You are on page 1of 15

Sóng

1) Tác giả, tác phẩm


– Nữ hoàng thơ tình là biệt danh được giới văn đàn đặt cho nhà thơ Xuân Quỳnh (1942-1988). Bà là một
trong những nhà thơ nổi tiếng nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại, đặc biệt là những bài thơ viết
về tình yêu đôi lứa.
– Xuân Quỳnh tạo nên tiếng vang lớn. Bà nổi tiếng bởi hồn thơ hồn hậu, mang đậm vẻ đẹp nữ tính, thơ
thể hiện tâm hồn trắc ẩn, mãnh liệt với những cảm xúc đời thường.
– Sóng được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi công tác vùng biển Diêm Điền. Trước khi Sóng ra đời,
Xuân Quỳnh đã phải nếm trải những đổ vỡ trong tình yêu. Đây là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ và
phong cách thơ Xuân Quỳnh. Tác phẩm được in trong tập Hoa dọc chiến hào (1968).
– Bài thơ có hai hình tượng là “sóng” và “em” .
+ Sóng là hình ảnh ẩn dụ cho những trạng thái cảm xúc của người con gái trong tình yêu.
+ Em là nhân vật trữ tình, là người con gái khi yêu
+ Hai hình tượng này có lúc đối sánh nhau, có lúc thông qua nhau có lúc hòa quyện vào nhau để diễn
tả vẻ đẹp tâm hồn và sắc thái tình yêu truyền thống và hiện đại của người con gái khi bước chân
vào tình yêu.
2) Đọc hiểu
Khổ 1
– Giữa những mãnh liệt của Xuân Diệu, giữa những chông chênh của Hàn Mặc Tử, những nhà thơ tình
khá nổi tiếng, Xuân Quỳnh lại một mực chọn cho mình những cảm xúc giản dị khi yêu, nhưng chân
thành và đằm thắm. Vẻ đẹp nữ tính của bà trước hết được thể hiện qua những cung bậc của tình yêu
được bà miêu tả trong tác phẩm Sóng
– Các cặp tính từ tương phản “dữ dội - dịu êm”, “ồn ào - lặng lẽ” cùng điệp từ “và”, sự thay đổi
thanh bằng trắc, tác giả đã diễn tả được đặc tính vốn có của sóng trên biển cả bao la. Khi thì dữ
dội, ồn ào đấy mà cũng có lúc lại thật êm đềm, lặng lẽ. Cũng giống như con sóng ngoài đại dương,
người con gái trong tình yêu cũng có những cung bậc cảm xúc thật đa dạng. Đó là một tâm hồn rất
nhạy cảm, yêu thương-hờn giận, hạnh phúc-đắng cay, gần gũi-xa xôi. Tình yêu dường như luôn có
quy luật mà lý trí chẳng thể giải thích được. Bên cạnh cái mãnh liệt nồng nàn, là cái dịu dàng và sâu
lắng, làm nên vẻ đẹp nữ tính của hình tượng sóng. Chỉ với hai câu thơ, nhà thơ đã miêu tả đủ những
cung bậc cảm xúc của người con gái khi yêu.
– Hai câu thơ tiếp tiếp tục diễn tả khát vọng lớn lao của sóng vươn tới biển khơi cũng giống như khát
vọng của em muốn vươn tới một tình yêu lớn lao cao cả, tri âm, tri kỉ:
“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
– Xuân Quỳnh đã mượn hình ảnh nhân hóa “sóng tìm ra tận bể” để diễn tả khát vọng được khám phá,
được giải bày, được giao cảm của sóng và của người con gái khi yêu.
– Các phép ẩn dụ “sông”, “bể” gợi lên ý nghĩa sâu sắc. “Sông” là môi trường tồn tại của sóng, là không
gian chật hẹp, tù túng. Bể là biển, là khoảng không gian bao la mà ở đó sóng được soi mình với trăm
ngàn con sóng khác, được vẫy vùng được thể hiện sức mạnh của mình. Chính vì vậy sóng không cam
chịu trong không gian tù túng của sông mà đã làm một cuộc hành trình vươn tới biển khơi muôn trùng.
Tình yêu của em cũng vậy, em không cam chịu sự tầm thường, nhỏ hẹp, em muốn vươn tới cái lớn lao
để hiểu sâu hơn về tâm hồn mình, về tình yêu dành cho anh. Đây là một quan niệm mới mẻ, hiện đại
trong tình yêu: người con gái thời hiện đại không thụ động khi yêu mà chủ động vươn tới những điều
cao cả, vĩ đại.
Khổ 2
– Thán từ “ôi” kết hợp với các từ ngữ chỉ thời gian “ngày xưa”- “ngày sau” và cụm từ “vẫn thế” thể hiện
sự vĩnh hằng của những con sóng. Dù ngày xưa hay muôn đời sau, con sóng vẫn thế, vẫn cồn cào, ào ạt
giữa lòng biển khơi. Cũng giống như tình yêu vẫn là một khát vọng cháy bỏng trong trái tim con người.
Không có sóng làm sao có biển, không có tình yêu làm sao có cuộc sống con người. Đó cũng là khát
vọng cháy bỏng trong trái tim không bao giờ thôi khát khao yêu đương của nhân vật trữ tình trong bài
thơ.
– Đồng thời, tác giả khẳng định tình yêu luôn song hành cùng tuổi trẻ, tuổi trẻ mãnh liệt nhất là khi yêu,
vì tình yêu mà sẵn sàng hiến dâng. Tình yêu làm cho tuổi trẻ phải bồi hồi, xao xuyến mà nói như Xuân
Diệu: “làm sao sống được mà không yêu, không nhớ không thương một kẻ nào.”
– Xuân Quỳnh rất tinh tế khi sử dụng các từ ngữ: “nỗi Khát Vọng, bồi hồi hồi, ngực trẻ” để gợi lên
sắc thái muôn đời của biển, của tình yêu nhân loại. Qua đó ta thấy được niềm khao khát về một tình yêu
vĩnh hằng của người phụ nữ
Khổ 3: những băn khoăn, suy nghĩ về sự khởi nguồn của tình yêu khi đứng trước biển lớn
– Hình ảnh “muôn trùng sóng bể” gợi lên sự nhỏ bé của con người trước vũ trụ bao la.
– Điệp từ “em nghĩ” thể hiện nỗi niềm băn khoăn của nữ thi sĩ.
– Nỗi niềm băn khoăn, trăn trở của nhà thơ hoàn toàn có căn cứ. Nghĩ về biển lớn là nghĩ về những điều
lớn lao, về nguồn gốc bí ẩn tự nhiên là sóng, nghĩ về anh em là nghĩ về tình yêu của chúng ta. Sóng vì
nhớ bờ mà vượt qua muôn trùng hải lý để về bờ. Liệu rằng tình yêu của anh có đủ lớn để vượt qua khó
khăn thử thách để hướng về em như sóng biển không? Những suy nghĩ ấy cuối cùng đc dồn trong một
câu hỏi tu từ cuối khổ thơ: từ nơi nào sóng lên? Đây cũng là câu hỏi tạo tiền đề cho những suy tư, trăn
trở của nhà thơ trong tình yêu ở những câu thơ tiếp
Khổ 4
– Sử dụng liên tiếp các câu hỏi tu từ: “Gió bắt đầu từ đâu/ Khi nào ta yêu nhau” như những con sóng ào
ạt chảy vào lòng người con gái đang yêu
– Câu hỏi được đặt ra đã tự có được câu trả lời cho riêng mình: sóng bắt đầu từ những cơn gió - một
cách lý giải rất thực tế. Nhưng nỗi băn khoăn vẫn không dừng lại: “Gió bắt đầu từ đâu?” thì lại không
có câu trả lời. Cũng giống giống như thật khó để biết được từ khi nào tình yêu bắt đầu. Đó mãi mãi là
bí ẩn diệu kì, là sức hấp dẫn mời gọi của tình yêu. Không thể cắt nghĩa tình yêu và cũng chẳng nên cắt
nghĩa tình yêu bởi rất có thể khi ta biết yêu vì lẽ gì thì cũng là lúc tình yêu ra đi.
