You are on page 1of 34

Sóng

“Biển và tình yêu không khoan dung với những kẻ báng bổ” (Aleksandr Grin). Câu
nói ấy đem lại cho ta kha khá dòng suy nghĩ, cũng đã để lại cho ta khá nhiều khoảng
lặng. Bỏi vì đúng thế, biển cả sẽ không bao giờ nương tay cho những kẻ yếu hèn, hay
những kẻ không biết tự lượng sức mình. Sóng biển dữ dội sẽ đánh bật những kẻ như
vầy. Và tình yêu cũng vậy. Tình yêu lắm lúc thất thường, có lúc thì nhẹ nhàng êm
đềm, có lúc thì say đắm nồng nàn, và cũng có lúc lại dữ dội mãnh liệt. Ta cần phải
biết trân trọng, phải biết nâng niu, phải biết nắm giữ. Nếu không, phỏng chừng cũng
sẽ bị vật ngã, xô đẩy giống như những làn sóng ngoài biển khơi xa xăm.
Văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ đã để lại nhiều tác
phẩm mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn viết về đề tài đất nước. Thế
nhưng đâu đó trên bước đường hành quân vẫn có những vần thơ tươi xanh vẫn có
những đóa hoa nở dọc chiến hào cất lên bao lời ca say đắm về tình yêu đôi lứa. Bài
thơ “Sóng” của nhà thơ Xuân Quỳnh sẽ đưa người đọc vào thế giới của tình yêu và
cảm nhận những nét đặc sắc trong thế giới thơ tình của Xuân Quỳnh. Người phụ nữ ở
độ tuổi này có suy nghĩ rất chín về tình yêu; mặt khác cũng thấy được ý thức của cái
“tôi” bên cạnh cái ta chung. XuânQuỳnh không cảm thấy thất bại hay buồn rầu mà lại
càng thấm thía và khao khát cóđược một tình yêu đích thực, sự thấu hiểu giữa những
con người cùng chí hướng. Khi đứng trước biển Diêm Điền, với những cơn sóng dạt
dào, bà nghĩ về bóng hình người đàn ông trong định mệnh, để viết ra những vần thơ
về tình yêu thật sâu sắc và chân thành.
I. Khổ 1 + 2 + 3
Trong Sóng người ta thấy quan điểm về tình yêu của Xuân Quỳnh rất hay và rất độc
đáo vừa mang tính chất truyền thống đằm thắm, thủy chung, lại cũng mang vẻ hiện
đại đầy khao khát và tự do.
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”
Xuân quỳnh đã rất tinh tế khi quan sát các tính chất của thực thể sóng: dữ dội; dịu êm;
ồn ào; lặng lẽ. Hai cặp tính từ mang sắc thái tương phản được đặt liền kề cho thấy
trong bản thân thực thể luôn tồn tại nhiều đối cực khác nhau; khi hiền hòa dịu êm, khi
lại mãnh mẽ, ồn ào. Mượn hình ảnh sóng nhà thơ muốn nói lên nỗi niềm, tính khí thất
thường của người phụ nữ trong tình yêu: khi nhiệt huyến đắm say khi lại giận hơn,
trầm lặng. Tình yêu là thế, luôn chứa đựng biết bao cung bậc những xúc cảm thật khó
lí giải. Tình yêu khiến cho bản tính con người vì thế cũng có sự giao hòa đan xen
khác lạ.
Chuyện tình yêu mấy ai có thể hiểu sâu sắc và tường tận, nhưng người con gái ở đây
không chịu những yếu tố mập mờ như thế, cô quyết tâm từ bỏ không gian nhỏ hẹp,
đến với không gian rộng lớn:
“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Ở đây ta thấy xuất hiện hai phạm trù không gian là sông và bể. Bể chính là thế giới
rộng lớn, khoáng đạt, là khát vọng lớn lao, chân trời mơ ước của biết trăm ngàn con
sóng; chỉ có bể mới có thể chứa đựng được tính khí thất thường của sóng. Còn sông,
trong tương quan với bể, sông ở vị trí nhỏ hẹp hơn, sông có giới hạn, chật chội. Sông
không thể hiểu hết tâm tư tình cảm không thể đồng cảm, chứa đựng với tính khí thất
thường của sóng nên sóng phải buộc lòng tìm ra bể để được an ủi, sẻ chia, để được
đắm say. Sóng là em, tình yêu của sóng cũng chính là tình yêu của em. Sóng tìm ra bể
chính là hiện thân cho khát khao của em, khát khao được vươn ra biển lớn, kiếm tìm
một bến bờ tình yêu trân thành, thấu hiểu. Từ “tận” mang sắc thái biểu trưng cho xa
xôi, khó khăn. Soi chiếu đối sánh với sóng ta thấy được hành trình gian nan, xa xôi,
trắc trở của người phụ nữ khi kiếm tìm tình yêu đích thực của cuộc đời mình. Thế
nhưng câu thơ mang sắc thái manh mẽ thể hiện được sự kì công, quyết liệt của người
phụ nữ trong tình yêu. Dám khát khao, dám mơ ước và dám hành động để đi tìm hạnh
phúc cho cuộc đời mình. Con sóng tìn hcuar Xuân quỳnh thật phi thường có bản lixng
và đầy cá tính. Đây là nét độc đáo của người phụ nữ hiện đại, vô cùng chủ động, táo
bạo và đầy dũng cảm
Đây quả thực là một quyết định hết sức táo bạo, quyết liệt của người con gái. Nó khác
hẳn người con gái trong xã hội cũ luôn bẽn lẽn, thẹn thùng, không dám quyết định
cuộc đời mình. Còn người con gái chủ động tìm kiếm câu trả lời, tìm kiếm hạnh
phúc.Khát khao được yêu thương là nỗi khát khao muôn đời, đặc biệt là tuổi trẻ. Xuân
Diệu đã từng viết rằng:
“Làm sao sống được mà không yêu
Không nhớ không thương một kẻ nào”(Bài thơ tuổi nhỏ, Xuân Diệu)
Yêu đương như một lẽ tất yếu của con người, và người con gái trong bài thơ cũng
vậy,nỗi khát khao tình yêu bồi hồi trong lồng ngực trẻ, luôn thổn thức, rực cháy:
“Ôi con sóng ngày xưa
và ngày sau vẫn thế”
Nữ nhà thơ đã khẳng định được những đặc điểm ngàn đời vốn có của con sóng, từ quá
khứ “ngày xưa” cho đến thời điểm tương lai “ngày sau” con sóng vẫn luôn luôn chứa
đựng những trạng thái đối lập, vẫn luôn vận động dựa trên một quy luật trăm sông đều
đổ ra biển. Trạng từ khẳng định “vẫn thế” một lần nữa giúp biểu đạt chân lý ấy sẽ
không bao giờ có thể đổi thay.
Thơ ca hay nghệ thuật đều là những sự sáng tạo muốn mang đến cho người đọc những
cảm xúc mới lạ, đem đến cho tâm hồn của con người những trải nghiệm đa dạng,
phong phú. Ta tự hỏi rằng vì sao trong sáu câu thơ đầu tiên tác giả chỉ đưa cho chúng
ta hai đặc điểm tự nhiên, vốn có của những con sóng? Để giải đáp cho điều đó, nữ nhà
thơ viết tiếp hai câu thơ sau:
“Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
Dù là khi còn xuân sắc, trẻ dại, hay khi đã đứng tuổi, trung niên trải qua bao đắng
caytrong cuộc đời, thì em muôn đời vẫn thế vẫn khao khát tình yêu, thứ bao đời khiến
con người ta say mê níu giữ, thứ khiến cho trái tim “bồi hồi trong ngực trẻ”. Thứ
khiến cho con người cảm thấy cuộc đời càng có thêm ý nghĩa, càng thêm yêu đời và
muốn phấn đấu vì tương lai, muốn kiếm tìm cho mình một niềm hạnh phúc tốt đẹp.
Trong bất cứ vấn đề nào của cuộc sống, con người luôn có nhu cầu giải mã, lí giải
chúng và trong tình yêu của không phải là một ngoại lệ:
“Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”
Có lẽ rằng khi yêu, ai cũng đều muốn lý giải rằng, tình yêu đôi ta bắt đầu từ đâu, từ
khinào, tại sao ta yêu nhau. Thế nhưng nếu tình yêu dễ lý giải như thế thì có lẽ nền
thơ ca về đề tài này đã sớm lụi tàn ý tưởng, bởi lẽ chưa một ai có thể định nghĩa về
tình yêu một cách toàn vẹn và chính xác. Nó là tổng hòa của nhiều cung bậc cảm xúc,
là món quà kì diệu mà tạo hóa đã ban tặng cho con người, là thứ tình cảm với muôn
vàn cung bậc cảm xúc khiến người ta bước vào thiên đường, nhưng cũng có khi giày
vò khiến tâm can ta đau nhói. Xuân Quỳnh nghĩ về mình và người ấy, nghĩ về nguồn
gốc của tìnhyêu đôi lứa, nghĩ về biển và bà chợt nhận ra rằng định nghĩa tình yêu
bằng lý trí là một việc làm vô nghĩa. Thay vì mãi quẩn quanh trong câu hỏi “Khi nào
ta yêu nhau”, tại sao con người lại không dành phần tâm sức ấy để cống hiến cho tình
yêu của mình thêm nồng nàn sâu sắc, lắng nghe từng nhịp đập của đôi tim để cảm
nhận thật rõ niềm hạnh phúc quý giá lúc còn có thể. Quả đúng tình yêu chẳng thể
đong đếm, cân đo chính xác từng giây phút, từng thời điểm, tình yêu như một cơn
mưa rào, bất chợt đến khiến ta ngỡ ngàng, hạnh phúc. Hai câu hỏi của nhân vật trữ
tình đan cài, hòa quyện vào nhau,chúng dường như hoà vào làm một. Nếu như nguồn
gốc của sống, ta có thể cắt nghĩa được, thì nguồn cội của tình yêu ta lại không thể cắt
nghĩa nổi. Đó là một điều lạ lùng,bí ẩn, đây cũng chính là yếu tố tạo nên sự hấp dẫn
cho tình yêu.
Chính Ta-go trong bài thơ tình số 28 cũng đã bày tỏ:
“Trái tim anh lại là tình yêu
Nào ai biết được chiều sâu và bến bờ của nó
Em là nữ hoàng của vương quốc đó
Ấy thế mà em có biết trọn nó đâu”.
Nhưng, nếu thơ Ta-go là tiếng nói hướng nội truy tìm bản thể để hướng tới những suy
tưởng triết lý sâu sắc thì thơ Xuân Quỳnh hướng ngoại để hướng nội, nên ở đây tính
chất triết lý suy tưởng được giấu bên ngoài vẻ hồn nhiên trực cảm, do đó dễ khơi gợi
sự đồng điệu cảm xúc bên ngoài và đánh thức những suy tưởng bên trong độc giả.
Con gái khi yêu luôn là như thế, luôn mâu thuẫn, đối lập trong lời nói và hành động.
Nếu yêu một người con gái mà không biết nhìn thẳng vào mắt người đó thì chắc chắn
một điều rằng anh chàng sẽ khó lòng hiểu và yêu thương cô gái trọn vẹn. Hành trình
của sóng chính là hành trình của tình yêu. Nếu con sóng luôn luôn chủ động chối bỏ
những chật chội hẹp hòi để vươn tới những điều rộng lớn thì người con gái đang yêu
cũng luôn luôn có khát khao như thế. Họ dũng cảm từ bỏ những ích kỉ, nhỏ nhen để
vươn tới tình yêu bao dung. “Tình yêu luôn có quy luật riêng mà lí trí thì không thể
nào hiểu nổi”. Tình yêu đôi lứa mêng mang như đại dương, tự nhiên và bí ẩn. Đó là
những chân lí xưa cũ mà ai cũng biết. Đóng góp của Xuân Quỳnh là tạo ra tiếng nói
rât riêng đằm thắm nét duyên con gái về những điều xưa cũ ấy. Không nghiêng về tư
duy logic như ông hoàng thơ tình Xuân Diệu, nữ sĩ Xuân Quỳnh nói bằng tiếng nói
của cảm xuac trái tim. Không cắt nghĩa rõ ràng cụ thể, Xuân Quỳnh chỉ khơi gợi để
người đọc tự chiêm nghiệm suy ngẫm. Chính điều đó tạo nên sức hấp dẫn của Xuân
Quỳnh.
II. Khổ 5 + 6 +7
Tình yêu gắn liền với nỗi nhớ – một trong những gam màu chủ đạo của tình yêu. Bao
kẻ nhớ người mình yêu mà đảo điên:
“ Trời còn có bữa sao quên mọc
Anh chẳng đêm nào chẳng nhớ em”(Xuân Diệu)
“ Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than”(Ca dao)

Còn Xuân Quỳnh thì:


“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Những con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương”
Nếu ở 2 khổ thơ đầu tiên, nhà thơ Xuân Quỳnh đã thể hiện những tính cách trái ngược
của con sóng tình, hay chính là tính cách của người con gái trong tình yêu thì khổ thơ
thứ 3 và khổ thứ 4 lại bày tỏ những suy tư, trăn trở về cội nguồn của tình yêu. Cũng
tiếp nối dòng cảm xúc ấy, khổ thơ thứ 5 và khổ thứ 6 đã diễn tả rất thành công cảm
xúc, tâm trạng của người phụ nữ trong tình yêu. Ở khổ thơ thứ 5, "sóng" và "em"
phân đôi, soi chiếu vào nhau để làm sáng lên những tâm sự sâu kín trong em. Đó là
một nỗi nhớ mênh mông sâu thẳm. Con sóng trên bề mặt hay con sóng dưới lòng sâu
muôn đời vỗ nhịp trong lòng biển cả, cồn cào một hướng vào bờ dẫu có muôn ngàn
cách trở. Vì thế mà biển có khi bình yên nhưng biển không lặng yên, sóng vẫn luôn
trăn trở nỗi nhớ bờ. Ý thơ được kết nối và phát triển thật tự nhiên, những câu thơ
không ngắt nhịp đặt cạnh nhau liên tiếp như nhịp sóng miên man nhung nhớ. Khổ thơ
kéo dài tới sáu câu như phá vỡ trạng thái tâm hồn bình yên, tạo độ nhấn cho dòng cảm
xúc mãnh liệt tuôn chảy. Từ "sóng", Xuân Quỳnh đã nói lên quy luật tất yếu của tình
yêu. Tình yêu bao giờ cũng gắn liền với nỗi nhớ. Nếu như sóng nhớ bờ ở tầng sâu, bề
rộng của đại dương, chế ngự cả không gian, và lấp đầy cả trong từng hơi thở, ý nghĩ:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Dẫu là “dưới lòng sâu” hay “trên mặt nước”, dẫu có là nơi nào đi chăng nữa thì tình
yêu vẫn luôn đong đầy và toàn vẹn với những nỗi nhớ tha thiết xuyên không gian và
thời gian. Nhớ đến độ “ngày đêm không ngủ được”, nhớ đến độ cả khi đã bước
vàogiấc ngủ êm đềm, mà hình bóng của tình nhân vẫn còn in đậm trong những giấc
mơ triền miên không dứt. Nỗi nhớ ấy lại càng làm nổi bật đức tính thủy chung, son sắt
củangười phụ nữ trong tình yêu, khi mà đi khắp phương trời, hình bóng của người
thươngvẫn không khi nào rời khỏi tâm trí, tấm lòng yêu, trái tim yêu vẫn chỉ nhắc nhở
về mộtthân ảnh duy nhất.
