You are on page 1of 12

BÀI SÓNG

XUÂN QUỲNH
ĐỀ 1: Phân tích đoạn thơ sau trong bài Sóng của Xuân Quỳnh.
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
(Ngữ Văn 12 Nâng cao, Tập một, tr.122 – 123, NXB Giáo Dục – 2008)
( Trích đề thi Tốt nghiệp THPT năm 2010)
* Phần Làm văn:
Bài văn tham khảo:( chú ý: dòng chữ in đậm đứng là ý chính, in đậm nghiêng là trích từ ngữ
tiêu biểu để phân tích)
Mở Xuân Quỳnh là nhà thơ của hạnh phúc đời thường. Thơ chị là tiếng lòng của
bài một tâm hồn luôn luôn khao khát tình yêu, gắn bó hết mình với cuộc sống hằng
ngày, trân trọng, nâng niu cho hạnh phúc bình dị của đời thường. Xuân Quỳnh được
xem là một trong số những thi sĩ viết thơ tình hay nhất trong nền thợ Việt Nam từ
sau năm 1975. Tình yêu trong thơ chị vừa nồng nhiệt, táo bạo vừa thiết tha, say
đắm, dịu dàng; vừa hồn nhiên, giàu trực cảm vừa lắng sâu những trải nghiệm suy tư.
Xuân Quỳnh có rất nhiều bài thơ hay, tiêu biểu là bài thơ “Sóng”. Hai khổ thơ đầu
của bài thơ thể hiện quan niệm mới mẻ và khát vọng của người phụ nữ trong
tình yêu :
Dữ dội và dịu êm
........................
Bồi hồi trong ngực trẻ
Phân Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế của nhà thơ ở
tích : vùng biển Diêm Điền, tỉnh Thái Bình. Bài thơ in trong tập “Hoa dọc chiến
Phần hào”( 1968). Bài thơ gồm chín khổ với nội dung miêu tả về sóng biển và diễn tả tâm
khái trạng của nhân vật trữ tình “em”, người phụ nữ đang yêu. Đoạn thơ thuộc hai khổ
quát đầu của bài thơ.
Hình Hình tượng trung tâm của bài thơ là “Sóng”. Xuân Quỳnh đã nối tiếp truyền
tượng thống trong thơ ca là lấy sóng để hình dung tình yêu, đem sóng nước so sánh với
sóng sóng tình. Dù tiếp nối truyền thống văn học nhưng “sóng” của Xuân Quỳnh vẫn có
và em những nét độc đáo riêng. Cả bài thơ là những con sóng tâm tình của một người phụ
nữ được khơi dậy khi đứng trước biển cả, đối diện với những con sóng muôn trùng.
Tác giả nói với mình, nói với người về tình yêu trẻ trung nồng nhiệt gắn với khát
vọng hạnh phúc muôn thuở của con người.
Trong bài thơ còn có một hình tượng trữ tình nữa, đó là “em”. “Em” cũng là
“sóng” mà “sóng” cũng là “em”. “Sóng” là một hình tượng ẩn dụ, là sự hóa thân của
cái tôi trữ tình của nhà thơ. “Sóng” và “em” vừa hòa nhập làm một, lại vừa phân đôi
ra để soi chiếu vào nhau. Tâm hồn của người phụ nữ đang yêu soi vào sóng để thấy
rõ lòng mình, nhờ sóng biểu hiện những trạng thái của lòng mình. Với hình tượng
“sóng”, Xuân Quỳnh đã tìm đuợc một cách thể hiện xác đáng vẻ đẹp tâm hồn của
người phụ nữ trong tình yêu. Với cấu trúc song hành này tạo thành chiều sâu nhận
thức và nét độc đáo riêng cho bài thơ.
Ở khổ thơ đầu, từ việc khám phá các trạng thái khác nhau của sóng, tác
giả diễn tả các cung bậc của người phụ nữ đang yêu và thể hiện một quan niệm
mới mới về tình yêu – yêu là tự nhận thức, là vươn tới cái cao rộng, lớn lao…
Bốn Dữ dội và dịu êm
câu ...........................
đầu Sóng tìm ra tận bể
Mở đầu bài thơ là trạng thái tâm lí đặc biệt của một tâm hồn khao khát yêu
đương đang tìm đến một tình yêu rộng lớn hơn. Xuân Quỳnh đã diễn tả thật cụ thể
cái trạng thái khác thường vừa phong phú, vừa phức tạp trong một trái tim đang cồn
cào khao khát tình yêu. Tính khí của người con gái đang yêu, cũng như sóng vậy
thôi, vốn mang trong nó nhiều trạng thái đối cực:
“Dữ dội và dịu êm
ồn ào và lặng lẽ”...
Hai câu thơ nắn gọn và giản dị nhưng đã nêu ra được bốn đặc tính vốn có của
sóng biện : dữ dội hoà quyện với dịu êm, ồn ào đan xen với lặng lẽ. Những đặc tính
này của sóng cũng là những khía cạnh tình cảm thường thấy trong tâm hồn của
những người phụ nữ khi yêu, nhất là khi yêu chân thành, tha thiết. Bởi tình yêu tha
thiết, chân thành không chịu chấp nhận sự tầm thường, nhỏ hẹp, đơn điệu, một chiều
mà nó phải là sự hoà hợp, sự đan xen của nhiều yếu tố, thậm chí là những yếu tố đối
cực nhau: vừa mâu thuẫn, vừa thống nhất, vừa xung đột, vừa hài hoà để luôn tạo nên
những sự hấp dẫn, mới mẻ. Nói về đặc tính này của sóng cũng là để chỉ ra sự tương
hợp với trạng thái tâm hồn của những người đang yêu: vẻ ngoài thì bình lặng chứa
đựng bên trong những sức mạnh tiềm tàng, những khát khao mãnh liệt; vẻ ngoài sục
sôi, dữ dội, che phủ bên trong một trái tim nhân hậu, đằm thắm, yêu mến và chở
che. Và một điều đương nhiên nữa là những thuộc tính vốn có ấy của sóng cũng
