You are on page 1of 10

TÌNH HUỐNG

Ngày 14/2/2010, trong khi thi hành nhiệm vụ, chiến sĩ cảnh sát giao thông
đã phát hiện Nguyễn Văn H, 17 tuổi điều khiển xe Dream vô ý đi vào đường
cấm.
Hỏi:
1. Hãy xác định các trường hợp H không phải chịu trách nhiệm
hành chính, nêu căn cứ pháp lý.
2. Trong trường hợp hành vi của H cấu thành vi phạm hành
chính.Hãy phân tích các dấu hiệu trong cấu thành vi phạm hành chính của
H và nêu các căn cứ pháp lý để truy cứu trách nhiệm hành chính đối với
H.
3. Chiến sỹ cảnh sát đã phát hiện vi phạm hành chính của H
phải thực hiện những công việc gì để xử lý hành vi vi phạm đó, nêu căn
cứ pháp lý?
4. Xác định người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt vi phạm
hành chính đối với H, nêu căn cứ pháp lý.
5. Trong trường hợp vi phạm của H không có tình tiết tăng
nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hành chính, thì người có thẩm
quyền cần xử lý vi phạm hành chính đối với H như thế nào, phải áp dụng
những biện pháp cưỡng chế hành chính nào đối với H, nêu căn cứ pháp
luật

0
NỘI DUNG
1. Hãy xác định các trường hợp H không phải chịu trách nhiệm hành
chính, nêu căn cứ pháp lý.
Khi tổ chức hay cá nhân thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, về nguyên
tắc nhà nước sẽ buộc họ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi nhất định. Đó
được gọi là trách nhiệm pháp lý.Tương ứng với mỗi loại vi phạm pháp luật là
một hình thức trách nhiệm pháp lý. Tuy nhiên trong một số trường hợp người vi
phạm không phải chịu trách nhiệm hành chính do một số nguyên nhân đặc biệt.
Nó được coi là một trong các nguyên tắc xử phạt hành chính.
Khoản 6, Điều 3 Pháp lệnh xử li vi phạm hành chính 2002 quy định về
nguyên tắc xử phạt hành chính như sau: “ Không xử lý vi phạm hành chính
trong các trường hợp thuộc tình thế cấp thiết, phòng vệ chính đáng, sự kiện bất
ngờ hoặc vi phạm hành chính trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh
khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình”.
Tại Điều 4 của Nghị định 128/2008/NĐ-CP ngày 16 tháng 12 năm 2008
quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi
phạm hành chính năm 2008 thì những trường hợp không xử lý vi phạm hành
chính theo khoản 6 Điều 3 của Pháp lệnh được quy định cụ thể như sau:
1. Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh một nguy cơ
đang thực tế đe dọa lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức, quyền, lợi ích
chính đáng của mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là phải
gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.
2. Phòng vệ chính đáng là hành vi của một người vì bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, của cơ quan, tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc
của người khác mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm
phạm các lợi ích nói trên.
3. Người thực hiện hành vi do sự kiện bất ngờ, tức là trong trường hợp
không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó.

