You are on page 1of 7

VẤN ĐỀ 4: CẤU THÀNH TỘI PHẠM

Câu 1: Phân tích khái niệm cấu thành tội phạm


1. Định nghĩa:
Cấu thành tội phạm là tổng thể các dấu hiệu pháp lý đặc trưng (khách quan và chủ quan) được
quy định trong Luật Hình sự thể hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể là tội phạm, tức là căn
cứ vào các dấu hiệu đó một hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm.
Mỗi yếu tố cấu thành tội phạm bao gồm nhiều dấu hiệu khác nhau. Tùy thuộc vào việc dấu
hiệu đó bắt buộc phải có mặt trong mọi cấu thành tội phạm hay không mà các dấu hiệu này được chia
làm hai nhóm: dấu hiệu bắt buộc và dấu hiệu không bắt buộc.
Các dấu hiệu bắt buộc là những dấu hiệu phải có trong mọi cấu thành tội phạm cụ thể, đó là
những dấu hiệu: quan hệ xã hội bị xâm hại (thuộc khách thể của tội phạm), độ tuổi và năng lực trách
nhiệm hình sự (thuộc chủ thể của tội phạm), hành vi nguy hiểm cho xã hội (thuộc mặt khách quan của
tội phạm) và lỗi (thuộc mặt chủ quan của tội phạm).
Các dấu hiệu không bắt buộc là những dấu hiệu không buộc phải có mặt trong mọi cấu thành
tội phạm cụ thể. Điều này có nghĩa là trong dấu hiệu đó có thể có mặt trong cấu thành tội phạm cụ thể
này nhưng không nhất thiết phải có mặt trong cấu thành tội phạm cụ thể khác. Bao gồm các dấu hiệu:
hậu quả, mối quan hệ nhân quả, các dấu hiệu bên ngoài khác (thuộc mặt khách quan của tội phạm);
mục đích và động cơ phạm tội (thuộc mặt chủ quan của tội phạm).
2. Đặc điểm:
Đặc điểm cơ bản của cấu thành tội phạm đó là:

 Các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm đều do luật định:
 Các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm của một loại tội được quy định trong phần những quy
định chung của Bộ luật hình sự - đây là những dấu hiệu có tính phổ biến, như: tuổi, tình trạng
năng lực trách nhiệm hình sự, lỗi;
 Chúng được quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự - đây là những dấu hiệu
riêng của mỗi tội phạm, như dấu hiệu: hành vi khách quan, hậu quả của tội phạm, quan hệ xã
hội bị xâm hại…
 Luật hình sự quy định tội phạm bằng cách mô tả các dấu hiệu của hành vi phạm tội trong phần
các tội phạm cũng như quy định những dấu hiệu khác trong phần chung Bộ luật hình sự, từ cơ
sở pháp lý
 đó, các nhà lý luận mới khái quát thành các dấu hiệu đặc trưng chung gọi là cấu thành tội
phạm.
 Chính vì thế, Điều tra viên, Kiểm sát viên, hoặc Thẩm phán khi muốn truy cứu trách nhiệm
hình sự một người nào đó đã thực hiện hành vi phạm tội, họ phải căn cứ vào quy định của Luật
hình sự chứ không được giải thích nội dung các dấu hiệu cấu thành tội phạm một cách tùy tiện.

