Professional Documents
Culture Documents
- Xuân Quỳnh -
I. MỞ BÀI
Đại văn hào Mác-két đã từng nói rất hay về tình yêu: “Con bướm phải mất 180
triệu năm mới cất cánh bay lên được. Con người phải mất bằng ấy năm mới biết khóc,
biết cười và biết chết cho tình yêu”. Tình yêu là món quà vô giá mà tạo hóa ban tặng cho
loài người. Đó cũng là nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn đối với các văn nghệ sĩ.
Nói đến thơ tình Việt Nam hiện đại, người đọc không thể không nhắc đến nữ hoàng tình
yêu Xuân Quỳnh. Xuân Quỳnh là một trong số nhà thơ tiêu biểu nhất thuộc thế hệ các
nhà thơ trẻ thời chống Mỹ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ
nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn vừa chân thành đằm thắm nhưng cũng đầy lo âu và
luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường. Bài thơ "Sóng" được Xuân Quỳnh
sáng tác vào năm 1967, trong chuyến đi thực tế đến vùng biển Diêm Điền, Thái Bình.
Sau đó, bài thơ được đưa vào tập thơ "Hoa dọc chiến hào" in 1968. Bài thơ là kết tinh sở
trường thơ Xuân Quỳnh và đặc biệt thành công trong việc sáng tạo hai hình tượng nghệ
thuật đặc sắc là sóng và em. Qua hai hình tượng này, nữ thi sĩ đã diễn tả được những
cảm xúc phong phú, sôi nổi của một trái tim phụ nữ đang rạo rực và khát khao yêu
thương. Bài thơ được xem như một bông hoa lạ giữa vườn thơ chống Mỹ.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
- Đề tài: Tình yêu là đề tài muôn thuở của thơ ca. Đã là thi sĩ thì ít có ai lại không
muốn mượn thơ để gửi gắm vào đó khát vọng tình yêu. Bởi vậy mà các thi sĩ đã tạo ra cả
một khu vườn thơ tình yêu lung linh đầy sắc màu. Trong vườn thơ ấy, mỗi nhà thơ lại
đem đến một sắc màu riêng lại cảm nhận và thể hiện tình yêu theo một cách riêng. Nếu
Xuân Diệu thể hiện một tình yêu say đắm, cuồng nhiệt, vồ vập, ham hố và đầy nam tính:
Như hôn mãi ngàn năm không thỏa
Bởi yêu bò lắm lắm em ơi
Tình yêu trong thơ Chế Lan Viên rực rỡ đầy sắc màu:
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương
Tình yêu trong thơ Hàn Mặc Tử lại là sắc trắng mong manh của một mối tình đơn
phương chưa ngỏ... thì trong bài thơ "Sóng", nữ thi sĩ Xuân Quỳnh đã đem đến cho vườn
thơ tình yêu một sắc màu mới. Đó là tình yêu của người phụ nữ rất nữ tính,sôi nổi, say
đắm, chân thành và đầy da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường.
- Hình tượng thơ: Xuyên suốt trong bài thơ là hai hình tượng sóng và em. Sóng”
là một trong những hình tượng ẩn dụ, nó là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của Xuân
Quỳnh. “Sóng” và “em”, vừa hòa hợp là một, lại vừa phân đôi để soi chiếu, cộng hưởng
để diễn tả một cách sâu sắc hơn, thấm thía hơn tình yêu trong trái tim của người phụ nữ.
Tâm hồn người phụ nữ đang yêu soi vào sóng để thấy rõ lòng mình, nhờ sóng để biểu
hiện những trạng thái của lòng mình. Với hình tượng sóng, có thể nói Xuân Quỳnh đã
tìm được một cách thể hiện thật tinh tế tâm trạng của người phụ nữ trong tình yêu.
1
2. Đoạn thơ: Dữ dội và dịu êm
...Bồi hồi trong ngực trẻ
2.1. Khổ thơ thứ nhất: Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Những cung bậc khác nhau của con sóng và tâm hồn người phụ nữ đang yêu
- Ngay từ những những câu thơ đầu tiên của bài thơ, người đọc đã có thể cảm
nhận được âm điệu và sắc điệu chung của cả bài. Đó là âm điệu của những con sóng
ngoài biển cả dạt dào, trùng điệp, vô hồi, vô hồi vô hạn, miên man xô bờ. Sắc điệu
chung là sắc điệu trữ tình sâu lắng khi nhà thơ mượn hình ảnh con sóng để nói đến
những cung bậc tình yêu trong trái tim của người phụ nữ.