thường không chấp nhận, không thoả mãn với một không gian chật hẹp, xuôi chiều
của những dòng sông mà chúng phải tìm đến những không gian lớn hơn, khoáng đạt
hơn để mặc sức vẫy vùng, để triền miên dào dạt, để tìm thấy chính mình. Nơi ấy
không đâu khác mà chính là biển cả mênh mông. Vì thế, hai câu tiếp theo của Xuân
Quỳnh đã mượn hình tượng sóng để nói lên nỗi khát khao được giao cảm, được giải
bày và chia sẻ của một người con gái khi yêu :
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Hai câu thơ là một khát vọng tìm tòi đến tột độ, khát khao được nhận thức về
mình. Sóng đã dũng cảm từ bỏ dòng sông với những giới hạn chật hẹp, những thoả
mãn tầm thường để đến với biển cả bao la, soi mình vào trăm ngàn con sông khác.
Chỉ có ra đến bể, con sóng mới thật sự tìm thấy mình, mới nhận thức được sức
mạnh và khao khát của mình. Điều này cũng giống như tình yêu của con người, luôn
khai khát vươn tới sự lớn lao đích thực. Có thể thấy, ngay trong khổ thơ đầu tiên này
một nét mới mẻ trong quan niệm về tình yêu. Người con gái khát khao yêu đương
nhưng không còn nhẫn nhục, cam chịu nữa. Nếu “Sông không hiểu nổi mình” thì
sóng dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp đó để “tìm ra tận bể”, để đến với cái cao rộng,
bao dung. Thật minh bạch và cũng thật quyết liệt!
Bốn Ở khổ thơ thứ hai, mượn quy luật muôn đời của sóng, tác giả khẳng
câu định khát vọng của tình yêu thường trực trong trái tim tuổi trẻ:
sau Ôi con sóng ngày xưa
.................................
Bồi hồi trong ngực trẻ
Nỗi khát vọng tình yêu xôn xao, rạo rực trong trái tim, trong quan niệm của
Xuân Quỳnh. Đó cũng là khát vọng muôn đời của nhân loại mà mãnh liệt nhất là
của tuổi trẻ. Cũng như sóng nó mãi mãi trường tồn, vĩnh hằng với thời gian. Từ
ngàn xưa, con người đã đến với tình yêu và mãi mãi cứ đến với tình yêu:“Ôi con
sóng ngày xưa/Và ngày sau vẫn thế”. Hai câu thơ vừa thể hiện sự ngạc nhiên vừa
mang ý nghĩa khẳng định một điều có tính quy luật về sự tồn tại bất diệt của khát
vọng tình yêu trong trái tim người con gái. Điều khẳng định có tính quy luật ấy
được gợi ra từ hai chữ vẫn thế, nghĩa là không có gì khác, không có gì thay đổi; và
hai chữ chỉ thời gian có ý nghĩa không xác định, không hạn định là ngày xưa, ngày
sau. Sự tồn tại bất diệt của sóng biển ở đây là một quy luật của thiên nhiên và đó
cũng chính là quy luật của tình yêu muôn thuở. Quy luật ấy được thể hiện mạnh mẽ
nhất, mãnh liệt nhất ở tuổi trẻ. Tình yêu đến với tuổi trẻ như một lẽ tự nhiên, thường
tình, bởi thế nhà thơ khẳng định :
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
Trong hai câu thơ này, Xuân Quỳnh đã lựa chọn từ ngữ thật chính xác để
chuyển tải trọn vẹn nỗi lòng của mình. Ở đây, thi sĩ nói đến khát vọng tình yêu chứ
không nói đến ước vọng tình yêu . Nếu là ước vọng thì chỉ mới là ước và mong, còn
khát vọng thì đã là sự đam mê cháy bỏng, mãnh liệt, không có giới hận cuối cùng.
Đấy cũng là một nét đặc trưng nhất của tình yêu : tình yêu thật sự bao giờ cũng thật
mãnh liệt, nồng nàn. Nỗi khát vọng tình yêu xôn xao, rạo rực trong trái tim, trong
quan niệm của Xuân Quỳnh, là khát vọng muôn đời của nhân loại mà mãnh liệt nhất
là tuổi trẻ. Cũng như sóng, nó mãi mãi trường tồn, vĩnh hằng với thời gian. Từ ngàn
xưa, con người đã đến với tình yêu và mãi mãi cứ đến với tình yêu.
Nhận Về nghệ thuật, đoạn thơ dùng thể thơ 5 chữ, âm điệu sâu lắng, dạt dào; biện
xét pháp tu từ nhân hóa, ẩn dụ đối lập,…Thể thơ đó được nhà thơ sử dụng rất thích hợp
nghệ với việc diễn tả nhịp điệu của sóng. Cùng với hình tượng sóng, đoạn thơ này còn có
thuật một hình tượng nữa là em – cái tôi trữ tình của nhà thơ. Sóng là hình ảnh ẩn dụ của
tâm trạng người con gái đang yêu, là sự hoá thân, phân thân của cái tôi trữ tình. Hai
“nhân vật” trữ tình sóng và em tuy hai mà một, đan cài, quấn quít với nhau như hình
với bóng, song song tồn tại, soi sáng, bổ sung cho nhau nhằm diễn tà một cách
mãnh liệt hơn, sâu sắc và thiết tha hơn khát vọng tình yêu đang cuồn cuộn trào dâng
trong trái tim nữ thi sĩ.
Kết Tóm lại, ở hai khổ thơ đầu, tác giả diễn tả các cung bậc của người phụ nữ
bài đang yêu và thể hiện một quan niệm mới mới về tình yêu : yêu chính là tự nhận
thức, là vươn tới cái cao hơn, rộng hơn, lớn hơn. Qua đó, nhà thơ ca ngợi vẻ đẹp
tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu, vừa mang nét truyền thống, vừa có tính
hiện đại, độc đáo.