– Khổ thơ là một sự bất lực đáng yêu của một trái tim yêu không chỉ đòi hỏi cảm xúc mà còn đòi hỏi
nhận thức mãnh liệt
Khổ 5
– Đến với ba khổ thơ tiếp trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh, ta tiếp tục bắt gặp vẻ đẹp tâm hồn của
người con gái nên yêu được thể hiện ở những khát khao được sống trong những cảm xúc chân thành
đẹp đẽ của tình yêu. Đó là nỗi nhớ nhung, thủy chung, son sắt trong tình yêu.
– Âm hưởng con sóng kết hợp với nghệ thuật điệp ngữ “con sóng” gợi lên hình ảnh những con sóng ào
ạt, hướng vào bờ. Trong cảm nhận của người con gái đang yêu, con sóng xô bờ được cảm nhận bằng
những sắc thái nhân hóa: “con sóng nhớ bờ”.
– Hình ảnh ẩn dụ con sóng, thán từ “ôi” kết hợp với từ ngữ chỉ không gian “dưới lòng sâu trên mặt
nước” từ ngữ chỉ thời gian “ngày, đêm” đã diễn tả được nỗi nhớ trào dâng mãnh liệt của sống với bờ,
của người con gái trong tình yêu. Dù trên mặt nước, hay ở dưới đáy đại dương ngày cũng như đêm
con sống luôn cồn cào ào ạt nỗi nhớ bờ da diết.
– Hình ảnh đó gợi ta liên tưởng đến nỗi nhớ thường trực, Nỗi nhớ choán cả không gian, thời gian của
người con gái trong tình yêu. Nỗi nhớ đó chảy theo chiều rộng của không gian dưới trên kéo theo
chiều dài của thời gian ngày đêm đi sâu vào tiềm thức không ngủ được.
➜ Xuân Quỳnh đã sử dụng sự trùng điệp của ngôn ngữ để diễn tả nỗi nhớ của sóng và em. Vẻ đẹp
tâm hồn của người con gái được thể hiện ở nỗi nhớ da diết trào dâng. Đây là vẻ đẹp của tình yêu
truyền thống muôn đời
– 2 câu thơ tiếp theo là lời nhà thơ thêm vào để hoàn thiện giai điệu nỗi nhớ: lòng em...còn thức
– Sóng nhớ ở mọi lúc mọi nơi, em nhớ anh cả trong mơ còn thức. Sóng nhớ bờ, khao khát được gặp bờ,
em nhớ anh, khao khát được gặp anh. Em thức, em ngủ, em mơ chỉ cùng 1 nỗi nhớ anh mà thôi.
– Cụm từ “Cả trong mơ còn thức” vừa diễn tả nỗi nhớ trong cả ý thức, chập chờn trong cả vô thức. Cụm
từ này đã góp phần làm nổi bật được vẻ đẹp tâm hồn và nét đẹp đặc trưng của nhà thơ Xuân Quỳnh
vừa mãnh liệt nồng nàn nhưng cũng đầy trăn trở. Cả trong mơ còn thức là em thức để được yêu anh,
em thức để được nhớ anh, em thức để được giữ tình yêu của chúng mình.
➜ Đó là lời giải bày, tâm tình bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn nhớ nhung, táo bạo, mãnh liệt mang hơi thở tình
yêu hiện đại hôm nay
Khổ 6
– sau khi thể hiện nỗi nhớ một cách trực tiếp, chân thành thì nhà thơ tiếp tục bày tỏ sự thủy chung, son
sắt của mình. Điệp từ “dẫu” và phép đối “xuôi – ngược”, “Bắc – Nam” gợi lên những sự xa xôi, cách
trở, những gian nan cần phải vượt qua khi chúng ta yêu nhau. Câu thơ có 1 sự đặc biệt là: người ta vẫn
hay nói ngược Bắc xuôi Nam, nhưng Xuân Quỳnh lại đảo ngược lại. Phải chăng nhà thơ muốn nhắn
nhủ: cuộc đời dẫu có thế nào đi chăng nữa, dù trời đất có thay phương đổi hướng thì tình yêu và nỗi
nhớ của em luôn luôn hướng về anh
– Cụm từ “Nơi nào em cũng nghĩ” thể hiện một tình yêu sâu sắc chân thành. Ta cảm nhận được âm
hưởng lời thề thủy chung son sắt trong tình yêu của người con gái qua sự xuất hiện của cụm từ
“hướng về anh”. Cũng như sóng chỉ có một hướng đích duy nhất là bờ, em chỉ có phương anh làm
điểm đến, bất chấp cuộc đời có nhiều trái ngang
– Chữ “một” trong câu thơ “Hướng về anh một phương” thể hiện lối nói chân thành, da diết nhưng cũng
đầy dứt khoát và mãnh liệt của người con gái trong tình yêu. Nếu nỗi nhớ làm thành biểu hiện nồng
nàn, sôi nổi của tình yêu thì sự thuỷ chung lại là phần đằm sâu trong trái tim người phụ nữ.
➜ Với lỗi diễn đạt đặc sắc, Xuân Quỳnh đã làm nổi bật được vẻ đẹp tâm hồn thủy chung, son sắc
của người con gái khi yêu. đó cũng là sắc thái truyền thống trong tình yêu muôn đời
Khổ 7: Vẻ đẹp tâm hồn của người con gái trong tình yêu yêu được thể hiện rõ ở niềm tin mãnh liệt vào
tình yêu chân thành, đồng thời cũng là những băn khoăn, lo lắng cái hữu hạn của đời người với cái bao
la của vũ trụ
Xuân Quỳnh đã mượn hình ảnh ẩn dụ: “ con sóng ngoài đại dương” để diễn tả niềm tin mãnh liệt
của người con gái trong tình yêu.
– Hình ảnh “ trăm ngàn con sóng” gọi lên một quy luật, mọi con sóng dù gặp muôn trùng khó
khăn cách trở vẫn luôn hướng về bờ, bờ là bến đích cuối cùng. Cũng giống như tình yêu, anh và
em sẽ cùng nhau vượt qua những khó khăn trắc trở để cập bến bờ hạnh phúc
– Gian nan và thử thách là điều không thể thiếu trong tình yêu, nhưng khi đã cùng nhau vượt qua thì
sẽ là tình yêu bền vững
– Xuân Quỳnh đã sử dụng cấu trúc câu thơ nghi vấn phủ định: “ Con nào chẳng tới bờ” để khẳng
định mọi tình yêu sẽ luôn tốt đẹp, khẳng định niềm tin mãnh liệt trong tình yêu và sự trải nghiệm,
vẻ đẹp tâm hồn của người con gái. Dẫu trải qua bao đắng cay của cuộc đời, trong tình yêu nhưng
người con gái vẫn luôn tin tưởng vào sự tốt đẹp của cuộc đời, của lòng người, của tình yêu. Khổ
thơ là lời khẳng định đầy đanh thép, hi vọng vào quy luật của tự nhiên, những người thuộc về nhau sẽ
trở về bên nhau, sóng gió có mạnh cũng không thể nào bằng tình yêu đôi lứa.
Khổ 8: Những băn khoăn, lo lắng, những trực cảm trong tình yêu của nhà thơ
Trong tình yêu, Xuân Quỳnh gặp khá nhiều khó khăn, trắc trở, từng nếm trải cay đắng nên luôn dự
cảm trước những giông bão cuộc đời. Những từ “tuy dài thế”, “vẫn đi qua”, “dẫu rộng” chứa đựng
nỗi lo âu, ngậm ngùi. trước cái vô thủy vô chung của cuộc đời, tình yêu của con người mãi chỉ là
“bóng câu qua cửa sổ”, vì thế người con gái luôn trăn trở trước sự trôi chảy của thời gian, sự ngắn
ngủi của kiếp người, sự mong manh của hạnh phúc. Đó cũng là biểu hiện cho vẻ đẹp tình yêu
hiện đại hôm nay.
Khổ 9
Khép là bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh, trái tim em đã tan chảy vào sóng để
thể hiện khát vọng về một tình yêu vĩnh hằng
“Làm sao…còn vỗ.”
– Xuân Quỳnh đã xây dựng cấu trúc câu thơ nghi vấn cầu khiến độc đáo “Làm sao được tan ra” để
diễn tả mơ ước chân thành, thiết tha, cháy bỏng trong tâm hồn của người con gái đang yêu.