- Trong hai câu thơ đầu, nghệ thuật đối lập đã được sử dụng một cách rất tinh tế.
Các cặp từ đối lập: dữ dội - dịu êm, ồn ào - lặng lẽ đã miêu tả trạng thái phức tạp của
con sóng ngoài đại dương. Con sóng có lúc êm ái, lắng dịu nhưng cũng có lúc trào dâng
mãnh liệt, thậm chí có lúc nó dữ dội đến mức có thể nhấn chìm tất cả. Thông qua hình
ảnh con sóng, nhà thơ Xuân Quỳnh muốn nói đến trạng thái tâm hồn của người phụ nữ
đang yêu. Mỗi biểu hiện của con sóng đều tương hợp với trạng thái tâm hồn của người
con gái. Nhịp thơ 2/3 cộng hưởng với sự hô ứng của thanh điệu ở những cặp từ vế câu,
kiểu đối lập song hành đã thể hiện đối cực của sóng biển cũng như nhịp đập bất thường
trong trái tim của người con gái đang yêu.
Cách miêu tả những trạng thái đối nghịch, bất thường của con sóng trước hết gợi
liên tưởng về trạng thái tâm lí đầy bí ẩn, nhiều khi đầy đối cực trong tâm hồn người phụ
nữ. Trạng thái tâm lí ấy cũng từng được miêu tả trong ca dao xưa:
Đưa tay ngắt một cọng ngò
Thương anh đứt ruột giả đò ngó lơ
Tâm tính người con gái khi yêu luôn là như thế, luôn mâu thuẫn, thậm chí đối lập
trong lời nói và hành động như người con gái trong đoạn thơ sau đây:
Em bảo anh đi đi
Sao anh không đứng lại?
Em bảo anh đừng đợi
Sao anh vội về ngay?
6
4. Đoạn thơ: Con sóng dưới lòng sâu
... Hướng về anh một phương
4.1. Khái quát
Ở đoạn thơ trước nhà thơ Xuân Quỳnh đã thể hiện khát vọng, mong muốn được lý
giải tình yêu nhưng bất lực thì đến đoạn thơ này dù không thể lý giải tình yêu, thừa nhận
tình yêu bí ẩn khó nắm bắt như sóng biển gió trời nhưng nhà thơ đã phát hiện ra rằng
tình yêu luôn đi liền với nỗi nhớ. Từ đó thể hiện một nỗi nhớ da diết của một tình yêu
mãnh liệt sâu sắc.
4.2. Khổ thơ thứ 5: Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Nỗi nhớ trong tình yêu
- Khái quát về sáu câu thơ: Tình yêu là một trạng thái tình cảm, cảm xúc đầy bí
ẩn không thể lý giải, không thể hiểu hết nhưng có một điều chắc chắn là tình yêu luôn đi
liền với nỗi nhớ. Yêu là nhớ và nhớ là yêu, yêu càng nhiều thì nhớ cả da diết. Từ thuở xa
xưa con người đã đến với tình yêu và đã phát hiện ra tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ.
Chẳng thế mà ca dao xưa đã có rất nhiều câu nói về nỗi nhớ trong tình yêu. Có khi là nỗi
nhớ như có lửa đốt ở trong lòng:
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than
Có khi là nỗi nhớ đến ngẩn ngơ, ngơ ngẩn, không thể kìm nén mà hóa thành dòng
nước mắt đầm đầm:
Nhớ ai em những khóc thầm
Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa
Nhà thơ Xuân Diệu cũng nói đến nỗi nhớ trong tình yêu một cách mãnh liệt, cháy
bỏng:
Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh
Anh nhớ em anh nhớ lắm em ơi!
