You are on page 1of 40

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

KHOA KHOA HỌC ỨNG DỤNG




TIỂU LUẬN
Đề tài:
NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ ĐẾN NĂM 2030, VIỆT NAM HOÀN THÀNH
MỤC TIÊU CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA, CƠ BẢN TRỞ
THÀNH NƯỚC CÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG HIỆN ĐẠI
Môn học: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Giáo viên hướng dẫn: TS. ĐẶNG THỊ MINH PHƯỢNG
Lớp: CC03
Sinh viên thực hiện: Nhóm 3
STT Họ Tên MSSV
1 Trần Cao Duy Trường 2052299
2 Phạm Hữu Quyền 2152934
3 Nguyễn Quang Minh 2153577
4 Trang Vĩnh Nghị 2152800
5 Trịnh Hoàng Duy 2152473

TP HỒ CHÍ MINH, ngày 02 tháng 02 năm 2024


BÁO CÁO PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ VÀ KẾT QUẢ
THỰC HIỆN ĐỀ TÀI CỦA TỪNG THÀNH VIÊN NHÓM 3
ST
Họ Tên MSSV Nhiệm vụ Kết quả Chữ ký
T
Chương 3 mục 3.1 và 3.3,
1 Trần Cao Duy Trường 2052299 100%
tiểu kết chương 3
Tổng hợp word, phần mở
2 Phạm Hữu Quyền 2152934 100%
đầu và chương 3 mục 3.2
Chương 1 mục 1.2,
3 Nguyễn Quang Minh 2153577 chương 2 mục 2.1, tiểu 100%
kết chương 1
Chương 1 mục 1.1,
4 Trang Vĩnh Nghị 2152800 100%
chương 2 mục 2.2
Tiểu kết chương 2 và
5 Trịnh Hoàng Duy 2152473 100%
phần kết luận

NHÓM TRƯỞNG

Phạm Hữu Quyền


SĐT: 0772925968
Email: quyen.phambk182@hmcut.edu.vn
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.............................................................................................................1

1.1. Lý do chọn đề tài......................................................................................................2


1.2. Nhiệm vụ của đề tài..................................................................................................2
1.3. Đối tượng nghiên cứu...............................................................................................3
1.4. Kết cấu của đề tài.....................................................................................................3
1.5. Ý nghĩa đề tài............................................................................................................4
CHƯƠNG 1. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA...............................................................................................4
1.1.CÔNG NGHIỆP HÓA VÀ TÍNH TẤT YẾU CỦA NÓ TRONG QUÁ TRÌNH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM....................................................................6
1.1.1. Khái niệm công nghiệp hóa..............................................................................6
1.1.2. Tính tất yếu của công nghiệp hóa trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt
Nam hiện nay .........................................................................................................6
1.2. NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP
HOÁ VÀ HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM................................................................8
1.2.1. Cơ hội................................................................................................................8
1.2.2. Thách thức.........................................................................................................9
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1................................................................................................10

CHƯƠNG 2. QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM 12
2.1. THỜI KỲ TRƯỚC ĐỔI MỚI (từ 1960 - 1985).....................................................12
2.2. THỜI KỲ ĐỔI MỚI (1986 – nay)..........................................................................13
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2...........................................................................................................19

CHƯƠNG 3. NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ VIỆT NAM HOÀN THÀNH MỤC TIÊU CƠ
BẢN TRỞ THÀNH NƯỚC CÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG HIỆN ĐẠI................21
3.1. MỤC TIÊU.............................................................................................................21
3.2. THÁCH THỨC VÀ CƠ HỘI ................................................................................21
3.2.1. Thách thức.......................................................................................................21
3.2.2. Cơ hội..............................................................................................................24
3.3. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP...........................................................................25
3.3.1. Thực trạng.......................................................................................................25
3.3.2. Giải pháp.........................................................................................................27
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3................................................................................................28

PHẦN KẾT LUẬN.......................................................................................................34

TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................35


MỞ ĐẦU

1
1.1. Lý do chọn đề tài
Một là, thế giới đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đây là
cuộc cách mạng sản xuất mới gắn liền với những đột phá công nghệ chưa từng có
như kết nối internet, điện toán đám mây, in 3D, công nghệ cảm biến và thực tế ảo.
Cuộc cách mạng sản xuất mới này dự kiến sẽ có tác động sâu sắc đến mọi quốc gia,
chính phủ, công ty và người dân trên toàn thế giới, làm thay đổi cách chúng ta
sống, làm việc và sản xuất. Bản chất của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 là
dựa trên công nghệ số, tích hợp mọi công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình
và phương thức sản xuất. Kỷ nguyên mới này của đầu tư, năng suất và mức sống
ngày càng tăng, tất cả đều được thúc đẩy bởi sự sáng tạo của con người, sẽ có tác
động sâu sắc đến các hệ thống chính trị, xã hội và kinh tế của thế giới.
Hai là, công nghiệp 4.0 lần đầu tiên tác động lớn đến hoạt động sản xuất, mang
lại những thay đổi lớn trong phương thức sản xuất, tạo ra sự kết hợp giữa ứng dụng
vật lý và kỹ thuật số, làm xuất hiện Internet vạn vật (Internet of Things - IoT) sản
xuất toàn bộ chuỗi giá trị, từ R&D đến sản xuất, hậu cần đến dịch vụ khách hàng,
sẽ trải qua những thay đổi nhanh chóng và đáng kể, giúp giảm đáng kể chi phí giao
dịch và vận chuyển, đồng thời mang lại những điều kỳ diệu mới cho sản xuất và
năng suất. IoT sẽ biến đổi mọi ngành công nghiệp, từ sản xuất đến cơ sở hạ tầng
đến chăm sóc sức khỏe. Khi các phương thức sản xuất thay đổi, nếu chúng ta có
công nghệ mới nhất có thể kết nối thế giới thực và ảo để sản xuất, mọi người sẽ có
thể kiểm soát các quy trình từ nhà và bao quát mọi hoạt động của nhà máy thông
qua ưu thế của Internet.
Ba là, đối với lĩnh vực thương mại, bước đầu cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
này sẽ giúp giảm đáng kể chi phí giao dịch và vận chuyển. Trong lĩnh vực đầu tư,
công nghệ với bản chất của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đặc biệt là
công nghệ, số và Internet, là mảng đầu tư tiềm năng và hấp dẫn nhất đối với các
nhà đầu tư trong tương lai. Những cuộc cách mạng này cũng có thể tạo ra sự bất
công lớn hơn, đặc biệt là do những gián đoạn tiềm ẩn trong thị trường lao động. Tự
động hóa thay thế con người trong toàn bộ nền kinh tế, sa thải công nhân và mở
rộng khoảng cách lợi nhuận trên vốn, lợi nhuận trên lao động. Đổi mới công nghệ
thường dẫn đến tăng năng suất và của cải, nhưng tốc độ thay đổi cũng tạo ra áp lực
đáng kể từ việc di cư của người lao động. Người lao động trong các nhà máy trong
2
thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ có những yêu cầu khác nhau và sẽ
tìm được công việc mới trong các môi trường và tổ chức làm việc khác nhau.
Bốn là, Công nghiệp 4.0 sẽ phát triển mạnh khi những thách thức như biến đổi
khí hậu, dân số già và các vấn đề an ninh khác làm gia tăng nhu cầu tìm kiếm các
phương pháp sản xuất mới, hiệu quả hơn và bền vững hơn. Cuộc cách mạng này
mang lại nhiều cơ hội phát triển và hội nhập nhưng cũng không ít thách thức đối
với các nước đang phát triển như Việt Nam.
1.2. Nhiệm vụ của đề tài
Một là, làm rõ khái niệm, đặc điểm và vai trò của công nghiệp hóa trong quá
trình phát triển kinh tế của đất nước.
Hai là, làm rõ những cơ hội và thách thức đối với quá trình công nghiệp hóa và
hiện đại hóa ở Việt Nam.
Ba là, phân tích quá trình trình công nghiệp hóa vào thời kỳ trước và sau đổi
mới của nước ta.
Bốn là, làm rõ những mục tiêu cơ bản để Việt Nam trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại.
Năm là, làm rõ những thách thức và cơ hội cũng như thực trạng và giải pháp để
nước ta đạt được những mục tiêu cơ bản đã nêu trên.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Nền công nghiệp Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
1.4. Kết cấu của đề tài
Nội dung của đề tài được phân tích và làm rõ qua ba chương:
Chương 1: Tính tất yếu khách quan của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa
ở Việt Nam.
Chương 2: Quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở Việt Nam.
Chương 3: Những giải pháp để Việt Nam hoàn thành mục tiêu cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
1.5. Ý nghĩa đề tài
Sự quan trọng của đề tài được thể hiện qua việc ban hành Nghị Quyết số 29-
NQ/TW ngày 17/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XIII về "Tiếp

3
tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến
năm 2045" là hết sức cần thiết và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng:
Thứ nhất, CNH, HĐH là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt của
cả hệ thống chính trị, là phương thức, động lực để thực hiện mục tiêu phát triển nhanh
và bền vững đất nước. Thực tế đã chỉ ra rằng, đại đa số các nước trên thế giới muốn
tiến lên trở thành một nước công nghiệp, nước phát triển, đạt được mức thu nhập cao
đều tiến hành quá trình CNH, HĐH đất nước. Với đặc điểm và điều kiện của Việt
Nam, Việt Nam muốn thực hiện mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng XIII đã đề ra, tất
yếu vẫn phải tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH.
Thứ hai, vấn đề CNH, HĐH đất nước đã được đặt ra từ nhiều nhiệm kỳ Đại hội
Đảng. Trong thời gian, đã có khoảng 20 nghị quyết ban hành một số chủ trương,
đường lối quan trọng có liên quan đến những khía cạnh riêng rẽ của CNH, HĐH; tuy
nhiên cho đến trước khi ban hành Nghị quyết 29-NQ/TW, Đảng ta vẫn chưa có nghị
quyết riêng về vấn đề này. Đại hội XIII nêu rõ: "Tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH dựa
trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo". Đặc biệt trong bối cảnh hiện
nay, khi đất nước ta đã có thế và lực mới. Chúng ta đang xây dựng nền kinh tế độc lập
tự chủ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả. Bên cạnh
đó, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có nhiều biến động nhanh, phức tạp, khó lường;
nhất là tác động mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang đặt ra
nhiều vấn đề mới, có tính chất phức tạp. Từ đó đặt ra những yêu cầu thực tiễn cần phải
ban hành một Nghị quyết mới có tính tổng thể và toàn diện để đẩy mạnh CNH, HĐH
đất nước.
Thứ ba, thực tiễn thực hiện CNH, HĐH đất nước trong thời gian qua vẫn còn
nhiều hạn chế, tồn tại cần có chủ trương của Đảng để lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời tháo
gỡ như: tăng trưởng kinh tế không đạt mục tiêu chiến lược đề ra, tốc độ có xu hướng
giảm dần; có nguy cơ tụt hậu và rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Nội lực của nền kinh
tế còn yếu, năng suất lao động chậm được cải thiện, năng lực độc lập, tự chủ thấp.
Công nghiệp phát triển thiếu bền vững. Các ngành dịch vụ quan trọng chiếm tỷ trọng
còn nhỏ, mối liên kết với các ngành sản xuất còn yếu. Đô thị hoá chưa gắn kết chặt chẽ
và đồng bộ với CNH, HĐH. Các vấn đề về phát triển văn hoá, xã hội, con người, môi
trường còn nhiều hạn chế, bất cập… Nghị quyết được ban hành sẽ định hướng, là kim
chỉ nam để cụ thể hóa các chủ trương của Đảng nêu trong Văn kiện Đại hội Đảng lần
4
thứ XIII, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030; là cơ sở, căn cứ
chính trị quan trọng trong việc định hướng những tư duy mới, chủ trương, nhiệm vụ,
giải pháp mới tạo động lực thúc đẩy CNH, HĐH đất nước.

