You are on page 1of 5

nghiªn cøu - trao ®æi

Ths. Cao thÞ oanh *

V ới vai trò là cơ sở pháp lí của trách


nhiệm hình sự, là căn cứ pháp lí để
định tội, từ trước đến nay cấu thành tội phạm
Những hoạt động này lại chính là cơ sở của
việc xác định đúng trách nhiệm hình sự của
những người liên quan. Vì vậy, trong phạm
(CTTP) luôn là vấn đề được quan tâm vi bài viết này chúng tôi phân tích làm sáng
nghiên cứu. Theo quan điểm phổ biến hiện tỏ hơn vấn đề phân loại CTTP, từ đó chỉ ra
nay, CTTP được hiểu là tổng hợp những dấu một cách khái quát một số nội dung về cơ sở
hiệu chung có tính đặc trưng cho loại tội lí luận cho việc xác định trách nhiệm hình sự
phạm cụ thể được quy định trong luật hình trong trường hợp tương ứng.
sự. Mặc dù có cùng bản chất pháp lí như vậy Trước hết, theo mức độ nguy hiểm của
nhưng trong các đạo luật hình sự, CTTP lại hành vi phạm tội được CTTP phản ánh,
được xây dựng dưới nhiều dạng khác nhau. CTTP được phân loại thành CTTP cơ bản,
Sự khác biệt của chúng đòi hỏi thực hiện CTTP tăng nặng và CTTP giảm nhẹ. Trong
việc phân loại một cách hợp lí, khoa học. mối quan hệ này, CTTP cơ bản bao gồm
Cho đến nay, CTTP được phân loại theo những dấu hiệu đặc trưng có ở mọi trường
nhiều tiêu chí khác nhau như mức độ nguy hợp phạm tội của loại tội nhất định thể hiện
hiểm của hành vi phạm tội được CTTP phản tính nguy hiểm của loại tội đó và cho phép
ánh, đặc điểm cấu trúc của CTTP hay cách phân biệt loại tội phạm này với loại tội phạm
thức được nhà làm luật sử dụng quy định khác. CTTP tăng nặng và CTTP giảm nhẹ
CTTP trong luật hình sự. Việc phân loại được xây dựng dựa trên cơ sở CTTP cơ bản,
CTTP hay cụ thể hơn là việc xác định đúng vì vậy, chúng bao gồm cả những dấu hiệu
loại cấu thành tội phạm (đặc biệt là đối với của CTTP cơ bản và những dấu hiệu bổ sung
việc phân loại theo hai tiêu chí đầu) có ảnh phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội tăng
hưởng trực tiếp đến vấn đề trách nhiệm hình lên (CTTP tăng nặng) hoặc giảm đi (CTTP
sự của những người thực hiện hành vi nguy giảm nhẹ) của mỗi loại tội phạm. Như vậy,
hiểm cho xã hội. Trong nhiều trường hợp, có thể khẳng định rằng mọi CTTP tăng nặng
việc xác định đúng loại CTTP cho phép và CTTP giảm nhẹ đều phải có đầy đủ các
chúng ta phân biệt những hành vi là tội phạm dấu hiệu của CTTP cơ bản. Nói cách khác,
với những hành vi nguy hiểm cho xã hội tất cả những trường hợp không thoả mãn
nhưng không phải là tội phạm, xác định
nhanh chóng, chính xác giai đoạn thực hiện * Giảng viên Khoa tư pháp
tội phạm và hình thức lỗi của tội phạm. Trường đại học luật Hà Nội

