You are on page 1of 17

BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TỔNG CỤC THỐNG KÊ Độc lập-Tự do-Hạnh phúc

Hà Nội, ngày 28 tháng 8 năm 2017


Số: 204/BC-TCTK

BÁO CÁO
TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI
THÁNG 8 VÀ 8 THÁNG NĂM 2017

1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản


a. Nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu vào gieo cấy, chăm
sóc lúa mùa và thu hoạch lúa, hoa màu vụ hè thu. Tính đến ngày 15/8, cả nước
đã gieo cấy được 1.349,4 nghìn ha lúa mùa, bằng 99,8% cùng kỳ năm trước,
trong đó các địa phương phía Bắc đã cơ bản kết thúc gieo cấy với diện tích đạt
1.128 nghìn ha, bằng 100,1%; các địa phương phía Nam đạt 221,4 nghìn ha,
bằng 98,4%. Vụ mùa năm nay các tỉnh miền Bắc bị ảnh hưởng do mưa lớn xảy
ra trên diện rộng hồi cuối tháng Bảy, đầu tháng Tám với 387 ha lúa bị mất
trắng và 6,8 nghìn ha diện tích lúa phải gieo cấy lại.
Diện tích gieo cấy lúa hè thu của cả nước năm nay ước tính đạt 2.105,2 nghìn
ha, tương đương cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực duyên hải miền Trung đạt
183,4 nghìn ha, tăng 16,6 nghìn ha. Riêng vùng Đồng bằng sông Cửu Long,
diện tích gieo cấy lúa hè thu tiếp tục bị suy giảm, toàn vùng đạt 1.651,5 nghìn
ha, giảm hơn 23 nghìn ha so với cùng kỳ năm 2016 1. Tính đến trung tuần tháng
Tám, cả nước thu hoạch được 1.056,9 nghìn ha lúa hè thu, bằng 111,1% cùng
kỳ năm trước, trong đó tập trung chủ yếu ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long
với 947,6 nghìn ha, bằng 104,2% cùng kỳ năm 2016. Diện tích lúa hè thu còn
lại dự tính cuối tháng Tám sẽ thu hoạch xong toàn bộ. Theo báo cáo của các địa
phương, năng suất lúa hè thu trên diện tích đã thu hoạch đạt khoảng 54,9-55,4
tạ/ha, tăng 1-1,5 tạ/ha so với cùng kỳ năm trước, trong đó vùng Đồng bằng
sông Cửu Long đạt 55-55,6 tạ/ha, tăng 1,2-1,8 tạ/ha.
Đến giữa tháng Tám, vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã gieo cấy được
464,8 nghìn ha lúa thu đông, bằng 96,6% cùng kỳ năm trước, trong đó hầu hết
các địa phương diện tích gieo cấy giảm do ảnh hưởng của hiện tượng lũ về sớm

1
Trong đó: Diện tích chuyển sang nuôi trồng thủy sản là 8,1 nghìn ha; chuyển sang trồng cây lâu năm là 7,9
nghìn ha; chuyển sang trồng cây hàng năm khác là 540 ha; diện tích đất không sản xuất là 6,3 nghìn ha (riêng
An Giang giảm 5,1 nghìn ha do vụ đông xuân thu hoạch muộn nên không đưa diện tích trên vào sản xuất vụ hè
thu).
2

và dâng cao (An Giang giảm 33 nghìn ha; Đồng Tháp giảm 13,6 nghìn ha);
riêng Tiền Giang diện tích gieo cấy tăng 30,7 nghìn ha.
Gieo trồng hoa màu đạt thấp hơn cùng kỳ năm trước do ảnh hưởng của
mưa bão, ngập úng trên diện rộng. Tính đến ngày 15/8, các địa phương trên
cả nước đã gieo trồng được 914,1 nghìn ha ngô, bằng 96,3% cùng kỳ năm
trước; 66,2 nghìn ha đậu tương, bằng 88,1%; 173 nghìn ha lạc, bằng 97,5%;
854,9 nghìn ha rau, đậu, bằng 94,4%; riêng khoai lang đạt 101,7 nghìn ha,
bằng 101,4%.
Chăn nuôi trâu, bò và gia cầm nhìn chung ổn định, chăn nuôi lợn cầm
chừng do giá thịt vẫn ở mức thấp. Đàn trâu của cả nước trong tháng ước tính
giảm 0,5% so với cùng kỳ năm trước; đàn bò tăng 2,8%; đàn lợn giảm 4%; đàn
gia cầm tăng 5,1%. Tính đến thời điểm 27/8/2017, cả nước không còn dịch cúm
gia cầm và dịch tai xanh trên lợn; dịch lở mồm long móng chưa qua 21 ngày
còn ở Gia Lai và Đắk Lắk.
b. Lâm nghiệp
Trong tháng Tám, diện tích rừng trồng tập trung ước tính đạt 21,1 nghìn
ha, tăng 7,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số tỉnh có diện tích tăng
mạnh: Thanh Hóa đạt 1.820 ha, tăng 12%; Bình Thuận 954 ha, tăng 92%;
Quảng Ngãi 795 ha, tăng 70,2%; Lạng Sơn 788 ha, tăng 13,5%. Số cây lâm
nghiệp trồng phân tán trong tháng đạt 7,2 triệu cây, tăng 2,9%; sản lượng gỗ
khai thác đạt 985 nghìn m3, tăng 6,8%; sản lượng củi khai thác đạt 2,2 triệu ste,
tương đương cùng kỳ năm trước.
Tính chung 8 tháng, diện tích rừng trồng tập trung ước tính đạt 140,2
nghìn ha, tăng 5,6% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân
tán đạt 75,3 triệu cây, giảm 0,5%; sản lượng gỗ khai thác đạt 6.583 nghìn m 3,
tăng 6,5%; sản lượng củi khai thác đạt 18,5 triệu ste, giảm 0,5%.
Diện tích rừng bị thiệt hại trong tháng Tám là 64,1 ha, giảm 78,7% so với
cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 9,3 ha, giảm 93,5% do
lượng mưa trong tháng tương đối nhiều nên đã giảm bớt nguy cơ cháy rừng;
diện tích rừng bị chặt, phá trái phép là 54,8 ha, giảm 65,3%. Tính chung 8
tháng, diện tích rừng bị thiệt hại là 1.225,1 ha, giảm 59% so với cùng kỳ năm
trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 455,2 ha, giảm 78,7%; diện tích rừng
bị chặt phá là 769,9 ha, giảm 9,6%.
c. Thủy sản
Trong tháng Tám, sản lượng thủy sản cả nước ước tính đạt 730,5 nghìn
tấn, tăng 5,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 514 nghìn tấn, tăng
4,9%; tôm đạt 115,1 nghìn tấn, tăng 12%.
Sản lượng thủy sản nuôi trồng trong tháng ước tính đạt 434,3 nghìn tấn,
tăng 5,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 296,9 nghìn tấn, tăng
3