1
 Cho nên, để kết luận một hành vi nào đó có phải là tội phạm hay không chỉ cần xác định hành
vi đó đã thoả mãn hết tất cả các yếu tố cấu thành tội phạm quy định đối với loại tội phạm đó
chưa. Nếu một trong số các dấu hiệu đó không thoả mãn thì hành vi đó không phải là hành vi
phạm tội. Tất cả các yếu tố của cấu thành tội phạm là bắt buộc khi xác định tội phạm. Điều này
là cần thiết để đảm bảo nguyên tắc pháp chế.
 Các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm có tính đặc trưng điển hình:
 Một loại tội phạm chỉ được đặc trưng bởi một cấu thành tội phạm
 và một cấu thành tội phạm chỉ đặc trưng cho một loại tội phạm, đó là dấu hiệu đặc trưng thể
hiện tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội đó. Dấu hiệu đặc trưng của cấu thành
tội phạm còn thể hiện ở chỗ, chỉ các dấu hiệu nào nói lên bản chất đặc trưng của loại tội đó để
phân biệt tội phạm đó với tội phạm khác mới được ghi nhận trong cấu thành tội phạm.
 Một dấu hiệu có thể được phản ánh trong nhiều cấu thành tội phạm nhưng giữa các cấu thành
tội phạm khác nhau phải có ít nhất một dấu hiệu khác nhau, đó là dấu hiệu điển hình.
 Ví dụ: về cấu thành tội phạm Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172) và Tội trộm cắp tài
sản (Điều 173) có rất nhiều dấu hiệu chung giống nhau như: quan hệ xã hội bị xâm hại là quan
hệ sở hữu, tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi chiếm đoạt tài sản, lỗi cố ý trực tiếp.
Nhưng giữa cấu thành hai tội này lại có sự khác nhau về hai dấu hiệu điển hình, đó là hành vi
công khai và ngang nhiên trong Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản và hành vi lén lút trong Tội
trộm cắp tài sản.
 Mỗi dấu hiệu trong cấu thành tội phạm đứng độc lập thì không phản ánh được đầy đủ tính đặc
trưng của một tội phạm cụ thể. Tính đặc trưng này chỉ có thể được phản ánh đầy đủ trong nội
dung và sự kết hợp với nhau của các dấu hiệu cấu thành tội phạm.
 Các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm có tính bắt buộc
 Một hành vi chỉ bị coi là tội phạm khi nó thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội
phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự. Nếu thiếu hoặc thừa bất kỳ một dấu hiệu nào đó
thì có thể không phải là tội phạm hoặc tội phạm khác. Nghĩa là, tất cả dấu hiệu của cấu thành
tội phạm đều là điều kiện cần và đủ để định tội danh.
 Các dấu hiệu của cấu thành tội phạm là các dấu hiệu bắt buộc được quy định ở phần những quy
định chung hoặc phần các tội phạm cụ thể của Bộ luật Hình sự. Khi xác định tội phạm, nếu
như không chứng minh được một dấu hiệu nào đó trong cấu thành tội phạm thì hành vi đó
không cấu thành tội mà cấu thành tội phạm đó phản ánh.
 Chú ý: Một số trường hợp trong đồng phạm hoặc phạm tội chưa đạt hay trong giai đoạn chuẩn
bị phạm tội thì hành vi của người phạm tội thiếu đi một hoặc một số dấu hiệu trong một cấu
thành tội phạm.
 Trường hợp này khi định tội phải kết hợp các quy phạm pháp luật phần những quy định chung
về đồng phạm, các giai đoạn thực hiện tội phạm. Vì trong những trường hợp này, người phạm
tội thực hiện hành vi được quy định trong phần những quy định chung của Bộ luật Hình sự mà
không phải là hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm cụ thể. Mỗi quy phạm pháp luật

2
phần các tội phạm cụ thể chỉ phản ánh các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã hoàn thành và
đối với trường hợp phạm tội riêng.
Câu 2: Trình bày phân loại cấu thành tội phạm theo mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và
nêu ý nghĩa của cách phân loại đó?

