Professional Documents
Culture Documents
2018 1 2018m1 10h58m6 Nhom-17 - Thao Luan Va Trinh Bay Ve Lich Su, Van Hoa, The Che Chinh Tri Cua Malaysia
2018 1 2018m1 10h58m6 Nhom-17 - Thao Luan Va Trinh Bay Ve Lich Su, Van Hoa, The Che Chinh Tri Cua Malaysia
TÓM TẮT............................................................................................................................3
LỜI MỞ ĐẦU.....................................................................................................................5
1. Lý do chọn đề tài...........................................................................................................5
2. Mục đích, ý nghĩa của đề tài.........................................................................................5
3. Đối tương, phạm vi nghiên cứu của đề tài....................................................................5
4. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................................5
5. Kết cấu đề tài.................................................................................................................5
NỘI DUNG..........................................................................................................................6
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐẤT NƯỚC MALAYSIA.............................................6
I. Vị trí địa lý.....................................................................................................................6
II. Đặc điểm dân cư và xã hội...........................................................................................7
CHƯƠNG 2: SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ MALAYSIA........................................................8
I. Thời cổ đại.....................................................................................................................8
II. Các vương quốc đầu tiên..............................................................................................8
III. Vương quốc Mlaacca..................................................................................................9
IV. Johor và người Hà Lan..............................................................................................10
V. Chủ nghĩa thực dân Anh tại Malaysia........................................................................11
VI. Giai đoạn Chiến tranh thế giới II..............................................................................11
VII. Thời kỳ độc lập và thống nhất.................................................................................12
CHƯƠNG 3: THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ MALAYSIA........................................................13
I. Thể chế chính trị..........................................................................................................13
II. Phân chia địa phương, lãnh thổ và địa giới hành chính..............................................14
III. Đảng phái chính trị....................................................................................................14
IV. Tình hình chính trị....................................................................................................15
1
CHƯƠNG 4: MỘT SỐ NÉT VĂN HÓA TIÊU BIỂU CỦA MALAYSIA.....................16
I. Văn hóa đạo Hồi..........................................................................................................17
II. Văn hóa giao tiếp, ứng xử..........................................................................................17
III. Văn hóa ẩm thực.......................................................................................................18
IV. Một số lễ hội văn hóa đặc sắc của Malaysia.............................................................19
1. Lễ hội Thaipusam 19
2. Tết trung thu 19
3. Lễ hội Duanwu 19
4. Lễ hội Gawai 19
5. Lễ hội Diwali 20
KẾT LUẬN........................................................................................................................20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................21
2
TÓM TẮT
Malaysia là quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á với tổng diện tích là 332.952km 2,
bao gồm 13 bang được chia thành hai phần Tây Malaysia và Đông Malaysia. Malaysia có
nguồn gốc từ các vương quốc Mã Lai trong khu vực; từ thế kỷ XVIII, các vương quốc
này bắt đầu lệ thuộc vào Đế quốc Anh và giành được độc lập vào ngày 31/8/1957. Được
gọi bằng cái tên “châu Á thu nhỏ”, Malaysia là một quốc gia đa dân tộc, dân số hơn 28
triệu người với 30 dân tộc khác nhau. Sự hòa quyện của ba nền văn minh cổ xưa nhất
châu Á là Mã Lai, Trung Hoa và Ấn Độ với truyền thống bản địa của dân tộc Kadazan-
Dusun, Ibans và một số cộng đồng dân tộc thiểu số ở Sabah và Sarawak đã mang lại cho
đất nước hiền hòa này một nền văn hóa đa dạng, đặc sắc, xếp vào hàng độc đáo nhất thế
giới. Malaysia là một nước theo thể chế chính trị quân chủ lập hiến. Hiến pháp tuyên
bố Hồi giáo là quốc giáo trong khi bảo vệ quyền tự do tôn giáo. Hệ thống chính quyền của
Malaysia có mô hình gần với hệ thống nghị viện Westminster và hệ thống pháp luật dựa
trên thông luật. Nguyên thủ quốc gia là quốc vương, được gọi là Yang di-Pertuan Agong,
được chọn từ các quân chủ kế tập của chín bang Mã Lai theo chế độ quân chủ, thay đổi
sau mỗi 5 năm. Người đứng đầu chính phủ liên bang là thủ tướng.