1
4. Người thực hiện vi phạm hành chính trong khi đang mắc bệnh tâm thần
hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành
vi của mình.
Áp dụng vào tình huống trong bài thì Nguyễn Văn H ( 17 tuổi) không
phải chịu trách nhiệm hành chính khi lái xe Dream đi vào đường cấm bao gồm
các trường hợp sau:
Thứ nhất, trong trường hợp tình thế cấp thiết, ví dụ H đang chở người tai
nạn đi cấp cứu, để tiết kiệm thời gian đã đi tắt qua đường cấm. Trường hợp này
H vi phạm quy định về giao thông đường bộ để hạn chế hậu quả người bị tai nạn
chết xảy ra. Người tai nạn trong trường họp này là người đang trong tình huống
nguy hiểm tới tính mạng.
Thứ hai, trường hợp sự kiện bất ngờ, ví dụ H đang lưu thông trên đường
thì bị khất tầm nhìn do sương mù dày đặc hoặc gặp đám khói do người dân đốt
rạ ven đường nên không nhìn thấy đường và vô ý đi vào đường cấm. Trong
trường hợp này H không phải chịu trách nhiệm hành chính.
Thứ ba, trường hợp phòng vệ chính đáng, ví dụ H bị một kẻ giật túi xách
chạy vào đường cấm H lên xe máy phóng đuổi theo. Hành động này phải diễn ra
ngay sau khi tên cướp bỏ chạy thì mới tính là phòng vệ chính đáng.
Thư tư, trường hợp H mắc bệnh tâm thần hoặc hoặc mất khả năng nhận
thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì H phải được các bác sĩ kết
luận là mắc các bệnh tâm thần, hoặc không có khả năng nhận thức, không có
khả năng điều khiển hành vi.
Như vậy, H điều khiển xe Dream đi vào đường cấm khi thuộc một trong 4
trường hợp nêu trên thì H không bị truy cứu trách nhiệm hành chính.
2. Trong trường hợp hành vi của H cấu thành vi phạm hành chính. Hãy
phân tích các dấu hiệu trong cấu thành vi phạm hành chính của H và
nêu các căn cứ pháp lý để truy cứu trách nhiệm hành chính đối với H.
Để xác định một hành vi xảy ra có phải là vi phạm hành chính hay không,
cần xác định các dấu hiệu pháp lý của các yếu tố cấu thành loại vi phạm này.

2
Giống như bất kỳ loại vi phạm pháp luật nào, vi phạm hành chính được cấu
thành bởi 4 yếu tố bao gồm mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách
thể.
Trong tình huống trên, hành vi của H cấu thành 2 vi phạm hành chính có
chung chủ thể và khách thể của vi phạm. Cụ thể là:
Thứ nhất, H vi phạm quy định tại điểm a khoản 2 Điều 24 Nghị định
146/NĐ-CP ngày 14/9/2007 quy định về xử phạt các hành vi vi phạm quy định
về điều kiện của người điều khiển xe cơ giới: “Người nào từ đủ 16 tuổi đến dưới
18 tuổi điều khiển xe mô tô có dung tích xi lanh từ 50cm3 trở lên”
Phân tích
Mặt khách quan: Xe Dream là xe máy có dung tích xi lanh lớn, khoảng
93cm3 hoặc có thể lớn hơn nữa. H đã điều khiển xe có phân khối lớn hơn phân
khối mà pháp luật hành chính quy định cho phép người từ đủ 16 tuổi đến dưới
18 tuổi là 50 cm3. Hành vi này xâm phạm quy tắc quản lý trật tự an toàn giao
thông và đã bị pháp luật hành chính ngăn cấm
Mặt chủ quan: lỗi của H là lỗi cố ý. Mặc dù biết rằng hành vi của mình là
trái với quy định mà pháp luật quy định nhưng vẫn cố tình thực hiện
Chủ thể: Nguyễn Văn H 17 tuổi, là người không mắc các bệnh tâm thần
hoặc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành
vi và đủ độ tuổi do pháp luật quy định. Do vậy H là chủ thể của vi phạm hành
chính trong mọi trường hợp
Khách thể của vi phạm hành chính: là trật tự quản lý hành chính Nhà
nước được pháp luật hành chính quy định và bảo vệ, cụ thể là các quy tắc về an
toàn giao thông đường bộ.
Thứ hai, H vi phạm quy định tại điểm c, khoản 3 Điều 9 Nghị định
146/NĐ-CP quy định về xử phạt người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô, xe
gắn máy, xe máy điện, các loại xe tương tự mô tô và các loại xe tương tự xe gắn
máy (kể cả xe ba gác máy, xe lôi máy) vi phạm quy tắc giao thông đường bộ:

