệ
thống đóng kín, mà là hệ thống mở tương ứng với điều kiện lịch sử của con
người.
Thứ năm, bản chất con người là tổng hoà các quan hệ xã hội
Điểm xuất phát trong tư tưởng Mác là con người sinh học; con người sinh
học thông qua lao động trở thành con người xã hội, con người có ý thức. Với
Mác, con người không phải là cái gì đó trừu tượng, cố hữu, mà là sản phẩm của
tự nhiên, của xã hội, mang tính lịch sử cụ thể. Đó là con người hiện thực, con
người cụ thể. Bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội. Bản chất
này được thể hiện ra, tồn tại và phát triển trong hoạt động lao động sản xuất,
trong hoạt động chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội và cải tạo chính bản thân
con người. Các quan hệ xã hội một khi đã hình thành thì đóng vai trò chi phối
và quyết định các phương diện khác của đời sống con người, khiến cho con
người không còn thuần tuý là một động vật mà là một động vật xã hội.
II. Vấn đề xây dựng nguồn lực con người trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay
1. Vai trò của con người trong phát triển xã hội
Để khẳng định cho tiến trình phát triển lịch sử của xã hội loài người là sự
thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội, Mác đã nói tới việc lấy sự
phát triển toàn diện của con người làm thước đo chung cho sự phát triển xã hội.
Mác cho rằng xu hướng chung của tiến trình phát triển lịch sử được quy định
bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội bao gồm con người và những
công cụ lao động do con người tạo ra. Sự phát triển của lực lượng sản xuất xã
hội, tự nó đã nói lên trình độ phát triển của xã hội qua việc con người đã chiếm
lĩnh xã hội và sử dụng ngày càng nhiều lực lượng tự nhiên với tư cách là cơ sở
vật chất cho hoạt động sống của chính con người và quyết định quan hệ giữa
người với người trong sản xuất. Việc tiến hành sản xuất tập thể bằng lực lượng
của toàn xã hội và sự phát triển mới của nền sản xuất do nó mang lại sẽ cần đến
những con người hoàn toàn mới, từ đó sẽ làm nên những thành viên trong xã
hội có khả năng sử dụng một cách toàn diện năng lực phát triển của mình theo
Mác "phát triển sản xuất vì sự phồn vinh của xã hội, vì cuộc sống tốt đẹp hơn
cho mỗi thành viên trong cộng đồng xã hội và phát triển con người toàn diện là
một quá trình thống nhất để làm tăng thêm nền sản xuất xã hội" để sản xuất ra
những con người phát triển toàn diện hơn nữa. Mác coi sự kết hợp chặt chẽ giữa

8
phát triển sản xuất và phát triển con người là một trong những biện pháp mạnh
mẽ để cải biến xã hội.
Quan niệm của Mác về định hướng phát triển xã hội lấy sự phát triển của con
người làm thước đo chung càng được khẳng định trong bối cảnh lịch sử của xã
hội loài người ngày nay. Loài người đang sống trong bối cảnh quốc tế đầy
những biến động, cộng đồng thế giới đang thể hiện hết sức rõ ràng tính đa dạng
trong các hình thức phát triển của nó xã hội loài người kể từ thời tiền sử cho đến
nay bao giờ cũng là một hệ thống thống nhất tuy nhiên cũng hết sức phức tạp.
Chính vì sự phức tạp đó đã tạo nên tính không đồng đều trong sự phát triển kinh
tế xã hội ở các nước, các khu vực khác nhau. Tính không đồng đều của sự phát
triển này lại hình thành nên một bức tranh nhiều màu sắc về định hướng nào, thì
mọi định hướng phát triển vẫn phải hướng tới giá trị nhân văn của nó - tới sự
phát triển con người.
2. Nguồn lực và nguồn lực con người trong phát triển kinh tế - xã hội
Dưới dạng tổng quát, khái niệm “nguồn lực” được hiểu là toàn bộ các yếu tố
cả vật chất lẫn tinh thần đã, đang và sẽ tạo ra sức mạnh cho sự phát triển và
trong những điều kiện thích hợp sẽ thúc đẩy quá trình cải biến xã hội của một
quốc gia, dân tộc. Tuy nhiên, nguồn lực phải được quan niệm như một hệ thống,
mỗi nhân tố trong hệ thống đó đều có đặc điểm, vai trò riêng và có mối quan hệ
hữu cơ với các nhân tố khác. Nguồn lực con người nằm ở trung tâm của hệ
thống này, bởi vì phải thông qua hoạt động của con người các nguồn lực khác
mới có điều kiện thể hiện và phát huy hết khả năng của chúng, mới có thể biến
tiềm năng trở thành hiện thực. Chính con người phát hiện ra các nguồn lực, con
người tổ chức, khai thác các nguồn lực để phục vụ cho mục đích của mình và sử
dụng các nguồn lực đó để thoả mãn những nhu cầu, những lợi ích của mình.