Người con gái muốn tình yêu của mình hòa vào biển lớn tình yêu của nhân loại, vượt qua sự hữu
hạn của không gian, thời gian để tồn tại mãi trên cuộc đời này.
– Xuân Quỳnh đã sử dụng rất tinh tế “tan ra” là hòa vào vĩnh cửu, thể hiện một khát vọng được
sống hết mình, được yêu hết mình, được hi sinh hết mình, được dâng hiến mình cho tình yêu. Và
khi tất cả chúng ta sống hết mình, dâng hiến hết mình cho tình yêu, thì tình yêu đó sẽ hòa vào
vĩnh viễn với không gian mênh mông, tồn tại bất tử với thời gian ngàn năm.
Đất nước
1) Tác giả, tác phẩm
– Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong khói lửa kháng chiến chống Mỹ
– Thơ ông giàu chất suy tư, cảm xúc dồn nén, thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào
chiến đấu. Ông từng là Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin nay đã nghỉ hưu.
– Các tác phẩm tiêu biểu: Đất ngoại ô, Trường ca Mặt đường khát vọng. Đất nước là bài thơ được
trích từ chương V trường ca “Mặt đường khát vọng” được hoàn thành ở chiến trường Bình Trị Thiên
năm 1971, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ miền Nam xuống đường tranh đấu hòa hợp với cuộc
kháng chiến của dân tộc. Đoạn thơ ta sắp phân tích sau đây là đoạn thơ để lại dấu ấn về Đất Nước
thân thương, bình dị trong trái tim mỗi con người
2) Đọc hiểu
– Những cảm nhận mới mẻ về đất nước được cảm nhận bằng cái nhìn đa chiều. Trước tiên là về chiều sâu
cội nguồn đất nước. Đất nước vốn là những giá trị vĩnh hằng được tạo dựng, vun đắp qua nhiều thế hệ, từ
thế hệ này nối tiếp thế hệ kia gìn giữ và phát triển. Vì vậy ngay từ câu thơ đầu tiên, NKĐ đã cất bút viết
từ những tình cảm chân thành nhất nơi trái tim mình. Giọng thơ như một lời thủ thỉ tâm tình, chân thành
mà mộc mạc: “khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”.
+ danh từ “Đất Nước” được viết hoa tạo sự thiêng liêng, thành kính.
+ “ta” là mỗi người dân đất Việt
+Ba từ “đã có rồi” vừa như 1 lời khẳng định chắc nịch về sự tồn tại của Đất Nước, vừa thể hiện niềm
tự hào mãnh liệt về sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử. Đất Nước cũng như Trời
và Đất, khi ta sinh ra Đất đã ở dưới chân, Trời đã ở trên đầu. Cũng như vậy, không biết Đất Nước có
tự bao giờ nhưng khi ta lớn lên ta đã thấy Đất Nước của mình rồi. Đất Nước luôn hiện hữu trong mỗi
người con đất Việt như một chân lý ko bao giờ đổi thay.
– Đất nước hiện diện quanh ta với những gì gần gũi, thân thương nhất. Những câu thơ tiếp theo nhà thơ
diễn tả vẻ đẹp của Đất Nước trong chiều sâu văn hóa, phong tục
“đất nước có trong …”
– Đất nước hiện lên thật gần gũi, thân thương trong huyền thoại, cổ tích – những câu chuyện thuở thơ bé,
trong những cái “ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”. Có nghĩa là Đất Nước đã có từ lâu đời; Đất
Nước có từ trước khi những câu truyện cổ ra đời rồi. khi những câu truyện cổ có mặt trong đời sống tinh
thần của ta, ta đã thấy Đất Nước hiện diện trong truyện cổ. Đó là Đất Nước của một nền văn học dân
gian đặc sắc với những câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết. Đó là những câu kí ức chăm bẫm
chăm bẵm cho ta cái chân thiện mĩ, nuôi dưỡng tâm hồn ta từ thở còn nằm nôi, để ta biết yêu thêm quê
hương, đất nước.
– Nếu truyện cổ tích gợi cho ta về công cuộc giáo dục thế hệ con cháu về đạo lý ân tình ân nghĩa, cái thiện
cái ác, lịch sử dân tộc thì vẻ đẹp trong thuần phong mĩ tục của nhân dân cũng làm ta yêu thêm mảnh đất
quê hương. Thứ nhất là nếp sống giản dị nhưng đậm đà của những người mẹ, người bà Việt Nam: phong
tục ăn trầu “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”. Trong tục cúng lễ, miếng trầu cau là biểu
tượng cho tấm lòng thành của con cháu gửi đến tổ tiên. Nó còn là biểu tượng cho tình yêu, hôn nhân và
gia đình, là mối quan hệ vợ chồng thủy chung son sắt. thứ hai là vẻ đẹp thuần hậu của bà, của mẹ: tóc bới
sau đầu. đó là vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam chân lấm tay bùn. Họ hiện lên trong những vần
thơ vô cùng dịu dàng, duyên dáng. Thứ ba là tập tục làm nhà kèo- cột. Từ gian nhà ấy, việc đặt tên con
bằng cái Kèo, cái Cột cũng ra đời như 1 thói quen, mang nguyên ước rằng anh em trong nhà yêu thương
nhau đùm bọc nhau vững chãi như cái kèo, cái cột dựng chắc khung nhà.
– Hình ảnh so sánh “gừng cay muối mặn” đậm chất dân gian: lối sống giàu tình nặng nghĩa thủy chung
son sắt của nhân dân Việt Nam.
– Phép liệt kê “xay, giã, giần, sàng” kết hợp hai động từ mạnh “xay, giã” và thành ngữ “một nắng hai
sương” gợi lên Đất Nước được hình thàn từ quá trình lao động cần cù, vất vả của nhân dân Việt
Nam, tiêu biểu là nền nông nghiệp lúa nước lâu đời.
– Một trong những truyền thống quý báu của dân tộc ta là truyền thống đánh giặc giữ nước: “Đất Nước lớn
lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”.
+ Cụm từ “Đất Nước lớn lên” gợi lên hình ảnh đất nước trưởng thành qua những cuộc đấu tranh,
trường kì kháng chiến.
+ Hình ảnh “Trồng tre đánh giặc” gợi lên câu chuyện truyền thuyết “Thánh Gióng”, ý chí chống
giặc ngoại xâm của dân tộc.
– Câu thơ cuối: ẩn chứa nhiều cảm xúc của tác giả“Đất Nước có từ ngày đó” “Ngày đó” là ngày nào ta
không rõ nhưng chắc chắn ngày đó là ngày ta có truyền thống, có phong tục tập quán, có văn hóa. Đúng
như lời Bác dặn trước lúc đi xa “Rằng muốn yêu Tổ quốc mình, phải yêu những câu hát dân ca”. Bởi văn
hóa chính là Đất Nước. Thật đáng yêu đáng quý, đáng tự hào biết bao lời thơ dung dị, ngọt ngào của
Nguyễn Khoa Điềm.
➜ Tác giả đã vận dụng khéo léo chất liệu văn hóa dân gian như phong tục ăn trầu, tục búi tóc, truyền
thống đánh giặc, truyền thống nông nghiệp để tạo một đoạn thơ đậm đà không gian văn hóa người Việt.
qua đó cho ta thấy được đất nước bắt nguồn từ những điều nhỏ bé nhất
Dưới góc nhìn của không gian địa lí, tác giả khẳng định, đất nước là không gian đầy gợi cảm.
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
– Ban đầu nhà thơ tách đất nước thành hai nhân tố kết hợp với nghệ thuật điệp cấu trúc để đưa ra
định nghĩa về đất nước mới mẻ, lôi cuốn, độc đáo. “Đất” là con đường đưa anh đến trường mở ra
cho anh những chân trời nhận thức mới. “Nước” là dòng sông em tắm những buổi trưa hè, gột
rửa tâm hồn em trở nên thanh thoát dịu dàng. Đất nước là nơi sinh hoạt bình dị, gắn bó
– Điệp ngữ “là nơi”  hình dung về không gian, nơi chốn của chúng ta. Đất nước là nơi lưu giữ
những ký ức, kỷ niệm tuổi thơ của mỗi con người.
a2) Hai câu thơ tiếp tác giả tiếp tục khẳng định đất nước là không gian hò hẹn thơ mộng, nhớ
nhung, tràn đầy kỷ niệm của đôi lứa yêu nhau.
“Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
– Hợp nhất hai yếu tố “đất” và “nước” để lý giải theo cách riêng: Khi tuổi ấu thơ, đất nước là nơi
lưu giữ những kỷ niệm, ký ức không gian chung của cộng đồng. Nhưng khi chúng ta đã trưởng
thành, đất nước đã trở thành nơi tình yêu lứa đôi nảy nở. Trong hai câu thơ này, đất nước bỗng trở
thành không gian của tình yêu, gợi ra cả một không gian làng quê yên ả, gợi ra những đêm trăng hò
hẹn bên dòng sông thơ hay trong những đêm hội làng có gánh chèo hát thâu đêm
– hình ảnh “em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”  nỗi nhớ triền miên, dai dẳng, da diết,
sâu thẳm. Chiếc khăn bé nhỏ, giản dị trở thành vật chứng cho tình yêu đôi lứa làm biết bao người
phải xúc động, bồi hồi
– Tác giả đã mang đến cho chúng ta một đất nước gắn bó lung linh tràn đầy kỷ niệm của tình yêu
và nỗi nhớ. Đất nước không chỉ là không gian sinh hoạt quen thuộc của cộng đồng mà còn là
không gian riêng tư của đôi lứa yêu nhau. Đất nước là sự gắn kết giữa anh và em, giữa cá nhân
và cộng đồng.
– Hai câu tiếp tác giả đã khẳng định Đất Nước là không gian rộng lớn, tráng lệ, kỳ vĩ, thơ mộng,
lãng mạn, bay bổng của núi sông rừng biển.
“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi””
– Những hình ảnh đầy linh thiêng tôn kính “con chim phượng hoàng, con cá ngư ông”  mở ra
một đất nước linh thiêng bay bổng thấm đậm màu sắc huyền thoại.
– Tác giả đã vận dụng chất liệu của những câu hò dân gian với hình ảnh “núi bạc, biển khơi” 
mở ra cho ta một đất nước mỹ lệ, mênh mông, rộng lớn, tráng lệ, kì vĩ.
➜ Hai hình ảnh ca dao này mang phong cách dân ca miền Trung, thẫm đẫm lòng yêu quê hương cả
tác giả. Đất nước mình bình dị, quen thuộc nhưng đôi khi cũng lớn rộng, tráng lệ, kì vĩ và giàu đẹp
vô cùng. Đất nước chính là núi rừng, sông bể, là không gian lãnh thổ thiêng liêng đã từng được
Nguyễn Trãi khẳng định trong Bình Ngô đại cáo: Núi sông bờ cõi đã chia
– Cùng với cách cảm nhận về đất nước ở phương diện không gian địa lý, nhà thơ còn cảm nhận đất
nước ở phương diện thời gian lịch sử:
thời gian đằng đẵng…đoàn tụ
– các từ láy "đằng đẵng", "mênh mông" đã nhấn mạnh chiều dài của thời gian lịch sử, chiều rộng của
không gian địa lí, gợi hình ảnh một đất nước có lịch sử lâu đời và một vùng lãnh thổ rộng lớn
– Từ ngữ “đoàn tụ” : cảnh quây quần sum vầy kết hợp với cách nói “dân mình”  tình cảm yêu
thương của tác giả với nhân dân.Trong cảm nhận của tác giả, đất nước là nơi dân mình đoàn tụ,
là không gian sinh tồn của cộng đồng bao thế hệ.
– Bốn câu thơ tiếp tác giả tiếp tục khẳng định đất nước là nguồn gốc đẹp đẽ, linh thiêng, tôn kính
dân tộc Việt Nam.
– Tác giả tiếp tục sử dụng nghệ thuật chiết tự, nghệ thuật lặp cấu trúc, những hình ảnh linh thiêng
tôn kính “chim về, rồng ở” nhằm nhấn mạnh nguồn gốc đẹp đẽ, linh thiêng của dân tộc Việt
Nam.
– Nguyễn Khoa Điềm cũng rất tinh tế khi đưa vào câu chuyện “Con Rồng Cháu Tiên”  mở ra
vẻ đẹp vừa lãng mạn, vừa mạnh mẽ, của đất nước.
– Các hình ảnh “bọc trứng, đồng bào” gợi nhắc sự gắn bó đoàn kết của dân tộc.
– Bảy câu tiếp tác giả khẳng định, Đất Nước là sự kế tục của các thế hệ theo trục thời gian “quá
khứ- hiện tại- tương lai”:
“Những ai đã khuất…giỗ tổ.”
– Các cụm từ “đã khuất, bây giờ, mai sau”: sự gắn kết của các thế hệ theo trục thời gian.
– Tác giả đã sử dụng những cụm từ sáng tạo:
+ “những ai đã khuất” để nói thế hệ cha ông
+ “những ai bây giờ” để chỉ những con người đang sống và chiến đấu
– Tất cả đều ý thức được sứ mệnh của mình, “yêu nhau, sinh con, đẻ cái, gánh vác trách nhiệm”.
Nguyễn Khoa Điềm rất tinh tế khi lồng vào hai câu ca dao mà bất kỳ người Việt Nam cũng nhớ để
gợi nhắc nét đẹp truyền thống của con người Việt Nam:
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba”
– Hai chữ “cúi đầu” trong câu thơ “Hàng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ”
đã thể hiện tấm lòng thành kính, thiêng liêng, rất đỗi tự hào của dân tộc Việt Nam về nguồn gốc
ông cha. Người Việt Nam ở khắp năm châu “luôn cúi đầu” nhớ về quê cha đất tổ, về công lao
của các vua Hùng.
– Với chất liệu văn hóa dân gian đậm nét, hình ảnh thơ linh thiêng tôn kính, nghệ thuật sáng tạo
đặc sắc, tác giả đã mang đến cho chúng ta một định nghĩa đất nước thật trọn vẹn sâu sắc, vừa gần
gũi, bình dị, vừa thấm đẫm màu sắc huyền thoại.
– Sáu câu thơ tiếp nêu lên vai trò của Đất Nước trong đời sống của con người, mối quan hệ giữa
Nhân dân với Đất Nước trong hiện tại:
“Trong anh và em … to lớn”
– Với cách xưng hô “anh và em” kết hợp với giọng điệu trữ tình tha thiết thể hiện lối nói thân thiết
đậm đà, nghĩa tình.
– Cụm từ “đều có một phần” nhấn mạnh vai trò lớn lao của đất nước. Đất nước cho ta hình hài, đất
nước cho ta cuộc sống, đất nước cho ta tình yêu, nỗi nhớ, kỉ niệm.
– Với động từ “cầm tay” kết hợp với giọng thơ tha thiết ngọt ngào tác giả đã gợi lên sự gắn kết
giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng. Tác giả khẳng định Đất Nước là sự thống
nhất hài hòa giữa tình yêu đôi lứa và tình yêu dân tộc, giữa cá nhân và cộng đồng. Đây là hình
ảnh đất nước ở hiện tại.
– Ba câu thơ tiếp nhấn mạnh, Đất Nước tạo cho chúng ta niềm tin vững chắc mãnh liệt vào tương
lai phía trước.
“Mai này … mơ mộng”
– Giọng thơ trữ tình chính luận kết hợp với các từ ngữ chọn lọc “mai này, lớn lên” tác giả đã thể
hiện sự kỳ vọng, vào thế hệ trẻ Việt Nam.
– Hai chữ “lớn lên” thể hiện những cảm nhận tinh tế của tác giả vào trí tuệ, bản lĩnh của thế hệ trẻ.
– Hình ảnh “tháng ngày mơ mộng” là lối diễn đạt thể hiện ước mơ của tác giả về một Đất Nước
với trí tuệ, bản lĩnh, sự phát triển ngoài trí tưởng tượng.
– Đất Nước là sự thống nhất hài hòa giữa các thế hệ và niềm tin mãnh liệt của tác giả vào tương lai
Đất Nước. Như vậy, Đất Nước được cảm nhận suốt chiều dài thời gian lịch sử từ quá khứ đến hiện
tại và tương lai.
+ Đó là một Đất Nước thiêng liêng, hào hùng trong quá khứ
+ Đó là một Đất nước giản dị, gần gũi trong hiện tại
+ Và một Đất Nước triển vọng sáng tươi trong tương lai.