Đề 2: Phân tích đoạn thơ sau trong bài Sóng của Xuân Quỳnh :

Trước muôn trùng sóng bể


Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?

- Sóng bắt đầu từ gió


Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau

* Phần Làm văn:


A. Lập dàn ý :
I/ Mở bài : Giới thiệu Xuân Quỳnh dẫn vào bài thơ “Sóng”. Nêu vấn đề : Bài thơ có giá
trị sâu sắc về nội dung và nghệ thuật, tiêu biểu là đoạn thơ sau : ( chép đoạn thơ vào)
II/ Thân bài :
1/ Khái quát về bài thơ, đoạn thơ :
-Nêu hoàn cảnh sáng tác, kết , vị trí, nội dung, bố cục vị trí đoạn thơ ở đề bài.
2/ Phân tích nội dung, nghệ thuật đoạn thơ :
a/ Bốn câu thơ đầu : Sóng- đối tượng để suy tư ( trích thơ)
- Ba câu đầu nêu hoàn cảnh ( trước muôn trùng sóng bể) và tâm trạng ( nghĩ về anh – em;
nghĩ về biển lớn )
- Câu thứ tư : Hỏi về nguồn gốc của sóng ( từ nơi nào sóng lên ?)
b/ Bốn câu thơ cuối : cô gái thắc mắc về nguồn gốc của tình yêu( trích thơ)
- Lí giải về nguồn gốc của sóng, không trả lời được, sóng là qui luật của tự nhiên đầy bí
ẩn.
- Liên tưởng, lí giải về sự khởi đầu của tình yêu, không lí giải được, tình yêu cũng đầy bí
ẩn như sóng.
- Thể hiện quan niệm : tình yêu là qui luật của tâm hồn, không thể ép buộc, bán mua,
không thể chiếm đoạt...Là bài học nhân sinh thiết thực cho tuổi trẻ.
c/ Nghệ thuật : thể thơ 5 chữ, âm điệu sâu lắng, dạt dào ; biện pháp tu từ nhân hóa, ẩn dụ
đối lập,…
III/ Kết bài : Kết luận về nội dung, nghệ thuật đoạn thơ, liên hệ hoàn cảnh sáng tác nêu ý
nghĩa đoạn thơ.
B/ Bài văn tham khảo :( chú ý: dòng chữ in đậm đứng là ý chính, in đậm nghiêng là trích từ
ngữ tiêu biểu để phân tích)
Mở Xuân Quỳnh là nhà thơ của hạnh phúc đời thường. Thơ chị là tiếng lòng của
bài một tâm hồn luôn luôn khao khát tình yêu, gắn bó hết mình với cuộc sống hằng
ngày, trân trọng, nâng niu cho hạnh phúc bình dị của đời thường. Xuân Quỳnh được
xem là một trong số những thi sĩ viết thơ tình hay nhất trong nền thơ Việt Nam từ
sau năm 1975. Tình yêu trong thơ chị vừa nồng nhiệt, táo bạo vừa thiết tha, say
đắm, dịu dàng; vừa hồn nhiên, giàu trực cảm vừa lắng sâu những trải nghiệm suy tư.
Xuân Quỳnh có rất nhiều bài thơ hay, tiêu biểu là bài thơ “Sóng”. Hai khổ thơ sau
của bài thơ thể hiện niềm suy tư, trăn trở của người phụ nữ trong tình yêu :
Trước muôn trùng sóng bể
..............................................
Khi nào ta yêu nhau

