Professional Documents
Culture Documents
những khát khao sôi nổi chân thành mà mãnh liệt tự nhiên của một trái tim phụ nữ trong tình yêu.
2. Tác phẩm
2.1. Vị trí, xuất xứ, hoàn cảnh ra đời
Sóng là bài thơ tình tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Quỳnh, rút từ tập Hoa dọc chiến hào (1967)
2.2. Những nét đặc sắc chính của bài thơ
- Hình tượng sóng bao trùm, nổi bật lên trong toàn bài, nó biến hoá đa dạng, xuyên suốt bài thơ
từ nhan đề cho đến phút cuối của bài thơ.
- Hình tượng này được khắc hoạ trên hai bình diện: ngữ nghĩa và ngữ âm. Sóng hiện lên từ âm
hưởng của nó: thể loại và nhịp điệu của bài thơ.
+ Thể thơ ngũ ngôn: Khá cơ động. Nó vừa giàu về vần điệu vừa đa dạng về nhịp điệu được
Xuân Quỳnh khai thác triệt để và cũng rất thành công. Nhịp điệu của bài thơ vì thế mà biến hoá đa
dạng.
+ Cách ngắt nhịp góp phần tạo ra nhịp điệu của sóng: hai câu đầu tác giả viết theo nhịp 2/3, hai
câu sau chuyển sang nhịp 3/2. Thậm chí nếu ngắt cầu kì nó có thể là 1/2/2. Cách ngắt nhịp như thế
góp phần tạo ra hình tượng sóng.
* Cách tổ chức ngôn ngữ: theo nguyên tắc tương xứng, các hình ảnh, câu chữ được tác giả tạo
ra thành những cặp đi song song với nhau. Về mặt hình thức thì nó tương xứng, còn về mặt ý nghĩa
có khi là sự tương đồng, có khi lại tương phản. Sự tương xứng này đắp đổi cho nhau tạo ra được nhịp
sóng miên man, vô hạn, vô hồi.
VD: Dữ dội tương xứng với dịu êm
Ồn ào tương xứng với lặng lẽ"
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể"
Mở đầu bài thơ là trạng thái tâm lý đặc biệt của một tâm hồn đang khao khát yêu đương tìm
đến một tình yêu rộng lớn. Tác giả tạo ra cái cốt cách của sóng, khí chất của sóng. Sóng là sự hài hoà
giữa các đối cực. Bằng cách nói đó, Xuân Quỳnh đã thể hiện được biên độ rất rộng của tâm tính, khí
chất người phụ nữ, có cả những gì dữ dội nhất, dịu êm nhất. Đó là hai đối cực được hài hoà trong
khí chất của người phụ nữ. Xuân Quỳnh đã diễn tả thật cụ thể trạng thái khác thường vừa phong phú
vừa phức tạp có khi đối lập trong một trái tim đang cồn cào, khao khát tình yêu.
Ở đây, hình tượng sóng còn gợi ra như là một con sóng mang khát vọng lớn:
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Câu thơ gợi ra hai miền không gian của sông và bể đồng thời gợi cho người đọc cách hiểu: một
khi dòng sông không hiểu nổi mình thì sóng quyết tìm ra tận bể. Nếu sự cạn hẹp của dòng sông
không hiểu được nó, không đủ để bao dung nó thì nó sẽ quyết tìm ra tận bể để đến với những gì là
bao dung, lớn lao, khoáng đạt hơn.
- Hình tượng sóng còn gợi ra như là một con sóng mang khát vọng lớn. Sóng là hình ảnh của
khát vọng:
"Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể"
=> Hoá ra mỗi một con sóng nhỏ lại mang một khát vọng, không chỉ là khát vọng sôi nổi mà
còn là khát vọng hướng về sự lớn lao, tính cách của sóng ở đây trở nên rất quyết liệt.
=> Và cũng chính từ đây bài thơ hé mở một trình tự, cấu tứ. Đó là trình tự, hành trình của sóng từ
sông ra bể với những khát vọng lớn.