Vẫn tiếp tục mạch nguồn của nỗi nhớ, nếu ở khổ thơ thứ 5, sóng được khám phá theo
chiều thời gian thì đến khổ thơ 6, "sóng" được khám phá theo chiều rộng của không
gian ở hai miền xuôi - ngược. Ở góc độ nào "sóng" cũng luôn trào dâng một nỗi nhớ
bờ. Con sóng dù xuôi về phương Bắc hay ngược về phương Nam thì cuối cùng vẫn
tìm về với bờ:
“Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở.”
Thông thường người ta hay nói xuôi nam, ngược bắc. Ở đây Xuân Quỳnh nói xuôi
bắc - ngược nam, dường như cái logic của lý trí thông thường đã bị xoá mờ chỉ còn lại
hai miền xuôi ngược để trăn trở tìm nhau, để khao khát được bên nhau. Nỗi nhớ da
diết, khắc khoải đi cùng với sự thủy chung, son sắt trong tình yêu của nhân vật trữ
tình. Phương Bắc và phương Nam là hai địa danh cách xa nhau hàng ngàn cây số, sử
dụng hai danh từ này nói lên sự xa xôi, cách trở. Đặc biệt trong cách dùng từ xuôi về
Bắc, ngược về Nam dường như đã hàm chứa sự cách trở, éo le, những biến động
trong cuộc đời. Nhưng đối lập với cái thường biến ấy là sự bất biến“Nơi nào em cũng
nghĩ/ Hướng về anh – một phương”. Dấu “-” đặt giữa câu thơ, tách hai chữ “một
phương” riêng thành một vế. Chính điều đó đã tạo nên điểm nhấn, sâu lắng, nồng nàn
của xúc cảm thơ. Xuân Quỳnh quả thực đã rất tự tin và chân thành bày tỏ tình cảm
thủy chung của mình trước anh. Đó là sự tự tin của người phụ nữ bản lĩnh dám yêu và
cũng dám đi đến tận cùng để đạt tình yêu của cuộc đời. Đó là biểu hiện của tấm lòng
thủy chung, son sắt.
Để có được tình yêu vừa sôi nổi thiết tha, mãnh liệt vừa trong sáng thủy chung thì con
sóng phải vượt qua đại dương mênh mông để đến với “bờ anh”.
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
Hình ảnh ước lượng “ trăm ngàn” con sóng vượt qua mọi khoảng cách đến bờ, khơi
dậy trong lòng nhà thơ sự tin tưởng vào tình yêu đôi lứa là hành lý để đưa con người
đến cái đích cuối cùng của cuộc đời, có thể vượt lên những giới hạn của đời sống. Đó
không phải suy nghĩ nông nổi hay là bồng bột mà là sự nhận thức về quy luật và chân
lý của đời sống nên nó trong sáng, trọn vẹn và tha thiết, cháy bỏng.
Có thể nhận ra một cấu trúc đảo tinh tế trong hai câu cuối của khổ 7. Nếu viết theo
trật tự cú pháp thông thường của một câu ghép chính phục “Dù…nhưng” thì hai câu
thơ sẽ là: “dù muôn vời cách trở - con nào chẳng tới bờ” và như thế ý thơ sẽ thuận
hơn, sự khẳng định sẽ chắc chắn, đầy lý trí với một kết cục có hậu và bình ổn. Nhưng
Xuân Quỳnh lại chọn một kết cấu đảo khiến niềm tin sâu sắc mà vẫn mong manh, một
chút bất ổn và đầy cảm tính, niềm tin mãnh liệt, chân thành mà không hề dễ dãi, ngây
thơ.
Một người phụ nữ đã từng mất mát, từng đổ vỡ trong tình yêu nên luôn hiểu rẳng con
đường đi đến với hạnh phúc thường không ít đắngc cay gian nan, mộ trái tim đã bao
lần bầm dập đau đớn nên niềm tin vào đích đến cuối cùng của tình yêu thêm vị đắng
của sự nếm trải. Câu kết “dù..” như một lời nói thêm để tự dằn lòngm tự nhắc nhở
mình đừng bao giờ mất niềm tin nhưng cũng đừng nên ngây thơ, ảo tưởng vào sự dễ
dàng trong tình yêu. Và cũng chính vì sự nếm trải ấy mà niềm tin của người phụ nữ
trở nên đáng quý, đáng trân trọng.
Ba từ “Ở ngoài kia” như cánh tay Xuân Quỳnh mềm mại đang chỉ tay về khơi xa nơi
trăm ngàn con sóng gày đêm không biết mỏi đang vượt qua giới hạn không gian thăm
thẳm muồn vời cách trở để hướng vào bờ ôm ấp nỗi yêu thương. Sóng biển ngoài đại
dương bao la kia cũng vượt qua bao giông tố, gió mưa mới vỗ tới bờ cát bình yên.
Cũng như tình yêu anh và em cũng phải cùng nhau cố gắng, nắm tay nhau bước qua
những gian truân, cám dỗ và sóng gió của cuộc đời mới tới ngày trọn vẹn. Ca dao xưa
có câu:
"Yêu nhau mấy núi cũng trèo
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua"
Tình yêu là sức mạnh hay chính tình yêu đã mang lại sức mạnh lớn lao như thế.
Qua khổ thơ 5 6 7 ta như được chảy trong mạch cảm xúc yêu đương của nhà thơ, đó
là nỗi nhớ mãnh liệt, lòng chung thủy tuyệt đối và một sự tin tưởng khó về thay đổi
trong tình yêu. Mượn hình tượng “sóng” tác giả đã bày tỏ nỗi lòng của người con gái
khi yêu một cách thật chân thành, đẹp đẽ. Tình yêu trong Sóng tha thiết, nồng nàn và
đầy khát vọng, có thể vượt lên trên mọi giới hạn, khó khăn, thử thách. Bài thơ nói
chung và ba khổ thơ nói riêng đã để lại trong lòng người đọc những xúc cảm, ấn
tượng sâu sắc. Tin chắc rằng dù thời gian có chảy trôi thì đến ngàn đời sau thì những
con chữ này của Xuân Quỳnh vẫn mãi là một thanh âm tươi đẹp trong lòng người yêu
thơ.
III. Khổ 8 + 9
Nhà phê bình Chu Văn Sơn đã có một nhận xét rất hay về thơ Xuân Quỳnh như sau:
"Thơ Xuân Quỳnh là thơ của một cánh chuồn chuồn bay tìm chỗ nương thân trong
nắng nôi dông bão của cuộc đời... Thế giới thơ ca Xuân Quỳnh là sự tương tranh
không ngừng giữa khắc nghiệt và yên lành với những biểu hiện sống động và biến hóa
khôn cùng của chúng". Có lẽ cũng là vì Xuân Quỳnh là người phụ nữ đa cảm luôn
luôn dự cảm những giông bão cuộc đời dù lòng chị vẫn tin yêu. Trong tình yêu, Xuân
Quỳnh cũng gặp nhiều trắc trở, những khổ đau, cay đắng. Bởi vậy, tình yêu với chị
đôi khi chỉ là khoảnh khắc mong manh.
"Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn
Hôm nay yêu mai có thể xa rồi"
(Nói cùng anh)
Dẫu đã tin tưởng vào một kết cục có hậu trong tình yêu nhưng trái tim nhạy cảm, giàu
suy tư của Xuân Quỳnh vẫn không tránh khỏi những giây phút trăn trở, lo âu khi nỗi
ám ảnh về dòng chảy thời gian lại hiện hữu:
"Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn qua đi
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa"
Ở đây tình yêu được đặt trong cả không gian và thời gian. “Cuộc đời” là khoảng thời
gian hữu hạn của con người, còn “năm tháng” là thời gian vô thuỷ, vô chung. “Biển”
là không gian bao la, rộng lớn nhưng vẫn chứa đựng trong nó những giới hạn, “mây”
là kẻ lãng tử phiêu du khắp thế gian rộng lớn. Đặt trong chỉnh thể, khổ thơ nằm giữa
khổ 7 – niềm tin vào sức mạnh tình yêu của cái tôi trữ tình và khổ 9 khát vọng về một
tình yêu bất tử thì khổ thơ này đã diễn tả trái tim của người phụ nữ luôn tin vào tình
yêu. Chị tin rằng dẫu cuộc đời tuy dài, thì năm tháng vẫn đi qua; biển kia dẫu có rộng
đến đâu thì mây vẫn cứ bay về xa. Như tình yêu của em và anh cũng vậy, dù có bao
cách trở, chông gai thì ở phía cuối con đường, chị tin rằng đó là một tình yêu hạnh
phúc. Có lẽ vì niềm tin này mà bài thơ đã vượt qua những năm tháng khốc liệt nhất để
trở thành đoá hoa thơm ngát hương giữa gió Lào cát trắng.
Tuy vậy, Xuân Quỳnh vẫn là một người phụ nữ rất đa sầu đa cảm, chị đã từng trải qua
những đổ vỡ nên trái tim chỉ chứa đầy những vết sẹo do tình yêu. Do đó mà những
câu thơ của những phần nào cũng thể hiện được một trái tim đầy bất ổn. Nhìn ở một
khía cạnh khác, ta bắt gặp trong khổ thơ này là những sự trái ngược qua cách thể hiện
“tuy”, “nhưng”, “dẫu”, “vẫn” đã đem đến cho người đọc cảm nhận được một trái tim
đa sầu, đa cảm. Tuy có niềm tin mãnh liệt vào tình yêu, nhưng chị vẫn luôn lo sợ. Chị
lo sợ rằng cuộc đời dẫu có rộng đến đâu thì năm tháng vẫn có thể trôi qua, biển kia
dẫu có bao la thì mây cứ trôi đi về miền thơ mộng thì liệu rằng tình yêu của đôi mình
có bền lâu. Liệu những khó khăn, trắc trở của cuộc đời có làm tình yêu đôi ta bị chia
rẽ. Sự lo sợ này cũng đã từng được Xuân Quỳnh bộc bạch:
“Tôi biết chắc mùa xuân rồi cũng hết”
Hay nỗi lo sợ về một tình yêu không vững bền đã được chị thể hiện:
“Lời yêu mỏng mảnh như màu khói
Ai biết tình ai có đổi thay”
Tuy vậy, những nét lo sợ, những dự cảm bất ổn này lại góp phần thể hiện một trái tim
mãnh liệt. Bởi khi có yêu, người ta mới sợ mất, bởi khi yêu trái tim mới lo sợ rằng
“lời yêu mỏng mảnh như màu khói” mới sợ rằng “tình anh có đổi thay:. Khổ thơ đã
diễn tả khát vọng, niềm tin vào một tình yêu đầy mãnh liệt của nhân vật trữ tình, đồng
thời với đó là những dự cảm đầy bất ổn trong tình yêu.
Bằng trái tim của một người phụ nữ hồn hậu, chân thành, luôn khát khao về một tình
yêu chân thành, bình dị đời thường nên Xuân Quỳnh muốn giữ trọn vẹn tình yêu của
mình:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”.
Nếu Xuân Diệu giục giã, tìm đến một giải pháp mạnh mẽ và quyết liệt để nới dài quỹ
thời gian cho tình yêu, hạnh phúc, để níu kéo năm tháng. Đó là sự vội vàng để tận
hưởng những vẻ đẹp của cuộc sống một cách say sưa, ham hố từ "ôm", "riết", "say",
"thâu" đến "cắn" cả sự sống, từ "mây đưa gió lượn" đến "non nước, cỏ cây".
Còn Xuân Quỳnh lại có một ước mong đầy nữ tính. "Tan ra" không phải là mất đi,
không phải là để vào cõi hư vô mà "tan ra" là hy sinh, là dâng hiến, là khao khát được
hóa thân cái tôi cá thể vào "trăm con sóng nhỏ" để hòa mình vào "biển lớn tình yêu"
để được vĩnh hằng hóa, bất tử hóa tình yêu. Yêu và mong ước được hiến dâng và hy
sinh cũng chính là khát khao được sống hết mình vì tình yêu, được sống với tình yêu
muôn thuở. Có như thế tình yêu mới chiến thắng được cái hữu hạn, mong manh của
đời người, cũng là một cách để vượt qua giới hạn mong manh của cõi người. Đó là
một khát khao chân thành, cháy bỏng, táo bạo nhưng cũng thật giản dị, đời thường,
nhân hậu, vị tha của một tình yêu đắm say.
"Làm sao" nói lên biết bao trăn trở, suy tư của người con gái mang trong tim tình yêu
mãnh liệt.Không phải "làm sao" để kéo dài sự sống thế gian, mà với Xuân Quỳnh, bà
luôn đau đáu "làm sao"để được sống mãi với tình yêu. Khát vọng cháy bỏng ấy được
nữ sĩ gửi vào hình ảnh sóng. Trong cảm xúc thẩm mĩ của nhân loại, biển là hình ảnh
của sự bất diệt. Biển có từ thuở khai thiên lập địa và sẽ tồn tại bất tận ngàn vạn năm
sau. Cùng với sự bất diệt của biển là sự vĩnh hằng của sóng: "Ôi con sóng ngày xưa/
Và ngày sau vẫn thế". Sóng trường tồn với thời gian, là sự sống, sự vận động không
ngừng nghỉ, không mệt mỏi... Nhận thức được điều đó, Xuân Quỳnh cháy lên khao
khát được tan thành sóng biển. Sóng muôn đời ào ạt vỗ bờ với niềm yêu da diết. Vì
tình yêu, người con gái ước muốn tan ra thành trăm ngàn con sóng nhỏ để tình yêu,
cuộc sống mãi trường tồn. Khao khát ấy nói lên tình yêu mãnh liệt, nồng nàn nơi trái
tim nữ sĩ. Khát khao yêu và được yêu, hướng đến hạnh phúc vững bền trong tình
yêu ... những điều đó đã làm nên thế giới nghệ thuật đậm nét riêng Xuân Quỳnh.