5
CHƯƠNG 1. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA QUÁ TRÌNH CÔNG
NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA
1.1. CÔNG NGHIỆP HÓA VÀ TÍNH TẤT YẾU CỦA NÓ TRONG QUÁ TRÌNH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM.
1.1.1. Khái niệm công nghiệp hóa

Công nghiệp hóa là sự thay đổi căn bản và toàn diện các hoạt động sản xuất cao
nhất dựa trên cơ sở phát triển công nghiệp, từ sử dụng chủ yếu lao động thủ công sang
sử dụng rộng rãi lao động phổ thông. Ngoài ra, công nghiệp hóa còn được hiểu là quá
trình tăng tỷ trọng công nghiệp trong các ngành kinh tế của một vùng kinh tế hay nền
kinh tế quốc dân. Đó là tỷ lệ công việc, giá trị gia tăng, năng suất lao động,...

Quá trình công nghiệp hóa có thể được mô tả là quá trình thay đổi kinh tế xã hội
trong một cộng đồng người từ nền kinh tế ít tập trung tư bản (xã hội tiền công nghiệp)
sang nền kinh tế công nghiệp. Công nghiệp hóa là một phần của quá trình hiện đại hóa.
Sự thay đổi kinh tế - xã hội này có quan hệ mật thiết với tiến bộ công nghệ, đặc biệt là
sự phát triển của sản xuất điện và luyện kim quy mô lớn. Công nghiệp hóa cũng gắn
liền với những thay đổi về hình thức và thái độ triết học trong nhận thức tự nhiên.

1.1.2. Tính tất yếu của công nghiệp hóa trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt
Nam

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản và toàn diện các
hoạt động sản xuất, kinh tế - xã hội, từ phân công lao động thủ công sang sử dụng phổ
biến sức lao động được đào tạo theo kỹ thuật, phương tiện và phương pháp tiên tiến,
hiện đại, đạt năng suất lao động xã hội cao làm chuyển biến về chất trong mọi hoạt
động của đời sống xã hội (đặc biệt là hoạt động sản xuất vật chất)

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một trong những nhiệm vụ kinh tế cơ bản của
quá độ nước ta lên chủ nghĩa cộng sản. CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản và
toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh tế - xã hội, từ phân công lao động thủ công sang
sử dụng phổ biến sức lao động được đào tạo theo kỹ thuật, phương tiện và phương

6
pháp tiên tiến, hiện đại, đạt năng suất lao động xã hội cao và có sự chuyển biến về chất
trong mọi hoạt động của đời sống xã hội (đặc biệt là hoạt động sản xuất vật chất).

Nó sử dụng khả năng, kinh nghiệm, trí tuệ và lòng dũng cảm của con người để
sáng tạo, sử dụng công nghệ hiện đại kết hợp với thành tựu khoa học và công nghệ,
các giá trị truyền thống dân tộc, làm biến đổi mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, là quá
trình tái cấu trúc theo hướng xã hội văn minh, hiện đại. Ngày nay, quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là một tất yếu của sự phát triển, là làn sóng mạnh mẽ tác động
đến mọi quốc gia trên thế giới và mọi mặt của đời sống xã hội.

Tính tất yếu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta xuất phát từ các
nguyên nhân sau:

- Vì phải tạo ra cơ sở vật chất và công nghệ cho chủ nghĩa xã hội. Cơ sở vật
chất công nghệ là hệ thống những yếu tố vật chất của năng suất xã hội ứng với trình độ
công nghệ kỹ thuật tương ứng mà sức lao động xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải.
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho sản xuất vật liệu xây dựng và sản xuất hàng loạt hiện đại là
một trong những thách thức kinh tế chính và là yêu cầu khách quan đối với các nước
đang phát triển. Cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở sản xuất quy mô lớn đòi hỏi
trình độ công nghệ kỹ thuật ngày càng hiện đại và không ngừng được nâng cao.

- Do yêu cầu giảm khoảng cách về kinh tế, kỹ thuật, công nghệ giữa Việt Nam
và thế giới. Công nghiệp hóa giúp tạo ra những nền kinh tế hiện đại với những ưu
điểm lớn như năng suất cao, cơ cấu sản xuất đa dạng, việc làm dồi dào hơn nhiều so
với nền kinh tế bao cấp. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa giúp phát triển kinh tế xã hội.
Khoảng cách giàu nghèo cũng được thu hẹp.

- Vì phải tạo ra năng suất lao động xã hội cao thì mới đảm bảo cho sự tồn tại và
phát triển của xã hội.

7
1.2. NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP CÔNG
NGHIỆP HÓA VÀ HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
1.2.1. Cơ hội

Việt Nam có cơ sở hạ tầng và công nghệ thông tin rất tốt nên có lợi thế lớn khi
tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Trong những năm gần đây, số lượng
người dùng điện thoại thông minh tăng lên nhanh chóng. Hệ thống WiFi miễn phí phổ
biến ở các thành phố lớn và giá cước 3G và 4G thuộc hàng rẻ nhất thế giới. Ngoài ra,
sự đầu tư mạnh mẽ vào Internet trong hạ tầng kỹ thuật của các công ty lớn như Viettel,
FPT, VNPT.. trong vòng 15 đến 20 năm qua đã “tạo ra thị trường cho công nghệ đơn
giản nhất từ trước đến nay”.

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là sự kết hợp của công nghệ vật lý, kỹ
thuật số và sinh học đang tạo ra những khả năng sản xuất hoàn toàn mới và có tác
động sâu rộng đến đời sống kinh tế, chính trị và xã hội toàn cầu. Có thể khái quát bốn
đặc điểm chính của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Một mặt, sự kết hợp của
công nghệ cảm biến mới, phân tích dữ liệu lớn, điện toán đám mây và Internet vạn vật
sẽ thúc đẩy sự phát triển của máy móc tự động và hệ thống sản xuất thông minh. Thứ
hai là sử dụng công nghệ in 3D để sản xuất hoàn chỉnh sản phẩm bằng cách tích hợp
dây chuyền sản xuất mà không cần lắp ráp thiết bị phụ trợ. Công nghệ này cũng cho
phép mọi người in các sản phẩm mới theo cách phi truyền thống, bỏ qua người trung
gian và giảm chi phí sản xuất nhiều nhất có thể. Thứ ba, công nghệ nano và vật liệu
mới tạo ra những cấu trúc vật chất mới được ứng dụng rộng rãi trong hầu hết các lĩnh
vực. Thứ tư, trí tuệ nhân tạo và điều khiển học sẽ cho phép con người điều khiển từ xa
và tương tác nhanh, chính xác hơn, không bị giới hạn về không gian và thời gian.

Trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ và trình độ chính trị của giai cấp
công nhân ngày càng được nâng cao. Số lượng công nhân có kiến thức và trình độ
công nghệ tiên tiến ngày càng tăng. Người lao động tại các khu công nghiệp, ngoài
quốc doanh và doanh nghiệp nước ngoài được tiếp xúc với máy móc thiết bị tiên tiến,
hợp tác với chuyên gia nước ngoài để nâng cao tay nghề như kỹ năng lao động, đào
tạo công nghiệp và phương pháp làm việc tiên tiến là cần thiết. Lực lượng lao động trẻ
được đào tạo ngay từ đầu theo chuẩn nghề nghiệp, được giáo dục văn hóa và rèn luyện

8
trong thực tiễn sản xuất hiện đại sẽ trở thành lực lượng lao động chính, tác động tích
cực đến sản xuất công nghiệp, nâng cao giá trị sản phẩm công nghiệp, sức cạnh tranh
của nền kinh tế trong tương lai...
1.2.2. Thách thức

Phát triển kinh tế toàn cầu: Các ngành công nghiệp toàn cầu có xu hướng tăng
trưởng chậm hơn và áp lực cạnh tranh giữa các nước mới công nghiệp hóa và các nước
đang phát triển trở nên 'cao hơn'. Do sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công
nghệ, nhiều nước đang phát triển sẽ đứng trước nguy cơ chuyển sang thời kỳ hậu công
nghiệp sớm hơn dự kiến.

Phát triển kinh tế, công nghiệp: Tăng trưởng kinh tế của nước ta vẫn chủ yếu
dựa vào đầu tư vốn và tăng trưởng tín dụng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều
sâu dựa trên khoa học, công nghệ và tri thức. Do đó, nền kinh tế nước ta phát triển
chưa bền vững, chất lượng tăng trưởng chưa cao.

Tỷ trọng ngành trong cơ cấu kinh tế còn khoảng cách lớn để đạt được trình độ
của các nước phát triển. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra chậm và đặt ra
những thách thức đối với đất nước trong việc thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.

GDP/đầu người: Từ năm 2000 đến nay, GDP/đầu người của nước ta tăng rất
nhanh, đạt 2.590 USD/người năm 2018, gấp hơn 6,6 lần so với năm 2000. Xét theo
sức mua tương đương, GDP/đầu người của Việt Nam hiện khoảng 7.435 USD/người.
GDP bình quân đầu người hiện đang là vấn đề lớn đối với nền kinh tế nước ta trong
việc tính toán và chuẩn bị cho các mục tiêu phát triển kinh tế trong tương lai.