3
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
"Malay" theo tiếng Mã Lai là "hoàng kim". Malaysia là một trong những đất nước thân
thiện và ổn định nhất Đông Nam Á; là một đất nước rất hẫp dẫn với sự kết hợp hài ḥòa
của nhiều dân tộc, văn hoá và tín ngưỡng. Nhiều thập kỷ tăng trưởng kinh tế bền vững và
ổn định chính trị đã khiến cho Malaysia trở thành một trong những nước năng động và
giàu có nhất trong khu vực. Do đó việc nghiên cứu về lịch sử, văn hóa, thể chế chính trị
của Malaysia sẽ giúp hiểu rõ hơn về quốc gia này nói riêng và khu vực Đông Nam Á nói
chung.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐẤT NƯỚC MALAYSIA
4
I. Vị trí địa lý
Malaysia là một quốc gia quân chủ lập hiến liên bang tại Đông Nam Á. Quốc gia bao
gồm 13 bang và 3 lãnh thổ liên bang, là quốc gia lớn thứ 67 trên thế giới về diện tích đất
liền với tổng diện tích khoảng 329.847 km2.
Malaysia có nguồn gốc từ các vương quốc Mã Lai hiện diện trong khu vực, và từ thế kỷ
XVIII, các vương quốc này bắt đầu lệ thuộc vào Đế quốc Anh. Các lãnh thổ đầu tiên của
Anh Quốc được gọi là các khu định cư eo biển. Các lãnh thổ tại Malaysia bán đảo được
hợp nhất thành Liên hiệp Malaya vào năm 1946. Malaya được tái cấu trúc thành Liên
bang Malaya vào năm 1948, và giành được độc lập vào ngày 31/ 8/1957. Malaya hợp nhất
với Bắc Borneo, Sarawwak và Singapore vào ngày 16/9/1963, với từ “si” được thêm vào
quốc hiệu mới là Malaysia. Đến năm 1965, Singapore bị trục xuất khỏi liên bang.
Malaysia bị tách làm hai phần qua biển Đông: Malaysia bán đảo và Borneo thuộc
Malaysia, tuy nhiên hai phần này có cảnh quan phần lớn là tương tự nhau với các đồng
bằng duyên hải rồi cao lên đồi và núi. Malaysia bán đảo chiếm 40% diện tích đất liền của
Malaysia, trải dài 740 km từ Bắc xuống Nam, và có chiều rộng tối đa là 322 km. Dãy
Titiwangsa phân chia bờ biển Đông và Tây tại Malaysia bán đảo, dãy núi này là một phần
của hàng loạt dãy núi chạy từ phần trung tâm của bán đảo. Các dãy núi này vẫn có rừng
bao phủ dày đặc, và có cấu tạo chủ yếu gồm đá hoa cương và các loại đá lửa khác. Nhiều
phần trong đó bị xói mòn, tạo thành cảnh quan của vùng đá vôi. Dãy núi là đầu nguồn của
một số hệ thống sông tại Malaysia bán đảo. Các đồng bằng duyên hải bao quanh bán đảo,
có chiều rộng tối đa là 50 km và bờ biển của phần bán đảo dài 1.931 km.
Tây Malaysia có biên giới trên bộ với Thái Lan, Đông Malaysia có biên giới trên bộ với
Indonesia và Brunei. Malaysia kết nối với Singapore thông qua một đường đắp cao hẹp và
5
một cầu. Malaysia có biên giới trên biển với Việt Nam và Philippines. Biên giới trên bộ
được xác định phần lớn dựa trên các đặc điểm địa chất, chẳng hạn như sông Perlis, sông
Golok và kênh Pagalayan. Brunei hầu như bị Malaysia bao quanh. Malaysia là quốc gia
duy nhất có lãnh thổ nằm cả trên lục địa châu Á và quần đảo Mã Lai. Malaysia có điểm
cực nam của đại lục Á-Âu là Tanjung Piai. Malaysia là một quốc gia nhiệt đới, là một
trong 17 quốc gia đa dạng sinh học siêu cấp trên Trái Đất, với nhiều loài đặc hữu.
Đông Malaysia nằm trên đảo Borneo, có bờ biển dài 2.607 km. Khu vực này bao gồm các
miền ven biển, đồi thung lũng, và nội lục đồi núi. Dãy Crocker trải dài về phía bắc từ
Sarawak, phân chia bang Sabah. Trên dãy này có núi Kinabalu với cao độ 4.095,2 m
(13.436 ft), là núi cao nhất Malaysia. Núi Kinabalu được bảo vệ trong khuôn khổ Vườn
quốc gia Kinabalu - một di sản thế giới của UNESCO. Các dãy núi cao nhất tạo thành
biên giới giữa Malaysia và Indonesia. quần thể hang Mulu tại Sarawak nằm trong số các
hệ thống hang lớn nhất trên thế giới.
II. Đặc điểm dân cư và xã hội
Được gọi bằng cái tên “Châu Á thu nhỏ”, Malaysia là một quốc gia đa dân tộc và đa văn
hóa với dân số hơn 28 triệu dân bao gồm người Malaysia, người Hoa, người Ấn và các
dân tộc khác sinh sống hòa hợp với nhau, đặc điểm này đóng một vai trò lớn trong chính
trị quốc gia. Nhiều người đến từ những quốc gia khác đã chọn Malaysia để học tập, làm
việc và kinh doanh. Bahasa Melayu là quốc ngữ tại đây nhưng tiếng Anh, tiếng Quan
Thoại và tiếng Tamil lại được sử dụng rộng rãi. Hồi giáo là quốc giáo của Malaysia,
nhưng hiến pháp thừa nhận sự tự do thờ bái và tín ngưỡng đối với tất cả các dân tộc.