Với thể thơ năm chữ giàu tính tự sự, giàu sức biểu cảm, giàu tính triết lí, giàu chất suy
tưởng, kết hợp những biện pháp tu từ đặc sắc như nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ… Đoạn
thơ đã thể hiện ước vọng một tình yêu thật đẹp, thật mới mẻ trong tâm hồn lại thêm
quan niệm người phụ nữ khi đã yêu. Ngoài tình yêu riêng, mang vẻ đẹp truyền thống
lại thêm một ước vọng, một tình yêu bất tử, vĩnh hằng là lẽ sống đẹp, vẻ đẹp của tình
yêu chung trong tâm hồn người phụ nữ. Phải chăng, tình yêu là sự kết hợp giữa cái
riêng và cái chung giữa bản thân và cộng đồng, quê hương và đất nước mãi mãi là
tình yêu bất tử vĩnh hằng.
Người lái đò sông Đà
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu" (Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)
Tây Bắc đã trở thành vùng đất hứa của thi ca nghệ thuật những năm 58-60 khi miền
Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, các nhà văn nhà thơ đến với nơi đây để tìm
cho mình những nguồn cảm hứng mới. Ta từng biết đến Tô Hoài với tập “truyện Tây
Bắc” mà nổi bật là truyện ngắn “Vợ Chồng A Phủ”, hay Nguyễn Khải cũng đã từng
xôn xao lòng mình với “Mùa Lạc” thì Nguyễn Tuân lại thăng hoa trên mảnh đất này
với tập "Tùy bút Sông Đà” với linh hồn là bài kí “Người lái đò Sông Đà". Là một nhà
văn đi theo chủ nghĩa xê dịch, dấu chân của Nguyễn Tuân đã đi khắp mảnh đất hình
chữ S này, nhưng ông lại chọn Tây Bắc làm nơi cho ra đời đưa con đẻ tinh thần của
mình là bởi chỉ có nơi đây mới thỏa mãn thực đơn cho nhãn quan sáng tác của ông.
Tùy bút sông Đà là những trang văn được viết bằng ngôn ngữ điêu luyện, những đoạn
tà đèo cao, vực sâu, thác nước dữ dội, hoặc cảnh thiên nhiên đẹp đến tuyệt đỉnh,
nhưng lấp lánh giữa những vẻ đẹp ấy là hình ảnh con sông Đà hiện lên vừa hùng vĩ,
dữ dội nhưng cũng rất nên thơ, trữ tình và lãng mạn.
I. Hình tượng con sông Đà
Mở đầu thiên tùy bút, Nguyễn Tuân đã dẫn hai câu thơ làm đề từ: “đẹp vậy thay tiếng
hát trên dòng sông” và “Chúng thủy giai đông tẩu/Đà giang độc bắc lưu”. Như vậy
nhà văn đã ngầm thông báo với bạn đọc về hai đặc điểm của con sông với nét tính
cách đối nghịch: dữ dội, hiểm ác – kiều diễm, thơ mộng. Dưới con mắt của bậc du tử
luôn khát tìm sự lạ hóa, thiên nhiên sông Đà như một bản thể có tâm tính phức tạp.
Thoạt tiên ta có thể nhận thấy tính chất hùng vĩ, dữ dội hiểm ác của con sông Đà.
Cụ Nguyễn đã vận dụng tinh tế “thành cao hào sâu” để mở ra ấn tượng nơi người đọc
về vách thành kiên cố, vững chắc, thâm nghiêm. Vách đá hiện lên như thành cao,
sông Đà với vực thảm như hào sâu hun hút. Tất cả bước đầu dần kéo người đọc vào
trùng vây liên tưởng choáng ngợp, hãi hùng. Chỉ hai chữ “vách thành” thôi văn nhân
đã khắc tạc vào đó bao điều bí hiểm của thành quách cổ xưa sự rình rập của những
đợt hỗn chiến, tấn công. Chính bởi thành trì ấy cao thăm thẳm, sâu hun hút mà “đúng
ngọ mới có mặt trời”. Ánh nắng chói chang soi chiếu vạn vật nhưng chỉ khi lên thiên
đỉnh mới được le lói trên lòng sông Đà.
Qua cách miêu tả của tác giả người đọc Được truyền một cảm giác chân thực Đến
mức như đang đứng ở ngay trước mặt con Sông Đà ấy, Dường như chính họ cũng
cảm thấy sờn sợn và sợ hãi khi phải qua quãng ấy: "vách đá thành chẹt lòng Sông Đà
như một cái yết hầu"rồi "cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng
lên một khung cửa sổ nào.. vừa tắt phụt đèn điện". Bằng nghệ thuật miêu tả cùng các
biện pháp tu từ như nhân hóa, so sánh liên tưởng tưởng tượng, Nguyễn tuân Đã khiến
người đọc cảm nhận rõ hơn bao giờ hết sự nguy hiểm của vách đá Sông Đà.
Con Sông Đà với vẻ đẹp hùng vĩ được gợi lên qua những nét miêu tả ở quãng mặt
ghềnh Hát Loóng dài hàng cây số nước xô đá đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn
luồng gió gùn ghè suốt năm". Câu văn dài, nhiều về các vế móc xích nối lên nhau đặc
biệt nhịp thơ nhanh mạnh kết hợp với các từ động từ mạnh, Từ láy, Nghệ thuật điệp
"xô ", "cuồn cuộn “, "gùn ghè"đã đặc tả bức tranh sông nước quả thật vô cùng chân
thực gợi lên một cuộc truy đuổi dữ dội, quyết liệt của sóng nước Sông Đà hòng cướp
đi sinh mạng của bao con người Sông Đà đã phát huy hết sức mạnh của mình nhằm
tấn công con người.
Đặc biệt nét hung bạo dữ dội của con Sông Đà được thể hiện rõ nét hơn bao giờ hết ở
hình ảnh những cái hút nước xoáy tít cả đáy với biện pháp so sánh kết hợp với trí
tưởng tượng phong phú của mình, Nguyễn Tuân Đã có những phát hiện vô cùng thú
vị khi miêu tả những cái hút nước ở quãng Tà Mường Vát.
Đó là "Những cái hút nước giống như cái giếng bê tông", Âm thanh của nước thì
được nhân hoá Lên thành "thở và kêu như cửa cống cái bị sặc". Đặc biệt cách dùng từ
độc đáo "xoáy tít đáy"đã gợi tả một cách cụ thể, ấn tượng những hút nước sâu và
nguy hiểm, mặt sông có những vòng xoáy nhanh và mạnh. Cái cảm giác đầy gay cấn,
hồi hộp khi trèo qua quãng sông ấy "y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh"xuất phát
từ những liên tưởng thật độc đáo và thú vị. Tác giả đặt mình vào vị trí của con người
trên thuyền khi đi qua quãng ấy, sự nguy hiểm còn được Minh họa bằng những dẫn
chứng rất sinh động có những thuyền đã bị cái hút đổ xuống thuyền trồng ngay cây
chuối ngược … tan xác ở khuỷnh sông dưới.
Đứng trước nhà ảo thuật ngôn từ, người ta dễ thấy cái cảm giác bất lực khi khó có thể
tìm thêm tính từ nào cho sự hung bạo ấy. Cái cảm giác hãi hùng của người đang xem
phim hành động chỉ muốn nhắm tịt hai mắt vì kinh sợ. Vậy mà nhà văn tài hoa, uyên
bác Nguyễn Tuân vẫn lạnh lùng pha kích thích chĩa ống kính về cái “lừ lừ” bí ẩn, cái
“ặc ặc” ghê rợn của sông Đà.
Để có được những góc nhìn Đầy đủ và đa chiều, tác giả đã mượn góc nhìn điện ảnh
để chuyển lại cho người đọc những cảm nhận Vô cùng chân thực về con Sông Đà,
nguyễn tuân hình dung về một anh quay phim nào dám ngồi vào một thuyền "rồi cho
cả thuyền cả mình cầm máy quay xuống đây cái hồ Sông Đà "rồi nhìn ngược lên"làm
cho hình ảnh về những cái hút hiện lên rõ nét như miệng con thuỷ quái khổng lồ cố
nuốt chửng bất cứ thứ gì đi qua đó. Hình ảnh những cái hút nước được miêu tả cụ thể,
tỉ mỉ từ hình dáng, màu sắc, âm thanh, sự vận động dữ dội. Bằng vốn sống phong phú
và trí tưởng tượng sáng tạo, Nguyễn Tuân đã tô đậm mức độ khủng khiếp của những
cái hút qua hàng loạt các hình ảnh so sánh, liên tưởng độc đáo vừa giúp người đọc
hình dung về những cái hút như những hung thần tàn bạo vừa khiến họ cảm thấy ghê
sợ, khó bứt thoát khỏi những ghê người mà ma lực ngôn từ Nguyễn Tuân đã truyền
đến cho họ.
Nét hoang sơ của con sông Đà đã được Nguyễn Tuân khắc họa qua những nét đặc tả
về thác đá. Âm thanh thác nước được cảm nhận từ xa tới gần với thủ pháp nhân hoá
"oán trách", "van xin", "khiêu khích", "giọng găng mà chế nhạo"kết hợp với phép so
sánh "rống lên như tiếng 1 ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre
nứa nổ lửa… gầm thét với đàn trâu da cháy bùm bùm". Dòng thác dường như đã mở
hết âm lượng, tiếng thét của thiên nhiên bừng bừng, phấn khích, mạnh mẽ và man dại.
Từ những âm thanh đó, tác giả giúp người đọc cảm nhận được tính cách hung dữ y
như 1 con thuỷ quái khổng lồ với những âm thanh cuồng loạn, khiêu khích.
Đặc biệt tác giả sử dụng phép so sánh với những hình ảnh ở thế hoàn toàn đối lập.
Lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông, lấy trâu mộng để tả thác nước như réo, oán
trách, van xin… Cách miêu tả của tác giả rất độc đáo nhờ thủ pháp so sánh kết hợp
với lối viết riêng đã gợi ra nhiều trường liên tưởng, tưởng tượng phong phú. Nhờ đó,
ta thấy được, Nguyễn Tuân quả là 1 nhà văn có tầm.
Qua thủ pháp nhân hoá, Nguyễn Tuân đã thổi hồn cho đá, biến chúng thành những
gương mặt với hành động rất “tướng"với chân dung, diện mạo "ngỗ ngược, hòn nào
cũng nhăn nhúm méo mó", hình dáng, phong thái thì "bệ vệ oai phong lẫm liệt"rồi
còn "hất hàm", "thách thức", mỗi lần xuất hiện bóng dáng cái thuyền nào là chúng bèn
"nhổm cả dậy", "vồ", "chặn ngang", “đánh tan","tiêu diệt"cho bằng được cái thuyền.
Thủ pháp nhân hóa đã phát huy tính độ tác dụng để làm nổi bật tính cách đầy hung
bạo độc ác yêu chiến. Hình như Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn với nhiệm vụ tiêu
diệt con người. Những hòn đảo ấy trong cảm nhận của Nguyễn tuân là những tên
chiến binh với nhiệm vụ khác nhau nhằm giúp con chuyển vào để tiêu diệt. Chỉ vài
dòng đặc tả thôi cũng đủ khiến nơi đây trở thành nỗi sợ khủng khiếp đối với những kẻ
yếu bóng vía.
Đá kết hợp với nước bày binh bố trận thành 3 tuyến tấn công: hàng tiền vệ, tuyến
giữa, boongke chìm và pháo đài nổi. Sóng nước hò la thanh viện Để uy hiếp tinh thần
con người. Sông Đà đã huy động sức mạnh tổng lực của mình "ùa vào mà bẻ gãy cán
chèo", "Sông nước như thể quân liều mạng", đá trái, thúc gối vào bụng và hông
thuyền", "Đội cả thuyền lên bám lấy thuyền như đồ vật túm thắt lưng ông đò".
Qua những dòng văn miêu tả về trận thạch thuỷ sông Đà, Nguyễn Tuân lại một lần
nữa làm người đọc rùng mình trước tâm địa hiểm độc, đáng sợ của con sông Đà.
Binh pháp thần sông thần đá đầy bí hiểm, thạch trận được bố trí thành ba trùng vi. Ở
các trùng vi nhiều cửa tử mà chỉ có một cửa sinh và đặc biệt vị trí của sinh thường
xuyên thay đổi. Đọc đến đây, ta nghĩ ngay đến trận đồ bát quái của Khổng Minh khi
xưa chỉ có điều trận địa nay đã chuyển xuống mặt nước Sông Đà.
Nguyễn Tuân sử dụng hàng loạt thuật ngữ quân sự như binh pháp, pháo đài, cửa sinh
cửa tử, đánh khuýp quật vu hồi, mai phục, trùng vi thạch trận, hậu vệ, boong-ke chìm,
pháo đài nổi…. tạo không khí căng thẳng, kịch tính như 1 trận chiến thực sự giữa con
người và thiên nhiên đã diễn ra hàng bao thế kỷ.
Con Sông Đà không chỉ mang vẻ đẹp hung bạo dữ dằn kẻ thù số một của con người
mà con sông ấy còn hiện lên với một bức chân dung hoàn toàn đối lập, một nét vẽ
tương phản cùng tồn tại trong một chỉnh thể, chính vì vậy mà nét đẹp của nó càng trở
nên độc đáo ấn tượng, hấp dẫn. Vẻ đẹp trữ tình của con Sông Đà hiện lên dưới nhiều
khía cạnh được Nguyễn Tuân cảm nhận theo những góc nhìn khác nhau.