4%; tôm đạt 99,6 nghìn tấn, tăng 13,3%. Sản lượng cá tra tháng Tám ước tính
đạt 146,9 nghìn tấn, tăng 2,3% so với cùng kỳ năm 2016, trong đó Đồng Tháp
đạt 85,5 nghìn tấn, tăng 2,1%; Cần Thơ 15,5 nghìn tấn, tăng 3,1%; Bến Tre 8
nghìn tấn, tăng 14,2%. Nuôi tôm nước lợ tiếp tục phát triển ổn định. Sản lượng
tôm sú trong tháng ước tính đạt 32,6 nghìn tấn, tăng 10,1% so với cùng kỳ
năm trước, trong đó Bạc Liêu đạt 9,3 nghìn tấn, tăng 69%; Kiên Giang 5,7
nghìn tấn, tăng 1,9%; Sóc Trăng 3,5 nghìn tấn, tăng 53,3%. Sản lượng tôm
thẻ chân trắng ước tính đạt 50,1 nghìn tấn, tăng 22,5% so với cùng kỳ năm
trước, trong đó Sóc Trăng đạt 24,5 nghìn tấn, tăng 65%; Cà Mau 7 nghìn
tấn, tăng 75%; Tiền Giang 5 nghìn tấn, tăng 56%. Thời tiết biển trong tháng
thuận lợi nên sản lượng thủy sản khai thác đạt khá với 296,2 nghìn tấn, tăng
5,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khai thác biển đạt 275,8 nghìn
tấn, tăng 5,7%.
Tính chung 8 tháng năm 2017, sản lượng thủy sản ước tính đạt 4.738,4
nghìn tấn, tăng 4,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng thủy sản
nuôi trồng đạt 2.490,9 nghìn tấn, tăng 4,3%; sản lượng thủy sản khai thác đạt
2.247,5 nghìn tấn, tăng 4,9%.
2. Sản xuất công nghiệp
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng Tám ước tính tăng 8,4% so
với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng giảm 5%; ngành chế biến,
chế tạo tăng 12,4%; sản xuất và phân phối điện tăng 9,6%; cung cấp nước và
xử lý rác thải, nước thải tăng 7,3%.
Tính chung 8 tháng năm 2017, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp
tăng 6,7% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức tăng 7,2% của cùng kỳ
năm 20162 nhưng cao hơn mức tăng 6,5% của 7 tháng năm nay. Trong các
ngành công nghiệp, ngành chế biến, chế tạo tăng 10,8%, đóng góp 7,5 điểm
phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 8,6%,
đóng góp 0,6 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước
thải tăng 7,4%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm
6,9%, làm giảm 1,5 điểm phần trăm mức tăng chung.
Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất 8
tháng tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất kim loại tăng 21,2%; sản
xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 17,8%; sản
xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 13,5%; sản xuất
sản phẩm từ cao su và plastic tăng 10,4%; sản xuất giấy và các sản phẩm từ
giấy tăng 10,1%; dệt tăng 10%. Một số ngành có mức tăng thấp hoặc giảm: Sản
xuất, chế biến thực phẩm tăng 6,3%; khai khoáng khác tăng 3,8%; sản xuất xe
có động cơ tăng 2%; khai thác than cứng và than non tăng 1,7%; sản xuất sản

2
8 tháng năm 2016 ngành khai khoáng giảm 4,8%; ngành chế biến, chế tạo tăng 10,4%; sản xuất và phân phối
điện tăng 12,3%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,8%.
4

phẩm thuốc lá giảm 1,8%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 2,1%;
khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 10,1%.
Trong 8 tháng năm nay, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tăng cao so
với cùng kỳ năm trước: Ti vi tăng 34,4%; sắt, thép thô tăng 26,7%; thép cán
tăng 23,9%; vải dệt từ sợi tự nhiên tăng 17,7%; phân urê tăng 17,3%. Một số
sản phẩm tăng khá: Phân hỗn hợp NPK tăng 9,8%; nước máy thương phẩm
tăng 9,6%; sữa tươi tăng 9,5%; thủy hải sản chế biến tăng 9,4%; thép thanh,
thép góc tăng 9,3%; quần áo mặc thường tăng 8,6%. Một số sản phẩm tăng
thấp hoặc giảm: Giày, dép da tăng 2,5%; than đá tăng 1,6%; thuốc lá điếu giảm
0,5%; điện thoại di động giảm 0,8%; ô tô giảm 4,5%; khí đốt thiên nhiên giảm
9,2%; dầu thô khai thác giảm 10,8%; khí hóa lỏng (LPG) giảm 13,4%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp 8 tháng so với cùng kỳ năm trước của một số
địa phương có quy mô công nghiệp lớn như sau: Hải Phòng tăng 20,6%; Thái
Nguyên tăng 18,1%; Bắc Ninh tăng 14,1%; Hải Dương tăng 11,5%; Đà Nẵng
tăng 9,7%; Bình Dương tăng 9,1%; Vĩnh Phúc tăng 9%; Đồng Nai tăng 8,3%;
thành phố Hồ Chí Minh tăng 7,3%; Cần Thơ tăng 6,9%; Hà Nội tăng 6,5%;
Quảng Ninh tăng 4,1%; Quảng Nam giảm 2,6%; Bà Rịa - Vũng Tàu giảm 4,8%.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 7/2017
tăng 1,6% so với tháng trước và tăng 8,3% so với cùng kỳ năm trước. Tính
chung 7 tháng, chỉ số tiêu thụ toàn ngành chế biến, chế tạo tăng 9,5% so với
7 tháng năm 2016 (cùng kỳ năm trước tăng 8,1%), trong đó một số ngành có
chỉ số tiêu thụ tăng cao: Sản xuất kim loại tăng 22,2%; sản xuất thuốc, hóa
dược và dược liệu tăng 18,9%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan
tăng 17,4%; dệt tăng 14,8%; sản xuất các sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ
máy móc, thiết bị) tăng 14,6%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng
thấp: Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng
6,8%; sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 6,7%; sản xuất thiết bị điện tăng
6,3%; sản xuất đồ uống tăng 5,3%.
Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm
01/8/2017 tăng 9,8% so với cùng thời điểm năm trước (cùng thời điểm năm
2016 tăng 8,9%), trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng thấp hơn mức
tăng chung hoặc giảm: Sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 7,9%; dệt tăng 1%;
sản xuất phương tiện vận tải khác giảm 0,3%; sản xuất thuốc, hóa dược và
dược liệu giảm 16,4%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan giảm
22,3%; sản xuất sản phẩm thuốc lá giảm 25,1%. Một số ngành có chỉ số tồn
kho tăng cao so với mức tăng chung: Sản xuất đồ uống tăng 62%; sản xuất sản
phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 55,2%; sản xuất sản
phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 25,6%; sản xuất xe có động cơ tăng
5