Thiên Chúa giáo, Ấn Độ giáo và Phật giáo và những tôn giáo khác cũng được được người
dân sùng bái tự do.
Chính quyền Malaysia nhấn mạnh việc chia sẻ quyền lợi giữa những nhóm chủng tộc và
Chính phủ bảo đảm sự chung sống dung hòa giữa các dân tộc, khiến Malaysia được mọi
người biết đến như một quốc gia kiểu mẫu về hòa bình và ổn định. Hệ thống chính quyền
của Malaysia có mô hình gần với hệ thống nghị viện Westminster và hệ thống pháp luật
dựa trên thông luật. Nguyên thủ quốc gia là quốc vương, được gọi là Yang di-Pertuan
Agong. Người này là một quân chủ tuyển cử, được chọn từ các quân chủ kế tập của chín
bang Mã Lai theo chế độ quân chủ, thay đổi sau mỗi 5 năm, và người đứng đầu chính phủ
liên bang là thủ tướng.
6
CHƯƠNG 2: SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ MALAYSIA
I. Thời cổ đại
Bằng chứng sớm nhất về sự cư trú của người hiện đại tại Malaysia là sọ người 4.000 năm
tuổi khai quật từ hang Niah tại Borneo vào năm 1958. Bộ xương hoàn chỉnh cổ nhất phát
hiện được tại Malaysia là người Perak 11.000 năm tuổi khai quật vào năm 1991.
Các học giả đưa ra giả thuyết rằng người Senoi là hậu duệ của những dân cư nông nghiệp
nói tiếng Nam Á ban đầu, họ đem ngôn ngữ và kỹ thuật của mình đến phần phía nam của
bán đảo vào khoảng 4.000 năm trước.
Những người Mã Lai nguyên thủy có nguồn gốc đa dạng hơn và đã định cư tại Malaysia
vào khoảng 1000 TCN. Mặc dù họ thể hiện một số liên kết với những dân cư khác tại
Đông Nam Á hàng hải, song một số cũng có tổ tiên tại Đông Dương vào khoảng kỳ băng
hà cực độ cuối khoảng 20.000 năm trước. Khoảng 300 TCN, họ bị người Mã Lai thứ đẩy
và nội lục, người Mã Lai thứ là một dân tộc thời đại đồ sắt hoặc đồ đồng và có nguồn gốc
một phần từ người Chăm.
7
quốc Srivijaya theo Phật giáo. Địa điểm trung tâm của Srivijaya được cho là tại một cửa
sông tại miền đông đảo Sumatra, đặt cơ sở gần Palembang hiện nay. Trong hơn sáu thế
kỷ, các Maharajah của Srivijaya cai trị một đế quốc hàng hải là đại cường quốc trong khu
vực. Đế quốc dựa vào mậu dịch, với các vương tại địa phương (dhatu hay thủ lĩnh cộng
đồng) tuyên thệ trung thành với quân chủ trung ương nhằm cùng hưởng lợi.
8
với dự đoán đủ để chống đỡ các cuộc phản công từ Sultan Mahmud. Một pháo đài được
thiết kế và xây dựng bao gồm một ngọn đồi, dọc theo mép bờ biển, ở phía đông nam của
cửa sông, trên nền cũ mà trước đây là cung điện của nhà vua. Albuquerque vẫn ở Malacca
cho đến tháng 11 năm 1511 và chuẩn bị phòng thủ chống lại bất kỳ phản kháng nào của
người Malay. Sultan Mahmud Shah đã buộc phải chạy trốn khỏi Malacca.
9
Vào năm 1824, Anh và Hà Lan kí kết Hiệp ước Anh- Hà Lan. Thông qua Hiệp ước,
Malacca được chuyển giao hợp pháp cho chính quyền Anh. Hiệp ước đồng thời phân chia
Malaysia thành hai thực thể riêng biệt cũng như đặt nền móng cho ranh giới Malaysia và
Indonesia ngày nay.
