You are on page 1of 3

(LSVN) - Bên cạnh những mặt tích cực, một số quy định của Luật Luật sư cũng như

thực tiễn thi


hành, áp dụng đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập so với yêu cầu phát triển của đội ngũ Luật sư, có
ảnh hưởng đến chất lượng Luật sư, cần được nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung và có giải pháp hoàn
thiện.

1. Thực trạng phát triển đội ngũ Luật sư

Luật Luật sư năm 2006 đã được thi hành qua 16 năm, với một lần sửa đổi, bổ
sung vào năm 2012. Trong cùng giai đoạn thi hành Luật Luật sư, Chiến lược
phát triển nghề luật sư đến năm 2020 (“Chiến lược”) và Đề án “Phát triển đội ngũ
Luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế từ năm 2010 đến năm 2020” (“Đề án
123”) của Thủ tướng Chính phủ đã được triển khai thực hiện.
Quá trình phát triển đội ngũ Luật sư Việt Nam chủ yếu được chia làm 2 giai
đoạn: Trước và sau khi có Pháp lệnh Luật sư năm 2001 đến nay.

Tiếp nối đà tăng trưởng kể từ sau khi có Pháp lệnh Luật sư năm 2001, kể từ khi
có Luật Luật sư năm 2006, số lượng Luật sư cả nước đã tăng gấp 6 lần: Từ
khoảng 3.000 Luật sư tăng lên gần 18.000 Luật sư [2], hành nghề tại hơn 5.000
tổ chức hành nghề luật sư (TCHNLS) và khoảng gần 1.000 Luật sư đăng hành
nghề với tư cách cá nhân trên phạm vi cả nước.

Số lượng Luật sư hiện nay cơ bản đã đạt được mục tiêu Chiến lược đề ra: Đến
năm 2020 đạt từ 18.000 đến 20.000 Luật sư, mỗi năm phát triển 800 - 1.000 Luật
sư. Số lượng Luật sư hành nghề chuyên sâu trong lĩnh vực thương mại, đầu tư,
phục vụ yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế cũng cơ bản đạt mục tiêu của Đề án
123 (có khoảng 1.000 Luật sư, chuyên gia pháp luật) [3].

Cùng với việc gia tăng nhanh chóng về số lượng, theo đánh giá trong các Báo
cáo Tổng kết 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển nghề luật sư của Bộ Tư
pháp, của Liên đoàn Luật sư Việt Nam, chất lượng dịch vụ pháp lý đã được nâng
cao.

Đánh giá thực trạng phát triển nghề luật sư ở Việt Nam khi so sánh với các nước
phát triển, có một đặc điểm thường được nêu đó là tỷ lệ số Luật sư trên số dân
còn thấp. Với 18.000 Luật sư trên dân số 101,7 triệu người, tỷ lệ số Luật sư trên
số dân ở Việt Nam là 1/5.675. Trong khi đó, Nhật Bản có 44.691 Luật sư, đạt tỷ lệ
1/2.768 dân, gấp 2 lần Việt Nam, Hàn quốc có 32.750 Luật sư, đạt tỷ lệ 1/1.588,
gấp 3,6 lần Việt Nam. Trong khi đó GDP bình quân đầu người của Việt Nam là
4.316 USD, còn của Nhật Bản là 33.950 USD, gấp 7,9 lần Việt Nam), Hàn quốc là
33.147 USD, gấp 7,7 lần Việt Nam. Sự phát triển số lượng Luật sư còn phụ thuộc
vào nhu cầu dịch vụ pháp lý, mà nhu cầu thì phải gắn liền với quy mô nền kinh
tế. Như vậy, số lượng luật sư ở Việt Nam hiện nay không phải là ít nếu căn cứ
vào tình hình phát triển kinh tế của đất nước. Hơn nữa, ngay cả khi số lượng
Luật sư có tăng, cũng không thể bảo đảm nhu cầu về dịch vụ pháp lý của xã hội
sẽ được đáp ứng thích đáng, nếu vấn đề chất lượng không được coi trọng.
Ngược lại, chính sự gia tăng nhanh về số lượng Luật sư đang tạo ra thách thức
về chất lượng dịch vụ pháp lý.
Tuy có sự gia tăng về số lượng nhưng chất lượng phát triển của đội ngũ Luật sư
còn một số điểm hạn chế đáng lưu ý sau đây:

- Luật sư phân bố không đồng đều: Chủ yếu tập trung tại Hà Nội, Thành phố Hồ
Chí Minh (chiếm trên 2/3 số lượng Luật sư cả nước) và các tỉnh, thành có tốc độ
đô thị hóa, công nghiệp hóa cao. Ở các địa phương miền núi, địa phương có khó
khăn về điều kiện kinh tế - xã hội có rất ít Luật sư, hiện có 13 tỉnh có ít hơn 30
Luật sư, một vài tỉnh chỉ có trên dưới 10 Luật sư như Bắc Kạn, Lai Châu, Hà
Giang, Kon Tum [4]. Như vậy, bên cạnh việc khuyến khích phát triển số lượng
Luật sư tại các địa phương này, Nhà nước cần có các giải pháp khác tăng cường
công tác trợ giúp pháp lý để nâng cao khả năng tiếp cận công lý của người dân.

- Hoạt động hành nghề luật sư còn phân tán, thiếu tập trung: Hầu hết các
TCHNLS chỉ có 1 - 2 Luật sư. Rất ít TCHNLS có trên 10 Luật sư và mới chỉ có 4
TCHNLS quy mô trên 50 Luật sư [5]. Quy mô nhỏ phù hợp với sự phát triển của
thị trường dịch vụ pháp lý khi mà cá nhân vẫn là đối tượng khách hàng chính,
còn dịch vụ pháp lý chủ yếu là tham gia tố tụng và tư vấn, hỗ trợ trong các giao
dịch dân sự. Tuy nhiên, trong điều kiện hội nhập kinh tế, những chuyển biến của
thị trường, sự gia tăng đối tượng khách hàng doanh nghiệp, số lượng, quy mô
và tính chất phức tạp của các giao dịch... đang đòi hỏi dịch vụ pháp lý phải vừa
có tính chuyên môn hóa cao, vừa có quy mô tập trung hơn.

- Tỷ lệ Luật sư tham gia hành nghề và TCHNLS thực tế hoạt động còn thấp:
Riêng tại Thành phố Hồ Chí Minh, có không quá 70% số Luật sư hành nghề và
không quá 50% TCHNLS thực tế hoạt động [6]. Còn rất nhiều Luật sư không
sống bằng nghề luật sư hoặc coi nghề luật sư là nghề “tay trái”. Tình trạng này
có ảnh hưởng đến tính chuyên nghiệp và chất lượng dịch vụ pháp lý của Luật
sư.

You might also like