 Cấu thành tội phạm cơ bản là loại cấu thành tội phạm chỉ có dấu hiệu định tội, đó là những dấu
hiệu mô tả tội phạm và cho phép phân biệt giữa tội phạm này với tội phạm khác.
 Cấu thành tội phạm cơ bản đa số được quy định ở khoản 1 của phần các tội phạm cụ thể của
Bộ luật Hình sự. Ví dụ: khoản 1 Điều 168 Bộ luật Hình sự mô tả dấu hiệu pháp lý của Tội
cướp tài sản, là cấu thành tội phạm cơ bản. Ngoài ra, còn có một số tội phạm, cấu thành tội
phạm cơ bản được quy định ở khoản 2. Ví dụ: Điều 123 (Tội giết người), cấu thành tội phạm
cơ bản được quy định ở khoản 2.
 Cấu thành tội phạm tăng nặng là loại cấu thành tội phạm ngoài các dấu hiệu định tội còn có
thêm các dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ nguy hiểm cho xã hội tăng lên một cách đáng
kể (được gọi là các dấu hiệu định khung tăng nặng).
 Các dấu hiệu định khung tăng nặng đa số được quy định tại khoản 2, 3, 4 phần các tội phạm cụ
thể. Ví dụ: khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự quy định cấu thành tội phạm tăng nặng “Có tổ
chức” là tình tiết định khung tăng nặng.
 Cấu thành tội phạm giảm nhẹ là loại cấu thành tội phạm ngoài các dấu hiệu định tội còn có
thêm các dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ nguy hiểm cho xã hội giảm xuống một cách
đáng kể (gọi là các dấu hiệu định khung giảm nhẹ). Ví dụ: Khoản 2 Điều 108 (Tội phản bội Tổ
quốc): “Phạm tội trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ” là tình tiết định khung giảm
nhẹ.
 Về phương diện khoa học luật hình sự thì các dấu hiệu được quy định trong mỗi cấu thành tội
phạm trong Bộ luật Hình sự cũng chính là các tình tiết. Vì vậy, tương ứng với 3 loại dấu hiệu
trong cấu thành tội phạm là 3 loại tình tiết: tình tiết định tội, tình tiết định khung tăng nặng và
tình tiết định khung giảm nhẹ.
 Tình tiết định tội là những tình tiết được phản ánh bởi các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm
cơ bản dùng để mô tả một loại tội. Chúng được quy định ở cả phần những quy định chung và
phần các tội phạm cụ thể.
 Tình tiết định khung tăng nặng hoặc giảm nhẹ là những tình tiết làm thay đổi một lượng đáng
kể tính chất nguy hiểm cho xã hội của một loại tội.
 Ý nghĩa:
 Mỗi tội phạm cụ thể đều có một cấu thành cơ bản và có thể có một hoặc nhiều cấu thành tăng
nặng hoặc cấu thành giảm nhẹ.
 Cấu thành cơ bản có thể chỉ mô tả một loại trường hợp phạm tội với một dạng hành vi hoặc với
nhiều dạng hành vi. Ví dụ: cấu thành cơ bản của Tội cướp giật tài sản (khoản 1 Điều 171) chỉ
mô tả một trường hợp phạm tội, nhưng cấu thành cơ bản của Tội cướp tài sản (khoản 1 Điều
168) lại mô tả nhiều dạng hành vi khác nhau. Cấu thành cơ bản cũng có thể mô tả nhiều trường

3
hợp phạm tội khác nhau, ví dụ như Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác (Điều 134) - trường hợp có tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% trở lên và trường hợp có
tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới 11%...
 Các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản là dấu hiệu định tội và có ý nghĩa trong việc xác
định tội danh và điều luật cần áp dụng.
 Những dấu hiệu định khung tăng nặng hoặc dấu hiệu định khung giảm nhẹ có ý nghĩa trong
việc chuyển khung hình phạt từ khung bình thường lên khung tăng nặng hoặc xuống khung
giảm nhẹ và là cơ sở để xác định khoản cần áp dụng trong một điều luật.
 Ngoài ra, trong Bộ luật Hình sự còn quy định trong phần những quy định chung tại Điều 51 và
Điều 52 các loại tình tiết tăng nặng hoặc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
 Tình tiết tăng nặng hoặc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là loại tình tiết không được ghi
nhận trong các dấu hiệu cấu thành tội phạm (không có ý nghĩa trong việc định tội, định khung
hình phạt mà chỉ có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt).
 Chúng ta có thể phân biệt giữa tình tiết định khung tăng nặng hoặc định khung giảm nhẹ với
tình tiết tăng nặng hoặc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau:

Tiêu chí Tình tiết định khung Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
tăng nặng, giảm nhẹ

1. Sự thay đổi về mức độ nguy Làm thay đổi một Làm thay đổi một lượng không đáng
hiểm cho xã hội của tội phạm lượng đáng kể kể

2. Vị trí pháp lý Được quy định trong Được quy định tại Điều 51, Điều 52
khoản 2, 3, 4 phần các phần những quy định chung Bộ luật
tội phạm cụ thể Hình sự

3. Tính chất pháp lý trong việc Bắt buộc Không bắt buộc
xác định cấu thành
tội phạm

Câu 3. Trình bày phân loại cấu thành tội phạm theo đặc điểm cấu trúc mặt khách quan của tội
phạm và nêu ý nghĩa của cách phân loại đó?