Vào cuối thế kỷ XIX, Anh giành quyền kiểm soát bờ biển phía bắc Borneo, tại đây quyền
cai trị của người Hà Lan chưa từng được thiết lập. Phát triển trên bán đảo Mã Lai và
Borneo về đại thể là tách biệt cho đến thế kỷ XIX. Phần phía Đông của khu vực này (nay
là Sabah) nằm dưới quyền kiểm soát danh nghĩa của Quốc vương Sulu, một chư hầu của
Philippines thuộc Tây Ban Nha. Phần còn lại là lãnh thổ của Vương quốc Brunei. Năm
1841, nhà phiêu lưu người Anh James Brooke giúp Sultan của Brunei trấn áp một cuộc
phản loạn, và đổi lại được nhận tước hiệu raja và quyển quản lý huyện sông Sarawak. Các
"Rajah da trắng" bắt đầu cai trị Sarawak như một quốc gia độc lập được công nhận.
Năm 1881, Công ty Bắc Borneo thuộc Anh được trao quyền kiểm soát lãnh thổ Bắc
Borneo thuộc Anh, bổ nhiệm một thống đốc và cơ quan lập pháp, được cai trị từ văn
phòng tại Luân Đôn. Tình trạng của nó là tương tự như một lãnh thổ bảo hộ của Anh, và
nó khuếch trương lãnh thổ vào Brunei giống như Sarawak. Năm 1888, phần còn lại của
Brunei trở thành một lãnh thổ bảo hộ của Anh, và đến năm 1891 một hiệp định Anh-Hà
Lan chính thức thiết lập biên giới giữa hai phần Borneo thuộc Anh và Hà Lan.
Đến năm 1910, mô hình cai trị của Anh tại các lãnh thổ Mã Lai được thiết lập. Các khu
định cư Eo biển là một thuộc địa vương thất, cai trị bởi một thống đốc dưới quyền giám
sát của Bộ Thuộc địa tại Luân Đôn. Dân cư tại đó có một nửa là người Hoa, song toàn bộ
dân cư bất kể chủng tộc đều là thần dân của Anh. Bốn quốc gia đầu tiên chấp thuận thống
sứ người Anh là Perak, Selangor, Negeri Sembilan, và Pahang độc lập về phương diện
pháp lý, song thực tế là thuộc địa của Anh. Johor, Kedah, Kelantan, Perlis, và Terenggan
có mức độ độc lập cao hơn. Johor là đồng minh mật thiết nhất của Anh trong các sự vụ
Mã Lai, có đặc quyền về một hiến pháp thành văn, theo dó trao cho Sultan quyền bổ
nhiệm nội các của mình.
10
độc lập ngày càng tăng. Những kế hoạch hậu chiến của Anh nhằm thống nhất quản lý
hành chính Malaya dưới một thuộc địa duy nhất được gọi là Liên minh Malaya hình thành
trong sự phản mạnh mẽ của người Malaya. Họ phản đối sự nhu nhược của tầng lớp cai trị
và việc trao quyền công dân cho những người Trung Quốc. Liên minh Malaya được thành
lập năm 1946, gồm tất cả các vùng thuộc quyền quản lý của Anh tại Malaya ngoại trừ
Singapore, đã giải tán năm 1948 và bị thay thế bởi Liên bang Malaya. Trong thời gian
này, những người nổi dậy dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Malaya đã mở các cuộc
tấn công du lích nhằm đẩy lực lượng Anh khỏi Malaya. Tình trạng khẩn cấp Malaya kéo
dài từ năm 1948-1960, và liên quan tới chiến dịch chống nổi dậy kéo dài của quân đội
khối thịnh vượng chung Anh ở Malaya. Vào ngày 31 tháng 8 năm 1975, nền độc lập cho
liên minh trong khối thịnh vượng chung đã được trao trả.
11
CHƯƠNG 3: THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ MALAYSIA
I. Thể chế chính trị
Malaysia là một quốc gia quân chủ tuyển cử lập hiến liên bang. Hệ thống chính phủ theo
mô hình gần với hệ thống nghị viện Westminster, một di sản của chế độ thuộc địa Anh.
Tuy nhiên, trên thực tế quyền lực được trao nhiều hơn cho nhánh hành pháp chứ không
phải lập pháp, và tư pháp đã bị suy yếu sau những mưu toan của chính phủ thời thủ tướng
Mahathir. Từ khi độc lập năm 1957, Malaysia đã nằm dưới sự điều hành của một liên
minh đa đảng, được gọi là Barisan Nasional ( trước kia gọi là Liên minh).
Nguyên thủ quốc gia là Yang di-Pertuan Agong, thường được gọi là Quốc vương. Quốc
vương được bầu theo mỗi nhiệm kỳ 5 năm từ chín quân chủ kế tập của các bang Malay;
bốn bang còn lại có nguyên thủ trên danh nghĩa song không tham gia vào việc tuyển lựa.
Theo thỏa thuận không chính thức, vị trí Quốc vương sẽ do quân chủ chín bang luân
phiên nắm giữ.Vai trò của Quốc vương phần lớn mang tính lễ nghi kể từ sau các thay đổi
trong hiến pháp vào năm 1994.