t¹p chÝ luËt häc sè 4/2003 9


nghiªn cøu - trao ®æi

CTTP cơ bản của một loại tội phạm nhất tế một số cơ quan tư pháp hướng dẫn các cơ
định thì dù có những dấu hiệu làm cho tính quan cấp dưới xử lí những trường hợp này
nguy hiểm cho xã hội tăng lên (tình tiết định theo CTTP tăng nặng. Theo quan điểm của
khung tăng nặng) hay giảm đi (tình tiết định chúng tôi, trường hợp này sẽ không thể thoả
khung giảm nhẹ) cũng không thể thoả mãn mãn CTTP cơ bản nếu không cộng với tình
CTTP tăng nặng hay CTTP giảm nhẹ của tiết đã bị kết án (dù thuộc trường hợp tái
loại tội đó. Trường hợp này hành vi được phạm hay trường hợp thông thường), đây là
thực hiện có thể không phải là tội phạm hoặc tình tiết để hành vi vi phạm trở thành hành vi
là một tội phạm khác (nếu thoả mãn dấu hiệu phạm tội còn tình tiết đã tái phạm chỉ được
cấu thành của loại tội phạm khác). Ví dụ: sử dụng để chuyển hoá thành tái phạm nguy
Trường hợp lần đầu tiên lợi dụng chức vụ, hiểm nếu hành vi trên tự thân nó đã đủ để
quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản của cấu thành tội phạm. Như vậy, thực chất đây
người khác có giá trị dưới 500.000đ (không là trường hợp chỉ đáp ứng được các yêu cầu
thuộc trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng) của CTTP cơ bản mà không có thêm tình tiết
không phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. nào để có thể chuyển sang CTTP tăng nặng.
Liên quan đến ranh giới giữa CTTP cơ Dựa vào đặc điểm cấu trúc của CTTP,
bản và CTTP tăng nặng chúng tôi muốn đề CTTP được chia thành hai loại chính là
cập trường hợp thực tiễn hiện nay vẫn còn CTTP vật chất và CTTP hình thức. CTTP
gây tranh cãi xung quanh việc xác định loại vật chất là CTTP có các dấu hiệu của mặt
CTTP để áp dụng. Đây là trường hợp đặt ra khách quan là hành vi, hậu quả và mối
đối với những tội phạm được thực hiện với quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.
lỗi cố ý mà CTTP cơ bản có quy định cụ thể Đối với dấu hiệu hậu quả (và cùng với nó
tình tiết định lượng và đồng thời cũng quy là dấu hiệu mối quan hệ nhân quả) ở loại
định những trường hợp mặc dù không thoả CTTP này lại được quy định theo hai mức
mãn tình tiết định lượng nhưng lại thoả mãn độ khác nhau:
tình tiết khác là đã bị kết án về những tội 1) Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc để xác
nhất định, chưa được xoá án tích mà còn vi định tội phạm hoàn thành. Ở loại CTTP này,
phạm, mặt khác trong CTTP tăng nặng lại có nhà làm luật không trực tiếp đưa dấu hiệu
tình tiết định khung “tái phạm nguy hiểm”, hậu quả vào trong CTTP mà hậu quả được
ví dụ: CTTP tội trộm cắp tài sản (Điều 138 quy định gián tiếp thông qua cách quy định
BLHS). Vấn đề cần xác định ở đây là nếu về hành vi phạm tội. Ví dụ: CTTP của tội
người thực hiện hành vi quy định trong giết người, mặc dù đều không có hậu quả
CTTP cơ bản không thoả mãn tình tiết định được quy định trực tiếp trong CTTP nhưng
lượng nhưng trước đó đã thuộc trường hợp loại CTTP này khác căn bản với CTTP hình
tái phạm ở một tội theo điều luật quy định, thức vì trong các CTTP hình thức chỉ mô tả
chưa được xoá án tích thì sẽ xử lí theo CTTP dấu hiệu hành vi (ví dụ: Hành vi dùng vũ lực
cơ bản hay theo CTTP tăng nặng? Trên thực trong tội cướp tài sản) mà không quy định