 Cấu thành tội phạm hình thức là loại cấu thành tội phạm trong mặt khách quan chỉ có dấu hiệu
hành vi khách quan là dấu hiệu bắt buộc. Tội phạm có cấu thành hình thức được coi là hoàn
thành khi hành vi khách quan được thực hiện.
 Cấu thành tội phạm vật chất là loại cấu thành tội phạm có các dấu hiệu trong mặt khách quan là
hành vi khách quan, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả là các dấu hiệu
bắt buộc. Tội phạm có cấu thành vật chất được coi là hoàn thành khi hành vi khách quan đã
gây ra hậu quả luật định.

4
 Ý nghĩa:
Cơ sở khoa học của việc xây dựng cấu thành tội phạm vật chất hoặc cấu thành tội phạm hình
thức thường dựa vào các tiêu chí:
 Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi và chính sách hình sự của nhà nước. Nếu chỉ riêng
hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm
hoặc hậu quả khó xác định thì xây dựng cấu thành tội phạm hình thức. Việc quy định cấu thành
tội phạm hình thức đối với những tội phạm đó thể hiện thái độ nghiêm khắc của nhà nước
thông qua việc quy định thời điểm tội phạm hoàn thành sớm.
Ví dụ: Các tội xâm phạm an ninh quốc gia, Tội cướp tài sản.
 Yêu cầu của kỹ thuật lập pháp hình sự. Cấu thành tội phạm vật chất đòi hỏi thiệt hại do tội
phạm gây ra phải là thiệt hại về vật chất (về người, về tài sản).
Vì trong cấu thành tội phạm vật chất, hậu quả là dấu hiệu bắt buộc nên dấu hiệu hậu quả buộc
phải có tính xác định. Nếu hậu quả dễ xác định hoặc bản chất nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm chỉ thể hiện đầy đủ trong cả dấu hiệu hành vi và hậu quả thì xây dựng cấu thành tội
phạm vật chất.
Ví dụ: Tội trộm cắp tài sản, Tội giết người.
 Như vậy, cách phân loại này có ý nghĩa quan trọng trong việc áp dụng pháp luật, bởi lẽ cấu
trúc của cấu thành tội phạm quy định các dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của tội
phạm. Cách phân loại này sẽ là cơ sở để xác định thời điểm hoàn thành tội phạm và theo đó sẽ
có những mức độ xử lý khác nhau đối với các tội phạm có cấu trúc khác nhau.
Câu 4. Ý nghĩa của cấu thành tội phạm
Cấu thành tội phạm có ý nghĩa làm rõ đặc điểm pháp lý của tội phạm, có tác dụng định tội khi tội
phạm xảy ra và để phân biệt tội phạm này đối với tội phạm khác. Nếu chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu
tội phạm mà không nghiên cứu cấu thành tội phạm thì không thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội. Vì vậy muốn định tội danh một cách chính xác thì cần nắm vững cấu thành tội phạm.

 Cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lí của trách nhiệm hình sự


 Khoản 1 Điều 2 Bộ luật hình sự khẳng định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật
hình sự quy định mới phải chịu TNHS…”. Khoản 2 của Điều này cũng khẳng định, pháp nhân
thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm do cá nhân thực hiện trong trường
hợp được luật hình sự quy định.
 Như vậy, xét về mặt pháp lí, một người chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu họ đã thực hiện
hành vi được quy định trong Bộ luật hình sự.
 Muốn biết hành vi có được quy định trong Bộ luật hình sự hay không và do vậy có phải chịu
trách nhiệm hình sự hay không thì phải xác định hành vi đó có thoả mãn các dấu hiệu của cấu
thành tội phạm hay không. Nếu hành vi có đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm thì có
nghĩa hành vi đó là hành vi phạm tội được quy định trong luật hình sự và người thực hiện phải
chịu trách nhiệm hình sự. Theo đó, pháp nhân thương mại cũng sẽ phải chịu trách nhiệm hình

