Professional Documents
Culture Documents
XUÂN QUỲNH
*** Đề tài về Sóng – biển trong thơ ca.
Biển – Xuân Diệu.
“Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ, thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi
4-4-1962
Anh xa em
Trăng cũng lẻ
Mặt trời cũng lẻ
Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn
- Thể thơ 5 chữ: ngắt nhịp đều đặn, linh hoạt với những cặp từ phối thanh B – T, cặp từ sóng đôi hô
ứng tạo hiệu quả như là âm hưởng của sóng. Con sóng của tự nhiên và sau đó là sóng lòng, là nhịp
đập bồi hồi của trái tim người phụ nữ đang yêu.
- Phương thức tổ chức ngôn từ, hình ảnh thơ tác động trực tiếp đến người đọc về xúc cảm tình yêu
mãnh liệt của em.
- Giọng điệu chân thành, tha thiết; ngôn ngữ bình dị, sóng là xúc cảm tình yêu mộc mạc và
mãnh liệt minh chứng cho vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu: hồn hậu, chân
thành và say đắm.
II. Đọc hiểu.
1. Hai khổ thơ đầu – Sóng, những cảm nhận về quy luật tình yêu.
- Bài thơ dựa trên sự tương đồng, hòa hợp giữa hai hình tượng sóng và em. Sóng chính là ẩn dụ của
em- người phụ nữ đang yêu. Sóng giống như em và sóng cũng chính là em. Với mỗi khám phá về
sóng, em lại thấy có mình ở trong đó.
- Trong đoạn thơ, sóng được vẽ bằng âm điệu, hiện lên với những diện mạo và trạng thái khác
nhau. Qua đó làm hiện lên hình ảnh người phụ nữ đang yêu đứng trước biển, đối diện với cái vô
biên, cái vĩnh hằng để suy tư, chiêm nghiệm về tình yêu và tự khám phá tâm hồn mình.
*** Khổ 1:
- Sóng được thể hiện qua những trạng thái trái ngược:
Dữ dội ►◄ dịu êm
Ồn ào lặng lẽ
Trạng thái 1: Mạnh mẽ, bão tố, dữ dội, giông gió, cuộn trào đối lập với trạng thái của êm đềm, dịu
dàng, lăn tăn và thon thả.
Đây là những biểu hiện thường thấy của những con sóng ngoài biển khơi.
Cũng như sóng, người phụ nữ đang yêu tự nhận thức về biến động trong trái tim tình yêu nhiều
xúc cảm, nhiều biến đổi mạnh mẽ dữ dội, lòng luôn đối lập, phức tạp, mâu thuẫn những biểu
hiện: chân thành bộc bạch những trạng thái tâm lí, tình cảm vừa phong phú vừa phức tạp của một
tâm hồn khao khát yêu đương: lúc giận dữ, hờn ghen; khi dịu dàng, sâu lắng. Hoặc, mâu thuẫn
giữa bên trong và bên ngoài, giữa trái tim và lý trí.
- Tới hai câu sau, “sóng” xuất hiện trong mối quan hệ với “sông” - “bể”:
“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
+ Có thể hiểu hai câu thơ ở những nét nghĩa khác nhau.
∞ “Sông” – tự nhiên “trăm sông đổ về biển lớn.
Ẩn dụ: nếu sông không hiểu nổi những khát vọng mãnh liệt của mình, “sóng” dứt khoát từ bỏ nơi
chật hẹp, tìm ra tận bể, nơi có sự đồng cảm lớn lao, nơi có thể tìm thấy tình yêu thật sự trong cái
cao cả bao dung của bể lớn. Người phụ nữ thường khao khát những bến bờ bình yên của tình yêu,
nhưng không vì thế mà cam chịu, nhẫn nhịn, họ chủ động, kiêu hãnh, mạnh mẽ và quyết liệt kiếm
tìm sự đồng điệu tri âm.
∞ Cũng có thể hiểu “sông” như một trạng ngữ chỉ không gian nơi chốn, “sông” là bối cảnh, là
hoàn cảnh sống, là yếu tố có sức chi phối mạnh mẽ tới tâm hồn, tính cách con người, lúc đó câu
thơ thể hiện một cố gắng không mệt mỏi của “sóng” để có thể sống với bản ngã của mình: giới hạn
chật hẹp của hai bên bờ sông làm bức bối những con sóng, trong lòng sông, sóng không thực sự là
mình, “không hiểu nổi mình”. “Sóng” tìm ra biển lớn để thỏa sức vẫy vùng, để trở thành chính
mình giữa mênh mông phóng khoáng, để nhận ra mình trong những mãnh liệt đam mê.