Con Sông Đà từ trên cao nhìn xuống với hình dáng thướt tha và màu sắc biến đổi vô
cùng phong phú. Từ trên tàu bay mà nhìn xuống, trông con Sông Đà như “cái dây
thừng ngoằn ngoèo… tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình đầu tóc chân tóc ẩn
hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù
khói núi Mèo đốt nương xuân". Điệp từ tuôn dài cùng với Nhịp thơ nhẹ nhàng như ru
như ngân tạo nên về được Lững lờ thướt tha,đầy chất thơ cho con Sông Đà. Phép so
sánh con sông như một áng tóc trữ tình là một nét nghệ thuật độc đáo mới mẻ. Chính
lối so sánh giàu chất thơ, chất hoạ này vừa giúp phô ra vẻ đẹp dịu dàng đằm thắm
kiều diễm kiêu sa vừa bộc lộ được chất phong tình hào hoa của người nghệ sĩ Nguyễn
Tuân. Qua phép so sánh, sông Đà mang dáng vẻ của 1 người thiếu nữ đầy xuân sắc
đang buông hờ mái tóc làm duyên giữa cánh rừng hoa bồng bềnh màu khói. Bao
nhiêu vẻ đẹp quyến rũ, thơ mộng của đất trời bỗng ùa về thức dậy trong những câu
văn của Nguyễn Tuân.
Đà Giang hiện lên với đủ màu sắc biến hoá theo từng mùa. Mùa xuân sông xanh ngọc
bích mùa thu nước sông lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Tác giả
còn so sánh màu xanh ngọc bích của Sông Đà Với màu xanh cánh hiện của sông Gâm
sông lô. Đồng thời, nhà văn còn đặt sông Đà trong dòng chảy lịch sử, ông bày tỏ sự
bất bình trước cách gọi tên đầy lếu láo của bọn thực dân gọi Sông Đà là sông đen.
Đoạn văn không chỉ thể hiện những cảm nhận tinh tế của 1 ngòi bút tài hoa mà còn
bộc lộ được 1 cái tôi đầy uyên bác của nhà văn.
Con sông Đà dưới cái nhìn của 1 người rừng lâu ngày trở nên đầy mới mẻ và gợi cảm.
Với Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên như 1 “cố nhân". 2 chữ “cố nhân"vang lên cùng
biết bao tình cảm trìu mến, niềm xúc động của tác giả khi gặp lại sông Đà đã cho thấy
mối quan hệ gắn bó vô cùng sâu nặng, tâm tình, tri kỉ.
Khoảnh khắc mà tác giả phát hiện vẻ đẹp cổ kính của dòng sông, mặt sông loang
loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt, sáng lóe lên 1 màu nắng tháng 3
Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu"( Lý Bạch ). Dòng sông như đang
chảy về từ quá khứ xa xưa mang vẻ đẹp cổ kính như những câu thơ của tiền nhân. Bờ
bãi sông Đà ngập tràn chuồn chuồn, bươm bướm, dệt nên 1 bức tranh rực rỡ sắc màu,
tô điểm thêm cho vẻ đẹp dòng sông.
Bên cạnh việc miêu tả dòng sông, nhà văn còn trực tiếp giãi bày, bộc lộ niềm xúc
động và hạnh phúc của mình khi gặp lại cố nhân. Những câu văn đầy tính nhạc và
cảm xúc: “Chao ôi, trông dòng sông vui như thấy nắng giòn tan sau khi kì mưa dầm,
vui như nối lại chiêm bao đứt quãng". Thán từ “chao ôi"mở đầu câu thơ thể hiện bao
niềm xúc động ngỡ ngàng, trầm trồ,đầy hân hoan mà "đằm đằm ấm ấm "của tác giả
khi gặp lại người "cố nhân "ấy. Cách dùng từ và diễn đạt mới mẻ, đầy ấn tượng "đằm
đằm ấm ấm". Nguyễn tuân với góc nhìn của người ngồi trên thuyền thả trôi trên sông
đã cảm nhận được đầy đủ vẻ đẹp thơ mộng hoang sơ, tĩnh lặng nhưng đầy sức sống
của đà Giang. Câu văn "Thuyền tôi trôi trên sông Đà"là 1 câu toàn thanh bằng gợi âm
điệu nhẹ nhàng dịp trôi êm ả, khoan thai của con thuyền đồng thời gợi hình ảnh con
người thoải mái khoan khoái, tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên.
Điệp từ lặng từ được lập lại hai lần diễn tả sự tĩnh lặng gần như tuyệt đối thậm chí là
Tịnh không một bóng người. Sự tĩnh lặng dường như đưa ta trở về quá khứ đến đời lý
đời trên đời lê, Đó là một vẻ đẹp cổ kính hoang sơ như một bờ tiền sử và hồn nhiên
như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Đặc biệt tác giả còn sử dụng nghệ thuật lấy động
tả tính, từ những âm thanh trong tâm tưởng như tiếng còi súp lê của một chuyến xe
lửa cho đến âm thanh của hiện tại tiền cả đất nước sông, tất cả đều có phần gợi ra một
không gian được bao phủ bởi một sự tĩnh lặng đến tuyệt đối.
Vẻ hoang dại, mộng mơ được thể hiện đầy ấn tượng qua hình ảnh “hoang dại như 1
bờ tiền sử", “hồn nhiên như 1 nỗi niềm cổ tích tuổi xưa", thường người ta so sánh cái
trừu tượng với cái cụ thể, cái lạ với cái quen vậy mà ở đây, Nguyễn Tuân đã làm
ngược lại. Qua cách so sánh này, tác giả vừa vẽ nên bức tranh sông Đà hoang sơ, thơ
mộng vừa thể hiện được tình cảm vô cùng trìu mến và thân thương mà ông dành cho
cô gái sông Đà. Hình ảnh con yêu thơ ngộ lần đầu nhung khỏi ai có xương đã tô thêm
nét thơ mộng cho cảnh dòng sông
Hình ảnh những nương ngô nhú lên mấy là ngô non đầu mùa rồi là cỏ gianh ra những
nõn búp, "Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi"gửi
hình ảnh một con Sông Đà thoát ra khỏi cuộc sống nhiều bề lắng đọng bâng khuâng
cùng với đó tiếng còi trong tâm tưởng của tác giả diễn tả khát khao của con người hứa
hẹn về một tương lai giàu tiềm năng du lịch của Tây Bắc
Nguyễn tuân đã miêu tả con Sông Đà vô cùng ấn tượng với những đặc điểm và tính
chất đối nghịch vừa hùng vĩ hung bạo lại kết hợp với nét thơ mộng trữ tình. Về đẹp ấy
được khắc họa qua các hình thức nghệ thuật tiêu biểu như thủ pháp tương phản các
biện pháp tu từ quen thuộc đặc biệt hình tượng con Sông Đà à được cảm nhận dưới
nhiều góc nhìn khác nhau mang đến một Về đẹp cụ thể đa chiều Cho dòng sông. Qua
hình tượng con Sông Đà, tác giả đã gửi gắm tình yêu sự gắn bó sâu sắc với quê hương
xứ sở và niềm tự hào trước vẻ đẹp của thiên nhiên Đất nước.
II. Hình tượng ông lái đò
Dưới ngòi bút thần kì của Nguyễn Tuân, bức tranh thiên nhiên sông Đà hiện lên vô
cùng hung bạo, trữ tình có vị trí quan trọng làm nên một tấm phông rất phù hợp để
hình tượng người lao động ở trên núi rừng Tây Bắc nổi lên với hai phẩm chất, đó là
chất anh hùng và chất nghệ sĩ mà tiêu biểu là ông lái đò rất gan dạ, dũng cảm gần hai
mươi năm chiến đấu với thác đá trong nước sông Đà để tồn tại.
Đến với "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân, điều đầu tiên người yêu văn bắt
gặp đó là hình ảnh con sông Đà được nhà văn tài ba này xây dựng vô cùng chân thực
và sống động. Dòng sông ấy hiện lên dữ dội khác thường nhưng cũng nên họa, nên
thơ. Nhưng con sông Đà hiện lên dù chân thực, hung bạo hay trữ tình đến đâu cũng
chỉ làm nền cảnh để Nguyễn Tuân tô lên chân dung của con người mới xã hội chủ
nghĩa thông qua hình tượng ông lái đò Lai Châu. Chỉ khi ông đò xuất hiện thì bức
tranh Đà Giang của Nguyễn Tuân mới trở nên hoàn chỉnh bởi ông đò Lai Châu chính
là chủ thể của bức tranh thiên nhiên. Có được điều đó bởi Nguyễn Tuân đã được giác
ngộ lí tưởng của Đảng. Trong văn chương, những người nghệ sĩ cách mạng, thiên
nhiên hiện ra dù hùng vĩ, mĩ lệ đến đâu cũng chỉ là nền cảnh để tô lên sự hiện diện của
con người. Con người làm chủ thiên nhiên, làm chủ núi rừng, làm chủ dòng sông, làm
chủ cả cuộc đời mình. Ông đò Lai Châu là một nhân vật như vậy.
Sở dĩ Nguyễn Tuân viết thành công ông đò Lai Châu trong thiên tùy bút của mình bởi
nhắc đến Nguyễn Tuân là phải nhắc đến một nhà văn của chủ nghĩa duy mĩ, cả đời chỉ
phụng sự cái đẹp. Vì vậy, những nhân vật của Nguyễn Tuân dù làm bất cứ nghề
nghiệp gì cũng phải là người nghệ sĩ trên nghề nghiệp của mình. Ta đã từng bắt gặp
một Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, là một nghệ sĩ viết chữ đẹp. Đó còn là một Bát Lê
trong "Bữa rượu máu" tuy chỉ là một đao phủ nhưng qua ngòi bút của Nguyễn Tuân
lại trở thành một nghệ sĩ chém người... Ở đây, ta thấy ông đò Lai Châu cũng là một
người nghệ sĩ như vậy. Dù tuổi đã vào bảy mươi nhưng khi lái thuyền trên dòng sông
Đà hung bạo với nhiều thác dữ, nhiều luồng chết, nhiều vực xoáy, tay lái của ông vẫn
ra hoa. Ông làm chủ dòng sông Đà, làm chủ cả thiên nhiên, làm chủ cuộc đời. Ông là
người nghệ sĩ trên sông nước mà Nguyễn Tuân đã tìm thấy ở trên Tây Bắc. Có thể
khẳng định chính người nghệ sĩ trên dòng sông Đà này đã trở thành một nguồn cảm
hứng bất tận đối với ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân.
Tay lái của ông được miêu tả là "tay lái ra hoa". Ông lái đò hiện lên trong những trang
văn của Nguyễn Tuân đầy ấn tượng với những nét về ngoại hình đúng là một con
người của sông nước: Ông gần bảy mươi tuổi nhưng rất chắc khỏe "thân hình gọn
quánh như chất sừng, chất mun", "tiếng nói ào ào như sông nước". "hai tay dài lêu
nghêu như cái sào lái đò", "hai chân khuỳnh khuỳnh như đang kẹp chặt cái cuống lái
trong tưởng tượng"... Chỉ vài nét phác họa tài hoa mà nhà văn như chạm khắc hình
tượng ông lái đò như là một anh hùng trên sông nước, vĩnh viễn đọng lại vào trái tim
bạn đọc để dựbáo về nhân vật cả cuộc đời gắn với nghề lái đò và mức độ tay nghề đã
đạt đến mức nghệ sĩ.
Nói về quan điểm của Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng để hiểu được vì sao con
người trong “Người lái đò Sông Đà” lại đẹp đến thế. Trước Cách mạng, ông đi tìm cái
đẹp trong quá khứ, cái đẹp nổi loạn, phi thường. Ông tìm đến những bậc nho sĩ tài
hoa, những vị anh hùng hào kiệt vang bóng một thời. Sau cách mạng, cái đẹp Nguyễn
Tuân hướng tới là sự bình dị, được tìm thấy ở những con người rất đời, rất thường. Từ
bác lái đò, đến anh bộ đội, cô dân quân, những nhân vật không tên, bình dị mà cao
quý. Ở góc nhìn này, người lái đò Sông Đà là một con người đẹp, một nhân vật đẹp
với cuộc sống lao động bình dị, đời thường. Miêu tả hình ảnh người lái đò, tác giả tập
trung vào con người đấu tranh với thạch trận Sông Đà để làm nổi bật rõ những khía
cạnh của hình tượng này: Một vẻ đẹp của người lao động bình thường, một người anh
hùng trên sóng nước Sông Đà và một người nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác leo
ghềnh.
Người lái đò là một anh hùng sông nước. Cuộc chiến đấu giữa người lái đò với thạch
trận Sông Đà là một cuộc chiến gay go, quyết liệt và dữ dội. Đây không đơn thuần chỉ
là một cuộc vượt thác, đây giống như một trận chiến sinh tử. Ở đó có sự giằng co giữa
sự sống và cái chết. Chính Nguyễn Tuân từng nói, “Cưỡi lên thác Sông Đà là phải
cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. Câu nói thể hiện sự quyết liệt, gay cấn và hiểm nguy,
giữa một bên là thạch trận Sông Đà, một bên là người lái đò. Thạch trận với đá hòn,
đá tảng, với luồng nước con sóng. Thạch trận Sông Đà “lúc nào cũng đòi ăn chết cái
thuyền” với người lái đò “tỏ rõ khí phách, bản lĩnh, dũng khí của người anh hùng”.
Trận chiến sinh tử, giằng co dữ dội. Không phải lúc nào người lái đò cũng thắng, đã
có những lúc tưởng như bị nuốt chửng trên thạch trận. Chiến thắng có được không hề
giản đơn. Trong cuộc chiến này, người lái đò trở thành người chỉ huy tài tình, bản
lĩnh, dũng khí gan dạ. Ông nắm chắc từng luồng nước, từng con sóng, binh pháp của
thần sông thần đá. Ông thuộc lòng từng cửa sinh, cửa tử, từng đá hòn đá tảng, từng cái
hút nước trên thạch trận. Thậm chí, ông còn hình dung ra bộ mặt dữ tợn của nước, đá,
sóng, gió, cảm nhận được thái độ giận dữ, tâm trạng cáu kỉnh của nó để rồi có những
sách lược chiến thắng từng con thác, từng tảng đá. Ông chủ động tiến, lùi, sang trái,
sang phải để vượt thạch trận. Người ta gọi ông là người chỉ huy tài năng cũng bởi vậy.
Tinh thần dũng cảm, ý chí dũng mãnh của ông lái đò được thể hiện qua từng hành
động: “khi thì kẹp chặt lấy cuống lái, khi thì chủ động sải bơi chèo lên, khi cưỡi thác
vượt ghềnh, khi chặt đôi con sóng”. Trên thạch trận, có bao nhiêu trùng vi là bấy
nhiêu nguy hiểm mà người lái đò phải đối mặt. Nếu không có tinh thần dũng cảm, ý
chí dũng mãnh thì không thể nào làm được việc đó. Giữa thiên nhiên kì vĩ và hung
bạo , người lái đò thể hiện một tư thế làm chủ, hiên ngang chế ngự những con sóng
dữ. Hình ảnh người lái đò chính là hình ảnh một người anh hùng trên sông nước, một
người lao động chế ngự được thiên nhiên.