Nếu Xuân Diệu yêu là nhớ tất cả những gì thuộc về người ấy, nhớ lắm nhưng
không thể nói thành lời thì nhà thơ Chế Lan Viên lại khẳng định nỗi nhớ trong tình yêu
có tính tất yếu, dĩ nhiên như một quy luật, khăng khít như đông với rét:
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Còn nhà thơ Xuân Quỳnh ở đây đã thể hiện một nỗi nhớ cồn cào da diết mãnh liệt
biểu hiện rõ qua việc tổ chức ngôn từ và sử dụng các biện pháp tu từ. Toàn bộ bài thơ
gồm 9 khổ thơ, mỗi khổ thơ có 4 câu thơ, riêng khổ thơ thứ 5 có tới 6 câu thơ. Sự phá
vỡ quy tắc thơ ở đây cũng như ngầm ám chỉ tình yêu vốn dĩ là sự phá cách và không có
giới hạn như thế, trái tim khi yêu thì có thể phá vỡ mọi rào cản và nỗi nhớ thì cũng
không bao giờ thôi sục sôi. Hơn nữa, nếu chia bài thơ làm 3 phần: phần một gồm 4 khổ
đầu, phần hai là khổ 5, phần ba gồm 4 khổ thơ còn lại thì có thể liên tưởng phần 1 +3 là
7
chân của con sóng, còn khổ thơ thứ 5 này như một cột sóng lên cao nhất. Khổ thơ này
chính là đỉnh điểm của con sóng, thể hiện cảm xúc thăng hoa và cao trào nhất, diễn tả
nỗi nhớ của một tình yêu say đắm, nồng nàn, thiết tha, cháy bỏng nhất.
Trong sáu câu thơ, hai hình tượng sóng và em lúc thì tách ra lúc lại hòa nhập làm
một để diễn tả những cung bậc khác nhau trong tình yêu của người phụ nữ. Bốn câu đầu
của khổ thơ là hình ảnh con sóng, nhà thơ mượn hình ảnh con sóng để nói đến nỗi nhớ
trong tình yêu. Còn trong hai câu thơ sau thì nhà thơ lại trực tiếp bày tỏ lòng mình, sóng
và em hòa nhập tuy hai mà một, tuy một mà hai để thể hiện dòng cảm xúc tuôn trào:
- Mượn hình ảnh sóng để diễn tả nỗi nhớ: Trong bốn câu thơ đầu, thi sĩ đã mượn
hình ảnh con sóng để diễn tả được nỗi nhớ da diết mãnh liệt, không thể nào yên không
thể nào nguôi, cuồn cuộn dào dạt như những con sóng ngoài biển cả triền miên, vô hồi,
vô hạn. Nữ thi sĩ như muốn soi mình vào con sóng để thấy rõ lòng mình vì sóng nhớ bờ
cũng như em nhớ anh.
+ Nỗi nhớ thể hiện qua hình ảnh con sóng là nỗi nhớ choán ngợp cả không gian,
chiếm lấy cả tầng sâu bề rộng. Nỗi nhớ có trong từng con sóng nên con sóng dưới lòng
sâu cũng mang nỗi nhớ, con sóng trên mặt nước cũng mang nỗi nhớ. Mà nỗi nhớ trong
con sóng trên mặt nước còn dễ nắm bắt chứ nỗi nhớ trong con sóng dưới lòng sâu thì
vạn biến. Bởi con sóng dưới lòng sâu là những con sóng ngầm, có khi bình lặng nhưng
có khi đầy nguy hiểm, dữ dội, có thể nhấn chìm tất cả.
+ Nỗi nhớ choán ngợp cả thời gian, cả ngày lẫn đêm, cả khi thức lẫn khi ngủ tức
là luôn thường trực ở trong lòng. Nỗi nhớ chiếm cả không gian, thời gian; chiếm lấy cả
chiều dài và chiều rộng, con sóng nhớ bờ cũng như em lúc nào cũng nhớ anh.
+ Các biện pháp tu từ: Điệp từ "con sóng" được lặp lại ba lần; nghệ thuật đối lập
dưới-trên, lòng sâu- mặt nước, ngày - đêm; nghệ thuật nhân hóa "con sóng nhớ bờ";
nghệ thuật cường điệu "ngày đêm không ngủ được"... đã nhấn mạnh nỗi nhớ và biến
thành một nỗi nhớ tầng tầng lớp lớp như muôn đợt sóng lòng đang trào dâng.