Năng suất lao động: Năng suất lao động có quan hệ trực tiếp với GDP/người,
thể hiện rõ vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Việt Nam hiện nay nằm
trong nhóm trung lưu của thế giới, đặc biệt Việt Nam có nhiều lợi thế về dân số (quy
mô, độ tuổi lao động). ), nhưng năng suất lao động của Việt Nam vẫn ở mức thấp so
với các nước phát triển. Điều này cho thấy nền kinh tế Việt Nam sẽ phải đối mặt với
những thách thức lớn trong thời gian tới để bắt kịp năng suất lao động của các nước
trong khu vực và thế giới.

9
Năng lực cạnh tranh kinh tế: Năng lực cạnh tranh quốc tế của nền kinh tế Việt
Nam chỉ ở mức trung bình và có biến động trong thời gian gần đây. Năm 2019, Việt
Nam xếp thứ 67/141 nền kinh tế, tăng 10 bậc so với năm 2018, nhưng vẫn kém xa so
với các nước dẫn đầu ASEAN.

Khoa học và công nghệ: Khoa học và công nghệ chưa thực sự là động lực phát
triển kinh tế, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình công nghiệp hóa. Huy động
các nguồn lực xã hội cho hoạt động khoa học và công nghệ còn yếu. Việc đầu tư cho
khoa học và công nghệ còn ít, hiệu quả sử dụng chưa cao. Thị trường khoa học và
công nghệ chưa gắn kết chặt chẽ kết quả nghiên cứu, ứng dụng, giáo dục với nhu cầu
sản xuất, kinh doanh và quản lý.

Xuất khẩu hàng hóa: Chính sách phát triển xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam
còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến phát triển bền vững. Tăng trưởng xuất khẩu đang
vượt tốc độ tăng trưởng GDP, nhưng không nhất quán. Độ mở kinh tế qua kênh xuất
khẩu rất lớn nhưng lượng xuất khẩu còn ít. Chỉ số xuất khẩu công nghiệp chế tạo bình
quân đầu người chỉ ở mức trung bình của thế giới.

Đầu tư nước ngoài: Hiệu quả chuyển giao công nghệ của đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam còn thấp. Các dự án FDI chủ yếu tập trung vào gia công, lắp ráp, tỷ lệ nội
địa hóa thấp. Công nghệ chưa tạo ra hiệu ứng lan tỏa từ doanh nghiệp FDI sang doanh
nghiệp trong nước như kỳ vọng. Việc thu hút đầu tư của các tập đoàn đa quốc gia lớn
vào nhiều ngành, lĩnh vực ưu tiên còn hạn chế. Hơn một nửa số dự án FDI có quy mô
dưới 1 triệu USD.

Quá trình đô thị hóa và phát triển cơ sở hạ tầng: Quá trình đô thị hóa diễn ra
tương đối nhanh nhưng hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội chưa đồng bộ. Trình độ,
năng lực quản lý đô thị và phát triển đô thị còn thấp so với yêu cầu.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp, doanh nghiệp
đứng trước nhiều cơ hội và thách thức để phát triển. Các ứng dụng của Cách mạng
Công nghiệp là công cụ để mở rộng và đa dạng hóa các hình thức sản xuất và quản lý.
Nhờ sự hỗ trợ của Internet, dữ liệu lớn, sự phát triển của hệ thống thông tin trực tuyến,
mạng xã hội…, người dân tiếp cận thông tin nhanh chóng, đầy đủ. Dữ liệu lớn rất hữu
10
ích để thu thập thông tin. Thu thập và phân tích dữ liệu dễ dàng hơn để hỗ trợ ra quyết
định nhanh chóng và chính xác hơn. Cách mạng Công nghiệp cũng khuyến khích các
quốc gia có ưu thế về công nghệ và vốn tái đầu tư vào chính họ bằng cách áp dụng
công nghệ "nhà máy thông minh", thay vì đầu tư vào các quốc gia công nghệ có lợi thế
về lao động. Đây là một thách thức lớn, đặc biệt đối với các quốc gia có đông lao động
kỹ năng thấp và các quốc gia cần có tầm nhìn chiến lược để chuyển đổi cách người lao
động nghĩ về nghề nghiệp, quan hệ hợp đồng và quan hệ lao động.