– Từ cách cảm nhận và lí giải Đất Nước như thế nhà thơ suy nghĩ về trách nhiệm của mọi người :
“Em ơi … muôn đời…”
– Bằng các động từ cụ thể nhưng cũng rất gợi hình xuất hiện dồn dập “gắn bó, san sẻ, hóa thân” tác
giả hướng mỗi con người phải có những hành động thiết thực đối với Đất Nước.
– Điệp ngữ “phải biết” như là mệnh lệnh phát ra từ trái tim trở nên rất chân thành.
– Tác giả khẳng định Đất Nước luôn khắng khít trong mỗi con người.
– Với giọng thơ say đắm ngọt ngào kết hợp với cụm từ “em ơi em” gợi lên tâm tình tha thiết, niềm
vui dâng trào trong lòng tác giả.
– Cụm từ “Đất Nước là” đưa lời thơ trở về với dáng dấp của định nghĩa chân lý: Đất Nước là mồ
hôi xương máu của cha ông ta ngàn đời, Đất nước kết tinh, hoá thân trong cuộc sống của mỗi con
người, vì thế mọi người phải có tinh thần cống hiến, có trách nhiệm đối với sự trường tồn của quê
hương, xứ sở. Lời nhắn nhủ với thế hệ trẻ cũng là lời tự nhủ của tác giả với chính bản thân đầy chân
thành tha thiết.
 Với Thể thơ tự do thấm đẫm tinh thần dân tộc.Chất liệu văn hóa dân gian đậm nét.Giọng thơ thủ
thủy tâm tình, bài thơ là sự kết hợp giữa chất chính luận và trữ tình, ngôn ngữ hành thơ mộc mạc
gần gũi, tất cả đã góp phần mang đến cho chúng ta một hình ảnh Đất Nước bình dị , thân quen ,
gần gũi , gắn bó, máu thịt. Đất Nước được hình thành từ lối sống của nhân dân, từ nhân dân mà
ra, nhờ nhân dân mà tồn tại và phát triển.
Tư tưởng
8 câu thơ đầu: Dưới góc nhìn của không gian địa lý từ Bắc và Nam, Nguyễn Khoa Điềm đã
khẳng định chính nhân dân tạo nên dáng hình, vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt cho đất nước:
“Những người vợ Bà Điểm”
– Với cái nhìn bao quát về không gian địa lí, tác giả đã khẳng định chính nhân dân đã tạo nên hình hài
vẻ đẹp, sức sống cho đất nước
– Những từ ngữ chỉ đối tượng “những người vợ người chồng” kết hợp với điệp từ “góp, giúp”: khẳng
định một điều hiển nhiên, tất cả cùng góp sức để làm nên đất nước.
– Tác giả đã nhìn lên những “núi Vọng Phu” để liên tưởng đến nỗi niềm của người vợ chờ chồng
bồng con hóa đá. Tác giả nhìn lên “núi Bút, non Nghiên” để liên tưởng đến truyền thống hiếu học
của dân tộc Việt Nam  Chính nhân dân đã tạo nên dáng hình cho đất nước.
– “Hòn Trống Mái” như là một biểu tượng cho tình yêu lứa đôi, nghĩa vợ chồng thủy chung son sắc
 Chính nhân dân đã tạo ra vẻ đẹp tâm hồn cho đất nước.
– Những di tích, dấu tích “gót ngựa Thánh Gióng, chín mươi chín con voi, những con rồng”: liên
tưởng đến ý chí cội nguồn, ý chí thống nhất, tinh thần quật khởi của dân tộc Việt Nam.
– Không dừng lại ở danh lam thắng cảnh, tác giả đã có cái nhìn cụ thể với những con người, con vật
đã góp phần làm nên Đất nước
– Đất nước được tạo nên từ những con người bình dị, vô danh, những người vợ, người chồng, anh
học trò nghèo, Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm cho đến những người anh hùng trong truyền
thuyết “Thánh Gióng, Hùng Vương”.
– Đất nước cũng được tạo nên từ những con vật gần gũi gắn bó trong đời sống hàng ngày “con cóc,
con gà” cho đến những loài vật linh thiêng trong tâm linh của người Việt “con rồng, con voi”.
– Trong con mắt của nhà thơ, mỗi danh thắng không chỉ là một nét vẽ tô điểm vào bức “tranh họa đồ” Đất
Nước mà còn ẩn chứa những nét đẹp tâm hồn của nhân dân trong mấy nghìn năm lịch sử : sự thủy
chung; tình nghĩa vợ chồng; tinh thần yêu nước; ý thức hướng về tổ tông, nguồn cội; tinh thần hiếu học,
ý chí vượt khó vươn lên; tinh thần xả thân vì cộng đồng, dân tộc…
4 câu thơ tiếp: Diễn tả niềm vui sướng của tác giả trước những đóng góp của cha ông dành cho
đất nước:
“Và ở đâu … sông ta”
– Thán từ “ôi” kết hợp với số từ phiếm chỉ “bốn nghìn năm”, hình ảnh “núi sông ta”: thể hiện nỗi xúc
động pha lẫn niềm tự hào kiêu hãnh về chiều dày, chiều sâu của lịch sử văn hóa đất nước
– Động từ “hóa”: khẳng định chính nhân dân là người đã thổi hồn hóa thân diệu kì vào sông núi để
lặng thầm góp phần làm nên đất nước
 Với chất liệu văn hóa dân gian đậm nét, giọng văn trữ tình chính luận, phép liệt kê, tác giả đã làm
nổi bật được tư tưởng “Đất nước là của nhân dân” dưới góc nhìn của không gian địa lý. Nhân dân
đã góp phần làm nên dáng hình, vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt cho Đất nước. Qua đó, tác giả
cũng gửi gắm tấm lòng tri ân sâu sắc, niềm tự hào vô hạn trước những đóng góp của ông cha.
– Về phương diện lịch sử, Nhân dân đã tạo dựng, bảo vệ, phát triển đất nước. Nhân dân là chủ nhân
của đất nước.
“Em ơi em … Đất Nước”
– Đại từ nhân xưng “em” kết hợp với câu cầu khiến “hãy nhìn rất xa” làm cho lời thơ mang dáng dóc
của một lời tâm tình tha thiết
– Tác giả đã sử dụng tính từ “rất xa” kết hợp số từ phiếm chỉ “bốn nghìn năm Đất nước” như khơi
gợi, thôi thúc thế hệ trẻ tìm về với cội nguồn của dân tộc.
– Ba câu thơ tiếp khẳng định niềm tự hào, tin tưởng vào tinh thần tự nguyện của thế hệ trẻ đối với Đất
nước:
Năm tháng … làm lụng
– Tiết tấu nhanh kết hợp điệp ngữ “người người, lớp lớp” và các danh từ chung “con gái, con trai” đã giúp
nhà thơ khẳng định niềm tự hào, tin tưởng vào tinh thần tự nguyện của thế hệ trẻ đối với Đất nước.
– Từ láy “cần cù, làm lụng” đi liền với nhau đã nhấn mạnh được bản tính hiền lành, sự chịu thương,
chịu khó của con người Việt Nam trong thời bình.
– Ba câu thơ tiếp ngợi ca vẻ đẹp con người Việt Nam khi Đất Nước có chiến tranh
“Khi có ... cũng đánh”
– Câu thơ thể hiện sự phân công trách nhiệm hết sức tự nguyện, tự giác của tuổi trẻ Việt Nam khi đất
nước lâm nguy “Người con trai ra trận – Người con gái nuôi cái cùng con”
– Tác giả đã sử dụng thành ngữ quen thuộc “Giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh” nhằm thể hiện lòng
yêu nước, quyết tâm đánh giặc đến cùng của con người Việt Nam với những tấm gương tiêu biểu:
Hai Bà Trưng, Bà Triệu, chị Út Tịch.
– Chín câu thơ tiếp theo đã khẳng định, chính nhân dân là những con người bình dị, vô danh đã làm
nên Đất nước
“Nhiều người ... Đất Nước”
– Tác giả đã sử dụng điệp từ “họ, nhiều, anh hùng” kết hợp với câu hỏi tu từ để khẳng định chính
nhân dân là những con người bình dị, vô danh đã làm nên Đất nước. Câu thơ gói gọn niềm tự hào
của tác giả về con người Việt Nam trong chiến đấu.