3
“Đi vào đường cấm, khu vực cấm; đi ngược chiều của đường một chiều, trừ
trường hợp xe ưu tiên đang đi làm nhiệm vụ khẩn cấp theo quy định”
Phân tích:
Mặt khách quan: Đường cấm là đường các phương tiện giao thông không
được di chuyển vào, trừ trường hợp xe ưu tiên đang đi làm nhiệm vụ khẩn cấp
theo quy định. Xe của H không phải là loại xe ưu tiên nên hành vi đi vào đường
cấm của H là vi phạm pháp luật theo quy định của Nghị định 146/NĐ-CP.
Mặt chủ quan: trong tình huống nêu rõ là H “vô ý đi vào đường cấm” nên
trong vi phạm này lỗi của H là lỗi vô ý. Tức là H có đủ khả năng nhận thức và
điều khiển hành vi của mình nhưng đã vô tình, thiếu thận trọng mà không nhận
thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội.
Như vậy hành vi của H đã cấu thành 2 vi phạm hành chính trong lĩnh vực
an toàn giao thông đường bộ được quy định tại nghị định 146/NĐ-CP nên H
phải bị truy cứu trách nhiệm pháp lý theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 24
“thì bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 40.000 đến 60.000 đồng” và điểm c,
khoản 3, Điều 9 “thì bị phạt tiền từ 100.000 đến 200.000 nghìn đồng” của Nghị
định.
3. Chiến sỹ cảnh sát đã phát hiện vi phạm hành chính của H phải thực
hiện những công việc gì để xử lý hành vi vi phạm đó, nêu căn cứ pháp
lý?
Thủ tục ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính được quy định cụ thể
trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002, sửa đổi bổ sung năm 2008.
Trong tình hống trên, H đã thực hiện hai hành vi vi phạm quy tắc an toàn
giao thông đường bộ với mức phạt là “cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 40.000 đến
60.000 đồng” với hành vi điều khiển xe mô tô có dung tích xi lanh từ 50 cm3 trở
lên khi chưa đủ tuổi theo luật định và “bị phạt tiền từ 100.000 đến 200.000
nghìn đồng” với hành vi đi vào đường cấm. Xét thấy các mức phạt của từng
hành vi thuộc trường hợp quy định tại Điều 54 Pháp lệnh được sửa đổi, bổ sung

4
năm 2008 ta thấy thủ tục để xử phạt vi phạm của H là thủ tục đơn giản. (1)
“Điều 54. Thủ tục đơn giản
Trong trường hợp xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 10.000 đồng đến
200.000 đồng thì người có thẩm quyền xử phạt quyết định xử phạt tại chỗ…”
Như vậy, chiến sĩ cảnh sát đã phát hiện vi phạm hành chính của H phải
làm những công việc sau để xử lý các vi phạm:
Thứ nhất, chiến sĩ cảnh sát phải đình chỉ ngay hành vi vi phạm của H theo
quy định tại Điều 53 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính quy định về đình chỉ
hành vi vi phạm hành chính: “Khi phát hiện vi phạm hành chính, người có thẩm
quyền xử lý phải ra lệnh đình chỉ ngay hành vi vi phạm hành chính”. Cụ thể là
chiến sĩ công an sẽ dùng còi, tín hiệu hoặc lời nói,…yêu cầu H dừng xe lại.
Thứ hai, vì thủ tục để xử phạt vi phạm của H là thủ tục đơn giản nên theo
quy định tại Điều 54 Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung năm 2008 chiến sĩ công an sẽ ra
quyết định xử phạt tại chỗ mà không cần phải lập biên bản về hành vi vi phạm
hành chính. Quyết định xử phạt phải thể hiện bằng văn bản theo mẫu quy định.
Trong đó có ghi rõ ngày, tháng, năm ra quyết định (cụ thể là ngày 14/02/2010);
họ tên đầy đủ của H; hành vi vi phạm; mức tiền phạt; họ, tên, chức vụ của chiến
sĩ công an ra quyết định; điều, khoản của văn bản được áp dụng. Quyết định này
sẽ được giao cho H một bản.
H có thể nộp tiền phạt tại chỗ cho chiến sĩ cảnh sát ra quyết định và được
nhận biên lai thu tiền phạt do Bộ Tài chính phát hành. Trong trường hợp không
nộp tiền phạt tại chỗ thì H sẽ nộp tiền phạt tại Kho bạc Nhà nước trong thời hạn
được quy định tại khoản 1 Điều 58 của Pháp lệnh.
4. Xác định người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt vi phạm hành
chính đối với H, nêu căn cứ pháp lý.
Khác với việc xét xử các hành vi phạm tội mà ở đó thẩm quyền thực hiện
công việc này được giao cho một cơ quan duy nhất là Tòa án thực hiện, việc xử