5
sự cùng nếu thoả mãn các quy định về “điều kiện chịu trách nhiệm hình sự” (Điều 75 Bộ luật
hình sự) và về “phạm vi chịu trách nhiệm hình sự” (Điều 76 Bộ luật hình sự).
 Khi nói về trách nhiệm hình sự cần phải hiểu trước hết là trách nhiệm hình sự của cá nhân và
trách nhiệm hình sự của cá nhân phải dựa trên cơ sở pháp lí là cấu thành tội phạm. trách nhiệm
hình sự của pháp nhân thương mại tuy có quan hệ với cấu thành tội phạm vì có quan hệ với
hành vi phạm tội của cá nhân nhưng trực tiếp dựa trên quy định về điều kiện và phạm vi chịu
trách nhiệm hình sự tại các điều 75 và 76 BLHS. Do vậy, khi nói cấu thành tội phạm là cơ sở
pháp lí của trách nhiệm hình sự thì cần hiểu trước hết là trách nhiệm hình sự của cá nhân.
 Vì phải dựa vào những dấu hiệu của cấu thành tội phạm để nhận định hành vi có phải là tội
phạm hay không và người thực hiện hành vi có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không cho
nên cấu thành tội phạm được coi là cơ sở pháp lí của trách nhiệm hình sự, là điều kiện cần và
đủ của trách nhiệm hình sự. Chủ thể thực hiện hành vi chỉ có thể phải chịu trách nhiệm hình sự
nếu hành vi của họ có đủ những dấu hiệu của cấu thành tội phạm và khi hành vi đã thoả mãn
tất cả các dấu hiệu của cấu thành tội phạm thì đã có đầy đủ cơ sở để có thể buộc người có hành
vi phải chịu trách nhiệm hình sự mà không đòi hỏi gì thêm.
 Cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lí để định tội danh
 Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp, chính xác các dấu hiệu
của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được
quy định trong pháp luật hình sự.
 Định tội là cơ sở cần thiết đầu tiên để có thể truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội. Chỉ
khi định tội danh được mới có thể quyết định trách nhiệm pháp lý hình sự đối với người phạm
tội. Vì thế, định tội danh là một giai đoạn đặc biệt quan trọng, là cơ sở, tiền đề cho quá trình áp
dụng pháp luật hình sự.
 Muốn định tội danh cho hành vi cụ thể chỉ có thể căn cứ vào các yếu tố cấu thành tội phạm đã
được quy định trong Bộ luật Hình sự. Do đó, cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý cho hoạt
động định tội danh.
 Việc xác định tội danh là quá trình xác định xem hành vi thỏa mãn những dấu hiệu nào trong
cấu thành tội phạm.
 Cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lí để định khung hình phạt
 Hoạt động định tội danh dựa trên cơ sở pháp lý là cấu thành tội phạm, hoạt động định khung
hình phạt dựa trên cơ sở pháp lý là dấu hiệu định khung hình phạt.
 Căn cứ vào mức độ nguy hiểm của cấu thành tội phạm có các loại cấu thành tội phạm cơ bản,
cấu thành tội phạm tăng nặng và cấu thành tội phạm giảm nhẹ. Khi giải quyết vụ án hình sự,
việc áp dụng một trong ba cấu thành tội phạm này đối với một hành vi phạm tội cụ thể có ý
nghĩa xác định khung hình phạt đối với người phạm tội.
Câu 5. Ý nghĩa của cấu thành tội phạm
Dựa vào cấu trúc của mặt khách quan và quy định của Bộ luật Hình sự về tội phạm cụ thể, hãy xác
định các tội phạm sau đây thuộc loại cấu thành tội phạm nào:

6
a. Tội giết người (Điều 123).
b. Tội cướp tài sản (Điều 168).
c. Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169).
d. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ (Điều 260).
đ. Tội đánh bạc (Điều 321).

You might also like