- Nỗi nhớ được bộc lộ trực tiếp: Ở bốn câu thơ trước nhà thơ còn phải mượn hình
ảnh con sóng để nói đến nỗi nhớ như một chút thẹn thùng, e ấp đầy con gái nhưng đến
hai câu thơ sau tình yêu mãnh liệt đã thôi thúc trái tim tự hát thành lời "Lòng em nhớ
đến anh", nhớ đến trong mơ vẫn nhớ. Như vậy nỗi nhớ trong tình yêu ở đây đã được
nâng lên ở một cung bậc cao nữa, nó không chỉ choán ngợp không gian, thời gian,
thường trực trong tâm thức mà còn đi vào tiềm thức, vô thức. Bất cứ lúc nào em cũng
đều nhớ đến anh đến cồn cào, da diết. Yêu là khát khao gặp gỡ nên những ngày không
gặp nhau thì bạc đầu thương nhớ, lòng đau đến rạn vỡ, có khi ở bên nhau mà vẫn nhớ.
Cô gái trong thơ Xuân Quỳnh là thế, cô gái trong ca dao cũng thế cho nên có thể nói đó
là tâm trạng chung của con người khi yêu:
Đêm nằm lưng chẳng tới giường
Cứ mong trời sáng ra đường gặp anh
(Ca dao)
=> Có thể nói sóng và em đã hòa quyện cộng hưởng để thể hiện một tình yêu say
đắm, mãnh liệt, tuyệt đích. Sáu câu thơ không sử dụng từ "yêu" nào mà vẫn thể hiện
8
được một tình yêu cháy bỏng, dạt dào. Nữ thi sĩ đã không ngần ngại để thể hiện tình yêu
say đắm mãnh liệt, cho thấy một dấu ấn riêng rất táo bạo của hồn thơ Xuân Quỳnh.
4.3. Khổ thơ thớ 6: Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương
Khẳng định tình yêu là thủy chung, duy nhất
Dường như thể hiện tình yêu và nỗi nhớ da diết cồn cào, mãnh liệt nhưng cảm
thấy vẫn chưa đủ, chưa thỏa nên ở khổ thơ tiếp theo này nhà thơ khẳng định tình yêu của
mình là thủy chung, duy nhất. Giữa đất trời bao la rộng lớn, nhà thơ không chỉ thấy
phương Bắc, phương Nam mà còn phát hiện ra một phương nữa là "phương anh". Đất
trời có bốn phương tám hướng mênh mông nhưng em vẫn chỉ thấy, chỉ hướng về một
phương duy nhất là phương anh, phương của tâm trạng, của tình yêu cháy bỏng, da diết,
mãnh liệt. Các biện pháp điệp từ, điệp cú "Dẫu xuôi...Dẫu ngược..."; nghệ thuật đối lập
xuôi-ngược, Bắc -Nam đã gợi lên một tình cảnh không xuôi chiều. Hơn nữa, người ta
thường nói xuôi Nam ngược Bắc thì Xuân Quỳnh lại nói ngược lại thành xuôi Bắc
ngược Nam như để khẳng định: Dù cuộc đời, trời đất có thay đổi quay cuồng, đảo điên,
thay phương đổi hướng, dù thế nào đi chăng nữa tình yêu của em cũng chỉ dành duy
nhất cho riêng anh mà thôi. Không có ngăn trở nào, không có khoảng cách địa lý nào có
thể ngăn cách được tình yêu của em với anh. Chỉ có anh và em, chỉ có tình yêu của anh
và em là còn lại cho nên trong khổ thơ này cũng hoàn toàn không có hình ảnh con sóng.