Theo đó xã hội và cũng chính con người sẽ phát triển các nguồn lực, sử dụng,
điều chỉnh các nguồn lực như là những phương tiện và công cụ, điều kiện để
phát triển kinh tế - xã hội.
Nguồn lực con người còn được gọi là nguồn nhân lực, vốn người, nguồn tài
nguyên người. Trong bài viết đăng trên tạp chí Triết học số 3/2000, TS. Đoàn
Văn Khái cho rằng, nguồn lực con người không chỉ là lực lượng lao động hay
nguồn lao động mà là một tập hợp các yếu tố (thể lực, trí lực, tâm lực...) của
mỗi cá nhân và của cả cộng đồng tạo nên sức mạnh thúc đẩy sự phát triển xã
hội. Theo đó, tác giả cho rằng “Nguồn lực con người là khái niệm chỉ số dân,
cơ cấu dân số và nhất là chất lượng con người với tất cả đặc điểm và sức mạnh
của nó trong sự phát triển xã hội”.

9
Như vậy, theo nghĩa chung nhất, chúng ta có thể hiểu “nguồn lực con người”
là tổng hợp các yếu tố thể chất và tinh thần của con người, các hoạt động vật
chất và tinh thần của họ đã, đang và sẽ tạo ra năng lực, sức mạnh thúc đẩy sự
phát triển xã hội. Tìm hiểu khái niệm “nguồn lực con người” không phải là vấn
đề câu chữ, cái chính là hiểu đúng nội hàm khái niệm của nó để trên cơ sở đó có
định hướng đúng đắn cho việc nuôi dưỡng, phát triển, khai thác và sử dụng
nguồn lực con người, phát huy tốt tiềm năng con người, qua đó khai thác có
hiệu quả các nguồn lực khác vì mục tiêu phát triển. Trong đó, quan trọng và
quyết định nhất vẫn là nguồn lực con người (nguồn nhân lực). Đây chính là lực
lượng lao động của xã hội tham gia vào quá trình sản xuất, phát triển kinh tế -
xã hội. Bởi vì các nguồn lực trong tự nhiên, vốn, khoa học, công nghệ mà không
được con người phát hiện, tổ chức, khai thác một cách có hiệu quả thì nó vẫn
chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng. Chính con người tác động đến các nguồn lực,
sử dụng nó để phát triển xã hội.
3. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong phát triển kinh tế - xã hội ở Việt
Nam
Công nghiệp hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá
trình phát triển vì nó đưa cả nền sản xuất vật chất và đời sống văn hóa - xã hội
của đất nước lên trình độ mới. Ở mỗi thời kỳ lịch sử, căn cứ vào tình hình kinh
tế - xã hội, công nghiệp hóa có nội dung và bước đi cụ thể, phù hợp.
Đối với Việt Nam, khi chính thức bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, Đảng chủ trương tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, và từ cuối
thế kỷ XX đến nay, quá trình này được xác định đầy đủ là công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Đó là một quá trình kinh tế, kỹ thuật - công nghệ và kinh tế - xã
hội toàn diện, sâu rộng nhằm chuyển đổi nền sản xuất và xã hội Việt Nam từ
trình độ nông nghiệp lạc hậu lên trình độ công nghiệp với các trình độ công
nghệ ngày càng tiên tiến, hiện đại, văn minh.
Trên cơ sở tổng kết công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ đầu thập
kỷ 90 của thế kỷ XX đến nay và bám sát bối cảnh, yêu cầu, nhiệm vụ mới, Đại
hội lần thứ XIII của Đảng nêu rõ chủ trương: “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng
tạo”.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII năm 1991 đã có những bước đột
phá mới về công nghiệp hóa. Lần đầu tiên, phạm trù “Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa” được xác định chính thức trong Văn kiện của Đảng. Trong điều kiện phát
triển mới, công nghiệp hoá ở nước ta phải gắn liền với hiện đại hóa, bởi lẽ:
10
trong bối cảnh khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, nếu nước ta không
tiến hành công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa sẽ tụt hậu ngày càng xa hơn so
với trình độ phát triển chung của thế giới.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII năm 1996, Đại hội đã xác định
mục tiêu, nhiệm vụ của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta đến năm 2020:
“Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một
nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”.