25,3%; sản xuất kim loại tăng 21,3%; sản xuất thiết bị điện tăng 19,4%; sản
xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 19%.
Tỷ lệ tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo bình quân 7 tháng
năm 2017 là 65,3%, trong đó một số ngành có tỷ lệ tồn kho cao: Sản xuất
thuốc, hóa dược và dược liệu 131,1%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất
82,3%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác 77%; sản xuất xe có
động cơ 76,4%; sản xuất, chế biến thực phẩm 75,2%.
Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại
thời điểm 01/8/2017 tăng 4,3% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao
động khu vực doanh nghiệp Nhà nước giảm 4%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước
tăng 0,9%; doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 7,6%. Tại
thời điểm trên, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp ngành khai
khoáng giảm 7% so với cùng thời điểm năm trước; ngành chế biến, chế tạo
tăng 5,1%; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 3,2%; ngành cung cấp nước
và xử lý rác thải, nước thải giảm 1,1%.
Lao động trong các doanh nghiệp tại thời điểm 01/8/2017 so với cùng
thời điểm năm trước của một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có quy
mô công nghiệp lớn như sau: Bắc Ninh tăng 26,3%; Đồng Nai tăng 7,6%; Hải
Dương tăng 7,5%; Thái Nguyên tăng 6,6%; Bình Dương tăng 5%; Vĩnh Phúc
tăng 4,4%; Hải Phòng tăng 4,3%; Cần Thơ tăng 1,6%; Đà Nẵng tăng 1,4%;
thành phố Hồ Chí Minh tăng 0,8%; Hà Nội tăng 0,3%; Quảng Nam giảm
1,7%; Bà Rịa - Vũng Tàu giảm 2,8%.
3. Tình hình đăng ký doanh nghiệp3
Trong tháng Tám, cả nước có 12.404 doanh nghiệp thành lập mới với số
vốn đăng ký là 131,4 nghìn tỷ đồng, tăng 6,2% về số doanh nghiệp và tăng
39% về số vốn đăng ký so với tháng trước 4; vốn đăng ký bình quân một doanh
nghiệp đạt 10,6 tỷ đồng, tăng 30,8%; tổng số lao động đăng ký trong tháng của
các doanh nghiệp thành lập mới là 101,7 nghìn người, tăng 8,8%.
Trong tháng, cả nước có 1.605 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm
26% so với tháng trước; có 3.777 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động (bao
gồm: 1.667 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn và 2.110
doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể), giảm
33,7%; có 1.146 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, giảm 1,6%.
Tính chung 8 tháng năm nay, cả nước có 85.357 doanh nghiệp đăng ký
thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 822,1 nghìn tỷ đồng, tăng 16,3% về số
doanh nghiệp và tăng 44,8% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2016; vốn

3
Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
4
So với cùng kỳ năm trước, số doanh nghiệp tăng 33,6%; số vốn đăng ký tăng 85,1%; vốn đăng ký bình quân 1
doanh nghiệp tăng 38,5%.
6

đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 9,6 tỷ đồng, tăng 24,5%5.
Nếu tính cả 1.108,3 nghìn tỷ đồng của gần 24,7 nghìn lượt doanh nghiệp thay
đổi tăng vốn thì tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 8 tháng
năm 2017 là 1.930,4 nghìn tỷ đồng. Bên cạnh đó, còn có 19.154 doanh nghiệp
quay trở lại hoạt động, tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước, nâng tổng số
doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động
trong 8 tháng lên hơn 104,5 nghìn doanh nghiệp. Tổng số lao động đăng ký
của các doanh nghiệp thành lập mới trong 8 tháng là 822,4 nghìn người, giảm
4,1% so với cùng kỳ năm trước.
Theo ngành nghề kinh doanh chính, trong 8 tháng năm 2017 có 30,7
nghìn doanh nghiệp thành lập mới trong ngành bán buôn, bán lẻ (chiếm 36%
tổng số doanh nghiệp thành lập mới), tăng 17,9% so với cùng kỳ năm trước;
11 nghìn doanh nghiệp xây dựng (chiếm 12,9%), tăng 11,6%; 11 nghìn doanh
nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm 12,9%), tăng 10,6%; 6,4 nghìn
doanh nghiệp khoa học, công nghệ, dịch vụ tư vấn, thiết kế, quảng cáo và
chuyên môn khác (chiếm 7,5%), tăng 12,1%; 4,5 nghìn doanh nghiệp dịch vụ
việc làm, du lịch, cho thuê máy móc thiết bị, đồ dùng và các dịch vụ hỗ trợ
khác (chiếm 5,3%), tăng 25,1%; 4,1 nghìn doanh nghiệp dịch vụ lưu trú và ăn
uống (chiếm 4,8%), tăng 15,4%; 3,2 nghìn doanh nghiệp kinh doanh bất động
sản (chiếm 3,7%), tăng 65,8%; 2,2 nghìn doanh nghiệp giáo dục và đào tạo
(chiếm 2,6%), tăng 30%.
Trong 8 tháng năm nay, số doanh nghiệp thành lập mới tại các vùng trong
cả nước đều tăng khá cao so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vùng Trung du
và miền núi phía Bắc có 3,7 nghìn doanh nghiệp, tăng 31,8% (vốn đăng ký 41
nghìn tỷ đồng, tăng 38,5%); Tây Nguyên 2,2 nghìn doanh nghiệp, tăng 25,4%
(vốn đăng ký 16,5 nghìn tỷ đồng, tăng 39,8%); Đồng bằng sông Cửu Long 6,1
nghìn doanh nghiệp, tăng 17,9% (vốn đăng ký 44,1 nghìn tỷ đồng, giảm
13,6%); Đồng bằng sông Hồng 26,2 nghìn doanh nghiệp, tăng 18,5% (vốn
đăng ký 196,1 nghìn tỷ đồng, tăng 10%); Đông Nam Bộ 35,6 nghìn doanh
nghiệp, tăng 13,5% (vốn đăng ký 421,5 nghìn tỷ đồng, tăng 77,4%); Bắc
Trung Bộ và Duyên hải miền Trung 11,6 nghìn doanh nghiệp, tăng 13,3%
(vốn đăng ký 102,8 nghìn tỷ đồng, tăng 72,6%).
Số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể trong 8 tháng năm 2017 là
7.754 doanh nghiệp, tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó có 7.146
doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng, chiếm 92,2%. Nếu phân theo
loại hình doanh nghiệp, trong tổng số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể,
có 3.197 công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên (chiếm 41,2%); 2.265 công
5
8 tháng năm 2016, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng 19,7% so với cùng kỳ năm trước; số vốn
đăng ký tăng 50,9%; vốn đăng ký bình quân 1 doanh nghiệp tăng 26%.
7

ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên (chiếm 29,2%); 1.275 doanh nghiệp tư
nhân (chiếm 16,5%) và 1.017 công ty cổ phần (chiếm 13,1%).
Số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động trong 8 tháng là 45.776 doanh
nghiệp, tăng 13,3% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm 17.231 doanh nghiệp
đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 15,5% và 28.545 doanh
nghiệp tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể, tăng 12%.
Trong tổng số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, có
7.171 công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên (chiếm 41,6%); 5.508 công ty
trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên (chiếm 32%); 2.912 công ty cổ phần (chiếm
16,9%); 1.637 doanh nghiệp tư nhân (chiếm 9,5%) và 3 công ty hợp danh. Đối
với doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể, có
12.602 công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên (chiếm 44,1%); 8.414 công
ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên (chiếm 29,5%); 5.568 công ty cổ phần
(chiếm 19,5%) và 1.961 doanh nghiệp tư nhân (chiếm 6,9%).
4. Đầu tư
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước tháng Tám ước tính
đạt 26.509,8 tỷ đồng, bao gồm: Vốn trung ương 6.468,5 tỷ đồng; vốn địa
phương 20.041,3 tỷ đồng. Tính chung 8 tháng năm nay, vốn đầu tư thực hiện từ
nguồn ngân sách Nhà nước đạt 166,4 nghìn tỷ đồng, bằng 56,1% kế hoạch năm
và tăng 7,3% so với cùng kỳ năm 2016, gồm có:
- Vốn trung ương quản lý đạt 38,3 nghìn tỷ đồng, bằng 54,5% kế hoạch
năm và tăng 6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện của
Bộ Giao thông Vận tải đạt 19,9 nghìn tỷ đồng, bằng 62,9% và tăng 42,7%; Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 3.494 tỷ đồng, bằng 59,6% và giảm
15,5%; Bộ Y tế 2.485 tỷ đồng, bằng 48,4% và tăng 37,9%; Bộ Giáo dục và Đào
tạo 357 tỷ đồng, bằng 50,1% và giảm 69,8%; Bộ Xây dựng 318 tỷ đồng, bằng
65,8% và giảm 45,8%; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 279 tỷ đồng, bằng
47,5% và giảm 15,9%; Bộ Tài nguyên và Môi trường 268 tỷ đồng, bằng 45,8%
và giảm 35,4%; Bộ Công Thương 147 tỷ đồng, bằng 60,3% và giảm 46,4%; Bộ
Thông tin và Truyền thông 59 tỷ đồng, bằng 61,3% và giảm 22%; Bộ Khoa học
và Công nghệ 56 tỷ đồng, bằng 58,4% và giảm 63,2%.
- Vốn địa phương quản lý đạt 128,1 nghìn tỷ đồng, bằng 56,5% kế hoạch
năm và tăng 7,7% so với cùng kỳ năm 2016. Trong đó, vốn ngân sách Nhà
nước cấp tỉnh đạt 87,8 nghìn tỷ đồng, bằng 52,7% và tăng 4,5%; vốn ngân sách
Nhà nước cấp huyện đạt 33,5 nghìn tỷ đồng, bằng 65,3% và tăng 16,1%; vốn
ngân sách Nhà nước cấp xã đạt 6,8 nghìn tỷ đồng, bằng 78,9% và tăng 11,3%.
Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước của một số tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương như sau: Hà Nội đạt 20,4 nghìn tỷ đồng, bằng 62,9% kế
8

hoạch năm và tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước; thành phố Hồ Chí Minh
11,2 nghìn tỷ đồng, bằng 32,9% và tăng 6,2%; Nghệ An 4.147 tỷ đồng, bằng
64,2% và tăng 16,4%; Bình Dương 3.795 tỷ đồng, bằng 53% và tăng 13,2%;
Quảng Ninh 3.681 tỷ đồng, bằng 50,3% và tăng 17,8%; Vĩnh Phúc 3.564 tỷ
đồng, bằng 59,4% và tăng 16,2%; Hải Phòng 3.175 tỷ đồng, bằng 73,2% và
tăng 40,3%; Thanh Hóa 3.124 tỷ đồng, bằng 65,3% và tăng 12%.

Đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 20/8/2017 thu
hút 1.624 dự án cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 13,5 tỷ USD, tăng 0,3%
về số dự án và tăng 37,4% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2016. Bên cạnh
đó, có 773 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu
tư với số vốn tăng thêm đạt 6,4 tỷ USD, tăng 40,2% so với cùng kỳ năm trước,
nâng tổng số vốn đăng ký cấp mới và vốn tăng thêm trong 8 tháng năm 2017
lên 19,9 tỷ USD, tăng 38,3% so với cùng kỳ năm 2016.

Trong 8 tháng năm 2017 có 3.374 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu
tư nước ngoài với tổng giá trị góp vốn là 3,5 tỷ USD. Như vậy, tính chung tổng
vốn đăng ký của các dự án cấp mới, cấp vốn bổ sung và đầu tư theo hình thức
góp vốn, mua cổ phần 8 tháng đạt 23,4 tỷ USD, tăng 45,1% so với cùng kỳ năm
trước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 8 tháng ước tính đạt 10,3 tỷ
USD, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm 2016.

Trong 8 tháng, ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi
nước và điều hòa không khí thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn nhất với số
vốn đăng ký của các dự án được cấp phép mới đạt 5,4 tỷ USD, chiếm 39,8%
tổng vốn đăng ký cấp mới; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 4,8 tỷ USD,
chiếm 35,9%; các ngành còn lại đạt 3,3 tỷ USD, chiếm 24,3%. Nếu tính cả vốn
đăng ký bổ sung của các dự án đã cấp phép từ các năm trước và góp vốn, mua
cổ phần thì tổng vốn đầu tư nước ngoài vào ngành công nghiệp chế biến, chế
tạo trong 8 tháng năm nay đạt 11,7 tỷ USD, chiếm 50% tổng vốn đăng ký; ngành
sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí
đạt 5,4 tỷ USD, chiếm 23%; các ngành còn lại đạt 6,3 tỷ USD, chiếm 27%.

Trong 8 tháng năm nay, cả nước có 54 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép mới, trong đó Thanh Hóa có
số vốn đăng ký lớn nhất với 3.055 triệu USD, chiếm 22,7% tổng vốn đăng ký
cấp mới; tiếp đến là Nam Định 2.125,9 triệu USD, chiếm 15,8%; Kiên Giang
1.342,3 triệu USD, chiếm 10%; Bình Dương 1.107,7 triệu USD, chiếm 8,2%;
thành phố Hồ Chí Minh 792,1 triệu USD, chiếm 5,9%; Tây Ninh 694,2 triệu
USD, chiếm 5,2%; Hà Nội 609,5 triệu USD, chiếm 4,5%; Bắc Giang 571,9
triệu USD, chiếm 4,3%; Đồng Nai 344,5 triệu USD, chiếm 2,6%; Bình Phước
294,9 triệu USD, chiếm 2,2%.
9

Trong số 71 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới
tại Việt Nam trong 8 tháng, Nhật Bản là nhà đầu tư lớn nhất với 4.829,1 triệu
USD, chiếm 35,9% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Xin-ga-po 2.841 triệu
USD, chiếm 21,1%; Hàn Quốc 2.172,6 triệu USD, chiếm 16,1%; Trung Quốc
1.270,9 triệu USD, chiếm 9,4%; Đặc khu Hành chính Hồng Công (TQ) 587
triệu USD, chiếm 4,4%; CHLB Đức 322,4 triệu USD, chiếm 2,4%.
5. Thu, chi ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/8/2017 ước
tính đạt 706,9 nghìn tỷ đồng, bằng 58,3% dự toán năm, trong đó thu nội địa đạt
556,4 nghìn tỷ đồng, bằng 56,2%; thu từ dầu thô 28 nghìn tỷ đồng, bằng 73,1%;
thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 121,1 nghìn tỷ đồng, bằng
67,3%. Trong thu nội địa, thu tiền sử dụng đất đạt 63,7 nghìn tỷ đồng, bằng
99,9% dự toán năm; thu thuế thu nhập cá nhân 51,2 nghìn tỷ đồng, bằng 63,2%;
thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước 110,3 nghìn tỷ đồng,
bằng 56,8%; thu thuế bảo vệ môi trường 23,9 nghìn tỷ đồng, bằng 52,8%; thu
từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) 102,3 nghìn tỷ
đồng, bằng 50,9%; thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước 122,4 nghìn tỷ đồng,
bằng 42,7%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/8/2017 ước
tính đạt 747,3 nghìn tỷ đồng, bằng 53,7% dự toán năm, trong đó chi thường
xuyên đạt 548 nghìn tỷ đồng, bằng 61,1%; chi trả nợ lãi 65,6 nghìn tỷ đồng,
bằng 66,3%; riêng chi đầu tư phát triển đạt 131,1 nghìn tỷ đồng, chỉ bằng
36,7% dự toán năm. Chi trả nợ gốc từ đầu năm đến thời điểm 15/8/2017 ước
tính đạt 119,7 nghìn tỷ đồng, bằng 73% dự toán năm.
6. Thương mại, giá cả, vận tải và du lịch
a. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Tám ước
tính đạt 330 nghìn tỷ đồng, tăng 0,3% so với tháng trước và tăng 11,7% so với
cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 249 nghìn tỷ đồng,
tăng 1,5% và tăng 12%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 39 nghìn tỷ
đồng, giảm 6,8% và tăng 8,4%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 3,2 nghìn tỷ
đồng, giảm 4% và tăng 18,9%; doanh thu dịch vụ khác đạt 38,7 nghìn tỷ đồng,
tăng 0,9% và tăng 12,6%.
Tính chung 8 tháng, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu
dùng đạt 2.580,2 nghìn tỷ đồng, tăng 10,3% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại
trừ yếu tố giá tăng 8,9% (cao hơn mức tăng 8,5% của cùng kỳ năm 2016). Xét
theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa 8 tháng năm nay ước tính đạt
1.935,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 75% tổng mức và tăng 10,3% so với cùng kỳ năm
trước, trong đó ngành hàng lương thực, thực phẩm tăng 10,6%; may mặc tăng
10