Vẻ đẹp của tình yêu son sắc, thủy chung đến tận cuối cùng ấy còn được bắt gặp trong
bài thơ "Thơ tình cuối mùa thu" của nữ thi sĩ:
Chỉ còn em và anh
Cùng tình yêu ở lại
Tiểu kết: Bằng thể thơ ngũ ngôn, nhịp điệu linh hoạt biến hóa gợi âm hưởng của những
con sóng ngoài biển cả, hai hình tượng nghệ thuật sóng và em song hành, các thủ pháp
nghệ thuật như điệp từ, điệp ngữ, cường điệu, đối lập, nhân hóa... Nữ thi sĩ Xuân Quỳnh
đã thổ lộ, giãi bày tình cảm là nỗi nhớ da diết, cồn cào, cháy bỏng của một tình yêu
mãnh liệt, chân thành. Sức hấp dẫn của đoạn thơ cũng như bài thơ là đã thể hiện một
cách táo bạo, không giấu giếm một tình yêu say đắm, thủy chung duy nhất khiến cho
tình yêu vừa mang những nét truyền thống vừa mang tinh thần hiện đại. Đó đúng là tình
yêu của người phụ nữ Việt Nam vừa dịu dàng, đằm thắm, thủy chung, son sắc vừa sôi
nổi, mãnh liệt và táo bạo. Ra đời trong khói bom những năm kháng chiến chống Mỹ,
"Sóng" đã vượt thoát ra khỏi dòng thơ cách mạng vốn rất phổ biến lúc bấy giờ để mang
đến cho người đọc cảm xúc thơ mới mẻ. Nó xứng đáng trở thành một trong những bài
thơ tình hay nhất của Việt Nam ở thế kỉ XX.
5. Đoạn thơ: Ở ngoài kia đại dương
... Để ngàn năm còn vỗ
5.1. Khái quát
Bài thơ gồm có chín khổ thơ. Ở những khổ thơ trước Xuân Quỳnh đã tìm ra
những điểm tương hợp của con sóng và tình yêu. Con sóng cũng mang vẻ đẹp đầy nữ
9
tính như tâm hồn người con gái đang yêu đầy phức tạp, mang những đối cực như những
con sóng ngoài biển khơi. Qua hình ảnh sóng, nữ thi sĩ đã bộc lộ khát vọng tình yêu, thể
hiện một nỗi nhớ của một tình yêu sâu sắc, mãnh liệt, thủy chung, duy nhất. Đến khổ thơ
thứ năm, thứ sáu thì cảm xúc tình yêu thăng hoa và lên đến cao điểm nhất thành những
đợt sóng biển sóng lòng dâng cồn lên cao nhất từ tâm điểm. Sang đến khổ thơ thứ bảy,
thứ tám thì nhịp thơ có phần dịu lại, lắng xuống thể hiện những suy tư chiêm nghiệm
của nhà thơ về cuộc đời, về tình yêu. Để rồi khát vọng tình yêu lại trào dâng mãnh liệt
ở khổ thơ cuối cùng.
5.2. Khổ thơ thứ 7: Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
Suy tư về không gian và niềm tin vào hạnh phúc tình yêu
Khổ thơ này là suy tư của Xuân Quỳnh về không gian. Nhà thơ mượn hình ảnh
những con sóng ngoài biển cả để thể hiện niềm tin vào hạnh phúc và tình yêu. Từ những
trải nghiệm của cuộc đời mình, Xuân Quỳnh nhận ra rằng, tình yêu dù trong sáng đẹp đẽ
nhưng cũng khó tránh khỏi những lẽ thường của cuộc đời, khó tránh khỏi những khó
khăn, thử thách, khắc nghiệt như những con sóng ngoài đại dương mênh mông cũng có
những ngày phong ba bão táp. Những con sóng mang khát vọng đến bờ nên cho dù gió
xô, bão dạt cuối cùng nó vẫn vượt qua muôn vời cách trở để tìm được tới bờ. Những
người yêu nhau cũng vậy, tình yêu không chỉ cần có sự say đắm mà còn cần nghị lực để
vượt qua mọi khó khăn, trở ngại, thử thách để đến với tình yêu. Chẳng thế mà ông bà ta
xưa đã có những câu ca dao như:
Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo
Ngũ lục sông cũng lội, thất bát cửu thập đèo cũng qua
Dù vẫn biết con đường tình yêu đầy khó khăn, trắc trở nhưng nữ thi sĩ vẫn bộc lộ
niềm tin vào hạnh phúc, tình yêu. Tình yêu của con người dù có phải vượt qua muôn vàn
khó khăn, thử thách nhưng nếu có niềm tin, có đủ lòng quyết tâm thì tất yếu sẽ đến được
bến bờ hạnh phúc, sẽ tìm được tình yêu đích thực. Cũng giống như những con sóng
ngoài đại dương, đại dương dù mênh mông, bao la đến mấy, dù phải vượt qua muôn vàn
cách trở, con sóng cũng sẽ tới bờ.