Viết về người lái đò, Nguyễn Tuân không ca ngợi trực tiếp nhân vật mà chỉ thông qua
những lời miêu tả và chiến thắng thạch trận cũng đủ giúp người đọc hình dung ra vẻ
đẹp, tài nghệ của ông. Trên trang viết của Nguyễn Tuân, người lái đò không chỉ được
chú trọng về phẩm chất anh hùng mà còn nhấn mạnh vẻ đẹp một người nghệ sĩ, một:
tay lái ra hoa”. Tài nghệ thuần thục, điêu luyện đã nâng tới mức kĩ xảo. Với tác giả,
vốn quan niệm “mỗi trang đời là một trang nghệ thuật”, nghệ sĩ là một hình tượng
điển hình trong tư duy sáng tạo văn học của ông. Trong tác phẩm này, nhà văn miêu
tả công việc lái đò giống như một nghệ thuật:” Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh
khép, vút, vút… Cửa ngoài rồi cửa trong cùng. “Thuyền như một mũi tên tre xuyên
nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được”. Câu văn miêu tả
rất tinh tế. Phải có sự khéo léo, thuần thục trong nghề nghiệp thì người lái đò mới điều
khiển phương tiện của mình được như vậy. Người ta coi ông là nghệ sĩ trong nghệ
thuật vượt thác, con thuyền vượt sóng dữ, đá lớn để tô đậm thêm tài nghệ sĩ càng đọc
càng ca ngợi, tôn vinh của người lái đò.
Người lái đò không chỉ là anh hùng sông nước, một nghệ sĩ vượt thác mà còn là một
người lao động bình dị giữa đời thường, những con người đã cống hiến thầm lặng mà
cao cả. Những con người say mê với công việc, tình yêu với nghề nghiệp mà bất chấp
hiểm nguy, vất vả. Nguyễn Tuân không gọi nhân vật với cái tên cụ thể, chỉ đơn giản
là “ông lái đò”, tên gọi gắn liền với nghề nghiệp để khắc họa hình ảnh người lao động
bình dị giống bao người khác. Sau bao gian khổ, khốc liệt dữ dội, ông cũng chỉ muốn
trở về nhà, trở về với cuộc sống bình thường, thư thái và lạc quan. Tâm thế này không
phải ai cũng có được, nhất là những người trở về từ cõi chết. Một tâm hồn đẹp đẽ,
bình dị mà cao quý, linh thiêng.
Qua hình tượng người lái đò, nhà văn tỏ thái độ yêu mến, tự hào và cảm phục trước
những con người lao động bình dị vùng Tây Bắc, những con người mà nhà văn gọi là
“chất vàng mười” quí giá của Tổ quốc. Qua nhân vật người lái đò, Nguyễn Tuân cho
rằng chủ nghĩa anh hùng đâu phải tìm kiếm đâu xa. Nó có trong cuộc sống tìm miếng
cơm manh áo của nhân dân lao động. Những người bình dị có trí dũng tài ba họ có thể
tạo hình tạc mẫu cho nghệ thuật.
III. Hình tượng con sông đa trong ba thạch trận
Cảnh vượt thác trong "Người lái đò sông Đà" được Nguyễn Tuân ví là cảnh "xưa nay
chưa từng có" bởi đây là cuộc chiến dữ dội giữa thiên rộng lớn với con người bé nhỏ.
Nguyễn Tuân đã chú ý tô đậm nét tài hoa nghệ sĩ bởi với ông nét tài hoa nghệ sĩ của
con người không chỉ thể hiện trong việc sáng tạo nghệ thuật mà còn ở nhiều lĩnh vực,
hoạt động khác nữa. Cảnh vượt thác được tái hiện ở ba trùng vi thạch trận với những
thử thách nghiệt ngã khác nhau đã đề cao sự gan dạ, trí, dũng của ông lái đò khi vượt
qua cả ba trùng vi thạch trận an toàn.
Bước vào cái tuổi bảy mươi, hình ảnh người lái đò của Nguyễn Tuân hiện lên với một
vẻ ngoài đầy phong sương, cơ thể in hằn mùi sông nước, gắn liền với nghề nghiệp của
ông "tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh ra như kẹp lấy một cái bánh lái tưởng
tượng, giọng nói ào ào như thác lũ sông Đà, nhãn giới vòi vọi như nhìn về một bến xa
nào đó,..." Thân hình ông lái đò như một pho tượng tạc bằng đá cẩm thạch, nước da
ánh lên chất sừng như mun, ánh lên nắng mưa sương gió của mây trời Tây bắc. Tuổi
đã cao nhưng cặp mắt của ông vẫn tinh anh, thông thạo từng đường đi nước bước trên
sông Đà. Đặc biệt trên ngực ông có nhiều "củ nâu" - đó là vết tích của những ngày
tháng chiến đấu vật lộn với sông Đà, mà Nguyễn Tuân đã ví von như là "những huân
chương lao động siêu hạng"
Giữa khung cảnh thiên nhiên sông Đà hùng vĩ, đầy nguy hiểm và hung bạo ấy,
Nguyễn Tuân đã tô đậm vẻ đẹp tài hoa trí dũng của ông lái đò qua cuộc vượt thác đầy
nguy hiểm, một trận chiến dữ dội giữa con người và thiên nhiên. Người lái đò nhỏ bé
cùng chiếc thuyền mỏng manh đối chọi với thiên nhiên sông nước hung bạo, một cuộc
chiến không cân sức nhưng con người trí dũng ngoan cường, tỉnh táo, khôn ngoan,
khéo léo đã có thể đưa con thuyền an toàn vượt qua những trùng vi thạch trận trên
dòng sông một cách đầy ngoạn mục.
Ở trùng vi thạch trận đầu tiên, thác đá sông Đà đã chuẩn bị dàn trận địa sẵn, đó là trận
địa với bốn cửa tử, một cửa sinh. Ở đây nước phối hợp với đá reo hò làm thanh viện;
những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt; một hòn ấy trông như đang hất hàm hỏi cái
thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến và thách thức cái thuyền có giỏi thì
tiến gần vào. Bằng các từ ngữ: reo hò, bệ vệ, oai phong lẫm liệt, hất hàm hỏi, thách
thức… người đọc cảm nhận được không khí trận chiến nóng bỏng gay cấn hồi hộp,
đầy kịch tính.
Sự khôn ngoan của thác đá sông Đà khiến người đọc phải trầm trồ: chúng không chỉ
đánh trên mặt trận giáp lá cà mà còn đánh bằng cả nghệ thuật tâm lý chiến. Trước đó
chúng đã dùng âm thanh của thác khiêu khích “giọng gằn mà chế nhạo”. Còn giờ đây
chúng lại nhờ “nước thác làm thanh viện cho đá”. Với bản tính hung hãn như một loài
thủy quái, sông Đà cậy thế quân đông tướng mạnh nên đã “ùa vào mà bẻ gãy cán
chèo”, “liều mạng vào sát nách mà đá trái”, “thúc gối vào bụng và hông thuyền”, có
lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Một loạt động từ được Nguyễn Tuấn huy động để miêu
tả cách đánh của sông Đà làm người đọc không khỏi rùng mình trước sự hung bạo của
thiên nhiên: ùa vào, bẻ gãy, đá trái, thúc gối, đội,… Bị tấn công bất ngờ nhưng người
lái đò vẫn bình tĩnh, điều này càng làm ta thêm thán phục sự dũng cảm và chuyên
nghiệp của người lái đò. Với chiến thuật phòng ngự để dưỡng sức cho những trùng vi
sắp tới, “ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”; lúc này sông Đà lại
chuyển thế bám lấy thuyền và sử dụng đòn vật “túm lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật
ngửa mình ra”. Không để cho ông đò có cơ hội xoay xở, sông Đà lại chuyển thể đánh
miếng đòn hiểm độc nhất “cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ
người lái đò”. Dính miếng đòn hiểm, mắt ông hoa lên, tưởng như “một cửa bể đom
đóm rừng ùa xuống châm lửa lên đầu sóng”. Đòn đau khiến ông đò “mặt méo bệch
đi”. Đó là cái méo bệch vốn do cái lạnh của nước làm nhăn nheo lại thêm miếng đòn
đau làm ông khách sông Đà mặt như tím tái, ngây dại. Phép điệp động từ “đánh hồi
lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm” gợi lên cơn đau dồn dập, hành hạ
người lái đò. Nhưng ông đò nén đau, giọng ông vẫn bình tĩnh, tỉnh táo, sắc lạnh chỉ
huy sáu bơi chèo còn lại vượt cửa tử vào cửa sinh. Đó là một trận chiến không cân
sức, con sông Đà hùng vĩ và hung bạo vô cùng, người lái đò hiện lên nhỏ bé, với
chiếc mái chèo nhưng với sức mạnh thật lớn lao. Qua cách miêu tả tiếng hô chỉ huy
ngắn gọn, tỉnh táo của người cầm lái, Nguyễn Tuân đã không giấu được lòng ngưỡng
mộ và cảm phục trước bản lĩnh kiên cường, sự dũng mãnh, bình thản của người lái đò.
Nếu đoạn văn thứ nhất, Nguyễn Tuân tập trung miêu tả thế trận một chiều từ sông Đà
thì ở đoạn văn tiếp theo nhà văn tập trung miêu tả thế trận của ông khách sông Đà ở
sự thông minh, linh hoạt và tài nghệ vượt thác dũng mãnh, phi thường. Chuyển từ thế
trận phòng ngự, ông lái đò chuyển thế chủ động tấn công. Ở trùng vi thạch trận thứ
hai này, sông Đà tăng cường một “tập đoàn cửa tử” và cửa sinh bố trí lệch qua bờ hữu
ngạn. So với trùng vi một thì trùng vi này khó khăn hơn. Nhưng không vì thế mà ông
đò nao núng. Với kinh nghiệm mười năm chiến trường sông nước, người lái đò đã
“nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ
đá”. Ông đò cũng tự triết lý với mình “cưỡi lên thác sông Đà là cưỡi đến cùng như là
cưỡi hổ”, vì thế “không một phút nghỉ tay nghỉ mắt phải phá luôn vòng vây thứ hai và
đổi luôn chiến thuật”. Ở trận này ông đò đánh phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh thắng
nhanh. Như một vận động viên đua ngựa, ông đò “nắm chắc được cái bờm sóng đúng
luồng rồi, ông đò ghì cương lái”, ông “phóng nhanh”, “lái miết”… tốc độ di chuyển
mau lẹ. Nhưng sông Đà cũng không phải dạng vừa. Chúng xô ra định níu chiếc
thuyền vào tập đoàn cửa tử. Ông đò đã cảnh giác sẵn nên “đứa thì ông tránh mà rảo
bơi chèo”, “đứa thì đè sấn lên chặt đôi ra để mở đường tiến”. hàng loạt động từ được
huy động như một đội quân ngôn ngữ hùng hậu hò reo theo từng nhịp tiến của ông lái
đò: nắm, ghì, phóng, lái, tránh, rảo, đè, chặt…Chính nhờ sự mưu trí của mình, ông lái
đò đã vượt qua hết các cửa tử. Một trùng vi với bao cửa tử, cửa sinh mà chỉ vài ngón
đòn ông lái đò đã đánh sập vòng vây của lũ đá, đồng thời làm cho bọn đá phải thua
cuộc với bộ mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất vọng”.
Nguyễn Tuân quả thực là bậc thầy của ngôn ngữ, ông huy động hàng loạt các động từ,
hò reo theo từng nhịp lái chèo của ông lão lái đò: nắm, ghì, phóng, lái, rảo, đè,... Ông
lái đò như một dũng tướng tài ba điều khiển thuần phục con ngựa bất kham của sóng
thác sông Đà. Chính bằng sự mưu trí và tài năng của mình, ông lão đã vượt qua hết
các cửa tử, làm cho bọn đá thua cuộc phải bày bộ mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất vọng”.
Thiên nhiên, thác đá sông Đà hung bạo hiểm độc là thế cũng không thể chiến thắng
được sức mạnh phi thường của ông lái đò - một tay lái ra hoa, trí tuệ, một tướng lĩnh
thực thụ đã chiến thắng cả thần sông, thần đá.
Ở trùng vi thạch trận thứ ba, hình ảnh của một con thú giãy chết lại được thể hiện khi
con sông Đà: bên phải, bên trái đều là luồng chết còn luồng sống lại ở ngay chính
giữa để quyết tiêu diệt đối phương. Thác nước ầm ầm, hơi nước mù mịt nhưng ông đò
vẫn nhận ra được chiến thuật của sông Đà, ông đổi ngay cách đánh, cứ phóng thuyền
“vút, vút.” như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước. thế là hết thác.
Không biết đến bao giờ tôi mới thôi ngạc nhiên và thích thú trước hình ảnh không
hiểu làm sao mà Nguyễn Tuân có thể nghĩ ra về sự “tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất
vọng” của thằng đá tướng khi bị cái thuyền đánh trúng cửa sinh, đè sấn lên, chặt đôi
sóng ra để mở đường tiến qua ải nước. Nhưng để lại dấu ấn rõ nét hơn cả trong tôi lại
là những câu văn về dòng sông khi vừa hết thác: “vặn mình vào một cái bến cát có
hang lạnh. Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. Nhà văn đã mượn cho kí ức con
người vẻ đẹp thênh thang của bờ cát bên sông. Và những người lái thuyền trong đêm
ấy đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và chỉ toàn bàn tán về cá anh vũ, cá
dầm xanh. Nhà văn làm cho ta thấy họ còn lớn hơn bậc nữa vì họ hồn nhiên quên đi
cái lớn của mình. Hay nói đúng hơn họ không hề cho là lớn lao, cái mà chúng ta thấy
rõ ràng rằng vĩ đại.
Người lái đò của Nguyễn Tuân không có phép màu để so sánh với sức lực của Thủy
Tinh nhưng ông “đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá”. Và cái kinh nghiệm
đò giang sông nước, lên thác xuống ghềnh đã khiến ông đò dù trong tay chỉ có cây
chèo vẫn có thể phá thành, vượt ải như một chiến trường bách thắng trong sự nghiệp
đấu tranh chống lại thiên nhiên khắc nghiệt.