13,9%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 11,6%; phương tiện đi lại
tăng 7,6%; vật phẩm văn hoá, giáo dục giảm 2,9%.
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 8 tháng ước tính đạt 318 nghìn tỷ
đồng, chiếm 12,3% tổng mức và tăng 11,3% so với cùng kỳ năm trước (cao
hơn mức tăng 8,9% của cùng kỳ năm 2016), trong đó một số địa phương có
doanh thu tăng khá: Bình Định tăng 20,2%; Thanh Hóa tăng 17,9%; Bà Rịa -
Vũng Tàu tăng 12,2%; Hà Nội tăng 10,2%; thành phố Hồ Chí Minh tăng
6,5%. Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành tăng khá do
lượng khách quốc tế và du lịch trong nước 8 tháng năm nay tăng mạnh và
hoạt động ăn uống ngoài gia đình không còn bị ảnh hưởng của sự cố môi
trường biển tại các tỉnh miền Trung năm 2016.
Doanh thu du lịch lữ hành 8 tháng ước tính đạt 23,1 nghìn tỷ đồng, chiếm
0,9% tổng mức và tăng 11% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu
của Bắc Giang tăng 25,1%; Khánh Hòa tăng 22,9%; thành phố Hồ Chí Minh
tăng 12,2%; Bà Rịa - Vũng Tàu tăng 12%; Hà Nội tăng 5,4%; Đà Nẵng giảm
1,7%; Hậu Giang giảm 4,4%; Sóc Trăng giảm 5,8%; Bình Phước giảm 21%;
Lào Cai giảm 23,1%.
Doanh thu dịch vụ khác 8 tháng năm nay ước tính đạt 303,4 nghìn tỷ
đồng, chiếm 11,8% tổng mức và tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước, trong
đó doanh thu của Thanh Hóa tăng 18,6%; Lâm Đồng tăng 16,3%; Quảng
Ngãi tăng 15,7%; Tuyên Quang tăng 14,7%; thành phố Hồ Chí Minh tăng
8,5%; Hà Nội tăng 5,7%.
b. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thực hiện tháng 7/2017 đạt 17.672 triệu
USD, cao hơn 172 triệu USD so với số ước tính, trong đó sắt thép cao hơn 68
triệu USD; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác cao hơn 63 triệu USD; thủy
sản cao hơn 46 triệu USD; điện tử, máy tính và linh kiện cao hơn 35 triệu USD;
giày dép thấp hơn 46 triệu USD; điện thoại và linh kiện thấp hơn 30 triệu USD.
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng Tám ước tính đạt 18,20 tỷ USD,
tăng 3% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 5,33 tỷ
USD, tăng 0,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 12,87
tỷ USD, tăng 4%. Một số mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch tăng so với
tháng trước: Cao su tăng 14,5%; điện thoại và linh kiện tăng 10,7%; máy
móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác tăng 8,1%; gạo tăng 5,6%; gỗ và sản
phẩm gỗ tăng 3,5%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất
khẩu tháng Tám tăng 13%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 14,8%;
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 12,3%. Một số mặt
hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng khá: Máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng
11

tăng 26,9%; giày dép tăng 18,4%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 16,4%;
điện thoại và linh kiện tăng 14,9%.
Tính chung 8 tháng, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 133,50 tỷ
USD, tăng 17,9% so với cùng kỳ năm 2016, trong đó khu vực kinh tế trong
nước đạt 37,83 tỷ USD, tăng 15,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả
dầu thô) đạt 95,67 tỷ USD, tăng 18,9%. Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng
chủ lực tiếp tục tăng so với cùng kỳ năm trước: Điện thoại và linh kiện đạt 26
tỷ USD, tăng 14,8%; dệt may đạt 17 tỷ USD, tăng 7,2%; điện tử, máy tính và
linh kiện đạt 15,7 tỷ USD, tăng 39,3%; giày dép đạt 9,6 tỷ USD, tăng 13%;
máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt 8,1 tỷ USD, tăng 30,1%; thủy sản
đạt 5,2 tỷ USD, tăng 19,2%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 4,9 tỷ USD, tăng 10,6%;
phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 4,6 tỷ USD, tăng 19,6%; rau quả đạt 2,3 tỷ
USD, tăng 48%; cà phê đạt 2,3 tỷ USD, tăng 3,7% (lượng giảm 19,4%). Một số
mặt hàng kim ngạch xuất khẩu giảm so với cùng kỳ năm trước: Hạt tiêu đạt 900
triệu USD, giảm 18,5% (lượng tăng 23,4%); sắn và sản phẩm của sắn đạt 642
triệu USD, giảm 7,4% (lượng tăng 0,1%).
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu, Hoa Kỳ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn
nhất của Việt Nam với kim ngạch 8 tháng đạt 27,2 tỷ USD, tăng 9,7% so với
cùng kỳ năm trước; tiếp đến là EU đạt 24,7 tỷ USD, tăng 12,7%; Trung Quốc
đạt 18,3 tỷ USD, tăng 41,8%; ASEAN đạt 14,1 tỷ USD, tăng 26,6%; Nhật Bản
đạt 10,9 tỷ USD, tăng 16,1%; Hàn Quốc đạt 9 tỷ USD, tăng 24%.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu thực hiện tháng 7/2017 đạt 17.406 triệu
USD, thấp hơn 394 triệu USD so với số ước tính, trong đó máy móc thiết bị,
dụng cụ phụ tùng khác thấp hơn 133 triệu USD; kim loại thường khác thấp hơn
58 triệu USD; vải thấp hơn 40 triệu USD; hóa chất thấp hơn 24 triệu USD;
nguyên phụ liệu dệt, may, giày dép thấp hơn 23 triệu USD; điện tử, máy tính và
linh kiện thấp hơn 19 triệu USD.
Ước tính tháng Tám, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 17,80 tỷ USD,
tăng 2,3% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 7,30 tỷ
USD, tăng 2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 10,50 tỷ USD, tăng
2,4%. Kim ngạch một số mặt hàng phục vụ sản xuất tăng so với tháng trước:
Điện thoại và linh kiện tăng 8,5%; sắt, thép tăng 14,1%; chất dẻo tăng 13,7%.
So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Tám tăng
14,5%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 18,2%; khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài tăng 12%.
Tính chung 8 tháng, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu ước tính đạt 135,63 tỷ
USD, tăng 22,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong
nước đạt 54,24 tỷ USD, tăng 18,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt
81,39 tỷ USD, tăng 25%. Kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng phục vụ sản
12