Phân Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế của nhà thơ ở
tích : vùng biển Diêm Điền, tỉnh Thái Bình. Bài thơ in trong tập “Hoa dọc chiến
Phần hào”( 1968). Bài thơ gồm chín khổ với nội dung miêu tả về sóng biển và diễn tả tâm
khái trạng của nhân vật trữ tình “em”, người phụ nữ đang yêu. Đoạn thơ thuộc hai khổ ba
quát và bốn của bài thơ.
Hình Hình tượng trung tâm của bài thơ là “Sóng”. Xuân Quỳnh đã nối tiếp truyền
tượng thống trong thơ ca là lấy sóng để hình dung tình yêu, đem sóng nước so sánh với
sóng sóng tình. Dù tiếp nối truyền thống văn học nhưng “sóng” của Xuân Quỳnh vẫn có
và em những nét độc đáo riêng. Cả bài thơ là những con sóng tâm tình của một người phụ
nữ được khơi dậy khi đứng trước biển cả, đối diện với những con sóng muôn trùng.
Tác giả nói với mình, nói với người về tình yêu trẻ trung nồng nhiệt gắn với khát
vọng hạnh phúc muôn thuở của con người.
Trong bài thơ còn có một hình tượng trữ tình nữa, đó là “em”. “Em” cũng là
“sóng” mà “sóng” cũng là “em”. “Sóng” là một hình tượng ẩn dụ, là sự hóa thân của
cái tôi trữ tình của nhà thơ. “Sóng” và “em” vừa hòa nhập làm một, lại vừa phân đôi
ra để soi chiếu vào nhau. Tâm hồn của người phụ nữ đang yêu soi vào sóng để thấy
rõ lòng mình, nhờ sóng biểu hiện những trạng thái của lòng mình. Với hình tượng
“sóng”, Xuân Quỳnh đã tìm đuợc một cách thể hiện xác đáng vẻ đẹp tâm hồn của
người phụ nữ trong tình yêu. Với cấu trúc song hành này tạo thành chiều sâu nhận
thức và nét độc đáo riêng cho bài thơ.
Bốn Hình tượng sóng trong những vần thơ ngọt ngào tha thiết đầy gợi cảm mang
câu tính nhân văn sâu sắc. Trước muôn trùng sóng bể của đại dương mênh mông, lớp
đầu lớp sóng liên hồi, vô tận , thiếu nữ bồi hồi nghĩ về quy luật của sự sống, về sự
trường tồn của đại dương, về nguyên nhân kì diệu nào mà có sóng lên .Rồi thiếu nữ
bâng khuâng về mối nhân duyên của mình, về tình yêu của em và anh:
Trước muôn trùng sóng bể
..........................................
Từ nơi nào sóng lên?
Xuân Quỳnh luôn khao khát một hạnh phúc đời thường nên tình yêu của
chị cũng gắn với cuộc đời hiện tại. Từ cái của muôn đời, của con người đến cái tình
yêu riêng của anh và em nhờ thế mà ý thơ trở nên sâu sắc, lời thơ trở nên tha thiết,
bồi hồi. Điệp từ em nghĩ được nhắc đi nhắc lại càng làm rõ hơn sự suy nghĩ trong
lòng nhà thơ. Nhà thơ đã thao thức, lo lắng, đã đặt ra biết bao nhiêu câu hỏi...khi
bước chân vào tình yêu; nghĩ về cuộc đời đầy thử thách. Đặt những lo lắng, suy nghĩ
của mình bên cạnh muôn trùng sóng bể, nhà thơ đã thể hiện được tình yêu mãnh
liệt và chân thành của mình. Yêu càng nhiều thì những suy nghĩ về tình yêu càng
thêm lớn lao.
Bốn Tình yêu là tiếng nói của con tim nên cũng khó xác định một cách cụ thể những
câu tiêu chuẩn của sự yêu thích. Tưởng như sóng và em lúc này đang hoá thành một,
sau khao khát kiếm tìm quy luật của tình yêu nhưng rồi lại thắc mắc:
Sóng bắt đầu từ gió
.................................
Khi nào ta yêu nhau.
Khi nào ta yêu nhau, em không biết, không ai biết, chỉ có con sóng kia ngày
ngày xô bờ cát trắng. Cũng giống như em ngày đêm khao khát được hưởng hạnh
phúc của tình yêu mà cũng không cần biết : tình yêu kia bắt đầu từ đâu ? Câu hỏi
tưởng chừng như vô lí, song nếu đặt em và sóng là hai hình tượng song song như
sóng và em của cái cung bậc tình cảm ở khổ thơ đầu thì câu hỏi trở nên vô cùng ý
nghĩa. Thật vậy, sóng không cần biết gió bắt đầu từ đâu, cũng như em không biết ta
yêu nhau khi nào, em chỉ biết rằng tình yêu đến khi mọi cung bậc trạng thái cảm xúc
xuất hiện cùng em.Từ việc lí giải nguyên nhân của hiện tượng sóng, nhà thơ lí giải
về sự khởi đầu của tình yêu . Và cũng như sóng, không thể lí giải được tình yêu bắt
đầu từ khi nào : Em cũng không biết nữa/Khi nào ta yêu nhau. Nếu như sóng là
một quy luật của tự nhiên thì tình yêu là quy luật của tâm hồn. Không thể ép buộc,
không thể bán mua, không thể chiếm đoạt, tình yêu đích thức chỉ có thể có được khi
có những rung động tình cảm từ trong lòng người và nhịp đập của trái tim. Đây là
một bài học nhân sinh thiết thực cho tuổi trẻ, những người đang đứng trước ngưỡng
cửa của tình yêu.
Nhận Về nghệ thuật, đoạn thơ dùng thể thơ 5 chữ, âm điệu sâu lắng, dạt dào ;
xét biện pháp tu từ nhân hóa, ẩn dụ đối lập,…Thể thơ đó được nhà thơ sử dụng rất thích
hợp với việc diễn tả nhịp điệu của sóng. Cùng với hình tượng sóng, đoạn thơ này
còn có một hình tượng nữa là em – cái tôi trữ tình của nhà thơ. Sóng là hình ảnh ẩn
dụ của tâm trạng người con gái đang yêu, là sự hoá thân, phân thân của cái tôi trữ
tình. Hai “nhân vật” trữ tình sóng và em tuy hai mà một, đan cài, quấn quít với nhau
như hình với bóng, song song tồn tại, soi sáng, bổ sung cho nhau nhằm diễn tà một
cách mãnh liệt hơn, sâu sắc và thiết tha hơn khát vọng tình yêu đang cuồn cuộn trào
dâng trong trái tim nữ thi sĩ.
Kết Tóm lại, ở hai khổ thơ này, tác giả khẳng định sự tương đồng giữa sóng
bài và em- một cô gái trẻ đang yêu, cũng là khẳng định một quy luật của muôn đời :
nguồn gốc của sóng cũng như nguồn gốc của tình yêu đều lạ lùng, bí ẩn và đều kì
diệu như tự nhiên. Qua đó, nhà thơ thể hiện khát vọng nồng nàn tha thiết, sâu lắng
thủy chung, một tình yêu vừa mang tính dân tộc vừa mang tính nhân văn sâu sắc.
Tác giả nói với người, nói với mình về tình yêu trẻ trung nồng nhiệt gắn với khát
vọng muôn thuở của con người.

Đề 3: Cảm nhận của anh/ chị về đoạn thơ sau trong bài Sóng của Xuân Quỳnh:
Con sóng dưới lòng sâu,
Con sóng trên mặt nước,
Ôi con sóng nhớ bờ,
Ngày đêm không ngủ được,
Lòng em nhớ đến anh,
Cả trong mơ còn thức.

Dẫu xuôi về phương bắc,


Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ,
Hướng về anh - một phương.
( Trích đề thi Tốt nghiệp THPT năm 2008)
* Phần Làm văn:
A/Đáp án của Bộ GD&ĐT :
a. Yêu cầu về kĩ năng:
Biết cách làm bài nghị luận văn học, vận dụng khả năng đọc hiểu để phát biểu cảm nhận về
đoạn thơ trữ tình. Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát; không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
b. Yêu cầu về kiến thức:
Trên cơ sở những hiểu biết về bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh, thí sinh phát hiện những đặc sắc
nghệ thuật (ẩn dụ, tiết tấu, nhịp điệu...) để cảm nhận ý nghĩa đoạn thơ; trình bày được những cảm
xúc, ấn tượng riêng của mình với các ý chính sau:
- Nỗi nhớ thiết tha, sâu lắng.
- Lòng thuỷ chung, son sắt.
- Khái quát: Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu.
B. Bài văn tham khảo :( chú ý: dòng chữ in đậm đứng là ý chính, in đậm nghiêng là trích từ
ngữ tiêu biểu để phân tích)
Mở Xuân Quỳnh là nhà thơ của hạnh phúc đời thường. Thơ chị là tiếng lòng của
bài một tâm hồn luôn luôn khao khát tình yêu, gắn bó hết mình với cuộc sống hằng
ngày, trân trọng, nâng niu cho hạnh phúc bình dị của đời thường. Xuân Quỳnh được
xem là một trong số những thi sĩ viết thơ tình hay nhất trong nền thợ Việt Nam từ
sau năm 1975. Tình yêu trong thơ chị vừa nồng nhiệt, táo bạo vừa thiết tha, say
đắm, dịu dàng; vừa hồn nhiên, giàu trực cảm vừa lắng sâu những trải nghiệm suy tư.
Xuân Quỳnh có rất nhiều bài thơ hay, tiêu biểu là bài thơ “Sóng”. Hai khổ thơ sau
của bài thơ thể hiện nỗi nhớ và lòng chung thuỷ của người phụ nữ trong tình
yêu :
Con sóng dưới lòng sâu,
.......................................
Hướng về anh - một phương.
Phân Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế của nhà
tích : thơ ở vùng biển Diêm Điền, tỉnh Thái Bình. Bài thơ in trong tập “Hoa dọc chiến
Phần hào”( 1968). Bài thơ gồm chín khổ với nội dung miêu tả về sóng biển và diễn tả tâm
khái trạng của nhân vật trữ tình “em”, người phụ nữ đang yêu. Đoạn thơ thuộc khổ thơ
quát thứ năm và sáu của bài thơ.