Một cảm hứng hào hùng đã khiến ngòi bút của Nguyễn Tuân miêu tả cuộc vượt thác
sông Đà vẫn diễn ra thường nhật thành một trận đánh biến ảo, hấp dẫn, một khúc hát
ca ngợi chiến công của một bậc anh hùng, có quá lớn, có đáng ngạc nhiên chăng, nhất
là ở một nhà văn vốn có tiếng là kêu bạc? Là một nhà văn vốn cầu kì, tỉ mỉ, tường tận
trong quan sát và miêu tả sự vật hiện tượng, con người vậy mà ở đây Nguyễn Tuân
chẳng có một dòng nào nói về tên tuổi, gia cảnh của ông đò. Thủ pháp vô danh hóa đã
giúp nhà văn khẳng định: ở một đất nước lắm sông nhiều suối, lắm thác nhiều ghềnh
thì những người lái đò tài hoa, nghệ sĩ như ông đò trên sông Đà là phổ biến. Ông ca
ngợi lao động, ca ngợi c người theo cách riêng của mình làm cho hai tiếng “Con
Người” vang lên kiêu hãnh biết bao!
Với “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân không chỉ thể hiện tài hoa ở thể loại tùy
bút mà còn thể hiện nét mới trong phong cách nghệ thuật của ông: nhân vật tài hoa,
nghệ sĩ không phải là những con người hiếm hoi, cô độc, lạc lõng giữa cuộc đời mà
đó chính là nhân vật vô danh. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng không chỉ có ở nơi
chiến trường mà có ở ngay trong những người dân bình thường hằng ngày phải vật
lộn với thiên nhiên hung dữ để mưu sinh. Chính họ đã viết nên thiên anh hùng ca của
cuộc sống.
Ai đã đặt tên cho dòng sông
Nhà văn Nga Lec-môn-tốp từng viết: “Có những đêm không ngủ, mắt rực sáng và
thổn thức, lòng ngập tràn nhung nhớ... Khi đó, tôi viết”. Bất kì tác phẩm nghệ thuật
chân chính nào cũng bắt nguồn từ một trái tim dạt dào xúc cảm, không khi nào vơi
cạn tình yêu với cuộc đời của người cầm bút. Để từ trái tim chạm đến trái tim, văn
phẩm neo chặt trong bến tâm hồn người thưởng thức. Tác phẩm “Ai đã đặt tên cho
dòng sông?” là một trong số đó. Ân sâu nghĩa nặng của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc
Tường giành cho xứ Huế và Hương Giang đã được gửi gắm trọn vẹn qua thiên tùy bút
xuất sắc nhất cuộc đời ông.
Hoàng Phủ Ngọc Tường không phải là nhà văn gốc Huế, ông vốn gốc người Quảng
Trị, nhưng từ khi sinh ra ông đã ở Huế và cho đến tận cuối đời ông vẫn gắn bó với đất
Huế. Ông luôn sáng tác với một phong cách nghệ thuật riêng biệt, tác phẩm của ông
luôn mang một sức liên tưởng dồi dào và lối hành văn mê đắm, hài hòa, kết hợp
nhuần nhuyễn giữa cái chất trữ tình và trí tuệ, giữa nghị luận sắc bén và niềm suy tư
đa chiều. Chính những đặc điểm ấy ở nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường mà nền văn
học Việt Nam mới có được những trang bút ký tuyệt vời có giá trị sâu sắc cho đến tận
ngày hôm nay. Tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông được viết vào ngày 4-1-1981,
tại Huế, được in trong tập sách cùng tên, bài bút gồm có ba phần, đoạn trích chúng ta
được học nằm ở phần mở đầu, chủ yếu nói về vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của dòng
Hương giang lững lỡ giữa trời Huế mộng mơ.
I. Vẻ đẹp của sông Hương
Pautopxki nói “niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường
đến xứ sở đẹp”, vậy nên Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đưa người đọc đến thăm sông
Hương mang lại cho mảnh đất cố đô Huế một chất thơ nhẹ nhàng, trầm lắng và hài
hòa trong nét đẹp của chiều sâu văn hiến.
Cái nhìn đầu tiên của tác giả khi viết về sông Hương là cái nhìn từ vùng thượng
nguồn. Vẻ đẹp của dòng sông lúc này khiến tác giả liên tưởng đến cô gái Digan phóng
khoáng, mê dại, đầy sức hút. Qua ngòi bút của tác giả, sông Hương hiện lên thật kì vĩ
“sông Hương tựa như một bản trường ca của rừng già, khi rầm rộ giữa bóng cây đại
ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua nhiều ghềnh thác, khi cuộn xoáy như cơn lốc vào những
đáy vực sâu, lúc dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu hoa đỗ quyên
rừng”. Chỉ với một vài chi tiết mà Hoàng Phủ Ngọc Tường đã lột tả được vẻ đẹp lúc
mãnh liệt, lúc dịu êm của sông Hương. Có lẽ đây chính là đặc trưng của sông Hương
khi ở thượng nguồn, hứng chịu nhiều biến đổi của thời tiết. Với liên tưởng thú vị độc
đáo và phép nhân hóa táo bạo, nhà văn đã tạo ra “giữa lòng Trường Sơn, sông Hương
đã sống một nửa cuộc đời mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”.
Có lẽ rừng già đã hun đúc nên bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do, dòng sông như
người con gái đầy cá tính hoang dại đầy tình tứ. Dòng sông không còn là vật vô tri vô
giác mà trở thành cô gái mạnh mẽ, quyến rũ tràn ngập mê say.
Sông Hương là người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Khi đi ra khỏi rừng
“sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ”. Từ một “cô gái”
sông Hương đã được nhân cách hóa thành “người mẹ” bởi sự đằm thắm phì nhiêu,
màu mỡ của đồng bằng châu thổ. Người mẹ đã bồi dưỡng đưa con cố đô thân yêu
bằng phù sa ngọt ngào và những nét văn hóa lâu đời. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc
họa sông Hương trở nên có lòng yêu thương, biết hi sinh và đặc biệt là mối quan hệ
mẫu tử thiêng liêng giữa dòng sông Hương và thành phố Huế. Vậy nhưng dường như
dù có sôi nổi nhiệt huyết đến đâu sông Hương cũng vẫn muốn giữ lại cho riêng mình
một điều gì đó bí ẩn, thu liễu lại tính khí để trở nên trang nghiêm cổ kính giấu trọn
trong rừng già “đóng kín lại ở rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân
núi Kim Phụng”. Chỉ có người yêu vẻ đẹp của thiên nhiên đến da diết, ham muốn
được tận hưởng trọn vẹn cảnh sắc của thiên nhiên hay cũng có thể hiểu ông yêu cảnh
đẹp của Huế, yêu dòng sông của Huế và yêu lịch sử hình thành của Huế mới muốn
tìm tòi khám phá những điều mà sông Hương vẫn giấu kín. Đó là hành trình đòi hỏi
tâm huyết, tâm hồn tinh tế nhạy cảm và kiên nhẫn của người làm nghệ thuật.
Vượt ra khỏi Trường Sơn, sự lột xác của sông Hương khiến Hoàng Phủ Ngọc Tường
liên tưởng đến “người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy
hoa dại”. Với vốn hiểu biết sâu rộng về địa lý cùng năng lực quan sát tinh tế, nhà văn
đã gợi ra những dáng hình của sông “chuyển dòng một cách liên tục”, “uốn mình theo
những đường cong thật mềm” cái mượt mà ấy khiến người đọc liên tưởng đến người
con gái e ấp dịu dàng cũng không kém phần chủ động mãnh liệt. Nhà văn miêu tả
dòng sông như một sự rượt “một cuộc tìm kiếm có ý thức, hàng loạt các động từ mạnh
“liên tục”, “đột ngột” để miêu tả sự đổi dòng đầy bất ngờ thể hiện sự trăn trở của sông
Hương khi chưa tìm thấy “người tình mong đợi”.
Tuy nhiên đây mới chỉ là ở thượng nguồn, cùng Hoàng Phủ Ngọc Tường khám phá vẻ
đẹp của dòng sông này khi chảy về thành phố Huế. Có lẽ người đọc sẽ bất ngờ với vẻ
đẹp dịu dàng, mềm mại và uyển chuyển của nó. Tác giả đã ví sông Hương như “người
tình dịu dàng và chung thủy của cố đô”. Không phải vô duyên vô cớ mà tác giả lại đi
ví von so sánh đầy tính nghệ thuật như vậy.
Đoạn tả sông Hương chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố bộc lộ nét lịch
lãm và tài hoa trong lối hành văn của tác giả. Độc giả khó cưỡng một sức hấp dẫn toát
lên từ hàng loạt động từ diễn tả cái dòng chảy sống động qua những địa danh khác
nhau của xứ Huế. Giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại, sông Hương là “cô gái đẹp
ngủ mơ màng”; nhưng ngay sau khi ra khỏi vùng núi, thì cũng như nàng tiên được
đánh thức, sông Hương bỗng bừng lên sức trẻ và niềm khao khát của tuổi thanh xuân
trong sự “chuyển dòng liên tục”, “rồi vòng những khúc quanh đột ngột”, vẽ một hình
cung thật tròn, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, rồi “vượt qua”, “đi giữa âm vang”, “trôi đi
giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”…
Khi sông Hương lững lờ chảy ngang qua những lăng tẩm của ông hoàng bà chúa khi
xưa nó lại mang một vẻ trầm mặc, cổ thi tựa như bức tranh thủy mặc, dường như con
sông đang cố tỏ tấm lòng thành kính, là những hoài niệm về kinh thành Huế vẻ vang.
“Bốn bề núi phủ mây phong
Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”
Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương như triết lý, như cổ thi – một vẻ đẹp đặc
trưng của miền đất cố đô. Tiếng chuông chùa Thiên Mụ đã đánh thức con sông ra
khỏi dòng hoài niệm, nó gọi về với sự hồn nhiên vui tươi “những bãi biển xanh biếc
của vùng ngoại ô KIm Long” tựa như đứa con thấy đường về nhà một cảm giác an
tâm và yên bình. Đến đây tài năng văn chương của ông lại có dịp thăng hoa khi chảy
vào đến thành phố Huế ta không còn bắt gặp những cảm xúc băn khoăn trăn trở “đổi
dòng, vặn mình” liên tục mà là “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây
Nam, Đông Bắc”. Không còn cảm thấy lạc lõng bơ vơ sông Hương đã tìm thấy
“người tình” được ôm ấp trong lòng của một cố đô cổ kính. Nổi bật trên nền xanh của
sông Hương là “chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như
một chiếc vành trăng non”. Nhà thơ Nguyễn BÍnh đã có câu thơ lục bát để nói về vẻ
đẹp của cầu Tràng Tiền xứ Huế:
“Cầu cong như chiếc lược ngà
Sông dài mái tóc cung Nga buông hờ”
Khác với sự so sánh cây cầu với chiếc lược ngà của Nguyễn Bính, Hoàng Phủ Ngọc
Tường lại thấy cầu Tràng Tiền như một vành trăng khuyết – một hình ảnh tinh khôi
trong ngần cũng có thể hiểu đó là tuổi đẹp nhất của người con gái độ đương thì đang
làm dáng làm duyên “làm cho sông như mềm hẳn đi, một tiếng “vâng” của tình yêu”.
Đôi mắt sâu sắc của nhà văn đã nhìn ra mối quan hệ tương quan của dòng sông và
người con gái cố đô dịu dàng duyên dáng mà nết na ý nhị.
Cố đô Huế luôn được nhớ đến với thành phố của nỗi buồn trầm mặc bởi vậy khi tiến
hẳn vào Huế sông Hương lại được ví như “một điệu slow tình cảm dành riêng cho
Huế”. Bởi tác giả đã tinh tế nhận ra khi tiến đến gần Huế dòng chảy sông Hương bỗng
chậm rãi rất nhiều tựa như “mặt hồ yên tĩnh”. Câu văn êm đềm tựa như tiếng nhạc
chậm rãi, du dương làm con người chìm vào khoảng không gian bình yên trữ tình
hiếm hoi. Đặc biệt trình độ văn hóa uyên bác của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã so sánh
sông Hương với những con sông lớn trên thế giới như sông Nê-va của Lê-nin-grat,
sông Xen của Paris… để làm nổi bật nên vẻ đẹp độc đáo của sông Hương vào ban
đêm “lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài”. Nhà văn say đắm trong
điệu lững lờ của sông Hương qua thành phố Huế, nhớ lại dòng sông Hương thân yêu
dịu hiền trong lòng xứ Huế mộng mơ.
Sông Hương khi chảy trong Huế, như đã tìm thấy chính mình khi gặp thành phố thân
yêu, sông Hương “vui tươi hẳn lên giữa những bến bãi xanh biếc của vùng ngoại ô
Kim Long”, dòng sông “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông
bắc”, rồi “uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến” khiến dòng sông mềm hẳn
đi, như một tiếng “vâng” không nói là của tình yêu”. Nằm ngay giữa lòng thành phố
yêu quý của mình, sông Hương cũng giống sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của
Bu-đa-pét,… nhưng trong cách biểu đạt tài hoa của tác giả, sông Hương được cảm
nhận với nhiều góc độ: nhìn bằng con mắt của hội hoạ, sông Hương và những chi lưu
của nó tạo những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính của cố đô; qua cách
cảm nhận âm nhạc, sông Hương “đẹp như điệu Slow” chậm rãi, sâu lắng, trữ tình
và với cái nhìn đắm say của một trái tim đa tình, sông Hương là người tình dịu dàng
và chung thuỷ. Điều này được diễn tả trong một phát hiện thú vị của tác giả: “Rời
khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh
năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu
xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Và rồi, như sực
nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây
để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bảo Vinh xưa cổ”. Cũng theo tác giả khúc
quanh thật bất ngờ đó, tựa như một “nỗi vương vấn”, và dường như còn có cả “một
chút lẳng lơ kín đáo” của tình yêu…
Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc lại mang vẻ đẹp của một bản hùng
ca ghi dấu những thế kỉ vinh quang từ thuở còn là một dòng sông biên thuỳ xa xôi của
đất nước các vua Hùng, thủa nó mang tên là Linh Giang (dòng sông thiêng) trong
sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, là “dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo
vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại”, “nó vẻ vang
soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ” vào thế kỉ mười
tám; “nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc khởi
nghĩa”, nó chứng kiến thời đại mới với cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 và bao
chiến công rung chuyển qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc sau này…
Sông Hương với cuộc đời và thi ca là một nhân chứng nhẫn nại và kiên cường qua
những thăng trầm của cuộc đời. Tuy nhiên, điều làm nên vẻ đẹp giản dị mà khác
thường của dòng sông là ở chỗ: khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến mình làm một
chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu
dàng của đất nước. Có lẽ chính điều đó đã làm cho sông Hương không bao giờ tự lặp
lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ.