xuất trong nước tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Máy móc thiết bị, dụng cụ
phụ tùng khác đạt 24,1 tỷ USD, tăng 33,5%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt
22,1 tỷ USD, tăng 24,8%; điện thoại và linh kiện đạt 8,7 tỷ USD, tăng 33,3%;
vải đạt 7,4 tỷ USD, tăng 8,6%; sắt thép đạt 6 tỷ USD, tăng 16,3% (lượng giảm
16,1%); chất dẻo đạt 4,8 tỷ USD, tăng 23,4% (lượng tăng 17,2%); xăng dầu đạt
4,5 tỷ USD, tăng 38,2% (lượng tăng 9,1%); nguyên phụ liệu dệt, may, giày dép
đạt 3,7 tỷ USD, tăng 10%; kim loại thường đạt 3,6 tỷ USD, tăng 16,7% (lượng
giảm 16,7%); sản phẩm chất dẻo đạt 3,4 tỷ USD, tăng 19,7%; sản phẩm hóa
chất đạt 2,9 tỷ USD, tăng 18,5%; hóa chất đạt 2,6 tỷ USD, tăng 28,9%.
Về thị trường hàng hóa nhập khẩu 8 tháng năm nay, Trung Quốc vẫn là thị
trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 36,4 tỷ USD, tăng
14,7% so với cùng kỳ năm 2016; tiếp đến là Hàn Quốc đạt 30,2 tỷ USD, tăng
47,5%6; ASEAN đạt 18,1 tỷ USD, tăng 17,8%; Nhật Bản đạt 10,5 tỷ USD, tăng
8,9%; EU đạt 7,9 tỷ USD, tăng 12,5%; Hoa Kỳ đạt 6,2 tỷ USD, tăng 17,5%.
Cán cân thương mại thực hiện tháng Bảy xuất siêu 266 triệu USD 7; tháng
Tám ước tính xuất siêu 400 triệu USD. Tính chung 8 tháng năm 2017 nhập siêu
2,13 tỷ USD, bằng 1,6% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, trong đó khu vực
kinh tế trong nước nhập siêu 16,41 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
(kể cả dầu thô) xuất siêu 14,28 tỷ USD.
c. Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 8/2017 tăng 0,92% so với tháng trước.
Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chủ yếu, 10 nhóm có chỉ số giá tháng Tám
tăng so với tháng trước, trong đó nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng cao nhất với
2,86% (dịch vụ y tế tăng 3,72%) do trong tháng có 17 tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương8 thực hiện điều chỉnh tăng giá dịch vụ y tế cho đối tượng không có
thẻ bảo hiểm y tế theo Thông tư số 02/2017/TT-BYT ngày 15/3/2017 của Bộ Y tế
(tác động làm CPI tăng khoảng 0,14%). Nhóm giao thông tăng 2,13% do ảnh
hưởng từ 2 đợt điều chỉnh tăng giá xăng, dầu vào thời điểm 4/8/2017 và thời
điểm 19/8/2017 (tác động làm CPI tăng khoảng 0,2%). Nhóm hàng ăn và dịch
vụ ăn uống tăng 1,06%, trong đó lương thực tăng 0,31% 9; thực phẩm tăng
1,64% do giá thịt lợn và rau xanh tăng mạnh 10, tác động làm CPI tăng 0,37%;
nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,93% (giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng
1,27%; giá gas trong nước điều chỉnh tăng 8,91% từ đầu tháng Tám; giá dầu
hỏa bình quân tháng 8/2017 tăng 5,14%); giáo dục tăng 0,57% (dịch vụ giáo

6
8 tháng năm 2017, Việt Nam nhập siêu từ Trung Quốc 18,1 tỷ USD, giảm 3,9% so với cùng kỳ năm 2016;
nhập siêu từ Hàn Quốc 21,2 tỷ USD, tăng 60,4%.
7
Tháng Bảy ước tính nhập siêu 300 triệu USD.
8
Bao gồm: Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Dương, Cao Bằng, Lai Châu, Sơn La, Thái Nguyên, Phú Thọ, Thừa Thiên-Huế,
Đà Nẵng, Quảng Nam, Khánh Hòa, Đắk Nông, Đồng Nai, Đồng Tháp, Cần Thơ, Sóc Trăng.
9
Do nhu cầu cho hợp đồng xuất khẩu 175 nghìn tấn gạo sang Phi-li-pin và ảnh hưởng của mưa, lũ làm giá
gạo tăng ở một số địa phương.
10
Giá thịt lợn tăng 5,72% so với tháng trước; giá rau xanh tăng 3,89%.
13

dục tăng 0,51%) do trong tháng có 5 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương 11
thực hiện lộ trình tăng học phí theo Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày
02/10/2015 của Chính Phủ; may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,09%; đồ uống
và thuốc lá tăng 0,07%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,03%; văn hóa, giải
trí và du lịch tăng 0,01%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,10%. Riêng nhóm
bưu chính viễn thông giảm 0,04%.
Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 8 tháng năm 2017 tăng 3,84% so với bình
quân cùng kỳ năm 2016. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 8/2017 tăng 1,23% so với
tháng 12/2016 và tăng 3,35% so với cùng kỳ năm trước.
Lạm phát cơ bản tháng 8/2017 tăng 0,10% so với tháng trước và tăng 1,31%
so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân 8 tháng năm 2017 tăng
1,47% so với bình quân cùng kỳ năm 2016.
Chỉ số giá vàng tháng 8/2017 tăng 1,11% so với tháng trước; tăng 3,42%
so với tháng 12/2016 và giảm 2,35% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la
Mỹ tháng 8/2017 giảm 0,03% so với tháng trước; giảm 0,06% so với tháng
12/2016 và tăng 1,83% so với cùng kỳ năm 2016.

d. Vận tải hành khách và hàng hóa

Vận tải hành khách tháng Tám ước tính đạt 343,9 triệu lượt khách, giảm
0,3% so với tháng trước và 16,1 tỷ lượt khách.km, giảm 0,2%. Tính chung 8
tháng, vận tải hành khách đạt 2.665 triệu lượt khách, tăng 10,7% so với cùng kỳ
năm trước và 121,1 tỷ lượt khách.km, tăng 9,3%, trong đó vận tải hành khách
đường bộ đạt 2.509,6 triệu lượt khách, tăng 11% và 81,4 tỷ lượt khách.km, tăng
8,3%; đường hàng không đạt 30,8 triệu lượt khách, tăng 14,8% và 34,5 tỷ lượt
khách.km, tăng 12,1%; đường sắt đạt 7,1 triệu lượt khách, giảm 1,1% và 2,8 tỷ
lượt khách.km, tăng 7,9%; đường biển đạt 4,5 triệu lượt khách, tăng 11,6% và
231,3 triệu lượt khách.km, tăng 12%.