– Tác giả đã sử dụng cặp tính từ “giản dị, bình tâm” đặt liền nhau để gợi lên phẩm chất cao đẹp của
những người anh hùng. Đó là những con người bình dị trong đời thường, bình thản trong gian lao
và chiến đấu.
– Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã được tác giả khẳng định một cách nõ rét. Chính vì những con
người bình dị vô danh đã âm thầm lặng lẽ tạo nên những chiến công cho Đất nước.
– Năm câu thơ tiếp đã khẳng định nhân dân đã tạo ra những giá trị vật chất và lưu truyền những giá
trị tinh thần cho Đất Nước
“Họ giữ ... hái trái”
– Tác giả đã sử dụng các từ “hạt lúa, lửa, hòn than, giọng điệu, tên xã, tên làng” kết hợp nghệ thuật
liệt kê để chỉ ra những yếu tố của đời sống vật chất, tinh thần do nhân dân tạo ra.
– Điệp từ “họ” được lặp đi lặp lại nhằm nhấn mạnh vai trò to lớn của những con người vô danh bình
dị đã tạo nên giá trị cho Đất nước.
– Bốn câu thơ cuối khẳng định , chính nhân dân luôn đứng giữa vào cuộc kháng chiến, sẵn sàng chiến
đấu chống giặc đến cùng.

“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm


Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
- Điệp từ “có” kết hợp với phép điệp cấu trúc đã góp phần nhấn mạnh chính nhân dân luôn
đứng giữa vào cuộc kháng chiến, sẵn sàng chiến đấu chống giặc đến cùng.
- Điệp ngữ “Đất nước của Nhân dân” kết hợp với lối viết hoa đã thể hiện tấm lòng thành
kính, thái độ tôn vinh của người cầm bút đối với nhân dân và đất nước.
- Tác giả đã sử dụng câu thơ độc đáo “Đất nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần
thoại” để mở ra một hình ảnh Đất nước vừa mạnh mẽ kiên cường, vừa hiền dịu nên thơ.
 Tiểu bình: khi nhìn vào lịch sử của bốn nghìn năm đất nước, tác giả không nhắc lại một
triều đại hay một người anh hùng cụ thể nào mà Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định không ai
khác chính nhân dân đã làm nên đất nước để các thế hệ mai sau kế thừa và tiếp tục dựng xây, phát
triển.

K a) 5 câu thơ đầu: vai trò của nhân dân trong công cuộc tạo dựng, sáng tạo, bảo vệ, duy trì
những giá trị vật chất, tinh thần cho đất nước:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái”
a1. Vai trò lớn lao của nhân dân trong việc tạo dựng đất nước:
- Đại từ “họ” kết hợp với các động từ “giữ, truyền, gánh, đắp, be”  công lao to lớn của nhân
dân với đất nước.
- Cặp động từ “giữ, truyền” lặp lại  sứ mệnh thiêng liêng của mỗi con người, mỗi thế hệ trong
công cuộc xây dựng đất nước.
- Các hình ảnh hữu hình “hạt lúa, lửa” và các hình ảnh vô hình “giọng điệu, tên xã, tên làng”
những giá trị vật chất và tinh thần đều được tạo ra từ chính nhân dân”. Tác giả nhấn mạnh vai
trò của nhân dân với đất nước.
a2. 1 câu thơ đầu: Khẳng định tấm lòng của nhân dân, công lao khó nhọc của nhân dân đã làm
nên đất nước: “Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng”
- Điệp từ “họ” lặp đi lặp lại kết hợp với động từ “giữ, truyền” và hình ảnh “hạt lúa”: chính nhân
dân đã lưu truyền những giá trị vật chất cho đất nước.
- Hình ảnh ‘hạt lúa”: hạt ngọc ngà, chắt chiu tinh hoa của trời đất, là thành quả từ mồ hôi, công
sức của nhân dân.
Chính giọng thơ tâm tình, sâu lắng đã khẳng định chính nhân dân đã lưu truyền nền văn mình lúa
nước, truyền lại tình yêu, niềm hi vọng.
a3. 1 câu thơ tiếp: khẳng định chính nhân dân đã trao gửi ấm áp cho làng xã:“Họ chuyền lửa
qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi”
- Đại từ “họ” đặt đầu câu kết hợp với động từ “chuyền” và các danh từ “lửa, hòn than, con
cúi”: nhấn mạnh vai trò lớn lao của nhân dân.
- “Lửa”: hình ảnh của quá khứ xa xưa khi con người tìm đến ánh sáng văn minh. Như vậy, hình
ảnh ”chuyền lửa qua mỗi nhà” vừa là hình ảnh cụ thể về tình làng nghĩa xóm vừa trao gửi sự
sống ấm áp trong không gian làng xã Việt.
Giọng thơ giàu cảm xúc đã diễn tả được sự đóng góp của cha ông đối với đất nước.
a4. 1 câu thơ tiếp: Khẳng định công sức của nhân dân trong việc tạo lập, giữ gìn truyền thống
văn hóa dân tộc ta bao đời nay: “ Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói”
- Điệp từ “họ” kết hợp với động từ “truyền” và danh từ “giọng điệu”  nhấn mạnh vai trò lớn
lao của nhân dân trong việc lưu truyền những giá trị tinh thần vô giá của dân tộc.
Với ngôn từ bình dị, tác giả đã khẳng định chính nhân dân đã chiến đấu để bảo vệ nền tảng, bản
sắc văn hóa dân tộc, tiếng nói dân tộc”
a5. 1 câu thơ tiếp: Nhân dân cũng là người đã trân trọng, giữ gìn những địa danh thân thuộc của
từng vùng miền, đất nước: “Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân”
- NT ẩn dụ được thể hiện qua động từ “gánh” khái niệm tên xã, tên làng vốn trừu tượng trở
nên cụ thể và trĩu nặng yêu thương.
- Những cái tên mang theo mỗi chuyến đi, vì thế mà trĩu nặng tình yêu và nỗi nhớ.
Ta cảm nhận được chính nhân dân đã tạo nên những truyền thống thuần phong mĩ tục cho đất
nước.
a6. 1 câu tiếp: Nhân dân còn xây dựng nền tảng vững chắc cho đời sau an cư lập nghiệp: “Họ
đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái”
- Cụm động từ “đắp đập be bờ”sự vun vén cho vững chắc hơn.
- Câu thô chia ra làm 2 vế rõ rệt. “họ đắp đập be bờ“: sự bền bỉ kiên nhẫn, sự hi sinh của đời
trước. Còn vế sau “người đời sau trồng cay hái trái”: sự hưởng thụ của đời sau.Đức hi sinh lớn
lao của người đi trước.
Nghệ thuật liệt kê các danh từ đã giúp tác giả khẳng định chính nhân dân đã tạo ra và lưu truyền
những giá trị vật chất, tinh thần cho đất nước.
c) 2 câu thơ cuối đã thể hiện rõ Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” qua lời khẳng định của tác
giả :
Nhân dân là chủ nhân của đất nước:
“ Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
- Cụm từ “Đất Nước của Nhân dân” được viết hoa: khẳng định một lần nữa đất nước này từ nhân
dân mà ra, nhờ nhân dân mà tồn tại và phát triển, nhân dân là chủ nhân của đất nước.
- Cấu trúc câu thơ độc đáo “Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”  Mở ra
cho chúng ta một hình ảnh đất nước vừa mạnh mẽ, kiên cường, đầy ý chí – đất nước của nhân
dân vừa thơ mộng, bay bổng – đất nước của thần thoại.
VIỆT BẮC
1) Tác giả tác phẩm
- Tố Hữu là một nhà thơ tiêu biểu của thơ Cách mạng VN, đồng thời cũng là một nhà chính trị
gia, một hồn thơ kiên định theo lí tưởng CM. Tác phẩm của ông mang tâm tư lắng đọng, vần thơ
nồng ấm, thể hiện ý chí đấu tranh. Được mệnh danh là người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa văn
nghệ, là nhà thơ của lẽ sống lớn, tình cảm lớn
- Việt Bắc là khu căn cứ đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp
- Tháng 7 năm 1954 hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, hòa bình lập lại ở miền Bắc. Tháng 10
năm 1954, ngay sau cuộc kháng chiến chống TDP kết thúc thắng lợi, các cơ quan trung ương của
Đảng và chính phủ từ Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội. Tố Hữu cũng là một trong số những cán bộ
kháng chiến từng sống và gắn bó nhiều năm với Việt Bắc, nay từ biệt chiến khu Việt Bắc để về
xuôi. Bài thơ được viết trong buổi chia tay lưu luyến đó.