Có thể nói “Ai đã đặt tên cho dòng sông ?” đã mang đến những phát hiện mới lạ và
độc đáo của sông Hương cho độc giả cả nước. Sông Hương, một dòng sông mang dại
ở khúc thượng nguồn. Sông Hương, trở nên dịu dàng và say đắm, thủy chung khi gặp
được người tình của mình là xứ Huế đầy thơ mộng trữ tình. Sông Hương đi vào trang
viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường không đơn thuần là một cảnh quan thiên nhiên vô tri
vô giác mà nó còn chứa đựng trong tâm hồn đầy rẫy cung bậc cảm xúc và tình yêu.
II. Sông Hương trên phương diện địa lý
Như người nghệ sĩ hiểu thấu tâm hồn vị cố hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dùng
ngòi bút điêu luyện đi đến từng ngõ ngách trong tâm hồn “cô gái Huế” từ khi còn
mang những nét thơ dại và hoang dã, đến khi trưởng thành, là một cô gái đẹp tìm về
với tiếng gọi của trái tim. Hành trình sông Hương không những độc đáo, sắc nét, mà
còn gợi cho ta nhiều ấn tượng khó phai mờ.
Đoạn trích được mở đầu bằng một nhận xét mang đậm tính chủ quan về dòng sông
Hương: “Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình
như chỉ có sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”. Nhà văn không dừng lại
ở việc ngắm nhìn khuôn mặt kinh thành với vẻ đẹp sang trọng, cổ kính của sông
Hương trong thành phố Huế, ông khao khát ngược dòng không gian, tìm về cội nguồn
của dòng sông nơi đại ngàn để khám phá những vẻ đẹp bí ẩn, những sức mạnh tiềm
tàng được đóng kín trong phần tâm hồn sâu thẳm của dòng sông trước khi nó về với
Huế.
Bằng những hình ảnh so sánh độc đáo, nhà văn đã biến sông Hương – một cảnh quan
của thiên nhiên vốn vô tri vô giác nay đã trở thành một sinh thể có cảm xúc, có cá
tính, biết hy sinh như một người thực thụ, để lại cho độc giả những ấn tượng vô cùng
sâu sắc. Việc Hoàng Phủ Ngọc Tường tìm đến tận vùng thượng nguồn của dòng sông
nơi núi rừng Trường Sơn cho thấy được sự kỳ công, lòng khám phá không ngừng,
đồng thời thể hiện sự tinh tế trong cảm nhận của nhà văn, quá trình lao động nghệ
thuật công phu và khó nhọc của tác giả.
Khi cảm nhận về vẻ đẹp của sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế, người đọc thấy
rằng đây là một chặng đường dài để tìm đến Huế của sông Hương. Trước khi trở
thành một người tình dịu dàng êm ả chung thủy của cố đô dòng sông đã trải qua một
hành trình dài đầy khó khăn khó khăn vất vả với nhiều thử thách. Trong cái nhìn lãng
mạn thi vị của Hoàng Phủ Ngọc Tường, hành trình dài tìm đến thành phố Huế của
dòng sông tựa như hành trình dài tìm kiếm tình yêu đích thực của người con gái trong
một câu truyện tình yêu thơ mộng đầy sắc màu cổ tích .Giữa cánh đồng châu hóa đầy
hoa dại, sông Hương bỗng hóa thân thành “ người gái đẹp nằm ngủ mơ màng ” chờ
đón “ chàng hoàng tử ” của nó đến đánh thức giấc ngủ mơ mộng ấy. Nhưng ngay sau
khi ra khỏi vùng rừng núi, nàng tiên đã được thức tỉnh. Sông Hương bỗng bùng lên
sức trẻ của niềm khát khao của tuổi thanh xuân. Đó là sự “ chuyển dòng liên tục ” rồi
lại “ vòng giữa khúc quanh bất thần ” uốn mình quyến rũ qua nhiều địa điểm .Một
chặng đường bỗng chốc hiện ra với những địa điểm ngã ba Tuần, Hòn Chén, Ngọc
Trản, Nguyệt Biều, Lương Quán rồi ôm lấy chân đồi Thiên Mụ. Trong những khúc
quanh uốn lượn ấy, dòng sông thật thướt tha tươi tắn làm thế nào với những sắc màu
của đời sống. Phải chăng chính niềm khát khao được gặp chàng hoàng tử – thành phố
Huế đã đánh thức giấc ngủ mơ màng của người con gái – sông Hương ?Và cuộc gặp
gỡ giữa sông Hương và thành phố Huế mộng mơ đẹp như một mối tình đã được ấp ủ
từ nghìn năm. Vừa can đảm và mạnh mẽ lại vừa êm ả dịu dàng trong hành trình dài
tìm kiếm tình yêu, sông Hương đã cho thấy khát khao mãnh liệt cũng như sức mạnh
của tình yêu. Sông Hương có lúc “ mềm như tấm lụa ” khi qua Vọng Cảnh, Tam Thai,
Lưu Bảo ; có khi lại ánh lên “ những mảng phản quang nhiều sắc tố sớm xanh trưa
vàng chiều tím ” lúc qua những dãy đồi núi phía Tây Nam thành phố . Khi cảm nhận
về vẻ đẹp của sông Hương, ta thấy khi qua bao lăng tẩm đền đài sông Hương lại mang
“ vẻ đẹp trầm mặc ” khi có vẻ như nó cũng sống trong cái khung khí đầy niềm tự tôn
âm u trong những rừng thông cho đến khi gặp “ tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân
nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà ” trong thanh thản
và yên ả. Dòng sông không còn mãnh liệt mà dịu dàng êm ả trôi đi có vẻ như bởi sự
hoảng sợ háo hức thoáng chút âu lo tưởng tượng về thành phố trong mơ .Cảm nhận về
vẻ đẹp của sông Hương khi mở màn vào thành phố, ta thấy dòng sông như đã tìm
được tình yêu đích thực của cuộc sống mình. Gặp được người tình mà nó hằng mong
đợi, sông Hương “ vui mắt hẳn lên giữa những biền bãi xanh lè giữa vùng ngoại ô
Kim Long ”.
Dòng sông “ kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây Nam – Đông Bắc ” để
rồi hòa với vẻ đẹp của chiếc cầu Tràng Tiền “ nhỏ xíu như những vành trăng non ”
đây là một hình ảnh so sánh đầy ấn tượng .Những khung cầu hiện ra soi bóng dưới
dòng sông tạo ra những mảnh trăng khuyết in bóng dưới dòng nước. Không ồn ào,
không chói chang dòng sông cứ thế mà đằm thắm yên ả trôi. Vậy là cuộc gặp gỡ ấy
không còn trong tưởng tượng mà đã được hiện thực hóa như “ một tiếng vâng không
nói ra của tình yêu ” .
Diễn tả cách uốn mình thướt tha của dòng sông bằng một liên tưởng độc lạ – âm
thanh của tình yêu, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thành công xuất sắc trong việc miêu tả
cái tình tứ, cái rạo rực nhưng vẫn tinh xảo của dòng sông Hương. Chảy giữa lòng
thành phố Huế, sông Hương tỏa ra thành nhiều nhánh như những cánh tay xen kẽ vào
nhau để ôm trọn thành phố, ôm trọn người tình của nó .Cảm nhận về vẻ đẹp của sông
Hương, người đọc thấy được toàn bộ mặt sông “ trôi đi chậm, thực chậm cơ hồ chỉ
còn là một mặt hồ yên tĩnh ” sông Hương lúc này không còn cái phóng khoáng man
dại nữa cũng không còn cái khát khao gặp mặt đến cháy bỏng mà trở nên mềm mại và
mượt mà duyên dáng như những cô gái Huế thẹn thùng e ấp đầy tâm trạng .Sông
Hương chi lưu tạo nên những đường nét tinh xảo mang đậm vẻ đẹp cổ kính cố đô điệu
chảy của sông Hương được nhìn nhận như một điệu “ slow ” tình cảm mà sông
Hương dành Tặng Kèm riêng cho Huế. Việc so sánh sông Hương với những con sông
khác trên quốc tế càng làm tôn lên sự độc lạ của nó – món quà đặc biệt quan trọng của
vạn vật thiên nhiên dành khuyến mãi ngay riêng cho Huế. Lưu tốc của dòng nước
chợt giảm hẳn đi và cái điệu chảy lửng lờ như thương như nhớ ấy cũng là nguồn cảm
hứng cho thi nhân .Trước khi từ biệt Huế, sông Hương cũng đầy lưu luyến nhớ nhung.
Trong cái nhìn đằm thắm thơ mộng của Hoàng Phủ Ngọc Tường sông Hương là một
cô gái đa tình sống hết mình vì tình yêu. Điều này được tác giả miêu tả với một phát
hiện mê hoặc – điệu chảy chậm của sông Hương chứa đầy tình ý, là cái tâm tư nguyện
vọng của dòng sông khi sắp rời khỏi kinh thành như những tình nhân nhau quyến
luyến khi chia tay .
Cảm nhận về vẻ đẹp của sông Hương, ta thấy nếu trong toàn bộ hành trình tìm đến
thành phố Huế, dòng sông ấy mạnh mẽ thì khi sắp chia xa sông Hương lại lững lờ
trong bao ưu tư và vương vấn. Đầu tiên là cái ôm thật chặt đầy lưu luyến trước khi
chia ly “rời khỏi kinh thành sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn
Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi
giữa màu xanh biếc của trẻ trúc và của vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ” nhưng tơ lòng
vương vấn lưu luyến ấy không thể nào nhanh chóng quên đi.
Vì thế, cảm nhận về vẻ đẹp của sông Hương ta thấy dòng sông khi đã chia xa bỗng
chốc “ như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó bất thần đổi dòng rẻ ngoặt sang
hướng Đông Tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị xã Bao Vinh xưa cổ. Đối với
Huế, nơi đây chính là chỗ chia tay dõi xa ngoài mười dặm trường đình ” theo tác giả “
riêng với sông Hương, vốn đang xuôi chảy giữa cánh đồng phù sa êm ái của nó, khúc
quanh này thực giật mình biết bao ” gợi cho ta nhớ đến một tình yêu đầy tha thiết của
Thúy Kiều và Kim Trọng .Khúc quanh của dòng sông tìm lại về Huế chẳng khác nào
bước chân của Thúy Kiều “ xăm xăm băng lối vườn khuya một mình ”. Sông Hương
trở thành một cô gái đa tình nhưng kín kẽ. Đầy yêu thương và đồng cảm cho dòng
sông, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ví cái khoảng thời gian ngắn dùng dằng trước khi về
với biển cả ấy là phút nàng Kiều trở lại tìm Kim Trọng để nói lên một lời thề kết tóc
trăm năm .Lời thề ấy vọng thành những giọng hò dân gian, vang vọng khắp dòng
sông tiếng hát của tình yêu. Trước sự phát minh sáng tạo mê hoặc và thi vị hóa vạn
vật thiên nhiên cuộc chia tay ấy cũng khiến Hoàng Phủ Ngọc Tường giật mình. Để rồi
ông phải thốt lên “ có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống con người ở đây ”.
Khúc quanh ấy tựa như một nỗi “ vấn vương ” và cả “ một chút ít lẳng lơ kín kẽ của
tình yêu ” .
III. Vẻ đẹp sông Hương trên phương diện lịch sử, thi ca
Trong mối quan hệ với lịch sử đất nước, sông Hương là dòng "sử thi viết giữa màu cỏ
lá xanh biếc" theo dòng thời gian sông Hương là chứng nhân lịch sử, nhà văn đã đưa
người đọc trở về với quá khứ gian truân mà hào hùng của đất nước để cảm nhận được
hết nét đẹp này của sông Hương. Nó chính là một ải Chi Lăng ở phía Nam Tổ quốc đã
bao lần làm quân thù khiếp sợ. Châu Hóa giữ vị trí chiến lược trong việc trấn giữ biên
cương của Tổ quốc Đại Việt. Lịch sử đã gọi nó là Vạn Lí Trường Thành của Phương
Nam. Trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, sông Hương là dòng Linh Giang âm
vang lịch sử, là dòng sông biên thùy từng chiến đấu oanh liệt để bảo vệ biên giới của
Tổ quốc. Thế kỉ XVIII nó soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn
Huệ. Nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX với máu của những cuộc khởi nghĩa.
Thế kỉ XX, sông Hương đi vào Cách mạng tháng tám bằng những chiến công rung
chuyển để rồi sau đó nó tiếp tục có mặt trong những năm tháng bi hùng nhất của lịch
sử đất nước với cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ ác liệt. Quay về quá khứ xa xưa,
ngòi bút nhà văn lấp lánh niềm tự hào về lịch sử một dòng sông có cái tên mềm mại,
dịu dàng nhưng kiên cường, kiêu hãnh qua bao thăng trầm lịch sử. Khi hòa bình lặp
lại, sông Hương đã trở về cuộc sống đời thường khi đó nó là một người con gái dịu
dàng của đất nước. Xuyên suốt trang văn của mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát
hiện ra vẻ đẹp hùng tráng của dòng Hương Giang. Ông đã hiểu một cách thấu đáo,
sông Hương từ cội nguồn của nó cho đến khi đổ ra biển Đông đều gắn với lịch sử
dựng và giữ nước oai hùng của dân tộc.
Dòng sông đẹp thi vị, đã trở thành nguồn cảm hứng của biết bao nhiêu nhà thơ.