11
CHƯƠNG 2. QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT
NAM
2.1. THỜI KỲ TRƯỚC ĐỔI MỚI (TỪ 1960 - 1985)
Vào thời kỳ trước đổi mới, quá trình công nghiệp hóa của nước ta đi kèm với
bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế luôn diễn biến khó lường và bất lợi. Đảng ta
đã hình thành đường lối công nghiệp hóa đất nước từ Đại hội III vào tháng 9 năm
1960. Sau 4 năm bắt đầu quá trình công nghiệp hóa, đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh
phá hoại nhắm vào miền Bắc nước ta. Vào thời điểm đó, bên cạnh việc tiến hành công
nghiệp hóa, đất nước phải đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược bao gồm vừa
phát triển kinh tế vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại ở miền Bắc và thực hiện
cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam. Thậm chí sau khi giành được độc lập vào
năm 1975, nước ta tiếp tục gặp nhiều biến cố như chiến tranh biên giới phía bắc cũng
như sự cấm vận đến từ đế quốc Mỹ. Có thể thấy, quá trình 25 năm hiện đại hóa của
nước ta vào thời kỳ trước đổi mới có thể chia ra làm hai giai đoạn bao gồm: công
nghiệp hóa ở miền Bắc từ 1960 đến 1975 và công nghiệp hóa trên phạm vi cả nước từ
1975 đến 1985 với những mục tiêu và định hướng rõ rệt.
Đặc điểm lớn nhất ở miền Bắc đó là tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải
qua phát triển chủ nghĩa tư bản với điểm xuất phát là một nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu, bên cạnh đó vừa phải chiến đấu chống Mỹ. Nền công nghiệp chỉ chiếm tỷ trọng
18,2% và 7% lực lượng lao động xã hội trong khi nông nghiệp chiếm tới 42,3% đi kèm
với 83% lực lượng lao động xã hội. Với bối cảnh đó, tại Đại hội Đảng III, nước ta đã
xác định rõ mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là xây dựng một
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại; bước đầu xây dựng cơ sở vật chất và
kỹ thuật. Với mục tiêu cơ bản, lâu dài như trên thì phải được thực hiện qua nhiều giai
đoạn:
- Về cơ cấu kinh tế, Đảng xác định: kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy
công nghiệp nặng làm nền tảng.
- Về chỉ đạo thực hiện công nghiệp hóa, Hội nghị Trung Ương lần thứ 7 (khóa
III) đã nêu phương hướng chỉ đạo xây dựng và phát triển công nghiệp là:
+ Phát triển công nghiệp một cách hợp lý là một trong những ưu tiên
hàng đầu.
+ Phát triển công nghiệp và nông nghiệp phải có sự kết hợp chặt chẽ.
12
+ Tập trung phát triển công nghiệp nhẹ, song cũng đồng thời ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng.
+ Tập trung phát triển công nghiệp trung ương cũng như đẩy mạnh phát
triển công nghiệp địa phương.
Thực tế, nước ta đã lựa chọn mô hình chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập
khẩu mà nhiều nước trên thế giới, bao gồm cả nước XHCN cũng như các nước TBCN
đã và đang thực hiện lúc đó. Chiến lược lược này được duy trì xuyên suốt 2 giai đoạn
trong thời kỳ trước đổi mới ở miền Bắc cũng như trên phạm vi cả nước.
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, chiến lược “Ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng…” tiếp tục được khẳng định sau 16 năm thực hiện tại Đại hội IV của Đảng trên
phạm vi cả nước với một số ít thay đổi. Tuy những đổi trong chính sách công nghiệp
hóa chưa thật sự rõ rệt nhưng cũng đã tạo một số thay đổi nhất định trong quá trình
phát triển:
- Số xí nghiệp công nghiệp quốc danh tăng từ 1913 cơ sở năm 1976 lên
2627 cơ sở năm 1980 và 3220 cơ sở năm 1985.
- Giai đoạn năm 1976 đến năm 1978 công nghiệp phát triển khá với tỷ lệ
tăng trưởng 118,2%.
Tuy nhiên trên thực tế, nước ta chưa có đủ điều kiện để thực hiện bởi vì nhiều
nguyên do (nguồn viện trợ từ nước ngoài đột ngột giảm, cách thức quản lý nền kinh tế
nặng tính quan liêu, bao cấp…) nên có thể thấy đây là dấu hiệu của tư tưởng nóng vội
trong việc xác định bước đi, và sai lầm trong việc đặt trọng tâm giữa công nghiệp và
nông nghiệp. Vì vậy, khi xét trong giai đoạn 4 năm từ 1976 đến 1980, nền kinh tế
nước ta lâm vào khủng hoảng, suy thoái cũng như cơ cấu kinh tế mất cân đối nghiêm
trọng.
2.2. THỜI KỲ ĐỔI MỚI (1986 - NAY)
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), sau khi nghiêm khắc chỉ ra những sai
lầm trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa thời kỳ 1960-1985 và tổng hợp
đúc kết kinh nghiệm của một số nền kinh tế trên thế giới, Đảng ta đã đề ra và thực hiện
từng bước đổi mới các chính sách kinh tế trên cơ sở đổi mới tư duy kinh tế và tổng
hợp kinh nghiệm trong thực tiễn. Giai đoạn 1986-1990 có thể được coi là giai đoạn
“khởi động” cho một sự phát triển kinh tế mạnh mẽ sau này. Đồng thời, Đại hội đã
thông qua đường lối đổi mới toàn diện và xác định: “Mục tiêu tổng quát của những
13
năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội,
tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo”. Điểm nổi bật chính của Đại hội VI, chính là
sự thay đổi trong lựa chọn mô hình chiến lược Công Nghiệp Hóa, chuyển từ mô hình
cũ hướng nội (thay thế nhập khẩu) trước đây bằng mô hình hỗn hợp (hướng về xuất
khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu) đang được áp dụng phổ biến và khá thành công ở
một số quốc gia Châu Á vào thời điểm đó. Đối với ngành công nghiệp, Đại hội đề ra
định hướng phát triển công nghiệp nhẹ, tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp, đáp ứng
nhu cầu về hàng tiêu dùng thông thường. Về chế biến nông lâm, thuỷ sản, tăng nhanh
hàng gia công xuất khẩu và các mặt hàng xuất khẩu khác. Tiếp tục xây dựng một số cơ
sở công nghiệp nặng trước hết là năng lượng, phù hợp với điều kiện thực tế, nhằm
phục vụ thiết thực các mục tiêu kinh tế, quốc phòng trong chặng đường đầu tiên, và
chuẩn bị tiền đề cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa trong giai đoạn tiếp theo.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991), Đảng ta tiếp tục có những nhận thức
mới, toàn diện và sâu sắc hơn về công nghiệp hóa gắn liền hiện đại hóa. Đại hội đề cập
đến lĩnh vực Dịch vụ kinh tế - kỹ thuật trong việc đáp ứng yêu cầu sản xuất, đời sống
và hợp tác quốc tế; xây dựng chiến lược phát triển kinh tế vùng phù hợp với chiến lược
chung cả nước. Thực hiện đường lối công nghiệp hóa của Đại hội VII, nền kinh tế đã
đạt được bước phát triển cao hơn, có chất lượng hơn, đi vào thực chất hơn so với nhiều
năm trước. Đại hội VII cũng đã có những bước đột phá mới về công nghiệp hóa. Lần
đầu tiên, phạm trù “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (CNH, HĐH) được xác định chính
thức trong Văn kiện của Đảng. Trong điều kiện phát triển mới, công nghiệp hóa ở
nước ta phải gắn liền với hiện đại hóa, bởi vì: Trong bối cảnh khoa học công nghệ phát
triển như vũ bão, nếu nước ta không thực hiện công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa
thì sẽ ngày càng tụt hậu xa hơn so với trình độ phát triển chung của thế giới. Tiếp nối
những kết quả từ những năm trước, Đại hội VII đã thông qua “Chiến lược ổn định và
phát triển kinh tế - xã hội nước ta đến năm 2000”. Tại Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp
hành Trung Ương Đảng khóa VII (7/1994) đã ra Nghị quyết về “Phát triển công
nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới”. Nghị quyết đã tạo điều kiện
thuận lợi cho các cơ chế, chính sách cụ thể thúc đẩy phát triển công nghiệp, đẩy mạnh
công tác khoa học và công nghệ phục vụ sản xuất. Đáng chú ý, cũng tại Hội nghị này,
14
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta đã được quan niệm, đó là “Quá trình chuyển
đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế,
xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức
lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự
phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã
hội cao”. Cùng với ngành công nghiệp, Đại hội đã đưa ra định hướng phát triển công
nghiệp chế biến gắn với phát triển nông-lâm-ngư nghiệp. Đẩy mạnh công nghiệp sản
xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, mở rộng kinh tế đối ngoại. Xây dựng nền công
nghiệp nặng với bước đi thích hợp, trước hết là các ngành trực tiếp phục vụ nông
nghiệp.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996), tổng kết sau 10 năm đổi mới, Đại hội
Đảng VIII đã nhận định: “Đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội”, nhiệm
vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp
hóa đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Đại hội cũng đã xác định mục tiêu, nhiệm vụ của công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở nước ta đến năm 2020: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
và xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại,
cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Dựa trên cơ sở đó, Đại hội đã xác định
mục tiêu đến năm 2000 và năm 2020. Đại hội VIII đã hoàn thiện, phát triển thành 06
quan điểm lớn chỉ đạo quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những quan điểm
tổng quát này cho thấy rõ hơn mô hình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta là
sự kết hợp giữa chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu và hướng về xuất
khẩu, trong đó nhấn mạnh yêu cầu hướng mạnh về xuất khẩu, coi thị trường bên ngoài
là một yếu tố giữ vị trí đặc biệt quan trọng cho sự phát triển. Các ngành công nghiệp
được chú trọng phát triển trước hết là công nghiệp chế biến, công nghiệp hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu; xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng về dầu
khí, than, xi măng, cơ khí, điện tử, thép, phân bón, hoá chất, một số cơ sở công nghiệp
quốc phòng.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001), Đại hội diễn ra trong bối cảnh nhân loại
đã kết thúc thế kỷ XX và bước sang thế kỷ XXI, đất nước đứng trước những thời cơ
15
lớn đan xen với nhiều thách thức lớn. Đại hội đã đánh giá, tổng kết 05 năm thực hiện
Nghị quyết Đại hội VIII, 15 năm đổi mới và 10 năm thực hiện chiến lược kinh tế - xã
hội, rút ra những bài học kinh nghiệm trong công cuộc đổi mới, từ đó phát triển và
hoàn thiện các định hướng đề ra xác định chiến lược phát triển đất nước trong hai thập
kỷ đầu của thế kỷ XXI. Chủ đề của Đại hội được xác định là “Phát huy sức mạnh toàn
dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm
đầu của thế kỷ XXI (2001-2010) là “Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp”. Chủ đề Đại hội và chủ đề của Chiến lược được
quyết định tại Đại hội đã thể hiện nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn phát triển mới là
“đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Để làm nền tảng đưa nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, ngành công nghiệp đã được định
hướng phấn đấu phát triển với nhịp độ cao, hiệu quả, coi trọng đầu tư chiều sâu, đổi
mới thiết bị công nghệ tiên tiến và từng bước hiện đại hóa từng phần các ngành sản
xuất công nghiệp. Xây dựng có chọn lọc, có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường,
và có hiệu quả ở một số cơ sở công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất: dầu khí, luyện
kim (thép, alumin, nhôm, kim loại quý hiếm...), cơ khí, điện tử, hoá chất cơ bản... Phát
triển mạnh công nghiệp công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin, điện tử, viễn
thông. Phát triển một số cơ sở cần thiết cho công nghiệp quốc phòng.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (2006), Đại hội cũng đã tiếp tục hoàn thiện và
nhấn mạnh một số điểm mới trong tư duy về công nghiệp hóa, đó là: “Con đường công
nghiệp hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước”. Đây là
yêu cầu cấp thiết của nước ta nhằm giảm nhanh khoảng cách chênh lệch về trình độ
phát triển so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Một nước đi sau có điều
kiện tận dụng những kinh nghiệm kỹ thuật, công nghệ và thành tựu của các nước đi
trước, tận dụng xu thế của thời đại thông qua hội nhập quốc tế để rút ngắn thời gian.
Tuy nhiên, để tiến hành công nghiệp hóa theo lối rút ngắn so với các nước đi trước,
chúng ta cần thực hiện các yêu cầu như: Phát triển kinh tế và công nghệ phải vừa có
những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt; phát huy những lợi thế của đất nước, gắn
công nghiệp hóa với hiện đại hóa, từng bước phát triển kinh tế tri thức; phát huy nguồn
lực trí tuệ và tinh thần của con người Việt Nam, đặc biệt coi trọng phát triển giáo dục
16
và đào tạo, khoa học và công nghệ, xem đây là nền tảng và động lực cho Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Đại hội cũng đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế 5
năm 2006 - 2010 với mục tiêu tổng quát là: “Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt
được bước chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát
triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật
chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân. Tạo được nền tảng để đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, đưa nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020... Nâng cao vị thế của Việt Nam trong
khu vực và trên trường quốc tế”. Phương hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước
ta là phát triển nhanh, có hiệu quả các sản phẩm, các ngành, các lĩnh vực có lợi thế,
đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
phải bảo đảm xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế, tức là phải tiến hành công nghiệp hóa trong một nền kinh tế mở, hướng ra bên
ngoài. Với các ngành công nghiệp được định hướng tập trung nguồn lực, phát triển
mạnh và nâng cao chất lượng các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, tạo ra sản
phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động, như: chế biến nông, lâm, thuỷ sản; may
mặc, giày dép, sản phẩm nhựa, đồ gỗ gia dụng; cơ khí đóng tàu, công nghiệp chế tạo
thiết bị đồng bộ, thiết bị điện, thiết bị xây dựng, máy nông nghiệp, phương tiện giao
thông, sản xuất và lắp ráp cơ - điện tử; công nghiệp bổ trợ, công nghiệp công nghệ
thông tin, sản xuất phần mềm. Tăng tỉ trọng sản phẩm công nghiệp xuất khẩu đã qua
chế biến. Coi trọng phát triển công nghiệp năng lượng đi đôi với áp dụng công nghệ
tiết kiệm năng lượng; công nghiệp vật liệu và công nghệ tiết kiệm nguyên vật liệu;
công nghiệp dược và các chế phẩm sinh học; công nghiệp bảo vệ môi trường.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (2010): Đại hội đã tổng kết thực hiện
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2010 và đưa ra nhận định, đó là:
Nước ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn, quan trọng, đưa đất nước thoát ra khỏi
tình trạng kém phát triển; vị thế của đất nước đã được nâng lên một tầm cao mới trên
trường quốc tế, do đó đang tạo ra những tiền đề mới, quan trọng để đẩy nhanh tiến
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta. Đại hội cũng đã nhất trí thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (hoàn chỉnh,
phát triển năm 2011), trong đó: “Từ nay đến giữa thế kỷ thứ XXI, toàn Đảng, toàn dân
ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại,
17
theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội cũng đã thông qua Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2011 – 2020 với mục tiêu tổng quát là: Phấn đấu từ đây đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế tiếp tục được nâng cao; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn
trong giai đoạn sau. Định hướng phát triển mạnh công nghiệp theo hướng hiện đại,
nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh. Trong đó cần cơ cấu lại sản xuất công nghiệp
cả về ngành kinh tế - kỹ thuật, vùng và giá trị mới. Tăng hàm lượng khoa học công
nghệ và tỉ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm. Phát triển có chọn lọc công nghiệp chế
biến, chế tác, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp năng lượng, công nghiệp khai
khoáng, luyện kim, hoá chất, công nghiệp quốc phòng. Ưu tiên phát triển các sản
phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản phẩm có khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi
giá trị toàn cầu trong các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp cơ khí, công
nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông, công nghiệp dược... Chú trọng phát triển
công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, vật
liệu mới đi đôi với ứng dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu. Từng bước
phát triển công nghiệp sinh học và công nghiệp môi trường.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII (2016), Đại hội đã kiểm điểm việc thực
hiện Nghị quyết Đại hội XI; tổng kết, nhìn lại 30 năm đổi mới để rút ra những bài học
kinh nghiệm cho thời gian phát triển tới. Đại hội cũng đã chỉ rõ việc đổi mới chưa
đồng bộ và toàn diện, dẫn đến một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chưa đạt được theo kế
hoạch; nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu để đến năm 2020 nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được. Đại hội cũng đã
thông qua mục tiêu tổng quát của giai đoạn 2016 - 2020, đó là: “Đẩy mạnh toàn diện,
đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại… chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam
trong khu vực và trên thế giới”. Tháng 3/2018, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết
23-NQ/TW có chuyên đề về chính sách phát triển công nghiệp quốc gia, với nội dung
cụ thể “Định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm
2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Mục tiêu tổng quát của Nghị quyết đưa ra, đó là: “Đến
năm 2030, Việt Nam phấn đấu hoàn thành mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; thuộc nhóm 03 nước dẫn đầu
18
khu vực ASEAN về công nghiệp, trong đó một số ngành công nghiệp có sức cạnh
tranh quốc tế và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Tầm nhìn đến năm 2045, Việt
Nam trở thành nước công nghiệp phát triển hiện đại”. Điểm nổi bật của Nghị quyết là
tiếp tục hoàn thiện về tư duy trong quan điểm chỉ đạo: “Nhận thức đầy đủ, tôn trọng,
vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, phù hợp với các
Điều kiện phát triển của đất nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính
trị, kiên quyết chống mọi biểu hiện duy ý chí, quan liêu, bao cấp trong quá trình xây
dựng, thực thi chính sách công nghiệp quốc gia; bám sát, kế thừa có chọn lọc thành
tựu phát triển công nghiệp và kinh nghiệm công nghiệp hóa của thế giới”. Đối với
ngành công nghiệp trong giai đoạn đến năm 2030, cần tập trung ưu tiên phát triển một
số ngành công nghiệp như: Công nghệ thông tin và viễn thông, công nghiệp điện tử ở
trình độ tiên tiến của thế giới, đáp ứng được yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ 4 nhằm tạo ra nền tảng công nghệ số cho các ngành công nghiệp khác; công
nghiệp năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, năng lượng thông minh; công nghiệp chế
biến, chế tạo phục vụ nông nghiệp đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Ưu tiên phát triển công
nghiệp quốc phòng, an ninh, kết hợp với công nghiệp dân sinh theo hướng lưỡng dụng.
Tiếp tục phát triển công nghiệp dệt may, da giày nhưng ưu tiên tập trung vào các khâu
tạo giá trị gia tăng cao gắn với các quy trình sản xuất thông minh, tự động hóa. Ưu tiên
phát triển một số ngành, lĩnh vực cơ khí như: ôtô, máy nông nghiệp, thiết bị công
trình, thiết bị công nghiệp, thiết bị điện, thiết bị y tế…
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Các chủ trương trước thời kỳ trước đổi mới mặc dù đã có đóng góp không nhỏ trong
sự nghiệp phát triển nền công nghiệp của Việt Nam. Song trong đó vẫn còn nhiều bất
cập và chưa phù hợp cho công cuộc phát triển lâu dài. Đại hội VI của Đảng đã phê
phán sai lầm trong nhận thức của chủ trương công nghiệp hóa trong thời kỳ 1960-
1985. Sai lầm trong việc xác định mục tiêu, nóng vội chủ quan muốn đẩy nhanh công
nghiệp hóa khi chưa đủ điều kiện, bố trí cơ cấu kinh tế còn nhiều hạn chế. Quá trình
đổi mới tư duy về công nghiệp hóa từ Đại hội VI đến Đại hội XII đã làm quá trình
công nghiệp hóa ở đất nước ta có nhiều sự thay đổi để phát triển. Đại hội VI xác định
nội dung chính của công nghiệp hóa là thực hiện thắng lợi 3 chương trình mục tiêu:
lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Đồng thời khái niệm công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được xác định trong văn kiện đảng tại Hội nghị Trung
19
Ương 7 khóa VII. Đại hội VIII nhận định đất nước đã đủ điều kiện chuyển sang thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đưa ra sáu quan điểm về công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Đại hội IX và X đã nhấn mạnh một số điểm mới trong tư duy về công nghiệp
hóa, đó là phải tiến hành công nghiệp hóa trong một nền kinh tế mở, hướng ngoại. Đại
hội XI đã tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở giai đoạn 2001-
2010 ở nước ta và nhận định đã đạt nhiều thành tựu to lớn. Bên cạnh đó, Đại hội thông
qua chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020. Đại hội XII đã tổng kết lại 30
năm đổi mới để rút ra bài học kinh nghiệm, đồng thời đại hội cũng chỉ ra việc đổi mới
chưa đồng bộ, toàn diện và đề ra mục tiêu tổng quát cho giai đoạn tiếp theo. Bên cạnh
đó, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 23-NQ/TW với định hướng xây dựng đến năm
2030 và tầm nhìn đến năm 2045.