10 t¹p chÝ luËt häc sè 4/2003


nghiªn cøu - trao ®æi

dưới dạng hành vi hàm chứa hậu quả. Với được sử dụng trong trường hợp hành vi trong
cách quy định như vậy, chỉ khi người phạm mặt khách quan của CTTP chứa đựng khả
tội thực hiện hành vi và gây ra hậu quả năng gây ra loại hậu quả có cùng tính chất
tương ứng mới thể hiện được đầy đủ bản nhưng có thể ở các mức độ khác nhau và
chất nguy hiểm của tội phạm và vì vậy mới giữa chúng tồn tại ranh giới quyết định vấn
được xác định là tội phạm ở giai đoạn hoàn đề hành vi được thực hiện có tính nguy hiểm
thành; ngược lại, nếu mới chỉ thực hiện đáng kể cho xã hội hay không. Ví dụ: CTTP
được hành vi mà hậu quả tương ứng chưa cơ bản tội cố ý gây thương tích (khoản 1
xảy ra thì chỉ xác định là giai đoạn phạm tội Điều 104 BLHS) quy định trong trường hợp
chưa đạt. thông thường tỉ lệ thương tật gây ra phải từ
2) Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc để định 11% trở lên. Đối với loại CTTP này vấn đề
tội. Ở dạng CTTP này, nhà làm luật trực tiếp các giai đoạn thực hiện tội phạm vẫn được
đưa hậu quả vào các quy định của CTTP với đặt ra nếu xác định được hậu quả mà người
ý nghĩa là điều kiện xác định những trường phạm tội hướng tới phù hợp với hậu quả bắt
hợp thoả mãn CTTP của loại tội đó, loại trừ buộc để xác định trách nhiệm hình sự cho
những trường hợp hành vi không cấu thành giai đoạn phạm tội tương ứng (đối với giai
tội phạm. Vấn đề này đã được đề cập trong đoạn chuẩn bị phạm tội: Hậu quả mà người
các sách báo pháp lí hình sự nhưng ở đây phạm tội hướng tới phải đủ thoả mãn khung
chúng tôi muốn bàn đến dưới góc độ mối quy định loại tội là rất nghiêm trọng hoặc
quan hệ của loại CTTP này với vấn đề giai đặc biệt nghiêm trọng; đối với giai đoạn
đoạn thực hiện tội phạm và việc xác định lỗi phạm tội chưa đạt: Hậu quả mà người phạm
đối với tội phạm đó. tội hướng tới phải là hậu quả mà CTTP quy
Về mặt lí luận, vấn đề giai đoạn thực định. Ví dụ: Hành vi chuẩn bị cố ý gây
hiện tội phạm chỉ được đặt ra đối với lỗi cố ý thương tích cho người khác mà tỉ lệ thương
trực tiếp, vì vậy, có thể khẳng định chính xác tật từ 61% trở lên; hành vi cố ý gây thương
hơn vế thứ nhất trong nội dung nghiên cứu tích chưa đạt mà tỉ lệ thương tật người phạm
nói trên là mối quan hệ của loại CTTP vật tội mong muốn gây ra từ 11% trở lên).
chất mà hậu quả là dấu hiệu bắt buộc để định 2. CTTP mà hậu quả được quy định
tội đối với những tội phạm được thực hiện không phải dưới dạng tình tiết định lượng.
với lỗi cố ý trực tiếp. Đây là loại CTTP trong Loại CTTP này được xây dựng trong trường
đó thái độ tâm lí của người phạm tội đối với hợp hành vi khách quan chứa đựng khả năng
hành vi và đối với hậu quả thống nhất với gây ra loại hậu quả nhất định không thể phân
nhau (hậu quả xảy ra nằm trong dự kiến của chia ở các mức độ khác nhau, hậu quả này
người phạm tội). Những CTTP loại này lại khi xuất hiện mới đủ khả năng làm cho hành
có thể tồn tại dưới hai dạng sau đây: vi được thực hiện trở thành nguy hiểm đáng
1. CTTP mà hậu quả được quy định dưới kể cho xã hội. Ví dụ: CTTP tội xúi giục
dạng tình tiết định lượng. Cách quy định này người khác tự sát quy định hậu quả làm