Để có thể tiến hành công nghiệp hóa theo lối rút ngắn so với các nước đi
trước, chúng ta cần thực hiện các yêu cầu như: Phát triển kinh tế và công nghệ
phải vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt; phát huy những lợi thế
của đất nước, gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa, từng bước phát triển kinh
tế tri thức; phát huy nguồn lực trí tuệ và tinh thần của con người Việt Nam, đặc
biệt coi trọng phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xem đây là
nền tảng và động lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
III. Giải pháp xây dựng nguồn lực con người trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay
1. Chủ nghĩa Mác – Lênin và công cuộc bồi dưỡng nguồn nhân lực Việt
Nam
Ngày nay, trên phạm vi thế giới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa vẫn đang
được coi là phương hướng chủ đạo, là con đường tất yếu phải trải qua của các
nước đang phát triển. Đối với Việt Nam, công nghiệp hóa, hiện đại hóa không
chỉ là quá trình mang tính tất yếu, khách quan mà còn là một đòi hỏi bức thiết.
Bởi vì, từ một nền kinh tế tiểu nông phấn đấu đến mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, chúng ta chỉ có một con đường là thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta đang đứng trước nhiều thời cơ, vận hội nhưng cũng gặp không ít thách
thức, khó khăn đòi hỏi chúng ta phải động viên và phát huy sức mạnh toàn dân
tộc, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ
ngoại lực tạo thành nguồn lực tổng hợp để hiện thực hóa đường lối của Đảng.
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi chúng ta phải nhận
thức một cách sâu sắc, đầy đủ những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của
nguồn lực con người. Sự thành công của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại

11
hóa đòi hỏi ngoài môi trường chính trị ổn định, phải có các nguồn lực cần thiết,
trong đó, nguồn lực con người là yếu tố quyết định nhất. Nghị quyết Đại hội
VIII của Đảng khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực
to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Cần đào tạo con người một cách có chiều sâu
lấy tư tương và chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng, cũng như trên thế giới ở
nước ta chiến lược con người nó có một ý nghĩa hết sức quan trọng và để phát
triển đúng hướng chiến lược đó cần có một chính sách phát triển con người,
không để con người đi lệch tư tưởng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch rõ hướng đi đúng cho con đường đi lên xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam, thực tế cho thấy cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh,
chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam đã làm nên thắng lợi cách mạng giải
phòng dân tộc (1945), thống nhất đất nước (1975) thực hiện ý chí độc lập tự do
con người Việt Nam điều mà bao nhiêu học thuyết trước Mác không thể áp
dụng được, chính chủ nghĩa Mác - Lênin đã làm thay đổi, trở thành hệ tư tưởng
chính thống của toàn xã hội, thay đổi nhanh chóng đời sống tinh thần đại đa số
nhân dân Việt Nam. Bằng hệ thống giáo dục với các hình thức đào tạo đa dạng,
với các hình thức khoa học thấm nhuần tinh thần cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin đã hình thành kế tiếp nhau những lớp người lao động mới ngày càng có
tư tưởng, trình độ chung, chuyên môn cao ngày nay chúng ta đã có một đội ngũ
cán bộ văn hoá khoa học công nghệ với trình độ lý luận và quản lý tốt đồng đều
trong cả nước.
2. Các giải pháp đề ra
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây,
vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Đảng ta luôn nhất quán coi giáo dục
và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Thực tiễn, các nước phát triển cũng cho thấy,
không nước nào đạt được mức tăng trưởng kinh tế cao trước khi đạt được mức
phổ cập giáo dục phổ thông, như Garry Becker - nhà khoa học Mỹ đạt giải
Nobel kinh tế năm 1992 nhận xét: “Không có đầu tư nào mang lại nguồn lợi lớn
như đầu tư vào nguồn nhân lực, đặc biệt là đầu tư cho giáo dục”.