Trong trường liên tưởng của tứ thơ, nếu “sóng” không còn là “sóng” bởi những giới hạn chật hẹp
thì tình yêu cũng không còn là tình yêu bởi những điều kiện ràng buộc. Người phụ nữ không chấp
nhận sự tầm thường nhỏ hẹp, khao khát một tình yêu lớn lao, muốn được giải phóng khỏi mọi giới
hạn, để con người thực sự là mình, tình yêu thực sự là tình yêu.
Như vậy, dù hiểu theo nghĩa nào, bản chất của tình yêu cũng đều mang những nét tương đồng với
sóng, cũng đều khao khát vươn tới sự lớn lao, phóng khoáng, khôn cùng.
-> Sóng - em khát khao tìm hiểu, khám phá chính mình, khám phá tình yêu, tìm kiếm một tình
yêu lớn lao, một tâm hồn đồng điệu để được cảm thông, thấu hiểu và chia sẻ.
*** Khổ 2:
- Nếu ở khổ đầu sóng được miêu tả trong không gian thì tới khổ hai, sóng được soi chiếu trong
thời gian:
“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế”
“Sóng” được đặt giữa ngày xưa và ngày sau. Những khái niệm chỉ thời gian và ý nghĩa khẳng định
của cụm từ “vẫn thế” đã đem đến một ý niệm vĩnh hằng cho sóng bởi trong thực tế, biển là một
thế giới vô biên, vĩnh viễn, xao động.
Theo quan niệm của Xuân Quỳnh, “nỗi khát vọng của tình yêu” xôn xao, rạo rực trong mỗi trái tim
là khát vọng đã có từ muôn đời của nhân loại và mãnh liệt nhất là của tuổi trẻ, “khát vọng tình yêu”
của con người giống như những con sóng của đại dương, mãi trường tồn và vĩnh cửu với thời gian,
năm tháng.
* Khổ 4:
– Điểm xuất phát: Những suy luận mang tính logic, khoa học có thể giải mã được
– Điểm kết thúc: Thắt nút lại vấn đề “khi nào ta yêu nhau” -> Tạo ra một bí ẩn khó có thể giải mã
– “Em cũng không biết nữa”: Sự nũng nịu, đáng yêu, nét duyên dáng rất tình của cô gái
-> Bằng những ý thơ ngắn gọn kết hợp một mê cung câu hỏi cần được giải mã Xuân Quỳnh đã
khắc họa nên một diện mạo hoàn toàn mới cho tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam trong tình yêu.
Đó là sự chủ độc, tự tin và hoàn toàn độc lập. Đó phải chăng là nét đẹp đậm chất hiện đại của
người phụ nữ Việt Nam?
- Sự tồn tại của sóng là 1 mặc định của tạo hóa. Có đất, có trời, có biển là có sóng. Vì vậy, có con
người thì phải có tình yêu và phải truy tìm nguồn gốc của tình yêu.
- Câu hỏi tu từ “Từ nơi nào sóng lên?” ở khổ 3 hỏi về sóng thì ngay sau của khổ 4 đã có câu trả trời
là “Sóng bắt đầu từ gió”. Nhưng sang khổ thơ này câu trả lời nằm giữa 2 câu hỏi, trả lời cho 2 câu
hỏi, chơi với, bí ẩn. Hỏi về nguồn gốc của “sóng” thì câu trả lời là “gió” nhưng khi hỏi về nguồn
gốc của “gió”, của tình yêu đều bí ẩn, không thể cắt nghĩa, không có lí lẽ, không có quy luật, mà
nếu có thì là lí lẽ riêng, quy luật riêng của tình yêu.
- Cấu trúc câu hỏi – đáp: Hỏi trước rồi đáp sau và câu trả lời chung là: “Em cũng không biết nữa”.
Câu trả lời chung cho gió, cho ty của XQ giống như 1 sự bối rối và thể hiện bản chất ty: ty vượt
trên mọi quy luật và lý lẽ của lý trí con người.
- Người phụ nữ băn khoăn về khởi nguồn của ty và bộc bạch 1 cách hồn nhiên, chân thành trước
câu hỏi muôn đời: “Khi nào ta yêu nhau”. Một lời thú nhận? Một cách cắt nghĩa rất nữ tính, rất trực
cảm xuất phát từ trái tim nữ tính của phụ nữ.
Câu hỏi về nguồn gốc ty:
Làm sao cắt nghĩa được ty
Có nghĩa gì đâu 1 buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu
Xuân Diệu
Tình yêu đến trong đời không báo động
Trái tim anh chưa lỗi hẹn bao giờ
Viên xúc xắc mùa thu ru trong cỏ
Mắt anh nhìn sáu mặt bão mưa giông
*** Bản chất của ty là phi lý, là không lý giải, nên ty đẹp và là cái đích để con người tìm kiếm và
khám phá. Khát vọng và vẻ đẹp ty cũng là nguyên nhân khiến ty không có tuổi, ty luôn là ẩn số
giữa hai tâm hồn bí mật:
Ty gắn liền với nỗi nhớ hay nói cách khác nỗi nhớ là thước đo, chuẩn mực của ty, yêu nhiều nhớ
nhiều, yêu mãnh liệt xúc cảm nhớ sẽ đắm say. Nỗi nhớ cũng là gam màu chủ đạo của ty.