t¹p chÝ luËt häc sè 4/2003 11


nghiªn cøu - trao ®æi

người khác tự sát là dấu hiệu bắt buộc. Đối 1) Những CTTP chỉ quy định một hành
với loại CTTP này vấn đề giai đoạn thực vi phạm tội bắt buộc, ví dụ: CTTP tội cướp
hiện tội phạm được giải quyết như những tài sản. Đối với những CTTP này vấn đề giai
trường hợp thông thường. đoạn thực hiện tội phạm được giải quyết như
Ngoài loại CTTP vật chất mà hình thức những trường hợp thông thường.
lỗi là cố ý như trên, BLHS còn quy định 2) Những CTTP quy định nhiều hành vi
những CTTP vật chất trong đó thái độ tâm lí phạm tội bắt buộc, ví dụ: CTTP tội hiếp
của người phạm tội đối với hành vi và đối dâm. Đối với những CTTP này vấn đề giai
với hậu quả mà CTTP quy định mang tính đoạn thực hiện tội phạm vẫn được đặt ra
bắt buộc không thống nhất với nhau (hậu nhưng so với những CTTP trên chúng có
quả xảy ra nằm ngoài dự kiến của người điểm khác biệt rõ rệt ở giai đoạn phạm tội
phạm tội). Ví dụ: Trong một số CTTP của chưa đạt mà cụ thể là giai đoạn phạm tội
các tội đua xe trái phép, gây rối trật tự công chưa đạt đã hoàn thành không tồn tại.
cộng... nhà làm luật quy định dấu hiệu “gây Nguyên nhân của sự khác biệt đó là trong
hậu quả nghiêm trọng” là dấu hiệu bắt buộc trường hợp người phạm tội mới thực hiện
để các hành vi tương ứng là tội phạm. Ở các được một phần trong số các hành vi được
CTTP này, người phạm tội không có ý thức quy định thì bản thân họ có thể nhận thức rõ
lựa chọn hậu quả được quy định trong CTTP phần hành vi còn lại chưa được thực hiện, do
(khi khả năng đó xảy ra hành vi được thực đó, tội phạm dừng ở giai đoạn phạm tội chưa
hiện có thể thoả mãn dấu hiệu cấu thành của đạt chưa hoàn thành; ngược lại, nếu toàn bộ
một tội cố ý khác). Đối với một số CTTP những hành vi đó đã được thực hiện thì toàn
trong loại CTTP này, trong đó bao gồm cả bộ những dấu hiệu pháp lí cần thiết đã thoả
những CTTP về các tội chúng tôi nêu trên, mãn nên tội phạm được xác định là đã hoàn
trong các sách báo pháp lí hình sự hiện nay thành. Giữa hai khả năng đó không tồn tại
đa số các ý kiến vẫn khẳng định hình thức một khả năng trung gian khác.
lỗi là cố ý. Theo quan điểm của chúng tôi, Ngoài CTTP vật chất và CTTP hình thức
dựa trên lí thuyết về lỗi, trong những trường như trên, nhiều nhà khoa học pháp lí hình sự
hợp này phải xác định hình thức lỗi của tội còn xác nhận sự tồn tại của loại CTTP đặc
phạm là vô ý (trong phạm vi bài viết này biệt: CTTP cắt xén.(1) Giống như đối với
chúng tôi không đề cập vấn đề lỗi đối với CTTP hình thức, ở CTTP cắt xén nhà làm
những CTTP quy định dấu hiệu về nhân thân luật cũng chỉ quy định dấu hiệu bắt buộc
là tình tiết định tội được quy định ở cùng trong mặt khách quan là dấu hiệu hành vi.
khung cơ bản của các điều luật tương ứng). Tuy nhiên, điểm khác biệt ở loại CTTP này
Khác với CTTP vật chất, ở CTTP hình là dấu hiệu hành vi được quy định dưới dạng
thức dấu hiệu duy nhất trong mặt khách quan hoạt động nhằm thực hiện một mục đích
là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Loại CTTP nhất định. Ví dụ: CTTP tội hoạt động nhằm
này lại bao gồm: lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 79