Đổi mới giáo dục và đào tạo trước hết cần nghiên cứu để hoàn thiện, ổn định
hệ thống sách giáo khoa và chế độ thi cử ở các cấp học. Đây vẫn là vấn đề căn
bản, cốt yếu của mọi nền giáo dục nói chung. Hệ thống sách giáo khoa phản ánh
chương trình, nội dung giáo dục. Hệ thống này phải có tính vượt trước, bởi sản
phẩm của nền giáo dục phải sau một quá trình đào tạo mới có sự phản hồi từ xã
12
hội. Việc biên soạn sách giáo khoa và chế độ thi cử trong giáo dục của chúng ta
còn nhiều bất cập. Chế độ thi cử chưa đẩy lùi được “bệnh thành tích” và tiêu
cực sẽ làm thui chột tài năng và động lực học tập của người học. Chú trọng đào
tạo, đào tạo lại đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục, đào tạo. Đây là đội ngũ nòng cốt của nền giáo dục, họ cần có kiến
thức, phương pháp sư phạm và đạo đức cao đẹp.
Cần đa dạng hóa các hình thức học tập như: học trên lớp, học trực tuyến qua
internet, các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học; giáo dục nhà
trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Đây là định hướng
quan trọng nhằm tận dụng những thành tựu của khoa học, cho phép sự kết nối
không giới hạn về thời gian, không gian giữa người dạy và người học. Trong
phòng, chống dịch COVID-19 vừa qua cho thấy, ngành Giáo dục đã chuyển
tương đối thành công sang dạy học trực tuyến. Thực tế đó khẳng định chúng ta
có thể đa dạng hóa các hình thức giáo dục phù hợp với xu thế thời đại, góp phần
tiết kiệm chi phí học tập và tạo điều kiện cho mọi người có thể học suốt đời.
Thứ hai, nâng cao chất lượng đào tạo nghề, ưu tiên đào tạo nguồn nhân
lực chất lượng cao
Trên tinh thần bảo đảm thống nhất với chủ trương đổi mới căn bản và toàn
diện giáo dục và đào tạo, Đại hội XIII có bước phát triển mới về phát triển
nguồn nhân lực. Đại hội XII mới đặt ra yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, và đặt ra phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0 và hội
nhập quốc tế. Nội dung tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao: “Đặc biệt, chú ý phát hiện, bồi dưỡng, đãi ngộ,
thu hút nhân tài cho phát triển kinh tế - xã hội. Nâng cao chất lượng, hiệu quả
dạy và học ngoại ngữ, coi trọng dạy, học và sử dụng tiếng Anh. Phấn đấu đến
năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực”.
Thực hiện định hướng đào tạo nghề nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực trong thời gian tới, cần thực hiện tốt hệ thống văn bản pháp luật về phát
triển nguồn nhân lực đã được ban hành. Hệ thống văn bản này đã tạo hành lang
pháp lý thuận lợi và tạo động lực cho việc thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực cả
về số lượng và chất lượng. Đồng thời, cần tiếp tục hoàn thiện chính sách và
pháp luật về đào tạo nghề. Để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao thành
công, cần có các chính sách hợp lý. Nhà nước cần có chiến lược lâu dài, tổng
thể nhằm xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao có cơ cấu, đủ năng lực, trình
độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức.

13
Thứ ba, đẩy mạnh quá trình nghiên cứu và phát triển khoa học, công
nghệ
Cùng với giáo dục, đào tạo, khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu, là
động lực phát triển kinh tế - xã hội. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
phải bằng và dựa vào khoa học, công nghệ. Đại hội XIII xác định: “Tiếp tục đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng của khoa học, công nghệ,
đổi mới sáng tạo và những thành tựu công nghệ của cách mạng công nghệ 4.0”.
Trong bối cảnh hiện nay, nước ta đang có nhiều thời cơ và thuận lợi để rút
ngắn quá trình phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Trong mỗi cuộc cách mạng công nghệ chỉ có một số ít các quốc gia tận
dụng thành công để rút ngắn và đuổi kịp trình độ phát triển của các nước đi
trước. Cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đang tạo ra lợi thế rất lớn cho những
nước đang phát triển vươn lên trở thành nước phát triển.
Với tầm chiến lược, Đại hội XIII nhiều lần nhấn mạnh, cần khơi dậy “khát
vọng phát triển đất nước” để đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự phát triển của khoa học hiện nay đã chứng
minh nhận định của Mác rằng: Khoa học sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp. Nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải là
nguồn nhân lực được đào tạo, nắm vững khoa học, kỹ thuật, đặc biệt nguồn
nhân lực chất lượng cao phải nắm bắt được những thành tựu tiên tiến của khoa
học, công nghệ. Đây là động lực để cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng
trưởng.