20
CHƯƠNG 3.
NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ VIỆT NAM HOÀN THÀNH MỤC TIÊU CƠ BẢN
TRỞ THÀNH NƯỚC CÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG HIỆN ĐẠI

3.1. MỤC TIÊU


Theo nghị quyết số 29-NQ/TW của hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp Hành Trung Ương
Đảng khóa XIII, tiếp tục tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2030,
tầm nhìn đến năm 2045. Cụ thể hơn, đến năm 2030, Việt Nam đã đạt được các tiêu chí
của một nước công nghiệp với công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đời
sống của người dân được nâng cao. Nền công nghiệp quốc gia được xây dựng vững
mạnh với khả năng sản xuất tăng cao , khả năng thích ứng và tự chủ cao. Việc từng
bước làm chủ công nghệ lõi, công nghệ nền của các ngành công nghiệp nền tảng, công
nghiệp ưu tiên và công nghiệp mũi nhọn được thực hiện và làm chủ. Nông nghiệp
cũng phát triển nhanh và bền vững theo hướng sinh thái và ứng dụng các thành tựu
khoa học - công nghệ tiên tiến. Các ngành dịch vụ đã được cơ cấu lại đồng bộ, hiệu
quả trên nền tảng công nghệ hiện đại và công nghệ số với chất lượng, hiệu quả và năng
lực cạnh tranh được nâng cao. Đồng thời, đã hình thành được nhiều ngành dịch vụ
mới, có giá trị gia tăng cao.
Tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao,
thuộc nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu khu vực châu Á.
3.2. THÁCH THỨC VÀ CƠ HỘI
3.2.1. Thách thức
Lý luận và Mô hình kinh tế:
- Mô hình CNH, HĐH của Việt Nam vẫn còn đang trong quá trình hoàn thiện;
chưa ̣ được cụ thể hóa thành những tiêu chí cụ thể của một nước công nghiệp. Thực
hiện CNH, HĐH chưa bằng thể chế của nền kinh tế thị trường, chưa tuân theo các quy
luật khách quan của cơ chế thị trường.
- Chiến lược CNH, HĐH trong thời gian dài chưa xác định rõ trọng tâm, trọng
điểm cần thiết cho từng giai đoạn phấn đấu. Nhiều cơ chế, chính sách còn thiếu, hoặc
thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển của nền kinh tế.