Vận tải hàng hóa tháng Tám ước tính đạt 119,4 triệu tấn, giảm 0,6% so với
tháng trước và 22,5 tỷ tấn.km, tăng 0,6%. Tính chung 8 tháng, vận tải hàng hóa
đạt 944,8 triệu tấn, tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước và 175,4 tỷ tấn.km,
tăng 6,4%, trong đó vận tải trong nước đạt 922,9 triệu tấn, tăng 10% và 87,5 tỷ
tấn.km, tăng 11,5%; vận tải ngoài nước đạt 21,9 triệu tấn, tăng 0,5% và 87,9 tỷ
tấn.km, tăng 1,7%. Xét theo ngành vận tải, đường bộ đạt 733,4 triệu tấn, tăng
10,2% so với cùng kỳ năm trước và 46,4 tỷ tấn.km, tăng 11,8%; đường sông
đạt 162,2 triệu tấn, tăng 7,4% và 34,4 tỷ tấn.km, tăng 7,9%; đường biển đạt

11
Bao gồm: Đồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh, Bến Tre, Kiên Giang, Cần Thơ.
14

45,3 triệu tấn, tăng 10,4% và 91,7 tỷ tấn.km, tăng 3,2%; đường sắt đạt 3,7 triệu
tấn, tăng 8,9% và 2,3 tỷ tấn.km, tăng 11,1%.

e. Khách quốc tế đến Việt Nam


Khách quốc tế đến nước ta trong tháng Tám ước tính đạt 1.229,2 nghìn
lượt người, tăng 18,5% so với tháng trước và tăng 35,1% so với cùng kỳ năm
trước, là tháng đón số lượng khách quốc tế lớn nhất từ trước đến nay. Khách
quốc tế đến nước ta trong tháng tăng mạnh do ngành du lịch và các công ty lữ
hành đã có nhiều biện pháp và tổ chức hiệu quả các hoạt động văn hóa, du lịch
nhằm thu hút khách quốc tế. Bên cạnh đó, chính sách gia hạn miễn thị thực cho
công dân các nước: Vương quốc Anh, Cộng hòa Pháp, Cộng hoà liên bang
Đức, Vương quốc Tây Ban Nha và Cộng hòa I-ta-li-a12 góp phần thu hút số
lượng lớn khách đến từ các nước Tây Âu.
Tính chung 8 tháng năm nay, khách quốc tế đến nước ta ước tính đạt
8.472,4 nghìn lượt người, tăng 29,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách
đến bằng đường hàng không đạt 7.182,5 nghìn lượt người, tăng 32,1%; đến
bằng đường bộ đạt 1.110 nghìn lượt người, tăng 21,4%; đến bằng đường biển
đạt 179,9 nghìn lượt người, tương đương cùng kỳ năm 2016.
Trong 8 tháng, khách đến từ châu Á đạt 6.325 nghìn lượt người, tăng 34,8%
so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ hầu hết các thị trường chính
đều tăng: Khách đến từ Trung Quốc đạt 2.653 nghìn lượt người, tăng 51,4%;
Hàn Quốc 1.500,8 nghìn lượt người, tăng 49,3%; Nhật Bản 518 nghìn lượt
người, tăng 7,4%; Đài Loan 411,8 nghìn lượt người, tăng 20,7%; Ma-lai-xi-a
295,5 nghìn lượt người, tăng 17,1%; Thái Lan 191,7 nghìn lượt người, tăng
11,8%; Xin-ga-po 170,9 nghìn lượt người, tăng 7,2%.
Khách đến từ châu Âu ước tính đạt 1.279 nghìn lượt người, tăng 20,4% so
với cùng kỳ năm trước, trong đó: Khách đến từ Liên bang Nga 384,4 nghìn lượt
người, tăng 44,8%; Vương quốc Anh 194,4 nghìn lượt người, tăng 12,5%; Pháp
180 nghìn lượt người, tăng 8,4%; Đức 131,4 nghìn lượt người, tăng 15,9%; Hà
Lan 50,6 nghìn lượt người, tăng 14,6%; Tây Ban Nha 43,3 nghìn lượt người,
tăng 21,5%; I-ta-li-a 39,6 nghìn lượt người, tăng 13,2%.
Khách đến từ châu Mỹ đạt 565,2 nghìn lượt người, tăng 10,8% so với
cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ Hoa Kỳ đạt 424,6 nghìn lượt người,
tăng 9,8%. Khách đến từ châu Úc đạt 280 nghìn lượt người, tăng 12%, trong đó
khách đến từ Ôx-trây-li-a đạt 246,4 nghìn lượt người, tăng 12,5%. Khách đến
từ châu Phi đạt 23,2 nghìn lượt người, tăng 29,1% so với cùng kỳ năm 2016.

12
Theo Nghị quyết số 46/NQ-CP ngày 9/6/2017 của Chính phủ.
15

7. Một số tình hình xã hội


a. Thiếu đói trong nông dân
Trong tháng Tám, cả nước có 3,1 nghìn hộ thiếu đói, giảm 67% so với
cùng kỳ năm 2016, tương ứng với 12,9 nghìn nhân khẩu thiếu đói, giảm 65,8%.
Tính chung 8 tháng năm 2017, cả nước có 161,9 nghìn lượt hộ thiếu đói, giảm
33,5% so với cùng kỳ năm trước, tương ứng với 664,2 nghìn lượt nhân khẩu
thiếu đói, giảm 34,2%. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm đến nay,
các cấp, các ngành, các tổ chức từ Trung ương đến địa phương đã hỗ trợ các hộ
thiếu đói 17,3 nghìn tấn lương thực và khoảng 1,1 tỷ đồng.
b. Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm
Trong tháng 8/2017, cả nước có 11,6 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân
miệng; 71 trường hợp mắc bệnh thương hàn; 110 trường hợp mắc bệnh viêm
não vi rút (2 trường hợp tử vong); 2 trường hợp mắc bệnh viêm màng não do
não mô cầu; 38 trường hợp mắc bệnh viêm não Nhật Bản (1 trường hợp tử
vong); 70 trường hợp mắc bệnh ho gà và 19 trường hợp mắc bệnh liên cầu lợn
ở người (2 trường hợp tử vong). Tính chung 8 tháng, cả nước có gần 43,2 nghìn
trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 402 trường hợp mắc bệnh thương hàn;
495 trường hợp mắc bệnh viêm não vi rút (15 trường hợp tử vong); 24 trường
hợp mắc bệnh viêm màng não do não mô cầu (3 trường hợp tử vong); 131
trường hợp mắc bệnh viêm não Nhật Bản (4 trường hợp tử vong); 28 trường
hợp nhiễm vi rút Zika; 508 trường hợp mắc bệnh ho gà (5 trường hợp tử vong)
và 126 trường hợp mắc bệnh liên cầu lợn ở người (11 trường hợp tử vong).
Tình hình dịch bệnh sốt xuất huyết vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp với số
bệnh nhân nhập viện ngày càng tăng cao. Trong tháng Tám đã có 27,2 nghìn
trường hợp mắc bệnh (8 trường hợp tử vong), nâng tổng số trường hợp mắc
bệnh trong 8 tháng năm nay lên 80,6 nghìn trường hợp, trong đó 60,1 nghìn
trường hợp phải nhập viện (22 trường hợp tử vong).
Tổng số người nhiễm HIV của cả nước hiện còn sống tính đến thời điểm
17/8/2017 là 219,8 nghìn người, trong đó 91 nghìn trường hợp đã chuyển sang
giai đoạn AIDS; số người tử vong do HIV/AIDS của cả nước tính đến thời
điểm trên là 91,9 nghìn người.
Trong tháng đã xảy ra 13 vụ ngộ độc thực phẩm, làm 276 người bị ngộ
độc. Tính từ 18/12/2016 đến 17/8/2017, trên địa bàn cả nước xảy ra 77 vụ ngộ
độc thực phẩm nghiêm trọng, làm 2.231 người bị ngộ độc, trong đó 17 trường
hợp tử vong.
c. Tai nạn giao thông
16