12 t¹p chÝ luËt häc sè 4/2003


nghiªn cøu - trao ®æi

BLHS). Với cách quy định này, hành vi CTTP tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết
trong CTTP hàm chứa tất cả những hành vi người (khoản 3 Điều 104 BLHS) lỗi của chủ
cụ thể nhằm đạt được mục đích mà điều luật thể đối với thương tích là cố ý còn lỗi đối
quy định (ví dụ: Đối với tội hoạt động nhằm với hậu quả chết người lại là vô ý; trong tội
lật đổ chính quyền nhân dân, tất cả mọi hành cướp tài sản (Điều 133 BLHS) khách thể của
vi phục vụ cho việc thành lập hoặc tham gia tội phạm bao gồm hai loại quan hệ xã hội
tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân khác nhau là quan hệ sở hữu về tài sản và
đều là hành vi trong mặt khách quan của tội quan hệ nhân thân; trong tội mua bán phụ nữ
phạm). Như vậy, đối với loại CTTP này tội (Điều 119 BLHS) hành vi khách quan của
phạm hoàn thành ngay từ khi một trong số CTTP được hợp thành bởi hai loại hành vi
các hành vi nói trên được thực hiện - vấn đề gắn bó với nhau là hành vi mua và bán phụ
giai đoạn thực hiện tội phạm cũng không nữ. Việc xác định vấn đề giai đoạn thực hiện
được đặt ra. Ngoài quan điểm trên đây, hiện tội phạm đối với các loại CTTP được phân
nay còn có quan điểm khác về loại CTTP cắt loại theo tiêu chí này đã được giải quyết
xén với nội dung trong mặt khách quan của từng phần trong các mục trên.
loại CTTP này luật chỉ quy định dấu hiệu Tóm lại, mặc dù phân loại CTTP là vấn
hành vi, không quy định dấu hiệu hậu quả đề phức tạp và cho đến nay vẫn còn tồn tại
nhưng hành vi này chỉ là một bộ phận hay nhiều quan điểm khác nhau nhưng những
một giai đoạn của hành vi mà người phạm phân tích sơ bộ nêu trên cho thấy trong nhiều
tội phát triển nhằm thực hiện để gây ra hậu trường hợp việc không thống nhất trong
quả nguy hiểm cho xã hội, đạt được mục quan điểm phân loại CTTP cũng như trong
đích đặt ra. Ví dụ: CTTP tội cướp tài sản việc xác định bản chất của CTTP cụ thể và
(Điều 133 BLHS). Với cách hiểu như vậy về mối quan hệ của các loại CTTP được phân
CTTP cắt xén thì vấn đề giai đoạn thực hiện chia theo cùng một tiêu chí có thể dẫn đến
tội phạm vẫn có thể được đặt ra.(2) hiện tượng không thống nhất khi xác định
Ngoài các cách phân loại CTTP như vấn đề trách nhiệm hình sự. Vì vậy, tiếp tục
trên, một số nhà khoa học pháp lí hình sự nghiên cứu về CTTP là một trong những
còn phân loại CTTP theo cách thức được nhà công việc cần thiết tạo cơ sở lí luận cho việc
làm luật sử dụng quy định CTTP trong luật xác định trách nhiệm hình sự trong những
hình sự. Dựa theo tiêu chí này, CTTP được trường hợp cụ thể./.
phân loại thành CTTP giản đơn và CTTP
phức hợp, theo đó CTTP giản đơn chỉ mô tả (1).Xem: Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật
một loại hành vi xâm hại tới một khách thể hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, H. 2002,
tr. 56 - 59.
cụ thể, CTTP phức hợp mô tả hai loại hành
(2). Xem: Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo
vi hoặc hai hình thức lỗi hoặc hai khách thể trình luật hình sự Việt Nam (phần chung), Nxb. Đại
cụ thể trong nội dung CTTP. Ví dụ: Trong học quốc gia, H. 2001, tr. 130 - 133.

t¹p chÝ luËt häc sè 4/2003 13

You might also like