21
- CNH, HĐH theo yêu cầu “rút ngắn”, cũng chưa làm rõ được những nội dung cơ
bản, và động lực để thực hiện quá trình CNH, HĐH rút ngắn.
Xu hướng kinh tế thế giới: Công nghiệp thế giới có xu hướng tăng chậm hơn,
trong khi áp lực cạnh tranh giữa các nước công nghiệp mới và đang phát triển càng
“gay gắt”. Do khoa học và công nghệ phát triển nhanh, nhiều nền kinh tế đang phát
triển sẽ bị ảnh hưởng từ nguy cơ chuyển sang thời kỳ hậu công nghiệp sớm hơn so với
dự kiến.
Phát triển kinh tế và ngành công nghiệp:
- Tăng trưởng kinh tế nước ta vẫn dựa nhiều vào đầu tư vốn và tăng trưởng tín
dụng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu, dựa trên khoa học công nghệ và tri
thức. Do đó, nền kinh tế nước ta phát triển thiếu bền vững, chất lượng tăng trưởng
không cao.
- Tỷ trọng các ngành trong cơ cấu kinh tế, vẫn còn khoảng cách lớn để đạt đến
mức là một nước có nền kinh tế phát triển. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm,
đang đặt ra các thách thức đối với nước ta trong việc thực hiện các mục tiêu CNH,
HĐH.
- Tăng trưởng của ngành công nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước. Tỷ trọng đóng góp của ngành công nghiệp trong cơ cấu GDP cả
nước chưa cao, và tăng/giảm không ổn định trong các giai đoạn vừa qua. Đến năm
2018, ngành công nghiệp đạt 28,4%, thấp hơn năm 2010 (đạt 31,7%).
- Quá trình tái cơ cấu ngành công nghiệp thực hiện còn chậm, chưa tạo ra những
thay đổi đáng kể về cơ cấu công nghiệp. Ngành Khai khoáng, dù tỷ trọng VA của
ngành có xu hướng giảm dần (từ 36,5% xuống 25,9% trong giai đoạn 2011-2018)
nhưng vẫn chiếm cao trong cơ cấu và toàn ngành công nghiệp.
- Chỉ số GDP/người: Từ năm 2000 đến nay GDP/người của nước ta đã tăng khá
nhanh, tuy nhiên trong gần 20 năm phát triển kinh tế đã qua cho thấy, khoảng cách
chênh lệch của Việt Nam với thế giới vẫn còn ở mức khá cao. So sánh tương đối với
một số quốc gia trong “Các nước mới công nghiệp” (NICs) thì Việt Nam hiện tương
đương với Ấn Độ (đạt 7.874 USD); thấp hơn Philippine (8.936 USD); bằng 1/2 của
Indonesia, Nam Phi, Braxin và từ 1/3-1/4 của Mexico, Thổ Nhĩ Kỳ và Malaysia. Có
thể nói hiện nay, chỉ số GDP/người là một vấn đề lớn của nền kinh tế nước ta, trong
việc tính toán và xây dựng mục tiêu phát triển kinh tế trong các giai đoạn tới.
22
Năng suất lao động: Năng suất lao động có mối liên hệ trực tiếp với GDP/người
và thể hiện rõ vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động của Việt
Nam nói chung, và ngành công nghiệp nói riêng vẫn đang ở mức thấp so với các nước
phát triển. Cho thấy, nền kinh tế Việt Nam sẽ phải đối mặt với thách thức rất lớn trong
thời gian tới, để có thể bắt kịp mức năng suất lao động của các nước trong khu vực và
trên thế giới.
Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế: Năng lực cạnh tranh toàn cầu của nền kinh
tế Việt Nam chỉ ở mức trung bình và có vị trí tăng/giảm không ổn định. Đến năm
2019, Việt Nam đứng vị trí 67/141 nền kinh tế, tăng thêm 10 bậc so với năm 2018 và
vẫn còn một khoảng cách khá xa, so với các nước đứng đầu trong khu vực ASEAN.
Dân số và nguồn nhân lực:
- Việt Nam có tốc độ già hóa dân số khá nhanh sẽ khiến lực lượng lao
động bị thu hẹp, ảnh hưởng đến năng suất lao động của toàn nền kinh tế, tác
động lâu dài đến các lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội. Đây là một thách
thức lớn đến phát triển kinh tế Việt Nam trong tương lai gần.
- Chất lượng nguồn nhân lực thấp, thiếu hụt lao động có tay nghề cao; cơ
cấu lao động qua đào tạo bất hợp lý và lạc hậu là một trong những rào cản lớn
nhất đối với quá trình phát triển kinh tế và CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
Khoa học và công nghệ: Khoa học và công nghệ chưa thực sự trở thành động lực
phát triển kinh tế và thúc đẩy quá trình CNH; huy động nguồn lực của xã hội vào các
hoạt động khoa học và công nghệ còn yếu; đầu tư cho khoa học và công nghệ còn
thấp, hiệu quả sử dụng chưa cao; thị trường khoa học và công nghệ chưa gắn kết chặt
chẽ kết quả nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo, với nhu cầu sản xuất, kinh doanh và
quản lý.
Xuất khẩu hàng hóa:
- Chính sách phát triển xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam còn nhiều hạn
chế, ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững. Tăng trưởng xuất khẩu chưa vững
chắc. Độ mở của nền kinh tế qua kênh xuất khẩu khá lớn nhưng quy mô xuất
khẩu còn nhỏ; chỉ số xuất khẩu sản xuất bình quân đầu người chỉ ở mức trung
bình trên thế giới.
- Xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài dẫn đến nền kinh tế và ngành công nghiệp Việt Nam nói chung gặp nhiều
23
khó khăn trong việc chủ động phát triển các ngành công nghiệp trong dài hạn,
do doanh nghiệp FDI, có thể sẽ chuyển hoặc đầu tư sang các quốc gia khác sản
xuất, nếu các điều kiện cho đầu tư và sản xuất, tiếp cận thị trường xuất khẩu,...
gặp thuận lợi hơn.
Đầu tư từ nước ngoài: Hiệu quả chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp đầu tư
nước ngoài ở Việt Nam đạt thấp. Các dự án FDI chủ yếu tập trung vào gia công, lắp
ráp và có tỷ lệ nội địa hóa thấp; chưa tạo được sự lan tỏa công nghệ từ doanh nghiệp
FDI sang doanh nghiệp trong nước như kỳ vọng. Thu hút đầu tư vào một số ngành,
lĩnh vực ưu tiên từ các tập đoàn lớn đa quốc gia còn hạn chế; hơn một nửa dự án FDI
có quy mô dưới 1 triệu USD.
Quá trình đô thị hóa và phát triển hạ tầng:
- Quá trình đô thị hóa diễn ra thiếu sự đồng bộ giữa hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng
xã hội; trình độ, năng lực quản lý và phát triển đô thị còn thấp so với yêu cầu.
- Tốc độ xây dựng cơ sở hạ tầng ở phần lớn đô thị Việt Nam đều chậm so với
phát triển kinh tế xã hội. Tình trạng phát triển đô thị hiện nay chưa đáp ứng với sự đổi
thay về tư duy quản lý đô thị hóa, phát triển đô thị theo hướng CNH và HĐH.
3.2.2. Cơ hội
Bối cảnh thế giới:
- Bước chuyển sang kinh tế tri thức: sự xuất hiện lợi thế mới là trí tuệ con
người và sự thay đổi nhanh của công nghệ tạo điều kiện “đi tắt cơ cấu, đón đầu
công nghệ” là thời cơ phát triển "nhảy vọt" cho các nền kinh tế đi sau như Việt
Nam.
- Hệ thống phân công lao động quốc tế mới và khả năng đột phá phát triển
trong "mạng sản xuất toàn cầu" với 4 đặc trưng các thị trường mới; các công cụ
mới; các nhân vật mới và những quy tắc mới đã phát huy tác dụng trong điều
kiện thời gian “rút ngắn lại”, “không gian thu hẹp lại” và “các đường biên giới
quốc gia hạ thấp xuống” (UNDP, 1999).
- Sự trỗi dậy của Trung Quốc, Ấn Độ mở ra cơ hội thị trường xuất khẩu;
tạo sự chuyển dịch dòng vốn FDI toàn cầu với hiệu ứng dòng đầu tư “Trung
Quốc + 1” và tình thế phát triển mới ở Đông Á là quá trình di chuyển cơ cấu
công nghiệp theo kiểu làn sóng với đội hình đàn sếu sẽ có tốc độ phát triển cao

24
hơn, đồng thời phân công lao động theo “chuỗi giá trị gia tăng” tạo lực kéo phát
triển giữa các nước trong khu vực, đặc biệt với những nước kém phát triển hơn.
Lực lượng lao động:
- Trình độ học vấn và trình độ chuyên môn, nghề nghiệp, chính trị của
người lao động ngày càng được cải thiện. Số lao động có tri thức, nắm vững
khoa học - công nghệ tiên tiến tăng lên.
- Lao động trong các khu công nghiệp, các doanh nghiệp khu vực ngoài
nhà nước và có vốn đầu tư nước ngoài được tiếp xúc với máy móc, thiết bị tiên
tiến, làm việc với các chuyên gia nước ngoài nên được nâng cao tay nghề, kỹ
năng lao động, rèn luyện tác phong công nghiệp, phương pháp làm việc tiên
tiến.
- Lớp lao động trẻ được đào tạo nghề theo chuẩn nghề nghiệp ngay từ đầu,
có trình độ học vấn, văn hóa, được rèn luyện trong thực tiễn sản xuất hiện đại,
sẽ là lực lượng lao động chủ đạo, có tác động tích cực đến sản xuất công
nghiệp, giá trị sản phẩm công nghiệp, gia tăng khả năng cạnh tranh của nền
kinh tế trong tương lai…
3.3. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
3.3.1. Thực trạng
Trong nhiều thập niên qua, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xu hướng phát
triển chung của nhiều quốc gia trên thế giới. Đối với Việt Nam, đi đôi với việc đổi mới
thì việc thực hiện các chủ trương, đường lối về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã và
đang góp phần quan trọng vào quá trình đưa đất nước thoát nghèo và lạc hậu, hơn nữa
là phát triển và nâng cao chất lượng của người dân. Để đánh giá về thực trạng công
cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá tại Việt Nam, tiểu luận tập trung khái quát các
thành tựu đã đạt được cũng như những tồn tại, hạn chế cần khắc phục, qua đó đưa ra
các giải pháp phù hợp để giải quyết.
Trước tiên là thành tựu Việt Nam đã đạt được trong quá trình công nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thứ nhất, duy trì được tốc độ tăng trưởng khá. Từ giai đoạn 1991 đến nay, Việt
Nam luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng trung bình qua các năm đạt mức khá. Trong
đó, giai đoạn từ 2006 đến 2019, nước ta đạt bình quân hơn 5.8% mỗi năm. Trong giai
đoạn 2020-2021, trong khi nền kinh tế thế giới chịu những ảnh hưởng nghiêm trọng do
25
đại dịch Covid-19, nước ta liên tiếp đạt được tốc độ tăng trưởng thuộc nhóm cao nhất
thế giới. Cụ thế, năm 2020 kinh tế tăng trưởng 2.91%, năm 2021 là 2,6% và năm 2022
là 8,02%, là mức tăng trưởng cao nhất trong giai đoạn 2011-2022.
Thứ hai, có xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Trong cơ cấu ngành công nghiệp, tỷ trọng của công nghiệp khai khoáng
giảm dần, trong khi tỷ trọng ngành công nghiệp chế biến tăng. Các ngành công nghiệp
dịch vụ phát triển đa dạng như dịch vụ tài chính, ngân hàng, bưu chính viễn thông,…
Một số ngành công nghiệp công nghệ cao đang có tốc độ tăng triển vượt bậc, đóng góp
một phần không nhỏ và cơ cấu kinh tế đất nước như công nghệ thông tin, công nghiệp
năng lượng,…
Thứ ba, cơ cấu lao động có sự chuyển biến tích cực. Cụ thể, tỷ trọng lao động
trong các ngành nông nghiệp đã giảm mạnh còn 27,6%, tương đương 14 triệu người
vào quý II năm 2022.
Thứ tư, quá trình hội nhập kinh tế được đẩy mạnh. Việt Nam đã và đang tham
gia hội nhập trên nhiều cấp độ, từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và nền
kinh tế đất nước vào môi trường cạnh tranh toàn cầu. Xuất khẩu Việt Nam tăng nhanh
qua các năm, đặc biệt là vào các thị trường lớn như Mỹ và các nước thuộc Liên minh
Châu Âu. Trong khi đó, cơ cấu hàng nhập khẩu chuyển dịch theo hướng ưu tiên phục
vụ sản xuất để xuất khẩu và đáp ứng nhu cầu trong nước. Một số doanh nghiệp phát
triển và mở rộng các trương trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tuyển mộ lao động
chất lượng cao từ nước ngoài, đào tạo nguồn lao động Việt Nam thế hệ mới với tài
năng và chất lượng xuất sắc, có thể kể đến VinGroup với các dự án vươn tầm thế giới
như VinAI, giải thưởng VinFuture,… Đi cùng với những thành tựu đã đạt được, quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá vẫn còn tồn tại những hạn chế, đặc biệt là với một
nền kinh tế còn non trẻ như Việt Nam:
Thứ nhất, nền kinh tế phát triển chưa bền vững. Tăng trưởng kinh tế ở nước ta
chủ yếu theo chiều rộng, dựa vào các ngành công nghệ công nghệ thấp. Cụ thể, nước
ta xuất khẩu nhiều nguyên liệu thô và nhập nhập khẩu nguyên liệu đã qua xử lý, các
ngành công nghiệp trong nước sử dụng rất nhiều nguyên liệu, vốn và lao động tay
chân. Vai trò của khoa học và công nghệ ngày càng tăng, tuy nhiên, nhìn chung thì
việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất vẫn còn rất hạn chế. Các ngành công
nghiệp công nghệ cao chưa đóng vai trò chủ yếu trong thành phần nền kinh tế.
26
Thứ hai, Việt Nam vẫn là một nền kinh tế đang phát triển với quy mô còn
khiêm tốn. Mặc dù đã đạt được các kết quả tích cực về phát triển kinh tế, tuy nhiên đến
nay, thu nhập đầu người của Việt Nam vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực và
thế giới. Thu nhập bình quân đầu người trong năm 2022 của Việt Nam là 95,6 triệu
đồng, tương đương 4.100 USD, trong khi đó con số này ở Thái Lan, Malaysia và
Singapore lần lượt là 7.630 USD, 13.110 USD, 79.430 USD.
Thứ ba, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, năng suất lao động có khoảng
cách lớn so với nhiều nước trong khu vực. Trong Báo cáo Chỉ số Năng lực Cạnh tranh
toàn cầu giai đoạn 2017-2018 được Diễn đàn Kinh tế Thế giới công bố, Việt Nam chỉ
xếp hạng 55 trên 137 quốc gia thành viên, xếp sau các nước trong khu vực là
Malaysia, Thái Lan và Singapore.
Thứ tư, mức độ tham gia của các doanh nghiệp trong nước vào chuỗi cung ứng
ứng toàn cầu còn hạn chế. Các mặt hàng xuất khẩu có lợi thế so sánh vẫn thuộc nhóm
sử dụng nhiều nguyên nhiên liệu và lao động giá rẻ như giày da, thủ công mỹ nghệ và
nhóm nông sản, thuỷ sản.
3.3.2. Giải pháp
Để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong điều kiện
thế giới hiện đại, Việt Nam cần khắc phục các vấn đề còn tồn đọng, phát huy những
điểm mạnh bằng những biện pháp đồng bộ và quyết liệt trên nhiều phương diện.
Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, chuyển đổi mô hình kinh tế.
Đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước; nâng cao công tác xây dựng chính
sách, thực hiện phối hợp hiệu quả trong quản lý kinh tế vĩ mô; tiếp tục thực hiện các
chính sách tài khóa và tiền tệ thận trọng, linh hoạt đảm bảo duy trì và củng cố định
kinh tế vĩ mô; tăng cường công tác thông tin kinh tế - xã hội, công tác kế toán, thống
kê.
Tăng cường hiệu quả huy động, phát triển nguồn lực tài chính.
Hoàn thiện thể chế tài chính phù hợp với quá trình hoàn thiện cơ chế kinh tế thị trường
định hướng Xã hội Chủ Nghĩa, thu hút nguồn lực trong xã hội cho đầu tư phát triển,
chú trọng đến quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, góp phần phát huy lợi thế cạnh tranh
trên các cấp độ: quốc gia, địa phương, ngành và sản phẩm.
Tăng cường hiệu quả phân bố, sử dụng nguồn lực.