Xây dựng đất nước trở thành nước công nghiệp phát triển là ước mơ, khát
vọng của toàn Đảng, toàn dân ta. Thực hiện mục tiêu này, cần phải có nguồn
nhân lực đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thực hiện đồng
bộ các giải pháp trên là điều kiện phát triển nguồn nhân lực có số lượng đông
đảo, cơ cấu hợp lý, chất lượng cao, tạo động lực rút ngắn quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa hiện nay.

14
KẾT LUẬN
Từ những vấn đề nghiên cứu đặt ra ở trên, ta nhận ra được tính cấp thiết
của vấn đề xây dựng nguồn lực con người để phục vụ cho công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam. Để hoàn thành nhiệm vụ mang tính chất
quyết định ấy, cần có nhận thức đúng đắn, định hướng sáng suốt và rõ ràng
đồng thời chú trọng đầu tư cho phát triển nhân lực chất lượng cao, hướng tới sự
phát triển mạnh mẽ lâu dài của nền kinh tế nói chung. Hướng đi đó xuất phát từ
chính quan niệm đúng đắn của chủ nghĩa Mác – Lênin về con người, ta phát
triển nguồn lực con người không chỉ để phát triển sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá mà còn góp phần không nhỏ phát triển xã hội, hướng tới tạo nên
tương lai tốt đẹp cho đất nước, cho thế hệ mai sau.
Ngày nay với sự phát triển của khoa học công nghệ đạt những thành tựu
vượt bậc, Đảng ta cũng đã có những đổi mới rõ rệt, sự phát triển hàng hoá nhiều
thành phần theo cơ chế thị trường, sự phân hoá giàu nghèo sự phân tầng xã hội,
việc mở rộng dân chủ đối thoại trong sinh hoạt chính trị của đất nước, việc mở
cửa và phát triển giao lưu quốc tế về các mặt kinh tế, văn hoá và chính trị, trên
thế giới. Sự biến đổi nhanh chóng của tình hình chính trị quốc tế, sự phát triển
vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ… Điều đó đòi hỏi chúng ta
phải biết vận dụng chủ nghĩa Mác một cách khoa học, hợp lý và sáng tạo để đáp
ứng được những đòi hỏi của xã hội mới nếu muốn tồn tại và vươn lên một tầm
cao mới.
Hiện nay, phát triển bền vững được xác định là chiến lược ưu tiên hàng
đầu của Việt Nam mà nền tảng quan trọng nhất để thực hiện chiến lược phát
triển đó là nguồn lực con người. Lịch sử phát triển xã hội đã chứng minh rằng,
trong mọi giai đoạn, con người là yếu tố đóng vai trò quyết định sự phát triển
của xã hội. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định sự phát
triển của xã hội không phải do bất kỳ một lực lượng siêu nhiên nào, mà chính
con người đã sáng tạo nên lịch sử của mình - lịch sử xã hội loài người. Nhận
thức rõ nguồn lực con nguời là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất, quyết định
thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng Cộng sản
Việt Nam xác định một trong những nhiệm vụ trung tâm của chúng ta hiện nay
là “phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và
bền vững”.

15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, t20.
2. Giáo trình Triết học Mác – Lênin (Dùng cho bậc đại học hệ không
chuyên lý luận chính trị), PGS.TS Phạm Văn Đức – PGS.TS Trần Văn
Phòng và Hội đồng biên soạn.
3. TS. Đoàn Văn Khái, Bàn thêm về khái niệm nguồn lực con người, Tạp chí
Triết học số 6, 2000.
4. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/
2018/815949/phat-trien%2C-nang-cao-chat-luong-nguon-nhan-luc-trong-
boi-canh-cuoc-cach-mang-cong-nghiep-lan-thu-tu.aspx
5. https://tuyengiao.vn/dua-nghi-quyet-cua-dang-vao-cuoc-song/con-nguoi-
la-muc-tieu-va-dong-luc-trong-duong-loi-phat-trien-kinh-te-134202
6. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/
dai-hoi-dang/lan-thu-xiii/nghi-quyet-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-
xiii-cua-dang-3663

16

You might also like