Khi sáng tác bài thơ này, thi sĩ Xuân Quỳnh mới 25 tuổi nhưng đã trải qua những
thất bại, đổ vỡ trong tình yêu. Trong tình cảnh đó, con người dễ bị mất niềm tin vào
cuộc sông, mất niềm tin vào tình yêu nhưng người phụ nữ hồn nhiên, tha thiết yêu đời
này vẫn ấp ủ, vẫn phơi phới niềm tin, hi vọng vào hạnh phúc tình yêu. Đó là điều rất
đáng quý của hồn thơ Xuân Quỳnh. Sau này trong bài thơ "Thơ tình cuối mùa thu" nữ
thi sĩ cũng thể hiện vẻ đẹp tình yêu khi nó đã trải qua những khó khăn thử thách:
Tình ta như hàng cây
Đã qua mùa bão gió
Tình ta như dòng sông
Đã yên ngày thác lũ
10
5.3. Khổ thơ thứ 8: Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Suy tư về thời gian, cuộc đời và tình yêu
- Suy tư về thời gian, cuộc đời: Nếu khổ thơ trước là những suy tư của Xuân
Quỳnh về không gian thì khổ thơ này nhà thơ đã thể hiện những suy tư chiêm nghiệm về
thời gian và cuộc đời, thể hiện ý thức về sự hữu hạn của đời người so với sự vô hạn của
trời đất, vũ trụ. Cuộc đời con người tuy dài thế nhưng những ngày tháng cũng sẽ trôi qua
và đến một ngày nào đó chuỗi thời gian của một con người sẽ dừng lại. Cách sử dụng
cấu trúc "Tuy...vẫn...", "Dẫu... vẫn..." cùng với cách sử dụng các từ ngữ như "đi qua",
"dẫu rộng", "về xa", biện pháp tu từ so sánh "Như biển kia dẫu rộng"... đã hướng tâm
hồn thi sĩ đến không gian mênh mông để trong không gian ấy nhà thơ tự nhận thức về
cuộc đời và tình yêu. Biển kia dẫu rộng như những con sóng rồi cũng đến bờ, gió vẫn
thổi, mây vẫn bay về xa xôi cùng sóng biển. Mây vẫn bay qua biển để về xa. Cái vô hạn
vẫn bị khuất phục trước cái vô hạn và con người cũng thế, con người có thể sống 60
năm, 70 năm, 80 năm hay hơn 100 năm nhưng vẫn có một ngày trái tim ngừng đập để
nghỉ ngơi và về cùng đất mẹ. Đời người vẫn bị chi phối bởi cái hữu hạn, bởi quy luật
nhân sinh: Sinh, Lão, Bệnh, Tử. Thực ra, quy luật cuộc đời ấy ai chẳng biết và từ xưa
đến nay đã có biết bao người đã nói, đã rơi lệ vì điều này. Người xưa vẫn ví cuộc đời
như bóng câu qua cửa sổ vụt qua trong thoáng chốc, tựa áng phù vân hợp tan, tan hợp
không thể biết trước. Theo quan niệm của Phật giáo thì "Nhân sinh như trường mộng",
cuộc đời con người chỉ như một giấc mộng dài, lẽ sinh tử chỉ như một hơi thở ngắn ngủi
lắm. Một nhà thơ Trung Quốc thời trung đại cũng đã từng than thở, rơi lệ:
Ngẫm trời đất vô cùng
Một mình tuôn giọt lệ
Ngay cả Xuân Diệu, một người yêu đời, yêu người là thế nhưng khi nhận ra quy
luật ấy cũng bâng khuâng, tiếc nuối:
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt
- Suy tư về sự mong manh, dễ vỡ, khó giữ của tình yêu: Những câu thơ trong khổ
thơ này của Xuân Quỳnh cho thấy nữ thi sĩ đã nhận thức được về lẽ thực của cuộc đời,
về cái ngắn ngủi, hữu hạn của đời người. Nhưng điều đáng nói hơn ở đây là chị còn
nhận ra tình yêu dẫu đẹp đẽ, thiêng liêng thật đấy nhưng nó cũng rất mong manh, dễ vỡ
và khó giữ. Thực tế cuộc sống không đơn giản, xuôi chiều, vì thế nhiều khi tình yêu của
con người không thể vượt qua những trắc trở và sẽ tàn phai theo thời gian . Cũng có tình
yêu theo suốt cả đời người nhưng cũng có tình yêu chỉ kéo dài vài năm, vài tháng và đôi
khi chỉ như chút cảm nắng thoáng qua rồi tan biến mất. Xuân Quỳnh còn cảm nhận và
11
thể hiện rất rõ những khó khăn, thử thách này của tình yêu trong bài thơ "Hoa cỏ may":
Lời yêu mỏng mảnh như màu khói
Ai biết tình anh có đổi thay!