27
Hoàn thiện quy hoạch hệ thống kết cấu hạ tầng cả nước, trong từng cùng, bảo đảm sử
dụng tiết kiệm các nguồn lực và hiệu quả tổng thể của nền kinh tế, bảo vệ môi trường
đi đôi với hoàn thiện cơ bản mạng lưới giao thông vận tải thiết yếu. Sử dụng đồng bộ
các giải pháp nhằm thu hút có hiệu quả và kịp thời các nguồn tài chính trong và ngoài
nước cho đầu tư phát triển hạ tầng. Theo đó, đổi mới và hoàn thiện các cơ chế, chính
sách thu hút đầu tư từ mọi thành phần kinh tế; hoàn thiện khung pháp lý về đầu tư theo
hình thức đối tác Nhà nước – tư nhân. Đẩy mạnh “xã hội hoá” đầu tư trong một số lĩnh
vực như y tế, giáo dục văn hoá, thể thao để một mặt tăng thêm nguồn vốn đầu tư, mặt
khác làm tăng tính cạnh tranh trong cung cấp sản phẩm dịch vụ.
Phát triển khoa học - công nghệ.
Đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động đầu tư cho khoa học công nghệ, thu hút các
thành phần xã hội tham gia hoạt động khoa học công nghệ, tăng cường sự gắn kết chặt
chẽ giữa khoa học công nghệ với sản xuất, thúc đẩy phát huy sáng tạo cải tiến kỹ thuật
để nâng cao năng lực sản xuất và sức cạnh cạnh tranh của nền kinh tế. Tạo môi trường
cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng trong việc cung cấp dịch vụ khoa học công nghệ giữa
các tổ chức thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau, bao gồm cả việc tiếp cận nguồn
kinh phí dành cho phát triển khoa học công nghệ từ ngân sách nhà nước. Đẩy mạnh
việc nghiên cứu các sản phẩm khoa học công nghệ gắn với kết quả đầu ra, đáp ứng
nhu cầu của xã hội và thu hút được nguồn vốn đầu tư, thương mại hoá kết quả nghiên
cứu từ doanh nghiệp.
Thúc đẩy phát triển kinh tế vùng.
Tăng cường sự liên kết giữa các địa phương trong vùng kinh tế, có chính sách
khuyến khích hình thành các cụm liên kết ngành theo các lĩnh vực công nghiệp có lợi
thế. Lựa chọn một số địa bàn có lợi thế vượt trội, nhất là ở ven biển để hình thành một
số khu kinh thế làm đầu tàu phát triển và thử nghiệm mô hình phát triển theo hướng
hiện đại hoá của thế giới. Từng bước giảm bớt chênh lệch về trình độ phát triển và
mức sống dân cư các vùng.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Để tạo nền tảng cho nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại, ngành công nghiệp đã được định hướng phấn đấu phát triển với nhịp độ cao,
có hiệu quả, coi trọng đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị công nghệ tiên tiến và tiến tới
hiện đại hóa từng phần các ngành sản xuất công nghiệp.
28
Xây dựng có lựa chọn, có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường, và hiệu quả
một số cơ sở công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất: dầu khí, luyện kim (thép, alumin,
nhôm, kim loại quý hiếm...), cơ khí, điện tử, hoá chất cơ bản... Phát triển mạnh công
nghiệp công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin, viễn thông, điện tử. Phát triển một
số cơ sở công nghiệp quốc phòng cần thiết.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (Năm 2006): Đại hội X cũng đã tiếp tục bổ
sung và nhấn mạnh một số điểm mới trong tư duy về công nghiệp hóa, đó là: Con
đường công nghiệp hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi
trước. Đây là yêu cầu cấp thiết của nước ta nhằm sớm thu hẹp khoảng cách về trình độ
phát triển so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Một nước đi sau có điều
kiện tận dụng những kinh nghiệm kỹ thuật, công nghệ và thành quả của các nước đi
trước, tận dụng xu thế của thời đại qua hội nhập quốc tế để rút ngắn thời gian.

Tuy nhiên, tiến hành công nghiệp hóa theo lối rút ngắn so với các nước đi
trước, chúng ta cần thực hiện các yêu cầu như: Phát triển kinh tế và công nghệ phải
vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt; phát huy những lợi thế của đất
nước, gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa, từng bước phát triển kinh tế tri thức; phát
huy nguồn lực trí tuệ và tinh thần của con người Việt Nam, đặc biệt coi trọng phát
triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xem đây là nền tảng và động lực cho
CNH, HĐH.

Đại hội cũng đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế 05 năm 2006-
2010 với mục tiêu tổng quát là: “Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước
chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn
hóa và tinh thần của nhân dân. Tạo được nền tảng để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020... Nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu
vực và trên trường quốc tế”.

29
Hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là phát triển nhanh và có hiệu
quả các sản phẩm, các ngành, các lĩnh vực có lợi thế, đáp ứng nhu cầu trong nước và
xuất khẩu.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải đảm bảo xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tức là phải tiến hành công nghiệp hóa
trong một nền kinh tế mở, hướng ngoại.
Với ngành công nghiệp được định hướng tập trung nguồn lực phát triển mạnh
và nâng cao chất lượng các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, tạo ra sản phẩm
xuất khẩu và thu hút nhiều lao động, như: chế biến nông, lâm, thuỷ sản; may mặc, giày
dép, đồ nhựa, đồ gỗ gia dụng; cơ khí đóng tàu, công nghiệp chế tạo thiết bị đồng bộ,
thiết bị điện, thiết bị xây dựng, máy nông nghiệp, phương tiện giao thông, sản xuất và
lắp ráp cơ - điện tử; công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp công nghệ thông tin, sản xuất
phần mềm. Tăng tỉ trọng sản phẩm công nghiệp xuất khẩu đã qua chế biến. Chú trọng
phát triển công nghiệp năng lượng đi đôi với áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng;
công nghiệp vật liệu và công nghệ tiết kiệm nguyên vật liệu; công nghiệp dược và các
chế phẩm sinh học; công nghiệp bảo vệ môi trường.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (năm 2010): Đại hội đã tổng kết thực hiện
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2010 và đưa ra nhận định, đó là:
Nước ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn, quan trọng, đưa đất nước thoát ra khỏi
tình trạng kém phát triển; vị thế của đất nước đã được nâng lên một tầm cao mới trên
trường quốc tế, do đó đang tạo ra những tiền đề mới, quan trọng cho việc đẩy nhanh
tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta.
Đại hội cũng đã nhất trí thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), trong đó: “Từ nay đến
giữa thế kỷ thứ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở
thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Đại hội cũng đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020
với mục tiêu tổng quát là: Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại;… vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được
nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau.