Quyền lập pháp được phân chia giữa các cơ quan lập pháp liên bang và bang. Nghị viện
liên bang của Malaysia bao gồm hạ viện- viện đại biểu hay Dewan Rakyat (“Viện Nhân
dân”) và thượng viện- Senate hay Dewan Negara (“Viện Quốc gia”). Hạ viện gồm có 222
thành viên, được bầu với nhiệm kỳ tối đa là 5 năm từ các khu vực bầu cử một ghế. Toàn
bộ 70 thượng nghị sĩ có nhiệm kỳ 3 năm; 26 người được 13 quốc hội bang tuyển chọn, 44
người được Quốc vương bổ nhiệm theo tiến cử của Thủ tướng.
Mỗi bang có một quốc hội đơn viện, các nghị viên được bầu từ các đơn vị bầu cử một
ghế. Người đứng đầu các chính phủ bang là các thủ hiến (Chief Minister), họ là những
thành viên quốc hội và đến từ đảng chiếm đa số trong quốc hội. Tại các bang có quân chủ
kế tập, thủ hiến theo thường lệ cần phải là người Malay, do quân chủ bổ nhiệm theo tiến
cử của thủ tướng. Các cuộc bầu cử nghị viện được tổ chức 5 năm một lần. Các cử tri đăng
ký 21 tuổi hoặc lớn hơn có thể bỏ phiếu để bầu các thành viên của Hạ viện, và bầu các
thành viên quốc hội bang ở hầu hết các bang. Bầu cử không bắt buộc. Ngoại trừ Sarawak,
cuộc bầu cử cấp bang tại các khu vực còn lại diễn ra đồng thời với bầu cử liên bang.
Quyền hành pháp được trao cho Nội các do thủ tướng lãnh đạo. Hiến pháp Malaysia quy
định Thủ tướng phải là thành viên của hạ viện, được Quốc vương chuẩn thuận, nhận được
đa số ủng hộ tại nghị viện. Nội các được lựa chọn từ lưỡng viện quốc hội liên bang và
chịu trách nhiệm trước viện của mình. Thủ tướng là người đứng đầu nội các và cũng là
người đứng đầu chính phủ.
12
Các chính phủ bang do các Thủ hiến lãnh đạo (Menteri Besar tại các bang Malay hay
Ketua Menteri tại các bang không do lãnh đạo do thừa kế cầm quyền). Quốc hội bang
(Dewan Undangan Negeri) lựa chọn người lãnh đạo này có tham khảo ý kiến các quốc
vương Hồi giáo hay các Thống đốc.
Hệ thống pháp luật Malaysia dựa trên thông luật Anh. Mặc dù cơ quan tư pháp độc lập về
lý thuyết, song sự độc lập bị đặt dấu hỏi và việc bổ nhiệm các thẩm phán thiếu trách
nhiệm giải trình và tính minh bạch. Tòa án tối cao trong hệ thống tư pháp là Tòa án Liên
bang, sau đó là Tòa thượng tố và hai Tòa cao đẳng, một cho Malaysia bán đảo và một cho
Đông Malaysia. Malaysia cũng có một tòa án đặc biệt để xét xử các vụ án do Quốc vương
đưa ra hoặc chống lại Quốc vương. Các tòa án Syariah tách biệt với các tòa án dân sự, các
tòa này áp dụng luật Sharia trong các vụ án liên quan đến người Hồi giáo và vận hành
song song với hệ thống tòa án thế tục. Đạo luật An ninh Nội địa cho phép giam giữ không
cần xét xử, và án tử hình được áp dụng cho các tội như buôn bán ma túy.
II. Phân chia địa phương, lãnh thổ và địa giới hành chính
Lãnh thổ Malaysia được chia thành 13 bang và 3 lãnh thổ Liên bang. Mỗi bang tương
đương với cấp tỉnh, dưới bang là cấp quận (huyện), dưới quận (huyện) là cấp xã (thôn).
Hiện nay ở Malaysia có 116 quận (huyện).
- Phía Tây gồm 11 bang và hai Lãnh thổ Liên bang gọi là bán đảo Malaysia, phía Bắc
giáp với Thái Lan, phía Nam giáp Singapore và eo biển Malacca.
- Phía Đông, còn gọi là Borneo có hai bang là Sabah và Sarawak và một lãnh thổ liên
bang giáp với Indonesia và Brunei.
- Ba lãnh thổ liên bang là ba khu vực hành chính đặc biệt, bao gồm Thủ đô Kuala lumpur,
Labuan và Putrajaya. Các khu vực này thuộc chỉ đạo trực tiếp của Liên bang.
13
-Hội người Malay gốc Ấn ( MIC) là Đảng lớn thứ ba, đại diện cho cộng đồng người Ấn ở
Malaysia.