Hình Hình tượng trung tâm của bài thơ là “Sóng”. Xuân Quỳnh đã nối tiếp truyền
tượng thống trong thơ ca là lấy sóng để hình dung tình yêu, đem sóng nước so sánh với
sóng sóng tình. Dù tiếp nối truyền thống văn học nhưng “sóng” của Xuân Quỳnh vẫn có
và em những nét độc đáo riêng. Cả bài thơ là những con sóng tâm tình của một người phụ
nữ được khơi dậy khi đứng trước biển cả, đối diện với những con sóng muôn trùng.
Tác giả nói với mình, nói với người về tình yêu trẻ trung nồng nhiệt gắn với khát
vọng hạnh phúc muôn thuở của con người.
Trong bài thơ còn có một hình tượng trữ tình nữa, đó là “em”. “Em” cũng là
“sóng” mà “sóng” cũng là “em”. “Sóng” là một hình tượng ẩn dụ, là sự hóa thân của
cái tôi trữ tình của nhà thơ. “Sóng” và “em” vừa hòa nhập làm một, lại vừa phân đôi
ra để soi chiếu vào nhau. Tâm hồn của người phụ nữ đang yêu soi vào sóng để thấy
rõ lòng mình, nhờ sóng biểu hiện những trạng thái của lòng mình.
Phân Sau khi nêu lên đặc điểm của những con “sóng” cũng là đặc điểm của tình
tích 6 yêu, sang khổ năm, cũng từ hình tượng sóng, Xuân Quỳnh nhận thức thêm một
câu đặc trưng nữa của tình yêu là nỗi nhớ. Tình yêu luôn đi liền với nỗi nhớ.
thơ “Con sóng dưới lòng sâu
đầu …………………………….
Cả trong mơ còn thức”.
Đây là khổ thơ có số lượng câu thơ nhiều nhất trong bài, 6 câu thơ đứng giữa
bài thơ, như một đợt sóng lòng cồn lên cao nhất từ tâm điểm của bào thơ. Bốn câu
đầu cái tôi trữ tình nhập vào sóng để giãi bày tâm sự. Hai câu sau cái tôi trữ tình
tách ra để bày tỏ lòng mình, nhập vào rồi tách ra như vậy tuy hai mà vẫn là một
trong một dòng cảm xúc tuôn chảy.
Ở hai dòng thơ đầu, tác giả chợt khám phá ra một điều giản dị nhưng
lại vô cùng sâu sắc: đại dương không bao giờ được yên bình, êm ả bởi nó luôn
mang trong mình hai con sóng :
Con sóng dưới lòng sâu,
Con sóng trên mặt nước,
Đặt hai câu này trong mối quan hệ với những câu thơ trước đó của tác phẩm
sẽ thấy những con sóng mà tác giả nói đến ở đoạn thơ này là con sóng ở bể lớn tình
yêu, là con sóng tình yêu đã vượt ra khỏi giới hạn chật hẹp để đến với một không
gian rộng lớn hơn, và thực sự là chính mình. Con sóng tình yêu càng có thêm những
trăn trở để lí giải, cắt nghĩa về tình yêu của em. Biển có những Con sóng dưới lòng
sâu và trên mặt nước, có khi con sóng trên mặt nước lặng lẽ nhưng con sóng dưới
lòng sâu lại rất ồn ào. Những gì lạ lùng và khó hiểu ấy của sóng cũng chính là
những gì khó hiểu của em. Khi nhắc đến hai con sóng để biếu thị cho tình yêu thì lời
thơ lại mở ra liên tưởng khác: em khi yêu đã sánh tình yêu của mình với biển, bởi
người phụ nữ khi yêu có cả một đại dương tình cảm, biển cũng như em đã không
thể nào yên vì có anh. Chính những con sóng này là nhịp đập, là trái tim, là yếu tố
làm nên sức sống của biển cả, bởi sóng chẳng bao giờ yên nghĩ, chẳng bao giờ
ngừng vỗ. Về điều này, Xuân Quỳnh đã có cách lí giải thật bất ngờ, thú vị:
Ôi con sóng nhớ bờ,
Ngày đêm không ngủ được,
Như thế, con sóng ngày đêm không ngủ được cứ dào dạt triền miên, cứ cồn
cào da diết bao trùm lên không gian, thời gian là tại bởi nỗi nhớ, tại bởi sóng nhớ
bờ . Thực ra, mọi con sóng đều có bến bờ của nó và dù còn xa bờ bao nhiêu nữa thì
sóng vẫn hướng tới bờ với một niềm khao khát thương nhớ không nguôi. Sóng nhớ
bờ là một quy luật vĩnh cửu- quy luật của muôn đời, của tự nhiên và ở đây nỗi nhớ
ấy của sóng đã được xem là một trong những cung bậc, một trong những giai điệu
của tình yêu. Nhưng nói như thế dường như vẫn chưa đủ, chưa thoả, chưa diễn tả
hết sự mãnh liệt, trào dâng của nỗi nhớ, nên người con gái đang yêu có lẽ cũng
không cần phải giấu giếm những tình cảm chân thành của lòng mình cho nên một
lần nữa nỗi nhớ lại được thể hiện ra một cách trực tiếp ở hai câu thơ :
Lòng em nhớ đến anh,
Cả trong mơ còn thức.
Xuân Quỳnh đã thể hiện nỗi nhớ như đã thường trực trong mọi không gian
và thời gian, đã lan toả đầy cõi lòng, không chỉ ngự trị trong ý thức mà còn ăn sâu
vào cả tiềm thức, đi cả vào giấc mơ- cái thức trong mơ mới là sự thật của nỗi lòng.
Em thức để chăm chút, nâng niu từng khoảnh khắc hạnh phúc, dường như em chỉ sợ
một giây phút chợp mắt là tất cả sẽ tan biến vào hư vô. Rõ ràng Xuân Quỳnh đã nối
dài tình yêu bằng giấc mơ, bằng cách xoá nhoà khoảng cách giữa mộng và thực.
Cách nói như vậy rất đúng với bản chất của tình yêu. Không phải sự táo bạo nào
cũng chứng tỏ một tình yêu chân chính, nhưng tình yêu chân chính không thể thiếu
mê say, cuồng nhiệt.
Bốn Tình yêu sôi nổi nồng nhiệt của trái tim người phụ nữ cũng lại là một tình yêu
câu chân thành, trong sáng, một tình yêu hết mình và đòi hỏi sự duy nhất tuyệt đối, sự
thơ gắn bó thủy chung:
sau “Dẫu xuôi về phương bắc
...........................................
Hướng về anh - một phương”
Hình như thể hiện tình yêu bằng nỗi nhớ vẫn chưa yên tâm, mà phải diễn đạt
sao đây cho đủ, cho đến tận cùng, vì thế khổ thơ này xuất hiện. Những cặp từ trái
nghĩa “Dẫu xuôi”, “dẫu ngược”, “phương Bắc”, “phương Nam” là những từ cụ
thể nói lên độ dài và những cách trở trong tình yêu. Dân gian hay nói: “ xuôi nam
ngược bắc”, Xuân Quỳnh đã diễn đạt ngược lại để khẳng định: dù cuộc đời, trời đất
có thay đổi, có quay cuồng, đảo lộn, thay phương đổi hướng thì tình yêu của em
cũng chỉ dành cho một người là anh mà thôi. Hướng về anh thì có thể thay đổi
nhưng với lời khẳng định chắc nịch “một phương” thì nơi em hướng về là bất di bất
dịch. Đến đây trong lời thơ không còn em và sóng, chỉ còn em và anh – với tình
yêu:
“Chỉ còn em và anh
Cùng tình yêu ở lại”
(Thơ tình cuối mùa thu)
Câu thơ giống như một lời thề. Thề rằng dù em phải ngược xuôi vất vả gian
truân, lên thác xuống ghềnh cũng chỉ có anh là người duy nhất. Câu thơ giản dị mà
sâu sắc hơn tất cả mọi lời vàng đá. Không gian thì có bốn phương tám hướng,
nhưng tình yêu chỉ chấp nhận một phương. Có lẽ đây cũng là quan niệm về tình yêu
của nữ sĩ Xuân Quỳnh: tình yêu phải gắn với lòng chung thủy. Tình yêu không
đơn thuần là tình yêu mà tình yêu đi liền với cái tốt, cái đẹp, cái cao cả là nỗi nhớ
mãnh liệt, lòng thủy chung tuyệt đối. Khổ thơ toát lên vẻ đẹp của tình yêu đầy nữ
tính kín đáo, dịu dàng, táo bạo, mãnh liệt bởi nhiều khát khao và đam mê nhưng vẫn
giữ được nét đẹp truyền thống của người phụ nữ phương Đông và người phụ nữ
Việt Nam yêu tha thiết, chân thành và luôn hướng tới hôn nhân. Những câu thơ như
được vắt ra từ chính cuộc đời Xuân Quỳnh đầy đau thương, mất mát, hụt hẫng về
tình cảm. Cảm thông cho cuộc đời Xuân Quỳnh, ta càng hiểu thêm tình cảm của nữ
sĩ.
Nhận Khổ thơ 5 và 6 là hình tượng sóng và em sóng đôi, hòa làm một, soi
xét chiếu vào nhau cộng hưởng. Sóng chính là nỗi lòng của em và em là hiện thân của
sóng. Sóng và em đồng hiện tạo nên chiều sâu nhận thức độc đáo. Xuân Quỳnh viết
bài thơ này vào những năm 1967, khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam ở
vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận “Xẻ dọc Trường Sơn đi
cứu nước”, khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân trường diễn ra những cuộc chia ly màu
đỏ. Cho nên có đặt bài thơ vào trong hoàn cảnh ấy ta mới càng thấy rõ nỗi khát khao
của người con gái trong tình yêu: “Ôi con sóng nhớ bờ/ Ngày đêm không ngủ
được”. Ta càng ngưỡng mộ hơn những con người phụ nữ Việt Nam, những con
người luôn thuỷ chung, luôn sống hết mình vì một tình yêu. Xuân Quỳnh xứng đáng
là một nhà thơ nữ của tình yêu lứa đôi, bà đã làm phong phú hơn cho nền thơ nước
nhà.
Kết Tóm lại, ở hai khổ thơ này, tác giả thể hiện trái tim người phụ nữ đang yêu
bài đã cồn cào, da diết một nỗi nhớ miên man, thường trực, cả khi thức, khi ngủ, bao
trùm cả không gian, thời gian. Nỗi nhớ cuồn cuộn, dào dạt như những đợt sóng biển
triền miên, vô hồi, vô hạn mà cũng sâu lắng biết bao. Ta bắt gặp ở đây một cô gái
dạn dĩ mà rất chân thành bày tỏ nỗi nhớ mạnh liệt của mình khi yêu..