Nhưng điều đặc biệt quan trọng sông Hương “ không khi nào tự tái diễn mình ” trong
cảm hứng của những thi sĩ. Xuất hiện trong nhiều sáng tác, sông Hương hiện lên đầy
biến ảo. Khi “ dòng sông trắng lá cây xanh ” trong cái nhìn tinh xảo của Tản Đà, khi
lại tưng bừng hào khí trong cái nhìn của Cao Bá Quát “ như kiếm dựng trời xanh
” .Lúc lại mang cái sầu vạn cổ của bà Huyện Thanh Quan với “ bóng chiều bảng lảng
” đến với thời đại mới, dòng sông “ bỗng đột khởi của sức mạnh Phục hồi của tâm
hồn ” trong thơ của Tố Hữu và “ sông Hương quả thật là Kiều, rất Kiều ”. Sông
Hương mang nhiều vẻ đẹp nhiều sắc tố trong góc nhìn của thi nhân nhưng tổng thể
đều gặp gỡ tại một giao điểm đó chính là sự quyến rũ, chất sử thi lãng mạn của dòng
sông .Không chỉ làm say lòng thi nhân mà sông Hương còn đắm mình trong âm nhạc
của biết bao nghệ sĩ. Hoàng Phủ Ngọc Tường có vẻ như cũng đang mơ màng say đắm
với những gợn sóng trao nhẹ trên mặt nước vào những đêm hoa đăng trong ngày rằm
tháng bảy để rồi trong khoảnh khắc chùng lại ông lại ngỡ sông Hương như một người
tài nữ đánh đàn .Trong quy trình cảm nhận về vẻ đẹp của sông Hương, ta thấy tác giả
chợt nhớ đến Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này để rồi viết ra
những câu thơ tuyệt bút Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dẫn ra câu truyện về một người
nghệ nhân già chơi đàn hết nửa thế kỉ đã nhận ra trong những vần thơ Kiều .
“ Trong như tiếng hạc bay qua/Đục như tiếng suối mới sa nửa vời ”( Truyện Kiều –
Nguyễn Du )Trong đó mang âm hưởng của giai điệu tứ đại cảnh. Sông Hương đã thức
tỉnh cảm hứng của Nguyễn Du và chuyển hóa thành những bản đàn đi suốt cuộc sống
Kiều. Từ vẻ đẹp của tình yêu – lãng mạn, vẻ đẹp của lịch sử vẻ vang – sử thi, sông
Hương mang một vẻ đẹp đầy sắc tố nhưng không kém phần cổ kính của âm
nhạc .Chính thế cho nên Hoàng Phủ Ngọc Tường đã cho rằng “ hàng loạt nền âm
nhạc cổ xưa Huế đã được sinh thành trên mặt nước dòng sông này ”. Mấy ai hiểu rằng
phải nghe ca Huế trên sông Hương vào đêm hôm mới hoàn toàn có thể cảm nhận hết
được linh hồn của nó .Khi cảm nhận về vẻ đẹp của sông Hương, ta thấy có lẽ rằng vào
những đêm khuya không khí yên bình có vẻ như hoàn toàn có thể nghe được tổng thể
mọi âm thanh trên dòng sông này từ nhịp chèo đến giọt nước rơi, những nghệ nhân
xưa đã soạn ra những điệu nhạc cổ xưa đậm chất Huế để kí gửi lòng mình với mảnh
đất quê nhà với con sông ngàn đời thủy chung này.
Ca Huế là dòng âm nhạc riêng của sông Hương có từ sông Hương và cũng vì sông
Hương mà có đó là một cái nhìn tinh xảo trong chiều sâu văn hóa truyền thống mà
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã mày mò ở dòng sông này .Sông Hương mang đậm chất
Huế không chỉ ở trong bản thân của dòng sông mà còn nằm ở hai bên bờ sông. Khi
thấy hai bờ sông thấp thoáng bóng người phơi một sắc áo cưới của Huế rất lâu rồi rất
xưa “ màu áo điều lục của loại vải vân thưa màu xanh chàm lồng lên một màu đỏ bên
trong, tạo thành một màu tím ẩn hiện, thấp thoáng theo bóng người ”, tác giả đã cho
rằng đó là “ màu của sương khói trên sông Hương, giống như một tấm voan huyền ảo
của tự nhiên .Dòng sông bỗng chốc trở thành những cô gái e thẹn sau tấm voan huyền
ảo đó hay chính những cô gái bên sông đã tô điểm cho dòng sông một sắc tố diệu kì
ẩn giấu khuôn mặt đời thường cho dòng sông duyên dáng .Khi liên tưởng màu sương
khói huyền ảo ấy với hình ảnh những cô dâu trẻ cùng màu áo cưới, ta cảm nhận được
từ một đường cong, một nét uốn lượn cho đến cái sắc tím huyền ảo sông Hương đều
mang những dáng hình đặc biệt quan trọng rất riêng và tượng trưng cho Huế. Hay
chính bản sắc văn hóa truyền thống nơi đây đã len lỏi thấm vào từng khúc sông .
Chất trí tuệ và chất thơ trong bài kí là biểu hiện của một phong cách văn xuôi vừa tài
hoa vừa uyên bác. Trong bài Ai đã đặt tên cho dòng sông có sự giao hòa tinh thần
giữa cảnh sắc, lịch sử, văn hóa xứ Huế với một tâm hồn nhà văn dễ rung động và vô
cùng nhạy cảm. Qua đoạn văn tự sự, ta cảm nhận được tấm lòng của nhà văn đối với
thiên nhiên, đối với xứ Huế, sâu sắc hơn là với quê hương, tha thiết với những giá trị
cổ kính của dân tộc. Đó là những giá trị mà cuộc sống ngày nay vẫn cần. Sông Hương
không chỉ hun đúc nên một nền văn hóa xa xưa mà còn làm phong phú thêm cuộc
sống của mỗi chúng ta bây giờ.
IV. Sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện
đại,ông là một trí thức yêu nước luôn tích cực tham gia các phong trào đấu tranh
chống Mỹ-Ngụyở thời kỳ trước năm 1975. Ông chuyên viết về bút kí và tản văn. Ông
sinh ra ở Quảng Trịnhưng lại gắn bó sâu sắc với cố đô Huế nên những sáng tác của
ông gắn liền với tình yêu quêhương, đất nước, con người đặc biệt là văn hóa Huế như:
“Ngồi trên đỉnh Phu Văn Lâu”, “Aiđã đặt tên cho dòng sông”......Trong đó tùy bút “
Ai đã đặt tên cho dòng sông?” thực sự là mộttrong những trang viết hay nhất của
Hoàng Phủ Ngọc Tường về dòng sông mang một huyềnthoại đẹp – sông Hương. Với
sự hiểu biết sâu sắc về Huế, về thuỷ trình của sông Hương kếthợp văn phong khoa
học, chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đachiều – Hoàng
Phủ Ngọc Tường quả thực đã mang đến những xúc cảm nồng nàn về Hươnggiang –
dòng sông của thơ ca. Tất cả những giá trị đặc sắc ấy đã được nhà văn tập trung
sâusắc qua đoạn trích: (trích dẫn)Là nhà văn gốc Quảng Trị nhưng trưởng thành ở
Huế, gắn bó với Huế và đã hơn nửacuộc đời sống bên cạnh dòng sông Hương trước
khi viết tuỳ bút này. Nên hơn ai hết, HoàngPhủ Ngọc Tường rất am hiểu Hương
giang. Sông Hương với ông cũng như một người tình màsuốt cả cuộc đời ông trăn trở
đi tìm và lý giải cội nguồn tên gọi. Tuỳ bút này được nhà vănviết tại Huế năm 1981,
in trong tập cùng tên. Đoạn trích trên là đoạn nằm ở phần đầu của bútký –sau khi tác
giả miêu tả sông Hương ở thượng nguồn Trường Sơn .Điểm nhìn của tác giả đối với
sông Hương kéo dài theo suốt cuộc hành trình của consông. Sau cái khởi nguồn ở
vùng thượng lưu, sông Hương tiếp tục hành trình cam go, vất vảcủa mình để đến với
Huế. Trước khi chảy vào lòng thành phố thân thương, nó cũng đã kịp đểlại những dấu
ấn riêng của mình. Trong cái nhìn tình tứ và lãng mạn của tác giả, toàn bộ cuộchành
trình của dòng sông từ thượng nguồn về tới Huế giống như một cuộc tìm kiếm có
ý thứcngười tình nhân đích thực của một cô gái đẹp trong câu chuyện cổ tích lãng
mạn về tình yêu.Trong tình yêu với Huế, người tình sông Hương hiện lên với những
vẻ đẹp như thế nào?Khi chảy qua miền địa hình đồng bằng, Hoàng Phủ Ngọc Tường
đã miêu tả SôngHương ở điểm nhìn vừa xa vừa gần, vừa thi ca vừa hội hoạ. Ở những
điểm nhìn xa, sôngHương hiện lên đẹp ở những đường cong quyến rũ. Liên tưởng tới
cổ tích “Nàng công chúangủ trong rừng” – Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm toát lên vẻ
đẹp trong sáng, hồn nhiên củadòng sông, để từ đó, ngòi bút của nhà văn cuốn hút
người đọc vào thuỷ trình đầy mê hoặc củadòng sống. Tác giả viết “phải nhiều thế kỷ
qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thứcngười gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh
đồng Châu Hoá đầy hoa dại”. Nhưng đánh thức rồingười tình không biết đã đi
đâu? Hương giang đã thức dậy ngơ ngác đi tìm. Chính điều này tạo nên điểm nhìn hội
hoạ đầy mê hoặc. Rời xa vùng núi, sông Hương chuyển dòng một cáchliên tục. Sự
chuyển dòng này tạo nên “những khúc quanh đột ngột” mà nhà văn gọi đó là
“mộtcuộc tìm kiếm có ý thức” về người tình tương lai.
Vô tình cuộc tìmkiếm đã tạo nên cho dòng sông một vẻ đẹp thơ mộng trữ tình. Sông
Hương thật gợi cảm biết bao dưới ngòi bút của nhà văn, đó là dòng sông uốn khúc
như “những đường cong thật mềm”,có lúc “mềm như tấm lụa”. Đẹp nhất của đường
cong mềm mại, thướt tha ấy của cô gáiHương Giang chính là đoạn “Từ ngã ba Tuần,
sông Hương theo hướng nam bắc qua điện HònChén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển
hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều,Lương Quán rồi đột ngột vẽ
một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi ThiênMụ, xuôi dần về
Huế”. Đoạn văn sử dụng phép liệt kê: điện Hòn Chén, Ngọc Trản, NguyệtBiều,
Lương Quán, Thiên Mụ… mang đến cho người đọc hình dung về vẻ đẹp của
nhữngdanh thắng Huế đô đã đi vào dư địa chí. Ngoài ra cách dùng từ ngữ của nhà văn
cũng gợi hìnhdung về dòng chảy trữ tình của con sông: “vấp – chuyển hướng – vòng
qua – vẽ một hìnhcung – ôm lấy – xuôi dần…”. Hệ thống động từ đặc tả dòng chảy ấy
làm sông Hương hiện lênchân thực, sắc nét, có hồn như một sinh thể sống động và
giàu sức sống. Nhà văn quan sát ở điểm nhìn gần hơn và cảm nhận được “từ Tuần về
đây, sông Hươngvẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu
dưới chân núi Ngọc Trản đểsắc nước trở nên xanh thẳm”. Đi trong “dư vang” là đi
trong âm vang, trong sự vang vọng củađại ngàn Trường Sơn. Dòng chảy ấy dù uốn
quanh, lượn vòng nhưng lưu tốc vẫn còn mạnhmẽ khó kiềm toả. Nhưng khi về đến
những Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo, dòng sông đã phần nào được kiềm chế sức
mạnh. Ths Phan Danh Hiếu. Từ đây chỉ còn sắc nước xanh thẳm,hiền hoà. Sắc xanh
thẳm của nước hoà vào bóng dáng hùng vĩ của “hai dãy đồi sừng sững nhưthành
quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo” tạo nên
vẻđẹp như bức đồ hoạ mà ca dao người Huế từng ngợi ca “Đường vô xứ Huế quanh
quanh – Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ”. Sắc nước hoà vào sắc núi, sắc đồi và
ánh chiếu lên bầu trời Tây Nam thành phố cái sắc màu chỉ riêng Huế mới có: “sớm
xanh, trưa vàng, chiềutím”. Cái sắc màu không trộn lẫn ấy có lần cũng đã thổn thức
trong thơ của Đoàn Thạch Biền:Đã bốn lần đến HuếVẫn lạ như lần đầuSông Hương
lơ đãng chảy Nắng tím vướng chân cầu
Không chỉ vậy, Hương Giang còn đẹp bởi “vẻ đẹp trầm mặc như triết lý, như cổ thi”.
Giữa đám quần sơn lô xô, sông Hương như trầm mặc hẳn đi. Bởi nàng đang đi qua
một “giấcngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng
thông u tịch vàniềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ toả lan khắp cả một
vùng thượng lưu “Bốn bềnúi phủ mây phong – Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn
Niên”. Dường như sông Hương khiqua vùng địa lý này đã cúi đầu tưởng niệm những
anh linh đã khuất, như tưởng niệm cả mộtthời dĩ vãng vàng son. Sự trầm mặc của
dòng sông như nét đẹp văn hoá của người Huế vốncoi trọng yếu tố tâm linh và nhất là
sự thành kính với các bậc tiền nhân. Có lẽ vì vậy mà mặtnước Hương giang bỗng trở
nên phẳng lặng và kéo dài mênh mang cho đến khi hoà vào “tiếngchuông chùa Thiên
Mụ ngân nga, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”. Đó là vẻđẹp cổ thi
trầm mặc, cổ kính mà hiện đại đã đi vào thi ca, văn học của bao thi sĩ, văn nhân
baođời.Đoạn văn với lối hành văn uyển chuyển, ngôn ngữ đa dạng, giàu hình ảnh,
giàu cảmxúc và liên tưởng, tác giả đã diễn tả một cách sinh động và hấp dẫn, in đậm
dấu ấn của thiênnhiên và chiều sâu văn hóa kinh thành Huế của dòng chảy sông
Hương.Đoạn văn miêu tả hành trình của sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế phần
nào táihiện vẻ đẹp của sông Hương trong mối quan hệ với thiên nhiên Huế. Điều đặc
biệt là nhà vănđã nhất quán trong sự hình dung nó như một người con gái đẹp, dịu
dàng, đằm thắm tronghành trình có ý thức tìm đến với người yêu – thành phố Huế.
Đoạn văn còn khiến người đọcyêu mến hơn một Hoàng Phủ Ngọc Tường với tấm
lòng thiết tha với quê hương xứ sở, mộtHoàng Phủ Ngọc Tường với cái tôi tài hoa,
uyên bác thể hiện ở trí tưởng tượng phong phú,những am hiểu thấu đáo về dòng sông,
để tạo nên văn phẩm tuyệt vời "Ai đã đặt tên cho dòngsông?"

You might also like