30
Định hướng phát triển mạnh công nghiệp theo hướng hiện đại, nâng cao chất
lượng và sức cạnh tranh. Trong đó cần cơ cấu lại sản xuất công nghiệp cả về ngành
kinh tế - kỹ thuật, vùng và giá trị mới. Tăng hàm lượng khoa học công nghệ và tỉ trọng
giá trị nội địa trong sản phẩm. Phát triển có chọn lọc công nghiệp chế biến, chế tác,
công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp năng lượng, khai khoáng, luyện kim, hoá
chất, công nghiệp quốc phòng. Ưu tiên phát triển các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh,
sản phẩm có khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu thuộc các
ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp cơ khí, công nghiệp công nghệ thông
tin và truyền thông, công nghiệp dược... Phát triển mạnh công nghiệp hỗ trợ. Chú
trọng phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn, năng lượng sạch, năng
lượng tái tạo và vật liệu mới đi đôi với áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng,
nguyên liệu. Từng bước phát triển công nghiệp sinh học và công nghiệp môi trường.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII (Năm 2016): Đại hội XII đã kiểm điểm việc
thực hiện Nghị quyết Đại hội XI; tổng kết, nhìn lại 30 năm đổi mới để rút ra những bài
học kinh nghiệm cho thời gian phát triển tới.
Đại hội cũng đã chỉ rõ việc đổi mới chưa đồng bộ và toàn diện, dẫn đến một số
chỉ tiêu kinh tế - xã hội chưa đạt được theo kế hoạch; nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục
tiêu phấn đấu để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại không đạt được. Đại hội cũng đã thông qua mục tiêu tổng quát của giai đoạn
2016-2020, đó là: “Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế
nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại… chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước; nâng
cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”.
Tháng 3 năm 2018, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 23-NQ/TW có chuyên
đề về chính sách phát triển công nghiệp quốc gia, với nội dung cụ thể “Định hướng
xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm
2045”.
Mục tiêu tổng quát của Nghị quyết đưa ra, đó là: “Đến năm 2030, Việt Nam
phấn đấu hoàn thành mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại; thuộc nhóm 03 nước dẫn đầu khu vực ASEAN về
công nghiệp, trong đó một số ngành công nghiệp có sức cạnh tranh quốc tế và tham

31
gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước
công nghiệp phát triển hiện đại”.
Điểm nổi bật của Nghị quyết, đó là tiếp tục hoàn thiện về tư duy trong quan
điểm chỉ đạo: “Nhận thức đầy đủ, tôn trọng, vận dụng đúng đắn các quy luật khách
quan của kinh tế thị trường, phù hợp với các Điều kiện phát triển của đất nước, phát
huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, kiên quyết chống mọi biểu hiện duy
ý chí, quan liêu, bao cấp trong quá trình xây dựng, thực thi chính sách công nghiệp
quốc gia; bám sát, kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển công nghiệp và kinh
nghiệm công nghiệp hóa của thế giới”.
Riêng với ngành công nghiệp trong giai đoạn đến năm 2030, cần tập trung ưu
tiên phát triển một số ngành công nghiệp như: Công nghệ thông tin và viễn thông,
công nghiệp điện tử ở trình độ tiên tiến của thế giới, đáp ứng được yêu cầu của cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 nhằm tạo ra nền tảng công nghệ số cho các ngành
công nghiệp khác; công nghiệp năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, năng lượng thông
minh; công nghiệp chế biến, chế tạo phục vụ nông nghiệp đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế.
Ưu tiên phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh, kết hợp với công nghiệp dân sinh
theo hướng lưỡng dụng. Tiếp tục phát triển công nghiệp dệt may, da giày nhưng ưu
tiên tập trung vào các khâu tạo giá trị gia tăng cao gắn với các quy trình sản xuất thông
minh, tự động hóa. Ưu tiên phát triển một số ngành, lĩnh vực cơ khí như: ôtô, máy
nông nghiệp, thiết bị công trình, thiết bị công nghiệp, thiết bị điện, thiết bị y tế…

32
KẾT LUẬN
Tóm lại, để Việt Nam có thể phát triển triển thành một nước công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, Đảng và Nhà nước đã đưa ra chiến lược phát triển, được Đại hội XIII thông
qua, Bộ Chính trị nhất trí với mục tiêu tiến đến năm 2030, có thể phát triển được các
tiêu chí cơ bản của một nước công nghiệp:
Một là đầu tư vào công nghệ cao và nghiên cứu phát triển (R&D): Đây là một
trong những yếu tố quan trọng nhất để đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp
hiện đại. Chính phủ cần tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư vào R&D
và áp dụng những công nghệ mới nhất vào sản xuất.
Hai là nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh của các ngành công nghiệp: các
chính sách hỗ trợ để cải thiện năng lực sản xuất và nâng cao cạnh tranh của các ngành
công nghiệp. Đồng thời, các doanh nghiệp cần tập trung vào việc nâng cao chất lượng
sản phẩm và dịch vụ để cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Ba là phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội bao gồm các cơ sở hạ tầng vận tải, thông
tin, điện, nước, môi trường,.. là rất quan trọng đối với việc nâng cao năng lực sản xuất
của Việt Nam. Nhà nước cần đầu tư mạnh vào các dự án hạ tầng và đưa ra các chính
sách hỗ trợ để thu hút các nhà đầu tư tư nhân đầu tư vào lĩnh vực này.
Bốn là tăng cường giáo dục và đào tạo sẽ giúp đưa ra đội ngũ lao động có chất
lượng cao, có kiến thức và kỹ năng phù hợp với yêu cầu của ngành công nghiệp hiện
đại.
Năm là hợp tác quốc tế, hội nhập toàn cầu để có thể áp dụng những công nghệ mới
trong sản xuất cũng như trong giáo dục, góp phần phát triển nền kinh tế nhà nước.
Sáu là tổ chức lại thị trường các sản phẩm công nghiệp. Đẩy nhanh thực hiện cơ
chế giá thị trường theo lộ trình đối với các hàng hoá thiết yếu (như xăng dầu, than,
điện, nước,...). Xây dựng và thực thi hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật trong
ngành công nghiệp phù hợp để bảo vệ sản xuất và người tiêu dùng trong nước. Hướng
dẫn và có các biện pháp hỗ trợ phù hợp để các doanh nghiệp công nghiệp tham gia có
hiệu quả các hiệp định thương mại tự do đã ký kết. Tích cực tháo gỡ các rào cản,
chống các hành vi độc quyền, cạnh tranh không lành mạnh. Đa dạng hóa thị thị trường.

33
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam (2018), Đến năm 2030: Việt
Nam hoàn thành mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tại trang
https://dangcongsan.vn/xay-dung-dang/den-nam-2030-viet-nam-hoan-thanh-
muc-tieu-cong-nghiep-hoa-hien-dai-hoa-477588.html, ngày truy cập,
16/1/2023.
2. Báo nhân dân (2022), Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045,
https://nhandan.vn/tiep-tuc-day-manh-cong-nghiep-hoa-hien-dai-hoa-dat-
nuoc-den-nam-2030-tam-nhin-den-nam-2045-post727074.html, truy cập
ngày 16/2/2023.
3. Bộ Công Thương Việt Nam (2022), Một số khó khăn và thách thức
đặt ra với quá trình công nghiệp hóa ở nước ta hiện nay,
https://moit.gov.vn/tin-tuc/phat-trien-cong-nghiep/mot-so-kho-khan-va-
thach-thuc-dat-ra-voi-qua-trinh-cong-nghiep-hoa-o-nuoc-ta-hien-nay.html,
ngày truy cập, 16/1/2023
4. Bộ Công Thương Việt Nam (2022), Công nghiệp hóa ở Việt Nam
và quá trình phát triển kinh tế xã hội , https://moit.gov.vn/tin-tuc/phat-trien-
cong-nghiep/cong-nghiep-hoa-o-viet-nam-va-qua-trinh-phat-trien-kinh-te-
xa-hoi.html, ngày truy cập, 16/1/2023.
5. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2018), Nghị quyết của bộ Chính trị về
định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm
2030, tầm nhìn đến năm 2045, https://dangcongsan.vn/xay-dung-dang/den-
nam-2030-viet-nam-hoan-thanh-muc-tieu-cong-nghiep-hoa-hien-dai-hoa-
477588.html, ngày truy cập, 16/1/2023.
6. Nguyễn Lê Hà Phương (2021), Phân Tích Tính Tất Yếu Của Công
Nghiệp Hóa, Hiện Đại Hóa Ở Việt Nam, https://trithuccongdong.net/tai-
lieu-kinh-te/khai-niem-va-tinh-tat-yeu-cua-cong-nghiep-hoa-hien-dai-
hoa.html, ngày truy cập, 16/1/2023.
7. Việt Đức (2022), Tư duy, giải pháp mới thúc đẩy công nghiệp hóa -
hiện đại hóa đất nước, https://baotintuc.vn/thoi-su/tu-duy-giai-phap-moi-

34
thuc-day-cong-nghiep-hoa-hien-dai-hoa-dat-nuoc-20221206114445519.htm,
truy cập ngày 16/1/2023.
8. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng,
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-
hoi-dang/lan-thu-vi/nghi-quyet-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-vi-cua-
dang-1493, truy cập ngày 20/02/2023
9. Nghị quyết hội nghị lần thứ 7 ban chấp hành trung ương đảng khóa
VII, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-
nghi-bch-trung-uong/khoa-vii/nghi-quyet-so-07-nqhntw-hoi-nghi-lan-thu-7-
bchtw-dang-khoa-vii-ve-phat-trien-cong-nghiep-cong-nghe-den-nam-2000-
theo-huong-1141, truy cập ngày 20/02/2023.
10. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng,
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-
hoi-dang/lan-thu-viii/dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-viii-cua-dang-13,
truy cập ngày 20/02/2023
11. Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII về các
văn kiện tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng,
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-
hoi-dang/lan-thu-ix/bao-cao-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-viii-
ve-cac-van-kien-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-ix-1546, truy cập
ngày 20/02/2023
12. Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về phương
hướng, nhiệm vụ phát triển KT-XH 5 năm 2006 - 2010 tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X của Đảng, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-
chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-x/bao-cao-cua-ban-chap-
hanh-trung-uong-dang-khoa-ix-ve-phuong-huong-nhiem-vu-phat-trien-kt-
xh-5-nam-2006-2010-tai-1536, truy cập ngày 24/02/2023
13. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011),
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-
hoi-dang/lan-thu-xi/cuong-linh-xay-dung-dat-nuoc-trong-thoi-ky-qua-do-

35
len-chu-nghia-xa-hoi-bo-sung-phat-trien-nam-2011-1528, truy cập ngày
24/02/2023.
14. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-
hoi-dang/lan-thu-xii/nghi-quyet-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xii-
1596, truy cập ngày 24/02/2023
15. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 của Bộ
Chính trị về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc
gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045,
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/
nghi-quyet-so-23-nqtw-ngay-2232018-cua-bo-chinh-tri-ve-dinh-huong-xay-
dung-chinh-sach-phat-trien-cong-nghiep-quoc-gia-den-nam-4125, truy cập
ngày 25/02/2023.

36

You might also like