ĐỀ 3 : Cảm nhận của anh/ chị về đoạn thơ sau trong bài Sóng của Xuân Quỳnh:
Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở

Cuộc đời tuy dài thế


Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa

Làm sao được tan ra


Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.
( Trích đề thi Tốt nghiệp THPT năm 2008- lần 2)
* Phần Làm văn:

A/Đáp án của Bộ GD&ĐT :


a) Yêu cầu về kĩ năng:
Biết cách làm bài nghị luận văn học, vận dụng khả năng đọc hiểu để phát biểu cảm nhận
về đoạn thơ trữ tình. Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát; không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ
pháp.
b) Yêu cầu về kiến thức:
Trên cơ sở những hiểu biết về Xuân Quỳnh và bài thơ Sóng, thí sinh thấy được những đặc
sắc nghệ thuật (so sánh, hình ảnh, âm điệu…) để cảm nhận nội dung đoạn thơ; có thể trình bày
theo nhiều cách khác nhau song cần nêu được những cảm xúc, ấn tượng riêng với các ý chính
sau:
- Cảm nhận của nhân vật trữ tình về sự hữu hạn của đời người.
- Khát khao chân thành, mãnh liệt về một tình yêu thuỷ chung, vĩnh hằng.
- Lời thơ giản dị, hình ảnh sáng tạo, cảm xúc gắn với triết lí; thể hiện vẻ đẹp tâm hồn người
phụ nữ trong tình yêu; sự hài hoà của nghệ thuật và nội dung tạo nên cái hay của đoạn thơ, bài
thơ.