II.Nội dung văn bản.
1.Kết cấu của bài thơ
+ Đối đáp giữa Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến từ giã Việt Bắc. Đây là cuộc chia tay
mang ý nghĩa lịch sử, cuộc chia tay giữa những người đã từng gắn bó dài lâu, đầy tình nghĩa sâu
nặng, mặn nồng, từng chia sẻ mọi đắng cay, ngọt bùi, nay trong giờ phút chia tay, cùng nhau gợi
lại bao kỉ niệm đẹp đẽ, cùng cất lên nỗi hoài niệm tha thiết về những ngày đã qua, khẳng định
nghĩa tình bền chặt và hẹn ước trong tương lai.
+ Lời đối đáp gần gũi, thân thuộc như trong ca dao, dân ca.
+ Bài thơ vì thế mà như lời tâm tình chan chứa yêu thương của những người yêu nhau.
+ Trong đối đáp Tố Hữu sử dụng đại từ mình – ta với ý nghĩa vừa là ngôi thứ nhất, vừa là ngôi
thứ hai. Tình cảm chan chứa yêu thương vì thế mà như được nhân lên. Chuyện nghĩa tình cách
mạng, kháng chiến đến với lòng người bằng con đường của tình yêu.
+ Nhìn sâu hơn vào kết cấu bài thơ thì đối thoại chỉ là lớp kết cấu bên ngoài, còn ở chiều sâu bên
trong chính là lời độc thoại của chính nhân vật trữ tình đang đắm mình trong hoài niệm về quá
khứ gian khổ mà tươi đẹp ấm áp nghĩa tình, nghĩa tình nhân dân, nghĩa tình kháng chiến và cách
mạng, khát vọng về tương lai tươi sáng. Kẻ ở- người đi; lời hỏi- lời đáp có thể xem là sự phân
thân để tâm trạng được bộc lộ đầy đủ hơn trong sự hô ứng, đồng vọng, vang ngân.
2.Phân tích văn bản.
2.1. Tám câu đầu: những phút giây đầu tiên của buổi chia tay đầy bâng khuâng, lưu luyến giữa
kẻ ở người đi.
- Bốn câu đầu: lời ướm hỏi của người ở lại.
+ Câu hỏi ngọt ngào, khéo léo “mười lăm năm” cách mạng gian khổ hào hùng, cảnh và người
VB gắn bó nghĩa tình với những người kháng chiến; đồng thời khẳng định tấm lòng thủy chung
của mình.
+ Nghĩa tình của kẻ ở- người về được biểu hiện qua các đại từ mình- ta quen thuộc trong thơ ca
dân gian gắn liền với tình yêu đôi lứa, cách xưng hô: mình- ta tạo nên sự thân mật, gần gũi. Điệp
từ nhớ, láy đi, láy lại cùng với lời nhắn nhủ “mình có nhớ ta”, “mình có nhớ không” vang lên
day dứt khôn nguôi.
+ Các từ thiết tha, mặn nồng thể hiện bao ân tình gắn bó.
- Bốn câu sau: tiếng lòng của người cán bộ về xuôi
+ Tuy không trả lời trực tiếp câu hỏi của người ở lại nhưng tâm trạng bâng khuâng, bồn chồn,
cùng với cử chỉ ‘cầm tay nhau” xúc động bồi hồi đã nói lên tình cảm : chưa xa đã nhớ, sự bịn rịn
luyến lưu của người cán bộ với cảnh và người Việt Bắc.
+ Lời hỏi của người ở lại đã khéo nhưng câu trả lời còn khéo léo hơn thế. Không phải là câu trả
lời có hay không mà là những cử chỉ. Câu thơ bỏ lửng “cầm tay…” diễn tả thái độ nghẹn ngào
không nói lên lời của người cán bộ giã từ Việt Bắc về xuôi.
+ Hình ảnh “áo chàm”- nghệ thuật hoán dụ, trang phục quen thuộc của người dân Việt Bắc. Rất
có thể đó là hình ảnh thực, nhưng cũng có thể là hình ảnh trong tưởng tượng của người cán bộ
kháng chiến để rồi mỗi lần hình ảnh áo chàm bay về trong tâm trí của người cán bộ là mỗi lần
bao nỗi nhớ thân thương lại dội về.
è khúc dạo đầu của bản tình ca về nỗi nhớ.
2.2. Mười hai câu tiếp: gợi lại những kỉ niệm chiến khu gian khổ mà nghĩa tình:
- Nhớ về thiên nhiên, cuộc sống, tình người VB:
+ Nhớ một thiên nhiên khắc nghiệt: “mưa nguồn, suối lũ, mây cùng mù”
+ Nhớ một chiến khu đầy gian khổ, nhưng sẵn lòng căm thù giặc sâu sắc: cơm chấm muối, mối
thù nặng vai.
+ Nhớ những sản vật miền rừng: trám bùi, măng mai.
+ Nhớ những mái nhà nghèo nàn nhưng ấm áp tình người, tình cách mạng.
+ Nhớ những năm đầu kháng Nhật với những địa danh lịch sử: Tân Trào Hồng Thái mái đình
cây đa.
- Nỗi nhớ ấy được thể hiện bằng những dòng thơ lục bất đâm chất dân gian, những cặp câu thơ
lục bát có sự phối hợp thanh điệu hài hòa. Sáu dòng lục tào thành một điệp khúc âm thanh: nó
đan dày thành những cấu trúc thanh bằng- trắc- bằng tạo ra nhạc điệu ngân nga trầm bổng nhẹ
nhàng, khoan thai.
- Hầu hết các câu thơ ngắt theo nhịp 4/4 làm nên những tiểu đối cân xứng, hô ứng về câu trúc,
nhạc điệu: Mưa nguồn suối lũ/những mây cùng mù; Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai…
Có những cặp tiểu đối khắc ghi những sự kiện, có những cặp tiểu đối vế đầu nói về hiện thực
gian khổ, vế còn lại khắc sâu vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Bắc gắn bó son sắt cùng với lối
sống ân nghĩa thủy chung. Người đọc như gặp lại hồn xưa dân tộc nương náu trong những trang
thơ lục bát của Tố Hữu.
- Câu thơ “Mình đi mình lại nhớ mình”: nhớ mình- tức nhớ người ở lại nhưng cũng như là nhắc
nhở chính mình hãy nhớ về quá khứ gian khổ nhưng thấm đẫm nghĩa tình.
2.3.Từ câu 25 đến câu 42: Nỗi nhớ những kỉ niệm sinh hoạt nghèo khổ mà ấm áp nghĩa tình.
Nhớ gì như nhớ người yêu
……
Chày đêm nện cối đều đều suối xa
- Nỗi nhớ được so sánh với nhớ người yêu: Nỗi nhớ mãnh liệt và da diết.
- Từ nỗi nhớ như nhớ người yêu, Việt Bắc hiện lên với những nét đẹp rất riêng: Trăng đầu núi,
nắng lưng nương cùng những tên gọi, địa danh cụ thể.
- Điệp từ “nhớ từng” lặp đi lặp lại làm cho nỗi nhớ thêm da diết. Trong kí ức của người đi còn in
dấu khoảnh khắc thời gian (trăng đấu núi, nắng chiều lưng nương), từng khoảng không gian của
cây, sông, suối (Nhớ từng rừng nứa… vơi đầy). Vẻ đẹp thiên nhiên nên thơ sẽ còn đọng mãi
trong nỗi nhớ nhung của người ra đi.
- Tuy nhiên, da diết và đậm sâu hơn cả vẫn là nỗi nhớ về con người, về ân tình Việt Bắc: bình
thường, giản dị mà ân nghĩa thủy chung:
+ Nhớ Việt Bắc là nhớ đến tấm lòng biết sẻ chia: bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
+ Nhớ đến nghĩa tình:người mẹ địu con, bẻ từng bắp ngô.