Trong tháng (từ 16/7 đến 15/8), trên địa bàn cả nước đã xảy ra 1.603 vụ tai
nạn giao thông, bao gồm 747 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên
và 856 vụ va chạm giao thông, làm 661 người chết, 353 người bị thương và
945 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông
tháng Tám giảm 9,9% (số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên
giảm 9,7% và số vụ va chạm giao thông giảm 10,2%); số người chết giảm
7,7%; số người bị thương giảm 19,8% và số người bị thương nhẹ giảm 12%.
Trong tháng xảy ra một số vụ tai nạn giao thông đường bộ nghiêm trọng như:
Vụ tai nạn tại xã Hồng Sơn (Bình Thuận) ngày 19/7 đã làm 3 người chết và 17
người bị thương; vụ tai nạn tại xã Tam Quan (Vĩnh Phúc) ngày 28/7 đã làm 24
người bị thương; vụ tai nạn tại xã Bình Thành (Đồng Tháp) ngày 14/8 đã làm
10 người bị thương.
Tính chung 8 tháng năm 2017, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 12.775 vụ
tai nạn giao thông, bao gồm 6.295 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở
lên và 6.480 vụ va chạm giao thông, làm 5.422 người chết, 3.153 người bị
thương và 7.381 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn
giao thông trong 8 tháng năm nay giảm 6,3% (số vụ tai nạn giao thông từ ít
nghiêm trọng trở lên giảm 5,4%; số vụ va chạm giao thông giảm 7,2%); số
người chết giảm 5,5%; số người bị thương giảm 16,2% và số người bị thương
nhẹ giảm 8,2%. Trong tổng số 6.295 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng
trở lên 8 tháng vừa qua, có 6.109 vụ (chiếm 97%) xảy ra ở đường bộ, làm 5.285
người chết và 3.107 người bị thương; tai nạn giao thông đường sắt có 104 vụ,
làm 90 người chết và 30 người bị thương; tai nạn giao thông đường thủy và
hàng hải có 82 vụ, làm 47 người chết và 16 người bị thương. Bình quân 1 ngày
trong 8 tháng năm 2017, trên địa bàn cả nước xảy ra 53 vụ tai nạn giao thông,
gồm 26 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 27 vụ va chạm giao
thông, làm 22 người chết, 13 người bị thương và 30 người bị thương nhẹ.
d. Thiệt hại do thiên tai
Trong tháng, mưa lớn, bão, lũ và sạt lở đất nghiêm trọng đã gây ảnh
hưởng lớn đến nhiều địa phương trong cả nước. Theo báo cáo sơ bộ, thiên tai
làm 63 người chết, mất tích và 54 người bị thương; gần 3,3 nghìn ngôi nhà bị
sạt lở, tốc mái, sập đổ; 7,6 nghìn ha lúa và 8,9 nghìn ha hoa màu bị ngập, hư
hỏng. Tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong tháng ước tính khoảng 1,8
nghìn tỷ đồng. Riêng mưa, lũ xảy ra ở các tỉnh miền núi phía Bắc đã làm 52
người chết, mất tích và 33 người bị thương, hơn 1 nghìn ngôi nhà bị sạt lở, tốc
mái, sập đổ; 5,7 nghìn ha lúa và hoa màu bị ngập, hư hỏng, thiệt hại ước tính
khoảng 1,4 nghìn tỷ đồng. Trong đó, tại Sơn La có 15 người chết, mất tích và
15 người bị thương; 441 ngôi nhà bị sạt lở, tốc mái, sập đổ; 728 ha lúa và hoa
màu bị ngập, hư hỏng; 12,9 km kênh mương và 103,7 km chiều dài đường xe
17

cơ giới bị sạt lở, cuốn trôi; thiệt hại ước tính khoảng 708 tỷ đồng. Tại Yên Bái
có 16 người chết, mất tích và 13 người bị thương; 136 ngôi nhà bị sạt lở, tốc
mái, sập đổ; 150 ha lúa và hoa màu bị ngập, hư hỏng; thiệt hại ước tính 542 tỷ
đồng. Ngay sau khi mưa, lũ xảy ra, Chính phủ đã chỉ đạo các địa phương rà
soát, di dời khẩn cấp những hộ dân nằm trong vùng nguy hiểm đến nơi an toàn,
đồng thời tích cực triển khai công tác hỗ trợ người dân vùng bị thiệt hại, khắc
phục, sửa chữa các công trình hạ tầng bị hư hại, nhất là các tuyến đường giao
thông nhằm nhanh chóng ổn định đời sống và sản xuất của nhân dân.
Tính chung 8 tháng năm 2017, thiên tai làm 140 người chết, mất tích và
135 người bị thương; 29,7 nghìn ngôi nhà bị sạt lở, tốc mái, sập đổ; 44,3 nghìn
ha lúa và 30,3 nghìn ha hoa màu bị ngập, hư hỏng. Tổng giá trị thiệt hại trong 8
tháng ước tính khoảng 4,6 nghìn tỷ đồng.
e. Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ
Trong tháng 8/2017, cơ quan chức năng đã phát hiện 1.260 vụ vi phạm
quy định về bảo đảm vệ sinh môi trường, trong đó xử lý 928 vụ với tổng số tiền
phạt hơn 21,3 tỷ đồng. Tính chung 8 tháng năm 2017, đã phát hiện 12.037 vụ vi
phạm quy định về bảo vệ môi trường trên địa bàn cả nước, trong đó xử lý 9.856
vụ với tổng số tiền phạt hơn 145,5 tỷ đồng.
Trong tháng, trên địa bàn cả nước xảy ra 256 vụ cháy, nổ, làm 11 người
chết và 29 người bị thương, thiệt hại ước tính 49,2 tỷ đồng, trong đó riêng vụ
cháy tại xưởng sản xuất bánh kẹo thuộc huyện Hoài Đức, Hà Nội đã làm 8
người chết và 2 người bị thương. Tính chung 8 tháng năm nay, trên địa bàn cả
nước xảy ra 2.915 vụ cháy, nổ, làm 71 người chết và 188 người bị thương, thiệt
hại ước tính khoảng 1.186 tỷ đồng./.

TỔNG CỤC TRƯỞNG

Nguyễn Bích Lâm

You might also like