B. Bài văn tham khảo :( chú ý: dòng chữ in đậm đứng là ý chính, in đậm nghiêng là trích từ
ngữ tiêu biểu để phân tích)
Mở Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ nữ nổi tiếng, xuất hiện trong thời kỳ chống
bài Mỹ cứu nước, cũng là gương mặt đáng chú ý của nền thơ Việt Nam hiện đại. Bản sắc thơ Xuân
Quỳnh tươi tắn, hồn hậu và nồng nhiệt. Nó là tiếng lòng của một tâm hồn gắn bó thiết tha với
cuộc đời, con người, khao khát tình yêu và hạnh phúc bình dị đời thường. Vì thế, thơ tình yêu là
một mảng đặc sắc của Xuân Quỳnh. Sinh thời Xuân Quỳnh đã có một số bài thơ tình xuất sắc
như: Thơ tình cuối mùa thu, Tự hát, Thuyền và biển... Trong đó, bài thơ “Sóng” được xem là nổi
bật hơn cả. Bài thơ này là tiếng thơ bày tỏ trực tiếp những khát khao sôi nổi, mãnh liệt mà chân
thành, tự nhiên của một trái tim phụ nữ trong tình yêu. Ba khổ thơ sau của bài thơ thể hiện
quan niệm về một tình yêu thuỷ chung, vĩnh hằng của người phụ nữ trong tình yêu :
dẫn lại ba khổ thơ
Thân Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền
bài : (Thái Bình), lúc đó XQ mới 25 tuổi trẻ trung, yêu đời. Đây là một bài thơ đặc sắc viết rất hay về
phần tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh. Bài thơ in trong tập thơ “ Hoa dọc chiến
khái hào”. Đoạn thơ thuộc ba khổ cuối của bài thơ.
quát
Hình Hình tượng trung tâm của bài thơ là “Sóng”. Xuân Quỳnh đã nối tiếp truyền thống trong
tượng thơ ca là lấy sóng để hình dung tình yêu, đem sóng nước so sánh với sóng tình. Dù tiếp nối
sóng truyền thống văn học nhưng “sóng” của Xuân Quỳnh vẫn có những nét độc đáo riêng. Cả bài thơ
và em là những con sóng tâm tình của một người phụ nữ được khơi dậy khi đứng trước biển cả, đối
diện với những con sóng muôn trùng. Tác giả nói với mình, nói với người về tình yêu trẻ trung
nồng nhiệt gắn với khát vọng hạnh phúc muôn thuở của con người.
Trong bài thơ còn có một hình tượng trữ tình nữa, đó là “ em”. “Em” cũng là “sóng” mà
“sóng” cũng là “em”. “Sóng” là một hình tượng ẩn dụ, là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của nhà
thơ. “Sóng” và “em” vừa hòa nhập làm một, lại vừa phân đôi ra để soi chiếu vào nhau. Tâm hồn
của người phụ nữ đang yêu soi vào sóng để thấy rõ lòng mình, nhờ sóng biểu hiện những trạng
thái của lòng mình. Với hình tượng “sóng”, Xuân Quỳnh đã tìm đuợc một cách thể hiện xác
đáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu. Với cấu trúc song hành này tạo thành
chiều sâu nhận thức và nét độc đáo riêng cho bài thơ.
Bốn Mở đầu, nhà thơ diễn tả niềm khao khát của sóng cũng là của trái tim em trong tình
câu yêu:
đầu Ở ngoài kia đại dương
..................................
Dù muôn vời cách trở
Sóng có trăm ngàn con sóng nhỏ, sóng lớn đều vượt đại dương bao la để tới bờ. Sóng
khao khát tới bờ như em khao khát có anh. Sóng vượt qua mọi trở ngại để tới bờ như em bước
qua mọi khó khăn, cách trở để cập bến hạnh phúc.
Bốn Trong thơ, Xuân Quỳnh rất nhạy cảm với sự chảy trôi của thời gian và ý thức về thời gian
câu thường đi liền với niềm lo âu và khát khao nắm lấy hạnh phúc trong hiện tại. Tuy lúc này, thời
thơ gian với nhà thơ dường như còn ở cả ở phía trước, cuộc đời còn rất rộng dài nhưng ý thức về sự
tiếp hữu hạn của thời gian đời người và sự mong manh, khó bền chặt của hạnh phúc đã hiện ra
thành một thoáng lo âu:
Cuộc đời tuy dài thế
................................
Mây vẫn bay về xa
Ở đây, nhà thơ quan niệm biển dẫu rộng dài tới đâu thì cũng vẫn có những giới hạn của
nó và những đám mây lững lờ, vô định kia cũng không thể dừng lại mãi mãi trên biển mà chúng
sẽ tiếp tục cuộc hành trình trên bầu trời để về cõi xa xăm, vô tận. Cũng như thế, cuộc đời con
người tuy có dài nhưng không phải là vĩnh viễn, bất tử. Con người dù không mong đợi nhưng
năm tháng vẫn cứ bình thản, lặng lẽ trôi qua theo quy luật nghiệt ngã của thời gian. Như thế tất
cả những cái dài rộng, mênh mông kia rồi cùng sẽ qua đi cùng năm tháng, rồi cũng sẽ lùi vào dĩ
vãng, cũng sẽ bay mãi về cõi xa xăm, chỉ có tình yêu nồng nhiệt, đằm thắm là còn lại và vượt
qua tất cả. Một niềm tin như thế quả là đáng trân trọng. Niềm tin ấy được diễn tả bằng thủ pháp
so sánh và được khẳng định vững chắc bằng những cặp từ quan hệ: tuy-vẫn, dẫu – vẫn đã thể