(1). Mẫu Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ (theo thủ tục đơn giản) –
Phụ lục

5
phạt vi phạm hành chính được giao cho nhiều cơ quan, cán bộ có thẩm quyền
khác nhau thực hiện.
Để đảm bảo cho việc thực hiện đúng thẩm quyền xử phạt, Điều 42 Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 quy định nguyên tắc xác định thẩm
quyền xử lý vi phạm hành chính.
Trong đó, tại khoản 2 quy định: “Thẩm quyền xử phạt của những người
được quy định tại các điều từ Điều 28 đến Điều 40 của Pháp lệnh này là thẩm
quyền áp dụng đối với một hành vi vi phạm hành chính. Trong trường hợp phạt
tiền, thẩm quyền xử phạt được xác định căn cứ vào mức tối đa của khung tiền
phạt quy định đối với từng hành vi vi phạm cụ thể”
Trong tình huống bài cho, hành vi của H cấu thành 2 vi phạm hành chính.
Thứ nhất là vi phạm quy định tại Điểm a khoản 2 Điều 24 Nghị định 146/NĐ-
CP quy định về xử phạt các hành vi vi phạm quy định về điều kiện của người
điều khiển xe cơ giới: “Người nào từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi điều khiển xe
moto có dung tích xi lanh từ 50cm3 trở lên” có khung tiền phạt tối đa là 60.000
đồng. Thứ hai là , H vi phạm quy định tại điểm c, khoản 3 Điều 9 quy định về
xử phạt người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy, xe máy điện,
các loại xe tương tự mô tô và các loại xe tương tự xe gắn máy (kể cả xe ba gác
máy, xe lôi máy) vi phạm quy tắc giao thông đường bộ: “Đi vào đường cấm, khu
vực cấm…” có khung tiền phạt tối đa là 200.000 nghìn đồng.
Dựa vào mức tối đa của khung tiền phạt quy định đối với từng hành vi cụ
thể đó ta có thể xác định thẩm quyền xử phạt từng hành vi này thuộc về chiến sĩ
công an nhân dân đang làm nhiệm vụ theo quy định tại khoản 1, Điều 31 Pháp
lệnh sửa đổi bổ sung năm 2008: “Chiến sĩ Công an nhân dân đang thi hành
công vụ có quyền:
a) Phạt cảnh cáo;
b) Phạt tiền đến 200.000 đồng”
Bên cạnh đó, khoản 3, Điều 42 Pháp lệnh quy định về thẩm quyền xử phạt
trong trường hợp xử phạt một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính

6
như sau: “a) Nếu hình thức, mức xử phạt được quy định đối với từng hành vi đều
thuộc thẩm quyền của người xử phạt, thì thẩm quyền xử phạt vẫn thuộc người
đó”
Do vậy, chiến sĩ công an nhân dân đang làm nhiệm vụ, cụ thể là chiến sĩ
cảnh sát giao thông phát hiện ra hành vi vi phạm của H có đầy đủ thẩm quyền ra
quyết định xử phạt vi phạm hành chính với H
5. Trong trường hợp vi phạm của H không có tình tiết tăng nặng và tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hành chính, thì người có thẩm quyền cần xử
lý vi phạm hành chính đối với H như thế nào, phải áp dụng những biện
pháp cưỡng chế hành chính nào đối với H, nêu căn cứ pháp luật
Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục
hậu quả được quy định tại Điều 12 Pháp lệnh xử phạt hành chính năm 2002.
Trong đó, đối với mỗi vi phạm hành chính, cá nhân, tổ chức vi phạm phải chịu
một trong các hình thức xử phạt chính là cảnh cáo hoặc phạt tiền. Tuỳ theo tính
chất, mức độ vi phạm, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính còn có thể bị áp
dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung
Do H 17 tuổi, là người chưa thành niên nên việc xử phạt hành chính đối
với H được áp dụng theo điều 7 và Điều 12 của Pháp lệnh này.
Điều 7. Xử lý người chưa thành niên vi phạm hành chính
1.….Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vi phạm hành chính thì có thể bị
áp dụng hình thức xử phạt vi phạm hành chính quy định tại Điều 12 của Pháp
lệnh này. Khi phạt tiền đối với họ thì mức tiền phạt không được quá một phần
hai mức phạt đối với người thành niên; trong trường hợp họ không có tiền nộp
phạt thì cha mẹ hoặc người giám hộ phải nộp thay
2. Người chưa thành niên có hành vi vi phạm pháp luật được quy định tại
khoản 2 Điều 23, khoản 2 Điều 24, điểm b khoản 2 Điều 26 của Pháp lệnh này
thì bị xử lý theo quy định tại các điều khoản đó.
H đã có hai hành vi vi phạm. Tương ứng với mỗi vi phạm là một biện
pháp cưỡng chế hành chính riêng. Cụ thể là:

7
Thứ nhất, Với vi phạm được quy định tại khoản 2, Điều 24 Nghị định
146/NĐ-CP: Đối chiếu giữa khoản 2, Điều 24 Nghị định và khoản 2, Điều 7
pháp lệnh ta thấy mức phạt của H vẫn giữ nguyên, cụ thể là bị “cảnh cáo hoặc
phạt tiền từ 40.000 đồng đến 60.000 đồng”. H chỉ bị phạt một trong hai hình
thức xử phạt chính, tức là nếu H bị áp dụng biện pháp cưỡng chế cảnh cáo thì
không áp dụng phạt tiền và ngược lại. Vi phạm này không có hình phạt bổ sung
và biện pháp khắc phục hậu quả
Thứ hai, Với vi phạm được quy định tại điểm c, khoản 3, Điều 9 Nghị
định 146/NĐ-CP: hình thức cưỡng chế trong hành vi vi phạm điều khoản này là
phạt tiền. Mức phạt là “từ 100.000 đến 200.000 nghìn đồng” nhưng do H chưa
thành niên nên áp dụng khoản 1, Điều 7 Pháp lệnh, mức tiền phạt đối với H
“không được quá một phần hai mức phạt đối với người thành niên”, cụ thể là
mức phạt tiền không quá từ 50.000 đến 100.000 nghìn đồng. Vi phạm này không
có hình phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả

8
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hành chính Việt
Nam, Nxb CAND, Hà Nội, 2008
2. Khoa luật, Đai học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật hành
chính Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội, 2005
3. Học viện hành chính quốc gia, Giáo trình luật hành chính và
tài phán hành chính, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2005
4. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002, sửa đổi bổ
sung năm 2008
5. Nghị định số 146/2007 NĐ-CP ngày 14/7/2007 quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ
6. Nghị định 128/2008/NĐ-CP ngày 16/12/2008 quy định chi
tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm
2002 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi
phạm hành chính năm 2008

You might also like