Nhà thơ Đỗ Trung Quân cũng đã nhận ra điều đó và từng viết:
Anh đã thấy một điều mong manh nhất
Là tình yêu, là tình yêu ngát hương
Tuy không hiện hình qua từng câu chữ nhưng ở đoạn thơ này Xuân Quỳnh đã thể
hiện một trái tim nhạy cảm đầy những lo âu, phấp phỏng, những dự cảm, bất an về cái
ngắn ngủi, mong manh của tình yêu và đời người. Nhưng dù có thế chăng nữa, ở đây ta
thấy Xuân Quỳnh vẫn cứ tin vào hạnh phúc và tình yêu. Bà nhận ra rằng thời gian cũng
là thử thách tình yêu nhưng dù thời gian có khắc nghiệt đến đâu thì tình yêu cũng sẽ
vượt qua tất cả và sẽ chiến thắng. Sóng vẫn tới bờ, mây vẫn bay qua biển về xa và tình
yêu đích thực thì mãi vẫn đẹp đẽ và vĩnh hằng vĩnh cửu với thời gian.
5.4. Khổ thơ thứ 9: Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
Khát vọng về tình yêu vĩnh hằng, vĩnh cửu
Khổ thơ cuối đã thể hiện những khát vọng về tình yêu vĩnh hằng vĩnh cửu, ý thức
về sự thời gian chảy trôi của thời gian, đời người. Khi ý thức được sâu sắc sự hữu hạn
của đời người, mỗi người có một cách ứng xử, một thái độ khác nhau. Nếu như người
xưa không hề lo sợ bởi vì họ tin rằng con người một phần của vũ trụ, sống là gửi thác
mới là về; nếu như nhà thơ người Trung Quốc Trần Tử Ngang buồn đến rơi lệ; nếu như
nhà thơ Xuân Diệu muốn sống vội vàng, gấp gáp để tận hưởng cuộc đời, để cuộc đời,
tuổi trẻ dẫu có trôi qua cũng không bao giờ phải ân hận vì đã sống hoài, sống phí thì
Xuân Quỳnh cũng xuất phát từ khát vọng sống sâu sắc với cuộc đời đã thể hiện khát
vọng to lớn, vô hạn về tình yêu. Điều đó được cảm nhận sâu sắc qua cách sử dụng các từ
ngữ:
- Tan ra: tan ra ở đây có thể hiểu theo hai nghĩa là tan ra để biến mất và tan ra để
hòa nhập, hòa tan vào nhau. Với Xuân Quỳnh thì tan ra không phải là để biến mất mà để
hòa nhập, hòa tan vào nhau. Từ "tan ra" ở đây làm người đọc liên tưởng đến câu chuyện
cổ tích về một nàng tiên cá vì muốn cứu sống người mình yêu mà chấp nhận bị tan ra
thành bọt biển. Có thể nói đây là cách sử dụng ngôn từ đầy tinh tế để thể hiện sự hi sinh,
dâng hiến, hóa thân vào tình yêu.