Các Đảng đối lập hợp pháp: Có hơn 20 đảng, phần lớn là các đảng nhỏ. Tại cuộc tuyển cử
ngày 9/ 3/ 2008, phe đối lập đã giành thắng lợi lớn, cụ thể:
-Đảng Công lý Quốc gia ( Keadilan) do vợ của cựu Phó Thủ tướng Anwar Ibrahim thành
lập tháng 4 năm 1999 nhằm đấu tranh đòi tự do cho Anwar.
-Đảng Dân chủ Hành động ( DAP), phần lớn đảng viên là người Hoa, có quan hệ với
Đảng Nhân dân Hành động của Singapore. Đây là đảng đối lập lớn thứ hai.
-Đảng Hồi giáo Malaysia (PAS) ly khai khỏi UMNO năm 1951, gồm những người Malay
theo Hồi giáo cực đoan. Trước bầu cử tháng 3/2008, PAS từng là đảng đối lập lớn nhất.
14
Trong những năm gần đây: Có thể gia tăng xung đột. Trong khi những mâu thuẫn về dân
tộc và tôn giáo vẫn còn tồn tại. Trong 2015, cuộc biểu tình áo đỏ nhằm bảo vệ và thúc đẩy
Maruah Melayu ( phẩm giá của người Malay) cũng như việc nhấn mạnh về “mưu đồ” của
người gốc Hoa của một số nhà lãnh đạo cuộc biểu tình “áo đỏ” lần này có thể gây chia rẽ
đất nước. Dù có gây căng thẳng cho việc phân biệt chủng tộc hay không, cuộc biểu tình
“áo đỏ” lần này có thể là một động thái nguy hiểm khi một số nhóm chính trị sử dụng nó
để gia tăng sự chia rẽ chính trị và gây bất ổn xã hội.
Chính trị hóa sắc tộc và tôn giáo nhiều khả năng sẽ là nguyên nhân gây chia rẽ chủ yếu
trong nền chính trị của Malaysia. Ở Malaysia, đảng cầm quyền lợi dụng vấn đề sắc tộc và
tôn giáo để giữ quyền lực trong tổng tuyển cử năm 2017. Trong suốt đại hội thường niên,
đảng cầm quyền ở Malaysia, Tổ chức Dân tộc Mã Lai Thống nhất (UMNO) coi việc bảo
vệ quyền của người Mã Lai và người Hồi giáo là ưu tiên. Thủ tướng Nazib Jarak, cũng là
Chủ tịch UMNO, đã cảnh báo các đại biểu rằng nếu UMNO thua trong cuộc tổng tuyển
cử sắp tới thì đất nước này sẽ bị thống trị bởi đảng thế tục Hành động Dân chủ (DAP), đa
số là người gốc Hoa và do đó, người Hồi giáo sẽ mất vị trí đặc biệt ở đất nước này.
Malaysia là một trong những đất nước có nền văn hóa đa dạng và độc đáo nhất trên thế
giới. Văn hóa Malaysia chịu ảnh hưởng nhiều của phương Tây sau cuộc chiến tranh thế
giới thứ II nhưng cũng đậm đà những nét văn hóa phương Đông thuần túy do ảnh hưởng
của các nước láng giềng như Trung Quốc, Ấn Độ… Malaysia cũng là đất nước có lượng
người theo đạo Hồi rất đông nên chịu ảnh hưởng rất lớn trong cách ăn mặc, giao tiếp ứng
xử bên cạnh những điều cấm kị của người Hồi giáo phải tuân theo. Trong văn hóa ẩm
thực của người Malaysia có sự giao thoa với ẩm thực Ấn Độ, Trung Quốc, cách chế biến
cũng mang hương vị ẩm thực đặc trưng của các nước này.Các lễ hội của người dân nơi
đây đa số đều mang hơi hướng của đất nước Ấn, ngày Tết trung thu có nét tương đồng với
văn hóa Trung Quốc, các nước khu vực châu Á… Tất cả những luồng văn hóa Đông Tây
thổi vào đất nước hiền hòa này kết hợp với những nét đẹp của văn hóa bản địa truyền
thống đã tạo nên một bản nhạc văn hóa đa âm điệu, một bức tranh với nhiều gam màu.
15
giềng Ấn Độ đã chiếm được tình yêu và sự tín ngưỡng hơn cả với trên 60% dân số và là
quốc giáo của Malaysia hiện nay. Ở Malaysia, Đạo hồi chiếm một vị trí rất quan trọng và
có thể chi phối cũng như tham gia vào mọi mặt của đời sống từ kinh tế, chính trị, giáo dục
và có riêng Bộ luật Hồi giáo, Tòa án Hồi giáo và một số cơ quan quan trọng khác. Điều
này cũng ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa ứng xử cũng như cách ăn mặc của người dân nơi
đây. Người Malaysia thường mặc áo dài bằng vải hoa, nam giới mặc áo sơ mi không cổ
và không được để hở cánh tay, đùi ở những nơi công cộng. Phụ nữ thường mặc áo dài tay,
che đầu bằng một cái khăn choàng gọi là “tudung”, người Hồi Giáo, đặc biệt là phụ nữ ăn
mặc rất kín đáo và giản dị.