Hai câu thơ “Con sóng dưới lòng sâu/ Con sóng trên mặt nước” với hình thức lặp cấu trúc cùng
với nghệ thuật đối tạo nên kết cấu trùng điệp mở rộng các chiều kích không gian của sóng:
“dưới lòng sâu” – chiều sâu thẳm trong lòng biển cả.
“trên mặt nước” – chiều rộng kéo dài trên bề mặt của sóng.
“con sóng nhớ bờ” – vừa là chiều dài không gian, vừa là chiều dài đo bằng chiều kích của tâm
trạng.
Câu thơ chuyển ý, đi từ con sóng tự nhiên, quy luật sóng vỗ bờ của tự nhiên di chuyển thành
con sóng lòng, con sóng dao động trong không gian tự nhiên cũng chính là con sóng tâm trạng nỗi
nhớ bao phủ lấy không gian sống, tác động, ảnh hưởng và làm chủ không gian sống của mỗi người.
Một nỗi nhớ tác động, bao trùm không gian.
– Phép nhân hóa cho sóng:
+ Sóng nhớ bờ, sóng không ngủ, ngày đêm sóng vẫn thao thức rì rầm
+ Nữ sĩ đã biến sóng thành một chủ thể có linh hồn, cũng yêu, cũng nhớ như em.
Sóng và em đan quyện vào nhau để thì thầm những nỗi niềm, những tâm tư kéo dài trong thời gian
“ngày đêm không ngủ được”. Nỗi nhớ còn chiếm trọn ý thức, suy nghĩ và ý muốn trong trái tim
em. Lối diễn giải “không ngủ được” là thể hiện bản chất của con sóng tự nhiên, luôn vận động, di
chuyển vào đích đến của mình là “bờ”. Nên, nỗi nhớ “không ngủ được” là nỗi nhớ của 1 ty đậm
sâu, da diết.
Không còn là “sóng”, nhân vật em xuất hiện trực tiếp để nói về nỗi nhớ của mình:
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức.
Nỗi nhớ phá tan những mong ước đời thường, cất cánh đưa người phụ nữ đến một cõi mơ.
XQ dùng từ “lòng em” – diễn tả chính xác tình cảm của người phụ nữ về ty. Tấm lòng, nơi sâu kín
của tâm hồn phụ nữ, nơi bộc bạch một nỗi lòng mộc mạc, hiền lành, bật lên thành một xúc cảm da
diết “Lòng em nhớ đến anh”.
Nỗi nhớ từ ý thức thời gian đến cả “thời gian trong mơ” – vô thức.
Một biểu hiện của nỗi nhớ vừa cảm thức vừa chủ động, tự tin đến bật lên như 1 cốt lõi của tinh
thần. Đây là nét mới, nét hiện đại của XQ.
Một XQ nhiều lo âu, thao thức, nhiều dự cảm trắc trở:
- Em đâu dám mong là vĩnh viễn
Hôm nay yêu, mai có thể xa rồi.
- Lời yêu mỏng mảnh như làn khói
- “Dẫu” – điệp từ, 1 lời khẳng định chắc nịch, vững vàng rằng, thách thức dẫu nhiều nhưng tình
yêu bền bĩ.
+ động từ “xuôi” – “ngược”: gợi bất trắc, trắc trở trên đường đời.
+ Phương bắc – phương nam: Không gian cách xa vời vợi, không gian cách trở địa lý.
Có một sự khác biệt trong cách diễn đạt ngôn từ của XQ so với quy ước cũng như tâm thế thông
thường: Người đời nói ngược bắc, xuôi Nam… thơ XQ xuất hiện những nghịch lý “xuối bắc,
ngược Nam”. Sự khác biệt ấy hé mở những trắc trở, éo le trong ty. Nhưng “dẫu” đã khẳng định
người phụ nữ vẫn vượt qua khó khăn, trắc trở ty để tới được bến bờ hạnh phúc.
– Dù muôn trùng cách trở là logic khách quan, trái tim ty chỉ có 1 logic riêng - “hướng về anh một
phương”
Trong ty, phụ nữ chia cuộc đời này, vũ trụ này thành 2 phương: phương anh và “phương không có
anh”. “Phương anh” – bình yên, ấm áp. “Phương không anh” – lặng lẽ, u buồn.
=> Người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh vẫn đậm dáng vóc của người phụ nữ xưa bởi những nét
đẹp truyền thống không dễ phai mờ: Đức thủy chung trước sau như một, một lòng một dạ không
thay đổi dù thời gian xa xôi, không gian cách trở.