- Số từ ngàn năm: Cách sử dụng số từ có tác dụng nghệ thuật bất ngờ. Con số
ngàn năm ấy đã từng làm ta xúc động trong bài thơ "Thề non nước" của Tản Đà:
Ngàn năm giao ước kết đôi
Non non nước nước chưa nguôi lời thề
Xuân Diệu cũng nhắc đến số từ ngàn năm khi nói về khát vọng tình yêu:
Như hôn mãi ngàn năm không thỏa
Bởi yêu bờ lắm lắm em ơi
12
Có lẽ với các thi sĩ, số từ "ngàn năm" là cách nói ước lệ để thể hiện khát vọng tình
yêu trường tồn, vĩnh cửu với thời gian. Tất cả rồi cũng đi qua, cuộc đời và năm tháng
đều sẽ trôi qua như mây kia vẫn bay qua biển để đi đến cõi xa xăm vô định. Tình yêu
của mỗi con người thường chỉ gắn với cái hữu hạn của đời người. Muốn vượt qua ngoài
giới hạn đó, người ta chỉ có cách là hòa tan tình yêu của mình vào thiên nhiên vĩnh cửu
để ngàn vạn năm sau những con sóng ngoài đại dương vẫn ca hát về tình yêu bất diệt
của con người.
- Làm sao: Bao nhiêu mong muốn, ước vọng và khao khát thể hiện qua hai tiếng
"làm sao". Nữ thi sĩ đã khát khao đến cháy bỏng được tan ra thành những con sóng gữa
đại dương bao la để tình yêu bé nhỏ của mình trở nên bất tử. Sau những suy tư, cảm xúc
trầm lắng ở khổ thơ 7,8 thì đến khổ thơ này tình yêu bỗng bùng lên mãnh liệt. Khát
vọng mãnh liệt, sôi nổi mà cũng rất khiêm nhường, nữ tính bởi đó là khát khao được
dâng hiến, hi sinh góp cuộc đời mình và tình yêu bé nhỏ của mình vào tình yêu rộng lớn
để được bất tử trong tình yêu. Khát vọng về một tình yêu đích thực, bền chặt, vĩnh viễn
còn được nhà thơ Xuân Quỳnh nhắc đến một lần nữa trong thơ của chị:
Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai chẳng có
Vẫn ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa
Biết yêu anh cả khi chết đi rồi
Sự hòa nhập, hòa tan được nhắc đến trong khổ thơ còn là sự hòa nhập giữa các
chung và cái riêng. Tình yêu của em ở đây còn được chan hòa trong tỉnh đồng bào, đồng
chí. Đó là tình yêu cao thượng, lớn lao và khi cái riêng hòa vào cái chung thì cái riêng
cũng tồn tại vĩnh hằng, bất diệt. Mỗi chữ, mỗi câu trong đoạn thơ đều được lựa chọn sắp
xếp một cách rất khéo léo và có giá trị biểu cảm cao. Sự phối hợp các thanh bằng, trắc
nhịp nhàng, các từ ở cuối câu là "qua", " xa", "ra" và "nhỏ", "vỗ" bắt vần với nhau tạo
âm hưởng riêng và sức hấp dẫn cho đoạn thơ.
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG
Bằng thể thơ 5 chữ cô đọng, súc tích; nhịp thơ linh hoạt, biến hóa; hình tượng
sóng và em song hành; sắc điệu trữ tình được gợi ra từ âm hưởng của những con sóng
ngoài đại dương, những con sóng lòng của tình yêu say đắm thiết tha mãnh liệt; cách lựa
chọn, sắp xếp từ ngữ sáng tạo, biểu cảm; giọng thơ nhẹ nhàng, đằm thắm, dư ba và đặc
biệt qua hình tượng sóng và hình tượng em, đoạn thơ đã giúp người đọc cảm nhận được
vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu: táo bạo, mãnh liệt, dám bước qua mọi
trở ngại để gìn giữ hạnh phúc, tình yêu. Dù có lo âu, phấp phỏng, bất an trước cái ngắn
ngủi, hữu hạn của tình yêu, đời người so với sự vô hạn của trời đất ,vũ trụ, thời gian
nhưng vẫn vững tin vào sức mạnh của tình yêu, luôn khao khát tình yêu đích thực, vĩnh
cửu. Người đọc yêu mến và nhớ mãi bài thơ "Sóng" nữa vì nó không đơn thuần là thơ
nữa mà là những gì tinh tế nhất, huyền diệu nhất của trái tim con người, của tâm hồn
người phụ nữ luôn nhạy cảm và tha thiết muốn được yêu thương. Bài thơ rất tiêu biểu
cho phong cách thơ của Xuân Quỳnh, rất dịu dàng, nữ tính nhưng cũng rất táo bạo và
đầy khát khao trong hạnh phúc đời thường.
13