16
ấy. Malaysia là nơi giao thoa của nhiều nền ẩm thực hàng đầu trên thế giới; mỗi dân
tộc,mỗi tôn giáo mang đến cho nền nghệ thuật ẩm thực Malaysia một hương vị một sắc
màu riêng để từ đó hòa quyện vào nhau tạo nên những món ăn truyền thống vô cùng đặc
biệt, đa dạng cả về màu sắc, hương vị lẫn cách chế biến. Trong các món ăn có thể tìm
thấy vị cay nồng của ẩm thực Ấn Độ, vị béo và hơi ngọt của ẩm thực Trung Hoa… kết
hợp với hương vị của người Malay bản địa cùng một chút gia vị của phương Tây đã tạo
nên những món ăn cực kỳ đặc biệt vừa quen vừa lạ với tất cả mọi nền ẩm thực.
Là quốc gia với hơn 60% dân số theo đạo Hồi, vì thế văn hóa chung tại đây chịu ảnh
hưởng rất nhiều từ Hồi giáo. Đa số người Malaysia không uống rượu và không ăn thịt
heo, thịt chó. Họ chỉ ăn những thức ăn được nấu nướng theo nguyên tắc của đạo Hồi và
những món ăn gọi chung là Halal, nhưng không phải vì vậy mà món ăn ở Malaysia kém
phần phong phú. Những món ăn ở đây chủ yếu được chế biến từ các loại thịt bò, dê, cá…
và một nét đặc trưng nhất trong văn hóa ẩm thực Malaysia đó là chỉ sử dụng những
nguyên liệu còn tươi sống vì vậy vấn đề ngộ độc thực phẩm ở nơi đây rất ít. Nhà hàng,
quán ăn ở đây thì nhiều vô kể, từ nhà hàng cao cấp cho du khách nhiều tiền đến những
nhà hàng, quán ăn cho những du khách ít tiền hơn và đặc biệt có những dãy quán ăn vỉa
phục vụ đủ mọi món ăn cho những khách bình dân. Đó là một trong những lý do giải
thích vì sao Malaysia được mệnh danh là “Thiên đường ẩm thực Châu Á”.
Vào tháng Ramadan người Malaysia sẽ nhịn ăn. Tháng Ramadan thay đổi hàng năm tuỳ
theo tuần trăng. Trong tháng này, tất cả sẽ nhịn ăn từ lúc mặt trời mọc đến lúc mặt trời
lặn. Và kết thúc tháng nhịn ăn sẽ tổ chức một lễ hội lớn. Người Mã Lai rất thích ăn các
loại bánh làm từ bột gạo, khoai, sắn và họ thường làm nhiều loại bánh để ăn, đặc biệt là
trong các dịp lễ tết. Họ không ăn mỡ động vật mà hầu như chỉ dùng dầu thực vật, chủ yếu
là dầu cọ và dầu dừa.
Khi ăn uống không dùng tay trái vì phong tục người Malaysia chỉ dùng tay phải để ăn
uống. Nhiều người Malaysia và Ấn Độ thích ăn bằng tay vì thế việc đựng thức ăn trong
lòng bàn tay và việc người ta sản xuất rất nhiều các loại hóa chất để rửa tay trước và sau
khi ăn không có gì là lạ ở đất nước này.
17
Đây là một lễ diễu hành hàng năm của những người Hindu mộ đạo để cầu nguyện, thực
thi lời nguyện và tạ ơn. Lễ hội được tổ chức vào ngày rằm trong tháng thứ 10 theo lịch
Tamil, tức vào giữa tháng 1 Dương Lịch mỗi năm. Ngày nay, lễ hội này được tổ chức ở
một số quốc gia, nhưng lớn nhất vẫn là lễ hội ở Malaysia và Singapore, nơi có cộng đồng
Taimil người theo đạo Hindu lớn nhất.
Người Hindu tin rằng họ sẽ được gột rửa mọi tội lỗi bằng cách thực hiện các nghi thức tôn
giáo nghiêm khắc và cầu nguyện trong lễ hội Thaipusam. Vào ngày này các tín đồ đi chân
trần mang theo những đồ trang sức nặng trĩu treo trên người bằng móc sắc nhọn được gọi
là kavadi trong khi một số người khác tự xuyên qua lưỡi, má và lưng.