+ Nhưng cũng là nhớ đến đồng chí, đồng đội với bao gian nan vất vả: Nhớ sao … núi đèo
- Việt Bắc vì thế tuy gian khổ, vất vả nhưng trong kí ức vẫn thanh bình, đẹp đẽ: Nhớ sao tiếng
mõ … suối xa
=>Đoạn thơ đủ sức gợi ra thật rõ nét và thấm thía khung cảnh bản làng, tình người, tình quân dân
của chiến khu những năm kháng Pháp với tất cả những dáng nét, âm thanh, không khí, tâm tình.
Những câu thơ cất lên nghe sao trìu mến, nói về mẹ, về trẻ thơ, về người thương yêu dấu.
2.4. Từ câu 43 đến câu 52: bức tranh tứ bình về thiên nhiên, con người Việt Bắc.
Ta về mình có nhớ ta
.....
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
- Hai dòng thơ đầu là lời khẳng định vể nỗi nhớ thương da diết và tình cảm thủy chung của người
ra đi dành cho quê hương Việt Bắc. Nỗi nhớ đã làm sống dậy trong tâm tưởng hình ảnh thiên
nhiên, con người nơi chiến khu cách mạng.
- Thiên nhiên Việt Bắc đẹp trong sự đan cài với vẻ đẹp của con người “hoa” cùng “người”: Đoạn
thơ có bốn cặp câu lục bát: câu 6 miêu tả thiên nhiên, câu 8 miêu tả con người.
- Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên trong vẻ đẹp bốn mùa:
+ Mùa đông trên nền xanh bạt ngàn cây lá bỗng bất ngờ hiện lên sắc màu đỏ tươi của hoa chuối.
Màu đỏ ấy làm ấm cả không gian
+ Mùa xuân với sắc trắng của hoa mơ- loài hoa đặc trưng của Việt Bắc, 1 màu trắng miên man,
tinh khiết, đẹp đến nao lòng.
+ Mùa hè, với tiếng ve kêu vang ngân và sắc vàng của rừng phách.
+ Mùa thu với ánh trăng chan hòa trên mặt đất, đem lại không khí bình yên.
- Hình ảnh con người đã trở thành tâm điểm của bức tranh tứ bình, tạo nên sức sống của thiên
nhiên cảnh vật. Những con người Việt Bắc hiện về trong nỗi nhớ thật thân quen, bình dị, thầm
lặng trong những công việc của đời thường:
+ Mùa đông trở nên ấm áp với “ánh nắng dao giài thắt lưng”.
+ Bức tranh mùa xuân hòa cùng với dáng vẻ cần mẫn chút chăm của “người đan nón” + Bức
tranh màu hè hoá dịu dàng với hình ảnh cô em gái hái măng một mình
+ Mùa thu là tiếng hát nghĩa tình thủy chung của con người cất lên giữa đêm trăng.
- Đoạn thơ mang nét đẹp cổ điển mà hiện đại
+ Vẻ đẹp cổ điển: Bức tranh tứ bình hiện lên qua những nét gợi tả
+ Vẻ đẹp hiện đại: Hình ảnh con người đã trở thành tâm điểm, tạo nên vẻ đẹp, sức sống của bức
tranh.
2.5. Từ câu 53 đến câu 83: khung cảnh Việt Bắc kháng chiến, lập nhiều chiến công, vai trò của
Việt Bắc trong cách mạng và kháng chiến.
a. Từ câu 53-> 74
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
………………..Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”
Trong hoài niệm bao trùm có ba mảng thống nhất hòa nhập đó là: nỗi nhớ thiên nhiên- nỗi nhớ
con người cuộc sống ở Việt Bắc- nỗi nhớ về cuộc chiến đấu anh hùng chống TDP xâm lược.
Theo dòng hồi tưởng, người đọc được sống lại những giây phút của cuộc kháng chiến với không
gian rộng lớn, những hoạt động tấp nập, sôi động được vẽ bằng bút pháp của những tráng ca.
Cảnh Việt Bắc đánh giặc được miêu tả bằng những bức tranh rộng lớn, kì vĩ.
+ Rừng núi mênh mông hùng vĩ trở thành bạn của ta, chở che cho bộ đội ta, cùng quân và dân ta
đánh giặc.
+ Chiến khu là căn cứ vững chắc, đầy nguy hiểm với quân thù.
+ Nghệ thuật so sánh, nhân hoá: núi giăng…luỹ sắt, rừng che, rừng vây…
+ Những cái tên, những địa danh ở chiến khu Việt Bắc: phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, Cao-
Lạng…vang lên đầy mến yêu, tự hào, cũng trở thành nỗi nhớ của người cán bộ kháng chiến về
xuôi.
+ Không khí chiến đấu sôi nổi hào hùng, khí thế hừng hực trào sôi:
~ Sức mạnh của quân ta với các lực lượng bộ đội, dân công… sự hợp lực của nhiều thành phần
tạo thành khối đoàn kết vững chắc.
~ Các từ: Rầm rập, điệp diệp, trùng trùng…thể hiện khí thế dồn dập.
~ Hình ảnh người chiến sĩ được gợi lên qua chi tiết giàu chất tạo hình: “ánh sao đầu mũ bạn cùng
mũ nan”-> ánh sáng của sao dẫn đường, ánh sáng của niềm tin, của lí tưởng.
~ Thành ngữ “Chân cứng đá mềm” đã được nâng lên thành một bước cao hơn “bước chân nát đá
muôn tàn lửa bay”.
+ Chiến công tưng bừng vang dội khắp nơi: Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên, đèo De, núi Hồng…
Niềm vui chiến thắng chan hoà bốn phương: Vui từ…vui về…vui lên…
+ Đoạn thơ ngập tràn ánh sáng: ánh sao, ánh đuốc, ánh đèn pha… như ánh sáng của niềm tin
tưởng, niềm vui tràn ngập.
+ Nhịp thơ dồn dập gấp gáp, ấm hưởng hào hùng náo nức tạo thành khúc ca chiến thắng.
b.Từ câu 75- câu 83.
Đoạn thơ phác họa hình ảnh giản dị mà trang trọng của một cuộc họp Chính phủ trong hang núi
mà vẫn rực rỡ dưới ánh cờ đỏ sao vàng trong nắng trưa và kết thúc bằng sự thâu tóm hình ảnh
Việt Bắc quê hương cách mạng, đầu não của cuộc kháng chiến, nơi đặt niềm tin tưởng và hy
vọng của con người Việt Nam từ mọi miền đất nước, đặc biệt là những nơi còn “u ám quân thù”.
3. Đặc sắc nghệ thuật
Việt Bắc là một trong những đỉnh cao của thơ ca cách mạng Việt Nam. Tiếng thơ trữ tình- chính
trị của Tố Hữu đậm đà tính dân tộc.
- Những bức tranh chân thực, đậm đà bản sắc dân tộc về thiên nhiên và con người Việt Bắc được
tái hiện trong tình cảm tha thiết , gắn bó sâu sắc của tác giả.
- Tình nghĩa của người cán bộ và đồng bào Việt Bắc với cách mạng, kháng chiến, với Bác Hồ là
những tình cảm cách mạng sâu sắc của thời đại mới. Những tình cảm ấy hòa nhập và tiếp nối
mạch nguồn tình cảm yêu nước, đạo lí ân tình thủy chung vốn là truyền thống sâu bền của dân
tộc.
+ Thể thơ: thể thơ lục bát truyền thống đã được vận dụng tài tình trong một bài thơ dài, vừa tạo
âm hưởng thống nhất mà lại biến hóa đa dạng.
+ Kết cấu: lối kết cấu đối đáp trong ca dao dân ca được vận dụng một cách thích hợp, tài tình
+ Những lối nói giàu hình ảnh, các cách chuyển nghĩa truyền thống (so sánh, ẩn dụ, tượng trưng,
ước lệ)
+ Giọng thơ ngọt ngào, tâm tình, cách xưng hô mình- ta quen thuộc trong ca dao khiến bài thơ
như một bản tình ca về lòng thủy chung son sắt của người cách mạng với người dân Việt Bắc
4. Chủ đề
Việt Bắc là một câu chuyện lớn, một vấn đề tư tưởng được diễn đạt bằng một cảm nhận mang
tính chất riêng tư. Bài thơ gợi về những ân nghĩa, nhắc nhở sự thủy chung của con người đỗi với
con người và đối với quá khứ cách mạng nói chung

You might also like