3. Phân tích khổ thơ 2: KHÁT VỌNG MÃNH LIỆT
" Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ"
Sóng biểu trưng cho một khía cạnh khác, là hình ảnh của sự bất diệt. Đúng hơn là hình ảnh
tượng trưng cho những khát vọng bất diệt. Trong khổ thơ xuất hiện những cụm từ chỉ thời gian
mang tính phiếm chỉ: Ngày xưa và ngày sau. Khoảng cách của ngày xưa và ngày sau có thể đã mấy
triệu năm rồi nhưng con sóng thì muôn đời vẫn vậy. Dẫu cho vật đổi sao rời, vạn vật vần vũ đổi thay
nhưng con sóng muôn đời vẫn không hề thay đổi. Khi ta chưa có trên mảnh đất này con sóng đã tồn
tại như thế và ngay cả khi ta đã tan biến khỏi mảnh đất này thì con sóng vẫn không hề đổi thay.
Dường như có một sự tương đồng: chừng nào còn dại dương chừng ấy còn sóng vỗ. Xuân Quỳnh đã
khám phá và phát hiện ra một khía cạnh khác: chừng nào còn tuổi trẻ thì chừng ấy tuổi trẻ còn khao
khát về hạnh phúc. Khát vọng chân chính mãnh liệt tự ngàn đời nay vẫn thế cũng như con sóng tự
ngàn xưa. Câu thơ bộc lộ như một phát hiện đầy ngỡ ngàng của Xuân Quỳnh. Nỗi khát vọng về tình
yêu luôn xôn xao, rạo rực trong trái tim con người. Trong quan niệm của Xuân Quỳnh, đó là khát
vọng muôn đời của nhân loại mà mãnh liệt nhất là của tuổi trẻ.
4. Phân tích khổ thơ 3 và 4: BÍ ẨN CỦA TÌNH YÊU
- Sóng được phát hiện ở một khía cạnh khác, nó tượng trưng cho sự bí ẩn của tình yêu. Trong
MOON.V N
tâm trạng như " đứng đống lửa như ngồi đống than", lẽ tất nhiên là có nhu cầu được giãi bày, bộc
bạch chia sẻ tựa hồ như con sóng không chịu được dòng sông chật hẹp phải tìm ra tận bể, tìm đến
một không gian rộng lớn hơn. Khi tình yêu đến, như một tâm lý tự nhiên và thường tình, người ta
luôn có nhu cầu tìm hiểu và phân tích. Đứng trước biển, nhân vật trữ tình ở đây có nhu cầu muốn
được cắt nghĩa sự ra đời của sóng. Nhưng đến khi tìm nguồn gốc của gió thì người phụ nữ ấy bất lực:
"Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau".
- Những tình yêu chân chính xưa nay thường có xu hướng huyền thoại hoá tình yêu của chính
mình. Cho nên "khi nào ta yêu nhau" có thể là băn khoăn của rất nhiều cặp tình nhân.
- Lí giải, mà không lí giải được bởi tình yêu muôn đời bí ẩn, bởi tình yêu là một hiện tượng
tâm lý khác thường:
So sánh với câu thơ của Xuân Diệu:
"Tình yêu đến tình yêu đi ai biết"
hoặc: "Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu"
Nó không thể giải thích được bằng lí lẽ thông thường. Làm sao có thể giải đáp được câu hỏi về
sự khởi nguồn của tình yêu, về thời điểm bắt đầu hay lịch sử của một mối tình? Cái điều mà trước đó
Xuân Diệu từng băn khoăn "Làm sao cắt nghĩa được tình yêu", truy tìm lời giải đáp nhưng không thể
nào lý giải được bởi tình yêu muôn đời bí ẩn, nay một lần nữa được Xuân Quỳnh bộc bạch một cách
hồn nhiên như một lời thú nhận thành thực:
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
Tình yêu cũng giống như sóng biển, gió trời vậy thôi, làm sao hiểu được, làm sao có thể lí giải
được một cách rạch ròi. Ở đây, Sóng chính là biểu trưng cho cội nguồn bí ẩn của tình yêu.
MOON.V N