2. Tết trung thu
Tết Trung thu ở Malaysia được đánh dấu bằng Lễ hội lồng đèn và Lễ hội bánh trung thu
bắt đầu từ ngày 19/09. Lễ hội này đánh dấu sự kết thúc của mùa thu hoạch và trở thành
biểu tượng cho nền hòa bình và sự thịnh vượng chung của nền văn hóa Malaysia. Tại đây
có thể thỏa thích chiêm ngưỡng những ánh đèn lồng đầy màu sắc trên khắp các con đường
và thưởng thức những hương vị bánh trung thu độc đáo và đa dạng trong suốt thời gian
này. Lễ hội chính sẽ diễn ra vào đêm 19/09 tại Central Market (Kuala Lumpur).
3. Lễ hội Duanwu
Được gọi là Lễ hội Thuyền Rồng ở Malaysia, đây là một sự kiện thường được tổ chức vào
ngày thứ năm của tháng thứ năm âm lịch của Trung Quốc. Mặc dù lễ hội này mang nhiều
ý nghĩa hơn ở Trung Quốc và thường được tổ chức bởi cộng đồng Trung Hoa ở Malaysia.
Trong dịp lễ này các gia đình Trung Quốc sẽ chuẩn bị Zhong zi – một loại bánh bao làm
bằng gạo nếp với các loại nhân khác nhau và gói bằng là tre hoặc lá sen để thưởng thức
trong dịp lễ.
4. Lễ hội Gawai
Lễ hội là dịp cho gười Iban và người Bidayuh ở Sarawak kỷ niệm cuối mùa thu hoạch nên
còn được gọi là lễ hội thu hoạch. Người dân sẽ tổ chức nhiều cuộc vui múa hát và uống
rượu tuak, điệu múa đặc biệt của lễ hội Gawai là múa Ngajat Lesong. Trong điệu múa
này, một vũ công sẽ chứng tỏ sức mạnh và kỹ xảo của mình bằng cách nâng chiếc cối giã
gạo bằng hàm răng của mình.
5. Lễ hội Diwali
Lễ hội Diwali hay còn được gọi là lễ hội ánh sáng Deepavali – the Festival of Lights được
tổ chức vào ngày 4/11 hàng năm, kéo dài trong năm ngày. Đây là một lễ hội tôn giáo và
18
văn hóa quan trọng của người Ấn Độ, một cộng đồng khá đông ở Malaysia. Lễ hội này
gần giống như ngày Tết ở Ấn Độ, mọi người sẽ trang trí nhà cửa, nấu những món ăn
truyền thống, ăn mặc quần áo mới. Đây là dịp mà mọi người trong gia đình có thể sum
họp, vui vầy bên nhau và cùng nhau thắp đèn kuthuvilakku - một loại đèn dầu truyền
thống của người Ấn Độ để đón nhận lời chúc phúc của Lakshmi- nữ thần thịnh vượng.
KẾT LUẬN
Đất nước Malaysia với một xã hội đa sắc tộc, đa ngôn ngữ và đa văn hóa…Mỗi dân tộc
một tiếng nói và một nền văn hóa khác nhau nhưng khi gặp nhau trên mảnh “đất lành
chim đậu” này nó đã hòa quyện và thăng hoa tạo nên một nền văn hóa chung độc nhất vô
nhị gọi là “văn hóa Malaysia”. Là quốc gia nằm ở vị trí trung tâm và nhạy cảm nhất của
khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, là thành viên quan trọng của ASEAN, Malaysia
đang ngày càng chứng tỏ được vị thế cũng như những tiềm năng của mình ở mọi mặt từ
kinh tế, văn hóa, chính trị.
19
1. https://vi.wikipedia.org/wiki/Malaysia
2. http://khamphaviet.vn/dia-danh/malaysia/gioi-thieu-dat-nuoc-con-nguoi-malaysia
3. http://vietnamexport.com/nuoc-lanh-tho/117/tong-quan.html
4. World and Its Peoples: Eastern and Southern Asia, Tập 9, Marshall Cavendish, 2007
5. The World Factbook:
https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/my.html
6. Simon Richmond, Malaysia, Singapore and Brunei, Lonely Planet, 2010
2. Trần Thị Ánh Trâm 0905161320 - Số 44, đường Lê Thị Tính, thành phố Đà Nẵng
3. Trương Thị Thùy Trâm- 0905538635 - K120/ 8, Điện Biên Phủ, Đà Nẵng
4. Lâm Khánh Trân 01225592012 - Số 175 đường Phan Châu Trinh, phường Phước
Ninh, quận Hải Châu, Đà Nẵng
6. Phạm Thị Châu Trân 01262843110- K311/ 27 Trường Chinh, P.An Khê, Q.Thanh
Khê, Tp.Đà Nẵng
7. Phan Trần Huyền Trân 0969833282 - Phan Anh, Cẩm Lệ, Đà Nẵng
8. Bùi Thống Hải Triều 0905347477 - Số 73, đường Kì Đồng, thành phố Đà
20