hiện một cách lập luận chặt chẽ, có sức thuyết phục và truyền cảm mạnh mẽ đối với người đọc.
Những lo âu đối với Xuân Quỳnh không hề dẫn đến sự thất vọng mà chỉ càng thúc đẩy một cách
ứng xử tích cực : sống hết mình, sống mãnh liệt trong tình yêu để có thể vượt qua và thắng được
cái hữu hạn của thời gian mỗi đời người . Nhà thơ đã đối mặt với sự trôi chảy của thời gian, sự
vô tận của không gian để suy ngẫm về những kiếp người bé nhỏ, ngắn ngủi. Cuộc đời con người
đúng là dài thế nhưng thực ra lại rất ngắn bởi năm tháng vẫn đi qua, hạnh phúc chỉ là những
phút giây ngắn ngủi.
Bốn Từ niềm tin vững chắc ấy, bài thơ được khép lại bằng nỗi khát khao chân thành,
câu mãnh liệt về một tình yêu thuỷ chung, vĩnh hằng :
thơ Làm sao được tan ra
cuối ................................
Để ngàn năm còn vỗ.
Hai tiếng làm sao gợi lên được một niềm mong ước cháy bỏng trong tâm hồn em. Yêu để
được tan ra, được thành trăm, thành ngàn con sóng để vượt qua mọi giới hạn không gian , thời
gian mà trường tồn cùng tình yêu...Tan là hoà vào vĩnh cửu, cũng là một tình yêu vị tha bởi nó
không đi cùng ý đồ chiếm hữu. Chính ở đây, nó tìm được sức mạnh. Đến khổ thơ cuối này, cảm
xúc thơ ào ạt trở lại, sóng và em đã không còn muốn tách chia để đối sánh mà em muốn tan
thành sóng và biển lớn đã là tình yêu, tan thành sóng cũng là tan trong tình yêu. Nhà thơ dường
như ý thức được sự mong manh của tình yêu trên cuộc đời nên giữa bao nhiêu khao khát có thể
dành cho tình yêu, chỉ khao khát có một điều đó là sự trường tồn. Nếu một đời người có giới hạn
trăm năm, thì Xuân Quỳnh muốn tan ra thành trăm con sóng nhỏ khiêm nhường để dào dạt vỗ
tới ngàn năm. Người con gái mong muốn hoà mình vào bể đời rộng lớn, bứt mình ra khỏi những
lo toan tính toán, để ngập mình trong biển tình yêu. Phải có một tình yêu như thế nào thì mới có
được một mong muốn cao cả đến dường ấy.
Có thể thấy, trước biển Xuân Quỳnh đã khơi dậy được những khát khao mới mẻ, được
còn mãi một tình yêu lớn. Khát vọng tình yêu cũng là khát vọng sống mãnh liệt đủ đầy da diết:
“Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai chẳng có
Vẫn ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”
(Tự hát)
Từ hình tượng “sóng”, Xuân Quỳnh cho ta thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong
tình yêu. Với tình yêu chân thành, thắm thiết, người phụ nữ muốn sống hết mình, sống trọn vẹn
trong tình yêu đẹp. Hai khổ thơ cuối chính là những băn khoăn trăn trở, những suy nghĩ về thời
gian và khát vọng vĩnh cửu hóa tình yêu: yêu và làm thế nào để tình yêu được trường tồn, bất tử.
Nhận Về nghệ thuật, đoạn thơ dùng thể thơ 5 chữ, âm điệu sâu lắng, dạt dào ; biện pháp tu từ
xét nhân hóa, ẩn dụ, đối lập,…Thể thơ đó được nhà thơ sử dụng rất thích hợp với việc diễn tả nhịp
điệu của sóng. Cùng với hình tượng sóng, đoạn thơ này còn có một hình tượng nữa là em – cái
tôi trữ tình của nhà thơ. Sóng là hình ảnh ẩn dụ của tâm trạng người con gái đang yêu, là sự hoá
thân, phân thân của cái tôi trữ tình. Hai “nhân vật” trữ tình sóng và em tuy hai mà một, đan cài,
quấn quít với nhau như hình với bóng, song song tồn tại, soi sáng, bổ sung cho nhau nhằm diễn
tà một cách mãnh liệt hơn, sâu sắc và thiết tha hơn khát vọng tình yêu đang cuồn cuộn trào dâng
trong trái tim nữ thi sĩ. Lời thơ giản dị, hình ảnh sáng tạo, cảm xúc gắn với triết lí; thể hiện vẻ
đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu; sự hài hoà của nghệ thuật và nội dung tạo nên cái hay
của đoạn thơ, bài thơ.
Kết Tóm lại, ở ba khổ thơ cuối, tác giả ý thức về sự hữu hạn của thời gian đời người và nỗi
bài khát khao chân thành, mãnh liệt về một tình yêu thuỷ chung, vĩnh hằng trong trái tim của người
phụ nữ khi yêu và được yêu. Đoạn thơ nói riêng, bài thơ nói chung là tiếng lòng riêng của Xuân
Quỳnh về tình yêu. Nó vừa là những cung bậc cảm xúc, vừa là những trăn trở, những khát khao
bỏng cháy trong tình yêu của chị. Tiếng nói riêng của một người phụ nữ nhưng đã đem đến cho
văn học Việt Nam một tư tưởng mới mẻ, hiện đại về tình yêu chân chính. Sóng xứng đáng là
những bông “Hoa dọc chiến hào” của những năm tháng chiến tranh 1968. Quả thực :
“Thơ Xuân Quỳnh là tiếng nói đầy cảm xúc và có sắc thái rất riêng, đậm nữ tính của một
tâm hồn phụ nữ thông minh, sắc sảo, giàu yêu thương”.

You might also like